Ðại
- đạo Tam
- Kỳ
phổ - độ
Tòa - Thánh
Tây - Ninh
GIÁO LÝ LƯỢT KHẢO
Tác gỉả
: Tiếp Pháp Trương Văn Tràng
CHƯƠNG
THỨ TÁM
Hạ
Thừa
Dẫn giải.- Tân-luật Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ
định rằng : Hạ-thừa là hạng người giữ đạo, còn
ở Thế, có vợ chồng, làm ăn như thường ; song, phải
giữ trai kỳ, hoặc sáu hoặc mười ngày trong mỗi tháng,
phải giữ Ngũ-giới-cấm, Tứ-đại điều-qui và tuân theo
Thế luật của Đại-Đạo.
Chúng tôi theo thứ tự trên đây mà giảng giải, để làm phương
châm cho sự học tập.
NGŨ-GIỚI-CẤM
Cấm sát
sanh là không được giết hại mạng sống.
Cấm trộm
cướp là không được trộm cắp của người.
Cấm tà
dâm là không được thông gian.
Cấm uống
rượu là không được uống rượu say sưa
Cấm nói
dối là không được nói láo xược, hoặc nói mà chẳng
giữ lời
(xem năm bài giới cấm).
Tứ
Đại Điều Qui
1)- Phải tuân lời dạy dỗ của người trên ; chẳng
hổ chịu cho kẻ thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người
; l lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.
2)- Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình để làm
nên cho người ; giúp người nên Đạo ; đừng cừu riêng
; chớ che lấp người hiền.
3)- Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay
không trả. Đối với người trên, kẻ dưới đừng lờn
dễ ; đối vớ kẻ dưới, người trên chẳng khá khinh
khi ; trên dạy dưới lấy lễ ; dưới gián trên chớ thất
khiêm cung.
4)- Trước mặt sau lưng đều xử một mực, đừng
kính trọng trước mặt mà khinh lờn sau lưng.
SANH
KẾ
Người trong đạo chẳng được làm nghề nghiệp
có sát hại sanh mạng ; chẳng được làm nghề nghiệp
có phạm đến sự tồi phong bại tục ; chẳng được soạn
hay ấn hành những truyện sách ái-tình, hoa nguyệt, chẳng
đặng buôn bán các thứ rượu mạnh và á-phiện, là những
vật độc, làm giảm sức con người.
Chương Thế-luật Đại-Đạo gồm có hai mươi bốn
điều, kể đủ những cự quan, hôn, tang, tế, mà người
bổn đạo phải thù-tạc vãng-lai, để giúp đở nhau khi
hữu sự ; nhứt là câu : Trai phải Tam-cang, Ngũ-thường
;
Gái phải gìn Tam-tùng, Tứ-đức
; đó là căn-bản đạo người ; chúng tôi sẽ giảng rộng
sau đây :
Phận
làm trai
Tam-cang
- Ngũ-thường
Tam-cang.- Tam-cang là ba giềng mối chánh trong đạo
làm người :
Quân-thần
cang tức bổn phận làm vua và làm tôi
Phụ-tử
cang tức bổn phận làm cha và làm con
Phu
thê cang tức bổn phận làm chồng và làm vợ
Quân-thần-cang
Giềng mối Vua-tôi.
Quốc-trưởng là bậc Đế-vương, đứng đầu trong
nước, khôn ngoan hơn thần dân, chúng ta không nghị luận
đến, mà chỉ nên nhắc nhở nhau, những bổn phận làm
quan và làm dân thôi ; bởi vì trong hàng anh em chúng ta,
có người làm quan mà cũng có kẻ làm dân.
Bổn phận làm quan
Quan
là người thay mặt cho Vua, thay quyền cho chánh-phủ, cai-trị
dân. Trị-dân : nghĩa là : dạy dân, giữ dân được an-cư
lạc-nghiệp. Vì vậy nên người làm quan phải thương dân,
như cha mẹ thương con, thế mới hợp với câu Dân chi phụ
mẫu .
Người làm quan, trên giữ dạ
ngay thờ chúa, dưới lấy đức chăn dân lo tròn phận sự
để nêu danh tốt về sau ; chớ chẳng khá bắt chước
những con giặc, tôi-loàn, trên dối Vua, dưới gạt dân
; mà mang điều nhục-tổ hổ-tông.
Làm quan nên lập đức : Thanh-liêm,
Cần-mẫn, Chánh-trực .
Thanh-liêm : thì không tham của
hối-lộ mà hại dân lành. Nên nhớ rằng nhà nước tin-cậy,
giao mạng sống của dân trong tay ta ; nếu ta vì của bất
chánh mà làm việc bất công : chuyện phải làm quấy, việc
quấy làm phải, điều ấy có thể dấu
được lịnh Vua, chớ luật Trời đâu dễ che lấp.
Thế nên làm quan phải giữ đức
thanh liêm.
Cần mẫn : là siêng năng. Thi hành
bổn phận nhà quan, ta nên siêng năng : một là ngừa kẻ
gian-manh trộm cướp, hai là ngăn kẻ ỷ chúng, hiếp cô,
để cho lương dân được sống yên dưới bầu Trời an-tịnh.
Chánh-trực : là một đức lớn
của nhà quan. Kẻ bất chánh,thì không hay làm được việc
công-bình ; mà bất công thì làm sao trị dân.
BỔN PHẬN LÀM DÂN
Làm dân thì phải lo tròn bổn phận Công-dân. Trên
phải tuân lời quan, dưới thuận cùng đồng loại. Quan
là người thay mặt cho Vua ; tuân lịnh quan tức trung với
Vua. Thuế sưu lo tròn, không nên lập đoàn, hiệp-lũ mà
gây ra trộm cướp, phá xóm, phá làng ; ấy là thương yêu
nòi giống.
PHỤ
TỬ CANG
Giềng mối cha con.
Làm cha phải lành (Từ) ; làm con phải thảo (Hiếu).
Vi nhơn phụ chỉ ư từ. Chữ Từ (Lành) chỉ về
nghĩa vụ làm cha mẹ, phải nuôi con cho nên vai, nên vóc,
dạy dỗ con cho nên người hữu dụng.
Người cha mẹ lành cũng có khuyên con, răn con, nghĩa
là cũng có la rầy, đánh mắng, làm thế nào cho con bỏ
cái dở, theo cái hay ; chớ chẳng phải lành là chiều theo
ý con muốn làm gì thì làm. Tại sao ngườI cha không để
cho con được tự do hành động. Bởi vì con còn thơ ấu,
trẻ lòng, non dạ. Nói tóm là con chưa đủ sáng láng, để
phân biệt phải quấy và chưa đủ tinh thần cứng rắn,
để vượt qua những giờ vật dục cám dỗ.
Ấy vậy nên người cha mẹ phải
dìu dắt con trên đường đạo đức quang minh. Gia đình
giáo-dục là căn bản đạo người.
