Ðại - đạo  Tam -  Kỳ  phổ - độ

Tòa - Thánh  Tây - Ninh

 

BÍ-PHÁP

Lời Thuyết Đạo của ĐỨC-HỘ-PHÁP

Tài liệu do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo

***

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 30 tháng 10 Năm Kỷ-Sửu (1949)

Hôm nay Bần-Đạo đình thuyết Bí-Pháp; cái nguyên do như thế nào Bần-Đạo xin biện ra. Vả chăng chúng ta ở trong hoàn-cảnh náo nhiệt, vì hai thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật đương chiến-đấu với nhau. Chúng ta dầu Chức-Sắc Thiên-Phong hay là mấy em Nam Nữ Lưỡng-Phái cũng thế. Là một phần tử trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn, Ngài đã tạo tinh-thần cho chúng ta vì sự thương yêu của Ngài nên Ngài lập Thiên-vị tại mặt thế này cho con cái thương yêu của Ngài. Ngài biểu chúng ta ký hòa-ước với Ngài để thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh thần từ-bi công chánh của Ngài đối đãi với Vạn-Linh tức nhiên chúng ta phải thay thế hình-ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn-Linh hiệp với Chí-Linh, tức nhiên Ngài cho chúng ta cái sứ-mạng để dung-hòa Đời với Đạo .

Cái lý thuyết Duy-Vật, là cái lý thuyết sống của Đời, còn cái lý-thuyết Duy-Tâm phải chăng là cái sống của Đạo. Đáng lý ra chúng ta phải tùng bên mặt Duy-Tâm thì phải ? Bởi chính mình chúng ta có sứ mạng thay-thế duy-chủ của Duy-Tâm tức nhiên chúng ta phải ngã bên mé Duy-tâm hơn hết. Vì đã có ký hòa ước với Đấng Chí-Linh kia giữ công-chánh đặng dung hòa tinh-thần Đời và Đạo, vì mức sống ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.

Chúng ta tìm-tàng, chúng ta định ngược lại là có cái lý do này Đạo Cao-Đài không cần dùng mê-tín dị-đoan làm cho sự tín-ngưỡng được mạnh-mẽ của nó, không cần !!! Trái ngược lụng lại đem hết triết-lý chơn thật để tại mặt thế này mà thôi. Bởi vì dối-trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối-trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo-Đoan nghiêng-ngửa; chúng ta không cần xu-hướng theo cái dối trá thường tình nữa, chúng ta phải tiêu-diệt cái sự dối trá. Lại nữa, trong hoàn-cảnh chúng ta đương làm trung-gian dung-hòa cho Đạo và Đời chúng ta chẳng nên mượn thế-lực mê-tín dị-đoan để làm khiếp phục, đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh-thần loài người điên-đảo. Một trường ngôn luận xì-xào đã kiếm thế hèn tiện của thiên-hạ đặng tính tạo thành một phản động lực đặng làm mất giá trị một nền Tôn-Giáo của Đức-Chí-Tôn.

Bần-Đạo nói thật muốn đánh tiêu cả sự dối-trá gian-ngược ấy chẳng phải dễ. Người có thể làm cho thiên hạ mê tín dị-đoan được là Bần-Đạo mà Bần-Đạo không làm, bởi vì Bần-Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô Đạo-Đức. Bần-Đạo chỉ lấy một cái triết lý chơn thật của Đức-Chí-Tôn để giáo Đạo cho con cái của Ngài mà thôi. Bần-Đạo duy muốn làm bạn với con cái của Ngài, nên phẩm vị Phật sống của Đức-Chí-Tôn để cho Bần-Đạo mà Bần-Đạo chưa có ngồi. Ấy vậy, mê-tín dị-đoan trong cửa Đạo Cao-Đài không có và không cần có, quả quyết hẳn vậy, nên đình lại, đình Bí-Pháp Chơn-truyền nếu thuyết ra là lấy cái quyền-năng mê-tín dị-đoan mà thắng thiên hạ là một điều hèn nhát nên Bần-Đạo không dùng. Bần-Đạo hứa chắc sẽ giáo hóa cho con cái của Đức-Chí-Tôn mà thôi.

Bây giờ Bần-Đạo xin thuyết ý-vị và cái nghĩa lý sống của con người; vả chăng chúng đến với một phần xác ở tại thế này, chúng ta phải biết cái sống của nó ý vị gì ? Đã sanh đứng làm người tại mặt thế này, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý vị cái sống ấy và nghĩa lý của nó có thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng-cổ đến giờ tinh-thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng các hình-tượng, các nền Đạo, các Tôn-Giáo.

Chúng ta quan-sát cả triết lý cái sống phải có lý do nào ? Sống đương nhiên của chúng ta có hai sống:

1/- Sống về vật-chất mà nói rõ ra là sống về phương-pháp thú chất.
2/- Sống về tinh-thần tức-nhiên sống về cái phương-pháp hiển-hách anh-linh của nó.

Chúng ta thấy hai cái quyền-năng ấy nó tương tranh với nhau mãi mãi mà thôi, vì cớ cho nên mới nảy sanh ra hai thuyết: Duy-Tâm và Duy-Vật. Chúng ta thử giở lịch-sử của loài người thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải " Connais toi, toi même" nghĩa là người biết người hơn hết. Mình biết mình đặng chi ? Đặng tìm tàng cho thấu đáo cái nghĩa-lý sống của mình.

