Ði đạo  Tam kỳ  Phổ độ

Tòa Thánh  Tây Ninh

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

 

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

NĂM KỶ-SỬU & CANH-DẦN

QUYỂN 6

HỘI-THÁNH GIỬ BẢN-QUYỀN

IN LẦN THỨ NHỨT

NĂM GIÁP-DẦN

(1974)

 

Đầu Xuân Giáp-ngọ (1954)

1.- ĐỨC HỘ PHÁP KIÊM THƯỢNG TÔN QUẢN THẾ HUẤN DỤ CÁC CẤP CHỈ HUY VÀ CHIẾN BINH CAO ĐÀI TRONG DỊP ĐẦU XUÂN GIÁP NGỌ

Các con,

Thầy thường nói với các con : Lập một nước thì dễ mà trị một nước thì khó. Về mặt tinh thần, lập một nền Đạo lại khó mà trị một nền Đạo lại khó nữa. Vì phải hàng phục nhơn tâm thành hay bại là do nơi đó.

Quân đội của các con thành lập đặng cũng do toàn thể trụ cả năng lực trên nền tảng Nghĩa Nhân, Đạo Đức, ngọn cờ cứu khổ của các con xuất hiện nơi nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải đặng các con bảo vệ, cứu hiểm phò huy mà làm rạng danh anh tuấn của non sông chủng tộc. Thầy lại giao luôn cho các con ngọn Đạo Kỳ là cốt ý muốn cho các con bền trụ khối tin trung đặng giữ vững cơ đồ Tổ Phụ các con, đã dầy công xây dựng trên 4.000 năm và hiện nay bao nhiêu dòng máu anh phong của nòi giống Lạc Hồng đã rưới chan đất Việt.

Phận sự của các con vì đó mà khó khăn. Trách nhiệm của các con vì đó mà cao cả. Sự khó khăn cao cả ấy nếu các con nhứt quyết thành công thì tên tuổi các con mới ghi tạc nơi Đài Vân mà lưu lại những trang sử uy hùng cho hậu thế.

Thầy không nói, các con cũng dư hiểu rằng từ xưa các bậc thương đời, hể lo cho quần chúng thì quần chúng thương yêu, bằng ghét bỏ nhơn sanh thì nhơn sanh ghét lại. Vậy quyền lợi nào hạp với nghĩa nhân thì các con dùng làm quyền lợi chung, còn trái lại với nhân tâm thì các con nên từ bỏ.

Để kết thúc lời Huấn dụ này, Thầy chỉ nói vắng tắc với các con " Chí ôn nhu của các con là khí cụ tinh anh, còn lòng Đạo Đức của các con mới thật là lủy đồn kiên cố vậy.

Đầu xuân Giáp Ngọ Thầy ban ơn lành cho toàn cả các con và mong các con đoạt thành nguyện vọng đặng giải nguy cho Tổ Quốc và mở con đường vinh hiển cho chủng tộc của các con buổi sau này.

 

Tại Đền Thánh.Ngày mùng 9 tháng 1 năm Giáp Ngọ (1954)

2.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ-DỤCÁC CHIẾN-BINH CAO-ĐÀI TRONG LỄ KỶ-NIÊMĐỆ THẤT CHU-NIÊN NGÀY XUẤT-QUÂN

Hôm nay là ngày Kỷ Niệm Đệ Thất Chu Niên Lễ Xuất Quân Quân Đội Cao Đài, Bần Đạo xin để lời cám ơn toàn cả các Quan Khách Đời và các Chức Sắc Đạo có mặt hiện diện làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng, Bần Đạo để lời cám ơn và xin toàn thể cho phép Bần Đạo để lời phủ dụ các chiến sĩ tại đây.

Thượng, Hạ Sĩ Quan Chiến Sĩ của Đạo, chính Đức Chí Tôn đã dạy Bần Đạo làm cho nền Đạo chóng sản xuất cho các con đều nhờ nó.

Ngày Thầy bị lưu đồ về nước, giữa Quốc Gia và chủng tộc các con đã chịu ở trong một cảnh trạng nguy hiểm, một đàng Cộng Sản Quốc Tế họ nhứt định lấy cường lực của họ đoạt chủ quyền Tổ Quốc chủng tộc của các con, một đàng phản động lực là khối Quốc Gia họ không chịu để cho Cộng Sản lệ thuộc.

Hại thay ! Trong trường chiến đấu ấy cả các lực lượng Quốc Gia của các con nằm ở giữa, tức nhiên chịu trong cảnh tượng của hai đường tên mũi đạn, sự thống khổ của toàn quốc dân nếu muốn tỏ rõ ra cho hết, ít nữa phải viết một quyển sách, chớ không phải diễn nơi diễn đàn cho rõ hết đặng.

Các con ơi ! Khi Thầy bị lưu đày trở về Thầy đã cầu lụy các con phải hy sinh xương máu để cứu nước, cứu dân, đặng vầy hiệp các Quốc Gia xuất hiện cho kỳ được một nền công lý thật sự.

Bấy lâu Thầy hiểu cái công nghiệp vĩ đại của các con và tinh thần anh dũng của các con mà thành hình được cuộc tranh đấu đương đầu hôm nay, tuy còn phân vân nhưng Thầy dám quả quyết rằng : Sự hy sinh của các con có khuôn luật thiên nhiên của tiền định, luôn luôn có cái công lý phải thắng cường quyền, cái hạnh phúc tương lai do các con đem cho nòi giống và Tổ Quốc các con, mà Thầy quả quyết rằng:  Các con làm nên đặng và các con sẽ toàn thắng.

Thầy mong mỏi chí hy sinh của các con, Thầy ước sao tinh thần anh dũng của các con  phải làm sứ mạng Thiêng Liêng mới có thể cứu vãn tình thế đặng.

Các con đã qua một giai đoạn khắc khe nguy hiểm cuối cùng rồi, chỉ còn đem cái thắng lợi vinh quang cho toàn quốc và chủng tộc của các con.

Thầy chỉ biết rằng : Sau lưng của các con có các nước bạn nhứt là Dân Tộc Pháp đã cùng nhau chung sống trót 80 năm, biết cái lẽ nên hư thắng bại, biết cả tinh thần ái quốc nồng nàn của chủng tộc các con thế nào, nước Pháp sẽ thật tâm giúp đỡ các con làm phận sự Thiêng Liêng cho toàn vẹn và mỹ mãn đặng.

Trước khi dứt lời Bần Đạo cám ơn Quí Quan Khách và toàn thể  Chiến Binh và Thầy mơ ước năm nầy là năm vinh quang của các con sẽ đắc thắng..

 

Tại Đền Thánh Đêm 14 tháng 1 năm Giáp Ngọ (1954)

(Lễ Thượng-nguơn)

3.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CỎI HỬU VI THẾ NÀO THÌ CẢNH THIÊNG-LIÊNG HẰNG SỐNG CŨNG THẾ ẤY

Đêm nay ngày Rằmg tháng Giêng. Theo Luật Pháp của Đạo Giáo, nhất là Triết Lý của nhà Phật, trước khi lập thành mối Đạo, mỗi năm phân ra tam nguơn là : Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn. Mỗi nguơn niên, theo ta hiểu biết cái đại nghiệp của Càn Khôn Vũ Trụ với Triết Lý nhà Phật, thì cả tinh thần lẫn vật chất của vạn linh đều thay đổi mới. Theo triết lý ấy, ngày nay là ngày các chơn hồn đặng quyền Chí Tôn ân xá, nếu không nói rằng hưởng được một đặc ân tiến hóa hơn nữa.

May duyên cho nòi giống Lạc Hồng : Chúng ta nhờ Đạo Giáo của Tổ Phụ lưu truyền, một chơn lý mà người ta lấy làm ngạc nhiên thấy cả nòi giống Dân Việt tình cờ nắm trong tay được một cách đột ngột cũng nhờ ơn Thiêng Liêng của Chí Tôn (tức nhiên Đại Từ Phụ) đem đến sự thật mà Tổ Phụ ta dành để. Triết lý lập Giáo cao siêu của ta, không ngờ có sẵn, về tín ngưỡng hay về xã hội cũng thế, tinh thần Đạo Giáo của Tổ Phụ ta rất đơn giản, nhưng mà rất chơn thật. Bần Đạo đã có dịp giảng giải cho các con cái của Đức Chí Tôn nghe, cả nòi giống của chúng ta không có điều chi thắc mắc gọi là cao kỳ, chỉ tin sự thật để định cái tâm hồn của mình. Nay nhờ khoa học, nhờ chơn lý của trí não tâm hồn của nhơn loại, đương nhiên đã tiến triển đến một trình độ rất cao, đã hiểu thấy các chơn lý ấy, mà thật vậy Tổ Phụ ta chỉ thờ Trời và thờ Ông Bà, rất hiếu hạnh đối với Cửu Huyền Thất Tổ.

Cái Đạo Giáo tinh thần ấy, sẽ được đem ra làm căn bản cho tâm hồn của nhơn loại trong buổi tương lai kia. Hiện giờ, cả chúng sanh đang tìm hiểu , vấn đề dấu hỏi mãi, hỏi có Aâm Phủ hay không ? Tội nghiệp thay ! Tiếng âm phủ nó làm cho họ đeo đuổi tìm tàng mãi mãi mà họ chưa thoả mãn đặng, vì họ chưa đoạt đặng sự chơn thật của tâm hồn, nên muốn kiếm hiểu.

Bần Đạo thường hay nói cái khuôn Luật Tạo Đoan Thiên Nhiên kia vẫn có một, dầu cho nó hữu tướng hay huyền vi, chỉ có một tình trạng với nhau mà thôi, vì lẻ thiên hạ đã để câu Aâm Phủ Dương Gian mà từ trước tới giờ làm cho kẻ tìm Đạo rất thắc mắc không thấu đáo được ý nghĩa của hai lẻ ấy.

Đức Chí Tôn đến, Ngài dạy một cách rất đơn giản, Ngài nói :

"Cái cảnh các con đương sống hôm nay, mảnh xác thịt cơ thể các con thấy trước mắt đó là cảnh hữu hình, còn cảnh một ngày kia các con bỏ thi hài này trở về cảnh Thiêng Liêng thì Đức Chí Tôn cho nó một cái tên là cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống".

Ngộ nghỉnh thay ! Là nhơn loại đương buổi này, sống đây gọi là sống, không dè nó là cảnh chết. Thấy cảnh chết kia là vô hình tưởng nó là không có, ai ngờ nó là cảnh tồn tại mãi mãi, không khi nào tiêu diệt, cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn lập sẵn mà Ngài gọi nơi ấy, Ngài đã đào tạo dành để cho mỗi đứa con của Ngài một cái gia nghiệp Thiênh Liêng, Ngài đã nói : Cái gia nghiệp ấy mỗi đứa con của Ngài đã có sẵn, kỳ dư những đứa con nào chê bỏ thì chính mình Ngài mới có quyền cho kẻ khác.

Bần Đạo giải nghĩa cảnh Thiêng Liêng hằng sống ở mặt thế gian này chúng ta đã thấy cả khuôn khổ của xã hội sẵn có, lành có, dữ có, hư có, đủ mọi lẽ, đương nhiên giờ phút này xã hội đã biến thiên, kẻ dữ bị trừng trị, phạt răng đặng chừa lỗi. Tức nhiên kẻ nên có địa vị quan viên, kẻ giỏi trí não cao kỳ, dìu dở chúng sanh tạo ra các cơ thể của xã hội nhơn quần giúp sống cho nhơn loại. Mỗi hành vi đều có định luật của nó, cảnh hữu hình thế nào thì cảnh Thiêng Liêng kia cũng thế. Khi luận đi tới điều ấy. Bần Đạo nhớ lại thuyết Cộng Sản ở mặt thế này họ muốn tiêu diệt cấp bậc tức nhiên là muốn phá hủy cả định Luật Thiên Nhiên, chúng ta thử để một vài dấu hỏi : Ngày giờ nào chúng ta đem một người thường dân lên cầm quyền được thì chúng ta mới có thể đả đảo cả đẵng cấp được. Chừng nào chúng ta đem chú chăn bò lên ngôi làm quan tòa chừng đó chúng ta mới có thể đả đảo đẳng cấp được chừng nào chúng ta bắt đứa con nít làm ông già, chừng đó chúng ta mới có thể đả đảo cả đẳng cấp được. Bởi cả đẳng cấp nơi mặt thế gian này đều có định luật, mà định Luật Thiên Nhiên ấy không có quyền năng nào sửa đương được.

Cảnh thế gian chúng ta thấy có quan, có dân, có kẻ tôi đòi, có người làm chủ, cả đẳng cấùp trước mắt thế nào, cải cảnh Thiêng Liêng kia cũng thế mà thôi.

Chúng ta đang sống đây cốt yếu đến đặng tạo nghiệp mình, nếu chúng ta dở thì tạo nghiệp dở, hay thì tạo nghiệp hay, nên thì tạo nghiệp nên, hư thì tạo nghiệp hư. Còn cái cửa Địa Ngục trước kia đã gọi là khảo tội từng răn, thiên hạ họ đã tả một cái cảnh rất quá đáng, làm cho thiên hạ ghê tởm có sự thật. Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống cái hình nó khác ở thế gian này, cái hình của nó là hình về tâm hồn trí não. Nơi thế  gian này những kẻ đã làm hung ác tội tình, nét mặt họ thấy ghê tởm, hình dung con vật gì, hiện tượng ra con vật đó như : Hùm, beo, cọp, beo, sấu, các con vật dữ người ta trông vào thấy đủ cả phương diện hung ác .

Ngày kia chúng ta bỏ xác này rồi, nguơn linh (tức nhiên xưa kia gọi là cái vía hay là cái phách), hiển hiện tâm đức của chúng ta con gì thì nguyên tướng ra con nấy, cũng như nhiều kẻ để tâm hồn của họ vào con vật nào giống như họ thì hiện tướng giống in khuôn.

Ấy vậy, tổng luận Bần Đạo nói :

“Cảnh hữu vi kia thế nào thì cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống cũng thế ấy”.

Ta có Tổ Phụ Ông Bà chung ở cùng ta, họ đợi ta qui bỏ xác phàm về cảnh Thiêng Liêng  Hằng Sống, họ còn sống, họ đợi ta về.

 

Ngày 28 tháng 1 năm Giáp Ngọ (1954)

(Lễ di liên đài của Ngài Khai Pháp Chơn Quân)

4.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CHÍ-HƯỚNG VĨ-ĐẠI CỦA NGÀI KHAI PHÁP CHƠN-QUÂN

Bần Đạo tưởng ngày giờ này toàn con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ đang chung chịu cùng Bần Đạo một cái tang, tuy vân, không nói gì cả thảy đều muốn nghe Bần Đạo nói : Muốn nghe Bần Đạo nói đặng chi ? Đặng hiểu rõ tâm tình của người bạn tri âm, tri kỷ đồng chung khổ cùng Đức Khai Pháp Chơn Quân thế nào ?.

Thật vậy, ở đời những sự vinh sang phú quí bất quá họ cũng hưởng hạnh phúc thế tình của họ qua một thời gian ngắn ngủi, cả thảy những hạnh phúc bóng dáng ấy đều tiêu tan như giọt sương đầu cỏ, cái tâm tình chia sớt khổ não sanh tử với nhau, tình ấy nó mới bền vững và cứng rắn. Đứng nơi đây Bần Đạo chỉ sợ có một điều giọt huyết lệ của Bần Đạo nó sẽ làm cho Bần Đạo, không ngăn được đặng đem cả tâm tình của Bần Đạo trải qua trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn để dành làm khuôn vàng thước ngọc, cho cả Thánh Thể Đức Chí Tôn nhứt là những lời nói của Bần Đạo. Hôm nay Bần Đạo mong mỏi một điều Thanh Niên Nam, Nữ lưỡng phái của Đạo, tương lai các con còn dài xin để ý đặng ghi nhớ cho lắm.

Đức Khai Pháp Chơn Quân cả toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều hiểu là ai ? Trong 12 vị Chơn Quân của 12 con giáp là cơ huyền bí tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào có lẻ cả tinh thần của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiểu thấu.

Bần Đạo lại thêm một điều hệ trọng hơn hết, người không phải xa lạ nhơn loại nơi mặt Địa Cầu 68 này, người đã cùng làm bạn với nhơn loại và chịu khổ cùng nhơn loại, Ngài là một bậc yếu nhân đã giúp Đức Chí Tôn tạo dựng một nền Văn Minh hiện tại. Bần Đạo nói quả quyết rằng : Ngài là một vị yếu nhân đã cầm quyền về tinh thần của nền văn minh. Ngài tái kiếp sứ mạng của Ngài là không chi khác hơn làm thế nào cho nền văn minh ấy chung hiệp các nền văn minh tối cổ trên mặt địa cầu này, làm cho thiên hạ thống nhứt về tâm hồn, thống nhứt về Đạo Đức.

Đức Khai Pháp Chơn Quân hiện nay đi đến cái cảnh đại đồng của nhơn loại, Ngài đến cốt yếu để làm chứng điều ấy và đến đặng để cái tinh thần của Ngài thiệt hiện cho tròn vẹn cái sứ mạng Thiêng Liêng. Còn về phần hình chất Ngài cũng sanh trưởng như ai.

Từ nãy giờ các cơ quan đã tả cho cả con cái Đức Chí Tôn đều hiểu Bần Đạo không cần lập lại, cái mảnh xác thịt này như con kỵ vật, tốt cũng thế, xấu cũng thế, sang cũng thế, hèn cũng thế, không có giá trị chi đối với nền văn minh tối cao tối trọng, chẳng có chi khác đối với Ngài Khai Pháp Chơn Quân cả.

Phải, những công nghiệp vĩ đại của Ngài, Bần Đạo mơ ước một điều ngày kia toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ và đời đời noi theo cái chí hướng gương mẫu ấy, đặng làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn càng ngày càng mạnh càng huyền năng, hễ Thánh Thể của Ngài càng mạnh càng huyền chừng nào thì Đức Chí Tôn mới có thể phụng sự cho con cái của Ngài nơi cảnh khổ này.

Bần Đạo nhấn mạnh một điều này, Đạo Cao Đài vốn là một nền Tôn Giáo để cứu khổ cho nhơn loại, Đạo Cao Đài cốt yếu không phải làm chủ thiên hạ, mà cốt yếu làm tôi đòi tạo hạnh phúc cho thiên hạ, tạo cái hạnh phúc chơn thật, hôm nay Ngài Khai Pháp hưởng đặng nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà Ngài đã hiểu thấu chơn lý ấy là thật sự, nên Bần Đạo cùng Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã có công lao chung chịu khổ hạnh cùng nhau nhứt tâm, nhứt đức quyết gồng gánh một nền Tôn Giáo của Đức Chí Tôn và bảo vệ nâng đỡ thiện hiện hình tướng cho cơ quan giải khổ. Hôm nay một chơn lý bí yếu hơn hết là : Chúng ta chỉ mơ ước một điều là làm thế nào cho cả sự bất công của nhơn quần xã hội giờ phút này phải thay đổi hết. Nói cho cùng, nếu chúng ta không phương thế sửa cải sự bất công ấy được thì chúng ta còn một điều hèn hơn, tiện hơn chúng ta lấy mảnh thân Đạo Đức vô biên của chúng ta đặng làm phương an ủi cho nhơn loại bớt thống khổ, bớt đau đớn, để nêu lên một tâm đức yêu đời đặng làm gương mẫu tương lai cho con cái Đức Chí Tôn đó vậy.

Chúng ta chỉ sợ một điều, cả con cái Đức Chí Tôn rán ghi nhớ là buổi chung qui của chúng ta, hễ chúng ta thất Đạo tức nhiên chúng ta không đáng làm con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu không đáng làm bạn Thiêng Liêng của Thần, Thánh, Tiên, Phật, chúng ta sợ chết, thiên hạ gọi chết là mất, Bần Đạo thuyết minh cái cảnh chết là cảnh sống, cái sống là cảnh chết, họ có biết giá trị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống thế nào đâu ? Họ chỉ biết tìm mãi cái hạnh phúc trong cảnh khổ hãi nãy họ gọi là cảnh sống, mà thật quả nó là cảnh chết, hễ giờ phút nào chúng ta đã thấy thất phận, thất Đạo, chúng ta sợ buổi chung qui của chúng ta lìa cõi trần này. Ngày nào chúng ta biết trọn trung cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, trọn tín với Các Đấng Thiêng Liêng thì cái hạnh phúc của chúng ta khi lìa trần là cái vinh diệu chúng ta đó vậy.

Thật sự hôm nay Đức Khai Pháp Chơn Quân đã hưởng được hạnh phúc mà Bần Đạo đã tả ra khi nảy đó, cái hạnh phúc chơn thật của Ngài hôm nay Ngài hưởng được, trái lụng lại chúng ta buồn thảm chia ly về phần xác, mà Bần Đạo lấy làm hân hạnh phúc hậu vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo, Đức Khai Pháp Chơn Quân đã đoạt Đạo tại thế đó vậy.

Bần Đạo làm chứng cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn điều ấy.

 

Tại Đền Thánh, ngày 10 tháng 2 năm Giáp Ngọ (1954)

Sau khi hành lễ độ thăng

Ngài Đạo nhơn Phạm Công Đằng.

5.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CÔNG-NGHIỆP CỦA ĐẠO-NHƠN PHẠM CÔNG-ĐẰNG VÀ CÁC ĐỆ-TỬ PHẠM-MÔN

Phạm Công Đằng là một vị Môn Đệ trong Phạm Môn hồi ban sơ.

Bần Đạo còn nhớ lại, khi Bần Đạo đến Kiêm-Biên mở hội Thánh Ngoại Giáo, khi trở về Đức Cao Thượng Phẩm ở nhà dạy đặng một đoàn Môn Đề. Trong số ấy có Ông Thân của Phạm Công Đằng, buổi nọ Ông Đằng chỉ theo Cha hành Đạo, có một điều là gia đình của người rất hạnh phúc hơn hết, cả toàn con cái Tông Đường đều mộ Đạo.

Sanh nơi thế kỷ 20 này dưới quyền Pháp thuộc Gia Tộc của Phạm Công Đằng chỉ thủ cựu, cả phong hóa cổ tục của Tổ Phụ để lại, tức nhiên là gìn giữ Đạo Nho, nhứt là Ông Thân của Phạm Công Đằng.

Khi Bần Đạo về cả cha con phế Đời hành Đạo, dầu rằng buổi  nọ gia đình ở tại Thanh Phước nhưng cả con cái Nam, Nữ toàn thể đều theo Đạo, Phạm Công Đằng tiếp tục đến khi nền Đạo chinh nghiêng, trong quyền của Đạo khảo đảo, người bị Pháp buổi nọ áp bức làm cho mấy Anh lớn cầm quyền của Đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau với thiên hạ giục cho nghịch, giục cho loạn.

Đức Cao Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình trạng nguy ngập không thể tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt buộc bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng bắt và đem giam cầm. Pháp định diệt Đạo hồi buổi sơ sanh mới phôi thai. Họ bắt buộc cho đến đổi không có cơm ăn đủ, có sao đặng, miệng ăn đông, việc làm không có gì hết, ba bốn phen đi xin tiền về để tạo Đền Thánh, ba bốn phen đều ăn hết, làm cho thiên hạ thối chí ngã lòng, trong cũng thế, ngoài cũng thế.

Bên ngoài chúng mướn tay sai của Pháp buổi nọ bắt buộc, giam cầm, bị nhục một cách không thể tưởng tượng.

Bên trong chia phe phân phái, một đoàn theo Đức Quyền Giáo Tông, một đoàn theo Ông Tương, một đoàn theo Đức Cao Thượng Phẩm (ba bốn phe).

Họ nghịch nhau cho đến nước, Thầy Trò Phạm Môn không có gì hết, để lại bao nhiêu người Môn Đệ thiên hạ lại gọi rằng Tả Đạo Bàn Môn, lập phe, lập phái đi đầu cáo Pháp. Pháp bắt Phạm Môn đem ra tòa xử nào phạt vạ, nào tù tội, làm cho Đạo buổi nọ phải chết cho đến những kẻ chứa Đức Cao Thượng Phẩm cũng không đặng và những người trọn hiến thân hy sinh vì Đạo cũng bị thiên hạ xô đuổi.

Buổi nọ Phạm Môn cũng bị đuổi ra khỏi Đền Thánh Thầy Trò dắt nhau mua miếng đất tạo nên Phạm Nghiệp làm cho Đạo sống trở lại.

May thay ! "Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn" nhất là Đức Chí Tôn ở bên mình nên những mâu thuẩn phá hoại không thành tựu gì hết.

Trong số 72 Môn Đệ của Bần Đạo, thật sự hành Đạo chỉ có 26 đứa mà nghiệp Đạo hôm nay được thành tướng dường này. Nếu không có Phạm Môn thì Đền Thánh không thành tựu, nếu không có Phạm Môn thì nền Đạo Cao Đài đã chết rồi.

Trong công nghiệp gầy dựng, cứu cống Đạo, Phạm Công Đằng đã có chung chịu trong đó

 

Đêm 30 tháng 2 năm Giáp Ngọ (1954)

6.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CÁI THIỆT VÀ CÁI GIẢ CỦA QUYỀN VÀ LỢI TRÊN THẾ-GIAN.

Ngày mai này là ngày Lễ của Đức Cao Thượng Phẩm, Bần Đạo xin toàn thể con cái Đức Chí Tôn lưỡng phái có mặt đông đảo dự lễ đặng làm cho Chơn Linh của Người được vui mừng.

Đêm nay Bần Đạo giảng cái thiệt và cái giả của quyền lợi giữa thế kỷ XX này mà cả toàn thể nhơn loại đã bị khuẩn bách về tinh thần. Thật sự, từ Thượng Cổ đến giờ, không có buổi nào nhơn loại không bị thống khổ tinh thần như hôm nay vậy.

Giờ phút này nơi mặt địa cầu số nhơn loại đã tăng lên quá độ, chẳng còn như buổi Thượng Cổ kia. Nếu ta lấy dân số từ thế kỷ thứ 3 cho đến ngày nay thì ta ngó thấy nó gấp đôi bằng hai buổi nọ, vì cới sự sanh sống của nhơn loại trở nên khó khăn, trường hợp tranh sống của họ càng thêm náo nhiệt. Ta thử nghĩ một Quốc Gia đã sanh ra trong đời, con người muốn lập thân danh của mình là một điều rất khó.

Chúng ta đã ngó thấy hạng lê thứ vẫn nhiều, mà hạng thượng lưu trí thức vẫn ít, Luật Thiên Nhiên vẫn vậy. Vì cớ cho nên trường tranh đấu đặng bảo vệ quyền lợi của họ trở nên khó khăn và nguy hiểm.

Thật, con người bao giờ cũng chạy theo quyền lợi, dầu cho một Quốc Gia hay Quốc Tế cũng vậy. Chỉ tranh quyền lợi mà nhơn loại đã tương tàn, tương sát với nhau, chúng ta lấy theo tâm lý của loài người mà luận thì chưa có buổi nào mà trình độ tâm hồn của nhơn loại đã nghiêng đổ thái quá như buổi hôm nay. Thật tâm hồn nhơn loại đã bị sa sút xuống một mức quá thấp hèn.

Vì cớ cho nên toàn cả tinh thần không còn Thánh Đức như buổi trước, Tiên Nho đã có nói :

"Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh Đức, kim nhơn biểu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc"

Nghĩa là  người xưa hình dạng xấu xa gần giống như con thú, mà tâm của họ là Đại Thánh Đức và Thánh Đức của họ còn nguyên vẹn.Ngày hôm nay nhơn loại đẹp đẽ dáng phẩm con người, nhưng thú tâm không thể đoán xét được. Nhứt là quyền lợi, thiên hạ đã theo dõi và mê mẫn, nếu nói cái hám vọng của họ nơi cửa quyền thì thấy rằng : Trong xã hội muốn đứng đầu thiên hạ cho có tên tuổi của mình có quyền hành đặng điều khiển độc đoán là một cái khó làm hơn hết, khó thiệt hiện được.

Vì cớ cho nên họ không từ chối không có một phương pháp nào hèn hạ mà họ không làm, thử nghĩ chúng ta đoán xét từ cổ chí kim những quyền mà lập với phương pháp tàn ác vô nhân đạo, thì ta quan sát coi có bền vững tồn tại hay chăng ? Con người đem quyền mà thua chuộc với xương máu của người. Cả cái quyền hành đó nó trở lại làm một ác khí, thử hỏi những kẻ thọ hưởng nó có bền vững hay chăng ? Chúng ta đã ngó thấy nào là đài Tần đảnh Hớn mà từ trước tới giờ trên mặt địa cầu này đã tạo dựng trên xương máu của nhân sanh, hết họ này đến họ khác làm chúa, làm vua thiên hạ thay đổi mãi không có một ngôi báu nào còn tồn tại là do chỗ nào ? Là do ngôi báu ấy đã mua chuộc bằng xương máu của dân, cho nên chẳng hề khi nào những kẻ thọ hưởng nó được trường cửu đặng.

Chúng ta thử quan sát trước mắt ngó thấy những mưu mẹo những phương pháp, những trí độ, họ tìm tàng, họ làm cách nào đặng lập quyền cho họ. Rốt cuộc lại, chúng ta thấy cái hưởng của họ, nếu họ hưởng, trong cái hưởng ấy nó dành để cho họ một sự nguy hiểm chẳng khác nào trong ấy dành để cho họ một chén thuốc độc đặng tự diệt lấy họ.