Đối với con, cha mẹ cũng có quyền, như : nhờ con
nuôi dưỡng lúc về già, nhờ con giúp đở việc nặng-nề.
Cổ-nhơn nói : Dưỡng nhi đãi lão . (Nuôi con để nhờ
lúc về già). Nhưng, cha mẹ muốn dùng quyền ấy, trước
phải làm xong nghĩa vụ mình, tức là nuôi con, dạy con,
cho nên người. Trái lại, nếu cha mẹ không làm tròn bổn
phận mình, mà cứ sai con, mắng con, như thế là thất phận
cha mẹ. Vi nhơn từ ư chi hiếu. Thảo là đạo làm con, chẳng
những không ai được từ khước, mà ai cũng phải coi đó
là bổn phận của mình nữa.
Cổ-nhơn nói : Nhơn sanh bá hạnh,
Hiếu vi tiên . Người đời có trăm nết, song Hiếu đứng
đầu.
Tại sao người ta phải hiếu với che mẹ ?
Ôi ! Công sanh thành dưỡng dục kể sao cho hết, nào
là mười tháng cưu mang, ba năm bú móm ẵm bồng, nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Còn cha là phải dày
công dạy-dỗ, cực nhọc, tảo-tần, dầu trăm cay ngàn
đắng, dầu vào cảnh nguy nan, người cha cũng không từ
; miễn là làm ra cơm tiền, để nuôi con thì thôi. Công
cha như núi Thái sơn. Nghĩa mẹ công cha như thế, hỏi
vậy ở đời, có người nào mà chẳng thương mến chăng
? Ắt không. Nhưng, thương mến chưa đủ, nghĩa vụ làm
con bắt buộc người ta phải tròn đạo Hiếu.
Thực hành đạo Hiếu, trướt nhứt là nuôi cha mẹ.
Sự nuôi ấy cốt ở lòng thành kỉnh, giàu nuôi theo giàu,
nghèo nuôi theo nghèo ; ngoài miếng ăn, miếng uống, tấm
áo, manh quần, còn phải hết lòng vui vẻ trong phận sự,
để cho cha mẹ được vui lòng. Một hôm Thầy Tử-Du hỏi
chữ Hiếu ; Đức Khổng-Phu-Tử đáp :Ngày nay người ta
bảo hiếu là biết nuôi cha mẹ ; nhưng, đến như giống
chó ngựa kia cũng có người nuôi. Nếu nuôi cha mẹ mà
không kính, thì lấy gì để phân biệt với sự nuôi cầm
thú . Vậy đủ biết nuôi cha mẹ quí tại lòng thành kính.
Chẳng nên bắt chước câu : Giàu thì đặng thảo ngay,
nghèo thì mất trung Hiếu lời ấy chẳng qua là nói để
che lỗi của mình mà thôi. Trái lại, nên nhớ câu : Nhà
nghèo mới có con thảo, nước loạn mới có trung thần.
Từ xưa, những gương trung hiếu tiết liệt, phần nhiều
xuất hiện trong nhà nghèo khó.
Khi ở chung với cha mẹ, không nên làm buồn lòng
của cha mẹ, nếu mình có việc buồn riêng, cũng chẳng
nên tỏ sắc giận hờn cho cha mẹ thấy. Khi cha mẹ quở
trách thì phải tự xét mình mà chừa lỗi ; chớ chẳng
khá buồn. Cha mẹ già phải coi chừng sức khỏe, nghĩa là nuôi
cha mẹ phải xem đến chỗ chưa nói kia. Tại sao ? Bởi
vì có nhiều khi cha mẹ sợ con lo buồn mà chẳng tỏ ra
những việc người cần.
Cha mẹ lúc sanh tiền chẳng nên đi xa ; nếu cần
đi vắng thì phải cho biết chỗ, để người nhà tìm cho
dễ, khi hữu sự. Cha mẹ đau ốm, kẻ làm con phải tận
tâm chạy thuốc, chạy thầy, chính mình phải lo liệu mọi
phương ; nếu giao cho kẻ khác, biết đâu, người ấy,
vì sơ sót làm thêm bịnh cho cha mẹ mình. Bình nhựt cũng
phải xem chừng : nếu cha mẹ khỏe thì vui mừng, mệt thì
lo lắng. Lòng hiếu thảo ai cũng có, nhưng, có một ít người
xao lảng, vì ham mê sắc dục, hoặc tiền của, rồi sanh
ngỗ nghịch. Vậy ai là người làm con, nên thận trọng
bổn phận của mình.
Nhưng đạo Hiếu không phải nhắm mắt phục tùng
cha mẹ ; mà trái lại, phải xem xét cái gì của cha mẹ
đã làm ; nếu hay thì theo, còn lầm mỗi thì ôn tồn khuyên
can, sửa đổi. Nếu cha mẹ không nghe thì lại kính mà
không trái lễ, nghĩa là lần lần lựa cách nói cho cha
mẹ nghe lẽ phải, để sửa đổi ; có khi cha mẹ giận
mà đánh đập cũng không hờn oán.
Cha mẹ mất thì phải tang chế. Cổ nhơn bảo : Tang
tắc trí kỳ ai . Tân-luật Đại-Đạo định rằng : viêc
tang chế không nên xa xí, không nên quàn linh c u lâu ngày,
không nên dùng đồ Âm-công lòe-loẹt, không nên đãi đằng
rần rộ mà mất sự nghiêm tịnh ai bi.
Đức Khổng-Phu-Tử cho sự thờ cha mẹ rất Hiếu
là : Kính kỳ sở tôn, ái kỳ sở thân, sự tử như sự
sanh, sự vong như sự tồn. Hiếu chi chí dã . Kính những
người cha mẹ đã tôn trọng, yêu những người cha mẹ
đã mến, thờ cha mẹ lúc chết cũng như khi sống, mất
cũng như còn. Ấy là Hiếu rất mực vậy. Theo đó thì
suy ra thì khi cha mẹ chết rồi kẻ làm con cũng tưởng
như khi cha mẹ còn sống, chuyên tâm trì chí làm tròn bổn
phận, thỉ chung như nhứt.
Bổn
phận làm Anh Chị và làm Em
Huynh tắc đễ, Đệ tắc cung
Anh em, chị em, đồng thọ sanh nơi một cha mẹ. Tục
ng nói : Một cục máu xắn làm năm ba . Đồng cốt nhục,
đồng bào thai, và từ lúc nhỏ dại : ở chung một nhà,
ăn chung một mâm, nằm chung một chiếu ; vui có nhau, buồn
có nhau, nhứt nhứt đều chung cùng với nhau. Vậy cái tình
thương yêu khắn-khít ở giữa anh chị và em không tình
nào hơn được.
