ÐẠI
ÐẠO
GIÁO LÝ và
TRIẾT LÝ
HT TRẦN VĂN RẠNG
1974
* * *
Thay
lời tựa
Đàn đêm 13 tháng giêng năm
1927, Đức Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn oai nghiêm, Kiêm Giáo
Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ giảng dạy như sau :
"Hiện
nay nhân loại đang trãi qua thời kỳ khủng hoảng trầm
trọng. Trật tự và thanh bình thuở xưa không còn nữa.
Luân lý sụp đổ, nhân tâm sa đọa. Đối với những kẻ hoài
nghi. Thượng Đế chỉ còn là tiếng suông. Họ không biết
rằng trên Cao Đài kia ngự trị một Đấng Chi Tôn, chúa tể
cả vũ trụ loài người.
"Xưa kia
các dân tộc vì thiếu phương tiện xê dịch nên xa nhau,
không quen biết nhau. Đức Chí Tôn đã tạo nên trong những
thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau nền ngũ
chi Đại Đạo :
1/- Nhơn
Đạo (KHỔNG TỬ)
2/- Thần Đạo (KHƯƠNG THÁI CÔNG)
3/- Thánh Đạo (GIÊSU)
4/- Tiên Đạo (LÃO TỬ)
5/- Phật Đạo (THÍCH CA MÂU NI)
"Mỗi chi
đặt trên những phong tục riêng biệt của nơi phát nguyên.
"Ngày nay, giữa năm châu sự giao thông trở nên thuận
tiện. Nhân loại hiểu biết nhau hơn, ước mong cảnh thanh
bình thực sự. Nhưng vì sự hiện hữu của các giáo phái
khác nhau mà loài người không sống hòa hợp với nhau
được. Cho nên, Đức Chí Tôn quyết định hợp nhất ngũ chi
để đưa về Đại Đạo Cao Đài duy nhất"
Đức Phạm Hộ Pháp giải thêm về ngũ chi như sau :-
Phật Đạo thì có Bà La Môn Giáo (Bramanisme), Thích Ca
Mâu Ni (Cakimouni), Pythagore giáo.
-Tiên giáo thì có Lão giáo (Taoisme), Vạn Pháp giáo.
-Thánh giáo thì có Thiên Chúa Giáo (Christianisme), Gia
Tô (Catholicisme), Tin Lành (Protestantisme), Hồi Giáo
(Mahométantisme).
-Thần Đạo thì có Trung Hoa phong thần, Hy Lạp phong
thần, Ai Cập phong thần.
-Nhơn Đạo thì có socrate, Platon, Mạnh Tử, Thanh Sơn
(Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Paris Gasnier 1952, trang
112).
Xem thế, Đạo Cao Đài là tôn giáo bao dung rộng rãi, nhận
mọi tôn giáo đã có từ trước. Với lý tưởng Đại Đồng đó,
Tiến sĩ Nguyễn Trung Thành ở Đức nói : "Với chủ trương hòa
đồng hòa hợp như thế, dù có viết biết bao nhiêu luận án về
triết lý, giáo lý Cao Đài cũng không bao giờ cạn lời, hết
ý" (Thư từ Tây Đức ngày 17-12-1971)
* * *
Phần Dẫn Nhập
KHÁI QUÁT VỀ ĐẠO CAO ĐÀI
SỰ HÌNH THÀNH ĐẠO CAO ĐÀI
Đạo Cao Đài, một nền Tân Tôn giáo phát sinh trong thời đại
khoa học tiến bộ, tại miền Nam nước Việt Nam, manh nha từ
những buổi phò cơ thỉnh Tiên vào năm 1902 ở Thủ Dầu Một và
Phú Quốc của ông Phủ Ngô Văn Chiêu (1) do ảnh hưởng đọc
nhiều sách Pháp về Thần linh học của Camile Flamrion,
Allan Kardec, Léon Denis, Henri Durville .. (2)
Đến năm 1925, tại Sài gòn một nhóm công chức của chính
quyền Pháp như các ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao
Hoài Sang (3) họp nhau xây bàn (4) có các Thần linh giáng
cho thi, đến ngày 16-12-1925 thì đổi hẳn sang phò loan hay
cầu cơ (5) được nhiều tiên tri phù hợp với Đức Cao Đài
giáng dạy cho ông Ngô Văn Chiêu ở Phú Quốc.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1)PHILIPPE D'ARSCHOT, "Le Cao
daisme" Messaga d' Extrême Orient, năm thứ hai số 6
(1972) tr 423-424 lịch sử quan phủ Ngô Văn Chiêu
(1978-1932) Saigon 1962 tr 22-23.
(2)NGUYỄN TRẦN HUÂN, "Historie d'une seckreligieuse
au Viet Nam". In trong Tradition et révolution au Viet
Nam Paris, Ed.Anthropos, 1971, tr 194.
Gần một năm sau vào ngày 7 tháng 10 năm 1926 các đệ tử đầu
tiên như Lê Văn Trung, Lâm Ngọc Thanh, Phạm Công Tắc … tất
cả 28 người đứng tên xin khai tịch đạo Cao Đài với Thống
đốc Nam Kỳ LEFOL (6) nhưng mãi đến ngày 15-10-Bính Dần
(18-11-1926) Đạo Cao Đài mới thực sự làm lễ khai đạo tại
Từ Lâm Tự (chùa Gò Kén) Tây Ninh (7). Hôm khai đạo, hai
tín hữu làm điều tà mị, chủ chùa này là Hoà thượng Như
Nhãn đòi chùa lại, nên các chức sắc, ba tháng sau phải dời
Thánh tượng về làng Long Thành, cách đó 5 km, xây một
Thánh Thất mới cạnh đường liên tỉnh 13 (tức Tòa Thánh Tây
Ninh hiện nay) (8)
1/- Cao Đài giáo và cơ bút :
Cao Đài giáo tin có một ngoại giới nơi cõi vô hình, nên
tin con người có linh hồn (theo từ riêng Thần học Cao Đài
gọi là chân linh), giác quan khó tri thức được mà chỉ cảm
thức, chơn thần là đệ nhị xác thân, khi còn xác phàm, rất
khó xuất riêng ra đặng (xem phần II, chương II) (9). Cái
chơn linh của con người như các Thần Thánh Tiên Phật huyền
diệu vô cùng bất tiêu bất diệt (10) vì nó là một điểm linh
quang của Đức Chí Tôn phân tánh, chánh chơn linh này mới
tiếp điển thiêng liêng. Đó là đầu dây cơ bút Cao Đài, một
Tôn giáo được mặc khải toàn diện của đấng toàn năng, chớ
không do một xác phàm nào tạo ra (11). Tất cả giáo điều
hình thức giáo hội, nghi lễ bàn liệu những hữu hình ở thế
gian của Cao Đài giáo đều qua cơ bút mà hình thành.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(3)PH.D'ARSCHOT, sđd, tr 426
Trích lục tiểu sử chức sắc Tây Ninh. Thế đạo 1970, tr
27-30, TRẦN VĂN RẠNG, Đại Đạo danh nhân Tây Ninh. Thế
đạo. Ông Ngô Văn Chiêu sau đắc vị Giáo tông (không nhận
chức). Ông Phạm Công Tắc đắc vị Hộ pháp, ông Cao Quỳnh
Cư đắc vị Thượng Phẩm và ông Cao Hoài Sang đắc vị Thượng
Sanh.
(4) Xây bàn (Table taunante): Người tham dự để hai tay
lên một chiếc bàn đã được kê hai chân đối diện, khi có
thần linh giáng, chân bàn bằng thế gập ghềnh tự nhịp tùy
theo khẩu ước mà viết ra thành chữ, như một nhịp là chữ
A, hai nhịp là chữ A Ê…..
(5) PHAN VĂN TÂN cơ bút Đạo Cao Đài Sài gòn Hồn quê
1967, NGUYỄN VĂN SÂM "TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM" Sài gòn văn
khoa 1973. cầu cơ Đầu cơ làm thành một cái giỏ có bao
vải vàng và có một cái cần dài bằng gỗ dâu, ở chốt có
khắc đầu con chim loan, tại đó có cắm một cây bút để
viết chữ lên trên mặt bàn . Khi cầu có hai người hai bên
vịnh tay vào miệng giỏ, cần chuyển động viết ra chữ thật
độc giả đọc chữ và điển ký ghi vào giấy.
(6) NGUYỄN TRUNG HẬU, Đại Đạo Căn nguyên, Sàai gòn. Tác
giả xuất bản 1930, tr 23-25.
NGUYỄN TRẦN HUÂN, sđd, tr 196
(7) G. GOBRON, Historie et phy losophie du Cao Daisme
Paris, dervy 1949.
(8) GOUVERNAMENT GÉNÉRALE DE L'INDOCHINE, Contribution à
l'Historie des mouvements politiques de Pindoclrine
francaise, quyển VII : Le Cao Daisme Hà Nội 1934 (chú
thích xin viết tắt là contribution)
(9) Cao Quỳnh Cư, Luật tam thể, Tây Ninh 1962
(10) Thánh Ngôn Hiệp tuyển (quyển I). T.Ninh 1964, tr 6
(11) NGUYỄN LƯƠNG HƯNG "Vài nhận định về Cao Đài giáo,
Sàigòn, Đại Đạo nguyệt san số 3 (1964), tr 34
2/- Một Tôn giáo tổng hợp :
Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức phổ độ chúng sanh
lần thứ ba, vì giáo lý Cao Đài dạy là trước kia có Nhứt Kỳ
phổ độ vào Thời Thượng cổ và Nhị kỳ phổ độ vào Thời Trung
cổ (12) . Đạo Cao Đài làm sống lại những tinh hoa và chiết
trung tư tưởng của các nền tôn giáo và hiệp ngũ chi. Tam
giáo là hình thức của buổi đầu để hợp với mảnh đất Việt
Nam mà tinh thần là vạn giáo, dưới hình thức qui hiệp ngũ
chi gồm có : Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và
Phật Đạo. Đó là trường học năm lớp phù hợp với mọi sắc
dân, mọi chính kiến và mọi giai cấp muốn tiến đến Cao Đài
tôn giáo. (13)
Đấng Cao Đài là Jéhovanh của dân Héreux, Thiên chúa vô
danh của dân Do Thái, Đức Chúa cha của Jésus Christ (14)
của cả Hồi giáo và Bàla Môn giáo nữa (15).
Trên nóc bát quái của Tòa Thánh Tây Ninh có thờ ba ngôi
(triniti) của Bà La Môn giáo là Brahma cưỡi huyền nga,
Civa (Shiva) cưỡi rắn Naga bảy đầu, Krishna (hiện thân của
Vishnou) cưỡi long giao (16).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(12) PHAN TRƯỜNG MẠNH, Lavie du salut
Cao Dai que, Saigon Lý Công Quán 1950, tr 52-58
(13) NGUYỄN LONG THÀNH, The path of a Cao Dai disciphe
Tây Ninh 1970.
(14) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển sđd tr 124
(15) Báo La Presse in dochinoise ra ngày 23-10-1932.
(16) Theo kinh Vệ Đà : Vishnou là vị thần bảo tồn
cưỡi chim thần Ganida. Civa cưỡi bò thần
Nandin, ngực quấn đầy rắn thần. Đạo Cao Đài đã địa
phương hóa Civa cưỡi rắn bảy đầu giống như Hộ Pháp Cao
Đài.