Quyền : Chúng ta thấy quyền thế nào ? Giờ chúng ta kể lại sự tích của Tàu : Như Hạng Võ khi vô Bao Trung đã có lời cam kết, kẻ nào đã vô Bao Trung trước thì được làm Chúa.

Hớn Bái Công và Sở Bá Vương  hai sứ mạng vô diệt Tần phục Hớn, Sở Bá Vương ỷ mạnh tới đâu đánh đó, thành thử vô Bao Trung sau Hớn Bái Công. Còn Hớn Bái Công chỉ lấy nhơn nghĩa mà làm thành thử thành luỷ, quan ải, đều mở rộng cửa cho người vào. Đã vậy Sở Bá Vương không giữ lời hứa và kiếm lời bào chữa đày Hớn Bái Công vô Bao Trung. Rốt cuộc lại cả sự nghiệp của Hớn lấy nhân nghĩa hưởng được 800 năm. Còn Sở Bá Vương chỉ một đời người mà chưa hết thì đây là cái giả của Sở Bá Vương, còn cái thiệt của Hớn Bái Công là 800 năm đó vậy.

Chúng ta thử nghĩ các giả quyền đương giờ phút này mới vừa qua trận đại chiến thứ II như Hitler, Mussolini, Thiên Hoàng của Nhật muốn làm bá chủ với cả phương pháp cường quyền của họ, vì quân lực của họ có đủ cường lực muốn cho cả hoàn cầu phục lụy tôn làm bá chủ. Rốt chuyện cái ngôi báu đã làm cho ba sắc dân ấy điên đảo thổng khổ biết bao nhiêu, bao nhiêu đế vị cường liệt hôm nay chúng ta đã ngó thấy đều là giả hết. Bởi họ không có cái lưu lại cho đời một mãi mai gì. Còn cái thiệt là Người mà chúng ta lên án là mê tín dị đoan; đem đóng đinh trên cây Thánh Giá là Đức Chúa Jésus Christ, quyền của Ngài 2.000 năm vẫn còn tồn tại mãi thôi mà trái lại càng ngày nó càng cường liệt.

Người thứ nhì nữa : Là Ông Già mang Bình Bát đi xin nơi này ăn, đi xin nơi kia ăn, đi mót từ manh giẻ rách của thiên hạ đặng chầm khiếu làm áo mặc cho kẻ lạnh, mà 2.500 năm cái quyền Ông ấy vẫn còn tồn tại. Cái quyền giả thế nào ? Cái quyền thiện thế nào ? Thật không thể đoán trước được.

Tội nghiệp ! Những quyền mà tạo nên bền vững,  kẻ đào tạo nó khó khăn lắm, làm cho đến mức đó thật là nguy hiểm mà khi đoạt đặng rồi thì không thể nào tiêu diệt đặng. Luận lại "Phú hữu tứ hải" của các ngôi vua chúa dùng xương máu thiên hạ lập đế vị, cả của cải trong nước đều là của mình. Rốt chuyện lại chúng ta coi giòng họ làm vua trên mặt địa cầu này giờ phút này các tông đường đó. Nếu Bần Đạo làm chứng quả quyết các tông đường ấy còn tàn mạt, cò hèn tiện, còn ăn mày, ăn xin hơn các tông đường khác nữa mà chớ! Không lưu lại sự giàu sang bền vững cho các cháu của họ.

Có một người ta chỉ sợ, đời không ai biết không ai ngó tới, nếu không nói ra họ gớm ghiết, là Đức Khổng Phu Tử, Đạo của Ngài giờ phút này cái nền Văn Minh Nho Giáo cũng không tiêu tàn, giờ phút nào Quốc Dân Trung Hoa không tiêu diệt thì Đạo của Đức Khổng Phu Tử vẫn còn tồn tại mãi thôi.

Hại thay mà may thay !... Cho nhơn loại, là Sắc Dân của Trung Hoa tới 450 triệu hay là 500 triệu muốn tiêu diệt không dễ gì, mà hễ sắc dân ấy vẫn còn tồn tại thì Đạo của Đức Khổng Phu Tử cũng vẫn còn mãi mãi.

Còn cái ngôi của các đế vương đào tạo trên mặt địa cầu đều tiêu hủy, còn Đạo của Đức Khổng Phủ Tử nó in sâu trong đầu óc trí não của nền Văn Minh nhà Nho cho tới tận thế nó cũng vẫn còn. Mỗi một sắc dân chịu ảnh hưởng nền Văn Minh ấy như : Triều Tiên, Nhựt Bổn, Việt Nam. Ngày nào Sắc Dân Trung Hoa chưa tiêu diệt, thì Đạo của Đức khổng Phu Tử chưa tiêu diệt. Cái Đạo kia là thiệt còn cái Đời kia là giả.

 

Ngày mùng 1 tháng 3 năm Giáp Ngọ (1954)

(Ngày Vía Đức Cao Thượng Phẩm)

7.- ĐỨC HỘ PHÁP NHẮC TIỂU SỬ ĐỨC CAO THƯỢNG-PHẨM

Mỗi một năm ngày Vía của Đức Cao Thượng Phẩm Bần Đạo lấy làm vui thấy cả con cái của Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt là cái mừng của Bần Đạo hơn hết là ngày Vía của Ngài cả con cái Đức Chí Tôn còn gìn giữ sự thương yêu cấy như buổi sanh tiền vậy.

Sự thật từ cổ chí kim Bần Đạo tưởng không có một nền Tôn Giáo nào mà được  hưởng một đặc ân Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn như nền Đạo Cao Đài. Bần Đạo nhắc lại những sứ mạng Thiêng Liêng của Ngài hầu chia đau sớt khổ, những đặc sứ sai đến thế này đặng thay thế hình ảnh của Ngài, hầu chia đau sớt khổ cùng con cái của Ngài thế nào ? Chúng ta có thể nói : Các Đấng Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh Tộc của chúng ta, tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên là thế nào?

Ngộ nghỉnh thay Đức Chí Tôn làm thế nào mà chư vị Đại Tiên ấy ra đảm nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng, đến đặng tạo dựng cái nền Tôn Giáo của Ngài nhứt là Hớn Chung Ly tức nhiên Nguơn Linh của Cao Thượng Phẩm đó vậy.

Nên giờ phút này nhớ đến có mãi may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm trong tay tạo Đạo, thành thử hôm nay không có cây Cơ thứ nhì nữa, nói thật ra cây Cơ Phong Thánh, Cơ Lập Pháp, Cơ truyền Giáo, đã đem theo Ngài nên ngày giờ thoản có Cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng Loan có Ngài trợ lực, còn cây Cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn tồn tại, cái tiếc của Bần Đạo hay chăng là điều đó.

Các Chiến Sĩ Cao Đài nếu trong sự ân hận sự tiếc ấy thật quả các con đã tiếc cây Cơ ấy chớ phải chi nó còn tồn tại thì nó giữ cho các con chiến sĩ nhiều lắm rồi.

Người thiếu Đức Tin Bần Đạo nhờ cây Cơ linh hiển ấy đem Đức tin lại cho Bần Đạo và Bần Đạo có thể nói nhờ cây Cơ đó độ rỗi Bần Đạo cho đến hàng phẩm cao trọng này. Các con chiến sĩ ôi ! Chớ chi Đức Cao Thượng Phẩm còn rất may mắn cho các con lắm vậy. Các con đọc mấy câu thi của Ngài nhứt là câu thúc và câu kết nếu các con chú ý cho lắm thì hiểu cái nghĩa lý thâm thuý của nó là dường nào ? Lấy đó mà làm gương cho các con đó vậy.

"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ"

"Để mắt xanh coi nước khải hoàn"

 

Khao khát có bao nhiêu đó mà thôi. Giờ phút nào các con thượng cây Cờ Nhân Nghĩa lên, các con phục quốc đặng, Thầy có thể nói : Trước khi các con ca bài khải hoàn, các con đọc hai câu thi đó, ấy là các con đền ơn cao trọng cho Đức Cao Thượng Phẩm đó vậy.

 

Thật, Đức Cao Thượng Phẩm hồi qui Tiên, chỉ tiếc có bấy nhiêu mà thôi.

"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ"

"Để mắt xanh coi nước khải hoàn"

 

Ngài khao khát giải ách lệ thuộc cho giống nòi của các con đó vậy. Đâu các con có gắng coi đặng cho giờ phút này Thầy còn sanh tiền đây, đặng thấy thiệt hiện công nghiệp của các con, làm cho Thầy ngó thấy chán chường "Để mắt xanh coi nước khải hoàn".

Các con làm ơn cho Thầy ngó thấy hiển nhiên khải hoàn giải ách nô lệ cho nòi giống Tổ Quốc các con. Thầy trông các con làm tròn sứ mạng và Đức Cao Thượng Phẩm cũng mơ ước có bao nhiêu đó mà thôi.

 

Đêm 14 tháng 3 năm Giáp Ngọ (1954)

8.- ĐỨC HỘ PHÁP  GIẢNG VỀ VĂN-MINH KHỔNG-GIÁO ĐÀO-TẠO NÊN HÌNH-TƯỚNG QUỐC-THỂ VIỆT-NAM

Đêm nay Bần Đạo thuyết về tâm hồn của Dân Tộc Việt Nam trong giờ buổi này, cả thảy con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng như Bần Đạo. Chúng ta đã thọ hưởng đặc ân Tổ Phụ lưu truyền một nền Văn Minh Tối Cổ là Nho Đạo.

Cả Phong Hóa Văn Hiến đều thuộc về Khổng Giáo, từ khi lập quốc thì dân do căn bản tối cổ của nền Văn Minh Khổng Giáo mà đào tạo nên hình tướng của quốc thể chúng ta. Có lẻ hồi Tổ Phụ Ông Bà lập quốc tưởng cho cái nền Văn Hiến Cổ Truyền ấy nó phải còn tồn tại mãi mãi. Do nơi đó mà đào tạo cả tâm hồn của nòi giống, chắc các đấng ấy chưa biết sự thay đổi trong giờ phút này mà các con cái của họ, máu mủ của họ đã chịu ảnh hưởng, nếu nói Phong Hóa Cổ Truyền của Tổ Phụ chúng ta để lại, thì con người của chúng ta về tâm hồn vẫn chơn chất hiền lương Đạo Đức nếu nói cái tâm hồn chơn thật của họ thì vẫn là hình tướng Đạo Giáo tạo cho họ đó vậy.

Sau 80 năm dưới quyền đô hộ của Pháp, Pháp đã đem cho ta một nền Văn Hiến Mới nữa là : Văn Hiến của đạo Thiên Chúa mà ta gọi là : Gia Tô Giáo từ trước.

Ấy vậy ta thử lấy trí xét đoán coi cái nền văn minh của ta, văn minh tối cổ ấy đương nhiên cùng với một nền văn minh tối tân kia, thử hỏi tâm lý Nho Tông đào tạo Phong Hóa của ta như thế nào ? Phong hóa của Thiên Chúa Giáo đào tạo nền văn minh giờ phút này chúng ta chịu ảnh hưởng gì ?.

Một đàng thì chỉ lấy Đạo Tam Cang Ngũ Thường làn căn bản, chỉ biết lấy tinh thần tâm lý làm mực thước mà đào tạo tâm hồn của mình.

Còn một đàng thì lấy khoa học, lấy quan sát thiệt tướng của sự sống làm căn bản, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mắt rằng : Hai cái hình ảnh ấy chẳng khác nào như hai người đàn bà một người thì chơn chất thật thà chỉ lấy tâm lý làm căn bản cử xử thế tình lấy âm làm mực thước, một hành vi chi chẳng hề khi nào dám đi qua của tiếng gọi tâm hồn.

Một đàng lấy cả phong thể trang nghiêm hình ảnh đẹp đẽ sang giàu, hết thảy cả bóng dáng mỹ thuật ở trong mình đào tạo ra thì chúng ta ngó thấy một đàng lấy sắc làm căn bản, một đàng lấy tâm làm căn bản. Bần Đạo dám chắc, thử chúng ta để dấu hỏi ? Nếu như có một người mỹ nhân như thế và một người thô nhơn như thế. Ta để câu hỏi có một vị tình lang đang chọn lựa  như vậy. Bần Đạo dám chắc sự chọn lựa ấy không cần nói cả thảy các con cái Đức Chí Tôn đã để trong cái trí và trong mình rồi. "Hữu nhan sắc hữu ác đức" lời cổ nhơn đã để lại quả không sai đó vậy.

Bây giờ chúng ta nghĩ lụng lại, nếu như một người lịch sự kia chúng ta để trong óc não của họ, dạy dỗ họ cho có tâm hồn Nhân Đức Đạo Nghĩa biết giữ khuôn khổ của một người đàn bà thì đáng giá là người của thiên hạ đó là vì họ lấy Tam Tùng Tứ Đức làm căn bản.

Người lịch sự ấy làm y theo lời mình đã dạy thì quí hóa thế nào, tôi tưởng cả thảy trên mặt địa cầu này, nếu người đàn ông nào để ý lập đời thì mơ mộng có một điều là : Được người vợ nhân từ Đạo Nghĩa mà lại đẹp thì còn hạnh phúc nào hơn nữa.

Nếu có tay nào đào tạo được như thế thì dám chắc cả thiên hạ khen tay đó lắm vậy.

Ấy vậy tâm hồn của thiên hạ như thế đó, ta thử hỏi có thể nào đào tạo nhơn loại, đẹp đẽ như sự mơ ước của chúng ta đó hay chăng ? Bần Đạo trả lời Đạo Cao Đài sẽ đào tạo họ.

 

Ngày 15 tháng 3 năm Giáp Ngọ (1954)

9.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO TRONG LỂ KỶ NIỆM CỰU HOÀNG THÀNH THÁI

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ,

Chư viên quan giới chức,

Cả con cái Đức Chí Tôn Lưỡng Phái.

Ba bài Ai Điếu của Hội Thánh, Quân Đội và Phục Quốc Hội đã tả một đời thống khổ Cựu Hoàng Thành Thái đã rõ rệt, Bần Đạo không thể nói được nữa, bởi vì đã đầy đủ quá rồi, Bần Đạo nói ra đây để làm chứng về tinh thần của một dân tộc đã bị nạn lệ thuộc 80 năm, thật ra thì Ngài, Đức Hàm Nghi, Đức Duy Tân, ở trong Hoàng Tộc đều kế vị nhau ngồi trên ngai vàng không muốn thừa hưởng của Tổ Tiên để lại, mà lại vì Dân vì Nước vì Chủng Tộc hy sinh cả ngai vàng của mình làm Cách Mạng, Bần Đạo xét lụng lại cái dĩ vãng trong 80 năm lệ thuộc thì Bần Đạo lấy làm vui hứng và khoái lạc, nếu không nói là kiểu hãnh mà ngó thấy, một Dân Tộc từ Dân lên trên nữa là Chúa, Vua Chúa nhứt định không chịu án nô lệ, chẳng có buổi nào mà Quốc Dân Việt Nam không kiếm phương xô ngã cái án lệ thuộc ấy, biết bao nhiêu đoàn Anh của chúng ta trong giai đoạn 80 năm chịu đau khổ đủ điều, mà trong đoàn Anh ấy Đức Cựu Hoàng Thành Thái là Chúa. Ngộ nghỉnh một điều là lo cái năng lực cường quyền áp bức thế nào thì cái tinh thần cứng rắn kia chẳng hề khi nào khuất phục, nếu buổi nọ đối với Pháp mà Ngài hạ mình một chút thì chắc Ngài còn ở trên ngai vàng, trái lại Ngài đương đầu cùng cường quyền ấy.

Nối chí của Ngài là Đức Duy Tân, con ruột của Ngài, thật đúng như lời tục Việt Nam ta nói, cha nào con nấy, thật đáng làm Chúa của nòi giống Việt Nam lắm, vì cớ cho nên dầu cho đương nhiên giờ phút này, nếu Pháp không trả độc lập thì Dân Tộc Việt nam cũng đồng tâm tranh đoạt cho được độc lập của nước nhà, họ tranh đấu bằng mọi phương-pháp để thâu hoạch cho đặng nền độc lập ấy.

Cốt yếu chỉ biết một điều là Quốc Dân Việt Nam không chịu lệ thuộc, họ chỉ đợi có một việc mà thôi, là họ đợi trọn vẹn độc lập không chịu mãi mãi môït điều nào lệ thuộc nữa. Vì cớ cho nên cả toàn Dân đồng tranh đấu quật cường, Bần Đạo còn nhớ trong cảnh lưu đày nơi Hải Ngoại một thân ở nơi xứ lạ quê người, cả nề nếp của Tổ Đường, cả nề nếp Phong Hóa của nền Văn Hiến, hai vị Đế Vương chẳng hề khi nào bỏ, chẳng hề khi nào quên. Bần Đạo còn nhớ, khi Bần Đạo bị lưu đày đi trên chiếc tàu Combattant đi đến Đảo He de la Réunion cả thảy trên tàu người ta đều được thong thả đi lại, còn Bần Đạo bữa đó bị nhốt dưới tàu, Ngài hay tin Ngài gởi nhắn lời thăm Bần Đạo. Một cảm tình năm 1944 ở trong tù vừa ra thì tiếp được bức thơ của Đức Duy Tân gởi thăm, nhờ đó mà các thơ từ qua lại cùng Đức Thành Thái và Đức Duy Tân, Bần Đạo nói thật cả cái mơ vọng của hai Ngài là định vận mạng nước nhà chủng tộc mà thôi.

Vì cớ mà Bần Đạo đã lưu một tình cảm với Đức Duy Tân lắm lắm...

Hại thay ! Trời chẳng chìu người cả một chương trình cả một biện pháp đã thương lượng cùng nhau thì cái chết của Ngài làm cho tan rã tiêu huỷ hết.

Cuộc tranh đấu của Cao Đài hôm nay chẳng khác nào như áo vá vai quàng, thật khi Ngài về được nước nhà chính mình Đức Thượng Hoàng Thành Thái và Tôi có gặp mặt nhau một phen ở Sài Gòn, Tôi còn nhớ một cái chí khí già rồi mà vẫn còn mãi mãi, khi đàm đạo với nhau, luận về tương lai của Tổ Quốc nòi giống, khi hai tôi lìa nhau, rồi Ngài đưa ra ngoài cửa đi nữa đường ra cửa Đức Thượng Hoàng day lại nói với Tôi một cách quả quyết cứng cỏi rằng : Ngài đừng tưởng tôi già mà Ngài bỏ, Ngài cho tôi con ngựa cây gươm tôi chiến đấu Ngài coi, dầu cho một vị anh hùng hay anh quân cũng thế, tuổi đã già mà chí khí vẫn còn mãi chẳng hề khi nào thay đổi, có một điều ân hận hơn hết là tại sao đã gọi nước Việt Nam độc lập mà khi Đức Thượng Hoàng Thành Thái trở về, thiên hạ không cho Ngài trở về cũng cho đến nước chính mình Bần Đạo phải  làm tờ xin cho Ngài về đặng tạm cầm quyền hành trở lại, nhưng nghĩ cũng chưa có một quyền hành gì và cho đến khi Ngài chết mới đem về được.

Bần Đạo nghịch nhất thử hỏi độc lập chúng ta giờ phút này phải bánh vẽ hay chăng ? Nội bằng cớ làm chứng quả quyết cái lịch trình tranh đấu của nước Việt Nam vẫn còn tiếp tục không bao giờ chấm dứt.

ĐÁP TỪ CỦA HOÀNG TỬ VĨNH CẦU

Thưa Hội Thánh,

Thưa các Ngài Chức Sắc Tòa Thánh,

Thưa Thiếu Tướng cùng BCH Trung Ương Phục Quốc Hội.

Tôi hân hạnh được mời dự cuộc Lễ Truy điệu Phụ Thân chúng tôi và sự tế lễ rất nên trang hoàng. Tôi chẳng biết lấy chi để đáp đền ơn trọng. Vậy tôi xin thay mặt cho cả gia đình chúng tôi tri ân nồng hậu cùng các Ngài.

 

Tại Đền Thánh Đêm 15 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1954)

10.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ  LÝ-DO CHUYẾN ÂU-DU CỦA ĐỨC NGÀI  

Ngày thứ ba tới đây, tức nhiên là ngày mốt, Bần Đạo sẽ đi đến Sài Thành đặng sang Âu Châu, vì có lời thỉnh mời của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, lại nữa Bần Đạo có phận sự Cố Vấn của Ngài, đương buổi này Ngài phải lo một điều rất trọng hệ là Ngài làm thế nào thâu hoạch cho nền Độc Lập hoàn toàn thống nhứt Hoàng Đồ, và phải Hội Nghị cùng Vạn Quốc tại Genève (tức nhiên Hội Nghị Genève) vì cớ cho nên Ngài mời Bần Đạo đi qua Âu Châu. Tuy vẫn nói rằng qua Âu Châu mặc dầu, kỳ thật Ngài nói Ngài mời vị Cố Vấn tối cao của Ngài đến hiệp cùng Ngài đặng liệu phương về hạnh phúc cho Tổ Quốc cho Giống Nòi của Việt Nam đó vậy. Lãi nữa đã trót năm nay Chánh Phủ Pháp cũng muốn mời Bần Đạo đến nước Pháp, nhưng vì thời cuộc trong nước nên Bần Đạo không thể đi được. Hôm nay nhơn dịp Đức Quốc Trưởng mời, nước Pháp cũng có mời Bần Đạo đến viếng một lượt. Trong buổi này Bần Đạo đến Âu Châu sẽ nhiều phận sự trọng yếu để đem ra thi thố. Nhứt là ngọn Cờ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn đem đến Âu Châu để cho Đức Chí Tôn có đủ năng lực uy quyền đặng cứu bãn tình thế rắc rối loạn ly.  Thật ra nếu nói nhơn loại bị một sự khảo đảo nặng nề, bị khủng bố tinh thần vì thời cuộc ấy họ đương lo sợ, e cho trận giặc đại chiến thứ ba không thể tránh khỏi. Họ tìm phương đặng giải quyết, tức nhiên làm một thứ bảo vệ hòa bình cho nhơn loại.

Các con trên kia Thánh Thể của Ngài tức nhiên cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn giờ phút này đã lo sợ cho Đồng Bào của nước Việt nam thật ra các phặn của Đức Chí Tôn giao phó từ khi Ngài đến mở đạo tới giờ, cái Thánh Thể của Ngài tức nhiên Nòi Giống của nước Việt nam ta đó vậy.

Ngài đã chỉ bảo cái nền Chơn Giáo cốt yếu là một nền Tôn Giáo của toàn thể Nhơn Loại, nhứt là Ngài giao cho chúng ta một cái sứ mạng đặc biệt là làm thế nào đặng giải ách lệ thuộc cho Nòi Giống và bảo thủ Hoàng Đồ Tổ Phụ ở nước Việt Nam. và toàn cả con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy sứ mạng đó nó rất khó khăn phải hy sinh thế nào đặng thực hiện được nền độc lập thật sự.

Vì cớ cho nên Ngài đã giao cái sứ mạng nặng nề cho chúng ta, Ngài mượn Sắc Dân Việt Nam là một Sắc Dân nhỏ nhoi hèn  mạt đang ở trong vòng lệ thuộc đặng làm Thánh Thể của Ngài, Ngài cố ý để hiển nhiên trước mắt cho toàn nhơn loại ngó thấy. Ngài không muốn cho Thánh Thể của Ngài ở trong vòng lệ thuộc nữa, không lẽû Ông Trời mà chịu làm lệ thuộc sự Thiêng Liêng quí trọng ấy là Ngài giao cho dân Việt và dòng máu Việt. Cái phận sự Thiêng Liêng quí trọng ấy là Ngài giao cho Dân Việt Thống Nhứt Hoàng Đồ từ Nam chí Bắc để bảo thủ giang sơn thống nhứt mảy may lại, theo ý tưởng của Bần Đạo như thế ấy vậy, trong Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên con cái của Ngài đã chịu biết bao nhiêu khổ hạnh truân chuyên nguy hiểm, biết bao nhiêu Thánh Tử Đạo, họ làm tiền phong đặng bảo vệ sanh mạng tài sản cho chúng ta, đương đầu với sự tàn ác giết chóc của loạn ly, vậy mà cả tướng soái của Đạo cả chiến binh của Đạo, họ vẫn hăng hái hy sinh vì nghĩa vụ ấy.

Vì cớ cho nên, họ đã vì phận sự Thiêng Liêng ấy mà bỏ mình, nên Đức Chí Tôn dành để cho họ địa vị Thánh Tử Đạo, là vì lẻ đó thật cái hy sinh cao thượng ấy chúng ta thử nghĩ lại coi từ cổ chí kim chưa hề có ai làm đặng. Giờ phút này Bần Đạo phải tiếp tục làm phận sự Cố Vấn tối cao trong nước Việt Nam cho Hoàng Thượng Bảo Đại. Vì lẻ trước kia phân hai Dân Việt và Pháp ký hứa trả nền Độc Lập cho nước Việt Nam. Hôm nay Bần Đạo muốn đem qua nước Pháp cầu xin phải ký Hiệp Ước,  tức nhiên nước Pháp phải giao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho nước Việt Nam, Bần Đạo sẽ còn làm phận sự của mình nữa là làm cho Hoàng Đồ Thống Nhứt.

Mới đây Bần Đạo vừa nghe hai đảng phái Quốc Gia và Cộng Sản muốn chia Hoàng Đồ làm hai, lấy Vĩ Tuyến 16 làm ranh giới. Theo Thánh Ý của Đức Chí Tôn đã định, nên Bần Đạo mới có viết môït bức thơ không niêm gởi cho ông Nguyễn Ái Quốc, tức là Hồ Chí Minh, cho biết Giống Nòi Việt Nam không thể chia đôi và toàn thể Quốc Dân không chịu nhị chúa như : Nguyễn, Trịnh thuở trước. Từ Hoành Sơn đổ ra là Chúa Trịnh, hai khối ấy làm cho biết bao nhiêu sanh mạng của nòi giống phải hy sinh vô cớ. Ngày mai Thánh Thể của Đức Chí Tôn không chịu chia đôi như trước nữa, chỉ lấy cái số mạng làm của sang giàu mà thôi, thì mặc cho ai vì quyền, vì lợi, họ tranh nhau thây kệ họ, dầu cho Quốc Gia hay Cộng Sản cũng vậy, không còn nghĩa lý gì nữa. Bần Đạo sẽ dìu dắt cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đến địa vị Trung Lập.

Giờ phút này chúng ta ngó thấy trong một gia đình kia. Một người anh hay em chơn chất thật thà, ta không nên quá thật thà rồi cha thằng dại, Bần Đạo đã dạy về lẻ đó rồi : Vì thấy một người anh thật thà chơn chất bị một đứa em mình xảo quyệt gian dối nó đã ăn qua mặt và hiếp bức nên chúng ta binh đó thôi, ngoài ra ta không vì danh vọng, quyền lợi, mà trái lại ta coi Tổ Quốc là trọng.

Ngày nay Thánh Thể Đức Chí Tôn đến giai đoạn làm một vị Giáo Sư Hòa Giải đặng đem cái hạnh phúc lụng lại cho Nòi Giống Việt Nam trước đã, rồi đây ta sẽ chịu khó đặng làm khuôn vàng thước ngọc để nơi mặt địa cầu này, đem tương lai hạnh phúc cho chủng tộc thì cơ khổ của Đức Chí Tôn dầu có ân cũng là thường.

 

Ngày 16 tháng 4 năm Giáp Ngọ (1954)

 11.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ CÁC CƠ QUAN HÀNH-CHÁNH ĐẠO VÀ QUÂN-DỘI TIỂN ĐƯA ĐỨC NGÀI SANG PHÁP.

Thưa Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái.

Mấy Em Nam, Nữ con cái Đức Chí Tôn,

Và các Thanh Niên các con Quân Đội.

Hôm nay Thầy lãnh sứ mạng Thiêng Liêng đem ngọn Cờ Cứu Khổ đến Âu Châu, mong rằng cánh hạt huyền linh của Đức Chí Tôn sẽ đem tình yêu ái vô biên của Ngài đặng an ủi tâm hồn các chủng tộc nơi Âu Châu. May ra nhờ lòng yêu ái vô biên, quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ sẽ làm cho một trường hổn loạn trở nên Thái Bình và Hạnh Phúc cho cả Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu nà. Bần Đạo chỉ mong có một điều là tinh thần mấy triệu con cái Chí Tôn cũng như một tinh thần của Bần Đạo.

Buổi Bần Đạo vắng mặt cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn cầu nguyện cùng Ngài ban phước lành cho toàn thể Nhơn Loại là một điều trọng yếu hơn hết, và tha thứ cả tội tình của họ gây nên, rồi đem Chơn Truyền lập Đạo Giáo cho họ, để họ giải cả oan nghiệt đã tạo nên từ trước.

Thật ra chúng ta ngó thấy hai trận đại chiến vừa qua, đã gây nên cũng bởi nơi Âu Châu hết. Trong trường sát khí thấy hiển hiện ra trước mắt, chẳng phải nơi Á Đông này, mà thật ra bên Âu Châu khởi đầu mà chớ ! Giờ phút này Nhơn Loại đang mơ ước hòa bình, Nhơn Loại đang khao khát hạnh phúc lắm vậy.

Hại thay ! Những kẻ làm đầu Nhơn Loại, thay vì họ biết phận sự Thiêng Liêng tối yếu, tối trọng ấy đặng làm cho Nhơn Loại hết khốn khổ, dứt bạo tàn, lất cả tâm ái của Đức Chí Tôn làm căn bản hiệp chủng, làm thế nào cho Nhơn Loại biết mình là con người duy có một mà thôi :

Một về Nòi Giống.