Muốn giữ cái tình máu mủ ấy mãi mãi, thì người
anh chị phải biết bổn phận mình là thuận yêu, kẻ làm
em phải biết bổn phận mình là cung kính. Khi cha mẹ vắng mặt, người anh chị phải quyền
huynh thế phụ, nghĩa là người anh chị có trách nhiệm
khuyên răn em, sai khiến em ; nhưng, muốn dùng quyền ấy
thì người anh chị phải làm tròn nghĩa vụ của mình,
là thay mặt cho cha mẹ nuôi em, dạy em. Cổ-nhân thường
khuyên nhau rằng trước phải làm nghĩa vụ rồi sau mới
dùng quyền lợi, là lẽ như vậy.
Theo lý thường nhiên, lúc thành nhơn thì mỗi người
đều có gia thất. Mặc dầu xa cách nhau, nhưng anh em, chị
em phải giữ cái tình cốt nhục duy nhất ấy mãi mãi ;
nghĩa là phải thương yêu, giúp đở nhau : việc nhỏ cũng
như việc lớn ; mà muốn giữ tròn cái tình cốt nhục
ấy, phải tránh những tiếng to, tiếng nhỏ ; của vợ
con hay chồng con. Theo thường tình, những em chồng, chị dâu, em rễ, anh vợ, hay chinh
nghiêng lẫn nhau ; vì những việc nhỏ mọn.
Bổn phận ữanh chị, hay em út phải sáng suốt mà
phân định, để tránh cái vạ chia lìa. Anh em, chị em là
di-hài của cha mẹ, bất hòa là phá hoại cái di-hài ấy.
Anh em, chị em như tay chơn, bất hòa là chia lìa thủ túc.Người nào xử được đạo Hiếu-đễ nghiêm trang
trong gia-đình, thì người ấy có tinh thần hòa-kỉnh. Hiếu-thuận
là gốc Đạo xử-thế, ấy vậy nên người trọn thảo
thuận thì có lòng trung-quân, ái-chủng.
Bổn phận con cháu đối với ông bà
Ông bà là đấng sanh thành, dưỡng-dục cha mẹ, lại
là đấng mà cha mẹ thương mến quí trọng. Đạo-hiếu
buộc người làm con phải kính trọng những người mà
cha mẹ thâm giao. Ấy đó là những người bàng-quan mà
còn phải xử trí như thế, huống chi ông bà là ruột thịt
của chúng ta, mà chúng ta lại dễ-dui sao ?
Ấy vậy khi ông bà sanh tiền, chúng ta phải thay mặt
cha mẹ mà chăm nom giúp đở, những việc nào mà chúng
ta có thể làm được. Còn khi ông bà qua đời thì lại
thay mặt cha mẹ mà thờ phượng, cúng-tế.
Luân-lý cổ-truyền của người Việt Nam dạy rằng
: ngày tế-tự, cả gia-tộc hợp về nhà thờ, lo việc
tế-lễ. Hai ngày : Tiên-thường và Chánh-giỗ, những người họ hàng vui vầy : có khi nhắc lại sự
tích Tổ-tiên, có lúc hỏi việc hàn-huyên gia-tộc. Giờ
cúng tế mỗi người đều có lòng thành kỉnh rất mực.
Khi ra vào, lúc lại qua trước bàn thờ, họ cúi đầu tỏ
vẻ sợ sệt, dường như Ông Bà đương ngự trên chỗ
sở-tôn. Giờ tế-lễ ấy, hoàn-cảnh yên lặng, người
Trưởng-tộc hành lễ, rồi đến con cháu cứ theo thứ tự vái lạy trang nghiêm.
Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ giữ nguyên vẹn cái
lễ thờ cúng Ông Bà đó. Vả chăng, đạo-hữu đã sẵn
có đạo-tâm, nay đem lòng đạo-đức ấy mà thờ cúng
Ông Bà thì có lẽ cái phong tục cổ-truyền sẽ được
tăng phần thuần-mỹ nữa.
Bổn phận đối với Cậu Cô Chú Bác
Cậu cô chú bác là anh em ruột thịt với cha mẹ,
kẻ làm con chẳng những phải yêu mến, mà còn quí trọng,
như cha mẹ nữa. Nếu vô phước mồ côi, thì chính cậu
cô, chú bác, là người thay mặt cha mẹ mà nuôi mình. Đó
đủ thấy rằng kẻ làm con phải thương mến quí trọng
cô cậu, chú bác như cha mẹ. Khi thành gia thất rồi, tự-nhiênữai cũng có cậu
cô, chú bác bên chồng, cũng như bên vợ. Kẻ làm con cháu
cũng không vì lẽ gì mà chẳng thân ái những người ấy.
PHU-THÊ-CANG
Giềng
mối chồng vợ
Chồng hòa, vợ thuận.
Trai lớn lên thì có vợ ; Gái lớn lên thì có chồng.
Người ở đời, ai ai cũng phải có đôi bạn, rồi sau
mới lập gia đình. Cái định luật ấy từ xưa đến nay,
vẫn không thay đổi. Trong đạo vợ chồng, có điều tốt
nhứt là hai người ấy được thuận hòa, ăn ở với nhau,
từ tóc xanh, đến đàu bạc. Mà muốn được vậy thì
mỗi người phải biết bổn phận của mình và phải hành-vi
trong phạm-vi ấy.
Chồng là rường cột của gia đình, phải đảm đương
mọi việc bên ngoài, để tạo hạnh-phúc cho gia-đình,
nghĩa là phải làm lụng cho có cơm, có tiền để nuôi
dưỡng gia-đình no-ấm ; kế đó, sẽ nói đến việc lễ-nghi
đạo đức, tức là bày ra việc dạy dỗ. Cổ-nhơn nói
: Giáo-phụ sơ lai, giáo-tử anh hài . Nghĩa là dạy vợ
lúc ban sơ mới về, dạy con lúc còn thơ ấu.
Mà muốn dạy người, trước phải sửa mình. Giả tỉ như người
chồng biếng nhác, không lo làm ăn, quanh năm cứ lêu-lõng
chơi-bời, cờ bạc. Chồng như thế mà bảo vợ nên người,
thì không thể được ; hoặc giả cha như thế mà bảo
con đừng cờ bạc, rượu trà cũng không sao được. Người
chồng chẳng những phải lo làm lụng để tạo hạnh-phúc
cho gia đình, mà còn phải có tinh-thần hòa-ái nữa.
Về tâm lý, nên biết rằng vợ là bạn trăm năm,
cha mẹ sắm cho. Ủàn bà là người yếu đuối, nương
dựa nơi mình, gởi thân cho mình, để cùng nhau lo việc
trăm năm gia thất. Hơn nữa, vợ chồng lại là người
đầu ấp, tay gối với nhau, vui chung vui, buồn chung lo, nghèo chung chịu, giàu
chung hưởng. Lòng có nghĩ như thế thì mới có dạ yêu
đương và đùm bọc.