Chúng ta ngó thấy Thượng-Cổ, bực cổ-nhân là hàng vĩ-nhân, dân Âu-châu thì có "Socrate" cũng do thời đại nhơn-sanh đó, chính Ngài lấy thuyết Đấng Chí-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cái thuyết làm cho các phản động-lực coi Ngài như kẻ thù-nghịch, đến nước cái quyền năng buổi nọ mạnh-mẽ thế nào tử-hình Ngài cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự-tử. Khi giam Ngài trong ngục Ngài có phương-thế hội-đàm với các nhà triết-học. Tới giờ chót chúng đem chén thuốc-độc đưa trong tay của Ngài biểu Ngài uống; Ngài bưng chén thuốc-độc ấy để từ giả các bạn của Ngài mà Ngài nói như nói chơi vậy. Ngài nói tôi biết rằng: Ngoài cơ-thể Tạo-Đoan này của Đời này nó còn các cơ-quan vô-hình tối-trọng kia tôi quả-quyết rằng co,Ô thì cái chết ta mong lắm chớ !!! Giờ phút ta cầm chén "Suré" này ta uống, thì ta sẽ được hội hiệp với các vị hiền-triết, được làm bạn với họ thì có gì hơn. Nói rồi Ngài bưng chén "Suré" Ngài uống. Giờ chết của Ngài, giờ ngặc mình của Ngài, thì môn-đệ của Ngài hỏi: "Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi đâu hay sẽ làm gì ? Ngài cười nói: ta chưa biết ta sẽ làm Chúa cả cơ-thể Tạo-Đoan này để điều-đình cả cơ-quan vĩ-đại của Càn-Khôn Vũ-Trụ hay ta sẽ làm chân của con châu-chấu ? Dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì thì ta làm cái nấy. Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.

Đức Lão-Tử khi đoạt được bí-mật của Bát-Quái-Đồ rồi Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn-Lôn-Sơn mà an nghỉ. Môn-đệ của Ngài hỏi: Ngài về Côn-Lôn-Sơn để làm gì ? Có hạnh-phúc hay không ? Ngài trả lời duy có cái biết cuả ta mà đã làm cho ta có thú vị sống đặc-biệt, không cần nói rõ hạnh-phúc ấy ra thế nào, nhưng ta chỉ nói rằng: cái biết cuả ta nó làm cho ta hưởng thú-vị an vui của cái sống ấy.

Đức Khổng-Phu-Tữ từ giả quan-trường về giáo-đạo dạy các môn-đệ của Ngài; thiên-hạ gọi là vô-phước mà cảnh thiệt vô-phước của Ngài là lúc Ngài làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên và lúc châu-lưu trong Lục-Quốc.

Bây giờ sống với Thất-Thập Nhị-Hiền, Tam-Thiên Đồ-Đệ của Ngài, là Ngài hạnh-phúc hơn hết, vì Ngài biết cái thú vị cái sống của Ngài thế nào; cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi. Giờ trái ngược lụng lại sống, chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần-Thủy-Hoàng, sống của Sở-Bá-Vương hai tay trắng lập nên nghiệp đế đè nén cả tinh-thần dân chúng buổi nọ, vị chúa của họ sanh-sát tàn ác không có điều gì mà họ không làm, quyền hành của họ tàn ác lắm.

Cái sống của Tần-Thủy-Hoàng thế nào, dòm lụng lại cái chết rồi Ngài than: Các tài tình thâu nghiệp để ta thắng được duy có cái chết ta thắng không được. Vì thế mới cho người đi kiếm thuốc trường-sanh bất-tử, mê-tín đến nước người ta cho ăn "trứng-dái-ngựa" (dương khí con ngựa) mà cũng ăn nữa, ăn đặng sống mà anh ta cũng chết.

Nã-Phá-Luân đã được cơ-hội làm nên nghiệp-đế, hồi buổi đó làm cho toàn cõi Âu-Châu các nước chư-hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Ile de Saint Hélène.

Ông Vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis XIV (Louis 14) thiên hạ thế-kỷ đó cho là Ông Vua Trời (Le Roi Soleil) cả thiên-hạ đều tùng-phục kính-trọng, kiêng-nể. Âu-Châu buổi nọ có thể nói Ngài là một vị bá-chủ của thiên-hạ không có cái gì mà anh ta không có "Tứ-Hải Phú-Hữu" sang trọng vô-biên có một điều là đền Vua của Ngài "Palais Louis 14" quân lính canh tuần bảy vòng mà ngăn cấm cái chết vô trong hoàng gia của Ngài không đặng; chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong hoàng-gia, rốt chuyện Ngài truyền Ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi.

Ngài than: Hại thay ! hoàng thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặc mà nó không cản được cái chết đến nhà ta .

Chức-vị sang trọng của mình sống như con cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ mà chúng cũng kiên cũng sợ nhưng chúng chưa biết thương; sống như con cá Ông không ai thấy mà chiếc ghe nào chìm thì có người ta đỡ. Cái sống con cọp không có ai thờ, còn cái sống của con cá Ông có người ta thờ.

Hai cái sống đặc biệt ấy là cái sống Duy-Vật và cái sống Duy-Tâm. Bần-Đạo tả ra cho con cái của Ngài lấy đó mà suy gẫm.

HẾT

* * *

PHẦN PHỤ-LỤC VỀ TAM-BỬU ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh đêm Rằm tháng 2 Năm Đinh-Hợi (1947)

về TAM-BỬU: TINH, KHÍ, THẦN

Phàm con người có 3 xác thân :

  • Một là TINH - xác thân của cha mẹ sanh ra.

  • Hai: liên-quan tới như xác thân (corps astral) là hơi, nó tiếp xúc liên-quan bảo-trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh-quang do nơi Phật Mẫu tạo mà có.

  • Ba: liên-quan với linh hồn ta là của Chí-Tôn ban cho mà có. Ba thành một, một thành ba gọi là Tam-Bửu: TINH, KHÍ, THẦN.

Chí-Tôn lại chọn lựa vật quý báu là bông (tinh), rượu (khí), trà (thần) là ý nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái Ngài những món quý mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.

Muốn cho khỏi phụ lòng Chí-Tôn thì ta phải đào-luyện cho đệ nhị xác thân ấy được tinh khiết nhẹ-nhàng. Muốn được vậy, ta chỉ có hai điều là phải trai-giới, chỉnh-tu cho cái đệ-nhị xác thân được tráng-kiện, hoạt-bát, tùng khuôn-viên thiện-đức. Đệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo-hộ về sanh-quang, tiếp với đệ tam xác thân là linh-hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hữu-hoại thì nó trực tiếp ngay với linh-hồn nếu nó được thanh khiết. Bằng có nghiệp ác thì nó phải dính-líu với cái xác thúi hôi này mà phải chịu lìa xa cái linh-hồn, thì thần tử sẽ rước đi mà phải đọa là vậy. Bởi cớ CHÍ-TÔN ban cho ta cái Bí-Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan-nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh-hồn tức là hằng sống vậy.