Một về Xã Hội.

Một về Đạo Đức tinh thần.

Hôm nay Đức Chí Tôn đem nền Chơn Giáo của Ngài rải khắp trên mặt Đức Chí Tôn, và nó đã thiệt hiện như thế. Chính Ngài làm đặng Ngài bảo vệ hạnh phúc, bảo tồn mạng sống của Nhơn Loại cho bền chắc. Còn một điều trọng yếu là Bần Đạo Âu Du thì toàn thể Thánh Thể, cả con cái Đức Chí Tôn, các con Quân Đội, phải lấy tâm hòa-ái đối đải với nhau, cũng như có Bần Đạo trước mặt vậy.

Một điều trọng yếu hơn nữa là cả thảy cầu nguyện thế nào cho ngọn cờ Từ Bi bao phủ trên mặt địa cầu này. Nếu mơ ước không có diệt vong mà thiệt hiện ra được. Bần Đạo dám chắc không có điều chi vui cho Đại Từ Phụ hơn điều đó.

Bần Đạo xin để lời từ giã và mong ước khi ra đi thế nào, đến khi về thấy cả con cái Chí Tôn cũng như thế ấy.

Ngày 24 tháng 6 năm Giáp Ngọ (1954)

12.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ TRONG DỊP HỘI-THÁNH ĐÓN-TIẾP ĐỨC NGÀI ÂU DU TRỞ VỀ

Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Các con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn,

Các Binh Sĩ, hàng Sĩ Quan Đạo và Đời.

Bần Đạo lấy làm cảm kích đã hưởng được một cái hạnh phúc của toàn thể con cái Đức Chí Tôn ban cho trong cuộc tiếp rước một cách long trọng nồng nàn đủ đầy tình ái.

May thay ! Trên 2 tháng đến xứ Pháp, nhờ ân Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn ban bố quyền năng vô đối của Ngài mà Bần Đạo đã đặng thỏa mãn, và có phương kế làm cho đôi bạn đã sống chung cùng nhau trên 80 năm trường, vì lầm hiểu nhau mà không đem lại hòa bình của hai nước đặng.

Bần Đạo nhờ được thiên hạ hiểu biết, nhứt là Quốc Dân Pháp đã rõ tâm tình của Bần Đạo thế nào, và đã hiểu lời yêu cầu của hai nước cho chóng đặng hòa bình, đem nền tự do hạnh phúc cho hai dân tộc đã chung sống cùng nhau trên 80 năm dư. Y như lời Bần Đạo khi Hội Nghị Toàn Quốc, Bần Đạo có nói một câu Pháp ngữ như vậy :

"Que la France nous aide. Afin que nous puissions réaleser notre indépendance nation et édéfier le temple de I'unoin francaise".

Nhờ cầu ấy mà toàn thể quốc dân đặng hiểu rằng : Cả toàn thể quốc dân có cái nguyện vọng nồng nàn, là làm thế nào cho toàn cả quốc dân thiện hiện đặng nền độc lập, vì lẻ tranh thủ nền độc lập ấy mà Nòi Giống Việt Nam chia đổi xẻ bảy.

Bần Đạo nói : Nếu không hoàn toàn thâu đặng nền độc lập, thì chúng ta có thể đem tiếng chuông cảnh tỉnh của Đạo làm cho Quốc Dân Việt Nam Thống Nhứt, và làm cho cả nguyện vọng của toàn quốc được thỏa mãn độc lập tự do hạng phúc.

 

Bần Đạo nhờ ân Thiêng Liêng giúp đỡ làm đặng điều ấy.

Đền Thánh Đêm Mùng 1 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1954)

13.- ĐỨC HỘ PHÁP TƯỜNG-THUẬT VỀ KẾT-QUẢ CHUYẾN ÂU-DU

Đêm nay cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ đi cúng đông dữ. Bần Đạo biết cái đông là vì cớ nào. Nói mà nghe trong hai tháng vắng mặt Bần Đạo cả thảy đều trông về đặng nghe.

Nhờ ơn Đức Chí Tôn ban đặc ân Thiêng Liêng mà Bần Đạo và Hồ Bảo Đạo trong hai tháng trường đã xuất dương, nếu không nói rằng : Đi hành Đạo Âu Châu mà không có quyền năng Thiêng Liêng ban cho thì cái thân Già này chưa chắc mạnh khoẻ trở về đây.

Như con Vụ, vùi vẫn trong hai tháng trường hỏi tại sao không đau. Một điều nên để ý, từ trước Đức Chí Tôn có nói và hứa quả quyết rằng :

"Nơi nào con đến là có Thầy"

Một lời hứa hiển nhiên, nên Bần Đạo có hơi ỷ mình một chút rồi cũng qua khỏi.

Đức Chí Tôn đến dạy Bần Đạo lúc nọ, Đức Tin của Bần Đạo chưa có gì hết. Không biết Ổng tạo nền Chơn Giáo như thế nào, Ổng biểu đem dâng cả thi hài, trí não, hồn phách cho Ổng lập Đạo. Bần Đạo không tin, không nói, không trả lời một cách nào quá đáng. Bần Đạo trả lời : Thưa Thầy, cảm tưởng của con biết con, và con  biết Đạo Thầy biểu con làm phận sự bắt chước làm Phật Thích Ca, Đức Lão Tử, Đức Khổng Phu Tử, hay là Đức Chúa Jésus Christ thì con không làm đặng, con chỉ biết con là Tắc đây thôi, Ổng trả lời : Tắc, thoảng như Thầy lấy tánh Đức của con để lập Giáo con mới nghĩ sao ? Bần Đạo hết đường trả lời.

Từ thử đến giờ Bần Đạo ỷ mỉnh hể đi đến đâu, hay đứng trên giảng đài nào Thuyết Đạo, Bần Đạo cứ nói càng không hiểu mình nói trúng hay nói trật, ai ngờ nói trúng, có một điều ngộ nghỉnh mà Bần Đạo đến Miên Triều, Miên Hoàng tuyên bố cho cả Quốc Dân Miên hay : Đấng nầy đi đến đây đem Hòa Bình lại cho nước nhà Miên, nòi giống Miên đó.

Rồi qua Âu Châu vừa bước chân lên đất Pháp họ cũng nói điều ấy. Đem Hòa Bình cho thiên hạ đem hòa bình làm sao không biết ! Điều đó Bần Đạo chỉ tin  nơi Đức Chí Tôn làm sao hay vậy. Có hòa bình thiệt mà nước Việt Nam đoạt đặng hòa bình. Nhưng ôi ! Quả kiếp của Việt Nam đã dầy dặng quá. Bần Đạo cầu xin Đức Chí Tôn hai điều : xin đặng Hoà Bình, nhưng nạn đổ máu của Nòi Giống không sao tránh khỏi!.

Cả con cái Đức Chí Tôn ! Cái đau thảm của Bần Đạo hơn hết là nạn máu đổ của nòi giống ta, Bần Đạo vì yêu cái Tổ Quốc, vì thương mến Giống Nòi đã hy sinh nữa kiếp người phế Đời hành Đạo chịu khổ hạnh mọi điều, chỉ mong có một điều là làm thế nào là giải ách lệ thuộc cho nòi giống, tạo dựng độc lập cho nước nhà, Bần Đạo mơ vọng có bao nhiêu đó nên liều hy sinh một đời mình, Bần Đạo chỉ cầu bao nhiêu đó mà thôi.

Ngoài ra nữa Đức Chí Tôn biểu Bần Đạo làm nô lệ tôi đòi cho nhơn loại với một giá nào Bần Đạo cũng chịu, nhưng mong cầu cho tiêu tan quả kiếp của nòi giống mà không đặng.

Trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy cái tấn tuồng chia đôi Hoàng Đồ của Tổ Quốc nó đã tái diễn. Nhớ lại Tiểu Sử của nước Việt Nam hồi đời nhị Chúa, cái loạn ly trong nước khẳng khác nào Tây Sơn buổi nọ. Cái quả kiếp hiển nhiên là chia đôi thiên hạ mà cả con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy trước mắt, vì cớ trả vay ấy chúng ta mới có thể tạo dựng nước nhà đặng.

Khi đến Ba Lê (Paris) Bần Đạo cùng phái đoàn vào Đền Thời Notre Dame quả quyết cầu nguyện cho Hội Nghị Genève thất bại, nếu Hội Nghị Genève kết liễu sẽ chia đôi Hoàng Đồ của chúng ta. Nhưng cả thảy chúng tôi hết tâm cầu nguyện mà không hiệu nghiệm, là vì quả kiếp vẫn vậy phải trả vay mà chúng ta trả bằng một cái giá rất đau đơn, khổ não tâm hồn chúng ta trước cảnh chia đôi Hoàng Đồ Tổ Quốc của chúng ta.

Bần Đạo để dấu hỏi có phải chăng ; duy có một phái đoàn năm ba người cầu nguyện tại chổ đó không đắc thành, lời cầu nguyện không cảm ứng. vậy Bần Đạo cậy nhờ cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn thành tâm cầu nguyện đặng nạn chia đôi Hoàng Đồ của chúng ta thống nhứt lại. Vì Bần Đạo ngó thấy trước mắt cái vụ thống nhứt Hoàng Đồ của chủng tộc vẫn để, nhưng chỉ khắc khe có một điều họ coi đảng phái họ, cá nhân họ, đoàn thể họ, họ trọng danh dự quyền lợi của họ hơn là vận mạng Tổ Quốc.

Hoàng Đồ chúng ta bị chia xẻ, nòi giống mình đau khổ. Nước nhà ta bị trên 80 năm lệ thuộc, giờ đây thấy trước mắt mà họ còn đương mê muội đang hám vọng.

Một lần nữa Bần Đạo cậy mượn con cái Đức Chí Tôn nhứt là Thánh Thể của Ngài cầu nguyện để phá tan cái hám vọng của họ, đặng thống nhứt tinh thần lại làm một.

Bần Đạo chỉ mong điều ấy.

 

Tại Đền Thánh Đêm 15 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1954)

14.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ SỨ MẠNG TRUYỀN-GIÁO

Đêm nay Bần Đạo giảng cho cả Chư Chức Sắc và Thanh Niên có sứ mạng Thiêng Liêng Truyền Giáo nên để ý. Bần Đạo đã thường giảng nhơn loại trong thế kỷ 20 này đang bị thử thách về tinh thần, trí não mà từ tạo Thiên lập Địa tới giờ chưa có, nhứt là giờ phút này 92 ức nguyên nhân họ đã bị thử thách một cách rất đau đớn  khổ não.

Đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng Đức Chí Tôn giao phó, những thân phàm chúng ta phải hoạt bát với khối tinh thần  vô đối để giải thoát nhơn loại khỏi cảnh tương tàn. Nhưng rất tiếc cho các vị lãnh sứ mạng đã không giúp ích cho nhơn loại mà lại còn tìm tàng những điều làm cho thiên hạ phải khổ sở, nhứt là tạo các võ khí giết người.

Thời đại nguyên tử này làm cho họ ăn năn hối ngộ, bị thử thách đau đơn hơn hết là hạng thượng lưu trí thức, những hạng ấy Chí Tôn đã cho họ một cái địa vị cao trọng của các nền Chơn Giáo, họ đoạt tới Bí Pháp huyền vi Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, rồi họ lại tự xưng mình là địa tiên, nên họ sản xuất những triết lý tôn giáo vô thần, xô đẩy họ cho đời là hạng vô tri vô giác.

Hại thay ! Không biết họ có thuận tùng hoàn cảnh chịu làm con vật để giúp đời hay chăng ? Chắc không thể họ làm đặng. Vì cớ cho nên tội nghiệp thay hạng thượng lưu trí thức trong 92 ức nguyên nhân đang bị đọa đày nơi bể trần cõi tục, vì hạng ấy lại có lắm kẻ cố tâm hại Đạo nên phải chịu luật vay trả. Bần Đạo trông lại giờ phút này bao nhiêu người bị đói khát, cũng như kẻ bệnh hoạn kia chờ thuốc. Họ trọng Đạo một cách không thể tưởng tượng được. Vì sự thử thách gian xảo của đời không biết bao nhiêu kể.

Tội nghiệp thay ! Nhưng Đấng hữu hạnh ngộ Đạo mà chưa được hưởng hồng ân của Đức Chí Tôn, chỉ được gần gũi các Đấng ấy mà thôi. Trông xa Đền Thánh là những Đấng được Đức Chí Tôn ban hồng ân vì họ đã từng chịu đau khổ tâm hồn không thể tả được, nên họ mới hưởng được địa vị ấy.

Mấy em Nam, Nữ đây rồi mấy em sẽ lãnh sứ mạng Thiêng Liêng đem giọt nước Cam Lồ rưới vào tâm hồn đau khổ của nhơn loại. Họ đang trông chờ ở mấy em. Bần Đạo đã hứa chắc rằng giờ phút này họ đang trông đợi mấy em, nếu mấy em cố gắng trong sứ mạng thì họ yêu ái, kính trọng mấy em một cách nồng nàn chơn thật. Bần Đạo đã làm chứng hiển nhiên trước, vì Bần Đạo cùng Hồ Bảo Đạo đã nhận thấy điều ấy.

May thay ! Giờ phút này Đức Chí Tôn để mỗi phần thưởng cho con cái của Ngài, cho kiếp của mấy em. Vì cớ cho nên mấy em được đứng vào hàng Thánh Thể, Bần Đạo chỉ mong một điều cũng như Đức Chí Tôn đã nói : Mấy em hưởng hạnh phúc, mấy em cũng nên trông ngó lại 92 ức nguyên nhân, dầu xa, dầu gần, dầu trong thân nhân hay ngoại tộc, mấy em nên tìm tàng những điều hay giúp họ trong đường Đạo, để họ thoát khỏi cảnh khổ đọa đày này. Dầu trong hành vi hay kiếp sống mấy em cũng không bao giờ hiểu đặng nguyên nhân hay hóa nhân. Mấy em có biết đâu những hạnh nghèo hèn kia là những chơn linh trong cửu nhị nguyên nhân đầu kiếp. Nếu rủi họ đầu kiếp ở chung cùng mấy em với số phận cùng khổ, mấy em thấy họ hèn mạt đần độn rồi mấy em khi rẻ họ, tưc nhiên mấy em sẽ đắc tội với họ.

Ấy vậy Bần Đạo để lời căn dặn con cái Na, Nữ của Đức Chí Tôn nhứt là trong hàng Thánh Thể, rán gìn giữ cho lắm để một ngày kia về nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống gặp họ rồi sẽ ân hận mà không dám nhìn mặt họ mà chớ.

 

Ngày 20 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1654)

15.- LỜI PHỦ DỤ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRƯỚC KHI ĐỨC NGÀI SANG ĐÀI-LOAN

Thưa cùng Chư Vị cầm quyền các cơ quan Chánh Trị Đạo,

Con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Thượng Hạ Sĩ Quan Quân Đội Cao Đài.

Hôm nay Bần Đạo vừa được lãnh một sứ mạng mới do ý muốn của Đức Chí Tôn Bần Đạo vừa được Chánh Phủ Trung Hoa mời đến Đài Loan, chủ định của họ mời Bần Đạo chỉ vì Đạo mà thôi. Cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã hiểu rõ nền Triết Lý Văn Minh Tối Cổ của Trung Hoa Dân Quốc. Biết đâu cả con cái Đức Chí Tôn giờ phút này được gần gủi Ngài, làm đường đi cho Ngài mà được hưởng tự do hạnh phúc Thiêng Liêng vô tận. Hôm nay Ngài muốn chia xẻ hạnh phúc ấy cho một nòi giống một chủng tộc, một màu da, một sắc tóc với nhau. Bần Đạo chẳng cần nhắc lại cả thảy Quốc Dân Việt Nam cũng đã biết rằng : Nòi giống của mình vẫn là một nòi giống của Tàu. Nước Việt Nam của chúng ta đã bị Trung Hoa thâu phục hết rồi. Tổ quán của chúng ta chỉ có Đông Kinh, tức nhiên là Bắc Việt. Hôm nay sợ e về tay Trung Hoa mà chớ.

Ấy vậy ta còn danh Việt mà mất Tổ Quán. Dân Việt ta bị đau khổ về mặt đời thử thách của Đức Chí Tôn đặng quả kiếp tiền khiên của Tổ Phụ ta đã tạo thành.

Hôm nay Thầy được danh dự của Đại Từ Phụ ban cho cầm cây Cờ Cứu Khổ để giải khổ cho nhơn loại, mình đã đau khổ mà đặng lãnh sứ mạng Thiêng Liêng để an ủi đau khổ của thiên hạ. Điều ấy làm cho chúng ta suy ngẫm lung lắm đó vậy.

Thật ra có hai cái đau khổ, cái đau khổ về xác thịt còn dễ chịu, khổ  về tâm hồn nó thái quá, mà Đức Chí Tôn lại cho tâm hồn là trọng, không coi thể xác là trọng. Bởi vì quyền năng vô đối của Ngài muốn vậy.

Hại thay ! Ngài không đến với các chủng tộc nhưng Ngài đã đến với chúng ta. Vì Ngài muốn đem Sắc dân hèn mạt thất quốc làm Thánh Thể của Ngài tức nhiên là Hội Thánh đặng đem rải khắp nơi hột giống thương yêu của Ngài, tức nhiên Đại Từ Bi, Đại Bác Ái đó vậy.

Hôm nay Bần Đạo cầm cờ và khối ấy đặng bủa khắp trong nước Trung Hoa tức nhiên là một chủng tộc của chúng ta.

Ở nhà Bần Đạo cậy cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn, các cơ quan Chánh Trị Đạo, cầu nguyện dùm cho Bần Đạo làm sứ mạng cho thành công và đắc lực.

 

Ngày 12 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954)

16.- ĐỨC HỘ PHÁP TUYÊN BỐ TẠI PHI TRƯỜNG TÂN SƠN NHẤT.

Khi Đức Ngài rước xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường-Để về đến Tân-sơn-nhất.

Đây là Di Hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, quí danh là Nguyễn Phúc Vân, Ngài là Đích Tôn của Đông Cung Cảnh tức là Tông Chi Hoàng Tộc. Cả toàn thể Quốc Dân đều biết dĩ vãng của Ngài, Ngài đã hy sinh một đời sống lưu vong nơi đất khách, cốt theo đuổi một mục đích, là làm thế nào phục hồi vận mạng Tổ Quốc, Độc Lập thiệt hiện.

Ngài cũng như Bần Đạo, tâm hồn của Ngài phù hạp với tâm hồn của Bần Đạo là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị, cùng đảng phái, đoàn thể, Tôn Giáo.

Một kiếp sống của Ngài, chỉ có một mục đích là làm thế nào phục vụ vận mạng Tổ Quốc và Đồng Bào Việt Nam.

Đau đơn thay ! Trên 40 năm lưu vong nơi đất khách. Ngài theo đuổi một mơ vọng mà Ngài không đạt đặng. Công chưa thành, danh chưa toại, Ngài đã thành người thiên cổ nơi đất khách quê người.

Hôm nay, Di Hài của Ngài đã được đem về nước : Do đó khối Anh Linh của Ngài cũng cùng về hiệp với khối Quốc Hồn của 4.000 năm lập Quốc.

Thê thảm thay ! Trước nữa giờ lâm chung, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cùng tất cả Thanh Niên Việt Nam hãy cương quyết phục cường cứu Quốc, rồi Ngài nằm thiêm thiếp.

Trước khi trút hơi thở cuối cùng Ngài còn rán kêu : "Việt Nam Muôn Năm".

Bần Đạo nghe thuật lại điều ấy, Bần Đạo cảm khích vô ngần. Những bạn đã lưu vong cùng Ngài đã khóc hết nước mắt. Khối tâm hồn Ái Quốc ấy hôn nay ước mong nó sẽ là một ngọn lửa Thiêng nung sôi tâm hồn của toàn thể Quốc Dân Việt Nam, bỏ thành kiến, bỏ đảng phái hiệp sức cùng nhau để cứu vãn tình thế nước nhà đang lúc nguy vong tan tác.

Trước khi dứt lời, Bần Đạo xin toàn thể Đồng Bào nối điệu theo dư âm khốn khổ của Ngài đã kêu cả toàn thể Đồng Bào của chúng ta. Bần Đạo hô như Ngài đã kêu gào thống thiết trước hơi thở cuối cùng của Ngài.

 

Tại Tòa Thánh, ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954)

17.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ VIỆC RƯỚC XÁC TRO CỦA CỤ CƯỜNG-ĐỂ VỀ NƯỚC

Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Thánh thể Đức Chí Tôn, Hội Thánh Nam, Nữ,

Các Cơ Quan Chánh Trị đạo.

Tiếp theo lời tuyên bố của Bần Đạo khi về đến Sài Thánh đã nói về đời sống của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Bần Đạo chẳng cần nhắc đi nhắc lại thì cả toàn thể Quốc Dân Việt Nam cả toàn Đạo cũng biết rõ sự hy sinh vô đối của Ngài, kiếp sống của Ngài chỉ có một mục đích quật cường giải ách lệ thuộc, thâu hồi Độc Lập và Phục Quốc cho Đồng Bào. Khi mới đến Tân Sơn Nhất Bần Đạo đã tỏ lời kêu gọi theo yếu thuyết của Đức Kỳ Ngoại Hầu lúc lâm chung. Cả một đời sống hy sinh của Ngài mong tạo hạnh phúc cho Tổ Quốc cho Giống Nòi mà phải chịu chẳng biết bao nhiêu gian truân khổ não, cũng chỉ vì lòng ái quốc vô đối của Ngài.

Cả Thanh Niên Việt Nam nên ghi nhớ những lời nhắn gởi của Ngài, trước nửa giờ chết, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cho toàn Thanh Niên Việt Nam phải cương quyết quật cường cứu Quốc, mặc dầu còn một hơi thở cuối cùng, nhưng Ngài còn rán hô "Việt Nam Muôn Năm" rồi mới tắt thở.

Bần Đạo không thấy mà đã nghe Đồng Bào Việt Kiều ở Đông Kinh thuật điều ấy làm cho Bần Đạo khóc, và chính mình Bần Đạo chỉ biết khóc mà thôi.

Nối theo lời kêu gọi thống thiết của Ngài Bần Đạo về đến đây cũng xin cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái lập lại lời thống thiết trước giờ chết của Ngài. Bần Đạo hộ cả thảy đều hô theo :

"VIỆT NAM MUÔN NĂM".

 

Tại Tháp Đức Quyền Giáo Tông Ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954)

18.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ ANH CẢ ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG CHỊU KHỔ NHỤC BUỔI BAN SƠ ĐỂ NGÀY NAY CHÚNG TA ĐƯỢC VINH-HIỂN

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ

Thánh Thể của Đức Chí Tôn,

Các cơ quan Hành Chánh Đạo,

Các Em Nam, Nữ.

Mấy Con Nam, Nữ.

Hôm hay là ngày Vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, mỗi năm ngày Kỷ Niệm của Ngài Bần Đạo đã thuyết nên không có điều chi lạ, cả con cái Đức Chí Tôn có đặng mới mẽ điều chi chăng ?.

Trường hợp đã hiển nhiên trong thế sự, giờ phút này là giờ phút quyết  định, vận mạng tương lai của Tổ Quốc Việt Nam và vận mạng tương lai của chủng tộc nòi giống, tình trạng thay đổi một điều mới mẽ chúng ta nên để ý suy gẫm, ngộ nghỉnh thay, là chỉ có 30 năm xuất hiện mà Đạo Cao Đài, có một năng lực đào tạo thay đổi thế sự nước Việt Nam một cách đáng kể, nhứt là ảnh hưởng đương nhiên nó đã làm cho cả tâm lý của nhơn loại, vạn quốc đều phải để mắt đến nó, hỏi cái quyền hành tối cao tối trọng ấy, chúng ta ngó thấy có phải chúng ta làm nên đặng chăng ? Không : Không phải, kẻ thiếu đức tin, hay các nhà triết học thấy cả cái mạng vận đương nhiên của nó rồi quan sát, cả tình thế dĩ vãng của nó thì người ta sẽ nói Đạo Cao đài có một năng lực, họ tưởng đâu cái năng lực theo thế thường của thiên hạ, lấy cái mạnh, cái oai quyền, lấy năng lực tranh đấu, theo thường tình của nó là thành đặng, không Bần Đạo làm chứng rằng, không phải vậy, quả quyết không phải như vậy, bởi vì chúng ta nên quan sát cả tình thế nước nhà, cái tình thế đương nhiên của nòi giống ta, không phải năng lực chúng ra gầy nền uy tín cao trọng của nó được nhiên được, quyền năng ấy là quyền năng vô hình trong tay của Đấng Tối Cao Trọng, quyền năng vô biên của Đức Chí Tôn của Đại Từ Phụ đó ậy.

Bần Đạo đã quan sát và suy gẫm khi đã đem thân ra Quốc Tế, làm con hạt Đạo, đem cái tiếng thanh tao của tâm lý Đạo Đưc  tinh thần an ủi cả tâm hồn khổ não đương nhiên của họ Bần Đạo biết rằng, không phải quyền năng của mình mà quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn đó vậy.

Trước khi Đạo chưa ra khỏi nước, mà quyền của Đạo toàn cả thiên hạ đều biết cái Chơn tướng của Đạo chưa ra khỏi nước, mà quyền của Đạo toàn cả thiên hạ đều biết cái Chơn tướng của Đạo, thiên hạ đã tầm thấy trước, ấy vậy Bần Đạo nói cái giọt Cam Lồ Cứu Khổ của Chí Tôn, không phải rãi nội trong nước Việt Nam này mà thôi, mà cả toàn con cái Ngài và toàn Nhơn Loại chúng ta suy đoán như thế rồi chúng ta ngó lụng lại cái dĩ vãng của Đức Quyền Giáo Tông hồi mở Đạo, Đạo mới phôi thai, như trẻ sơ sanh kia vậy, mặc tình cho thiên hạ muốn để sống thì sống, muốn giết chết thì giết, họ đã mưu toan diệt tiêu nó bởi vậy ngày sản xuất nó ra với một huyền linh phi thường, thiên hạ kinh khủng sợ sệt, trước họ gần họ muốn cho nó trở nên một Tu Sĩ, mà tiếng tục người ta nói, Cụ Thầy Chùa kia mà thôi, và người ta mơ vọng cho nó trở nên như thế, người ta đã áp bức nó, người ta đã sỉ nhục, cái sỉ nhục ấy, người có thể làm chứng chắc chắn là Đức Quyền Giáo Tông và Đức Cao Thượng Phẩm.

Ngộ nghỉnh thay ! Cả cái sự sỉ nhục buổi nọ, hôm nay nó đã biến thành một vinh quang vô đối, Bần Đạo tưởng, nếu cả tâm chúng ta đem cái giá trị của hai Đấng mà so sánh, không ai tạo dựng nó, nếu không phải quyền năng  Thiêng Liêng Vô Hình, quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn mà làm nó đặng, trước người ta sỉ nhục tới một vị ngồi trên Ngai Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, người ta vẫn mạt sát chà đạp, hôm nay con cái của Người, đám em út của Người đó có thể có một quyền năng sửa Đời  cải Thế đặng, tạo Đời một cách mới mẻ vậy, cái năng lực chúng tôi tạo dựng riêng biệt không bắt chước ai không xin ai, chính mình chúng tôi tạo thành đó vậy.

Xét lụng lại cái dĩ vãng, ngó cái đương nhiên bây giờ của chúng ta, nếu cả thảy con cái của Đức Chí Tôn thấy thế nó làm chứng quả quyết cho người Anh Cả buổi ban sơ chịu khổ nhục đường nào hôm nay chúng ta hưởng được cái vinh quang phú quí, vinh hiển giờ này, đối với người buổi đó vậy, thật ra Đức Chí Tôn rất Công Bình và rất mạnh mẽ đó vậy.

Đêm hôm Bần Đạo có làm một bài thi để ghẹo Đức Quyền Giáo Tông :

THI

- Nguyện vọng như Anh đã thỏa rồi,

- Cố tâm kế chí có thằng tôi

- Bầu linh gậy sắt Ông an thế

- Chàng Giáng Xử Ma tớ giúp Đời

- Vững tiếng xa thơ già gắng đẩy

- Xuôi chèo bát nhã trẻ đua bơi

- Khuôn hồng trước Trời quang đảng

- Kế nghiệp mai sau vẫn có người.

 

 

 Ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954)

Nhân dịp lễ vía Đức Quyền Giáo Tông.

19.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ LỊCH-SỬ THÔNG-CÔNG VỚI CỎI THIÊNG-LIÊNG ĐỂ MỞ ĐẠO BUỔI BAN SƠ.

Năm nay Đạo đã được 30 năm, có lẽ là năm Kỷ Niệm xứng đáng nhứt.

Có nhiều người viết Đạo Sử và đã nói cho người Ngoại Quốc hiểu Đạo, trong ấy có nhiều điều không đúng sự thật, nhứt là trong các Bài Cơ, Đạo ban sơ thế nào ? Nhiều người đã nói đến, đã giảng Lịch Sử Đạo, nhưng không đúng sự thật chút nào hết. Sự thật như thế này.

Trong năm Aát Sửu, các Thầy, các Ông, từ hàng Thông Phán, Phủ, Huyện, muốn tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo lộn trong giới trí thức đường thời là : "Con người có thể thông công cùng các Đấng Thiêng Liêng Vô Hình được". Nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu Châu sôi nổi, nhiều sách vở đã tung ra cả hoàn cầu do các Hội Thần Linh Học và Thông Thiên Học đã khảo cứu một cách rõ rệt : "Loài người có thể sống với cảnh Thiêng Liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy". Cái triết lý ấy làm cho nhiều người, nhứt là hạng người học thức muốn tìm tàng thấu đáo.