Người chồng có quyền khuyên lơn, dức bẩn người
vợ, nhưng, trước phải làm xong nghĩa vụ của mình, như
nói trên, rồi sau mới dùng đến quyền. Tuy nói rằng có
quyền, nhưng, người chồng, lúc nào, cũng lấy tinh-thần
hòa-ái làm cốt. Nghĩa là có khuyên lơn, dức bẩn người
vợ thì cũng chỉ trong vòng lễ nghi, kính-mến ; chớ chẳng
khá đang tay đánh đập, như kẻ võ phu.
Người vợ phải có tinh-thần thuận-tùng, nghĩa là
phải biết dung-hòa với chồng, để tạo hạnh phúc gia-đình.
Bát, đia trong sóng còn động, huống chi vợ chồng ăn ở
với nhau cả đời, làm thế nào tránh khỏi một đôi khi
bất đồng ý kiến. Giả tỉ như có trường hợp ấy xảy
ra, thì vợ chồng nên nhịn nhục lẫn nhau, chồng nói vợ
nghe, vợ nói chồng nghe, để phân trần điều hơn lẽ
thiệt. Tương-y, tương-ỷ mà sanh sống trong vòng lễ-nghi
đạo đức ; điều đó là tốt nhứt ; chẳng nên bắt chước
phường hỗn-ẩu, chồng một lời đi, vợ năm bảy tiếng
lại. Thế rồi sanh việc bất-hòa ; mà chồng vợ bất-hòa
thì gia-đình tan nát.
Phận gái trọng nhứt là trinh-tiết ; bởi vậy người
phụ-n có than phải giữ lấy thân ; mỗi ngày phải làm
tăng giá-trị của mình thêm cao lên mãi. Tục ng nói : Đi
ngang đám dưa không nên sửa dép ; đi ngang cây lý không
nên sửa mũ. Đại ý câu nầy khuyên người ta phải hành-vi,
ăn nói, đi đứng trang-hoàng, nhứt là phải tránh những
cử chỉ nào làm người khác ngờ vực, cũng như đi ngang
đám dưa thì không nên sửa dép, hoặc đi ngang cây lý không
nên sửa mũ, vì làm như thế ngờ rằng mình bẻ trộm
dưa, hay hái trộm lý.
Nội trợ là bổn phận đàn bà, cho nên người vợ
phải chăm lo việc nhà : thiếu đủ phải biết, còn hết
phải hay, sắp đặt đâu đó an bày, ăn cần ở kiệm,
phải trọng tiền của chồng làm ra. Tục ng nói : Ăn nhịn
qua ngày, ăn vay mắc nợ . Của chồng công vợ, chồng vợ
cộng tác, để tạo hạnh phúc gia-đình.
Tóm lại, đạo vợ chồng cần nhứt là phải thuận-hòa,
chồng chẳng nên ỷ quyền mà hiếp đáp vợ, vợ không
nên cậy thế mà hỗn-ẩu với chồng. Đồng vợ đồng
chồng tát biển đông cũng cạn !
Tân-luật Đại-Đạo nói : Hôn nhơn là việc trọng
trong đời người. Phải chọn hôn trong người đồng đạo,
trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập-môn thì mới
được kết làm giai-ngẫu . Đó là có ý ngừa sự bất đồng tâm lý về sau.
Tân-luật lại cấm người đàn ông không đặng cưới
hầu thiếp. Rủi có chích lẻ nửa đường, mới được
chắp nối. Thoảng như vợ lớn không con nối hậu thì
được phép cưới hầu thiếp ; song chính mình Chánh-thê
đứng cướI mới đặng. Người đạo cũng chẳng được
để bỏ nhau, trừ ra ngoại tình, hay bất hiếu với công-cô.
Ngũ-thường
Đổ lên là Tam-cang, còn Ngũ-thường là gì?
Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín gọi là ngũ thường, tức
là năm đức thường, để xây dựng một phẩm vị làm
người ; mà chúng tôi giảng kế đây :
NHÂN : Người ta ai cũng có bẩm thọ của Trời một điểm Linh-quang
để làm tự-tánh của mình ; người đời gọi đó là
nguồn Thiên-lý ở trong người. Nhân là cái phát động
của nguồn Thiên-lý ấy ; cho nên Cổ-nhân nói : Nhân là
hột-giống hóa-sanh đức-tánh tốt.
Chữ NHÂN đem ra mà ứng dụng vào đời sống thì
nó gồm tất cả nghĩa vụ làm người ; thành thử, có
câu nói : Nhân là đạo người (Nhân giả nhơn dã). Thực
hành chữ NHÂN tức là áp dụng Thiên-lý vào đời sống
thực-tế. Thế nên muốn làm NHÂN phải giữ lòng cho ngay
thẳng ; nghĩa là chẳng cho tư-dục xen vào Tâm, để cho
nguồn Thiên-lý ở trong Tâm ung-dung phát-triển theo lẽ
tự-nhiên của nó, rồi người ta cứ theo đó mà làm cho
hết bổn phận của mình. Đó là làm NHÂN vậy. Còn như
muốn biết rộng ra nữa thì chúng ta nên xem Cổ-nhơn dạy
phương pháp làm NHÂN như sau :
Có người hỏi phương-thức làm Nhân là thế nào
thì Đức Khổng-Phu-Tử nói : Kỹ dục lập nhi lập nhơn
; kỹ dục đạt nhi đạt nhơn. Năng cận thủ tỷ khả
vị Nhân chi phương . Nghĩa là mình muốn lập thân thế
nào thì cũng giúp người cùng lập thân như mình ; mình
muốn thông đạt đến đâu thì cũng giúp người cùng thông
đạt như mình. Ai hay làm những điều đó là làm Nhân
vậy.
Thầy Tử-Trương hỏi Nhân, Đức Khổng-Phu-Tử nói
: Hãy làm năm điều nầy trong Thiên-hạ là Nhân, rằng
: Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung thì không khinh lờn, Khoan
thì được lòng người, Tín thì được người tin cậy.
Mẫn thì có công, Huệ thì đủ khiến được người .
Cũng có nhiều người khác hỏi cách làm Nhân, Đức
Khổng-Phu-Tử tùy căn cơ kẻ hỏi mà trả lời, để khai
hóa sở học của họ. Đạo Nhân rất rộng rãi, vì nó
gồm tất cả đạo làm người.
Người có Nhân lúc nào cũng có thái độ ung dung
tự-tại, bình-tĩnh yên lặng, mà trong lòng luôn luôn có
một năng lực Trực-giác mẫn-thiệp ; việc đến thì họ
biết ngay, với một cách mau chóng. Họ làm việc gì cũng
thích hợp Đạo-lý. Họ thật-thà chất-phác mà giàu tình-cảm
! Đối với gia-đình thì hiếu-đễ, đối với xã-hội
thì thuận-hòa, đối với từng người, từng vật thì
yêu thương giúp đở. Trên thuận lòng Trời, dưới hòa
với Chúng-nhơn, cử chỉ hành-động hằng khích lệ trên
nền tảng Vạn-vật nhứt-thể việc lợi danh ở đời,
họ không phải lánh hẳn ; nhưng, họ chẳng bỏ đạo-Đức
để cầu lợi-danh. Đạo-đức với lợi-danh, nếu phải
bỏ một thì họ rất vui lòng bỏ danh-lợi, để cầu Đạo-đức.