Loài người quá xảo-quyệt, khôn-khéo tiềm tàng sự sung-sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thành sầu, quỉ khốc, chiến-tranh không ngớt là do nơi lòng tham-lam tiến-triển, văn-minh cơ-khí tối-tân như là bom nguyên tử để giết người. Hiện tại nơi Mỹ-Châu, Cổ-tàng-viện của họ có đến 200 ( 2 ???) triệu quyển sách. Cứ bổ đồng một ngày xem một quyển thì sống đến mấy đời mới đọc hết được.

CHÍ-TÔN biết rõ loài người tiến hóa tột bực mà tự đắc, tự-tôn chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đệ nhị xác thân và tinh-thần, nên CHÍ-TÔN đến khai-Đạo là cố ý giáo hóa cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận-thiện đến hiệp cùng Ngài.

Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn thế giới này những điều tinh-ma quỉ-quái sẽ tiêu-diệt, thần-tử không hề đến ta được.

Nếu ta thấy được cõi hư-linh kia cái tinh của các vạn-loại bị giết chóc một cách tàn nhẫn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, triệu chực chờ thù ghét vì vậy mà nó có vay trả luân-hồi mãi mãi đọa đày bất-năng thoát tục.

Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan-nghiệt ấy mà truyền bá cái huờn thuốc linh-đơn nầy là đạo-đức của CHÍ-TÔN, để cứu vớt quần-sanh thoát vòng đọa lạc.

Hoàn toàn cả thế-gian nầy biết được vậy thì chắc chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diễn lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm-lý mà tập-quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia phôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh tranh đấu đấu không ngừng.

Vậy thánh ý của ĐỨC-CHÍ-TÔN khai mở ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ, Tam-giáo qui-nguyên, Ngũ-chi phục nhất là muốn dung hòa tâm-lý cả toàn con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên-nhân, vì thế mà bị sa-đọa nơi đây. CHÍ-TÔN đã đại-từ đại-bi chỉ rõ căn-nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đoạt ngôi vị là phải trau luyện cho TINH hiệp với KHÍ, tinh khí huờn THẦN là cơ huyền-bí để mà đắc đạo vậy.

Trọng giá của Tam-Bửu mà CHÍ-TÔN ưa chuộng để dâng đại-lễ cho Ngài là nguyên nhân chấm đứt cái họa tranh thù mà gây nên trường oan-nghiệt cho toàn thế-giới.

Ấy vậy muốn duy-trì sự hòa biết đại-đồng nầy cũng do nơi gốc Bí-Pháp đó mà thôi. Dầu triết-lý thâm-uyên đạo-đức mà tôn giáo nào cũng không qua lẽ ấy; Mà nếu không đoạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô-trược tội tình thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu-diệt mà chớ./.

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh sau thời cúng giờ Tý ngày 15 tháng Hai nhuần Năm Đinh-Hợi (1947)

Hôm nay Bần-Đạo giảng nối về Tam-Bửu, Bần-Đạo lần lượt giảng Tam-Bửu trước là vì Đức-Chí-Tôn lấy bông, rượu, trà mà tượng hình ba thể-chất tạo nên vạn-loại.

Chơn-linh mới thiệt là ta, còn chơn thần là do tinh ba của vật khí biến hiợnh. Chơn-linh ta mượn cơ-quan hữu-hình để thân-mật cùng cả cơ-quan tạo-đoan vũ-trụ ỳ

Ta đến mang mảnh hình hài như thế nầy đặng chi ? Nguyên do nơi nào mà đến ? Rồi Bần-Đạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải tu ? Tu có ích gì, do nguyên lý nào mà phải tu?.

Bần-Đạo sẽ giảng nguyên-do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu-thiên khai-hóa, Đức Chí-Tôn tạo Bát-Quái-Đài là gì ?

Bây giờ Bần-Đạo giảng về Tam-Bửu, 3 cơ-quan tạo nên hình thể con người; Chơn-linh ta do nguyên khí mà có, nguyên khí là Tiên-thiên-khí; Chơn-thần do Hậu-thiên-khí kết-thành; còn xác thịt thì do vật-chất mà nên.

Hỏi vậy ta sống đây do cơ-quan nào ? Ấy là nhờ chơn-linh mới có sự sống, chơn-linh có một quyền năng vô-đoán, chưa có khoa-học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền năng của nó là của Đức Chí-Tôn ban cho. Quyền năng của chơn-linh không giới hạn, nó là quyền năng bảo trọng đường sống của vạn-loại, của xác hình. Chơn-thần là Hậu-thiên-khí, nó bảo trọng vật-chất-khí.

Trong 3 khí-chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, Chơn-linh là nhứt-điểm linh-quang do Chí-Tôn mà có, để bảo trọng cái sanh mạng, cái sống của thi-hài. Đến ngày giờ nào niên-kỷ đã định hết khối-sinh-quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử.

Ấy vậy, ta thử kiếm coi Tiên-thiên-khí, Hậu-thiên-khí và vật-chất-khí là gì ? Chúng ta đã thấy bất kỳ vật hữu hình nào cũng có 3 thể-chất.

- Vật-chất thì mắt ta thấy.
- Mùi vị là Hậu-thiên-khí.
- Năng lực là Tiên-thiên-khí.

Ba khí-chất nầy tượng ra hình hài cuả con người, vật-chất, mùi-vị, năng-lực thế nào thì loài người thế ấy, vì chúng ta thấy một hột gạo, nấu ra cơm ăn vào để lấy cái tinh ba của nó là Hậu-thiên-khí phục nguyên, khối sinh-quang của ta được tồn tại.

Tinh ba của vật-chất nó vào mình làm cho xác hài có năng-lực tráng-kiện. Ta thấy khi đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh-khí đó vậy.

Chơn-thần là Hậu-thiên-khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có. Ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh-vật nầy. Ta biết có mà khó thấy được. Chơn-thần chúng ta thiên-hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có.

Người hay sợ ma là tại sao ? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng-minh năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy nên làm cho họ sợ.