Nơi hạng học thức ấy có một cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng Phẩm. Ban sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương pháp bên Âu Châu hay bên Pháp là Xây Bàn. Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền năng Thiêng Liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền vi bí mật Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra Càn khôn Vũ Trụ. Thật ra sách vở để lại cũng nhiều nhưng thật ra lý thuyết ấy làm cho chúng tôi chưa quyết định về tín ngưỡng cách nào mà đức tin đã có thật vậy.

Chúng tôi Xây bàn, có Các Đấng Thiêng Liêng, nhứt là các Đẵng Chơn Hồn cao trọng đến làm bạn với chúng tôi, nhứt là Cung Diêu Trì. Các vị Tiên Nữ đã đến với chúng tôi là : Thất Nương, Bát Nương, Lục Nương, rồi lần lần các vị Nữ Tiên, Nữ Phật nơi Cung Diêu Trì đến làm bạn với chúng tôi, sự làm bạn với tình tôn kính đó, chúng tôi chưa gặp ở thế gian này. Có hạnh phúc, được hưởng, chỉ có tình Bạn Đạo thì mới được như thế. Buổi đó làm cho chúng tôi thương yêu một cách lạ lùng, thường yêu dường như họ đã đến với chúng tôi, cùng xác thịt, đồng sanh, đã tới sống với chúng tôi.

Buổi ấy, Đức Tin chúng tôi khởi đương ra, nhờ người đầu tiên là Thất Nương Diêu Trì Cung. Sau khi Đức Chí Tôn, Ngài đến với danh hiệu lạ lùng là A Ă Â, vì khi Ngài đến Ngài gỏ có ba cái, chúng tôi tính theo cách Xây bàn. Hễ gỏ một cái là A, gỏ hai cái thì Ă, gỏ ba cái thì Â. Đấng A Ă ĂÂ này chỉ dạy Đạo và vấn nạn mà thôi. Khi xưng tên là A Ă ĂÂ, chúng tôi hỏi nữa thì Đức Chí Tôn không nói gì hết. Đức Cao Thượng Phẩm buổi nọ có nói : "À chịu tên Ông là A Ă ĂÂ rồi, vậy chớ Ông bao nhiêu tuổi ? Ông viết mãi, không biết bao nhiêu mà nói, trăm rồi ngàn, ngàn rồi muôn nà còn viết nữa". Đức Cao Thượng Phẩm nói : Sao Ông cả triệu tuổi vậy ?.

Chúng tôi thật không biết Ông A Ă ĂÂ là Đức Chí Tôn chút nào hết, bây giờ hiểu lại Ngài xưng là Tam, mà Tam là Càn Khôn Vũ Trụ định thể, ba chấm nói rõ là số ba, số Thiêng Liêng tạo vạn vật vậy.

Tới chừng Đức Chí Tôn xuống Cơ Bút, dạy Đức Cao Thượng Phẩm cầu Diêu Trì Kim Mẫu đến cùng chúng tôi, chính mình Đức Chí Tôn dạy chúng tôi làm lễ rước ngộ nghỉnh lắm. Trong buổi Hội Yến Diêu Trì, Đức Chí Tôn nói Hội Yến Diêu trì. Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi Tu đắc Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên Tửu, hưởng Bàn Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương tại mặt thế gian này, Đức Chí Tôn nói tạo Lễ Rước Diêu Trì Kim Mẫu là Hội Yến Diêu Trì, chúng tôi nghe lời vậy thì hay vậy. Chính Đức Chí Tôn biểu Bà Tư là Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu lo Lễ đó  và dạy Bà làm Lễ đó.

Thật ra trong Cung Diêu Trì có 10 Người, mà ở mặt thế này hết ba Người : Hộ Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh. Chúng tôi buổi đó không biết Hội Yến Diêu Trì theo Lễ phải làm sao, chúng tôi chỉ ngồi ngó, chính mình Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu phải đi gắp từ món ăn, đi mời các vị Nữ Tiên và Nữ Phật.

Trong năm Aát Sửu hội ngộ cùng Đức Chí Tôn và Đức Diêu Trì Kim Mẫu, khi ấy Đức Diêu Trì Kim Mẫu mới dạy chúng tôi hiểu biết chút đỉnh về Đạo Đức và lúc đó mới biết Đấng xưng là A Ă Â là Đức Chí Tôn đó vậy.

Khi Đức Chí Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chớ không phải mở Đạo Cao Đài, tới chừng chúng tôi cầm một cây Cơ và một ngọn Bút đi các nơi. Trọng yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông Đồ có sứ mạng trong Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này đã giáng sanh trước, đặng làm môi giới độ Đạo này. Đức Chí Tôn biểu chúng tôi Phò Loan, đặng Ngài dùng quyền năng Thiêng Liêng kêu gọi mấy vị Tông Đồ đó. Quả nhiên chẳng bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân rồi Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng : Có một người thờ Ngài rồi là Ông Ngô văn Chiêu, tức nhiên Đức Chí Tôn muốn thâu Ông làm Giáo Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ lùng suy nghĩ không ra nguyên cớ là Đức Chí Tôn biểu Bà Nữ Phối Sư Hương Hiếu may sắc phục Giáo Tông cho Người, kỳ hạn trong 10 ngày, Người sẽ được tôn làm Giáo Tông, trong thời gian 10 ngày, chỉ có 10 ngày mà thôi. Chúng tôi không hiểu nguyên cớ nào Ông Ngô văn Chiêu không hưởng được địa vị ấy.

Ông Ngô văn Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ Sứ buổi nọ , ở tại Hà Tiên do nới Cơ Bút, Đức Chí Tôn đến với Người và thâu Người làm Môn Đêh đầu tiên hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Trong khi đó Đức Chí Tôn đến với chúng tôi mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đức Chí Tôn chỉ nhà của Ông Ngô văn Chiêu cho chúng tôi và nói : Ngô văn Chiêu Thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết bạn cùng nó, vì cới cho nên chúng tôi mới biết Ông Ngô văn Chiêu.

Một buổi nọ chúng tôi đang Phò Loan, học hỏi như thường ngày, Đức Chí Tôn kêu chúng tôi và Đức Cao Thượng Phẩm đi vô trong Chợ Lớn, đến tại nhà của Đức Quyền Giáo Tông  của chúng ta bây giờ là Ông Lê Văn Trung, buổi nọ Ông Lê Văn Trung đang làm Thượng Nghị Viện. Hội đồng Thượng Nghị Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng Trưởng đời Pháp thuộc chức Nghị Viên lớn lắm Ông là Người Nam làm đến bực đó thôi, mà nghe ra Ông là Người quá sức đời, Tôi và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp chút nào, chính thật ra buổi nọ Tôi nghe Tôi kỵ hơn hết, nhưng định không làm điều đó được, nghe danh quá đời, chơi bời phóng túng không thể tưởng tượng. Mộ Ông Quan mất nước không thể tả hết, buổi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ Ngài, mục đích chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi, khi vô tới nhà thú thật với Ngài rằng : Chúng tôi được lịnh của Đức Chí Tôn, biểu chúng tôi đến nhà Anh Phò Loan cho Đức Chí Tôn dạy Đạo, Anh tính sao Anh tính. Ngộ quá chừng quá đổi, Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi biết. Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi Phò Loan, rồi thì chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông Nhập Môn đủ hết, chúng tôi không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí Tôn không ? Có khi tưởng Ông không tin  nơi Đức Chí Tôn nữa chớ. Trong nhà Ông có nuôi một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12, 13 tuổi gì đó, hai Cha Cọn kiếm đâu được ra một cây Cơ không biết. Vái Đức Chí Tôn rồi cầu Cơ, khi Phò Loan thằng nhỏ kia dầm đến cây Cơ thì ngủ, Ông thì thức, Cơ thì chạy hoài. Đức Chí Tôn dạy Ông nhiều lắm, không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai Người biết với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin Đức Chí Tôn.

Từ khi Đức Chí Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra Hội Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng, thì chúng tôi có thể nói rằng : Do nới Đức Quyền Giáo Tông mới xuất hiện ra Hội Thánh Cửu Trùng Đài đó vậy. Ngôi vị của Ông Saint Pière Giáo Hoàng của Thiên Chúa ở La Mã như thế nào, thì Ngôi vị của Đức Quyền Giáo Tông ngày nay cũng thế. Bởi vì chính mình Đức Chí Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội Thánh, Ngài đi đến đâu, Tôi và Đức Cao Thượng Phẩm theo Phò Loan để Đức Chí Tôn thâu Môn Đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền Giáo Trung Thượng Trung Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu khẩn Đức Chí Tôn thâu Môn Đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để Phổ Độ Chúng Sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí Tôn sai hết chúng tôi, tức Thập Nhị  Thời Quân đi Phò Loan cùng hết không chỗ nào không có Cơ Bút, Người thì xuống Miền Tây, Người đi Miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn Đệ xong, Thầy dạy chúng tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng, không có một miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo?

Khi đó Đức Chí Tôn thâu Ông Nguyễn Ngọc Thơ, tức là Phối Sư Thái Thơ Thanh làm Môn Đệ, Thái Thơ Thanh là bạn chí thân, tức là chồng của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thành thử mỗi người đều có Thiên Mạng nơi mình mà không ai biết, chính Bà là người cầm đầu Nữ Phái đó vậy.

Đức Chí Tôn thâu rồi mới biểu hai vợ chồng Ông Thái Thơ Thanh vào mượn Chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén đặng mở Đạo, Chùa Từ Lâm Tự chưa xong gì hết, có Chánh Điện, còn Đông Lang, Tây Lang thì chưa có, đàng này mấy Anh Lớn họp nhau xuất tiền ra làm cho xong.

Đến ngày Rằmg tháng Mười năm Bính Dần thì mở Đạo, chúng tôi gởi đơn lên Chánh Phủ Pháp xin mở Đạo công khai, trong đơn có kể tên những người Môn Đệ đầu tiên. Sau khi mở Đạo nơi Chùa Gò Kén, tức Chùa Từ Lâm Tự. Người cầu Đạo càng ngày càng đông, người Pháp buổi nọ sợ chúng tôi làm loạn, nên xúi giục Hòa Thượng Giác Hải đòi Chùa ấy lại, đuổi chúng tôi đi cho hết mở Đạo, đồng thời người Pháp bắt đầu làm khó Đạo, hăm he các Chức Sắc, họ lập hồ sơ đen để trừng trị những người theo Đạo.

Riêng phần Bần Đạo là Công Chức, khi vâng lệnh Đức Chí Tôn đến Chùa Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ 6 tháng, đến chừng trở lại làm việc người ta không cho Bần Đạo ở Việt Nam nữa đổi Bần Đạo lên Kiêm Biên tức là Nam Vang (xứ Cam Bốt bây giờ) nơi đó Bần Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo, mục đích là làm thế nào cho Đạo chóng thành tựu . Riêng phần mấy Anh Lớn trong hàng Phủ, Huyện đã có chức phận làm Quan Triều Pháp, bị người ta dọa đủ điều. Nếu theo Đạo Cao Đài người ta sẽ bắt bỏ tù, người ta còn hăm he con cái Đức Chí Tôn sẽ bị Chánh Quyền Pháp triệt để bắt bớ nữa, vì cớ cho nên mấy Anh phải sợ, một cái sợ rất nên phi lý. Nhưng người Pháp buổi nọ cầm quyền sanh sát trong tay, hể thuận thì còn, nghịch thì chết không còn ai lạ gì việc đó nữa.

Cả toàn con cái Đức Chí Tôn buổi nọ chỉ còn lại có ba người. Ba Người ấy thiện hạ gọi ba Người lì. Ba người ấy là : Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo đây, chúng tôi nhứt Tâm nhứt Trí quyết làm cho Thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí Tôn, bởi vì khôn biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng : Chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí Tôn và tự nhiên quyền năng Thiêng Liêng giúp chúng tôi biết Đạo Cao Đài này, tương lai sẽ Cứu Quốc, cứu Chủng Tộc và Giống Nòi, chúng tôi hiểu rõ rệt như thế, nên ba Anh Em chúng tôi nhứt định hy sinh kiếp sống mình, hy sinh cả hạnh phúc để tạo dựng cho nên tướng, nhứt quyết như thế nào, bất kể sống chết, cả ba chúng tôi nhứt định phải làm cho Đạo Cao Đài thành, thành đặng Cứu Khổ, cứu Chủng Tộc chúng tôi. Sự quyết chí về tương lai như thế nên phải bỏ Chùa Gò Kén , tức là Chùa Từ Lâm Tự, đề về đây, về Làng Long Thành Tây Ninh để lập nên Tòa Thánh bây giờ đây.

Trong lúc chinh nghiêng như vậy, tiếc thay : Đức Quyền Giáo Tông và Đức Cao Thượng Phẩm lại về Cảnh Thiêng Liêng trước, còn lại có một mình Bần Đạo, Bần Đạo thấy rằng : Nạn nước nguy vong thân nô lệ, ra với hai bàn tay trắng, bắt gió nắn hình, muôn điều khổ não, lập nghiệp Đạo cho thành, cho con cái Đức Chí Tôn. Hôm nay Đạo là máu là xương của con cái chí hiếu của Ngài dựng thành đó vậy.

Ba mươi năm khổ não, toàn con cái Đức Chí Tôn lập nghiệp cho Đạo hôm nay đặng thành tựu, ngó dĩ vãng, ngó đương nhiên bây giờ xa cách như trời với vực. Yếu buổi nọ, so sánh mạnh hôm nay. Nhục buổi nọ so sánh vinh hiển hôm nay, giá trị xa nhau thiên lý.

Cả toàn con cái Đức Chí Tôn, từ khi lập Đạo chịu khổ hạnh truân chuyên, chịu nhục nhã, chịu mọi điều thống khổ, thì hôm nay được vinh hiển như thế. Bây giờ Đạo nên hình là cả một khối Tâm Đức vô biên của con cái Đức Chí Tôn tạo nên tướng.

Thừa dịp hôm nay Đức Chí Tôn để lời : Thay thể hình ảnh Đức Chí Tôn, Bần Đạo để lời cám ơn cả toàn con cái Đức Chí Tôn, đã hiểu biết làm vẽ vang trong Đạo, tương lai vững chắc cho nước nhà nòi giống.

Bần Đạo xin để lời cám ơn.

 Đn-Thánh Đêm 14 tháng 11 năm Giáp Ngọ (1954)

20.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG PHẢI LẬP THÂN DANH TH NÀO ?

Đêm nay Bần Đạo giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng Phái. Có lẽ giảng hơi dài, đừng vì lẻ mệt ngồi ngủ gục hãy cố lắng tai nghe.

Bần Đạo giảng phải lập thân danh thế nào, và căn bản nào ? Vả chăng sanh nơi thế kỷ 20 này, Bần Đạo thường nói : Cái phương sống của con người là tranh đấu cố gắng đem cả trí não khôn ngoan đặng bảo vệ sống còn của mình.

Có chi lạ, dầu muốn, dầu không, dầu thuận tùng hay là nghịch. Hỏi kiếp sanh của mình đã ruổi sanh làm người rồi, thân của chúng ta ở giữa vạn vật là vật hữu sinh cũng như cả vạn vật kia vậy. Có thân, có phận thì con người của ta phải lập thân phận thế nào ? Bởi thế bậc Hiền Triết thường nói :

"Đã sanh ra đứng trong Trời Đất,

Phải có danh gì với núi sông".

Nếu con người không nên danh phận chi hết, dường như tinh thần của họ thiếu phận làm người. Cái sống buộc ta phải sống chung cùng vạn vật, ta phải khôn ngoan khéo léo, biểu ta sống đặng chi ? Đặng làm gì ?.

Ta đã đồng sinh cùng vạn vật, tức nhiên giữa khối sinh lực của ta đã xuất hiện ra, tức ta là một phần tử trong khối sinh lực của toàn thể chúng sinh. Ta có phận sự phải bảo vệ cái sống ấy. Không có quyền ấy. Không có quyền diệt cái sống, hay là nghịch với cái sống. Tỷ như mặt hồ kia đầy nước, mà nếu ra múc nước trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy sẽ bị vơi một phần.

Ấy vậy, ta sống, ta chịu nợ của cái sống. Sống chung cùng cả bạn đồng sanh, chúng ta phải làm thếâ nào cho sống ấy tồn tại hiển hách mãi thôi. Ta không có quyền pháp nào, quyền hành nào làm mất sống ấy, tức nhiên không quyền diệt sự sống.

Hại thay ! Chúng ta phải hiểu rõ rằng : Sống đây không phải là thú vị, vui hứng gì mà sống đây buộc chúng ta phải tìm phương giải thoát khỏi sống ấy. Đương nhiên bây giờ ta vẫn sống, ta không thể chối cải là ta đã chung sống cùng bạn đồng sinh của chúng ta là phải lập thân danh đặng bảo vệ sống ấy.

Vì muốn bảo vệ sống ấy mà Tiên Nho của chúng ta để lại thuyết :

"Tu Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ".

Tu thân là gì ? Là trau giồi mình, biết mình, biết người biết vạn vật đặng định phận của mình. Ta không thế ngu muội, ta phải làm sao cho khôn ngoan ấy nhờ Tu thân. Tu  thân ấy căn bản là gì ?.

Dầu cho thiên kinh vạn điển đi nữa, cốt yếu một điều là tạo Tâm Đức của ta và dùng cái tình ái của ta cho có khuôn khổ, có niêm luật, qui định một căn bản chắc chắn là Tu thân đó vậy.

Ấy vậy, nó chỉ có bấy nhiêu, chúng ta tầmg hiểu rằng : Muốn định phận của mình, muốn tạo công danh của mình phải do căn bản tình đức. Nếu trái lại do nơi thời may, hoặc là hung bạo, hay là xảo trá, gian lận những điều ấy đều giả dối hết.

Quan tiền vũ hậu, ta thử xem xét coi cái sống đương nhiên của bạn đồng sinh, họ đã hành vi và thi thố điều gì ? Dầu cho tên đạo chích kia nó là kẻ cướp, kẻ hung bạo, mà nó chưa hề dám từ bỏ Tam Cang Ngũ Thường của nó, kẻ hung bạo dối trá chừng nào, càng ép mình trong khuôn khổ tình đức chừng ấy. Họ mượn màu tình ái đặng lợi dụng lường gạt thiên hạ mới được. Nếu đi ngược chiều tình đức thì chẳng hề làm lớn với ai được.

Kẻ cướp, kẻ hung bạo, tàn ác, nó muốn làm anh chị thiên hạ nó muốn mượn màu tình đức  ấy, nhơn nghĩa ấy cho tới tận cùng, gạt thiên hạ, thiên hạ theo mới đặng.

Trái ngược lại, đối với người đã đoạt được khuôn viên tinh thần tình đức ấy, do tự nhiên nó có, chẳng cần kiếm nó có sẵn hiển nhiên.

Từ cổ chí kim, chúng ta giở lịch sử của Nhơn Loại, chúng ta ngó thấy rõ ràng điều ấy. Bất cứ thời buổi nào vị anh hùng nào quán thế, ở thế gian này muốn lập thân danh phải mượn màu tình đức ấy. Bần Đạo chỉ cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm chúa thiên hạ, thâu thiên hạ trong tay, phải lấy tính đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả xương máu cho họ đặng tô điểm địa vị cho nó.

Trái lại nương nơi hung bạo lập nghiệp như Sở Bá Vương, như Tần Thuỷ Hoàng kia thì nó phải tiêu huỷ cả cơ nghiệp.

Bần Đạo đã ngó thấy một điều, nếu để tâm quan sát kỷ hơn nữa, hể có tính đức chắc chắn, thì chẳng cần tìm công danh cũng tự nhiên đến, dầu đến với phương diện nào nó cũng tìm đến.

Tích xưa, một bậc Hiền Triết là : Nguyễn Hiến là học trò yêu của Đức Khổng Tử lại là Anh ruột của Đạo Chích. Thầy Nguyễn Hiến, Bần Đạo thuật ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn thấy người như thế không có người thứ hai nữa.

Buổi nọ Thầy Tử Cống đi xe bốn ngựa mặc áo lông cừu đi ngang qua nhà Thầy Nguyễn Hiến, Thầy Nguyễn Hiến nghèo đến nổi nhà lợp bằng cỏ tang, vách làm bằng cỏ du. Nghe Thầy Tử Cống đi ngang qua lật đật ra chào đón, lấy áo mặc vô, vải áo rách, xỏ chân vô tới giày, giày thủng gót, đội mão buộc không nhíp, ra đứng giữa đợi Thầy Tử Cống. Thầy Tử Cống đi xe ngang thấy Ngài đứng bên đường, Thầy để lời than : "Ôi ! Ngài không nghỉ đến công danh ư ?" Thầy Nguyễn Hiến trả lời Thầy xưa có nói : "Kẻ biết Đạo dù nghèo cũng không nghèo tức nhiên không làm quan, ấy là kẻ không mồ. Biết Đạo không giữ Đạo là kẻ bịnh. Tôi chỉ là kẻ không mồ, chớ không phải kẻ bịnh".

Thử coi Thầy Nguyễn Hiến nói ai bịnh, phải chăng Thầy Tử Cống bịnh. Công danh mà chi tới hôm nay nhắc đến công danh, Thầy Nguyễn Hiến là người hi hữu danh cần gì cao trọng như hàng phẩm của vị thủ tướng trong triều đình hay là vua, chúa mới lưu lai danh phận mình. Ông Vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con mới tìm hiền, lúc chưa gặp Ông Thuấn, nghe Hứa Do là người có tài đức mới cho người dời Hứa Do đến triều. Vua Nghiêu nói : "Trẩm nghe người tài đức lớn, vậy trẩm muốn nhường ngôi cho người thay trẩm làm chúa thiên hạ".

Hứa Do trả lời : "Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử ẩm hà bất quá mãn phúc". Con chim tiêu liêu ở rừng chỉ làm ổ trên một nhánh cây, con yến thử xuống giòng sông uống nước chẳng qua đầy bụng. Kẻ hạ thần đã quen thú an nhàn cách sống riêng biệt. Bệ hạ muốn nhường ngôi cho kẻ hạ thần cũng vô ích. Nói xong bỏ ra về. Khi đi ngang qua nguồn nước mới lum khum xuống rửa tai cho hết vấn vít vì nghe thiên hạ nói muốn làm vua kỳ quá.

Ông Sào Phủ là người giữ trâu thôi, dắt trâu xuống giòng nước cho uống, thấy Hứa Do lum khum rửa tai, Sào Phủ hỏi : Anh làm chi rửa tai vậy ? Hứa Do mới thuật lại : Vì vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho làm vua, tôi không muốn vấn vít trong lổ tai nữa. Sào Phủ nói : Anh làm gì cho thiên hạ biết Anh là Hiền Đức muốn truyền ngôi cho Anh nếu người ta biết Anh là người Hiền Đức, tức nhiên Anh đã muốn làm cho người biết, chắc chắn hơn nữa là tại Anh tỏ cho thiên hạ biết Anh là Hiền Đức. Anh đừng tỏ cho thiên hạ biết Anh là Hiền Đức, thì ai biết Anh đâu mà nhường ngôi, cần chi phải rửa tai. Sào Phủ nói xong liền dắt trâu đi lên trên kia cho uống. Hứa Do lấy làm lạ hỏi : Bến ở đây sao dắt trâu lên trên kia cho uống. Sào Phủ trả lời : Vì sợ Anh rửa tai trôi ra trâu tôi uống nhầm. Đó là công danh của kẻ Triết Hiền.

Ta thử ngó lại nước Việt Nam ta từ cổ chí kim, kẻ lập thân danh biết bao người mưu kế quỷ quyệt như Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đã lập ra một cơ quan vĩ đại là khối Tây Sơn, Trịnh kia gian xảo thế nào thì Tây Sơn gian xảo cũng thế. Trịnh phò Lê diệt Nguyễn tức nhiên phò Lê đặng mượn danh nhà Lê đặng diệt Nguyễn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng thế mượn màu phò Lê đặng diệt Trịnh.

`Chúng ta thấy gian xảo bao giờ cũng nương theo tình đức, lợi dụng tình đức đặng lập thân danh. Những mưu kế xảo quyệt chẳng hề khi nào bền bỉ lâu dài đặng. Thân danh dầu lập bao nhiêu cũng không thế tồn tại. Lịch Sử của nước Việt Nam để trước mắt cho chúng ta ngó thấy.

Bây giờ nói chuyện nước Tàu, kẻ lập đế vị bền vững được 800 năm là họ Lưu. Lưu Bang bất  quá là một Anh Đình Trưởng, tức nhiên là Anh đưa đò vậy thôi, mà thâu phục được lòng dân, ưu ái dân, binh vực kẻ yếu, đương đầu với kẻ mạnh, tức nhiên lúc yếu của mình mà dám đương đầu cùng Sở Bá Vương cứu trăm họ lê dân trong nước lửa. Lấy tình đức làm căn bản  lập Hớn Thất giang san của Ngài được 800 năm. Còn Sở Bá Vương dùng bạo tàn dựng nên cơ nghiệp chỉ một đời thôi. Từ cổ chí kim chưa một đế vương nào để di tích cho bằng Tần Thuỷ Hoàng, nhưng đào tạo nên bởi hung tàn bạo ngược, chỉ ba đời thôi.

Napoléon đệ nhứt vẫn là một con người thường dân trong hàng lê thứ, đi từ tên lính lên tới đế vị rồi, biết bao nhiêu vinh diệu cho nước Pháp thọ hưởng. Hại thay ! Tới chừng lên đế vị rồi, phong hầu, phong bá (công, hầu, vương, bá) cho cả hàng tướng sĩ của Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng trở nên nhát nhúa mất chí khí anh hùng nên Ngài phải thua. Cả tướng sĩ đã lập nên đế vị cho Ngài sau khi chỉ còn Ông Nài còn biết tình của Ngài còn bao nhiêu đều phản phúc. Lợi dụng tình đức ấy nó chỉ là bóng dáng giả dối. Cả cơ nghiệp dầu đào tạo mạnh mẽ liệt cường  cao trọng cũng như giọt sương trên ngọn cỏ chẳng hề khi nào bền vững được.

Cả con cái Đức Chí Tôn, mấy em đã có sẵn tình đức của Đức Chí Tôn đã đến trong 30 năm nay thôi, chỉ trọng 30 năm hưởng được đặc ân của Đại Từ Phụ đã đến tạo cả tâm hồn mấy em. Tình đức  trong Đạo ấy, mấy em Tu thân dễ quá chừng quá đổi. Tu thân mấy em là làm nền  móng vững chắc đặng lập công danh, đừng ngó ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có thật đâu mấy em. Đứng trong cửa Đạo nương tình đức lập thân danh. Qua dám nói chắc cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ để ý, do căn bản tính đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu Qua không nói mấy em ngồi trên đầu thiên hạ.

 

Ngày 15 tháng 11 năm Giáp Ngọ (DL.9-12-1954)

21.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO TRONG DỊP LỄ BAN QUYỀN NỮ ĐOÀN TRƯỞNG PHỤ TÁ QUÂN ĐỘI CAO ĐÀI

Thầy thành thật khen ngợi sự sáng suốt của Bộ Tư Lệnh thành lập Đoàn Phụ Tá Quân Sự để định phận cho Phụ Nữ Cao Đài.

Từ xưa đến nay, có biết bao ngọn lửa thiêng của Phụ Nữ đã làm cho sáng tỏ được Quốc hồn : Nước Pháp nhờ Jeanne D'are, nước Việt Nam nhờ Trưng Triệu đã đưa Quốc Gia, Nòi Giống mình, thoát khỏi ách ngoại xâm, để tiến đến bờ bến vinh quang. Ngày nay, Bần Đạo ước mong sao các con sẽ tìm lại được ngọn lửa thiêng ấy, ngọn lửa thiêng ái quốc ở nơi lòng các con và khơi tỏ nó lên, để cứu nguy cho quốc vận, giải thoát cho giống nòi.

Nước Pháp chỉ có một Jeanne D'are, nước Việt ta lại có đến Nhị Trưng và Triệu Ẩu, thế là nước Pháp có một mà nước Việt ta có đến ba. Ta nên lấy đó mà hãnh diện, mà cố gắng hơn lên để khỏi thẹn mang danh là gái Lạc Hồng.

 

Ngày 29 tháng 11 năm Giáp Ngọ (1954)

22.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ TRONG DỊP LỄ KHÁNH THÀNH CHỢ TÂN DÂN (QUI THIỆN)

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong,

Chư Viên Quan quyền Đạo và Đời,

Các Em Nam, Nữ.

Mấy em đã đặng ân Thiêng Liêng ban thưởng do lòng Đạo Đức của mấy em, nên mấy được hưởng sự vinh dự hôm nay là lập một sự nghiệp hữu hình cho thiên hạ.

Qua nhớ lại khi Đức Chí Tôn vừa đến tức nhiên năm 1925 khi đó trong các Môn Đệ của Ngài, Qua chẳng biết mỗi người đã lãnh sứ mạng đặc biệt riêng nhau làm sao. Đức Chí Tôn đến với họ một cách riêng biệt thế nào Qua không hiểu. Chỉ Qua biết phận sự của Qua là Đại Từ  Phụ giao phó với một lời yếu thiết như thế này :

Tắc, Đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của Nhơn Loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thế xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu : Có khổ về tinh thần mới biến sanh ra khổ của thể xác. Thầy nói rõ Thầy giao cho một gánh Đạo và Đời "

Thật sự ra Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần Đạo khủng khiếp. Duy có gánh của Đời Ngài giao phó nó nặng nề hơn hết.