Đạo Nhân có thứ bậc như : thương cha mẹ thì khác
với thương người láng giềng, thương anh em bậu bạn
thì khác với thương cầm thú. Kịp đến sự giúp đở
cũng vậy ; nghĩa là nuôi cha mẹ thì khác với nuôi trâu
bò.
Đó là chỗ Đạo Nhân không giống với Bác-ái. Bác-ái dạy người
ta phải thương trùm vạn-loại. Người cũng như vật, thân
cũng như sơ. Bác-ái dành cho người xuất-thế, ly-gia ;
còn Đạo Nhân thì thích ứng với người ở Thế, để thi hành Nhơn-đạo từ trong gia-đình đến ngoài
xã-hội.
Thử hỏi tại sao ở đời lại có ngươi nầy hiếp
kẻ nọ ? Thì đó chẳng qua là tại lòng oán-ghét lẫn
nhau. Nếu cha con ghét nhau thì mất từ-hiếu ; vợ chồng
ghét nhau thì mất thuận-hòa ; anh em ghét nhau thì mất yêu
đương ; người trong thiên-hạ ghét nhau thì người mạnh
hiếp kẻ yếu, người giàu lấn kẻ nghèo. Muốn tránh
lòng oán ghét, chúng ta cứ mở long thương yêu (Nhân) cho
rộng, rồi tự-nhiên lòng oán-ghét không có chỗ nương
mà phải đi ra khỏi Tâm-gian của mình, cũng như hòa-bình
làm hết chiến tranh vậy.
NGHĨA.- Nghĩa là cử chỉ tác-Động theo đạo-lý. Đối với bổn
thân : Nghĩa làm cho người thành đức ; còn đối với
người khác và vật thì Nghĩa giúp người và vật được
an vui theo lẽ Đạo. Chữ Nghĩa, nếu theo sau chữ Nhân thì
nó giúp chữ Nhân phát biểu đạo-đức ra ngoài. tỉ như
chúng ta thấy kẻ nghèo thì chạnh lòng thương, đó thuộc
về Nhân. Ra công giúp đở kẻ nghèo, đó thuộc về Nghĩa.
Trường hợp nầy thì hai chữ Nhân Nghĩa phải đi kèm nhau
mới thành đạo-đức. Trái lại, nếu có Nhân mà không
có Nghĩa thì đạo-đức thiếu hình thức ; còn như có
Nghĩa mà không Nhân thì đạo-đức thiếu tinh-thần. Giả
như chúng ta thương kẻ nghèo mà không ra công giúp đở,
thì lòng Nhân không thực hiện, còn như ra công giúp người
nghèo mà không có lòng thương thì sự giúp đở ấy lại
vì một ý gì khác ; chớ không phải là Nhân.
Nhưng phải hiểu rằng lòng dục lợi của người
ta mạnh lắm ; cho nên muốn làm Nghĩa phải ngăn lòng dục
lợi, để cho lòng Nhân phát triển tự nhiên mới được.
Cổ-nhơn thường khuyên nhau : Tiền Nghĩa vị hậu lợi
, tức là phải làm nghĩa rồi sau sẽ cầu lợi là lẽ
như vậy.
LỄ.- Lễ trước dùng để tế tự, sau lan rộng đến nền nếp
xử-sự, tiếp-vật mà nhơn-quần Xã-Hội thừa nhận. Chữ
Lễ lại đồng-thể với chữ Lý ; cho nên nó phải tùy
thời mà biến đổi, càng ngày càng tốt hơn, chớ chẳng
khá cố-chấp mà phải sa vào cái hủ lậu.
Về phương diện tế tự. Lễ có mục phiêu thứ nhứt là làm
cho đàn-tế được tôn nghiêm ; mục phiêu thứ nhì là
đào-tạo cho người tâm-lý kính và thành. Có kính thì
mới giữ được bản tánh của mình ; có thành thì mới
cảm ứng được với Trời. Đó là LỄ giúp người hàm
dưỡng tâm-tánh.
Lòng người lúc nào cũng có tình-cảm ; mà tình cảm
xấu sanh nhiều hơn tình-cảm tốt. Lễ dùng để hạn chế
tình cảm xấu và giúp cho tình-cảm tốt chóng thành. Sách
Lễ-ký chép rằng : Lòng người ta lúc nào cũng có sự
ham ăn uống, trai-gái và sợ cái nạn tử-vong, bần-khổ
; nếu người ta không nghĩ lại thì Thiên-lý ở trong người
(tức Bổn-tánh) sẽ tiêu-diệt hết . Lễ giúp người giữ
vẹn phần Thiên-lý ấy.
Trên đường giao-tế, Lễ phải có Nghi làm hình thức
. Giả tỉ như chúng ta gặp người Trưởng-thượng, thì
chúng ta đem lòng kính, đó thuộc về Lễ. Rồi chúng ta
nghiêng mũ cúi chào, tỏ lòng kính ra ngoài ; đó thuộc
về NGhi. Thế nên nói : Nghi tùy Lễ mà chế. Hai chữ Lễ-Nghi
thiếu một thì không thành qui-tắc. Giả tỉ như : Chúng
ta có kính trong lòng, mà không nghiêng mũ cúi chào, thì
lòng cung kính không chỗ nương, để phát biểu. Trái lại,
trong lòng không kính mà bên ngoài làm ra vẽ cúi chào. Nghi
không Lễ thì chỉ là một hình thức khô-khan mà thôi.
Lễ-Nghi dùng để phân định ngôi thứ : tôn ti, thượng
hạ. Giả tỉ trong đám hội đàm : người lớn cứ sổ-sàng
ăn nói, sổ-sàng hành-động ; kẻ nhỏ thì hỗn-ẩu, không
kính nễ người lớn. Thế thì làm sao mà hiệp nhau được
; cho nên nói rằng : thất Lễ thì loạn.
Học Lễ không phải khó khăn, như có người ta lầm
tưởng. Bởi vì Lễ thuận lòng người mà dấy ; chớ không
phải cư ng-bách. Cổ-nhơn thường khuyên nhau : trước học
Lễ, rồi sau mới học Văn, tức là học Đạo-lý trước
rồi sau sẽ học các khoa khác. Luật dùng để răn người phạm tội.
Lễ để ngăn tình-cảm xấu, thế mà người ta sợ Luật hơn sợ
Lễ ; đó là tại Luật có hậu thuẩn là hình-phạt.