Trong kinh lễ Cao Đài có xưng tụng các vị Thần này. "Thần
Shiva còn giữ vai trò Avarapala tức là Hộ Pháp giữ cửa các
đền thờ (17)
Ngoài việc thờ quá nhiều thần như vậy là một kinh nghiệm
tôn giáo trong quá khứ để thu hút nhiều tín đồ. Bởi lẽ
"Phật giáo nhiều thần thoại phép mầu, có vô số vị Thần
Thánh làm trung gian giữa tín đồ và đấng tối cao đã thắng
Phật giáo nguyên thủy. Cũng như Thiên chúa giáo đa sắc
thái chú trọng tới bề ngoài đã thắng Kitô giáo giản dị
nghiêm khắc thời nguyên thủy (19)
Cũng vì sự đa sắc thái của Cao Đài giáo khiến cho một vài
tôn giáo bất bằng, vì họ quan niệm rằng không thể nào tập
hợp các lãnh tụ tôn giáo trên một "thiên bàn" như Cao Đài
giáo được. Đức Phạm Hộ Pháp đã giải thích rằng chữ thần
thánh trong tôn giáo Cao Đài biểu thị một cách đơn giản
những tinh thần đã hoàn toàn tách khỏi cái bản thể. Và đã
tận lực tiến gần Đấng Cao Đài. Bởi đó mà Cao Đài giáo
không gọi là Đấng Thượng Đế mà gọi là Đấng Chí Tôn, Đấng
Tuyệt đối, Đấng Vĩnh cửu để khỏi chia rẽ phân loại, vì các
tôn giáo có nguồn gốc chung (20).
Tắt một lời, Cao Đài giáo thừa hưởng tất cả di sản của các
tôn giáo trên thế giới, sự hiện diện của Đạo Cao Đài chỉ
do một tổng hợp sáng tạo mà có. Thế nên, chủ trương của
Đạo Cao Đài là Đại Đồng tôn giáo, tất cả tôn giáo đều do
một gốc mà ra (21). Gốc duy nhất đó là Cao Đài (Le trè
Haut), tượng trưng bằng con mắt trái mở rộng (trái thuộc
về dương) tức Thiên nhãn (21).
Đạo Cao Đài chọn biểu hiện Thiên Nhãn để tôn thờ, vì lẽ
Đấng tối cao vô hình vô ảnh, nếu một vị giáo chủ bằng
xương bằng thịt thì người Tây phương sẽ làm người Đông
phương mặc cảm, và ngược lại, nên hình ảnh thi phân mắt
thịt là hàng rào ngăn cách khó có thể thực thi một tôn
giáo Đại Đồng. Lý đương nhiên, Đạo Cao Đài là nhất thần
với biểu hiện Thiên Nhãn, còn những thể cách bày biện
ngoài Thiên Nhãn chỉ là sự biểu lộ lòng tôn kính đối với
hàng giáo lãnh của các tôn giáo, đồng thời để giúp việc
truyền đạo của họ được mau chóng. Thật ra, không tôn giáo
nào chỉ có một vị thần độc tôn, mà xung quanh không biết
bao nhiêu vị thần khác.
3/- Thực trạng các phái đạo :
Đạo Cao Đài xuất hiện không bao lâu đã phổ độ chúng sanh
từ thành thị đến nông thôn sằng dã. Được như vậy là do các
giáo sĩ hết lòng đi phổ độ, phương tu đại đạo rộng rãi phù
hợp với nguyện vọng con người. Theo Tân luật, Pháp Chánh
truyền, Phương tu Đại Đạo có 3 con đường : con đường Nhơn
Đạo, Đạo pháp (hay hành đạo phổ độ chúng sanh) và tịnh
thất (hay vô vi luyện kỷ). Ba con đường này tiến sang hành
và hài hòa với nhau, dù tu con đường nào cũng được Đức Chí
Tôn cứu rỗi và Cửu Nương đưa về cõi thiêng liêng hằng
sống. Chư vị thiên phong tiêu biểu cho ba con đường ấy đều
đắc quả như Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung
(con đường Hành Đạo), Đức Cao Thượng Sanh (con đường Nhơn
Đạo) và Đức Ngô Minh Chiên, Đức Cao Thượng Phẩm (con đường
vô vi luyện kỷ) (22) và nhiều vị khác nữa.
Trước sức bành trướng và lớn mạnh của Đạo Cao Đài chính
quyền Pháp sợ đạo trở thành một phong trào ái quốc sẽ gây
khó khăn cho họ. Họ tìm đủ mọi cách để ly gián làm cho
người đạo nghi kỵ lẫn nhau mà chia rẽ. Từ năm 1931, khởi
đầu là ông Nguyễn Văn Ca tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về
lập phái đạo ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho) sau đó đến những vị khác,
mà G. Gobron đã liệt kê được 11 phái đạo sau đây :
1/- Minh chơn lý (Nguyễn Văn Ca), 2/- Ban chỉnh đạo
(Nguyễn Ngọc Tương), 3/- Tiên thiên (Lê Kim Tỵ), 4/- Thông
thiên đài (Quách Văn Nghĩa), 5/- Liên hòa tông phái
(Nguyễn Phan Long), 6/- Minh Chơn đạo (Cao Triều Phát),
Trung hòa học phái (Trương Kế An), 8/- Tây tông vô cực
(Nguyễn Bửu Tài), 9/- Tuyệt cốc (Nguyễn Ngọc Điền), 10/-
Chiếu minh đàn (Tư Quỳnh), 11/- Nữ trung hòa phái (Ngọc
Nhiên Hương) (23).
Sau đó, ông R.B.Smith giáo sư Trường Viễn Đông và Phi Châu
thuộc Viện Đại học Luân Đôn có phát họa sơ đồ sự phân chia
các phái đạo (24) mà Ngài Hồ Bảo Đạo cho là "nhận định
không chính xác". Kế đến, ông Đồng Tân thuộc phái đạo
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng) trong quyển "Lịch sử Cao Đài"
tách rời hai phần vô vi và phổ độ, và đổ lỗi cho việc phân
chia các phái đạp cho người này người kia gây ra, mà không
giải thích đến tận nguồn gốc, bản chất của nó.
Từ ông G.Gobron, R.B.Smith đến ông Đồng Tân nhìn Đạo Cao
Đài với thực trạng của nó chớ không hề nghiên cứu đến phần
đạo pháp thiêng liêng.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(23)G.Gobron, sđd, tr 173-174
(24)R.B.Smith, An introduction to Caodaism : I.Origine
and early history (335 tr) quyển XXXIII, tập 2, 1970;
II.Beliefs and oranisations (573-589 tr), quyển XXXIII,
tập 3 1970, tr 347.
Chủ đích của tôn giáo là coi trọng phần thiêng liêng hơn
phần thể xác. Đạo Cao Đài về mặt đạo pháp từ buổi đầu đến
nay vẫn nhất dĩ quán chi. Theo tiến trình lập đạo, Đức
Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương dạy đạo các vị có nguyên căn
phò cơ để Đức Chí Tôn thâu làm môn đệ trước tiên. Nói các
khác, Đức Cao Đài khi lập giáo thì lập Hiệp Thiên Đài
(phần hồn) trước tiên rồi sau mới lập Cửu Trùng Đài (phân
xác của đạo). Ngược lại, các phái đạo lập cái xác trước,
rồi chính cái xác ấy mới tạo ra được cái hồn. Phái đạo lớn
nhất là Ban Chỉnh Đạo, ông Nguyễn Ngọc Tương tha thiết kêu
gọi chi vị thập nhị thời quân (phần hồn) buổi đầu về hợp
tác nhưng trước sau như một thập nhị thời quân đều hành
đạo tại tổ đình Tòa Thánh Tây Ninh.
Thế nên, các phái đạo tự lập ở các địa phương không cùng
một hệ thống hành chánh đạo với Tòa Thánh Tây Ninh, nên
gọi một từ ngữ cho đúng là "thực trạng các phái đạo" cần
giải quyết cho êm ấm nhà đạo, chớ không gọi là chi phái.
Bởi lẽ, "chi" (nhánh) phải có cội (thân chánh) mà thực
chất nhiều Thánh Thất hiện nay tự lập, không từ một giáo
lãnh nào ở Tòa Thánh Tây Ninh tách rời đứng ra dựng nên,
mà cũng không chỉ có 12 chi như G.Gobron viết.
Việc thống nhất nền Đạo là trách nhiệm của con người. Đức
Chí Tôn đã lập ra mối Đạo thống nhất tiến bộ. Con người vì
mang thi phàm xác thịt lấy ý riêng mà tạo ra nghiệp quả
cho mình, thì con người hãy ngồi lại với nhau tu sửa để
dứt nghiệp trần thong dong trên đường Thánh Đức. Trong
niềm lo chung đó, năm 1972, tất cả đại diện các phái Đạo
họp tại Tòa Thánh Tây Ninh đồng ý thống nhất về tinh thần
lấy Giáo lý và Kinh điển Cao Đài làm cơ bản. Đó là một
chuyển biến quan trọng đánh dấu một bước ngoặc lớn trong
lịch sử Đạo Cao Đài. Vả lại, sự phân chia các phái Đạo chỉ
xảy ra trên giai tầng lãnh đạo, còn trong quần chúng tín
đồ sống cộng yêu hòa ái. Lòng rung động khi nhìn thấy
Thánh Thất, không cần biết của phái nào, sùng kính khi
bước vào chánh điện nhìn lên Thiên Nhãn thấy và cảm thấy
gần gũi, an ủi tâm hồn khi nghe câu kệ, lời Kinh "Đạo gốc
bởi lòng thành tín hiệp". Thật vậy, Đạo Cao Đài đã thống
nhất từ khi khai đạo tới nay, mà không thống nhất về cách
hành đạo theo địa phương.
TỔ CHỨC GIÁO HỘI CAO ĐÀI
Tại Thánh Thất đầu tiên ở Gò Kén (Tây Ninh) Đức Chí Tôn đã
giáng cơ (1926) ấn định tổ chức Giáo hội Cao Đài (1) như
sau :
1/- Phần hồn gồm có Bát Quái Đài
Bát Quái Đài (Le Palais oc-togonal) là nơi
nhà thờ Đức Chí tôn, Đức Tin của nhân loại và Thần, Thánh,
Tiên, Phật có một nơi gọi là cung đạo, chính nơi này là
chỗ cầu cơ phát xuất mọi giáo lệnh thiêng liêng.
Hiệp Thiên Đài : (Le Palais de la Médium) là
nơi thông linh với Đức Chí Tôn và Thần, Thánh, Tiên, Phật
do các chức sắc Hiệp Thiên Đài phò loan. Hộ Pháp chưởng
quản Hiệp Thiên Đài coi về phần luật pháp, phụ giúp Hộ
Pháp bên phải có Thượng Phẩm coi chi Đạo, bên trái có
Thượng Sanh coi chi Thế.
Bên trái ba vị này có 12 chức sắc Hiệp Thiên Đài gọi là
Thập nhị thời quân, chia làm ba chi :
-Chi Pháp : do Hộ Pháp chưởng quản gồm có : Bảo
Pháp, Hiến Pháp, Khai Pháp và Tiếp Pháp coi về luật pháp
của đạo. (2)
-Chi Đạo : do Thượng Phẩm chưởng quản gồm có bảo
Đạo, Hiến Đạo, Khai Đạo và Tiếp Đạo coi về tịnh thất của
đạo.
-Chi Thế : do Thượng Sanh chưởng quản gồm có Bảo
Thế, Hiến Thế, Khai Thế và Tiếp Thế coi về mặt đời của
Đạo.