Mấy em Nam, Nữ nghĩ coi, một lời Tiên tri trước kia nó hiện tượng hôm nay ra thế nào, mấy em biết cái quyền linh vô biên của Đấng cầm quyền thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế nào ? Bởi cớ cho nên khi Đạo mới phôi thai thì các quỷ quyền toan diệt Đạo. Buổi sơ sanh Đạo yếu ớt, bạc nhược, ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ đặng Đạo. Hồ đồ mưu chia rẽ làm cho trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải ly tán, Anh nghịch Em, Em bất hòa với Anh, cả nền Đạo chinh nghiêng đảo ngược. Gánh một chức vụ Hộ Pháp cầm cả Luật Pháp của Đạo, không lẻ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn, Qua phải tìm phương giải quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặn làm căn bản. Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra Phạm Môn và Qui Thiện.

Thiên hạ nói Qua lấy Tộc Qua là Phạm, tức nhiên là một đảng phái cho họ Phạm. Qua hỏi : Thiên hạ đã tuyên truyền dối trá ấy đặng đánh đổi cả uy tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai hết, dầu quyền hành buổi nọ rất mạnh mẽ đôi phen đem đến Luật hình, mà chính mình Qua cũng chưa nói cho họ biết nghĩa lý Phạm Môn là gì ?.

Hôm nay mấy em biết chưa ? Có lẽ phần nhiều mấy em đã biết, Phạm ấy là Phật, Phạm Môn là cửa Phật, nói rõ hơn nữa là cửa Tu Chơn của Đạo, cửa Bảo Thủ Chơn Pháp của Chí Tôn. Còn Qui Thiện thế nào Qua chưa nói ra cho thiệt tướng.

Thiên hạ đều hung bạo, vì lẻ hung bạo làm cho Anh nghịch Em, Em hận Anh, trong cửa Đạo không có một vẻ chi là Đạo hết. Lập Trường Qui Thiện là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo. Buổi đầu tiên nó sản xuất tại nơi Mỹ Tho, Qua lập "Khổ Hiền Trang" mấy em hai chữ Khổ Hiền ý định Qua thế nào không ? Trong 72 Anh Em chung sức cùng nhau mà làm đầu Trường Qui Thiện ấy là Đinh Công Trứ vẫn là một trong đó vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối trọng của Chơn Pháp Đức Chí Tôn Qua giao lại cho nó, để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh Công Trứ là vậy.

Tưởng cũng như Qua đã bị các nạn nhân của các lực lượng quyền Đạo luôn quyền Đời.

Buổi nọ thiên hạ tuyên truyền dối trá thì Đinh Công Trứ cũng bị nạn ấy. Qua đã bị thiên hạ chê là lo Đời hơn lo Đạo, thì Đinh Công Trứ  cũng vậy, thiên hạ nói nó cũng như Qua lo đời hơn lo Đạo.

Mấy em ôi ! Trong buổi phong ba bão táp, Nhơn Loại ở trong sông mê bể khổ, một con thuyền Bát Nhã chưa tạo thành đặng độ rổi họ, ít nữa mấy em cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bất nhiêu hay bấy nhiêu.

Thiện hạ thấy mấy em khổ não, cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao nhiêu giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo.

Tân Dân Thị chính của mấy em tìm phương chui đụt, tìm phương giải khổ cho mấy em. Mấy em được hạnh phúc hay chăng là do lòng Đạo Đức của mấy em. Qua còn sống đây thig Qua cũng lo tạo dựng mảy may hạnh phúc cho mấy em. Tạo hạnh phúc ấy chỉ có một đường lối duy nhứt là Qua làm sao cho mấy em giải khổ, phận sự Thiêng Liêng của Qua là vậy.

Trong Bí Pháp Qua viết chữ Hòa, nơi Tân Dân Thị nhờ chữ Hòa mà thêm lòng yêu ái. Qua gởi hai chữ Hòa Ái nơi lòng của mấy em đó vậy. Qua cầu xin mấy em có một điều là chung sức cùng nhau đặng tạo hạnh phúc cho nhau.

 

Tại Đền Thánh.Đêm mùng 1 tháng 12 năm Giáp Ngọ (1954)

23.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ ĐẠO CỦA ĐẤNG CỨU THẾ

Đêm nay là đêm Lễ Chúa Giáng Sinh. Mỗi năm Bần Đạo đã giảng về Đạo của Chúa Jésus Christ nhiều rồi. Nhưng hôm nay Bần Đạo vẫn nhắc lại Đạo của Đấng Cứu Thế. Trong Sấm Truyền của Thiên Chúa Giáo có nói rằng:  Tổ Tông của loài người là Bà Eve và Ông Adam do nơi tay Đức Chí Tôn đào tạo ra, lại còn ban thưởng một đặc ân cho ở nơi Địa Đàng. Nơi ấy Tiên Gia của chúng ta gọi là Tiên Cảnh.

Nhờ Đức Chí Tôn ban cho một điểm linh quang nên con người khôn hơn loài vật hữu sinh đồng chung sống với nhau, không biết chết là gì. Nhưng khi Đức Chí Tôn cho ra ở nơi Địa Đàng, không giữ lời dặn của Đức Ngài, ăn trái Cấm nên bị Đức Chí Tôn phạt đuổi ra khỏi Địa Đàng. Vì lẽ mất nghĩa với Đức Chí Tôn nên phải chịu khổ não. Xét ra cho kỷ giờ phút này Nhơn Loại khổ não là bị điều phạt của Đức Chí Tôn đuổi ra khỏi Địa Đàng. Vì cớ nên Ông Cha ta trở nên phàm tục không còn vẻ Tiên Phong Đạo Cốt nữa nên phải chịu Luật Luân Hồi là vậy.

Nhưng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết lòng Từ Bi Bác Ái của Ngài thế nào chăng ? Phạt chẳng lẻ phạt mãi, nên Ngài mới liệu phương cứu rỗi. Vì cớ nên Ngài giao cho Chúa Jésus Christ hay Jésus Nazareth lãnh phần Cứu Thế đặng chuộc tội cho Tổ Tông của loài người đã nghĩa đối cùng Đức Chí Tôn.

Vì cớ cho nên Ngài hy sinh tánh mạng chịu chết trên cây Thánh Giá bởi sự hung bạo của Dân Do Thái.

Hôm nay cả toàn thể người Công Giáo đều làm Lễ Kỷ Niệm ngày Chúa Jésus Christ đến cứu thế. Bần Đạo xin nhắc lại gương hy sinh vô đối của Ngài dám chịu chết vì loài người, dám chịu chết vì hung bạo của loài người. Bần Đạo ước mong toàn thể Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu này noi gương của Ngài, là bởi Ngài chịu khổ hình một cách đau đớn khổ não của vì loài người.

Nền Chơn Giáo của Ngài, Ngài chỉ định có một khuôn Luật là Thập điều, nên khi ấy các Môn Đệ của Ngài hỏi Ngài trong 10 Điều răng ấy phải giữ điều nào hơn hết. Đức  Chúa Jésus nói : Ta phải Thương yêu Chí Tôn trên hết mọi sự và Thương Yêu bạn đồng sanh mình cũng như mình.

Ôi ! Nếu nhơn loại biết yêu thương bạn đồng sanh của họ như Thánh Giáo đã dạy từ 2.000 năm nay, thì tưởng lại giờ phút này sẽ tránh khỏi nạn tương tàn tương sát, nó làm cho thế giới chẳng hề buổi nào hưởng đặng hòa bình, chỉ cứ ly loạn mãi thôi.

Chúng ta thử giở Lịch Sử Loài Người ra xem, thì không có một thế kỷ nào mà không có giặc giã tàn sát lẫn nhau giờ này chúng ta cũng thế. Các bạn đồng Đạo Tôn Giáo cũng thế. Hôm nay xúm xích nơi Đền Thánh chung vào lòng Từ Bi Bác Ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn  để cầu nguyện một điều là Đức Chúa Jésus Christ sống lại là mơ ước thế nào Nhơn Loại hưởng đặc ân ấy, để chia khổ não đừng tàn sát lẫn nhau đem trở lại sự yêu ái lẫnh nhau. Nhìn nhau là bạn đồng sanh, lời cầu nguyện quí báu hơn hết, với Đức Chí Tôn là cầu nguyện như thế. Bần Đạo nói Đức Chúa Jésus Christ đối với Triết Lý của Đức Chúa Trời như thế nào thì hôm nay đường lối của Đức Chí Tôn đến dạy chúng ta như thế ấy. Chúng ta chỉ mong mỏi có một điều là Nhơn Loại đặng hòa bình mà thôi.

 

Tại Đền Thánh Đêm 15 tháng 12 năm Giáp Ngọ (1954)

24.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ SO-SÁNH NGHIỆP ĐỜI VỚI NGHIỆP ĐẠO

Hôm nay Bần Đạo giảng cho các Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng Phái. Vì trong mấy tháng các em làm ngày làm đêm cực nhọc quá. Mấy con mấy đứa nhỏ nhứt là sự làm việc rất siêng năng. Nên hôm nay Bần Đạo giảng thử so sánh nghiệp Đời với nghiệp Đạo. Nhứt là trong khi làm rồi mệt mỏi, mấy em mấy con có thể hiệp lại với nhau suy nghĩ  tính toán, có lẽ đứa này hỏi đứa kia. Tại cớ gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái là đàn Anh của mấy em và mấy con chịu cực nhọc khỏ não theo Đạo trọn một đời hy sinh cả kiếp sống của mình để chơn theo dõi bước Thiêng Liên của Đức Chí Tôn, chắc có lẽ mấy em mấy con có khi nói : Kìa nơi ngoài đời thiên hạ họ lên xe xuống nhựa, sống vinh hiển, giàu sang phú quí đủ hết ăn mặc sung sướng, không hiểu với gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong ăn uống khổ hạnh, nhưng cứ mài miệt mãi theo Đạo. Không có một món chi để an ủi sự khổ não của tâm hồn và hình thể.

Mấy em ơi ! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy. Hột giống tối cổ của Tổ Phụ, của nền Văn Hiển Ông Cha ta để lại. Hôm nay nó đã thành ra một cội Đạo. Cội Đạo ấy có thể che chở cho loài người đặng nương cái bóng trong buổi đau khổ tâm hồn lẫn vật chất mà cả chư vị Chức Sắc Thiên Phong Thánh Thể  Đức Chí Tôn đã cố gắng biết bao nhiêu. Dầu cho còn sống sót bao nhiêu cũng chịu làm tội cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng Liêng cho mấy em. Chúng Qua đã từng chịu nhục nhã truân chuyên khổ não, mà hể còn sống sót bao nhiêu đều cố tâm làm, làm chỉ tìm một con đường một sở vọng làm thế nào cho đám hậu tấn mấy em mấy con khổ như chúng Qua đã khổ não vậy.

Thử nghĩ, nếu đem so sánh nghiệp Đạo của chúng Qua với nghiệp Đời của thiên hạ, tưởng khi nghiệp Đạo của chúng Qua không thua mấy đâu. Trái ngược lại chúng Qua sung sướng và hạnh phúc trong cái kiếp sống của cúng Qua đã may duyên làm nên đặng một lẻ đáng sống. Tức nhiên là theo con đường Thiêng Liêng của Đấng Yêu Ái và Công Bình. Chúng Qua chỉ rèn tập sao cho đặng như tánh Đức của Đấng ấy. Yêu Ái  và công bình như thế nào ? Yêu ái đặng chi ? Yêu ái đặng có phương an ủi mấy em mấy con. Công bình đặng chi ? Công bình đặng có phương dìu dắt mỗi đứa đi trên con đường Đạo có Niêm Luật, có chuẩn thằng.

Bần Đạo nghĩ lại, Bần Đạo ngó thấy dầu cho ngôi báu của đế vương kia, qua một kiếp sanh của họ chưa có đặng an ủi tâm hồn như chúng Qua. Mấy em chịu cực buổi này rồi, mấy em mấy con suy nghĩ lại đàn Anh của mấy em buổi nọ. Lúc Đạo còn khổ não, nghèo nàn, hèn hạ, thiên hạ đã khinh rẽ thế nào, có lạ chi theo thói tục thường tình của thiên hạ, họ thấy kẻ nghèo, kẻ khổ, kẻ rách rưới bần cùng họ miệt sát khi rẽ. Trước kia chơn tướng của Đạo cũng bị như thế.

Hồi buổi Đạo mới phôi thai còn nghèo nàn thiên hạ có kể nó đâu, lẽ dĩ nhiên vẫn vậy. Nếu đem nó so sánh với các nền Tôn Giáo có căn bản có oai quyền, sang trọng giàu có, thì xem nó như một trời một vực. Cái phận của Đạo buổi nọ chẳng khác chi người nghèo hèn khốn khổ kia bị thiên hạ mạt sát khinh rẽ. Chỉ thương có một điều là trong nền Đạo gần ba triệu con cái Đức Chí Tôn nương nơi bóng Đạo cũng bị chung hoàn cảnh ấy.

Thiên hạ đã mạt sát chúng Qua, nhưng mạt sát cá nhân chúng Qua không nghĩa lý gì hết. Chúng Qua coi nó không có giá trị chi cả.

Tội nghiệp cho cái hèn hạ ấy, thiên hạ đã khi rẽ đã mạt sát con cái Đức Chí Tôn gần ba triệu Tín Đồ thờ phượng Ngài không phân biệt đảng phái. Cái hèn của mình không không có hại gì hết. Chúng Qua chỉ sợ một điều là cái hèn của mấy em đem ra đương đầu với thiên hạ.

Kẻ bần cùng nghèo khổ nói ai thèm nghe, như vậy rồi dạy đời sao đặng. Nhưng sứ mạng Thiêng Liêng đã giao phó biểu phải dạy đời, tức nhiên chúng Qua phải làm thế nào cho có định luật. Muốn cho Đạo của mấy em có hiệu lực ấy thì hôm nay mấy em phải chịu cực khổ đó vậy.

Những đế nghiệp của các nền Tôn Giáo đã hiện tượng nơi thế này mười phần thì Đạo của mấy em chưa được một, mấy em để ý xem xét suy gẫm coi đặng mãi may gì chăng ? Hồi còn chòi tranh vách lá thiên hạ không có bước chân tới, họ có kể mình xứng đáng gì mà họ ngó đến, lời tục có nói :

"Có thế mới dễ làm ăn"

Đời cũng thế mà Đạo cũng thế. Thế Đạo của mấy em hôm nay không đáng giá bao nhiêu, nhưng có thể đối lập với thiên hạ đặng.

Nghiệp Đạo buổi này mấy em nên suy nghĩ, bước ra một tấc đường thì phải mặc áo mới đẹp thì mới có phương diện đối với người ta. Còn Đạo của mấy em cái đẹp của nó là theo Thánh Ý của Đức Chí Tôn, nên sự cực của mấy em cũng như chúng Qua, cái khổ của mấy em cũng như chúng Qua đã khổ.

Mấy em muốn nên hay chăng đều do cả đầu óc tay chân của mấy em tạo mới nên nghiệp Đạo ấy. Mấy em muốn vinh hiển hay chăng cũng do cả đầu óc tay chân của mấy em tạo nên.

Qua xin nhắn nhủ mấy em mấy con một lời :

Thân Già nầy, cả Chức Sắc Thiên Phong cũng vậy, Nữ cũng vậy đều già yếu thành ra người bạc nhược, làm công chuyện như mấy em mấy con không nổi, lẻ mấy em mấy con sanh nạnh chúng Qua rồi không tạo nghiệp cho mấy em.

Luân lý : Nếu trong tủ tiền của Đạo có đủ đi nữa cũng do nơi túi của mấy em. Mấy em không biết lo chung, Qua phải mượn thì mấy em thấy rõ rằng: Tiền trong túi của mấy em nó chạy qua túi khác. Không có tiền lấy công làm lần, lẻ tự nhiên vẫn vậy. Đạo của mấy em còn nghèo thì mấy em phải chịu cực, chịu nhọc, đừng để con mắt của các nhà Đạo Đức thấy mấy em khó nhọc rồi họ nói chúng Qua không yêu ái mấy em.

Qua xin nhắn gởi với mấy em nói lại cho thiên hạ biết điều ấy.

 

Tại Đền Thánh Đêm mùng 1 tháng Giêng năm Aát Mùi (DL. 24-1-1955)

25.- ĐỨC CHÍ-TÔN BAN PHÉP LÀNH

Đêm nay, đêm Giao Thừa năm Aát Mùi. Cũng như các năm trước, Bần Đạo đã nhớ dường như Đức Chí Tôn khi mở Đạo ngày 15-10 năm Bính Dần tại Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén) qua đầu năm Đinh Mão cũng giờ này, cũng đêm nay, khi Hầu Đàn rồi Phò Loan Đức Chí Tôn, Ngài biểu cả thảy con cái của Ngài hiện diện nơi đó ra : "Thầy đưa Cơ lên các con chung ngang qua Cơ Thầy ban Phép Lành cho các con". Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo bị Đức Chí Tôn xách đứng lên ra ngay giữa Đại Điện đưa cần Cơ lên cho cả thảy con cái của Ngài Nam Nữ chung ngang qua.

Bần Đạo vâng mạng lịnh của Đức Chí Tôn, đêm nay Bần Đạo Ban Phép Lành cho toàn cả con cái của Ngài Nam, Nữ. Cả thảy cầu nguyện Đức Chí Tôn chan rưới "Hồng Ân" Thiêng Liêng, Hồng Aân của Ngài rải khắp cho con cái Nam, Nữ.

Đức Chí Tôn ban phép lành.

Đêm nay Bần Đạo không giảng Đạo chỉ đọc bức thơ của Bần Đạo gởi cho toàn cả Quốc Dân Việt Nam. Tiếp theo bức thơ Bần Đạo có làm một bảng "Tuyên Ngôn" gởi các "Quốc Trưởng" và các nhà cầm vận mạng của các dân tộc trên thế giới. Lát nữa Bần Đạo sẽ giải nghĩa bức thơ này sơ lược cho nghe.

Bây giờ Bần Đạo đọc bức thơ Bần Đạo gởi cho toàn Quốc Dân Việt Nam.

26.- BỨC THƠ XUÂN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP GỞI CHO TOÀN THỂ ĐỒNG BÀO VIỆT NAM ĐẦU NĂM ẤT MÙI (1955)

Cùng toàn cả Quốc Dân đồng bào Việt Nam,

Nhơn dịp ngày xuân năm Aát Mùi, Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn chan rưới Hồng Aân cho toàn dân nước Việt đặng mau thoát khỏi ly loạn tương tàn.

Sau nữa Bần Đạo có mấy lời thống thiết ngỏ cùng toàn thể các dân.

Trót 10 năm quật cường giải ách lệ thuộc, thâu hoặch độc lập cho Tổ Quốc Giống Nòi thì đoàn thể Đồng Bào đã góp vào biết bao nhiêu xương máu và đau khổ. Lập trường tranh đấu thâu hoạch cho kỳ đặng hạnh phúc tự do cơm áo của nòi giống sau 80 năm đô hộ, đã khiến cho lòng ái quốc nồng nàn của mỗi công dân Việt Nam để tâm vào một chí hướng là Độc Lập và Thống Nhứt nong sông.

Hại thay, cơ cấu tranh đấu cho kỳ đặng ấy nó đã chia rẽ dân tộc ra nhiều phương pháp và nhiều chí hướng : Việt Minh là gì và Quốc Gia là gì ?

Thì cũng là đồng bào Việt Nam tìm phương tranh đấu. Như các danh từ và nhãn hiệu ấy chẳng lẽ có năng lực đặng chia rẽ con cái của một nước, một chủng tộc và xem lẫn nhau như kẻ tử thù ?

Đau đớn thay nạn tương tàn tương sát đã xảy ra cũng do nơi định nghĩa bất đồng của các phương pháp và danh từ tranh đấu.

Từ ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945 Dương Lịch, cuộc Giải Phóng Dân Tộc đã khởi đầu. Các biện pháp đem thắng lợi cho nước nhà hôm nay cũng chưa thâu hoạch đặng trọn vẹn, lại còn gây thêm nạn qua phân lẫnh thổ : Từ vĩ tuyến 17 đổ vô là của khối Quốc Gia, còn vĩ tuyến 17 đổ ra là của Việt Minh làm chủ. Nạn nhị Chúa phân tranh Nguyễn - Trịnh ngày xưa đã biểu diễn lại.

Bần Đạo thử hỏi cuộc tranh đấu giải ách lệ thuộc đặng đem hạnh phúc đó lại cho ai ?

Phải chăng cho Tổ Quốc và cho toàn thể Đồng Bào thì lý ra chẳng lẽ có một nguyên cớ nào làm cho Nòi Giống Việt nầy chia phân cho đặng. Chủng tộc duy có một thì Hoàng Đồ chỉ có một. Rồi ta lại thử hỏi : Ai đã gây nên nội loạn ly tán giống nòi ? Phải chăng vì năng lực ngoại bang đã gây nạn phân chia tộc chủng.

Hai chí hướng đương nhiên của Quốc Tế và lý thuyết Dân Chủ Xã Hội và Cộng Sản Xã Hội. Hai lý thuyết ấy đều hứa hẹn răng Nhân Loại phải Duy Tân và cải tổ Xã Hội, vì tổ chức xã hội đương nhiên đã gây thất vọng cho nhân loại quá nhiều nên đem lại cho họ nhiều đau thảm hơn là hạnh phúc. Đôi bên đều hứa hẹn tìm một phương pháp sửa chữa đặng tìm cái hay trừ cái dở, lời hứa hẹn ấy đã thấm nhuần trong trí não đau khổ của nhân loại nhất là hạng bần dân và các Quốc Gia lạc hậu đều mong ước chóng được thực hiện điều ấy.

Hai triết lý xã hội mới mẻ kia đương tranh đấu đặng thâu hoạch tín nhiệm của toàn thể nhân loại trên mặt địa cầu này. Cuộc tranh đấu của họ đã hiển nhiên kịch liệt và hỗn độn nhưng họ cũng đã đủ năng lực phân chia nhân loại làm đôi chí hướng.

Hại nỗi, hạnh phúc đâu chẳng thấy, chỉ gây cho nhân loại một tấm thảm kịch tương sát, tương tàn. Ta nên để đức tin cho thời gian và không gian định nên hư của họ, nhưng hiển nhiên hôm nay ta chịu biết bao nhiêu đau khổ. Ta muốn cho vay đặng hưởng lợi, mà lợi đâu chẳng thấy vì hứa hẹn ấy chỉ với lỗ miệng, không bảo kê, không chứng chắc mà giờ phút nầy ta bị lỗ vốn một cách đau đớn và oan uổng.

Cuộc chạy theo bóng bỏ hình của Nòi Giống Việt Nam từ xưa đã vây ; nó đã làm nên bịnh chủng tộc. Đồng bào sẽ hỏi Bần Đạo chỉ trả lời một cách đơn giản như thế này.

* Ngày nào cả Chủng Tộc Việt Nam đặng định tỉnh trong Quốc Hồn của họ thì họ mới có thể cố thủ và bảo vệ sanh tồn của họ.

* Ngày nào lòng ái quốc nồng nàn của nước Việt Nam thoát khỏi lợi dụng đặng biến thành một ngọn lửa Thiêng dâng lên bàn thờ Tổ Quốc của họ thì họ mới bảo thủ được trọn vẹn Hoàng Đồ cùng tộc chủng.

* Ngày nào đầu óc của cả khối Quốc Dân biết trọng dĩ vãng lịch sử của mình rồi định phận cho mình xứng đáng làm một nước đủ liệt cường, đã uy tín hầu đối diện cùng Quốc Tế rồi chủ định số phận của mình do năng lực của mình, không ỷ lại mơi một ngoại bang nào thì ngày ấy mới giải ách lệ thuộc về tinh thần lẫn vật chất của mình mới đặng.

Tình thế đương nhiên là Bắc Việt đã bị lệ thuộc của Trung Cộng, còn Nam thì bị sống gởi nơi tay người, thì kiếp số tương lai của ta chưa biết nương nơi đâu mà an đặng. Nếu tình thế này mà kéo dài tới mãi thì hòa bình của họ đã hứa hẹn cùng ta thì là mộng ảo.

Bần Đạo ước mong và cầu xin cho toàn thể Đồng Bào sáng suốt hơn đặng tự định số mạng và tương lai của mình.

Bần Đạo để lời chào mừng toàn thể Đồng Bào và cầu chúc cho các gia đình đều hạnh phúc.

Bức thư bần đạo có gởi cho đài phát thanh sài gòn, đêm nay có lẽ giờ này đã đọc rồi.

Cái nạn qua phân lãnh thổ, Bần Đạo nói sẽ làm chơ Nhơn Loại đau khổ và nguy hiểm không thể tưởng tượng vì năng lực tàn phá của võ khí tối tân nhứt là bom nguyên tử. Nếu nhơn loại không rán sức đem hòa bình hạnh phúc do con đường Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã đến thì nhơn loại sẽ bị tiêu diệt. Nhơn loại mắc nạn tiêu diệt ấy là do tội tình Chí Tôn chưa có làm phận sự mà cả tinh thần lẫn hình thể của họ đều sáng suốt chói lọi vậy.

Họ trông đợi bóng Cơ cứu khổ của các Bạn lắm. Cố gắng thêm các Bạn, vì trong Đạo Binh Thiêng Liêng theo Hộ Giá Đức Chí Tôn từ khai Thiên lập Địa tới giờ, do theo Thánh Giáo Đức Chí Tôn có nói : Bần Đạo là Ngự Mã Thiên Quân, phẩm tước quyền hành cao trọng ấy phải làm thế nào để dấu hỏi ?

Ta có đền đáp, có thể thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn đặng làm phận sự của Ngài hay không ? Hay một ngày kia trỏ về Thiêng Liêng phải thẹn khi ngó mặt Ngài. Bần Đạo cũng quyết tùng mạng lịch của Đại Từ Phụ làm cho con cái của Ngài đặng giảm bớt khổ não. Tưởng khi các Bạn đồng chí hướng với Bần Đạo đó vậy.

Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái ! Đang làm việc thay thế hình ảnh của Đức Chí Tôn, Bần Đạo xin cả Thánh Thể hãy ngó đến con cái của Ngài đang đau khổ, dốt nát về tinh thần Đạo Đức, họ thiếu cả tinh thần định phận cho họ, không phải định phận mà thôi, lại thiếu cả tinh thần bảo vệ cái sống của họ nữa, chúng ta ngó thấy cần phải dạy dỗ dìu dắt và an ủi họ.

Aáy vậy cả thảy Thánh Thể Đức Chí Tôn thay thế hình ảnh của Ngài đang lo lập vị cho con cái của Ngài, hình ảnh bóng dáng của Chức Sắc Thiên Phong thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn không có nghĩa lý gì hết. Trọng hệ hay chăng là cái giá trị đối phẩm Thiêng Liêng cùng Chư, Thần, Thánh, Tiên, Phật mà thôi, Bần Đạo ước mong một đứa em của chúng ta lập nên phẩm vị cho thoát khỏi cái kiếp luân hồi, nếu được như vậy thì công nghiệp của chúng ta rất vĩ đại đó vậy. Huống chi giờ phút nầy cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đem dường cho nó, nâng đỡ nó đưa vào phẩm vị Thiêng Liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật thì Bần Đạo tưởng không có danh dự nào bằng, không có phận sự cao trọng nào hơn.

Giờ phút nầy nó đã chịu khổ não nhiều rồi, đau khổ Đời, lại kế tiếp đau khổ Đạo, hôm nay Thánh Thể của Đức Chí Tôn yêu cái và gởi gấm cho ta lãnh sứ mạng dìu dắt đoàn em đó vậy. Có một phương thế hay ho hơn hết mới có thể bảo vệ ta khỏi lạc lầm, phận sự ta đối đãi cùng đoàn em có một phương pháp duy nhứt là chỉ thương yêu mà thôi. Dầu cho sự thương yêu ấy có vẻ có ra vẻ dại dột, ngu khờ nhục nhã thế nào đi nữa chúng ta cũng chỉ biết thương yêu mà thôi, sự thương yêu đủ với chúng ta làm, mỗi đều không cần tìm phương pháp nào khác, các con Phước Thiện, Hội Thánh Phước Thiện của  mấy con tức nhiên Hội Thánh Hiệp Thiên Đài. Chúng Qua có mười mấy người, Chúng Qua không có thế gì an ủi sự thống khổ của toàn thể con cái Đức Chí Tôn cho đặng.

Chúng Qua có mười mấy người, biến thân ra mấy con, mấy con là hiện thân của chúng Qua thay thế cho chúng Qua đặng tìm phương giải khổ cho thiên hạ làm cho ngọn Cờ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn giao cho chúng Qua đặng thiệt hiện ra mãi mãi.

Năm nay là năm bí yếu hơn hết mà gọi là năm hòa bình, mấy em thôi cũng tin tưởng như vậy, tin hòa bình đi, hòa bình với đầu óc của mấy em, hòa bình là buổi nào mấy em an ủi cả thiên hạ đau khổ đương nhiên bây giờ đó là hòa bình của mấy em.

Thay thế hình ảnh của chúng Qua giải khổ cho thiên hạ, mấy em ngó lụng lại qua khỏi cơn thử thách của nước nhà chủng tộc rồi trước chúng em sẽ thấy một trường thảm khổ không thể tỏa đặng. Nào là tật nguyền và bịnh hoạn, nào khổ não, nào truân chuyên đủ mọi điều.