Một khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gũi đặng họ thì họ sẽ thương yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy.

Kẻ phàm mang xác hài đây có thất-tình, lục-dục, nên có sự phân cách về thể-chất hữu-vi làm cho ta thiếu sự thương yêu vì ta sợ.

Ngày nào ta về cảnh vô hình sống trong khối tạo-đoan, chừng đó ta mới biết Đạo là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên-lơn dạy dỗ và giục-thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh-vực chớ không ai đặng mưu-hại giục hư.

Bần-Đạo giảng về cõi hư-linh, nếu ta đoạt pháp xuất-ngoại xác thân, tương hội cùng các bạn cõi vô-hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh-chất phàm tâm tưởng-tượng.

Cõi Hư-linh các bậc cao trọng, Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết-thực nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng-sinh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những dịp để an ủi tâm-hồn chúng-sanh, hằng giờ, hằng buổi không thiếu tình thương.

Chúng ta đến làm người, cốt yếu đoạt cho được cơ tạo-đoan, trở nên Chí-linh, Chí thánh; một kiếp học thêm một bực; để ngày kia mong mỏi làm Trời. Các bạn biết Phật Thích-Ca xưng là Bổn-sư, người tu gọi là thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được, gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái.

Ở thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường đi trước kia dầu ai phàm, dầu ai lạc-hậu cũng tới sau, họ chỉ biết có một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đoạt lên Phật-vị.

Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi, mà đối với tất cả vạn loại, chúng sinh chỉ là anh em còn lạc-hậu đó vậy.

Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô-tội không phương bảo vệ; ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc-hậu ấy tiến hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó mà cười và nói: Xưa kia Đức Phật có ăn tôi một lần. Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay .Chưa có ai nhẫn tâm giết người đặng ăn thịt thì cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc-hậu ấy để ăn. Ta đến đây làm bạn cùng vạn-vật chúng-sanh, vạn-vật giúp ta học cho thấu-đáo huyền vi cơ đạo, tạo Chí-linh nối nghiệp Đức Chí-Tôn.

Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia-nghiệp phẩm-vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bỏ. Đại Từ-Phụ mà không tin sao ? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương-hỏa.

Một điều là Ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ, phương-pháp nhỏ theo phàm. Còn Ông Cha Thiêng Liêng không lẽ thua ông cha phàm. Thầy nói, Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần-Đạo tưởng nhứt là phái nam thanh-niên võ-chức, nếu mấy em biết cơ-quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình vì Chí-Tôn. Bần-Đạo dám chắc Thầy không hề chịu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thường món nợ ấy thì Hộ-Pháp hứa sẽ tái kiếp luân-hồi bồi thường cho đủ.

Vì những kẻ dám đem mình làm tế-vật cho Thầy để lập nên một quốc gia thiên-định tại thế nầy, Bần-Đạo chắc quốc-gia ấy phải thành. Đức Chí-Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần-Đạo chắc rằng những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn tới. Nếu chúng ta có con mắt thiêng-liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các đấng dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là các chơn-linh cao-trọng cũng phải cúi đầu.

Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Đức Chí-Tôn trả một cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. (xin cho toàn Đạo nam nữ sao lục nguyên-văn để phổ-thông chơn-lý)./

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Giảng tại Đền-Thánh đệm 15 tháng 03 năm Đinh-Hợi (dl 1947)
Tam Bửu (tiếp theo)

Hôm nay nhơn Bần-Đạo làm phép giải oan cho một người anh em của chúng ta là Hồ-tấn-Khoa nên Bần-Đạo giảng tiếp về Tam-Bửu. Giảng tiếp vấn đề ấy lại, Bần-Đạo tuyên-bố cho toàn nam nữ và chư Chức-sắc thiên phong Nhị Hữu-hình-Đài được nghe rõ. Đối với cơ-quan đời biến chuyển, từ ngày Bần-Đạo đồ-lưu hải-ngoại đến khi về tới nay tính lại đã gần 8 tháng, Bần-Đạo thấy tình hình quốc gia của chúng ta mà cả thảy ai ai cũng biết chẳng cần phải lập lại, vì Bần-Đạo đã thuyết minh nhiều lần rồi. Bây giờ thử hỏi chơn-truyền của Đức Chí-Tôn mở Đạo là một nền Chánh Giáo. Tôn-chỉ bảo chúng ta làm gì ? Và Đạo Cao-Đài phải đi theo con đường nào ? Chúng ta thấy Đại-Từ-Phụ lấy ba Tôn-Giáo: Nho, Thích, Đạo làm cơ-quan duy nhất, dầu về phần thiêng-liêng hay hữu-hình cũng vậy để làm bí-mật chơn-truyền dìu-dắt linh-hồn và thi-hài của chúng ta và là một phương-pháp đoạt kiếp giải-thoát linh hồn. Nho lấy nhơn nghĩa làm căn-bản. Đạo lấy công-chánh làm căn-bản. Thích lấy bác-ái từ-bi làm căn-bản. Ba triết-lý ấy hiệp lại vừa lo phần Đời và phần Đạo, xác hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Đức-Chí-Tôn đứng chờ đợi các con cái hiệp một cùng Người.

Nhơn nghĩa là gì ? Người có nhơn thì không oán, nghĩa thì không bạc. Công-chánh là gì ? Có công thì không phụ, có chánh thì không tà, không chối cái điều chơn thật được; còn có từ-bi thì có khoan-hồng dung-thứ, có bác-ái mới có thể bảo thủ và thân mến toàn thiên-hạ; nếu chiếu theo chơn truyền của Đức-Chí-Tôn khuyên bảo chúng ta thế nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải khoan-hồng, tha-thứ, biết yêu ái, phải có công-bình chánh lý, chúng ta giữ được cả chơn-truyền ấy thì không ghét ai, oán ai. Trái lại, Đại Từ-Phụ buộc chúng ta phải thương yêu kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa.

Chiếu theo chơn-truyền ấy, đối với đời, với quốc gia, chủng-tộc toàn Đạo phải xử thế nào ? Chẳng lẽ Đạo Cao-Đài phải nhượng bộ hạ mình trước đảng phái, vì cái tinh thần của Đạo còn chẳng nhượng ai, huống phải hạ mình làm nô-lệ cho đảng-phái. Quyền tự chủ ấy là quyền của Chí-Tôn ban cho. Thầy đã không làm tớ ai, nên quyền Đạo nó chỉ làm Thầy.