Dưới Thập nhị thời quân còn có các chức sắc nhỏ hơn, từ
trên xuống là : Tiếp dẫn đạo nhơn, chưởng ấn, cải trạng,
Giám đạo, Thừa sử, Truyền trạng, Sĩ tải phụ giúp các vị
thời quân về luật pháp và xử án (3).
Bên cạnh Hiệp Thiên Đài còn có Hội đồng nghiên cứu về
chuyên môn (hay Hàn lâm viện Cao Đài) thuộc quyền Hộ Pháp
và Giáo Tông gồm 12 gọi là thập nhị bảo quân (3a) các vị
này đều được tuyển chọn trong hàng đại khoa bảng như tiến
Sĩ, Bác Sĩ … như Bảo văn pháp quân (coi về văn hóa, văn
minh, bảo tàng) Bảo sanh quân (coi về an sinh nhân loại),
Bảo cô quân (coi về mọi mặt xã hội), Bảo quyền linh quân,
Bảo học quân (coi về mọi ngành học thuật), Bảo y quân (coi
về y dược học), Bảo thiên văn quân (coi về thiên văn và
thổ nhưỡng), Bảo sĩ quân (coi về nếp sống văn minh), Bảo
nông quân (coi về mọi ngành công nghiệp), Bảo thương quân
(coi về kinh tế).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) La constitution Religieuse du
Caodaisme Paris Bervy 1953 tr 191 tr. Chú thích viết tắt
là constitution Tân luật Pháp chánh truyền Paris Gasnier
1952, 176 tr.
(2)Tiếp là nhận, Khai là mở, Hiến là dâng, Bảo là giữ
gìn.
(3) La constitution, sđd, tr 136-152
G. GOBRON, sđd, tr 151-152
R.B. SMITH, sđd, tr 585
(3a)Bảo văn được phong đầu tiên ngày 18-7-1928. Pháp
chánh truyền ghi về 12 bảo quân ở tr 99.
2/- Phần xác : của đạo là Cửu Trùng Đài (Le Palais
auxneuf marches).
Cửu Trùng Đài là guồng máy giáo hóa chúnh sanh do Giáo
Tông chưởng quản, chia làm 3 phái :
- Phái thái (tức Phật giáo mặt áo vàng) coi 3 viện : Hộ
viên, Lương viện và Công viện,
- Phái thượng (tức phái lão giáo mặc áo xanh) coi 3 viện
: Học viện, y viện và nông viện,
- Phái ngọc (tức phái Nho giáo mặc áo đỏ) coi 3 viện :
Hòa viện, Lại viện, Lễ viện.
Cửu Trùng Đài gồm 9 phẩm từ trên xuống là :
1/- Giáo tông (1 vị)
2/- Chưởng pháp (3 vị) từ đây trở xuống chia làm 3
phái
3/- Đầu sư (3 vị)
4/- Phối sư (36 vị), mỗi phái 12 vị trong đó cử ra 3
vị Chánh phối sư.
5/- Giáo sư 72 vị
6/- Giáo hữu (3000 vị) mỗi phái 1000 vị
7/- Lễ sanh không hạn định
8/- Chức việc : chánh, phó trị sự và thông sự tại mỗi
hương đạo.
9/- Đạo hữu toàn thể tín đồ.
Nói chung Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài hoạt
động nhịp nhàng đồng nhất, thế nên việc phổ độ được hanh
thông và phát triển mau lẹ. Sự xuất hiện của Đạo Cao Đài
đã đáp ứng đúng ước vọng của quần chúng nên không bao lâu
giáo lý Cao Đài đã làm rung động nông dân từ Nam chí Bắc
Việt Nam vì nó phản ánh nguyện vọng xa xăm thầm kín của
các dân tộc nông nghiệp Đông Nam Á Châu và vì nó chính là
cái ý thức hệ sâu rộng để đáp ứng nhu cầu của xã hội khai
phóng (4).
Do đó, kết quả việc phổ độ buổi đầu (1925-1931), tín đồ
Cao Đài đã lên tới một triệu người (5). Nhưng theo tài
liệu của Sở mật Thám Đông Dương lúc ấy Đạo Cao Đài chỉ có
105 Thánh Thất, năm sau tăng lên 128 (6), được khoảng nửa
triệu tín đồ (7).
Năm 1937, Đạo Cao Đài có 1.027.000 tín đồ, riêng tại Nam
Kỳ chiếm 980.000 người, ở miền Trung và Bắc kỳ 7.000 người
(riêng Hà Nội có 4.000 người) và Campuchia lên tới 40.000
người gồm người Cao Miên, Hoa Kiều và Việt kiều (9).
Năm 1953, số tín đồ lên tới một triệu rưỡi người, chưa kể
các chi phái, đến năm 1954 lên đến 2 triệu rưỡi người (10)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(4) NGUYỄN ĐĂNG THỤC, sđd, tr 45
(5) Theo báo Progrès civique ra ngày 19-12-1931.
(6) Contribution, quyển Vii, tr 80
(7) R.B.SMITH, sđd, tr 342
(8) Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, Tây Ninh
1973, tr 96
NGUYỄN THẾ ANH, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Sài Gòn
lửa thiêng 1970, tr 345. PH. DEVILLERS, historie du
VietNam de 1940 à 1952, Paris, Seuil 1952 tr 68. NGUYỄN
TRẦN HUÂN, sđd, tr 211. Cả ba ông Anh, Devillers và Huân
đều cho rằng năm 1938 Đạo Cao Đài có 300 ngàn người.
(9) NGUYỄN VĨ, Tuấn chàng trai nước Việt (quyển II) Sài
gòn 1969, tr 364
(10) HOÀI NHÂN, 40 năm lịch sử Cao Đài. Biên Hòa 1966.
lại viện Đạo Cao Đài thống kê 1973, tín đồ hiện giảm
xuống còn 945.000 người thuộc Tòa Thánh Tây Ninh.
TUYÊN NGỮ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
1/- Đại Đạo :
Đức Chí Tôn có dạy : "Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy,
các con là chư Phật, chư Phật là các con. Có Thầy mới có
các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên,
Phật". Hoặc nói rõ hơn "Các con là Thầy, Thầy là các con".
Và đó là tính chất vượt lên trên cả nhất và nhị nguyên,
gọi là Đạo trong Cao Đài giáo.
Với cái nhìn bao quát này chúng ta xét thấy chữ Đại trong
hai tiếng Đại Đạo. Vấn đề đặt ra cho tất cả các vì giáo
chủ là giải quyết cuộc đời. Giải pháp của từng giáo chủ
xưa nay cũng được gọi là Đạo, nó bao hàm ý nghĩa một thái
độ tích cực, một phương pháp hoạt động, một lối sống chi
con người. Hiển nhiên với danh xưng Đại Đạo, Đạo Cao Đài
tự cho mình là con đường lớn. Những người quen nhìn từ bên
ngoài, từ hiện tượng đến tâm linh, vốn quen lý luận trong
vòng nhị nguyên, khi phê phán về học thuyết Cao Đài thường
có chỗ hoài nghi về thái độ độc tôn trong danh hiệu Đại
Đạo. Lớn là so sánh với cái gì nhỏ hơn như vậy các hình
thức tôn giáo, triết học đã có , hiện có, đều nhỏ hết hay
sao ? Nếu trở lại tánh chất căn bản của học thuyết Cao Đài
là chấp nhận sự đồng nguyên tôn giáo trong ý thức và sự
dung hòa tư tưởng trong cách hành động thì điều dị nghị về
một thái độ tự tôn hẳn không còn đất đứng. Chẳng phải vấn
đề sau hay là đúng tụ căn bản, mà là vấn đề còn hiệu lực
hay không của các giải pháp từ xưa được đặt ra. Nhơn Đạo,
Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo mỗi chi đều có
phương cách giải quyết vấn đề nhơn sinh theo học thuyết
của mình, nay nhìn nhận tất cả đều hữu lý, hữu hiệu trong
một hoàn cảnh nào đó, thời gian nào đó của các hình thức
giáo thuyết vẫn là thái độ căn bản của Đạo Cao Đài hay cái
linh đài cao nhứt của một Đại Đạo hay một mối đạo lớn. Chữ
Đại vì vậy không mang một ý nghĩa nổi bật, vượt lên tất cả
như một cá thể độc lập và ngạo nghễ mà trái lại chính là
sự trãi rộng ra, bao gồm tất cả để xem mình là kẻ khác, kẻ
khác là mình trong một danh thể chung. Những phần tử lẻ tẻ
cấu tạo thành mình, nếu mất đi thì chính mình cũng mất và
ngược lại nếu không có sự ràng buộc giữa các phần tử với
nhau thì những lẻ tẻ vẫn còn lẻ tẻ. Chữ Đại là lớn tìm
thấy trong ý hướng chấp nhận sự đồng nguyên với mối liên
hệ với nhau giữa những phần tử cấu tạo qua trung gian của
một nguồn gốc duy nhất, nó từ chối sự giải thích hơn hay
kém trong tinh thần hơn thua với thái độ miệt thị và tôn
trọng, nhưng nhận sự thẩm định về mức độ hữu hiệu của các
giải pháp với tinh thần cần có nhiều giải pháp đóng góp
vào một chương trình chung là giải quyết cuộc đời. Hiểu
như vậy thì Đại Đạo là một mối Đạo cho tất cả, một giải
pháp vừa chừng cho tất cả, một đường đi chứa đựng được tất
cả, nó không phải là một con đường trong số những con
đường mà là cái danh hiệu chung cho tất cả các con đường
ấy, nó không phải là lối giải quyết của một vị giáo chủ mà
là lối giải quyết của tất cả những vì giáo chủ.
2/- Tam kỳ :
Với cái nhìn rộng rãi như vậy, chúng ta thấy lần qua đến
chữ Tam Kỳ, nói nôm na là lần thứ ba học thuyết Cao Đài
chia lịch trình tấn hóa của nhơn loại làm ba thời kỳ
chính. Trong mỗi thời kỳ như vậy đều có một số hình thức
tôn giáo nào đó phát sanh để hướng dẫn tinh thần sanh
chúng. Mỗi lần khai sanh một hay nhiều tôn giáo như vậy
gọi là "Kỳ phổ độ" Tam Kỳ hay lần phổ độ thứ ba được đánh
dấu bằng sự xuất hiện của Đạo Cao Đài.
Lịch sử nhân loại theo dòng thời gian là cuộc tranh đấu để
sinh tồn và tấn hóa. Aáy là cái lý tự nhiên, nhưng ngặt
càng tranh đấu lắm lại càng ác liệt lắm, nên đã bao phen
nhơn loại đứng bên bờ vực thẳm của một cuộc diệt vong rộng
lớn. Trước nguy cơ diệt chủng ấy, nhiều vị giáo chủ xuất
hiện đem lý thuyết đạo giáo truyền bá trong dân gian mong
kéo con người trở lại đời sống hiền hòa. Aûnh hưởng của
các đạo giáo phần nào đã giúp ổn định đời sống xã hội. Ít
nữa trong khoảng thời gian nào đó, trước khi ảnh hưởng lu
mờ dần để nhường chỗ cho những giáo thuyết mới phù hợp với
trình độ dân trí hơn.
Song song với sự phát triển tinh thần nhơn loại theo hai
xu hướng thiện và ác, nhiều vị giáo chủ giáng trần bày ra
những lối huấn luyện thích hợp đưa con người trở về hợp
nhứt với Thượng Đế mà niệm ý phát sinh càng ngày càng rõ
rệt. Nơi đây không còn những con số niên lịch chính xác
phân định những móc thời gian giữa các thời kỳ với nhau,
vả lại cũng khó làm được như vậy vì sự tiến triển của nhơn
tâm nói chung trên dòng tấn hóa là một sự tổng hợp của
nhiều cá nhân xuất sắc và trì độn.