Nói về giữ Lễ thì khi đi đứng, nằm, ngồi, lúc
nào cũng chẳng khá dễ-duôi. Ở thường thì cung, làm việc
thì kỉnh, giao-thiệp thì hết lòng. Ba điều ấy, dầu
ở chung với kẻ mọi rợ, cũng chẳng khá quên. Ra khỏi
cửa thì kính, như hầu khách quí ; sai khiến kẻ dười
thì kính như thừa hành lịnh trên ; nhứt cử, nhứt động,
đều có Lễ, đó là người lịch sự. Hành-vi, lời nói
và tư tưởng, mỗi mỗi đều có trước sau, là ngườI
có tiết. Hành-vi, lời nói và tư-tưởng, mỗi mỗi đều
thích trung, là người có độ. Tiết-độ là mực thước
của người, cũng như nhịp trường-canh của âm-nhạc.
Lễ là khuôn thước định ra tiết-độ ấy.
TRÍ.-
Biết phân biệt điều lành để theo, điều d để tránh
là ngườI Trí. Hoặc giả nói rằng : Người Trí biết
đạo-đức, để hoán-cải điều-ác thành điều-thiện, mỗi ngày càng làm cho mình trở nên người
có giá trị thêm hơn.
Muốn thành người Trí, chúng ta phải học hành. Vậy
học-hành để mở trí ; mở Trí để biết làm người.
Ấy vậy nên sự học, trước nhứt phải chánh-tâm và
thành-thật làm theo Chơn-lý, mà chúng ta đã học được.
Học và Hành phải đi đôi mới gọi là biết. Nói
tỉ : chúng ta biết thờ Trời là một việc rất hữu ích
; nhưng biết thờ Trời chưa đủ, thành thử chúng ta phải
tế-lễ Đức CHÍ-TÔN hằng ngày, để tập cho mình có
long thành kính. Lòng thành kính tức là Chơn-tâm, nó sẽ
giúp cho chúng ta trừ khử Vọng-tâm và cảm thông với
Thiên-lý. Thờ Trời, Tế Trời là một phương pháp làm
sáng đức sáng của mình.
Thầy Tuân-Tử nói : Chẳng nghe không bằng có nghe
; có nghe không bằng trông thấy ; trông thấy không bằng
biết rõ ; biết rõ không bằng làm được. Học để biết,
biết để làm. Thế thì cái đức sáng của mình càng ngày càng sáng suốt thêm lên.
Sự học có nhiều lối : học với kinh nghiệm và
học với trí nghĩ. Ví
dụ : Chúng ta chưa biết lửa có tánh nóng. Nay vì có một
duyên cớ gì, chúng ta chạm nhằm lửa mà phải phỏng tay.
Thế là chúng ta nhờ bài học kinh nghiệm, để biết lửa
có tánh nóng.
Đời người là một cuộc học. Nếu chúng ta rủi
bị phiền não vì một việc gì, thì chúng ta chẳng khá
trách Trời, chẳng khá trách người, chẳng khá trách sự
vật, mà trái lại, phải tự xét mình tìm cho ra cái nguyên
nhân nào làm cho chúng ta phải phiền não. Phải chăng :
tại không biết, tại trễ-nải, tại tức giận. Khi đã
thấy nguyên nhân tạo ra phiền-não rồi, chúng ta nên tìm
phương giải-quyết, để cho cách xử sự lần sau được
khá hơn.
Trí người là một trường hành-động. Khoa-học,
ngày nay, nhờ Trí mà phát minh biết bao nhiêu cơ-khí kỳ
xảo. Chúng ta nên dùng Trí của mình, để tìm biết đời
sống của mình : Đại để như nhìn ra Võ-trụ bao la, biết
bao nhiêu Thế-giái vận chuyển không ngừng, lại nhìn đến
vạn-vật yên lặng, trang nghiêm, rồi nghĩ đến thân phận
người ta ở đời : Sống như vậy rồi chết ra sao ? Và
còn biết bao nhiêu những việc huyền bí trong Võ-trụ mà
chúng ta chưa biết được.
Vậy chúng ta nên chép những vấn đề ấy, để rồi
suy nghĩ, khám phá sự liên lạc của người với Trời,
người với người, người với vật. Một khi chúng ta
khám phá những lẽ bí-mật của Tạo-vật rồi, ắt chúng
ta sẽ giải quyết được đời sống của chúng ta với
một cách xứng đáng. Theo lý đương nhiên, đời sống
chẳng phải tìm nơi sự lý nhỏ mọn trong vòng vật-dục,
mà phải vượt ra ngoài, để rồi sống với Đạo, sống
với Thượng-Đế và sống với Chúng-sanh.
Mục-đích của người Trí là biết Đạo, thế nên
kẻ học phải kiên-tâm, trì chí. Cách học phải mở cho
rộng, hỏi cho kỹ, nghĩ cho cùng, phân biệt cho rõ và hết
sức làm theo để thành toàn cái biết của mình. Mỗi ngày
xét mình ba lần và bền lòng làm mãi cho đến một ngày
kia, chúng ta sẽ có Tâm trọn lành. Trí đã phát khởi, thấu hiểu Chơn-lý của cái thiện-ác
và biết giới hạn của tình-dục rồi. Lúc bây giờ, chúng
ta ung dung cảm thông với Thiên-lý mà sống với một thái
độ thuận-hòa, bình-tĩnh, theo ĐạoTự-nhiên.
TÍN.- Tín là tin. Thủ tín là điều
quí trọng của người ; nhứt là kẽ tu-hành.
Lời nói của mình thốt ra phải trọng nó ; nói ra
rồi phải nhìn nhận, nếu nói không chắc một lần thì,
về sau, mặc dầu chúng ta nói thiệt, người ta cũng không
tin. Nhơn vô Tín bất lập . Người không đặng tín-nhiệm
thì chẳng làm nên được.
Đối với mình lại phải cần thủ tín nhiều hơn
nữa. Chúng tôi xin nhắc lại câu sách Đại học nói rằng
: Sở vị thành kỳ ý giả vô tự khi dã . Nghĩa là : cái
chỗ gọi là sửa ý thành thật cốt-yếu ở chỗ mình
chẳng tự dối. Đại để câu nầy nói rằng nếu người
ta tự dối mình thì mình không làm nên được.
Vị dụ : Chúng ta hứa với mình học cho giỏi . Thế
mà rồi ít lâu lại quên mất, không làm được như lời
hứa ; đó là tại sao ? Tại mình tự dối mình. Mà kẻ
tự dối mình tức là dối Lương-tâm ; mà dối Lương-tâm
là dối Trời. Thử hỏi Trời có nên dối chăng ?
Những kẻ bội ước, bất trung, nói rồi chối, hoặc
điên-đảo xảo-ngôn, là kẻ xúc-phạm đến Thần-minh.
Kẻ ấy thế nào cũng phải chịu tội. Mất lòng tín nhiệm
của người, lại mất lòng tự-tín của mình, kẻ ấy
thành ra một nhân-vật khả-ố. Nó hãm mình vào nơi khốn
nạn. Kẻ học Đạo phải tự mình bó buộc mình : nói
thiệt và thủ tín, vì khoản nầy rất khó dung chế.