Nó tự có một năng-lực, mà cái năng lực ấy không tùng năng lực của ai cả. Nó có một quyền-hành sở-hữu chớ không tùng ai và không theo đảng phái nào. Nó phải lập quyền yêu ái, công chánh, từ-bi. Nó có phận sự tạo nghiệp cho đời chớ không phải làm tôi mọi cho đời. Đời đang phải chịu vòng nô-lệ thì con cái của Đức-Chí-Tôn bây giờ phải theo tôn-chỉ nào ? Phải biết rằng có thiên-mạng con cái của Chí-Tôn là Thánh thể, ông Trời tại thế nầy. Trời đã không nhường ai, không làm tôi tớ ai, thì con cái của Chí-Tôn cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên lương của con Ngài. Vì thiên-lương ấy là căn-bản tạo quyền cho thiên hạ. Là con cái của Ngài lẽ đương nhiên, chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã-hội của chúng ta đang ở trong tình thế bại hoại. Chúng ta chỉ biết nhìn một quyền "Dân Việt-Nam" mà thôi. Thời buổi loạn lạc dân không có quyền, trong nước đảng nầy phái kia, chia năm, chia bảy, nên buộc chúng ta phải kiếm một cái quyền của nhà Vua. Vua và dân hai quyền ấy nó tương-liên với vận mạng nước Việt-Nam, tìm cái kia không phải tìm cái nọ, cái quyền sở hữu nào chúng ta thấy thì chúng ta phải cầm lấy, giúp Vua để lập quyền cho nước, cho quốc gia, cho xã-hội.

Vì vậy, chúng ta phải đem nhà Vua lại để lập quyền cho dân. Quyền là chánh sách Đạo Cao-Đài giúp Quân chủ tạo Dân-quyền. Bởi thế Bần-Đạo đã công khai cùng chánh phủ rồi. Bần-Đạo sẽ công-khai cho toàn thiên hạ biết rằng: "Chúng ta sẽ hướng ra Quân-chủ Dân-quyền" để tạo tương lai cho quốc vận.

Chúng ta không thấy còn con đường nào khác nữa, chỉ một con đường duy-nhất cao-thượng nầy mà Đạo phải làm cho thành tựu. Bần-Đạo xin cả thảy nghe và tìm hiểu chơn-lý ấy rồi hằng đêm cầu nguyện để quyết định tương lai vận mạng nòi giống cuả chúng ta./.

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết tại Đền- Thánh, đêm 29 tháng 03 Đinh Hợi (1947)

Hôm nay Bần-Đạo giảng về Tam-Bửu, nguyên thỉ tạo thành càn-khôn thế-giái.

Từ trước đến giờ thiên hạ thường nói là có Đạo, tin Đạo, nhưng Bần-Đạo tưởng chắc chưa có ai hiểu Đạo là gì cả, nên Bần-Đạo lần lượt giảng cái chơn nghĩa của chữ Đạo, giãi rõ cái liên quan giữa Đạo và con người cùng vạn vật do nơi đâu mà có, rồi sẽ giảng về nguyên căn của Tam-bửu, là một nguyên căn, là một bổn nguyên Tinh, Khí, Thần. Đức-Chí-Tôn là Đấng tự-hữu hằng-hữu mà từ thử đến giờ bất kỳ một Đấng thiêng liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn của Người đặng.

Theo lời Đức Nguyệt Tâm Chơn-Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiểu rõ nguyên căn của Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền năng vô-đối của Người mà thôi. Bần-Đạo đã vấn nạn Đức Chưởng Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị Giáo-Chủ nào đã hỏi như Bần-Đạo. Bần-Đạo hỏi nguyên căn của Chí-Tôn và quyền năng của Người thì Đức Chưởng-Đạo có tả một bài văn chữ Pháp dịch ra Quốc-ngữ; nhưng chính Đức Nguyệt-Tâm cũng đã thú-thật rằng: Không biết nguyên do của Chí-Tôn là thế nào, chỉ biết quyền năng vô-đối của Người mà thôi.

Nay thuyết về vấn đề ấy, Bần-Đạo chỉ nói Đấng Chí-linh hằng-hữu ấy là Đức-Chí-Tôn, là cha cả chơn linh van-vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy, khối linh ấy thế nào hơn hết. Biết bao nhiêu Đấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh-tâm cao-trọng hơn cả vạn-vật ? Tiềm tàng với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẳng hề quên Đạo. Nhìn biết và hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xét có vật tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì ? từ trước đến giờ loài người tìm kiếm mãi nguyên-do của nó.

Tiếp khai các nền Tôn-Giáo hiện hữu không một nền Tôn-Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao siêu hơn là Phật-Giáo nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa xôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm-linh, chúng ta có quan-sát cả chơn-lý của Phật-giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng: Chúng ta có một Tôn-Giáo mà tôn giáo ấy là chúa tể cả các nền tôn-giáo khác. Vì bởi nó là nguyên căn của Tôn-giáo và chính nó là một tôn-giáo tự-hữu, từ buổi trời đất biến sanh đã có. Cái khối chơn-linh ấy là cha của chơn-linh, cha của nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy, vì ta xét từ trước Đức-Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn-vật nhờ tấn hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa ai hiểu rõ cái nguyên căn ấy. Phật giáo nói: Cái khối linh ấy phân-tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là Civa chủ về Pháp. Đức Chí Linh cầm quyền năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo-đoan. Pháp vận hành mà sanh khí, nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là khí; Vậy khí là gì ? Khí là khối sanh quang vạn-vật, nhờ thở sanh-khí ấy mà sống; cho nên chữ khí là sự sống của vạn-vật, do khí là pháp biến-tướng ra vạn-vật. Nên Đấng thứ nhì chưởng quản cái sanh khí thường gọi là "2e Logos" thuộc âm ấy là Phật-Mẫu chưởng quản cả cơ-quan tạo-đoan nầy vậy.