Người ta chỉ còn nhớ lại một cách mơ hồ vào thời kỳ tiền
sử xa xăm có xuất hiện nhiều vị giáo chủ và những nhân vật
lừng danh mà công nghiệp còn được truyền tụng và suy tôn
như hàng giáo chủ. Cũng không có ai hình dung nổi hình
dáng của các vị này ra sao, hoạt động đích thực của các
Ngài ra sao. Những lời thuật lại trong các truyền thuyết
thật là khó mà tìm được như những sự kiện hiển nhiên của
những con người bằng xương bằng thịt, nhưng ít nữa nó cũng
tượng trưng cho những ý nghĩa có tính cách triết học nào
đó.
Sang đến thời kỳ phổ độ thứ hai lịch sử còn ghi sự xuất
hiện của:
Như là những vị đặc trách trông coi sự chấn hưng của Phật
Giáo, Tiên Giáo và Nho Giáo : điều ấy tìm thấy trong ý
thức hệ của tín đồ Cao Đài và cách phô diễn trong nghi lễ
thờ phượng , còn những hoạt động của các chơn linh ấy
thuộc phạm vi bán hữu hình nên khó lòng kiểm chứng được
đối với những ai không tin.
Đây vừa kể sơ lược những nhân vật thường được nhắc đến
nhiều nhứt trong học thuyết Cao Đài, thế còn những vị giáo
chủ các tôn giáo khác trên khắp toàn cầu thì sao? Xếp vào
kỳ phổ độ nào? Bất kỳ tôn giáo nào, những hình thức tín
ngưỡng dù ở phương trời gốc biển nào cũng có những hiện
thân của Thượng đế làm đối tượng tôn sùng cho người tin
theo, như vậy thì sự liệt kê danh hiệu các vì giáo chủ qua
ba kỳ Phổ độ như vừa nêu trên chỉ có giá trị tượng
trưngcho khuynh hướng muốn bao gồm thống hợp tất cả. Sự
tượng trưng nào lại không chỉ là tương đối nên phải hiểu
rằng đàng sau bảng thống kê khai hãy còn nhiều dấu chấm bỏ
lửng hay là một dấu ngoặc chờ đón những sự điền vào tiếp
nối khi óc tinh thần nhân loại phát triển đến mức có thể
hồi tưởng lại hết tất cả những danh hiệu của các vị Giáo
chủ hoặc những người ở vào cái tư thế như vậy trong xã hội
cổ kim.
Như vậy sự phân chia làm ba kỳ phổ độ không có tánh cách
máy móc, toán học, nghĩa là cứ sau niên lịch nào đó thì tự
động xếp các vì Giáo chủ, các hình thức tín ngưỡng tôn
giáo nhỏ lớn vào cùng một nhóm với nhau. Trái lại, sự phân
chia này có tính cách rất tổng quát, mang ý nghĩa rằng
lịch sử nhân loại là một cuộc tuần hườn hết thịnh đến suy,
suy rồi lại thịnh. Cứ mỗi thời kỳ suy đồi, các Đạo giáo
như những cố gắng làm phục sinh tinh thần cao thượng của
con người hướng về nguồn gốc linh thiêng của mình.
Tam Kỳ Phổ Độ được đánh dấu bằng sự xuất hiện của Đạo Cao
Đài khoảng đầu thế kỷ 20, nhưng triết lý tổng hợp này đã
xuất hiện từ trước và nhiều nơi khác, như ở Đạo Bahai từ
năm 1863, phong trào nghiên cứu tôn giáo đối chiếu tại các
quốc gia Aâu Mỹ từ đầu thế kỷ 20 y như lời xác định của
Đức Chí Tôn.
"Thầy chưa giáng cơ lập Đạo tại nước Nam chớ chư Thần,
Thánh, Tiên, Phật dùng huyền diệu này mà truyền Đạo cùng
vạn quốc" (Tr.57/TNHT.QI).
3/- Phổ Độ :
Như vừa nói trên, chữ Phổ độ có nghĩa bày ra để cứu chúng
sanh. Hai chữ Phổ độ làm chúng ta liên tưởng đến cả một
sách lược tuyên truyền kỷ thuật quảng bá để cho một ý thức
hệ đi thẳng vào tim óc của dân gian, ngự trị trong tư
tưởng quần chúng để rồi tư tưởng ấy điều khiển hành động
của từng cá nhân và tập thể. Đó là thái độ vô cùng tích
cực nhằm đạt đến cái đích tối hậu là độ rỗi nhân sanh
thoát cái hiện tại bất toàn của họ. Thiết tưởng cần dẫn
chứng điều quan hệ căn bản trong tư tưởng người đệ tử Cao
Đài liên quan đến sự có mặt của họ tại thế gian này trước
khi đi sâu vào nghĩa lý chữ "độ". Thánh Ngôn Hiệp tuyển
(quyển thứ nhì) có ghi chú như sau :
"Cõi trần là chi ? Khách trần là gì ?
Sao gọi là khách ?
Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi, ấy là
cảnh sầu để trả xong quả, phải mất cả chơn linh và luân
hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần."
Vậy thì quê hương thật sự của con người không chỉ ở địa
cầu này, nơi đây chỉ là quán trọ để khách lữ hành dừng
chân một thuở trên dòng tấn hóa, một nơi để các đẳng chơn
linh đến học hỏi những kinh nghiệm sống trong cuộc sống
trần tục bên trong thi thể của một phàm nhân. Vậy thì cái
tư thế là của một người khách tạm ngụ chớ không phải là
một chủ nhân ông vĩnh viễn. Vậy thì quyền tư hữu của con
người đối với vật chất trên mặt địa cầu này là vô nghĩa,
vì tính chất vô thường của những của cải vật chất ấy. Mọi
giá trị của cuộc sống được xây dựng trên sự dàn trãi dài
của cái trường cửu mà trường cửu lại chính là cái tổng hợp
của nhiều giai đoạn. Nhầm lẫn giá trị của trường cửu với
những giá trị đoản kỳ của các giai đoạn là xuyên tạc học
thuyết Cao Đài… Chẳng hạn, lập luận bảo rằng cuộc đời của
một người đó có nhiều đau khổ, vậy cứ đem giết phức đi là
xong chuyện. Đó cũng là một cách giải quyết vấn đề, nhưng
nó được xây dựng trên biện chứng, phản lại tinh thần
trường cửu là sự sống của một cá nhân được tiếp nối qua
nhiều thế hệ luân hồi hay ít ra sau khi chết phần linh
diệu nơi một con người vẫn còn tồn tại và hoạt động. Sự độ
rỗi cũng phải được xây dựng trên một lập trường như vậy,
người sẽ phải vận dụng tất cả mọi khả năng để làm cho
người tiến hóa đạt đến chân, thiện, mĩ trên sự trãi dài
của đời sống vĩnh cửu. Cái nhìn ấy khác với cái nhìn của
người cho rằng hạnh phúc chỉ có trên đời nầy ngay trong
đời sống hiện tại, và chỉ có trong kiếp sống của xác thân,
có khuynh hướng qui tất cả mọi giá trị của cuộc sống vào
mấy mươi năm xuất hiện trên mặt đất. Trường cửu sẽ trở
thành ảo tưởng nếu có không được xây dựng trên giai đoạn
và giai đoạn sẽ có tánh cách cực đoan nếu nó không được
xây dựng trên trường cửu nên mối tương quan mật thiết giữa
hai ý thức về hữu hạn và tuyệt đối là thế quân bình trong
sự quyết định cách thức hành động khi phổ độ chúng sanh độ
rỗi vì vậy mang hai ý nghĩa :
Tư tưởng xây dựng trên ý thức đời sống trường cửu, hành
động bị trói buộc vào hoàn cảnh và giai đoạn. Nếu hai lãnh
vực này hoàn toàn tách rời nhau, nghĩa là nhơn sanh vẫn ý
thức được giá trị của con đường thiêng liêng hằng sống,
nhưng vẫn hành động theo thể tục, hoàn toàn trái ngược với
tư tưởng trên đây thì kẻ có trách nhiệm trong Tam Kỳ đã
không tròn câu phổ độ.
Phổ độ là bày ra, hẳn nhiên phải bày ra cái gì hữu hình,
hữu tướng cái lớp vỏ, cái áo ngoài tức là cái giả vậy. Kết
quả cuộc phổ độ lại là vấn đề của thế giới nội tâm. Nên
người đi làm công việc truyền giáo mà không độ được chính
mình thì chỉ nắm được cái vỏ chứ chưa hề biết được cái
ruột. Nói rộng ra, những gì hiện có tại thế gian này, thấy
được bằng nhục nhãn, nghe được bằng nhục nhĩ liên quan đến
sách lược truyền bá giáo lý chỉ nằm trong phạm vi giả tạm,
nó có tánh cách tùy thuộc vào môi trường và giai đoạn.
Người phải xây dựng được đới sống trường cửu cho nhơn sanh
thì mới đạt được kết quả sau cùng của việc phổ độ. Nếu như
Tam Kỳ chỉ làm được việc truyền bá giáo lý mà không tạo
được đời sống vĩnh cửu cho chúng sanh thì vấn đề đặt ra là
giải quyết cuộc đời chưa đi đến đích (Theo NLT, khảo cứu
vụ 10-6-1973).
TAM GIÁO TRIẾT HỌC YẾU LƯỢC
Tiêu ngữ TAM GIÁO QUI NGUYÊN bao hàm ý nghĩa Quốc Đại vì
Tam giáo là quốc đạo dưới đời Lý Trần trở về sau, mà Đạo
Cao Đài qui Tam Giáo, vậy Đạo Cao Đài là Quốc Đạo là lý
đương nhiên theo lôgic.
Tiêu ngữ NGŨ CHI PHỤC NHỨT bao hàm Đại Đạo vạn giáo vì
trong hoàn vũ trong ngoài các tôn giáo : Thần giáo, Thánh
giáo, Tiên giáo, Phật giáo (tránh dùng chữ Đạo : Thần đạo,
Thánh đạo .. là 5 bước đường tu của Đạo Cao Đài). Thánh
Đức Cao Đài đã dạy "Quốc Đạo Kiêm triêu thành Đại Đạo".
Chọn mảnh đất miền Nam làm nôi, làm điểm tựa để bật ra thế
giới, nên Đạo Cao Đài mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam,
ảnh hưởng tinh thần Tam Giáo: Phật, Lão, Nho. Phật giáo
mang tinh thần bản địa của Aán Độ. Lão giáo, Nho giáo cội
nguồn triết học phương đông, điều đó không thể biện giải
khác được, thông qua Tam giáo.
Như thế, triết học Phương Đông gần đồng nghĩa với Đạo học
vì nó phát xuất từ các tôn giáo. Triết học phương Đông đặt
vấn đề cơ bản của triết học trong cái nhìn toàn diện, chớ
không phân tách chi li như triết học phương Tây. Triết học
Hy Lạp thiên về giới tự nhiên hơn con người. Họ tìm hiểu
qui luật vũ trụ, nguyên nhân, sự cấu tạo, còn đối với con
người họ nhấn mạnh về nhận thức luận. Trái lại, Thần học
Cao Đài chú trọng vào Nhơn Đạo rồi Thiên Đạo. Lý trí và
tình cảm của người đạo tương quan với trời đất thần linh,
xã hội, chính trị, đạo đức. Trong đạo coi trong cái vô hơn
cái hữu (vô vi, vô ngôn, vô danh, vô thanh) vì Đạo gần âm
dương biến dịch luôn vừa tĩnh vừa động chớ không thường
bằng bất biến như triết học Hy Lạp.