Tình thế đương nhiên bây giờ, mấy em thấy trước mắt la Đồng Bào bắc Việt, tội nghiệp thay ! Họ bỏ cả gia nghiệp vào Nam, Qua chỉ sợ một điều trong cơn buồn tủi của họ, rồi họ sanh ra chán nản, mấy em thấy vì thiên hạ nâng đỡ binh vực giúp sức cho sự sống còn của họ, Qua sợ không biết thương rồi bạc đãi khi thị thì nòi giống ta tủi nhục biết bao nhiêu, Qua gởi cho mấy em cái phận sự biến thân ra, chúng Qua đi an ủi họ từ nhà, từ người trong cơn khổ não.

Mấy con trong Phục Quốc Hội, những điều Thầy làm không được. Mấy con thay Thầy làm, Quân Đội cũng vậy, Phục Quốc Hội mấy con, không lẽ giờ phút nầy mấy em biểu Thầy đi ra cởi ngựa cầm cương đặng làm thế các con. Phận sự tối yếu, tối trọng cứu dân, cứu nước, mười mấy năm các con đã hy sinh biết bao xương máu cho Tổ Quốc giống nòi. Hôm nay có thể mong ước như Thầy đã mong ước từ vĩ tuyến 17 đổ vô hay đổ ra đối với tinh thần của ai đã chia rẽ chớ tinh thần của mấy con không chia rẽ buổi nào hết, bởi ngọn cờ cờ khổ của mấy con, ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa của mấy con đã đến nơi nào thì nơi đó gia nghiệp Thiêng Liêng của mấy con. Thầy chỉ sợ mấy con không đến nơi nào thì nơi ấy còn khổ não, thầy chỉ sợ bao nhiêu đó mà thôi, còn sự thắng lợi của cơ quan Phục Quốc Hội không lẽ Thầy đi ra làm chánh trị đương đầu với thiên hạ. Thầy là Nòi Giống Việt Nam, tranh đấu đặng đem tương lai cho Đất Việt, có nhiều điều các con làm đặng mà Thầy không làm đặng, các con có nhiều phương làm mà Thầy không có phương làm, thành thử thật ra từ trước đến giờ sự thâu hoạch thắng lợi đều do công nghiệp của các con chớ chẳng phải của Thầy.

Thầy bất quá chỉ có lời nói mà thôi. Đường lối củ các con đi được như hôm nay là dài lắm rồi, đã được hai phần đường. Các con cố gắng thêm và sáng suốt làm thế nào cho phận sự Thiêng Liêng của các con tượng trưng hình ảnh nòi giống của các con. Các con đã tránh đặng một điều là thiên hạ cám dỗ mua chuộc các con, nên Thầy đã yên tâm, thấy Phục Quốc Hội không có cái năng lực nào mua chuộc được, nên Thầy gửi gấm cơ quan chuyển thế một phần do tay mấy con, Thầy để lời ban khen đã mấy em qua mọi sự đã đem thắng lợi rất nhiều, nhứt là có một điều làm cho Thầy vui hứng là cơ quan dân vụ của các con nó phù hạp thích ứng với Thầy hơn hết, các con cố gắng với đường lối dân vụ.

Đồng Bào Bắc Việt, Bần Đạo đã thường nói : Mảnh đất gấm vóc của Tổ Tiên ta để lại từ Aûi Nam Quan đến Mũi Cà Mau Tổ Phụ ta mua chuộc biết bao nhiêu xương máu, dành để cho nòi giống. Không có mảnh đất nào là không phải của chúng ta, nên nhớ điều đó, đừng vì di cư ngoài Bắc vô rồi buồn rầu, không lo đời sống đặng lo làm nghề nghiệp, phải cố gắng thêm nhiều hơn nữa, từ trước đến giờ lịch sử đã để lại để chúng ta đã ngó thấy bằng cớ hiển nhiên hễ mỗi khi có quốc nạn là mỗi khi chúng ta hiệp chủng đó vậy, để người Bắc kẻ trong Nam không biết nhau là gì, nghe giọng khác nhau, những người dốt nát tưởng đâu là người ngoại quốc, cái đó lấy làm nguy hiểm hơn hết.

Hôm nay tình cờ chúng ta được một phương pháp hiệp chủng, cả thảy Đồng Bào Nam cũng thế, Bắc cũng thế cố tâm một điều cần yếu hơn hết là gây tình thân ái vô biên của nòi giống Tổ Phụ để lại trong đầu óc ta hôm nay có phương thế hiệp chủng cho mạnh mẽ khắn khích, dầu cho có cực nhọc cũng cố làm, sự làm kia nó sẽ lập lại như hồi nhị Chúa Tây Sơn buổi nọ, nó đi theo tấn tuồng thống nhứt Hoàng Đồ của Chúa Nguyễn khi xưa muốn thiệt hiện thốn nhứt Hoàng Đồ thì nòi giống chúng ta phải hiệp chủng thống nhứt năng lực lại.

Hại thay ! Có một điều khổ não hơn hết là từ ngày nền văn minh của Tổ Phụ ta, của Quốc Đạo ta bị thiên hạ chi phối muốn có sự phân tâm của nước, của chủng tộc, vì lẽ phân tâm ấy hôm nay mới có tình trạng nầy. Nếu không có Việt Minh thì vinh diệu cho quốc sử của chúng ta biết bao nhiêu.

Đồng Bào Bắc Việt hãy nhớ nơi đây là đất địa của mấy người không phải mấy người ăn tạm ở nhờ, mà là ở trong gia đình Tổ Quốc. Vậy mấy người đừng buồn thảm, cố gắng hiệp chủng với nhau thì mới mong thống nhứt Hoàng Đồ trở lại.

Bần Đạo xin để lời cầu chúc toàn thể các con của Đức Chí Tôn đó vậy.

 

Ngày mùng 8 tháng 1 năm Aát Mùi (1955)

27.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ ĐẠO CAO-ĐÀI RA MẶT QUỐC-TẾ

Buổi mai Bần Đạo đã lên Thiên Hỉ Động giảng lý do của Đức Chí Tôn đã đợi đến 30 năm khai mở Đền Thờ của Ngài, tưởng phần nhiều cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái đều biết rõ.

Aáy vậy hôm nay là ngày Lễ Kỷ Niệm của Đạo Cao Đài đã ra mặt Quốc Tế. Nếu luận rằng : Nó đã ra mặt Quốc Tế rồi thì ta cũng nên luận về tình hình đương nhiên của toàn cả các liệt cường của các quốc gia trên mặt địa cầu. Nhứt là tình trạng hiện tại của nhơn loại thế nào cả con cái Đức Chí Tôn đều rõ về hai lý thuyết đường đầu với nhau, đương đua tranh cùng nhau đặng đọat tinh nhuệ của toàn nhơn loại trên mặt địa cầu nầy.

Bần Đạo không cần luận e mích lòng thiên hạ, chỉ nói rằng : Không phải họ đăng mong mỏi điều ấy. Với một tâm tình không vụ tất danh lợi, Bần Đạo nói quả quyết rằng : Hai kẻ muốn thâu hoạch cả tinh nhuệ của nhơn loại đặng làm bá chủ toàn cầu nầy là hai lý thuyết Dân Chủ Xã Hội và thuyết Cộng Sản Xã Hội.

Chúng ta đã ngó thấy lập trường tranh đấu, hôm nay đã kịch liệt, bởi sự hơn thua của hai khối ấy. Tương lai họ sẽ đương đầu cùng nhau thế nào rồi Bần Đạo không đoán được. Chỉ có một điều nên để ý hơn hết là  giờ phút nào mà người ta đã lấy lý trí xử với nhau không đặng, phải mượn cường lực của võ khí đặng làm sức mạnh của mình thì ngày giờ ấy tưởng cả sự tranh đấu của họ chưa có một phương pháp nào giải quyết đặng.

Một đàng thì chỉ có hổn ẩu, gian xảo, dối trá nhứt là côn đồ theo tánh chất hổn ẩu quyết hơn thiên hạ bất cứ một hành vi nào, không kể gì tâm tình quân tử ấy là khối Cộng Sản ỷ năng lực mình vô đối tự kiêu, tự đại.

Lấy việc nhỏ luận việc lớn khi ta ở cùng chung trong một xã hội nếu cả thảy con cái Đức Chí Tôn để ý điều ấy là ngó thấy, nếu rủi ta gần gủi đừng nói rằng mình kết bạn hay chung sống gần gủi với những kẻ côn đồ thì chỉ biết "rìu búa" là mạnh, lấy hổn ẩu gian xảo của họ, họ làm khí cụ.

Lời tục có nói : Một kẻ nói ngang ba làng nói không lại, mà hễ ai nói ngược lại thì rút rìu búa ra dọa nạt thiên hạ. Đó là một điều người quân tử gớm ghiết hơn hết. Cho nên không có phương pháp chi mà trị họ đặng, trị đặng định phương pháp nghĩa là làm thế nào trị kẻ võ phu đó với phương pháp đặc sắc hơn định luật của nó, và nó lấy sức mạnh của thuyết Cộng Sản Xã Hội, quyết thắng không kể gì là Nhân từ, không kể gì là Đạo Đức chỉ biết thắng thôi. Tranh sống đặng tạo hạnh phúc dầu cho có hèn hạ nhỏ mọn tới mức nào thì họ chỉ biết có hưởng hạnh phúc mà thôi.

Còn bên Dân Chủ Xã Hội là thực dân ăn cả của cải Đồng Bào, thâu lấy cả của cải phú hữu của thiên hạ làm năng lực mạnh mẽ của mình.

Hai cái đó Bần Đạo tưởng đem để lên mặt cân Công Lý thì ta thấy "lịch cũng như lương, mà lương cũng như lịch" có chi lạ. Ngày giờ nào toàn cả nhơn loại tỉnh mộng lại, thấy mình làm khí cụ cho thiên hạ tranh đấu với mọt tấn tuồng làm cho mình đau khổ, thiên hạ sẽ tỉnh mộng lại không cho họ lợi dụng, cả tín ngưỡng đó, tấn tuồng hèn hạ đó dầu cho các nhà Đạo cũng như hạng côn đồ cướp đảng kia đều cũng vậy. Nếu cả thảy thiên hạ không ngó tới mặt nó, đừng gần gủi nó, thì nó hết sống cùng ta chớ gì. Nó cho nó là mạnh, thiên hạ sợ nó, nó còn nhuệ khí, nó còn nắm cả ủy tín của nó. Ngày giờ nào cả thiên hạ đều gớm ghiết không còn ngó tới nó nữa thì nó phải tiêu hủy chớ có gì đâu.

Giờ phút nào cả quốc gia nhược tiểu không để cho họ lợi dụng mình nữa bất kỳ trong hai khối đó. Tự chủ lấy mình, tự quyền lấy mình, một người làm không được, năm bảy người làm, một nước yếu hèn, năm bảy nước hiệp lại đương đầu với họ, vạt bỏ hai khối đó ra, thiên hạ mới hòa bình, duy có lẽ đó thiên hạ mới hòa bình mà thôi.

 

Ngày mùng 9 tháng Giêng năm Aát Mùi (1955)

28.- ĐỨC HỘ PHÁP CÁM ƠN CÁC QUAN KHÁCH & PHỦ DỤ CHIẾN SĨ CAO ĐÀI TRONG DỊP LỄ XUẤT QUÂN

Thưa cùng Chư Viên Quan Chức Sắc Đời và Đạo.

Trước khi Bần Đạo để lời, Bần Đạo xin nghiêng mình cám ơn toàn thể cả thảy Đồng Bào đôi bên niệm tình của Quân Đội và của Đạo đến dự lẽ đông đảo và long trọng làm cho rõ thêm vẻ Đạo, Bần Đạo xin cúi mình cám ơn toàn thể.

Thưa cùng toàn thể Đồng Bào,

Bần Đạo xin để lời cùng các Ngài trước vận mạng đương nhiên của Tổ Quốc nòi giống tới một giai đoạn yếu trọng, nếu không nói đã đến một giai đoạn khó khăn đặng định vận mạng tương lai của nó, nhứt là Bần Đạo xin để lời riêng biệt cùng các nhà Văn Sĩ cùng các Sử Gia, trên 9 năm tranh đấu hôm nay cái phận sự ấy yếu trọng cho các Ngài hơn hết, bởi nó đến giai đoạn chúng ta phải đấu tranh về trí thức tinh thần, nếu không nói ra rằng : Ta vẫn tiếp tục đương tranh đấu về tâm lý. Tưởng khi trên 9 năm quốc cường thâu hồi độc lập cho Tổ Quốc giang san các Ngài có sẵn trong tay một sử liệu có thể một ngày kia ngòi bút quí báu của các Ngài lưu lại cho hậu tấn một kiểu vở, một khuôn mẫu y theo tinh thần cố hữu của Tổ Phụ đã để lại, cái chí quật cường 80 năm đô hộ khiến cho Đồng Bào chúng ta muốn giải thoát thâu hồi độc lập và Hoàng Đồ của Tổ Phụ lại, một giang san gấm vóc như thế, nên buộc chúng ta hy sinh xương máu, từ cổ kim vẫn vậy, Luật thiên điều dưới thế nầy chẳng đều cho mà ta xin đặng, ta chỉ phải mua phải chuộc với một giá cho đồng giá trị với vật mà ta muốn thâu hoạch. Nhưng ôi thôi ! Vật của toàn quốc dân đồng bào muốn thâu hoạch ấy, vật đó quí giá không tưởng tượng cho nên phải trả một giá rất mắc là cái giá xương máu trên 9 năm tranh đấu.

Thưa cùng Đồng Bào, các nhà Văn Sĩ, các Vị cầm bút đang dìu dẫn cả tinh thần trí não của chủng tộc ta buổi hôm nay. Có lẽ khi trong lúc rời rảnh các Ngài có thể để một dấu hỏi ? Cái đường lối của Đạo đã tự xưng là Quốc Đạo hỏi lấy cả tánh chất của nó đã hiển nhiên trở nên một nền Đạo cho Quốc tế mà cái nạn nước của họ như thế nầy thì phương pháp giải quyết của họ như thế mà chớ ?

Có lẽ trong khi rảnh ấy các Ngài cũng để dấu hỏi ấy ? Trường hợp đó thử nghĩ những kẻ trí thức tinh thần phải đi đường lối nào ? Phải dùng giải pháp nào ? Nhứt là của Bần Đạo sau 5 năm đồ lưu trở về nước năm 1946 cả cái tình trạng của nước nhà các Ngài cũng hiểu thấu. Bần Đạo xin thành thật buổi nọ Bần Đạo đã bí lối không ngõ thoát, một đàng thì Việt Minh lợi dụng tinh thần ái quốc của toàn thể Quốc Dân Đồng Bào chí hướng vô một điều là lập trường cứu quốc, nhờ cái năng lực mạnh mẽ và quyền năng ấy họ đã nắm trọn sứ mạng của nòi giống và Tổ Quốc trong tay từ Nam chí Bắc, nếu như cơ cấu tranh đấu của họ quả là một cơ cấu Quốc Gia chơn chánh, thì sự thâu hoạch và thống nhứt Hoàng Đồ đã làm rồi, đã thành tựu tồi.

Hại nổi ! Họ phải xu hướng theo hai chí hướng của hai khối nhứt là họ vẫn thấy khối Cộng Sản lầm lạc, lfa nương nơi khối ấy mà họ định mạng tương lai nước nhà chủng tôc là cái lầm nhứt hết.

Nếu quả nhiên cái định hướng của họ đem lại thắng lợi cho nước nhà, cho chủng tộc thì Bần Đạo tưởng không nói rõ ra cả thảy Đồng Bào đều biết, cũng như những kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi chớ không chi khác. Ngó ngọn cờ độc lập mà vẫn lệ thuộc như xưa, thì làm thế nào tạo hạnh phúc giống nòi đặng ! Hại nổi ! Khi về nước bên nầy gành giựt cả quần chúng, thì bên kia cũng giành giựt cả quần chúng, bên nầy Việt Minh, bên kia Pháp, khối Quốc Gia hai tình thế rất nguy hiểm với hai lằng tên mũi đạn.

Thưa cùng cả thảy Đồng Bào, thử như thế Đồng Bào mới chỉ con đường nào cho Bần Đạo đi mà chớ, có một con đường duy nhứt là con đường có của chúng ta mà Tổ Phụ chúng ta để lại. Con đường đã có trên 4.000 năm lập Quốc và 4.000 năm Văn Hiến. Là con đường duy nhất là Bần Đạo phải đi, mà đi con đường ấy, ôi ! không biết bao nhiêu đau khổ, đã hy sinh cái khối xương máu của chiến sĩ Cao Đài làm thành, làm lũy đặng bảo vệ sự sống của nòi giống dưới ngọn cờ "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng" nếu toàn thể đồng bào hiểu cái tâm lý của nó sẽ ứa lụy cùng Bần Đạo mà chớ !...

Có một phen Bần Đạo tuyên bố Quân Đội Cao Đài xuất hiện ra đặng làm tấm bình phong chịu chết cho giống nòi khỏi chết, bảo vệ sống còn cho nòi giống bảo thủ cái nhơn nghĩa của Tổ Phụ để lại. Có nhiều khi Bần Đạo cũng lấy làm đau đớn lắm vậy.

Nhưng nghĩ đến cái sứ mạng Thiêng Liêng cao cả ấy có chút an ủi mãi mãi trong tâm não.

Các con Chiến Sĩ Cao Đài từ Thượng Hạ Sĩ Quan dĩ chí đến Binh Sĩ, một phen nữa Thầy xô các con ra hy sinh cứu nòi giống và Tổ Quốc các con. Tương lai vận mạng như vầy các con tiếp tục tranh đấu cho kỳ được đặng thâu độc lập cho giống nòi cho Tổ Quốc các con.

 

Tại Văn Phòng Hội-Thánh Phước Thiện Ngày 12 tháng 1 năm Aát Mùi (1955)

(Lễ Khánh Thành các Dinh Thự)

29.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ HỘI-THÁNH PHƯỚC-THIỆN DO ĐÂU MÀ CÓ

Ngày nay là ngày Lễ Khánh Thành các Dinh Thự cùng trong cuộc Lễ Khánh Thành Đền Thánh.

Khởi đầu Bần Đạo đi viếng các Dinh Thự nơi Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, Bần Đạo chỉ đến viếng chớ không thuyết Đạo, đến đây là văn phòng Hội Thánh Phước Thiện, Bần Đạo cho toàn Chức Sắc đương quyền Hành Chánh Đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà sản xuất, bởi trong Pháp Chánh Truyền Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà cửa Thập Nhị Khai Thiên đặng đem Cơ Cứu Khổ để tại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn cả 92 ức nguyên nhân con cái của Ngài. Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài mà trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 Ngài Thập Nhị Thời Quân với Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Bần Đạo, trong 15 thì có 4 - 5 ngoe lãnh lịnh mà thôi. Đức Chí Tôn kêu Anh Cao Thượng Phẩm lãnh trách nhậm lo cứu thế kế Anh qui Thiên để lại cái gánh nặng nề cho Bần Đạo, Bần Đạo đã thường nói hôm nay ngày chúc xuân và nơi Đại Đồng Xã, Hội Thánh Cửu Trùng Đài của Giáo Tông, Hội Thánh Phước Thiện của Hộ Pháp tức Hiệp Thiên Đài đó vậy, Hội Thánh Phước Thiện là thay thế cho Hiệp Thiên Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài chỉ có lãnh lịnh 4 - 5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái Bí pháp, Chi Pháp Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh Truyền không có định, Bần Đạo chỉ lấy Bài Thi Văn của Đức Chí Tôn dạy mà lập thành dầu cho cả Chơn Hồn đã siêu lạc nơi nào sau nầy cũng phải nơi cửa Phạm về cùng Ngài.

Bài thi văn như vầy :

Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm Môn,

Khuyến tu hậu nhựt độ Sanh hồn,

Vô lao bất phục hồi Chơn mạng,

Tính thế kỳ nhân đắc Chánh tôn.

Vì Bài Thi Văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn, có Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Nếu không có Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng thì không thế nào lập thành Hội Thánh Phước Thiện được, bởi chữ Phạm Môn là Phật, Phạm Môn là cửa Phật chớ không phải Phạm là họ Phạm, buổi đó cũng có nhiều tiếng phân vân nói bần Đạo lập Phạm Môn tức là lập theo họ Phạm của Bần Đạo, Bần Đạo cũng như tấm bình phong đứng giữa hứng chịu. Sao Bần Đạo không đầu kiếp các nơi họ Nguyễn, họ Trần mà đến ngay nhà họ Phạm mà để khiến cho Bần Đạo phải chịu oan ức. Những tiếng phân vân ấy, Bần Đạo cũng chẳng mang, cứ lo cho kỳ được, bởi vì sự công chánh Bần Đạo đứng giữa đây Bần Đạo phải nói Bần Đạo nói thiệt cả sự nghiệp của Đạo còn tồn tại đây là do nơi tay của Phạm Môn nếu không có Phạm Môn thì Bần Đạo không đứng vững, Đức Chí Tôn đã định cho Bần Đạo thâu 72 vị Môn Đệ mà chia ra hành sự 36 - 37 buổi đó Thầy trò chịu cực khổ tầm phương để tạo nghiệp mà bị chúng sanh đánh đổ đến đổi vận lương thực lục tỉnh đem về Tòa Thánh mà cũng bị ngăn cản quyết bỏ đói cho chết, mà tội nghiệp thay họ họ không thối chí nản lòng, cứ cương quyết theo Bần Đạo cho đến ngày lập thành Hội Thánh Phước Thiện. Thật nổi khổ tâm của Anh Em Phạm Môn chỉ lấy hai bàn tay trắng mà tạo nên sự nghiệp cho Đạo, họ chỉ bắt gió nắn hình, lấy không làm có ngày nay Cơ Quan Cứu Khổ đã thành tướng nơi Hội Thánh Phước Thiện các trách nhậm trọng yếu phải lo hiện trước mặt gần đây là Bảo Cô Nhi bên kia là Khách Đình về mặt Tang Tế đều phải lo mọi hình thức, nên Bần Đạo nói mấy người mà về ở nơi Tòa Thánh liệu lo bề uống thuốc mạnh thì thôi, coi bộ nhắm về không mạnh liệu bề không kham họ sẽ đem bỏ đại tại Khách Đình cho Hội Thánh chôn cất làm sao thì làm, đã vậy còn phải lo cái nhỏ kia là Trí Huệ Cung cũng bảo góa phụ giành cho người góa phụ cũng là Nữ Phái Chơn Tu tức là nhà Tu của Nữ Phái.

Trên một hình tướng đang khởi tạo là Vạn Pháp Cung trên núi nhà Dưỡng Lão tức là nhà Tu của Nam Phái. Cả hình tướng ngày nay đã biểu lộ trước mặt toàn cả nhơn sanh ai ai họ cũng đều cảm kích hòi trước kia có tướng mà không có hình, ngày nay hình tướng nên được thì sự tiến hóa của Hội Thánh Phước Thiện từ đây sẽ vững chắc không còn lại một trở lực nào mà làm cho Cơ Cứu Khổ của Chí Tôn phải ngưng bước và Bần Đạo sẽ cho Hội Thánh Phước Thiện hay rằng : Từ đây Hội Thánh Phước Thiện sẽ được bảo đảm.

 

Ngày 15 tháng 1 năm Aát Mùi (1955)

30.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT MINH CÔNG-NGHIỆP CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ TRONG KHI LÀM LỄ THIÊU XÁC

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Các em toàn cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ,

Thanh Niên của Đạo.

Chắc có lẽ cả thảy con cái của Đức Chí Tôn đều để dấu hỏi ? Cái nghĩa lý của cuộc Lễ Khánh Thánh Tòa Thánh và Lễ Thiêu Xác của các Thánh Tông Đồ.

Có lạ chi, không cần kiếm đâu xa hơn nữa ở nơi mặt thế nầy dầu cho Đạo nào họ cũng thường để một cái mơ vọng là kiếp sanh của mình làm thế nào cho ngộ Đạo.

Một cái câu Sấm Truyền từ xưa để lại có nói rằng :

"Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,

 Muôn đời còn tử phủ nêu danh"

Ngộ ngĩnh cho chúng ta nên để ý là cái khéo lựa chọn và biết tìm đường và ngộ Đạo ấy.

Cả toàn thể quốc dân của chúng ta hạng đại đức cũng nhiều, hạng học thức cũng nhiều, nam cũng thế, nữ cũng thế. Vì sao họ không giành chỗ của Oâng Lê Văn Trung, Oâng Cao Quỳnh Cư, bà Lâm Hương Thanh, Oâng Lê Bá Trang, không lẽ trong thế gian nầy có người đó, mà còn nữa.

Oâi ! Tưởng cả công nghiệp của cả kiếp sanh dành để như họ, nếu có kẻ thiệt biết tìm cái đại nghiệp Thiêng Liêng của mình, biết bao nhiêu dự thèm thuồng của thiên hạ, danh giá họ đặng như thế, Đạo của ta và phận sự của ta dầu chi ta cũng là hiện thân của họ, phải chăng chúng ta đã làm giá trị Thiêng Liêng của họ thêm quí báu thêm tối trọng, thêm cao thượng hơn nữa.

Cả con cái của Đức Chí Tôn đều hiểu nơi Bát Quái Đài là Hồn của Đạo tức nhiên là Tòa Ngự của Đại Từ Phụ và là nơi Đức Chí Tôn và các Đáng Thiêng Liêng Ngự, Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật họ đã tìm họ đã đọat đặng một chỗ nơi đó đặng họ ngự. Không phải dễ gì trong kiếp sanh hữu duyên đặng đọat được như thế.

Đám Thanh Niên, Nam, Nữ Lưỡng Phái suy nghĩ coi, tìm một công nghiệp tương lai, cái trọng, cái khinh, cái bền, cái bở, cái giá trị, cái vô giá, tưởng khi cả tinh thần toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều đã quyết định rồi mà chớ.

Ngọn lửa sẽ thiêu các các Thánh ấy, nó sẽ biến thành ngọn lửa thiêng nó sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài đặng kêu gọi cả tinh thần nhơn loại tìm một con đường giải thoát của họ, con đường cứu khổ của họ mà nó cũng sẽ là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con cái Đức Chí Tôn luôn cả Thánh Thể của Ngài nữa.

Cái danh giá của họ Bần Đạo không luận cái công nghiệp của họ cũng thế, Bần Đạo cũng không muốn nói tới. Chỉ thấy một điều là tiếng gọi Thiêng Liêng của Đại Từ Phụ buổi ban xưa trong thời nòi giống Việt Nam  ta còn đương bị trong ách lệ thuộc. Danh giá của họ, sự nghiệp của họ, có thể bị quyền lực áp bức làm cho nó tiêu hủy họ có thể khổ não cả sanh mạng của họ, khổ não luôn về tương lai danh phận của họ mà họ vẫn coi cái đó là thường. Duy có tiếng gọi Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn là trọng hệ. Nhứt là phế Đời hành Đạo. Cả con cái Đức Chí Tôn sẽ để dấu hỏi. Oâng nầy là thế nầy, ông kia là thế khác và sẽ để dấu hỏi ? Uûa ... làm sao Hộ Pháp để trọn vẹn công nghiệp đó hơn tất cả định hạng sao Hộ Pháp để cho họ đồng phẩm với nhau như thế.

Bần Đạo chỉ nói dứt một điều là về Pháp Luật, Bần Đạo làm Hộ Pháp dầu cho buổi nọ họ loạn bao nhiêu chỉ dùng có quyền lực đặng bảo thủ nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn mà thôi. Ngoài ra họ là bạn, họ là đoàn anh, tình đó cao trọng hơn hết. Thứ nhì nữa là cả tội tình cái kẻ nghịch Đạo trước mắt Bần Đạo vô giá trị. Giá trị thiệt hay không là ngọn lửa thiêng ấy làm cho bùng dậy Quốc hồn nước Việt-nam tinh-thần tối cổ và văn-minh tối coorcuar nòi giống, cái đó là hệ-trọng hơn hết.

Cả con cái Đức Chí-Tôn nên nhớ điều đó.

 

Đền Thánh đêm 30 tháng2 năm Aát-mùi (1955)

31.- ĐỨC HỘ-PHÁP THUYẾT MINH VỀ ĐẠI HỘI LONG-HOA

Mấy em nam nữ lưỡng phái, đêm nay Qua không giảng Đạo mà chỉ nói cùng mấy em, xin kiếu lỗi cung chư Chức-sắc Thiên-phong Thánh-thể của Đức Chí-Tôn      .

Hôm trước qua có mời Khâm-thành, các Đầu Phận Đạo vào Hộ-Pháp đường, Qua có thuyết minh cho họ nghe, vì Đại Hội Long-hoa nó sẽ có tại Toà-Thánh nầy đầu năm Tý. Mấy em cũng chắc biết cái đại-nghiệp của Đạo đều do tay của mấy em tạo dựng. Nam cũng vậy, nữ cũng vậy. Đức Chí-Tôn đã đến 30 mươi năm nay, Ngài đến Ngài nói thật thà chơn-chất rằng: Đại Từ-Phụ là Ông Già nghèo, Oång nói trong hai câu thi:

“Tròi trọi mình không mới thiệt bần,

Một nhành trăng náu-nương chân”.