Như chúng ta thấy cơ-quan sanh hóa vạn-vật và loài người là do âm dương phối hợp mà biến tướng. Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc âm, là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí-mật ấy là khi âm dương phối-hiệp biến hình mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi nầy. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang có năng lực vận hành trong không khí chúng ta không thể thấy được. Khi biến ra hữu-tướng là nước, lửa, gió; rồi nước, lửa, gió vận hành biến ra vạn-vật, đi từ Hỗn-nguơn-khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật tức là Huyền-ảnh-khí biến ra nhơn hình vậy. Khí ấy nhà khoa-học gọi là nguyên-tử-khí (Atome) . Nguyên-tử-khí có năng lực vô-biên mà loài người đã đoạt được để dùng chớ không biết nguyên-căn và nguyên-tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và cùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thể sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà quy nguyên Thánh-thể. Thử hỏi Đức-Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên-tử-khí ấy để làm chi ?

Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dầu cho Đạo giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử-khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử huờn-sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa-vị trường-sanh bất-tử.

Vì bởi nguyên-tử-khí là căn-nguyên sự sống của vạn-loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận-hành tạo ra hữu-hình là vạn-vật; vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy càn khôn làm Đại thiên-địa và lấy con người mà làm Tiểu thiên-điạ. Mạng sanh của con người đồng thể cùng càn-khôn, tức là sự sống phải tương-liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyền năng vô-đối.

Hỏi vậy Chí-Tôn tạo ra cái đại nghiệp ấy để cho ai ? Để cho vạn-linh, mà đứng đầu vạn-linh lại là loài người; mà loài người có hưởng được thì Đức-Chí-Tôn mới dành cho. Nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa hưởng được cái quyền năng ấy. Đức-Chí-Tôn lập ra đại nghiệp thì Ngài cũng muốn chúng ta làm được như Ngài, tức là đem tiểu-thiên-địa đến đại-thiên-địa.

Ấy vậy, về cơ-quan đoạt lấy đại nghiệp, Chí-Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng "TU". Tu cho hiền mới hưởng được, nhưng thế gian lại chưa hiền, thế-gian còn dữ quá thì chừng nào mới đoạt đặng./.

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh , thời Tý đêm 1 tháng 12 năm Đinh-Hợi (1947)

Bần-Đạo xin nhắc lại một phen nữa khi vào hành lễ lúc dâng Tam-Bửu. Hễ dâng bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta tức là tượng-hình xác thịt của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí-Tôn: "Con xin dâng mảnh hình-hài của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng"

Khi dâng rượu cầu nguyện: "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng".

Khi dâng trà cầu nguyện: "Con xin dâng cả linh-hồn con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng".

Câu chót nếu chúng ta khôn ngoan nguyện như vầy: "Cả linh-hồn, cả trí-não, cả hình hài con Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định". Đó, ta cầu nguyện như vậy với Chí-Tôn.

Bần-Đạo đã giảng Tam-Bửu tại sao Chí-Tôn lấy bông tượng trưng hình-hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông.

Ngài lấy rượu là muốn tinh-thần của loài người cường-liệt như rượu mạnh vậy.

Ngài lấy trà là muốn chơn-linh ta điều hòa như trà vậy. Ngài lựa 3 món đó cốt yếu là vậy.

Ngày nay Bần-Đạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Đức-Chí-Tôn. Cả thảy mỗi phen vào Đền-Thánh nắm sanh-khí ấy tạo cả cơ-quan hữu-hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú vật, vạn-linh, hữu-tướng, thuộc về tăng.

Đứng đầu tiên hết Chí-Tôn tức là Phật nắm cả cơ-quan bí-mật tạo thành Càn-Khôn Vũ-Trụ. Đạo nầy luật thế nầy, Đạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật-Giáo.

Giả-thí như Thánh-giáo Gia-Tô cũng có ba ngôi (La trinité) : Le Père, Le fils et Le Saint Esprit (Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Đức Chúa Thánh-Thần) Đức Chúa Cha là Phật, Đức Chúa Con là Pháp, Đức Chúa Thánh Thần là Tăng.

Không Đạo-Giáo nào thuyết minh rõ ràng cơ tạo-đoan, lấy thuyết hỗn-độn sơ-khai phân chia: Khí chi khinh thanh, thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng-trược hạ ngưng giả vi Địa (Hễ khí thanh thì lên trời, khí trược thì hạ xuống đất).

Cả vật-loại hữu-tướng nầy có hai quyền-năng sản-xuất.

1)Ngôi Chí-Tôn.
2) Đức Mẹ.

Người ta không nói, trên lấy cơ-quan hữu-hình nói bóng dáng thôi. Luật thiên nhiên tối thiểu, tối đại vẫn có một luật mà thôi, biết đâu Chí-Tôn và Phật-Mẫu theo lời Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn-nhơn đã thuyết minh ra là người hữu-sanh, hữu-tử. Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, Chí-Tôn và Phật-Mẫu cũng là hai vợ chồng như ai vậy.

Cả quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền-năng Chí-Tôn cũng đào-tạo thế ấy; mà Bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền-năng vô-tận của Phật-Mẫu dùng đặng đào-tạo càn-khôn thế-giái. Chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.

Chí-Tôn là Phật, Phật-Mẫu là Pháp, càn-khôn là Tăng, mặt địa-cầu nầy đến ba ngàn thế-giái cũng là Tăng.

Nắm quyền trị thế là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên chính quyền năng Chí-Tôn định, địa-cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt trời nầy không có mặt trời khác, trong hai mươi bốn giờ có một ngày, Đấng làm chủ cầm quyền trong pháp-giới là Hư-Vô Cao-Thiên vâng mạng lịnh Hạo-Nhiên Pháp-Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương-tàn với nhau. Địa-Cầu nầy nếu không mặt luật Đạo-đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.

Bây giờ chúng ta quan-sát Hỗn-Nguơn Thượng-Thiên; Ngày nay Đức Phật Di-Lạc ở nơi Hỗn-Nguơn Thượng-Thiên cầm cả hành tàng Càn-Khôn Vũ-Trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vật loại.

Trước khi nguyện lấy dấu và niệm Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ.