Trong Tam giáo mà Đạo Cao Đài thừa kế có tính chọn lọc và
phát huy, luôn biến đổi chớ không theo nguyên bản. Bài
viết này về Tam Giáo cũng với mục đích như vậy.
I/- Triết Học Phật Giáo
1/- Siddharta nhập Niết Bàn :
Thái tử Cồ Đàm Tất Đạt Ta sanh ngày 8 tháng 4 năm 563
trước Tây lịch. Ngài là con vua xứ Kapilavastu, phía Nam
xứ Népan, ở dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Năm 17 tuổi, Ngài
lấy người em họ, sinh được một con trai tên là Rahula.
Một ngày kia, Ngài ra khỏi thành thấy cảnh đói khổ, bịnh
hoạn, chết nghèo của nhân dân mà động lòng trắc ẩn. Thế
nên, năm 29 tuổi, Ngài bỏ ngôi vua xuất gia tìm đạo. Sau 7
năm đi chu du và học đạo với các vị đại Phật. Từ đó, Ngài
hiến trọn đời mình cho đạo pháp, rao giảng những chân lý
Thánh nên ngài đã giác ngộ như Tứ thánh đế và thập Nhị
nhân duyên. Đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết Bàn năm 80 tuổi.
2/- Triết học Phật giáo :
Trước khi có Đạo Phật, Aán Độ đã có Đạo Bà la Môn thờ ba
thần : Brahma, Shiva, Christna với kinh Véda và Upanishad.
Đức Thích Ca đã tiếp nhận ở Aán Giáo những tư tưởng sau :
-Quan niệm vạn vật biến dịch vô thường, vô ngã.
-Quan niệm về nhân quả, nghiệp báo.
-Nhấn mạnh vai trò trí tuệ trong quá trình giác ngộ để
đi đến giải thoát.
Nội dung chính của triết học Phật giáo được trình bày
rõràng trong bàu thuyết pháp đầu tiên của Đức Thích Ca về
Tứ Thánh Đế (hay Tứ diệu đề). Bốn chân lý Thánh là :
KHỔ ĐẾ :
Khi chuyển pháp luân viết : "Này các Tỳ kheo ! Sanh là
khổ, già cũng là khổ, bệnh cũng là khổ, chết cũng là khổ,
gần người mình không ưa là khổ, xa người mình yêu quí là
khổ, cầu mà không được là khổ, chấp chặt ngũ uẩn là khổ là
một chân lý Thánh".
TẬP ĐẾ :
"Dẫn tới luân hồi và tái sinh là lòng ưa thích và thèm
khát, nơi nào có ưa thích đều thèm khát mong cầu, đó là
chân lý Thánh về nguyên nhân sự khổ".
Nguyên nhân các nỗi khổ là do thập nhị nhân duyên:
Nhân (quá khứ)
1/- Vô minh : bị mê hoặc không thấy vô thường …. HOẶC
2/- Hành : Hành động xấu tạo ra nghiệp …. NGHIỆP
3/- Thức : Ý thức phân biệt.
Khồ - Quả (Hiện Tại)
4/- Danh sắc : Do kết hợp với thâm tâm mà có
5/- Lục nhập : sáu cảm quan
6/- Xúc : Tiếp xúc với ngoại cảnh
Nhân (Hiện Tại)
7/- Thụ : Cảm nhận từ ngoại cảnh
8/- Aùi : Tham ái, dục vọng.
9/- Thủ : Thu về làm của riêng
Khồ - Quả (Vị Lai)
10/- Hữu : Hiện hữu, tồn tại
11/- Sinh : Sinh ra
12/- Lão tử : Già cheat
Ta có thể dẫn giải một cách dễn hiểu như vầy : Nguyên nhân
của sự già chết là sanh (jaramarara, jâti). Nhân duyên của
sanh là hữu (bhava), tức cái ý thức về sự có của thân ta.
Nhân duyên của hữu là thủ (upâdâna) tức là tính tham muốn
lấy cho mình. Nhân duyên của thủ là ái (trisnâ) tức là ưa
thích mọi thứ. Nhân duyên của ái là thọ (Vêdâna) tức cảm
giác vui buồn. Nhân duyên của thọ là xúc (sparca), cái
truyền báo cho ta. Nhân duyên của cảm xúc là lục nhập
(sadâyyatana) tức mắt nhập sắc, tai nhập âm thanh, lưỡi
nhập vị, thân nhập xúc và ý nhập pháp.
Nhân duyên của lục nhập là danh sắc (nâmarâpa) tức thân
danh và sắc tướng ở đời. Nhân duyên của danh sắc là thức
(vijnâna) tức ý thức phân biệt. Nhân duyên của thức là
hành (sanskâra) tức cái làm cho ta phải hành động. Nhân
duyên của hành là vô minh (avidyâ) tức không sáng suốt
phân biệt thực giả.
Nếu ta nói thuận từ 1 đến 12 nhân duyên thì : vô minh sinh
hành, hành sanh thức, thức sanh danh sắc, danh sắc sanh
lục nhập, lục nhập sanh xúc, xúc sanh thọ, thọ sanh ái, ái
sanh thủ, thủ sanh hữu, hữu sanh ra sanh vì có sanh mới có
lão tử.
DIỆT ĐẾ :
Phật Thích Ca dạy : "Này các Tỳ kheo ! Xa lìa đoạn trừ
lòng ưa thích, thèm khát nói trên, giải thoát, không còn
chấp thủ, đó là chân lý Thánh diệt đế."
Diệt đế là trừ mọi mê hoặc, khổ ải. Tiếng Phạn gọi là
Nirvâna tức Niết Bàn. Niết Bàn được diễn tả những từ ngữ
như vô diệt, vô sinh, vô khởi, vô ưu, tịch diệt. Phái đại
thừa gọi Niết Bàn là chân như, thật tướng, trí tuệ bát
nhã.
ĐẠO ĐẾ :
Phật Thích Ca dạy : "Này các Tỳ kheo ! Tám con đường đạo
(Bát Chánh Đạo): chính kiến, chính tư duy, chính ngữ,
chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm,
chính định là 8 con đường diệt khổ".
Đạo đế là con đường đưa tới Niết Bàn, giải thoát con người
khỏi vòng luân hồi sinh tử.
Trong Đạo Cao Đài nhắc tới TAM HỌC tức giới, định, huệ.
Giới : bao gồm chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng. Giới
là tích cực làm điều thiện tránh điều ác, gồm
NGŨ GIỚI:
Định : bao gồm chính tinh tiến, chính niệm, chính định.
Định là thiền định, tập trung tư tưởng, từ bỏ mê vọng sai
lầm, loại trừ hoặc nghiệp.
Huệ : bao gồm chính kiến, chính tư duy. Huệ là chân tâm
sáng tỏ để chứng ngộ Tứ Thánh đế.
Theo Anagarika Govinda trong "The psychological attitude
of early Buddhist Philosophy", Rider and company, London
1961 trang 73 thì mối quan hệ Thập Nhị nhân duyên, bát
chánh đạo và Tam học như sau :
-Số Á Rập chỉ Thập Nhị nhân duyên
-Số La Mã chỉ Bát Chánh Đạo.
(hình ?)
Tóm lại, "Cả triết học Phật giáo gom lại chỉ quanh quẩn
thuyết Thập Nhị nhân duyên và Tứ diệu đế" (1) . đạo Phật
là đạo từ bi bác ái, chủ trương con người tự giải thoát
chính mình chớ không trông cậy vào quyền lực siêu nhiên
bên ngoài con người. Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy :
"Muốn hồi hướng về phật, phải theo tự tánh mà hành chớ cầu
ngoại thân. Tâm giác ngộ sáng suốt là Phật". Còn thiền
theo Thần Tú là thừa kế sắc thái thần thông của thiền Ấn
Độ.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) PHAN VĂN HÙM, Triết học Phật Giáo,
Hà Nội, Tân Việt 1942, trang 31.
II/- Triết Học Lão Giáo
Thời Xuân Thu - chiến quốc, triết học Trung Quốc cực kỳ
phong phú và đa dạng, hàng trăm trường phái, về sau còn
sáu trường phái tiêu biểu.
1/- Nho gia vốn là những học giả, những thầy dạy học như
Khổng Tử, Mạnh Tử.
2/- Mặc gia là các hiệp sĩ, thạo nghề cung kiếm như Mặc
Tử.
3/- Đạo gia là các đạo sĩ, ẩn sĩ như Lão Tử, Trang Tử.
4/- Danh gia là những biện sĩ, du thuyết như Huệ Thư,
Công Tôn Long.
5/- Aâm dương gia là những phương sĩ, chiêm tinh, bói
toán.
6/- Pháp gia là các nhà chính trị, pháp luật như Tuân
Tử, Hàm Phi Tử.
Trung Quốc đất đai rộng lớn, có nhiều dân tộc chung sống.
Văn minh của dân tộc phương Bắc là văn minh ngũ hành. Miền
Nam gồm các dân tộc Bách Việt. Trong đó, dân Việt thường
có nền văn hóa cao đã tổ chức thành Nhà nước, có trống
đồng, thờ Thần Nông, giỏi âm dương bát quái. Dân phương
Bắc đã chinh phục dân tộc phương Nam rồi tổng hợp các nền
văn hóa ngũ hành, âm dương bát quái thành văn hóa chung
của Trung Quốc.
"Lão Tử chính là ông tổ triết học của dòng họ Bách Việt mà
ngành trưởng của dòng họ này là Hùng Vương đóng đô ở Phong
Châu hùng cứ tại Việt Nam (2).
1/- Lão Tử Tây Du : Tiểu sử Đức Lão Tử như Đạo vô
vi mờ mịt của Ngài. Tổng hợp các sách và Kinh Tiên Giáo,
ta có thể viết tiểu sử Ngài như sau : Đức Lão Tử sinh ở
nước Trần năm 571 trước Tây lịch sống cùng thời với Đức
Khổng Tử lớn hơn Trọng Ni 53 tuổi (1). Ngài rời Lạc Dương
vào năm 500 TTL qua ải Hàm Cốc gặp Doản Hỉ xin truyền đạo.
Nhân đó, Ngài ở lại viết xong bộ Đạo Đức Kinh (gồm 2
thiên, 81 chương) là một kỳ thư. Sau đó, Ngài sang hướng
Tây "Lưu sa Tây độ" mà "quảng huyền Đạo Đức".
Năm 666 vua Đường Cao Tông tôn Ngài là Thái Thượng Huyền
Nguyên Hoàng Đế. Năm 743, vua Đường Huyền Tông tôn Ngài là
Thái Thượng Lão Quân. Các tôn hiệu này phù hợp với câu
kinh "Khai thiên địa nhơn vật chi tiên". Ngài có trước khi
trời đất hình thành do khí hồng mông hóa sinh : "Tiên
thiên khí hóa, Thái Thượng Đạo Quân".
Ngày "Nhứt thân ứt vạn, diệu huyền thần biến" giáng sanh
nhiều lần với nhiều danh hiệu khác nhau như Thái Thượng
Đạo Tổ, Lão Quân, Lão Tử … Hội Thánh chọn ngày 15 tháng 2
"nhị ngoại nhập ngũ" tức ngày giáng sanh gần nhứt làm lễ
vía Ngài.