Nói tóm lại, Ngũ-thường là năm đức thường để
người ta noi theo mà sửa mình, hầu trở nên người đạo-đức
; trên thuận cùng Đức CHÍ-TÔN, dưới hòa mình với Nhơn-loại.
Ngũ-thường dùng sửa người thành đạo-đức, cũng như
thước quí, dùng để làm ra hình tròn, thước cũ dùng
để làm ra hình vuông. Nếu muốn làm hình tròn và hình
vuông mà chẳng có thước qui, thước cũ, thì làm sao nên
được ; cũng như muốn sửa mình ra đạo-đức mà chẳng
theo Ngũ-thường thì biết đâu mà học tập.
Theo cái thuyết Thiên địa vạn vật nhứt thể thì
giữa chúng ta cùng vạn vật có một giây liên lạc, kết
chặt tình đồng thể. Đạo nhân dạy chúng ta phải thương
yêu và giúp đở các loài ; hầu cho muôn loài chung hưởng
cái hạnh phúc thái bình của Trời dành cho chúng vật.
Phương pháp xử thế thì thiên hình vạn trạng, nghĩa
lý vô cùng, kể không xiết, nhưng rút lại chỉ do Tâm
mà thôi. Mà muốn bảo tồn Tâm chánh, học giả phải giữ
năm đức thường : Nhân là thương xót ; Nghĩa là lẽ phải
; Lễ là hợp lý ; Trí là thông đạt và Tín là trì thủ.
Ấy vậy nên chúng ta làm việc gì dầu lớn, dầu nhỏ,
cũng phải hỏi lại Tâm mình, tức vị Thần-minh, ở trong
người của chúng ta. Như thế, nếu chưa được chí-thiện
như Thiên-lý ; nhưng không đến nỗi sai xa.
Phận gái
Tam-tùng - Tứ-đức
Mặc dầu trai hay gái đều có bổn phận làm người
; đại để như đã nói trong trương trước ; nhưng riêng
về N -phái, Cổ-nhơn đã vạch sẵn một con đường : Tam
tùng, Tứ đức mà kẻ Hậu-tấn nên noi theo.
Có người nói Thế-kỷ 20, văn minh vật chất đã
phổ truyền. Phụ n từ Tây sang Đông, từ thành thị đến
thôn quê, người người đều chen lấn trên đường Canh
tân, nếu đem cái thuyết cũ kỹ Tam tùng, Tứ đức mà
hô hào, thế có phải là đi ngước chiều Tấn-hóa chăng
? Không. Bởi vì Luân-lý cổ truyền của người Việt Nam
vốn ở trong Nho-giáo, mà vì Thánh-sư của Nho-giáo là Đức
Khổng-Phu-Tử có nói rằng : Luân-lý pháp luật phải tùy
thời mà sửa đổi cho thích nghi với trình độ tấn hóa
của Nhơn-sanh. Câu sách Trung-dung sau đây đủ chứng minh
điều ấy rằng : Trọng-Ni tổ thuận Nghiêu-Thuấn, hiến
chương Văn-võ, thượng luật Thiên-thời, hạ tập Thủy-thổ
. Nghĩa là đức Trọng-Ni (Khổng-Phu-Tử) thuật lại Đạo
Vua Nghiêu, Vua Thuấn, bắt chước Vua Văn, Vua Võ ; trên
theo thời Trời mà quyền biến ; dưới tùng Thủy-thổ
mà an vui. Văy chúng ta nên lược lại những qui-luật cổ-truyền,
như cái thuyết Tam tùng, Tứ đức rồi chăm chước sửa
đổi cho vừa lằn tấn hóa ; nghĩa là chúng ta giữ những
cái Hay bỏ những cái Dở để đưa đoàn Em đi đến con
đường Mỹ-tục thuần phong . Nghĩ như thế, nên chúng
tôi yên trí soạn lại như sau.
TAM
TÙNG.- Tam
tùng là gì ?
Tam-tùng chỉ về người Phụ-n có ba chỗ theo là
: Tại gia tùng phụ ; Xuất giá tùng phu ; Phu tử tùng tử
; để làm cho mình trở nên đứa con thảo, người vợ
hiền, bà mẹ tốt.
1.- Tại-gia tùng-phụ.- Nghĩa là khi còn thơ ấu, ở
với cha mẹ thì phải tùng cha mẹ. Bổn-phận làm con đối
với Cha mẹ thì phải thảo. Đạo Hiếu không phân biệt
trai hay gái, đại khái nói trong những trương trước. Riêng
về phận gái chữ Tại gia tùng phụ có ý nghĩa đặc biệt
là : Khi còn thơ-ấu, ở với Cha mẹ, mặc dầu mình có
học thức đến đâu cũng chưa có kinh nghiệm ở đời,
chưa hiểu nhơn tình thế-sự, cho nên những việc quan hệ
đến đời mình thì nhứt thiết phải tuân lời cha mẹ.
Nên biết rằng trong đời, chẳng ai thương chúng ta bằng
cha mẹ ; chẳng ai lo cho chúng ta bằng cha mẹ. Từ xưa đến
nay, chưa có người cha mẹ nào làm hại con. Vậy cha mẹ
chúng ta cũng như muôn vàn người khác, hằng chăm lo cho
con nên người. Chúng ta chẳng vì lẽ chi mà không tuân
lờI Người. Thoảng như cha mẹ có dạy điều chi chẳng
vừa ý,thì mình cũng nhỏ nhẹ xin sửa đổi, chớ không
nên cải cọ mà thành ra ương-ngạnh.
Gần đây mới xuất hiện phong trào Tự do kết hôn.
Vấn đề nầy có thể chắp thuận về nguyên tắc. Bởi
vì vợ chồng là bạn trăm năm. Đôi bên cần phải tâm
đầu ý hiệp, thì mới tạo nên hạnh phúc gia đình. Trái
lại, nghĩa là kẻ trâu trắng, người trâu đen, thì cả
hai đều phải chịu khổ trọn đời. Ấy vậy nên trước
khi cưới nhau, người Trai và người Gái cần biết qua
tâm lý của đôi bên.
Chúng tôi nói : Chấp thuận về nguyên tắc . Nghĩa
là phận gái được quyền chọn lựa người bạn trăm
năm của mình ; nhưng trước khi quyết định, phải chờ
lịnh cha mẹ. Biết đâu : chúng ta vì trẻ lòng non dạ
mà không phân biệt trắng đen ; biết đâu chúng ta mãi
tìm hạnh phúc mà lại sa vào cạm bẫy tai hại. Việc tạo
lập gia thất là việc lớn của người Đàn bà. Nói tỉ
như chúng ta rủi lạc-lầm lần đầu tiên thì chúng ta
phải chịu vô phước cả một đời.