Ngày nay Bần-Đạo giảng: Phật là gì ? Phật là một Đấng toàn tri toàn năng, người ta lầm lạc tưởng không thấy hình-dạng là không có người, thế-gian lầm lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ có khác hơn chúng ta là không có thi hài mà thôi. Đấng toàn tri toàn năng ấy là Đấng đầu tiên hiệp lại với Chí-Tôn.

Bần-Đạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc-biệt:

1)- Hạo-Nhiên Pháp-Thiên tương-liên hiệp một cùng Đức-Chí-Tôn.
2)- Hư-Vô Cao-Thiên thuộc về Pháp-giới cầm cả luật thiên-điều.
3)- Hỗn Nguơn Thượng-Thiên thuộc Tạo hóa thuộc Tăng; Phật-vị có ba đẳng-cấp ấy đặng nắm cả quyền-năng Càn-Khôn thế-giái.

Phi-Tưởng Diệu-Thiên nắm quyền-hành tạo-đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật.

Tạo-Hóa Huyền-Thiên thuộc Pháp và có ba quyền tạo-đoan thế-giái hữu-hình nầy vô cùng tận. Tạo-hóa cầm sanh khí để tạo sanh-vật. Phi-Tưởng Diệu-Thiên, Tạo-Hóa Huyền-Thiên, Bây giờ tới Phi-Tưởng Diệu-Thiên lãnh phận sự nơi Đức-Chí-Tôn cầm nguơn khí của con người giữ sanh-mạng vạn-vật kêu là vạn-linh.

Tới Tạo-Hóa Huyền-Thiên, Phật-Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh-hóa không cùng tận. Cả loài người, cây cỏ, sắt đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Đức Phật-Mẫu nắm pháp biến xuất. Cả thi-hài, chơn-linh, trí não pháp-thân luân chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của Tạo-hóa trong các cơ-thể ấy, loài người học làm đặng biết đặng chi ? Đặng tạo pháp thân huyền-diệu được toàn thiện, toàn mỹ, toàn tri, toàn năng như Phật-Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo pháp-thân do quyền lực thuộc pháp, hình hài xác-thịt thuộc Tăng; thây chúng ta thay đổi lăn-lóc trên đường sanh sanh tử tử cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí-Tôn là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên. Các Đấng ấy hữu sanh hữu tử tri-khổ nghiệp-chướng vạn-linh năng du ta bà thế-giái độ tận vạn-linh đắc qui Phật-vị.

Các Đấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn-tri toàn-năng; họ đi trước mình đi sau, họ cao mình thấp thôi, con đường họ đi mình cũng sẽ tới. Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt thế này chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo-Nhiên Pháp-Thiên một vị Phật cao trọng toàn tri toàn năng gần như Đức-Chí-Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học bài học khổ, dám làm kẻ ngu dốt lắm.

Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâgarouth là một vị chí Phật như Đức Sakya Mouni đến thế gian bưng bình bát-du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế gian như vậy mà nơi cửa Hư-không lại có quyền năng vô-tận vô-đối. Đến Đức Chúa Jésus Christ là một vị Chrisna Vichnou đệ nhị kiếp Chí-Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hèn khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng nuôi kẻ đói khó. Đó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.

Đấng Tạo-Đoan đưa tay xin cho loài người ăn đó là người cầm quyền năng nuôi khắp toàn vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết. Kỳ sau Bần-Đạo sẽ giảng tiếp.

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Giảng về hình-thức và định-nghĩa chữ tu ý-nghĩa của Tam-Bửu

Chữ Tu ý-nghĩa rộng sâu thế nào, kinh điển đều có dấu vết quan-trọng. Chẳng phải đứng trên giảng đài trong giây phút mà giảng cho cùng lý, Bần-Đạo chỉ lấy cái tinh túy của nó, diễn-giải ra đây dầu không được trọn vẹn nhưng con cái Đức-Chí-Tôn có thể lãnh hội dễ dàng.

Theo tiếng Phạn: Tu gọi là Dyann người Miên (Tần-Nhơn) gọi trại lại là Xáxơna, tiếng Pháp hay là tiếng Âu định-nghĩa là "Se perfectionner" hay là "Se rendre parfait ou plus parfait" (làm cho mình đặng tận-thiện, tận-mỹ).

Luật thiên-nhiên của tạo-hóa buộc các đẳng linh-hồn, dầu vật-loại cũng phải trau mình đặng đoạt đến nhơn phẩm. Khi được địa vị làm người còn phải tự giồi trau để từ từ đi đến cảnh siêu-thoát (Phật-vị).

Sanh ra làm người, bất-luận là giai cấp nào, chịu nhiều thử-thách, rồi chết, rồi tái sanh v.v... Cứ xây vần mãi như thế thoát ra khỏi vòng lẩn-quẩn nầy hoặc hiểu được ý-nhị của nó để được tiến hóa thêm phần nào thì không ngoài chữ Tu. Tu là gìn nhân-phẩm hạn-chế dục-vọng, thực hành theo lý tưởng bác-ái để bước lên thiêng-liêng vị. Trái lại là mua chác đau phiền, chận đường tiến hóa về mọi hình-thức và vô-tình đi đến cảnh suy-vong.

Thế-gian loài người đều có tu cả song có phần-tử bất-hảo vô-tình không nhìn nhận. Tu có nhiều thể thức khác nhau tùy theo giai cấp và sự tiến-hóa của mỗi cá nhân mau hay chậm.

Đứa trẻ sơ-sanh không biết nói, chưa có trí-khôn, lúc khát sữa nó khóc là tìm phương cho mẹ nó hiểu, gọi là tu; vừa lớn biết thương cha mến mẹ, khi có em biết thương em gọi là tu; lớn hơn lên đến trường, khi nó chăm chú học, và rán được giỏi hơn bạn nó gọi là tu; khi vừa biết khôn-ngoan nó hiểu rằng phải học cho hay hơn thiên hạ, và còn tìm phương thế đương đầu tranh sống cùng xã-hội gọi là tu; đến khi thành nhân nó biết lựa chọn người bạn trăm năm đặng lập gia đình gọi là tu; Nó còn tầm sự hay thêm mãi để có một địa vị ... trong xã-hội gọi là tu; khi có địa-vị rồi, nó muốn lập công-nghiệp vĩ-đại hơn và làm cách nào cho nhơn-loại được hạnh-phúc gọi là tu. Tóm lại nó vận dụng mọi sự hiểu biết, vì tùy mỗi giai-đoạn tự-nhiên trong phạm vi nhơn-đạo đặng làm theo, là nó tu thân vậy.