2/- Quan niệm về Đạo của Lão Tử :
Đạo giữ nhiệm vụ trọng tâm trong triết học Lão Tử. Đạo là
nguyên lý vô danh tối thượng, sanh ra vạn vật. "Vạn vật
trong trời đất sinh ra từ cái hữu, cái hữu từ cái vô danh
mà ra" (2)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) HOLMES WELCH, Taoism, the Parting of
the way, New York 1967
(2) Lão Tử, Đạo Đức Kinh, chương 40
(2) NGUYỄN HỮU LƯƠNG, Kinh dịch với vũ trụ quan Đông
phương, bài tựa
Đạo của Ngài là cái gì chưa tên gọi : "Đạo khả đạo
phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh" (Đạo có
thể gọi tên không phải Đạo thường, tên có thể gọi ra
không phải là tên thường) (3)
Chữ "thưỡng" trong triết học Lão Tử có nhiều ý.
-"Trở về cái mạng gọi là thường, biết cái thường gọi là
minh, không biết cái thường làm bậy gọi là hung" (4)
-Sự thể hiện của Đạo là Đức, "Thánh nhân thường khéo cứu
người".
Đức là sức mạnh, là sự thể hiện của Đạo. Đạo là
nguyên lý phát sinh phát triển vạn vật. Đức là biểu hiện
của đạo nơi sự vật. Mọi vật đều tôn đạo quí đức (ĐĐK,
chương 51). Vậy, Đạo là cái nhờ đó mà mọi vật được sinh
và Đức là cái mọi vật được định hình và đặt tên để trở
thành nó mà phân biệt với cái khác. <> Sống hợp với tự
nhiên là sống hợp với Đức với Đạo thường của Lão giáo.
"hòa cùng đạo trời đất, hòa thì thường hữu, thường hữu
thì sáng" (5).
Đao bao gồm cái có lẫn cái không, động và tĩnh, âm và
dương. Đạo không có cái gì cụ thể nhưng nhờ đạo mà có
tất cả. "Trời được cái MỘT mà trong, đất được cái MỘT mà
an, thân được cái MỘT mà linh, suốt được cái một mà đầy,
vạn vật được cái MỘT mà hồi sinh" (1)
Đạo mông lung "Mắt không thấy được, tại không nghe
được, tay không nắm được, đón nó thì không thấy đầu,
theo nó thì không thấy đuôi" (2). Lão Tử cho rằng : "Đạo
trống rỗng đổ mãi không đầy, Đạo như vực thẳm, dường như
tổ tiên của muôn vật" (3)
******************
(3)ĐĐK, ch 1
(4) ĐĐK, ch 16 (5) ĐĐK, ch 55
(1)LÃO TỬ, Đạo Đức Kinh, chương 39
(2) ĐĐK, ch. 14 (3) ĐĐK, ch. 4
(4) ĐĐK, ch. 77
Ngài lại nói : "Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh
tam, tam sinh vạn vật" (ĐĐK, ch 42). Nhất là cái
một, cái gom mọi cái làm một, chưa gọi tên. Từ cái một
sinh cái hai đã phân chia thì có tên gọi tức trời
đất, âm dương. Từ cái hai sinh cái ba là Thiên Địa
Nhân. Từ cái ba sinh ra vạn vật vì Thiên Địa Nhân sẽ hóa
thành mọi vật từ thiên nhiên đến con người.
Trong quá trình phát sinh phát triển, đạo theo qui luật
"Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp
tự nhiên" (ĐĐK, ch. 25). Không vật nào mà không bị đạo chi
phối" "Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mắt mà không lột
một mảy lông" (ĐĐK, ch. 73). Đạo tùng theo các qui
luật :
-Luật điều hòa thống nhất : theo lão Tử muôn vật đấu
tranh để hòa hợp, bổ sung chớ không phải để tiêu diệt
lẫn nhau. "Vạn vật cõng âm, bồng dương, khí xung nhau
nhưng hòa nhau" (ĐĐK, ch. 42).<> -Luật cùng tắc biến :
nhờ biến mà thông. Lão tử dạy: "Gió mát không suốt sáng,
mưa lớn không suốt ngày" (ĐĐK, ch.25) và "khuyết thì
tròn, cong sẽ ngay, trũng lại đầy, cũ sẽ mới" (ĐĐK, ch.
22)
-Luật phản phục : "Quay trở về là cái động của Đạo" (ch.
40) "Đạt chỗ cùng cực lui không, giữ lòng thanh tịnh,
vạn vật đều do đó mà ra. Ta lại thấy tất cả quay về, vạn
vật trùng trùng, vật nào cũng quay về cội rễ của nó. Trở
về cội rễ gọi là tịnh, gọi là phục mạng. Phục mạng gọi
là đạo thường"
-Luật quân bình : cái dụng của đạo đức là giữ cho sự
sinh hóa của vạn vật được quân bình không thái quá hay
bất cập. Lão Tử nói : "Đạo Trời có khác gì cây cung
giương lên, cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên, đủ thì
bớt, thiếu thì bù. Đạo Trời là bớt chỗ dư bù chỗ thiếu"
(4). Lão Tử đã nhìn toàn bộ xã hội con người trong mối
quan hệ biến chuyển không ngừng từ hiện hữu sang hư vô.
3/- Luyện Đạo trường sanh :
Đức Lão Tử dạy : "Thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc" vì "theo đạo
thì càng ngày càng bớt, bớt rồi lại bớt nữa đến không còn
gì cả" (Vi Đạo nhật tổn, tổn nhi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi).
Bớt cái gì ? Bớt cái trục lợi, bớt chạy theo danh vọng
tiền bạc, chỗ mà Đức Lão Tử bảo "thiểu tư, quả dục" và
Krishnamurti - Hội Thông Thiên học nói "Soyez Rien!" để
đạt đạo trường sanh.
Giáo lý Cao Đài dạy : "Đạo Hư Vô, Sư Hư Vô" phải có cái
tâm "vô chấp". Theo Đức Lục Tổ ngồi thiền chỉ là phương
tiện chớ không phải là cứu cánh, muốn giải thoát thì chỉ
"Kiến tánh thành Phật". René Foúeré cho rằng những kẻ tu
thần thông mong người đổi xem như bậc dị nhân, phi thường
là giả trá. Bà Bát Nương dạy : "Phải tìm cho được cái tịnh
trong cái động"
Người tu thiền phải biết lấy dương âm (Càn Khôn) làm nồi
lò, lấy Tam Bửu (tinh, khí, thần) làm thuốc để luyện nấu
linh đơn. Tâm là lửa, Can là củi, tỳ là lò đất, phế là ấm
nhôm, thận là nước; lấy cái đại đức đại hạnh trong chính
bản thân ta mà bế ngũ quan, vận chuyển ngũ hành, để tâm hư
không, dưỡng tinh hóa khí, dưỡng khí tồn thần, luyện thần
hườn hư, đạt thành chánh quả.
Vậy lò Bát quái đặt ở đâu ? Không nơi nào xa lạ, ngay
trong thân thể ta, nơi nào Đạo gia gọi là Đơn Điền (dưới
rốn ba thốn). Bát Quái là cơ quan gì trong cơ thể ta?
Theo "trung y chẩn đoán học giảng nghĩa" thì quẻ Càn thuộc
kim, quẻ Khảm thuộc Thận thủy, quẻ Cấn thuộc Mật, quẻ Chấn
thuộc ruột non, quẻ Tốn thuộc Can mộc, quẻ Ly thuộc Tâm
hỏa, quẻ Khôn thuộc Tỳ Thổ, quẻ Đoài thuộc Bàng quang.
Người ta phải ổn định tám cơ quan ấy qui về Đôn Điền mà
luyện Đạo.
Theo phương thuật các đạo sĩ về thần bí có lục thông, giáo
lý Cao Đài chỉ nhận Thiên Nhanõ thông tức thấy được mọi
việc ngoài ngàn dặm và đại thần thông (lậu tận thông) tức
vượt lên mọi phiền não, hoàn toàn không còn bị nghiệp
chướng trói buộc nữa.
Nếu luyện Tam Bửu được thuần dương thì "Hữu tinh thần hựu
dưỡng tinh thần, tinh thần bổn thị Linh đơn dược" là thuốc
trường sanh vậy. Lúc ấy, Đức Lão Tử nói : "không ra khỏi
ngõ mà biết việc thiên hạ. Không trông ra cửa vẫn biết Đạo
Trời" (Bất xuất hộ trí thiên hạ. Bất khuy dũ, trí Thiên
Đạo).
Tóm lại, tịnh luyện trong Đạo Cao Đài là một chiết trung
tổng hợp : thiền định (Phật), luyện đơn (Lão), và chiết
Khảm điền Ly (Kinh Dịch).
III/- Triết Học Khổng Giáo :
1/- Văn Tuyên Vương :
Khổng Tử (551-479 TTL) tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Người
nước Lỗ, xuất thân từ một gia đình quí tộc đời nhà Châu.
Năm 35 tuổi, Ngài làm quan dưới đời Tề Cảnh Công, năm 52
tuổi, đời Lỗ Định Công giữ chức Tư Không rồi Tư Khấu. Năm
56 tuổi, Ngài lãnh chức Tướng Quốc, sau đó từ chức đi chu
du.
Khổng Tử sống vào cuối thời Xuân Thu. Xã hội thời ấy loạn
lạc, tôi giết vua, con giết cha, đạo đức suy đồi. Thế nên,
Ngài lấy học thuyết chính danh để củng cố quyền lực nhà
Châu và học thuyết Trung dung để lập lại trật tự đạo đức,
sao cho xã hội hòa thuận lẫn nhau. Triết lý Trung dung
phản ánh thực trạng xã hội lúc ấy.
Suốt 14 năm du hành các nước, mong được các vua thi thành
cái đạo của Ngài. Rốt cuộc, Ngài trở về nước Lỗ lúc đã 68
tuổi. Ngài mở trường dạy học, có tới ba ngàn môn sinh,
trong đó có 72 người hiền (Thất thập nhị hiền). Thầy Nhan
Hồi nổi tiếng là bậc hiền triết.
Mùa xuân năm 841 TTL, người nước Lỗ đi săn bắt được một
con kỳ lân què chân trước bên trái. Khổng Tử đến quan sát
rồi bưng mặt khóc, khi trở về nhà, Ngài nói : "Ngô đạo
cùng hỷ" (Đạo ta đến lúc cùng). Sách Xuân Thu chép điều
đó, Ngài ngưng. Thế nên, đời sau còn gọi Kinh Xuân Thu là
Lân Kinh.
Một ngày năm Nhâm Tuất (479 TTL), Ngài đi tiêu diêu dạo
quanh nhà hát và hát : "Núi Thái Sơn đổ sao? Cây lương mộc
bị hủy hoại rồi sao? Người triết nhân suy yếu ư ?" rồi mất
lúc 73 tuổi. Năm 739, Đường Huyền Tông truy phong Đức
Khổng Tử là Văn Tuyên Vương mà trong Đạo xưng tụng là Văn
Tuyên Đế Quân.
Tương truyền, Đức Khổng Phu Tử đã "san thi, dịch Thư, tán
Dịch, định Lễ, bút Xuân Thu", có nghĩa là Ngài đã rút gọn
Kinh Thi, chọn lọc Kinh Thư, giải rộng Kinh Dịch, qui định
kinh Lễ, sáng tác Kinh Xuân Thu.
Đối với Kinh Dịch, Ngài xiển dương những ý tưởng của Văn
Vương và Chu Công mà làm ra Thập Dực (10 cánh)
1/- Thoán thượng truyện: giải nghĩa thoán từ của
Văn Vương ở thượng kinh, khởi đầu bằng hai chữ THOÁN
VIẾT.