Đó là chỗ mà phận gái phải dè dặt cho lắm. Còn
kẻ làm cha mẹ, không nên ỷ quyền cha mẹ mà ép con. Ngạn
ng nói : Ép dầu, ép mở, ai nở ép duyên. Có người gả
con mà không giạm hỏi ý con, về sau, thành ra vô tình mà
hại một đời của con. Đương môn, đói hộ, là một
điều tốt, nhưng nó đứng vào hàng thứ nhì. Duy có điều
: chọn dâu, chọn rễ kia, mới thật là trọng yếu.
Quyền cha mẹ, nghĩa làm con, đôi bên phải dung hòa
với nhau, để đào tạo hạnh phúc cho con hơn hết. Nếu
rủi cha mẹ qua đời thì phận gái cũng nên nghe lời người
nuôi dưỡng như Cô, Cậu, Chú, Bác, v.v...
2.- Xuất giá tùng phu.- Khi có chồng rồi, phận gái
phải ở với nhà chồng, cả một cuộc đời mới đó
phải thi-hành ; nào là bổn phận đối với cha mẹ chồng,anh
em bên chồng, nào là xử sự với kẻ ăn ở trong gia đình
và người láng giềng ; mỗi mỗi phải cư xử cho trọn
đạo ; nhứt là đói với chồng phải giữ gìn trinh tiết
; bởi vì người đàn bà mất trinh thì mất giá trị (xin
xem bài Phu-Thê-Cang).
3.- Phu tử tùng tử.- Rủi chồng chết thì phải theo
con ; khi con thơ ấu thì một lòng lo nuôi dưỡng giáo-hóa,
còn khi con nên người thì một lòng sống với con cho tròn
bổn phận của bà mẹ hiền.
Sách Nho chép chuyện bà thân sanh của Mạnh-tử chọn
xóm ở, để cho con ăn học ; có lần Mạnh-Tử biếng nhác,
Bà chặt khung cửi, làm cho con biết sợ mà lo học. Nhờ
mẹ hiền mà thầy Mạnh-Tử trở nên bậc Á-Thánh. Đoàn Hậu-tấn nên noi theo gương làm cha mẹ đó mà lập thân
mình.
Tứ Đức
Công, Ngôn, Dung, Hạnh
CÔNG.- Những việc văn chương, cung kiếm, như bậc
anh thư thì chẳng nói chi, người Phụ-n còn có N -công
thường thức cần phải thuần-thục, để làm tròn bổn-phận
nội-trợ, như : may vá, nấu nướng, sắp đặt việc nhà
có thứ tự. Vả chăng, nội trợ là bổn phận đàn bà,
nếu người phụ-n không biết những việc thường ngày
đó thì mất giá trị của mình ; cho nên phải siêng năng
rèn tập.
NGÔN.- Ngôn là lời nói, người bàng quan do lời nói
của mình mà đoán ra tâm lý. Tại sao ? Bởi có trong lòng
mới tỏ ra ngoài ; thành thử lời nói năng phải cẩn thận.
Không nói lả lơi, hoa nguyệt, không nói xằng, nói bậy
; không ngồi lê đôi mách, không nói dối. Muốn được
vậy thì tập cho có thói quen rằng : Suy nghĩ trước, rồi
sau mới nói , tức ngôn đoái hạnh, hạnh đoái ngôn.
DUNG.- Dung là dung nhan, diện mạo. Cần phải sạch sẽ, vẽ-vang,
đi đứng trang hoàng, hình-dung yểu-điệu tự-nhiên, nghĩa
là không phải sửa, cách đi đứng, vì có ý sửa là mất
tự-nhiên, mà mất tự nhiên thì không đẹp.
HẠNH.- Hạnh là nết, mà nết lại do Tâm mà ra, cho nên muốn có hạnh,
trước phải giồi mài bổn Tâm. Luân-lý dạy rằng phận
gái phải hiền lành, hòa-nhã. Hiền lành thì ngăn được
phóng tâm, hòa-nhã thì lkhỏi phải hỗn-ẩu, kiêu-căng.
Trên đường giao-tế ; hoặc đối với người nhà hay người
láng giềng, nhứt nhứt phải giữ ý thành thật trước
hết. Có thành thật mới được người yêu mến tin dùng.
Nói rút lại, Tam-tùng, Tứ-đức, nếu người Phụ-n
lấy đó làm kỷ-cương ở đời thì mình sẽ được danh
thơm là con thảo, vợ hiền và mẹ tốt.
Tóm luận, thi hành khoản đạo người trên nền tảng
Tam-cang, Ngũ-thường, Tam-tùng, Tứ-đức, chúng tôi xin tạm
một câu sách Đại-học để làm bài kết luận như sau
:
Xưa kia, người ta muốn làm sáng cái đức sáng của
mình trong Thế-gian, trước hết phải làm tròn bổn phận
đối vối với nước mình (Trị-quốc) ; muốn trị-quốc,
trước phải sửa xong việc nhà mình (Tề-gia) ; muốn tề-gia
trước tu-thân mình ; muốn tu thân mình trước phải chánh-tâm
: muốn chánh-tâm trước phải sửa ý ra thành thật (thành
ý) ; muốn thành-ý trước phải khai hóa đến cùng tột
cái biết của mình (trí-tri) ; mà trí-tri tại sự cách
vật. Hoặc nói đảo lại là : Cách-vật rồi sau mới trí-chí
; tri-chí rồi sau mới ý-thành ; ý-thành rồi sau mới tâm-chánh
; tâm chánh rồi sau mới thân tu, thân-tu rồi sau mớI gia-tề
; gia-tề rồi sau mới quốc-trị ; quốc-trị rồi sau thiên-hạ
thái-bình.
Trên đây là bổn chương trình Xã-hội-học mà người
Á-Đông đã chăm theo tự ngàn xưa. Chương-trình ấy nhắm
vào mục-đích hòa-bình Thế-giái, thức là mỗi người
thảo luận với mọi người từ trong gia-đình đến ngoài
xã-hội. Mà muốn đi đến mục-đích ấy, trước phải
sửa mình. Đạo tu-thân bắt đầu từ cách-vật, trí-tri,
đến thành-ý, chánh-tâm. Vả lại, Tâm vớI Tánh tuy có
hai danh-từ, song vốn một, tức là nguồn Thiên-lý Trời
phú cho người. Hễ người có Tâm-chánh, thì tự nhiên
phần Thiên-lý sáng tỏ.
Như trước kia đã nói Thiên-lý ở trong người phát động là
Đạo-nhân, mà Đạo Nhân là Đạo làm người vậy.
Ấy vậy nên người nào giữ trọn năm đức thường
là : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín đã nói trước kia thì theo
được Đạo Trời và cùng vạn-vật đồng thể. Làm người
mặc dầu trai hay gái đều phải biết Đạo Nhân, tức
cái phát-động của nguồn Thiên-lý ở trong người, rồi
sau sẽ theo đó mà làm bổn phận mình. Được như thế
thì trên không phạm luật trời, dưới lại hòa cùng mọi
người. Vậy há chẳng phải an vui lắm sao !
|