Về phương tu trong chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn thờ phượng và dâng Tam-Bửu mỗi ngày chúng ta cầu nguyện Đức-Chí-Tôn đặng dâng ba của báu ấy là Tinh, Khí, Thần.

Tu về tinh, khí, thần, con người sanh nơi đây Đức-Chí-Tôn ban cho cái ân đặc-biệt là khi đầu sanh, tinh thần tự thiên-nhiên đã có quyền-năng muốn đoạt cho được mọi sự hiểu biết của nhơn loại. Tinh là báu đầu tiên của mình, là thân thể mình (ám chỉ xác thân). Khí là trí não khôn-ngoan hiển-hách của mình. Thần là lương năng "Tri" hay là hồn, liên-quan với xác thân. Đành rằng Tinh và Thần phản đối nhau, song lắm khi trí lay động quá thường biến sanh sự khủng-hoảng về tinh-thần cũng như một kẻ kia tự biết là ngu là khùng, khi ta điểm mặt nó nói nó điên, khùng thì nó tỏ ý giận dữ và tức tối lắm. Sự giận dữ ấy trong tinh thần của nó có khuôn luật thiên-nhiên bảo nó phải tu, đừng để nó ngu, mà ai nói nó ngu tức nhiên làm cho nó phạm luật thiên nhiên nên nó không chịu và tức giận.

Từ khi loài người đã có nơi mặt thế, đều muốn thoát-ly thú tánh, đặng họ sẽ định tâm sáng suốt thành một vị Thánh ở thế gian. Chúng ta đã biết bao vị Thánh sống xuất-hiện trong loài người mà huyền bí vô biên của Tạo-công vẫn là đó cả.

Ấy vậy khuôn luật thiên-nhiên phải buộc ta phải tu trí; nếu trí ngu-xuẩn mê-muội thì phải chịu lệ thuộc cho kiếp sống thừa. Chúng ta vẫn thấy một đứa trẻ còn kiếm phương để hiểu những điều hiểu biết của thiên hạ; nó không biết nó hỏi và vấn nạn để hiểu, ấy là phương tu trí. Được khôn ngoan là nhờ tu trí, tu hạnh đức (hay hạnh kiểm) rồi mới tu ngôn ngữ. Tu trí đặng lập ngôn, tức nhiên là tu khí.

Khi Đạo ta được đủ trí và thức thời, tâm ta trở nên sáng suốt, biết kiếp sống là mộng ảo thì cái thiệt của xác thân khác nào con vật. Như thế ta phải tìm gì, nếu không tìm cái chi chắc vững hơn. Người ta không quên tìm cái Thiên lương, cái linh hồn, cái chơn linh bất di bất dịch, sống mãi mãi nơi cõi Hằng Sống. Biết được sống ấy là Hằng Sống thì còn đợi gì không tô điểm và giữ nó được trường tồn đẹp đẽ.

Trước các tôn giáo (nhứt là Phật Giáo) chưa có định chữ Thiên lương; Thiên hạ lấy chữ Tâm mà tượng trưng cho linh hồn, mà linh hồn là bóng dáng chớ chưa thiệt tướng. Đề cập đến cái Tâm là bất quá nói cái trí do tinh thần làm căn bản, nên lấy chữ Tâm thay thế cho tinh thần chớ chưa thật tướng tinh thần.  Qua giai đoạn tu trí đến tu tâm. Tâm buộc ta quan sát cả hành tàng kiếp sống của các bậc Thánh Hiền Tiên Phật đã lưu lại trên mặt thế. Ta nương lấy nó (tâm) làm căn bản để kiếm một phương pháp thích dụng đặt mình vào làm phương tu cho mình. Tu tâm chẳng những gieo mối tình cảm cùng vạn vật, nhân loại mà còn đưa ta đi mãi trên con đường vô tận, vô biên. Càn khôn vũ trụ của nó là nhà, là phương tu là căn bản. Còn Trí đối với Tâm vẫn thiên lệch vì danh của Tâm còn vô tận vô biên hơn. Cảnh vô hình thế nào, Tâm như thế ấy. Chưa ai biết rõ Đức Chí Tôn do cái Tâm mà để tình yêu ái và tình thương. AÔi tình nầy hình trạng thay thế cho chữ Tâm. Ngoài ra nó còn liên quan với tánh thiêng liêng, đến con đường có liên hệ với Thiên tánh, Phật tánh, phải qua cái cửa mà thiên hạ đi chưa tới, gọi là cửa hư vô tịch diệt trong cảnh thiêng liêng kia. Đạo Cao Đài giờ phút nào còn thiếu cái đó là còn thiếu tu tâm "ái truất thương sanh" là tu Tâm. Thánh thể của Ngài phụng sự cho vạn linh là tu tâm. Cái Tâm khó tả cho đầy đủ mà kiếp sanh của chúng sanh ít có năng lực để tạo ra nó. Nếu chưa thì con đường thực hiện của chúng ta còn xa vời hơn nữa. Đức Chí Tôn đã nói: Biết phụng sự vạn linh các con mới bước vào con đường tu tâm của các con. Còn chưa tu Tâm các con vẫn có từ bi bác ái và công chánh thế nào cũng chưa đủ gì. Có tu Tâm mới có phương thế lập Đức. Đức Chí Tôn đã dạy chúng ta phụng sự vạn linh là cốt yếu bảo chúng ta phải tu Tâm mới đối lại cái quyền năng tinh thần của tâm lý, đặng lập Đức và Tam lập vậy, vì nó có liên hệ với nhau.  Những lời Bần Đạo thuyết tự nãy giờ có thể viết ra một quyển sách đầy ý vị, con cái Đức Chí Tôn lưu tâm kiếm hiểu .

- Chung -

 

về trang chủ