2/- Thoán hạ truyện: giải nghĩa thoán từ của Văn
Vương ở hạ kinh, cũng khởi đầu bằng hai chữ THOÁN VIẾT.
3/- Tượng Thượng truyện: ở thượng kinh chia làm
hai: 1/- đại tượng truyện lý giải cái tượng của toàn
quẻ; 2/- tiểu tượng truyện lý giải cái tượng từng hào,
thích rõ nghĩa hào từ của Chu Công.
Vậy mỗi quẻ có một đại tượng truyện và 6 tiểu tượng
truyện. Tất cả đều bắt đầu bằng hai chữ TƯỢNG VIẾT.
4/- Tượng hạ truyện : Ở hạ kinh cũng phân chia
như trên.
5/- Hệ Từ thượng truyện :
6/- Hệ Từ hạ truyện: hai thiên này gom tóm tất cả
tư tưởng cốt yếu của Khổng Tử, bình giảng tổng quát
triết lý của toàn bộ Kinh Dịch và luận bổ nghĩa cho một
số hào.
7/- Văn ngôn truyện : Giải thêm nghĩa cho lời
thoán và hào từ của hai quẻ Càn Khôn.
Văn ngôn viết luôn dưới hai quẻ đó.
8/- Thuyết quái truyện : Giảng rõ ý định của
người xưa khi làm Kinh dịch, chú giải cái hình tượng của
8 quẻ chính.
9/- Tư quái truyện : luận giải thứ tự các quẻ
trong Dịch.
10/- Tạp quái truyện : Xếp 64 quẻ thành 32 đôi mà
ý nghĩa thường trái ngược nhau.
2/- Sự hòa hợp Thiên địa Nhân :
Đức Khổng Tử đề cao Đạo Trời (Thiên Đạo) và Đạo Người
(Nhân Đạo) như trong Thần Học Cao Đài. Đạo Tam Tài : Thiên
Địa Nhân thì người là đức của Trời Đất, giữ vai trò trung
gian. Con người thể hiện thiên lý, thiên mạng nên có Nhân
Đạo. Theo Đức Khổng Tử thì Nhân Đạo phải hợp với Thiên
Đạo. Những từ Thiên Đạo, Thiên Mạng, Thiên Lý có khi chỉ
ngôi vị Thượng Đế, có khi nguyên lý tối cao, chẳng hạn như
:
-Thiên Địa vạn vật : Thiên đây là Trời đối với Địa là
Đất.
-Hoàng Thiên Thượng Đế : chỉ ngôi vị tối cao thống ngự
vạn vật.
-Thiên mạng chi vị tính : nguyên lý tối cao, luận giải
mọi lẽ.
-Thành bại tại thiên : định mạng do trời chi phối, khó
cưỡng lại.
Đức Khổng Tử đã xây dựng hệ thống lý luận hoàn chỉnh, hòa
hợp trên dưới, trước sau rất cân đối theo sơ đồ dưới đây :
Sẽ bổ túc sơ đồ sau
Thiên Đạo :
Nhân Đạo
Tâm truyền :
· Suất tính chi vị Đạo
· Con người là Đức của Trời
· Cách vật vị trí
· Hành Đạo, đạt Đạo
Công truyền :
· Chính danh, trung dung
· Tam cang, ngũ thường
· Minh minh đức, Tân dân, Chí thiện
·Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
Nhờ Thiên Đạo biến hóa ra muôn vật, con người. Thiên mạng
giao phó nơi con người gọi là tính. Sống theo tính tự
nhiên trời phú gọi là Đạo. Hành đạo theo thói quen của bản
tính gọi là đức. Nếu Thiên Đạo có Thiên mạng thì đạo người
có tính mạng. Đó là đặc điểm nhân bản trong triết học
Khổng giáo, vừa đề cao Trời Đất vừa đề cao con người mà
Đạo Cao Đài thừa kế áp dụng triệt để trong Kinh Điển.
Nhân đạo gồm hai mặt tâm truyền (hình nhi thượng siêu
hình) và công truyền (hình nhi hạ đời thường). Về tâm
truyền, nhận thức các lý lẽ cao siêu của vạn vật để hiểu
rõ bản thể thiên nhiên của Trời Đất là trung dung, trung
hòa mà hành đạo, đắc đạo.
Về công truyền đạo đức nhân sanh : con người sống thì phải
chung đụng với mọi người trong xã hội, muốn hòa thuận phải
giữ tam cang, ngũ thường. Nếu không hài hòa với nhau được,
con người cần phải được giáo dục về nhân trí, tu thân.
Trong tam đức : trí, nhân, dũng thì trí phải đứng hàng
đầu. "Đạo thường trong thiên hạ có năm mối (ngũ luân) thi
hành năm mối ấy thì phải có tba đức. Vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bạn bè, đó là năm đạo thường trong thiên
hạ. Còn ba đức lớn trong thiên hạ là : trí, nhân, dũng."
(1)
Theo Khổng Tử cái tự nhiên Trời cho gọi là tính, thực hện
tính đó gọi là Đạo. Nhưng đường Đạo phức tạp vì nhiều khi
con người hành động sai với ý mình muốn. Do đó, Đạo phải
mở lớp Hạnh Đường để điều chỉnh những sai lầm, giúp cho
con người thấy được bản tính thiên phú của mình "suất tính
chi vị đạo, tu đạo chu vị giáo" (2)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) TRUNG DUNG, chương 20;
(2) TD, ch.1
Trong Tân Luật của Đạo Cao Đài chỉ nhấn mạnh giữ gìn
tam cang, ngũ thường mà không nói đến ngũ luân. Thật ra,
tam cang rút ra từ ba mối quan hệ đầu của ngũ luân.
Chính Đức Khổng Tử thường chỉ nhấn mạnh đến quan hệ vua
tôi, cha con, chồng vợ hơn hai quan hệ anh em và bạn bè.
Trong quan hệ quân thần thì "Vua lấy lễ mà sai khiến
tôi (thần) tôi lấy trung mà thờ vua (quân)" (1). Trong
quan hệ phu phụ thì trên thuận dưới hòa.
Năm đạo thường (ngũ thường) của mỗi người trong xã
hội là : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nếu giữ được năm con
đường ấy thì gia đình an vui, xã hội trật tự.
Nhân là lòng thương người, giúp tha nhân thực hiện
nhân tính.
Nghĩa là lòng biết ơn con người, lấy đức báo đức, lấy
lòng ngay thẳng ơn nghĩa thay oán thù, lợi lộc. "Vị lợi
chỉ gây oán thù, chính vị nghĩa làm ra lợi" (2).
Lễ là tương kính tôn trọng lẫn nhau. Lễ hiểu rộng là
quan hôn tang tế. Khổng Tử dạy Nhan Uyên : "Điều gì
không phải lễ đừng nhìn, không phải lễ đừng nghe, không
phải lễ đừng nói, không phải lễ đừng làm".
Trí là sự sáng suốt nhận biết mọi vấn đề, hiểu rõ Nhân
Đạo, Thiên Đạo
Tín là trung tính, trung thành, ai cũng phải giữ chữ
tín.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) Luận ngữ, Bát Dật, III
(2) Đại Học, chương X; (3)Đại Học, ch.3
Tóm lại, "Người xưa muốn làm sáng cái đức sáng của mình
trong thiên hạ, trước hết phải lo trị nước mình, muốn trị
nước phải lo việc nhà cho chỉnh tề, muốn tề gia trước hết
phải lo tu thân. Muốn tu thân trước hết phải giữ lòng ngay
thẳng, muốn chính tâm phải thành ý, phải có tri thức thấu
đáo, trí thấu đáo thì mới thành, ý thành thì tâm mới
chính, tâm chính thì mới tu thân được. Tu thân rồi tề gia,
tề gia rồi trị nước, trị nưới rồi mới bình thiên hạ. Từ
Thiên tử tới thứ dân ai ai cũng phải lấy việc tu thân làm
gốc" (3)
Xem thế, Thiên Đạo hòa hợp với Nhân Đạo trãi qua quá trình
tám bước (bát điều mục) : cách vật, trí tri, thành ý,
chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Như
thế chưa đủ, giáo sĩ muốn hoàn thành thiên chức của mình
còn phải tôi luyện trí, nhân, dũng.
Trí là sự sáng suốt nhận biết mọi vấn đề
hiểu rõ Nhân Đạo, Thiên Đạo. "Muốn nhân mà không muốn học
thì bị cái ngu che mờ, muốn trí mà không muốn học thì bị
cái sai trái che mờ, muốn trực mà không muốn học thì bị
cái ương ngạnh che mờ, muốn dũng mà không muốn học thì bị
cái loạn che mờ, muốn cương mà không muốn học thì bị cái
bạo tàn che mờ". (Luận ngữ, Dương Hóa, 17).
Thế nên, thiếu học kém trí khó mà tu thân, hiếu thảo, hòa
đồng.
Nhân là lòng thương người, sửa mình theo lễ
giáo, hạn chế dục vọng ích kỷ, hành động theo đạo đức.
"Điều gì mình không muốn thì cũng đừng làm cho người
khác". (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân - Luật Ngữ, Nhan
Uyên).
Dũng là ý chí biết xấu hổ cái sai, cái xấu
của mình, dám từ bỏ và cương quyết làm điều thiện. "Kẻ ham
học gần với đức trí, ham làm gần với đức nhân, biết hổ
người gần với đức dũng. Ai biết ba điều ấy tức biết phép
tu thân. Biết phép tu thân tức biết phép trị nhân, biết
phép trị nhân tức biết phép trị quốc gia, thiên hạ" (Trung
dung, chương 20).
Tóm lại, triết học Khổng Giáo ra đời vào thời Xuân Thu
nhưng nó vượt khỏi không thời gian tồn tại giá trị đến
ngày nay. Triết học ấy giúp cho Đạo Cao Đài làm nền tảng
sống vững trong lòng người và giúp các nước Châu Á thành
những con rồng kinh tế.
IV/- Chọn Lọc Tinh Hoa Tam Giáo
Xuyên qua những điều vừa trình bày, về phương diện triết
lý, Đạo Cao Đài nhìn nhận những nguyên tắc cơ bản của Tam
giáo sau đây :
1/- Phật giáo : Luật nhân quả : nghiệp báo, luân
hồi. Tam học : giới định huệ trong đó có bát chánh đạo,
ngũ giới cấm. Tam qui, từ bi bác ái, minh tâm kiến tánh.
2/- Lão giáo : Thuyết Tam bửu, ngũ hành, luyện
chơn thoát tục siêu phàm, tu tâm luyện tánh, quan niệm
về Đạo.
3/- Khổng giáo : Thuyết Trung Dung, thuyết biến
dịch, Tam cang ngũ thường. Tam đức : trí, nhân, dũng. Tu
thân, tề gia … Sự thờ kính tổ tiên. Tồn tâm dưỡng tánh.
Tổng tắt, triết học Cao Đài tổng hợp để giải quyết những
vấn đề cụ thể vào cuộc đời chứ không phải là những khái
niệm trừu tượng hay những giáo lý viễn vông. Thực chất,
Giáo lý Cao Đài không thiên duy tâm mà cũng không thiên
duy vật, vì tâm và vật không thể tách rời nhau. Tâm vật
bình hành mà tương trợ lẫn nhau. Nói một cách khác Thiên
Đạo và Thế Đạo không là hai Đạo, Thiên Đạo là chuyển đưa
người đời từ nơi phàm tu trở nên chí thiện, chí Thánh. Đạt
hàng Thánh trở lại giúp đời (Thế Đạo) đến cảnh Đại Đồng
huynh đệ, tạo dựng thiên đàng tại thế.