Oång đã nói Oûng là Ông già nghèo, Oång đến Oûng dùng có cái Cơ dặng lập Thánh-thể của Oûng, mà Oång giao phó cho một trách nhiệm tối ư quá quan-trọng là phải lập nghiệp cho toàn cả con cái đau khổ của Oång. Mấy em mới nghĩ lại đó coi, chúng Qua không phải là làm chúa ở toàn cầu nầy, hay làm chúa một nước, cũng hai tay trắng mà thôi, hiển-nhiên hôm nay chúng Qua đi được một đổi đường, nhờ Đại Từ-Phụ dìu-dắt và nhờ tay của mấy em đã hy-sinh từ giọt mồ-hôi , giọt nước mắt mới tạo dựng nên nghiệp Đạo như thế nầy. Nếu chúng Qua nhìn rằng sự thật thì ta nói nó không phải đủ giàu sang mà ngày hôm nay có thể làm một bóng mát, một cái Nhà Thờ Chung cho con cái khổ não của Ngài, để nương bóng Từ-bi của Ngài đặng.

Mấy em cũng đủ biết giá-trị hy-sinh của mỗi người mấy em như thế nào, Qua chẳng cần phải dài luận cho lắm, thì đáng lẽ ra thời buổi loạn-ly nầy, nhứt là Qua và Thánh-thể Đức Chí-Tôn đã biết cái thân phải truân-chuyên của mấy em là thế nào, cái phương sanh sống của mấy em  đã bị phá hoại như thế nào, cái khó khăn của mấy em phải bảo vệ cả sắp nhỏ tức nhiên tương-lai hương-hoả của Đạo là thế nào. Lý ra chúng Qua không làm mấy em khổ trí nhọc tâm nữa để từ-từ bước đến nhờ ân Đức Chí-Tôn dìu-dẫn đi, xin miễn đi từ từ nhi tấn mà thôi, đừng đứng chựng lại đó.

Trót 30 mươi năm Qua sống chung với mấy em cũng như Thánh-thể của Ngài, mấy em dòm lại coi, đoàn Anh của mấy em già nua, chính mình Qua đây đã 66 tuổi rồi, chẳng lẽ tuổi Qua lột da sống đời đặng vùa giúp tay chơn đầu óc với mấy em mãi mãi. Cái đại nghiệp nầy lưu lại cho mấy em hay chawnglaf do kế chios của mấy em, mấy em cố gắng đặng lưu lại cho máu mủ, không biết chưng nào đường lối Tổ-Tiên mấy em đã trở bước lại đây họ được hưởng một cái hạnh-phúc, công-nghiệp của mấy em chút nào hay chút nấy, ngặt một nỗi là cả cái phận-sự thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn       giao phó trong đáy có nhiều điều  buộc ta phải cố-gắng làm cấp cấp ngày giờ Đức Chí-Tôn đã định mới đặng. Mấy em cũng đã biết trong Kinh Đại-tường Đức Chí-Tôn đã nói rõ:

“Hổn Nguơn Thiên dưới quyền Giáo-Chủ,

Di-Lặc vương thâu thủ phổ duyên.

Tái sanh sửa đổi chơn-truyền,

Khai cơ tận độ cửu-tuyền diệt vong”.

Mấy câu trên Qua không cần giải-nghĩa, duy có câu:

“Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong”

Mấy em biết là thế nào ? Đối với nhơn-loại kể từ hôm nay tức nhiên là ngày mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ cho mãi tới tận-thế cái địa ngục dưới kia dã bi tiêu-diệt rồi, Thập Điện Diêm cung đến rước mấy em nó đã vong phế rồi, mấy em không còn sa xuống cửa Dịa-ngục, mấy em không còn chịu dưới quyên của Thập-Điện Diêm-cung, cái đó là hệ trọng hơn hết.

“Hội Long-Hoa tuyển phong Phật vị”

Mở Hội Long-Hoa để tuyển phong một vị Phật hay nhiều vị Phật.

“Cỏi Tây phương khử quỷ trừ ma”

Nơi Tây-phương Cực Lạc cũng vậy, tảo-thanh không còn ma hồn quỷ xác đến đây nữa.

“Giáng Linh Hộ-Pháp Di-Đà,

Chuyển cây Ma Xử đuổi tà trục tinh”

Câu nầy rất rẻ mấy em điều biết.

“Thâu các Đạo hửu hình làm một,

Trường thi Tiên Phật dượt kiếp khiên”

Cái trường thi Tiên của Bậc Tiên đoạt vị Phật.

“Tạo đời cải dữ ra hiền”

Câu đó Qua không cần giải nghĩa.

“Bảo sanh nắm giữ diệu-huyền Chí-Tôn”.

Tới năm Tý sẽ mở Hội Long-Hoa tuyển phong Phật vị tại Toà Thánh nầy. Mấy em làm cho kịp, Qua nói quả-quyết mấy em làm không kịp, mà Qua có quy-liễu trước đi nữa thì cái tội ấy về mấy em chớ không phải về Qua, nhớ điều đó, Qua cố gắng, Qua tận-trung cùng Đạo, tận hiếu cùng Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu, Qua chỉ ước cho giòng máu Thiêng-Liêng của mấy em đây có hưởng một điều trọng yếu không biết bao-giờ, ngày giờ Qua không có thể định trước, không có quyền gì định trước. Qua hứa hẹn điều đó đặng, Qua ước làm thế nào mà cho giòng máu Thiêng-Liêng của mấy em đây nè gặp mặt Đức Chí-Tôn đến tại thế nầy, lấy một quyền năng Thiêng-Liêng của Oång như Oång đã đến Đền Thờ Tây-Tạng kia vậy. Hể nói đến Đền thờ Tây-Tạng Đức Chí-Tôn đã đến Qua cũng nên tường thuật điều đó cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn đều nghe hiểu.

 

Năm 1917 khi cọng-sản đã đánh đỏ đế quyền Nga, các bậc công hầu thời phong-kiến của Nga-hoàng buổi đó phải đào tẩu, nhứt là Bạch Nga, Xích Nga không nói gì, cong Bạch Nga thì phả trốn không thì bị chúng tàn sát. Trong đó có một vị Bá-tước cũng chạy giặc qua Tây-tạng, khi qua đây với một số người bạn, cũng được hai mươi mấy người nương thân nơi Tây-tạng. Dalai Lama Oång nghe cả cái khổ não của họ, cả cái hoạn nạn của họ, Oång thương quá chừng quá đổi, Oång bảo vệ, nuôi nấng.

 

Ông Dalai Lama là Phật vương của xứ Tây-tạng, mấy em biết rằng chẳng phải Bá-tước đó ổng ở xứ Tây-tạng đặng ẩn thân mà thôi, mà ổng còn được nuôi dưỡng nữa. Ngày nọ Bá-tước buồn rầu nhớ quê-hương, nhớ vợ con, nhứt là đi một thân một mình, còn cả thảy các tướng tá phần nhiều là võ-quan theo cùng Ngài cũng có vợ con để lại bên Nga hết, chạy giặc qua bên Tây-tạng nương náu vậy thôi ? Đức Dalai Lama ổng hiểu thâm-tình của vị Bá tước đó, ổng biểu sao không biết, ổng dạy đạo cho Ông kia nghe, một ngày kia thì ổng sửa-soạn đi vô Đền thờ, ổng ăn mặc sắc diện khác hơn buổi trước làm cho nhiều hàng quan-chức đi theo Bá tước hỏi, không lẽ dấu họ. ổng mới nói thiệt rằng: Đêm nay là đêm Đức Chí-Tôn ngự tại Đền thờ, mấy vị trong buổi khổ não nghe tới danh Đức Chí-Tôn đến, mừng quá quá hỏi, vậy chớ chúng tôi có thể vô chầu trong đó được không ? Thì Ông Dalai Dama nói: Mấy người cứ đi theo tôi, ông dắt vô trong Đền thờ họ theo tọc mạch hỏi, làm sao mà biết Đức Chí-Tôn đến, mà Chí-Tôn đến thế nào? Tôi dăn mấy Ngài nghe cái chuông chung quanh Đền thờ reo một lược và ở ngoài nghe tiếng ngựa chạy rần rần đó là Đức Chí-Tôn đến, vô đó rồi ông Dalai Lama dắt vô trong một cái phòng thắp đèn lờ mờ vậy thôi ổng đem vị Bá tước với mấy người bạn khi vô trong đó ổng biểu ngồi cầu nguyện , ông Bá-tước tâm hồn buồn rầu khổ nảo quá lẽ đi, không biết do ổng cầu-nguyện, hay phép của ông Dalai Dama hay phép của Thiêng-Liêng của Đại Từ-Phụ làm nên không hiểu, thì trong phòng đó ở đằng sau có một tấm như nĩ đen hay là vải mà trải nguyên một căn phong to lớn vậy.

 

Ông Dalai Dama biểu ông Bá-tước dòm vô đó , ban đầu thấy như một ngọn khói, mà ở ngoài bay vô trong phòng đó ngay chỗ ông vẽ rồi nó tràn vô cả cái khói  đằng sau đen rồi cái khói trắng nó hiện hình ra một cái phòng nhà của ông Bá tước ở trong đó có Bà Bá-tước với đứa con đương nhớ chồng ôm mặt sầu thảm ông nọ thấy buồn rầu, ông cúi mặt xuống , ông khóc lớn lên, mấy người kia cũng đổ luỵ hết thảy, rồi cái khói đó tan đi, khói đó tan miếng màn đen như củ. Thấy cái đó rồi ông Dalai Dama mới dắt mấy người đó vô Đền thờ thì may đúng giờ Tý cũng như giờ mình cúng đây. Quả-nhiên nghe các chuông treo chung quanh Đền thở đều reo lên một lượt và ở ngoài nghe tiếng ngựa thì hết thảy các vị Đại-đức đều cúi mọp đầu xuống, tới chưng dó có một mình ông Bá-tước với mấy người Nga tọc mạch họ ngước lên dòm thì vừa vừa ở trong Đền u-u ám-ám vậy thôi , chớ không có sáng sủa như đèn điện mình đây, thi khi đó nó làm sáng rỡ chiếu-diệu  như ban ngày, ánh hào-quang chiếu toàn trong Đền thờ đề sáng hết, Ở ngoài dương như một bóng sáng đi tuốt vô trong, chừng đó họ sợ, họ cúi đầøu xuống, tới chừng Đại Từ-Phụ phát thinh lên giảng đạo rồi họ ngó lên họ tả cái thể Đức Chí-Tôn không rõ ràng lắm, họ thấ cái trạng đẹp đẻ hào-quang chiếu diệu sáng ngời đẹp lắm, họ chỉ nói có bao nhiêu đó mà thôi.

 

Khi giản đạo rồi Đức Chí-Tôn nói:” trong 40 năm kể từ năm nay thì nhơn loại đau khổ luôn luôn, Mỗi lần Đại Từ-phụ đến 5o năm, Ngài trở đến tại Đền thơ Tây tạng, thành thử mình tính lung lại năm 1917, năm nay là năm 1955 nó là 38 năm hả ? 38 năm rồi còn  hai năm nữa thiên hạ mới yên, mới thái bình, thành thử qua ngó thấy dường như trúng quá chừng quá đổi, để mà coi số đó có quả-quyết vậy không ? Tại Đền thờ Tây-tang Qua thấy họ hưởng được hồng-ân của Chí-Tôn  vô đối là Đức Chí-Tôn đến với họ không biêùt đạo-đức uyên-thâm của xứ Tây-tạng, Đạo của họ sản-xuất ra ngày nào mà họ được  hưởng hồng-ân vĩ-đại như thế.

 

Đền thờ Jésusalem ở Palestine bên Cận Đông thì Đại Từ Phụ có đến một lần, đến một cách oai nghiêm quá chừng, quá đổi, thiên-hạ nhắc lụng lại giờ làm  cho Qua sợ sệt lắm. Trong Đền thờ Jésusalem như các thầy Sải ở nơi đó phụng-sự hương khói cũng như làm Từ nơi đó là giòng dõi Lévi là con út ông Abraham.

 

Có lẽ Đền Thánh nầy Qua dám chắc thế nào Đức Chí-Tôn cũng đến tại chưa đến là vì lẽ gì ? Lý-do gì chưa có trọn vẹn đây.

 

Mấy em cố gắng đi, từ đây  ho tới ngày Long-hoa đại-hội nên hư, đặng thất, điều gì Qua lập Đại hội Long-hoa được hay chăng Qua phú-thác nơi tay mấy em đó vậy.

 

Đêm 15 tháng 3 năm t Mùi (1955)

32.- LỜI THUYẾT ĐẠO CỦA ĐỨC HỘ PHÁP: VÌ LẼ GÌ ĐỨC CHÍ-TÔN ĐẾN ? & ĐẾN ĐẶNG LÀM GÌ ?

Đêm nay có lẻ giảng Đạo hơi dài một chút, Đại Đàn giờ không đủ đặng giảng, chớ Tiểu Đàn có thể ít mệt hơn, dầu có nghe nhiều một chút cũng không đến nước.

Đêm nay Bần Đạo giảng vì lẻ gì Đức Chí Tôn đến và đến đặng làm gì? Và cái nền Chơn Giáo của Ngài là sao ? Bần Đạo đã đặng nhiều lời của mấy em nhứt là trong Bàn Trị Sự tức nhiên là hàng Em của Hội Thánh hay Thánh Thể Uùt của Đức Chí Tôn, nghĩa là con cái yêu dấu của Ngài hơn hết đã phàn nàn thấu tới tai Bần Đạo.

Thời cuộc biến thiên thế nào không biết mà cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn dầu Nam cũng vây, Nữ cũng vậy đã bị thiên hạ lợi dụng quá lẽ, lợi dụng về xương máu, lợi dụng về tài sản cho tới nước, lợi dụng tâm đức hiền lương của họ rồi lại còn kêu vói lên chẳng biết Thánh Thể của Đức Chí Tôn kia họ có mở con mắt Thánh đặng họ thấy hay chăng hay họ đã mù quáng.

Vì lẽ cho nên đêm nay Bần Đạo mới giảng ba đề thiết yếu ấy mà cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều hiểu, chẳng phải ngoài Đời kia mà thôi, tới trong cửa Thiêng Liêng của Đạo, các em Nam, Nữ đều ngó thấy tinh thần của toàn thể nhơn loại đã bị khảo đảo một cách quá lẽ, từ cổ chí kim tới giờ chưa có cái khủng hoảng tinh thần của nhơn loại trên mặt địa cầu. Hôm nay nó làm cho toàn thể hễ nước nào mạnh giàu liệt cường chừng nào thì cái khủng hoảng tinh thần của họ lại càng quá lẽ vô độ không thế gì luận được, không thế tả được, họ sống với cái tinh thần hồi hộp sợ hải, cái quái dị hơn hết là họ càng mạnh thì Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ lại cho họ thấy cái mạnh của họ là cái chết của họ, ngộ nghỉnh là có bao nhiêu đó. Ai đời móc cả cái óc não, cả cái khôn ngoan, cái hay biết ra đặng tìm cái năng lực vô đối tức là nguyên tử lực, rồi còn tò mò kiếm một cái mạnh hơn nguyên tử lực ấy nữa, mấy thứ bom đương nhiên bây giờ nó giết hại nhơn mạng coi như con muỗi, con kiến.

Cái mạnh của họ nó trở lại dọa nạt họ phải sợ nó, ngay đến đổi như Oâng Thủ Tướng của nước Anh là Oâng Churchill Oâng là người hai lần hai cái đại chiến, Oâng cố chịu hết, Oâng là một đại tướng phi thường của nước Anh, nếu ta có thể nói sự công bằng thì từ thử tới giờ nước Anh chưa có vị Thủ Tướng nào phi phàm như thế đó, khi nọ Oâng than, Oâng nói kể từ ngày xuất hiện bom nguyên tử, tôi thú thật với các Ngài, tôi ngủ không yên giấc. Oâng thường có nói rằng : Oång ăn không ngon, nằm không ngủ, như nước Nam ta mà Oång nói Oång ngủ không yên giấc, chẳng phải một mình Oâng Churchill mà thôi, tôi tưởng các nhà bác học, các nhà chánh trị gia đại tài, cả toàn nhơn loại, toàn vạn quốc, giờ phút nầy sống với sự hồi hộp sợ hãi mãi, thiên hạ họ nói một cách kiêu ngạo, mà kiêu ngạo một cách khôi hài nghe ngộ nghỉnh làm sao, họ nói cả liệt cường mà sợ bom nguyên tử bây giờ chẳng khác nào thầy pháp sợ cô hồn. Với ông tướng, họ đã sản xuất nó ra, họ tạo dựng ra oai quyền của nó họ đối thủ, họ địch thủ, họ sợ nó một cách đáo để, sợ thiệt tình chớ không phải sợ dối trá, hay làm bộ, sợ ngay vậy.

Cái khủng hoảng tinh thần ấy nếu như ta đã theo chơn Đại Từ Phụ từ 30 năm chúng ta biết tánh đức của Ngài, của Oâng Cha Lành vô đối chưa có Oâng Cha phàm nào của ta mà có tâm đức như Oång, thương yêu con cái của Oång một cách phi thường, một cách lạ lùng, mà cái khủng hoảng tinh thần nhơn loại đương nhiên bầy giờ tôi dám chắc nếu Oång không muốn đến là cái lẽ gì mà chớ. Chỉ còn cái đau khổ tâm hồn nhơn loại như thế đó buộc Oång phải đến mà thôi.

Vì cớ cho nên Oång đến, Oång đến đặng chi, cũng như câu hỏi thứ nhì, Oång đến đặng chia khổ cho con cái của Oång, nên ban sơ Oång đã nói một cách chơn thật và đơn giản, Oång nói : "Thầy đến Thầy hiệp lương sanh đặng Thầy làm cơ thể để cứu vớt chúng sanh" tuy nhiên Oång đến Oång lựa chọn các con hiền lương Đạo Đức, Oång đem vô cửa Thiêng Liêng của Oång tức nhiên cửa Đạo đặng Oång làm cái thi hài hữu hình của Oång, xác thịt hữu tướng của Oång tại thế gian nầy gọi là Thánh Thể hay là Hội Thánh, Oång lập Hội Thánh ra đặng làm Thánh Thể đặng Oång làm gì ? Không có gì khác hơn đặng Oång làm hình ảnh của Oång, đặng Oång chia khổ não của con cái của Oång mà đầu tiên hết, nếu Oång không có phương kế chia khổ não ấy Oång đến đặng mà Oång an ủi, Oång dỗ lấy cái đau thảm của con Oång đã chịu.

Aáy vậy cái Chơn Giáo của Oång, Oång đem Thánh Thể ra cốt yếu đặng Oång làm xác thịt của Oång đặng Oång sang bớt con cái của Oång tức nhiên sang sớt cái đau khổ của nhơn loại Bần Đạo nhắc lụng lại một lần nữa, chẳng phải như các giáo phái kia gọi mình là chúa của thiên hạ, hay mình là thầy của thiên hạ. "Mà Hội Thánh của Đại Từ Phụ lập đây cốt yếu để làm hình thể của Ngài đặng làm tôi cho con cái của Ngài, làm đầy tớ cho con cái của Ngài, nhớ điều đó là trọng hệ hơn hết".

Thì đó chúng ta ngó thấy sự thảm khổ ấy, lượn sóng đời nó không phải lan tràn ngoài đời kia mà thôi, Qua có dịp giảng Qua nói : Cái lượng thủy triều của đời nó dâng lên như thể lụt bão kia, nó tràn ngập hết, chính mình trong cửa Đại Từ Bi của Đức Chí Tôn đây nó cũng không từ, nó tràn vô tới cửa Đại Từ Bi đặng nó lôi cuốn cả con cái của Ngài trôi theo nó, chìm đắm theo nó ra cho tới khổ hải. mấy em đã ngó thấy dầu cho cả Thánh Thể hay chúng Qua bất lực không đở vớt khổ não của mấy em toàn hết, nhưng mấy em đã thấy thừa rằng : Chính mình cái khổ não của mấy em bị lượn sóng đời lôi cuốn, mấy em chìm đắm trong đó mà cả chúng Qua tức nhiên Thánh Thể của Đức Chí Tôn phải nhào theo lưng mấy em đặng lặn hụp trong đó đặng cứu vớt em, những kẻ đã lợi dụng mấy em đó, làm cho mấy em làm hình ảnh của lượn sóng đời đó vậy, mấy em muốn tránh chăng chúng Qua cũng muốn tránh lắm vậy, mà tránh đặng thì có chi may mắn hạnh phúc hơn, cái nầy tránh không đặng, ta phải chịu vậy, nếu tránh đặng thì mấy em đã tránh, chúng Qua khỏi lặn hụp trong đó, cái nầy mấy em tránh không đặng, chính mình mấy em bị lôi cuốn toàn thể hết, rồi biểu Thánh Thể của Ngài tức nhiên là Hội Thánh không bị khổ não với mấy em sao đặng. Cả cái khổ não trong đó nó có trách nhiệm của mấy em tự đào tạo, mấy em cố gặng gượng đi, đừng cho ngọn thủy triều lôi cuốn mấy em thì chính mình chúng Qua cũng có thể tránh khỏi, vì bởi thấy mấy em chìm đắm trong đó chúng Qua mới lội lặn theo, nếu mấy em không chìm đắm ai biểu mấy Qua lội lặn theo mấy em cho được, quyền nào mà biểu đặng.

Ngày hôm nay mấy em than thở với Hội Thánh không ngó thấy, thấy lắm chớ, thấy rõ ràng hơn mấy em lắm, thấy mà không biết làm sao cứu được mà chớ.

Aáy vậy, ta có một tinh thần, một phương pháp duy nhất củ Đức Chí Tôn đã để trong mình ta, nó là bộ phận thiết giáp đang bao phủ lấy ta, ta mang bộ thiết giáp ấy vô, mấy em cố gắng mỗi em đều sắm bộ thiết giáp ấy tức nhiên là Đạo Đức của mấy em đó vậy.

Nếu Đạo Đức của mấy em, Đức Tin của mấy em đã mạnh, Đạo Đức của mấy em được kiên cố. Qua dám chắc mấy em sẽ thắng mà mấy em giúp chúng Qua thắng luôn đó, mấy em chiến đấu đi, lấy Đạo Đức đặng chiến đấu cả mưu chước quỉ quyền đó đi thì chúng ra sẽ tạo  hạnh phúc chung cho nhau. Qua thấy có một điều lượn sóng đời lôi  cuốn mấy em, mấy em không cần ngó lụng lại đặng mấy em tự nhủ lấy mình, yêu ái nhau kia, mấy em cứ giựt giành từ món ăn chỗ ở, mấy em giựt giành từ mảnh quyền, mảnh thế, cái hổ nhục trong cửa Đạo nầy không có chi khác hơn là làm cho Qua hổ nhục hơn cái đó. Mấy em chưa nhượng với nhau món ăn chỗ ở, mấy em còn giành giựt với nhau phương thế sống, chưa biết nhịn nhau đặng bảo vệ cho nhau, thì cái tình trạng đó nó trả với cái giá đó cũng vừa.

 

Đêm 30 tháng 3 nămt Mùi (1955)

33.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG : SO-SÁNH QUYỀN ĐỜI VÀ QUYỀN ĐẠO

Đêm nay Bần Đạo giảng cái đề so sánh quyền Đời và quyền Đạo, cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, nhứt là đám Thanh Niên Nam, Nữ, phải rán để tâm nghe sẽ phân biệt cảnh Đạo với đường Đời xa cách với nhau một trời một vực, chỉ có ngộ nghỉnh một điều :

Tuy vẫn phân biệt nhau như thế mà nó lại có cái liên hệ mật thiết với nhau mới lạ lùng cho. Trước khi giảng quyền Đời và quyền Đạo. Bần Đạo phải tả cái hình trạng của Đạo thế nào, hình trạng của Đời thế nào rồi mới tả cái quyền của nó ra sao, quyền Đạo cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều thường nghe giảng và đều hiểu mà chớ, vì Đức Chí Tôn không có tái kiếp làm người, Ngài đến cả con cái của Ngài với một huyền diệu lạ thường là Huyền Diệu Cơ Bút, thành thử Ngài không nói mà chúng ta nghe, Ngài không hình mà chúng ta thấy, Bần Đạo dã giải rõ thường tình tại sao Ngài đến ? Đại Từ Phụ đến, Ngài đã nói quả quyết Ngài đến để Ngài chia khổ cùng con cái của Ngài, vậy nếu Ngài không có hình trạng thế nào Ngài chia khổ ấy được, tức nhiên Ngài phải làm thế nào Ngài có hình mà chớ, muốn cho ra cái Thánh Hình của Ngài không phương chi hay hơn là Ngài tụ họp con cái hiền lương của Ngài đặng lập thành Thánh Thể tức nhiên cái hình Thánh của Ngài, chúng ta thường gọi là Hội Thánh. Aáy vậy Ngài đến Ngài chia khổ, Ngài lập Hội Thánh tức nhiên Ngài lập hình ảnh của Ngài. Hình ảnh của Ngài nó có đẳng cấp trật tự cả Thiên Phong Chức Sắc của Hội Thánh từ Giáo Hữu đổ lên là Thánh Hình của Ngài từ bực Lễ Sanh đổ xuống, tỷ như tay chân thân thể của Ngài, Ngài lấy cái Đạo Thể Chơn Giáo của Ngài đã lập Giáo thành tướng của nó tức là cái Gia Đình Đạo Giáo.

Ấy vậy Chơn Truyền của Ngài đã đặt trên thế gian này là Gia Đình Đạo Giáo của Ngài tức nhiên gia đình tinh thần. Bây giờ ta lại luận hình thể của đời, bất kỳ xã hội nhơn quần nào. Bần Đạo đã có dịp thuyết minh rằng, con người bao giờ cũng phải sống tập đoàn đặng bảo vệ cái sống cho nhau mới gầy nên quốc gia xã hội, cái đại thể đó nó thành ra toàn thể nhơn loại, Bần Đạo nói giờ phút nầy cả toàn thể nhơn loại lại còn mong rằng họ sống tập đoàn với nhau trong đại thể của nhơn loại mà chớ.

Aáy vậy, mỗi Xã Hội có Vua, có Chúa, không thì có vị Quốc Trưởng, dưới quyền của vị Quốc Trưởng ấy, hoặc có Triều đình hoặc có Chánh phủ, cả Nhơn Viên Chánh phủ hiệp lụng lại với Quốc Trưởng là cái đầu, còn dưới là Dân chúng tức nhiên là các năng lực của toàn thể Quốc dân, Sĩ, Nông, Công, Thương, tứ dân, tứ thứ là tay chân, và thân thể. Rồi trong xã hội ấy định phương pháp đặng lập cái đại thể gia đình của toàn  một sắc dân đại gia đình của một sắc dân đại gia đình của một sắc dân gọi là gia đình xã hội, tướng diện của hai bên đó vậy.

Bây giờ Bần Đạo luận về cái quyền, cái quyền đôi bên bao giờ cũng phải quyết định với một cái Pháp Luật của Hội Thánh, Luật của Hội Thánh để định quyền cho Đạo cho Đại gia đình của tinh thần nhơn loại, ngó thấy Tân Luật, Pháp Chánh Truyền là một chơn tướng lập Thánh Thể của Ngài không cần luận đến, chỉ luận về Tân Luật mà Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông đã dạy Hội Thánh khi mới Khai Đạo, lập trong 3 tháng phải thành tựu, trong Tân Luật con cái của Đức Chí Tôn đều ngó thấy, Bần Đạo không cần lập đi lập lại vô ích chỉ lấy cái tinh túy của nó là trong Tân Luật ấy Đức Chí Tôn định cho Ngũ Giới Cấm và Tứ Đại Điều Qui và trong ấy cốt yếu bảo vệ Tam Cang Ngũ Thường củ toàn thể con cái của Ngài, thật ra cái Thiên Luật của Ngài mà Ngài đã để trong tâm não con cái của Ngài. Luật chỉ có một là Thường Yêu, Quyền chỉ có một là Công Chánh.

Thiên hạ đã lập luật nhiều quá, mà cái luật của thiên hạ lập ấy tưởng khi cả thảy đều ngó thấy, dầu cho họ có thay đổi cho tới tận thế họ chưa có phương nào làm cho nó phù hạp với cả nhơn tâm bao giờ. Còn Đức Chí Tôn đến lập Luật có một điều mà thôi là Thương Yêu, cả thảy điều hiểu cái Luật ấy, nghĩ coi có ai tránh khỏi đặng không, người nào không có dính trong cái Luật Thương Yêu ấy thì chẳng hề họ sống được bao giờ, nhứt là sống chung của đồng loại, hoặc họ phải tự họ ly dị cả nhơn loại hay là cả nhơn loại buộc phải đào thải họ nếu họ không tuân cái luật ấy, còn cái quyền công chánh công bình chánh trực dầu một kẻ không học kia dốt nát thế nào mà học được hai cái đặc tánh quí báu ấy, tôi tưởng cả thảy thiên hạ đều cúi đầu tôn trọng kính nhường và nhứt là họ thương yêu, Thiên Luật của Đức Chí Tôn là vậy, Tân Luật Đức Chí Tôn cốt yếu muốn cho ta làm đặng, ta bảo vệ cái Tam Cang Ngũ Thường của nhơn loại. Nói về phương Đông nầy dầu cho luận tới các Quốc Gia xã hội đến đâu đi nữa, họ tự trọng họ văn minh thế nào, họ chưa ra khỏi đường lối ấy, niêm luật ấy bao giờ, nếu họ ra khỏi là muốn tự bỏ cả xã hội của họ thì nó sẽ thành cái gì chớ không thành xã hội.