Tóm lại, Đạo Cao Đài có mục đích qui Tam giáo "mà nhiều
người tin tưởng trong tương lai, những luồng tư tưởng này
có thể dung hòa thành ý thức hệ kiêm đủ chân thiện mỹ, khả
dĩ đem lại cho phương Đông và toàn thể nhân loại một cuộc
sống tinh thần cũng như vật chất đầy đủ, tốt đẹp, luôn
luôn khai phóng và hướng thượng" (1).
Triết gia Pháp Charles Renouvier cũng đã kêu gọi đồng bào
ông hãy quay về tôn thờ triết học phương Đông … mà Việt
Nam là nơi tập trung. "Luồng tư tưởng lớn Aán độ nằm
trong Bà La môn giáo và Phật giáo; luồng tư tưởng lớn
Trung Hoa nằm trong Khổng Giáo và Lão giáo. Điểm đặc
biệt nhất là cả hai luồng tư tưởng lớn này đều hướng về
Việt Nam, tập trung nơi đây, thăng hoa và phát triển
đến cao độ, khiến nước này có cái thế vươn mình xa rộng
khắp Đông Nam Á" (2).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(2) NGUYỄN HỮU LƯƠNG, sđd, bài tựa
(3) TRẦN VĂN RẠNG, Đại Đạo sử cương (quyển II), trang 23
Đức Cao Đài phán truyền lập một Thế Giới Đại Đồng,
không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, chánh kiến, sang
hèn … vượt trên khả năng hoằng khai vạn loại của họ. Đại
hội Thần linh học thế giới đã phát biểu :
"Tuy không có người Đạo Cao Đài nào tham dự hội nghị
để thấy rằng chỉ có Đạo Cao Đài mới khả dĩ thực hiện
được việc tổng hợp tôn giáo mà Đại Hội Thần linh học năm
1952 theo đuổi, nhưng bất cứ tín hữu Cao Đài nào cũng
biết rằng Đạo Cao Đài chung góp phần quan trọng vào việc
thực hiện mục đích cao thượng đó" (3)
Thật vậy, dù khách bàng quan có đạo hay chưa đạo đều tìm
thấy trong Đạo Cao Đài một chỗ đứng thích nghi cho mình để
quan sát kiêm nghiệm chân lý vũ trụ vô cùng (mà giáo lý
Cao Đài gọi là Nhơn Đạo). Bởi lẽ, Đạo Cao Đài là cánh cửa
luôn mở rộng tầm nhìn cho mọi người đi vào vũ trụ và thế
giới loài người mà không phân biệt chủng tộc, cao thấp,
sang hèn. Vì Giáo lý Cao Đài dung hòa thuyết Đông Tây kim
cổ và khai thông mọi đường lối xây dựng trong mọi xu hướng
gom về một chân lý độc nhất là hòa bình nhân loại.
Tóm lại, háo sinh là đức lớn, nên Đức Chí Tôn dạy sự
THƯƠNG YÊU. Đạo đức của người là Nhân Nghĩa. Đạo lý của
vạn vật là Âm dương, tứ đức của Càn Khôn là : Nguyên,
Hanh, Lợi, Trinh, Ngũ thường của người : Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín. Thế nên, con người chủ Nhân đạo không thể làm
trái những điều đó. Trái thì "vật cực tắc biến" để tái lập
trật tự mới mà thiên lý lưu hành.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) NGUYỄN HỮU LƯƠNG, sđd, trang 27
LỄ NHẠC VÀ HIẾN TAM BỬU
Lễ bái là hình thức bên ngoài để tỏ sự kính trong lòng.
Đạo Cao Đài đã phát sinh trong lòng xã hội Việt Nam nên lễ
tiết phản ánh xã hội này. Ngoài việc thờ cúng Đức Chí Tôn,
người Đạo thờ cả Thần, Thánh, Tiên, Phật và phụng tự tổ
tiên.
Thờ cha mẹ và ông bà không phải tục lệ mê tín dị đoan mà
là cách tỏ lòng nhớ cây có cội, nước có nguồn, nhớ ân sâu
nghĩa nặng của người sinh ra mình. Sự thờ kính cũng là
cách bảo vệ thuần phong mỹ tục, vun bồi luận lý. Việc
phụng tự phải làm tận đáy lòng mình nghĩa là phải chí
thành chí kỉnh. Đức Khổng Tử dạy : "Tế lễ tổ tiên phải
kỉnh như có tổ tiên ở đó, tế như tại, tế thần như Thần
tại, tế Thần như Thần ở đó".
Người Việt Nam làm lễ là phải lạy, phải chấp tay. Bàn tay
phải là Nguyệt (âm), bàn tay trái là Nhựt (dương). Aâm
dương tương hiệp mà sanh sanh hóa hóa. Chấp tay ấn týlà
dùng ngón tay cái trái ấn vào ngón VÔ DANH chỗ cung Tý
(Thiên khai y Tý) rồi nắm trọn lại. Ngón tay cái phải ấn
vào ngón trỏ cung dần (nhân sanh ư Dần).
Trong năm ngón tay, ngón vô danh (áp út) biểu tượng cảnh
trời đất lúc chưa khai : "Vô danh thiên địa chi thử". Đến
hội Tý mới lập cõi trời : "Thiên sanh ư Tý" mà cung Tý lại
ở ngón tay vô danh, chỗ bắt đầu. Sau khi tạo thiên lập
địa, vạn vật mới hóa sanh đồng thọ khí nơi mẫu : "Hữu danh
vạn vật chi mẫu" mà Mẫu chỉ là ngón tay cái. Theo bí pháp,
ngón trỏ, ngón út là 2 ngón xuất điển quang; ngón
giữa và ngón vô danh là 2 ngón tiếp điển quang. Thế
nên, bắt ấn tâm tiếp điển thì co hai ngón giữa lại
và chỉ thẳng hai ngón trỏ và út ra để chống tà điển mà
luyện đạo. Còn ấn tý chỉ dùng để hộ thân mà không
xuất điển nên 2 ngón trỏ và út không đưa ra. Khi cúi lạy,
2 bàn tay úp xuống, hai ngón cái gát lên nhau sanh Tứ
Tượng, tám ngón tay còn lại chỉ Bát Quát mà biến
hóa Càn Khôn. Phần lễ và nhạc phải đi đôi để nhặt giữ trật
tự đàn cúng và điều hòa trời đất.
Nhờ sức mạnh tinh thần lễ nhạc thêm vào kinh kệ đủ cảm hóa
lòng người tu thân, và "chúng ta đã nghe thấy ở tiếng đàn
lời của đấng thiêng liêng" (Lời của danh nhân Hồi giáo
Maulana Rumi). Thế nên, cơ bút không còn cần thiết nữa.
Tiếng trống, tiếng chuông, tiếng đàn, tiếng kèn hòa lẫn
với lời cầu kinh thể hiện sự nhường nhịn lẫn nhau, dung
hòa lẫn nhau dẹp hẳn tiếng bấc tiếng chì trong cuộc sống
chật vật hằng ngày. Vì thế, ngoài việc tế lễ nhạc còn là
phương cách mầu nhiệm giúp cho lớn nhỏ, sang hèn hòa và
kính lẫn nhau giúp cho xã hội quân bình an lạc.
Lễ có mục đích : 1/-Hàm dưỡng tính tạo ra thiện cảm
tốt giữa người và người. 2/- Lập thế quân bình cho hợp đạo
Trung dung. 3/- Định ngôi thứ và trật tự trong xã hội. 4/-
Kềm thúc và tiết chế tình dục, không cho phóng túng và hỗn
loạn. Như vậy, lễ dạy người biết kỉnh Trời Đất, Thánh
tiên, biết tiết độ và đối đãi vừa chừng trong nhân quần.
Nhạc có mục đích : 1/- Cảm hóa lòng người theo điều
thiện. 2/- Hiểu được lòng u ẩn của người đàn. 3/- Diễn tả
tinh thần của mộc sắc dân, một nước.
Thế nên, lễ phải kỉnh mà nhạc phải hòa. Việc giao tiếp ở
đời cũng phải vậy. Chủ cung kính thì khách mới hòa vui.
Vậy lễ nhạc để điều hòa và giúp cho con người có lễ nghĩa
và văn hóa vậy việc tế lễ Đức Chí Tôn của Đạo Cao Đài hết
sức tiến bộ. Xét quá trình các Tôn giáo từ xưa tới nay, ta
thấy rằng: Từ thời thượng cổ, quan niệm về Thượng Đế còn
mơ hồ. Con người thờ tô tem gần như rộng khắp mặt đất.
Trong cựu ước, người hiến lễ lên Thần linh bằng đồng nam
đồng nữ làm vật hy sinh. Đạo giáo chỉ độc tôn, Thánh Moise
là Đấng hằng hữu và phải tàn sát tất cả sắc dân nào có tín
ngưỡng riêng.
Qua thời trung cổ, người ta quan niệm Thượng Đế có quyền
tác họa, ban phước. Kẻ nào làm lành được lên Thiên đàng
hay Cực lạc, còn đứa dữ thì bị đày vào hỏa ngục hay Địa
ngục. Tôn giáo nào cũng cho mình là đúng, là phải. Do đó
mới gây ra chiến tranh Tôn giáo như ở Aán Hồi, hoặc kỳ thị
Tôn giáo ở Âu Châu.
Về tế lễ Trời Đất, thay đổi những con vật lớn bằng những
con vật nhỏ gọi là Tam sanh mà không còn dùng con người
làm vật hy sinh như trước nữa. Thời kỳ hiện đại, ngoài
những Kinh Thánh sấm truyền báo trước Đạo Cao Đài xuất
hiện ở Âu Châu. có Hội Thông Thiên học, Hội Baha'I tuyên
truyền thuyết tôn giáo Đại Đồng (La religion universelle)
và báo tin cho toàn nhơn loại sẽ có một nền tôn giáo chủ
trương Đại Đồng Thế Giới ra đời. Đến năm 1926, Thượng đế
đã giáng trần lập Đạo Cao Đài có Giáo hội, Giáo pháp, kinh
lễ chuẩn định.
Đạo Cao Đài cũng quan niệm rằng : việc hiến lễ lên Đức Chí
Tôn không có chi bằng sanh mạng của mình. Nhưng thay vì
dùng đồng nam đồng nữ hoặc sinh vật để cầu phước, cầu danh
lợi cho riêng mình, người tín hữu Cao Đài dùng Tam bửu là
3 món quí báu nhứt của con người gồm Tinh Khí Thần thay
bằng Bông Rượu Trà dâng lên Đức Đại Từ Phụ.
-Bông tượng trưng cho hình thể hữu vi (thể xác) tức là
Tinh
-Rượu tượng trưng cho trí não khôn ngoan tức là Khí.
-Trà tượng trưng cho linh hồn, tức là Thần.
Việc hiến lễ của tín hữu Cao Đài không cầu mong phước lộc
cho riêng mình mà chỉ nguyện dâng cả thân này, từ thể xác,
trí não đến linh hồn làm con vật hy sinh để phục sinh, để
phục vụ, thi hành lịnh của Đức Đại Từ Phụ đưa nhơn loại
đến cảnh huynh đệ Đại Đồng.
Hình Quả Càn Khôn đầu tiên tại Từ Lâm Tự 1926.
|