Giờ đây luận tới Luật Hội Thánh. Luật của Hội Thánh chỉ lập ra trong buổi con cái Đức Chí Tôn bị cái óc ngoại hình ngoài đời kia xâm phạm tinh thần và hình chất của nó, Hội Thánh buộc phải lập Luật chẳng khác nào như thể một phương che chở, như ta đã ngó thấy một người kia đi tới miệng giếng họ muốn sa vào đó ta kêu trở lộn lại. Luật của Hội Thánh phải chuyển luân theo thời thế của xã hội, nhứt là trong con cái của Ngài chớ thật ra không có giá trị gì hết. Bởi hình không có. Bây giờ nói tới Hình của Luật Đạo. Cái quyền của Đạo, quì Hương, tụng Kinh Sám Hối, đáo để trục xuất Nội Thành nơi Thánh Địa, rồi còn dữ hơn nữa trục xuất ra khỏi Đạo chớ chưa có giết ai, chưa có tù tội ngục hình, cũng chưa có đem ai mà bắn, mà giết bao giờ, ấy là Luật của Đạo. Vậy cốt yếu cái khuôn khổ Đại gia đình tinh thần nầy để tạo cho con cái của Đức Chí Tôn thành Thánh, nong nã dạy dỗ diù dắt thế nào cho họ thành Thánh đặng họ mới cần cái Cơ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn vững vàng và mạnh mẽ, họ mới thay thế hình ảnh của Đức Chí Tôn đặng.   

Vì cớ cho nên cả khuôn khổ quyền lực của Đạo cốt yếu để tạo Thánh, bây giờ ta mới luận về quyền Đời, cả quyền Đời thật quyền của họ thiệt lực của họ là Nhơn Đạo. Muốn thành tựu Nhơn Đạo ấy họ phải thông minh trí thức lịch duyệt thế tình, thông minh trí thức phải học, lịch duyệt thế tình họ phải chuyên nghiệp lấy họ, nghiệp làm quan ấy, vì cớ cho nên một ông quan mới đầu tiên thủng thỉnh bực nhỏ lên cao, học đặng chuyên chú nghệ nghiệp của họ, cốt yếu họ cầm quyền trị dân ấy đăïng chi, họ mong mỏi gì, họ mong mỏi cho cả toàn dân được hạnh phúc cả cái sống còn của dân được bảo thủ, cái sanh họat của dân được hòa ái tương thân, thật ra họ không có đi ngoài khuôn khổ Tam Cang Ngũ Thường của văn minh ta lưu lại từ thử đến giờ. Muốn bảo vệ cho họ đặng hòa bình thân ái với nhau phải dĩ Đạo vi trị, họ phải mượn Văn Minh Đạo giáo của Tổ Phụ ta để Tam Cang Ngũ Thường làm căn bản, trong gia đình xã hội phải nương theo bóng của Đạo bên kia họ mới có căn bản, có căn bản ấy thì mới ích nước lợi dân trừ gian diệt nịnh.

Hại có một nỗi là họ tạo luật ra quá quắt có nhiều điều họ lập ra khuôn luật mình thấy thất đức bất nhơn tàn ác, họ dùng cả cái cường lực trị dân, vì cớ cho nên các xã hội nhơn quần hiện tại bây giờ đây loạn là vì họ không lấy Đạo Đức nhi trị, họ không tùng theo tâm lý mà họ chỉ tùng theo quyền lực mà thôi, nào là khám lớn, nào súng, nào gươm máy, hễ tuân theo khuôn luật của họ thì họ để cho sống, nếu không tuân theo khuôn luật thì họ giết, mà kỳ trung thật ra Bần Đạo tổng luận gia đình tinh thần tức nhiên Đạo là tu thân, còn gia đình xã hội là trị quốc, còn thiếu tề gia, tề gia không phải là tề gia đình, tối thiểu của mọi gia đình mà tề gia đình thiêng liêng gia đình tinh thần về xã hội, duy có tề gia ấy nếu mà đôi bên, bên Đạo và bên Đời hiệp phương chước lại với nhau dùng cái phương tề gia ấy mà tương  liên mật thiết với nhau nó phù hạp lấy nhau đời mới hưởng được hạnh phúc thái bình, ngoài ra nữa dầu phương chước nào hay hơn bao nhiêu mà không có đựng cái tề ấy, chữ tề ấy không quyết định đặng thì nước vẫn loạn mãi thôi, nhơn sanh phải thống khổ mãi thôi, vì cớ cho nên Bần Đạo mới nói : "Đạo không Đời không sức, Đời không Đạo không quyền" hễ họ tương liên với nhau không được tề gia nhứt thống về gia đình tinh thần và gia đình xã hội của họ thì bao giờ họ cũng bất lực hết thảy.

 

Đêm mùng 8 tháng 4 năm Aát Mùi (1955)

(Vía Đức Thích-Ca & Bà Nữ Đầu-Sư)

34.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ TRIẾT-LÝ NHƠN-QUẢ CỦA NHÀ PHẬT

Đêm nay là ngày Vía Đức Phật Thích Ca luôn ngày Vía Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, có phải chăng là một việc tình cờ hay là quyền Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã định, Chị Nữ Đầu Sư vẫn thương yêu Đức Phật Thích Ca lắm. Tuy vân Đức Chí Tôn đến kêu người phải về cùng Thầy mà sự thật ra Tâm Đạo của Chị từ bé tới lớn chỉ theo chơn Đức Phật Thích Ca mà thôi, nếu xét đoán ra đã biết Đạo thì sự ấy không chi là lạ.

Nguơn Linh của Long nữ đã theo hầu Đức Quan Aâm Bồ Tát mấy kiếp đã đến trần thì căn Phật của Người vẫn thế, Bần Đạo xin thuyết Triết Lý Đạo Phật của Đức Phật Thích Ca, Ngài đã đọat Đạo đặng rồi tức nhiên Chị hiểu cái huyền vi bí mật của kiếp sanh con người, Ngài tầm ra căn nguyên bí yếu hơn hết là Luật Nhơn Quả pháp định (Loi Karmique) cái Luật Nhơn Quả của Ngài nó trúng trong chơn lý lạ thường, thử ta từ chối con người không có quả kiếp chi hết cũng như thuyết Duy Vật đã nói, con người đã sinh ra ở mặt thế nầy là tình cờ mà thôi, sống như vạn vật kia vậy, nếu cái thuyết ấy quả nhiên là chơn lý thì ta thử hỏi vậy chớ duyên cớ nào kẻ sanh ra vừa khỏi lòng mẹ đã nằm trên đống vàng hay là ngự trên ngai vàng. Còn những kẻ sanh ra đã bị tật nguyền, đui mù, ngu dại, nếu không có định Luật Thiên Nhiên Công Bình vô đối của Đại Từ Phụ tức nhiên của Đức Chí Tôn thì lẽ bất công ấy chúng ta phải giải nghĩa ra thế nào mà chớ ? Cái Triết Lý bí yếu ấy, Đức Thích Ca đã tìm đặng tức là Nhơn Quả của ta.” Nhơn” nghĩa là ta đã có làm điều chi thì “qua”û của nó trả lụng lại.

Cái Luật Nhơn Quả ấy nó là căn kiếp sống của ta. Có nhiều kẻ cả đời làm lụng nhọc nhằn vợ con đông đúc, cả mọi đièu muốn thi thố ra đều thất bại, mà cái thất bại ấy chẳng phải dỡ, cái miệng thường những kẻ ấy trong cơn đau khổ nói số kiếp của tôi nó thế nào, tội tình gì mà làm cho tôi như thế đó, là kẻ bên Đạo Phật. Các Tôn Giáo khác không cần luận, ta thấy họ đã quyết định cái quả kiếp là gì, Phật đã nói: Cái kiếp sống đương nhiên của ta, định số phận của ta đương kiếp sống hiện thời là do căn quả của ta đã tạo kiếp trước, bây giờ cái Triết Lý ấy biểu ta muốn cho nên kiếp tới, kiếp nầy ta chẳng nên gây Nhơn Quả nhiều hay nặng nề, vì cớ cho nên những bổn Đạo cùng những Người Tín Ngưỡng theo Triết Lý của nhà Phật, khi họ thấy căn kiếp của họ đã nhiều bằng cớ không may, hoặc về tình ái, hoặc về sanh kế, hoặc về công danh, hoặc về nghèo giàu, bất kỳ quả kiếp của con người ta thế nào, thường nương lấy đó mà sống, làm cho cái khổ của con người đã sanh ra chịu khổ,  rồi quả kiếp nặng nề ấy lại tăng thêm khổ nữa.

Bây giờ quá sức chịu của trí não con người phải làm sao hễ khi nào bị khổ não quá chừng thì tìm phương pháp an ủi, bởi cớ cho nên nhà Phật là nhà hay an ủi tâm hồn của những kẻ đau khổ tốt hơn hết là tự giác lấy mình, hiểu cái quả kiếp mà mình đã đào tạo, vì tại mình vi chủ tạo thành nó ra, bây giờ tìm phương giải nó đi, tức nhiên tránh kiếp tới, nếu ta đã biết kiếp nầy không may để trả nó mà thôi, ta đừng gây thêm quả kiếp nữa.

Bởi cớ cho nên Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, cạo đầu phế cả cái sống của mình gọi là Qui Y thọ Phái vô Chùa gởi thân trong cửa Phạm cửa Đức Phật Thích Ca đặng tìm phương an ủi hay là hay hơn nữa đủ trí thức, đủ tự giác để đào tạo cái quả kiếp tương lai của mình, thật ra Chơn Lý ấy của nhà Phật an ủi một cách mạnh mẽ các tâm hồn bị đau khổ. Chính Phật cũng phải nhờ Triết Lý ấy mà nhiều phe\n đã tự an ủi mình làm một Phật vị, bởi chính mình Ngài muốn tạo một lớp Liên Hoa của Ngài, Ngài phải đầu kiếp làm Thảo Mộc lên Thú Cầm Nhơn Loại rồi đến Phật vị, thì tức nhiên trọn cái vòng siêu thoát của Ngài, Ngài đã biết nhơn-loại biết kiếp sống của con người đau khổ như thế nào, thật có sống với đời mới biết được cái khổ của đời. Những tay thầy thuốc giỏi hay biết được  bịnh con người một cách đúng đắn mực thước thì chính mình ông phải có bịnh đó, ổng tự thí nghiệm bào chữa chứng bịnh của ổng rồi ổng mới đoạt được lịch thi của ổng không thế tưởng tượng.

Đức Phật Thích Ca cũng thế, Ngài cũng sống Ngài đã chịu trong cái Luật quả kiếp ấy luân chuyển từ vật hình dĩ chí cho tới Phật vị, cái Quả Kiếp của Ngài nó phải chơn thật không thể tưởng tượng được, không thể bỏ nó ra, không có cái triết lý nào giải nghĩa kiếp sanh con người cho nó mực thước hết.

Bây giờ xin luận về Duy Vật nó nói loài người là một giống khỉ tiến hóa lên chớ không phải Trời sanh ra, Bần Đạo dòm lụng lại Sắc Dân của Aán Độ chính mình Phật Thích Ca là Dân của Aán Độ, Dân da đen gọi Hắc Chủng, Ngài sanh ra ở đó da thay vì đen nó hơi hồng hồng, rồi người Đời tặng Ngài màu hồng hồng, họ gọi Ngài là Kim Thân, vì cớ cho nên các tượng hình của Ngài đều phết vàng, bởi tại hai chữ Kim Thân ấy, chính Ngài là Sắc Dân da đen mà Sắc Dân da đen là một Chủng Tộc đến mặt Địa Cầu nầy sớm hơn hết.

Chúng ta thử xét đoán nếu quả nhiên là loài khỉ tấn hóa lên cho tới Sắc Dân hắc chủng ấy có đâu đầu óc của họ đâu có quá chừng quá đổi, tâm thần quán thế như thế đó, nhứt là đặc biệt hơn hết các triết lý cao siêu về mặt vô hình. Dân Aán Độ đứng đầu hơn hết các Chủng Tộc. Nó trái ngược lụng lại những chủng đã noi theo luật tiến hóa, nhứt là chót hết bây giờ là Bạch Chủng. Tôi thấy họ đã tiến hóa nhiều từ Hắc Chủng lên Thanh Chủng tới Xích Chủng đến Huỳnh Chủng rồi tới Bạch Chủng. Đường tiến hóa của nhơn loại nhiều quá, sâu xa lắm, tời chừng dòm lụng lại Sắc Dân Bạch Chủng kia cũng không phải hơn gì Sắc Dân hắc Chủng, vì Hắc Chủng người đã đến mặt Địa Cầu nầy hồi ban sơ hết, hay nói là Mẹ của các giống người hết thảy nơi thế gian nầy mà người ta cao siêu như thế đó thì chính mình Bần Đạo không tin loài khỉ tiến hóa lên được, cái lý thuyết ấy vô lối, nếu không nói là quái dị, hay đặt cho nó cái tiếng là quái gỡ. Cái Triết Lý của nhà Phật từ thử tới giờ chưa có một vị Giáo Chủ nào đã đọat Pháp mà biết cái bí ẩn Thiêng Liêng của Luật Thiên Nhiên kia một cách chánh đáng như thế, chơn thật như thế, có một điều chính mình trong sự Luân Hồi Quả Kiếp ấy, Đại Từ Phụ đã làm chứng trong Bài Thơ của Ngài :

- Đài Vân Quan Võ để Phong Thần

- Còn của Thầy đây để nhắc cân

- Muôn phước ngàn lành không sót một

- Bao nhiêu Công Quả bấy nhiêu phần.

Nói như thế đó, chính mình Đại Từ Phụ đã nói rằng : Quả kiếp Nhơn Quả của con người Luật ấy hiển nhiên vẫn có thiệt đó vậy.

 

Đêm 15 tháng 4 năm t-mùi (1955).

35.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CHỮ HIẾU

Đêm nay Bần Đạo giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ để ý nghe cho lắm. Đêm nay Bần Đạo giảng chữ Hiếu, đương nửa thế kỷ 20 nầy, Đạo Đức suy vi, Nhơn-luân điên đảo, Phong Hóa Cổ Truyền do nơi tinh thần chơn chất hiền lương của Cổ Nhân đã để lại bị Văn Minh Khoa Học nó làm cho cả tinh thần Đạo Đức đều mất quyền nghĩ cả khoa học từ thế kỷ 20 nầy, nó đã đem lụng lại cho nhơn loại những gì ? Thật ra cái sanh sống của nhơn loại nó có thay đổi, nó có hướng về Duy Vật nhiều hơn là tinh thần khoa học nếu để tâm suy gẫm thì ta ngó thấy, nó có thể tạo hạnh phúc cho xác thịt nhơn loại mà nó làm cho tiêu hủy cả tinh thần loài người cũng có.

Những nhà Triết Học Aâu Châu nhứt là Pháp, đã nói một câu rất chánh đáng, chánh đáng mà có khuyết điểm khoa học lắm lẵm đó vậy. Họ nói rằng : "La science sans conscience est le plus grave danger de l'existence humaine" khoa học không có thiên lương là một đều nguy hiểm cho sự sanh tồn của nhơn loại. Thật quả vậy, nếu như nhơn luân của cả toàn nhơn loại mà không có phương pháp cố thủ nó lụng lại đặng, nó đã điên đảo rồi, cái nhơn luân ấy làm sao nó làm căn bản cho nhơn loại.

Nay vì thiếu Nhơn Đạo, nhơn loại không biết yêu ái với nhau, chỉ tranh sống, chỉ tranh mạnh, mong làm bá chủ của toàn cầu, gây biết bao chiến tranh khổ não, chẳng phải hao về sanh mạng mà thôi, mà hao cả phú hữu nơi mặt đất nầy mà chớ, biểu làm sao nhơn loại không thống khổ cho đặng. Ai đời họ đã làm một điều trái hẳn Luật Thiên Nhiên của Tạo Đoan mà chính mình Đức Thánh Nava ở tại Đền Thánh La Mã đã buộc phải lên tiếng, đó là sanh dục không cần nam, nghĩa là người đàn bà không cần có chồng mà muốn có con khoa học có thể cho có con đặng. Nếu như cái tình trạng ấy quả nhiên xô đẩy nhơn loại đi tới một cái địa điểm chúng ta sẽ ngó thấy gì ? Chúng ta ngó thấy Đạo luân thường của nhơn loại sẽ bị hủy đi mà chớ. Đi tới mục đích đó biểu sao cả tinh thần con người không hướng về vật hình rồi cái Đạo nhơn luân không đếm xỉa đến, thử hỏi nếu một trẻ sơ sanh không có cha, cha nó là một cái ống bơm kia mà thôi, thử cái Đạo nhơn luân của nhơn loại đã ra sao mà chớ.

Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra cái thuyết Duy Vật của Cộng Sản đáng lý lắm vậy, trót đã xô đẩy tới cảnh tượng đó, không cần biết Tổ Phụ Tông Đường Cha Mẹ là chi nữa hết ? Oâng nội cũng đồng chí, Bà nội cũng đồng chí, đồng chí mẹ, đồng chí anh đồng chí em, cả thảy đều là đồng chí. Cái thuyết Duy Vật ấy do nơi thất Đạo nhơn luân mà sanh ra đó vậy.

Bây giờ nói tiếp qua cái giá trị chữ Hiếu, Văn Minh Nho Tông của chúng ta là gì ? Tưởng cũng không cần gì nói cho mấy người lớn nghe, Bần Đạo chỉ giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ mà thôi.

Mấy đứa nhỏ có biết Cha Mẹ đã sanh ra nuôi nấng được cho nên hình, nên vóc, cái cam khổ của Cha Mẹ như thế nào mà chớ. 

Hễ có rầy la có dạy dỗ, có nhiều đứa cường ngạnh lén lút ra ngoài nói : Oång vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa xã, có nhiều khi ra sau lén lén ngồi rủa đủ thứ. Tới chừng biết khôn ngoan đến tuổi già, cả tâm não và lương tâm của mình sẽ cắn rứt và sẽ hình phạt một cách chừng đó mới khôn ngoan.

Hại thay ! Oâm một đứa con đỏ từ vú sữa mớm cơm, nuôi cho nên hình, nên vóc, thật ra không biết bao nhiêu khổ não truân chuyên của Cha Mẹ, có nhiều khi phải hy sinh cả hạnh phúc của mình, để cả trí não, cả tâm hồn, cả giọt mồ hôi nước mắt để nuôi con, biết bao nhiêu gia đình không phải dỡ, mà vì nghèo vì con nên khổ, mấy đứa nhỏ có biết điều ấy đâu. À mà có biết chăng là khi nào mấy đứa bây có chồng có vợ, tới chừng bây giờ có con đó mới biết cam khổ nuôi dạy con bây như thế nào, bây mới biết ơn Cha Mẹ là nặng. Tiên Nho có nói : "Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân" có nuôi con là thế nào mới biết ân trọng của Cha mẹ, những nhà Đạo Đức xưa kia trong cửa Đạo Nho Tổ Phụ ta hay để lời than, hễ đọc đến làm cho ta khổ não cả tâm hồn : "Ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân hiệu thiên võng cực", không có thế gì mà tưởng tượng được cả, tả ra cả, tâm hồn chí hiếu gặp một cái nước cũng như nước Việt Nam cả thảy đều có hạnh phúc là ăn no mặc ấm, dầu cho miệng lưỡi đã nói một tiếng khổ chớ một sắc dân hạnh phúc hơn các sắc dân toàn cầu đa số vậy.

Bần Đạo còn nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra sao, mà cả thảy thiên hạ đều đói, Bần Đạo nghe được một cái tình trạng rất khổ não lương tâm là có một gia đình con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa cao gạo kém, buổi nọ con nó đã nhịn đói đôi ba bửa, mà thứ con nít nhịn đói thử như thế đó không la làng la xóm sao được, la rầy um xùm nên cha mẹ chịu không nỗi, bây giờ kiếm cơm cho con ăn mà không ra, rồi gạt nó cũng chụm lửa lên ở trong bếp lấy trấu bỏ trong nồi cơm vậy, bắt lên rồi mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh giữ nồi cơm rồi lén lút ra sau hè thắt cổ tự vẫn. Mấy em có biết điều đó đâu, cái Hiếu nếu mấy em không trả cả một đời mấy em chưa hề khi nào nên người bao giờ "Nhơn sanh Hiếu nghĩa vi tiên" không Hiếu Nghĩa không làm gì nên người được.

Bần Đạo thuật một cái bài học hồi còn học trong Trường Nho Thầy của Bần Đạo dạy : "Tâm đạo cảm Thiên, Hiếu đạo cảm Thiên" ở trong cổ nhơn vị Sư ổng dạy một tích làm từ đó cho tới lớn không buổi nào quên hết.

Nhà Đại Minh Hùng Võ có một người học trò khó mẹ góa con côi học giỏi lắm, duy có nghèo, lớp nào lo học, lớp nào làm mướn nuôi mẹ với nuôi thân. Khi nọ người mẹ đau bịnh quá vãng. Cái tục lệ nhà Minh buổi nọ, ở ngoại thành không được phép vô nội thành, chỉ cách có một dãy trường thành mà thôi. Hễ ai vô nội thành mà rách rưới xin ăn đều bị đuổi tống ra, ai mặc đồ tang phục mà vô nội thành cũng bị đuổi ra. Người học trò khó ấy tính vô nội thành đặng hành khất về chôn mẹ, mà hễ bận đồ tang phục vô thì bị đuổi. Bây giờ anh ta mới gọi là "Tâm tang" anh ta xé một miếng khăn tang bằng ngón tay, rồi mới xẻ cái vú ra một đường nhét vô trổng, ngoài mặc áo học trò như thường để vô nội thành, gọi là Tâm tang, đi vô nội thành đặng đi xin về chôn mẹ.

Nhơn khi đó nhóm ngoại ô ngay chỗ đó lửa phát cháy, cháy một cách dữ dội lắm, làm cho Oâng Đại Minh Hùng Võ lên hoàng cung hoảng hốt. Thấy dân chúng khổ não Oång cầu nguyện với Trời đặng cho ngọn lửa tiêu xuống đi, Oång vừa ngó trên ngọn lửa Oång thấy Quan Thánh Đế Quân, Quan Bình và Châu Xương hiện hình đứng trên ngọn lửa đặng làm cho ngọn lửa ấy tắt, thì khi đó đã cháy hết xung quanh rồi, chỉ còn có một nhà mà thôi, cái nhà ông học trò khó có thây chết của Mẹ. Oâng Đại Minh Hùng Võ đứng trên cái dịch đài Hoàng cung dòm thấy Quan Thánh, Quan Bình và Châu Xương đứng trên ngọn lửa, ổng bái, ổng lạy đặng cám ơn, nhưng mà ổng vừa lạy ổng vừa ngoắc thì Đấng ấy đến ngay trước mặt của Oâng Hùng Võ, rồi Quan Thánh bái Oâng Hùng Võ nói : Em chào Đại Ca, rồi Oâng Đại Minh Hùng Võ liền biết mình là Lưu Bị tái kiếp, mới hỏi lụng lại Quan Thánh : Tam đệ hà tại ? Hỏi vậy tam đệ là Trương Phi bây giờ ở đâu ? Trấn Bắc Tướng Quân tên ... gì đó (lâu quá Bần Đạo quên) nói rồi ba hình liền biến mất. Oâng Đại Minh Hùng Võ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đòi Trấn Bắc Tướng Quân về, rồi bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đòi cấp thời đây, đòi về đêm ngày sợ gian thần sủng nịnh nó tâu vô tâu ra sợ về mang hại nó mới đồ mưu làm để ổng nằm trong cái hòm rồi đệ tờ sớ nói ổng chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên thì Ngài sống lại, không yên chúng tôi chở Ngài về biên thùy.

Vì cớ cho nên hòm hồi xưa họ có soi lỗ dưới đáy đặng cho có lỗ hơi, cái tục lệ đó như vậy ? Khi ông nọ về triều đình Oâng Đại Minh Hùng Võ mừng rồi Oång khóc lóc là nghe tin bạn chết, mừng là thấy Trấn Bắc Tướng Quân đã về tới, dầu chết đi nữa còn thấy thi hài của em, tưởng đâu là mưu như vậy ai ngờ khi vở nấp hòm thì đi dọc đường bọ để lên để xuống bị nghẹt hồi nào ông kia chết thiệt. Một mặt ổng đòi ông nọ, một mặt ổng sai đi ra đặng tra gạn coi tại sao hết thảy nhà cháy mà nhà đó còn. Tới chừng tra ra thì lòi ra người học trò khó vì Hiếu. Oâng vội đòi rồi tức thì phong quan hàm Văn Minh Điện Đại Học Sĩ, sau lên tới Giáng Nghị Đại Phu, vậy thấy cái Hiếu, cái Hiếu động Trời, động Đất như thế đó mấy em bất Hiếu, cả thảy bất Hiếu Trời Đất xử định mấy em ra sao ?

Từ đây tới sau dặn đừng có kỳ kèo đối với Cha Mẹ. Hễ còn thanh xuân chưa lịch lãm thế tình, hãy nương nơi cái hay cái biết của Cha Mẹ. Cường ngạnh tới chừng sau rồi có một trăm tuổi già ngồi khóc lên khóc xuống cũng không ích, ăn năn tự hối như Bần Đạo đây có nhiều khi ngồi nơi nào nhớ, moi óc nhớ coi Cha nói gì, Mẹ nói gì, tìm gần trối chết, tìm đặng nhớ.

Còn bây giờ đã có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la kỳ cào, quạo quọ, ở trong cửa Đạo nầy Bần Đạo xin dứt cả thảy mấy em Thanh Niên rán giữ chữ Hiếu làm gương mẫu.

 

Tại Báo ân Từ Lúc 4 giờ chiều, ngày 17 tháng 4 năm Ất Mùi (1955)

36.- ĐỨc hỘ pháp phỦ giáo VỀ TRÁCH-NHIỆM CỨU-KHỔ CỦA CƠ QUAN PHƯỚC-THIỆN

 

Sau khi kiểm soát phận sự của Hành Thiện lãnh ủng hộ Đồng Bào Bắc Việt và Hành Thiện lãnh Thập Nhị Gia Liên Bảo.

Mấy em ngồi im lặng để Qua nhắc thêm trách nhậm của mấy em, mấy em đã biết rằng, Hội Thánh Phước Thiện tức nhiên là Hội Thánh của Hiệp Thiên Đài. Trước chưa xuất hiện Hội Thánh Phước Thiện mà Hiệp Thiên Đài vẫn có người làm, sau lập thành Hội Thánh được Chí Tôn định đâu sẵn rồi nên giao phó trách nhậm ấy cho Qua, tức là chính mình Hộ Pháp là người làm đầu trong Hiệp Thiên Đài, trách nhậm đó có nặng nệ làm sao đâu. Khi ấy có 3 người Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự Thầy, Chí Tôn nói : "Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi đó hết khổ" và Chí Tôn cho biết rằng : "Cái khổ ách của nhơn loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh Ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con phải làm thế nào nêu ngọn cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn sanh cùng khắp mặt địa cầu này".

Qua không hiểu Qua là thế nào mà khi Thầy biểu Qua phải lãnh làm rồi Thầy sẽ dạy Pháp biến thân con ra vạn ức ... Buổi nọ Chí Tôn dạy phải vưng, chớ chưa hiểu Pháp biến thân của Chí Tôn đã ban cho ra thể nào. Khi chưa có Hội Thánh Phước Thiện Qua rất ngại, đến chừng Chí Tôn dạy muốn lập Hội Thánh phải lập Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng trước, thật là quyền năng Chí Tôn vô đối, khi ban cho Qua không bao lâu mà lập thành được Hội Thánh Phước Thiện, tức nhiên là Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, thì bây giờ đây đã có mấy em sẽ nối gót phụng sự Hội Thánh Phước Thiện chung lo gánh vác Cơ Cứu Khổ để thay thế cho Qua gần gủi Chúng Sanh để phụng sự, gánh sự khổ não của con người thì thấy rằng : Chí Tôn đã giúp cho Qua thêm được nhiều tay chơn để lo cứu khổ cho mau ra chơn tướng.

Ở bên kia Hội Thánh Cửu Trùng Đài đi từ phẩm Lễ Sanh đến Giáo Tông, bên nầy Hội Thánh Phước Thiện đi từ Minh Đức đến Phật Tử mà mấy em cố gắng với trách nhậm của Qua đã định cho mấy em, dầu cho các sắc dân trên địa cầu này mà biết chen vai gánh vác sự khổ của đời thì họ cũng đọat Tiên tử được. Vậy mấy em thật hành được thì cơ quan cứu khổ sẽ thành lập đó vậy. Cái trách nhậm rất nặng nề mà mấy em rất hữu phước nên Chí Tôn ban cho mấy em được đứng vào trong Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Qua muốn sau khi Qua về Thiêng Liên mà được thấy mấy em nối nghiệp cho Qua thì Qua rất vui mừng lắm vậy. Huyền Bí Thiêng Liêng đã định, chỉ có một mình vị Phật Tử, nên sự vui hứng của Qua là muốn thấy có một đứa em làm xong phận sự đoạt vị Tiên tử sống tại thế gian nầy.

Mấy em ráng nhớ đừng bắt chước làm quyền theo quan lại, mấy em phải yểm tình dục quyền tước lại, cũng như Qua yểm trên Thất Đầu Xà, chỉ mình tập tánh Thương Yêu mà thôi, đừng hờn giận ai, cứ bình tĩnh chịu những sự khó của ai đã làm mà mấy em phải gánh.

Trước kia Qua ôm lấy trách vụ Đức Lý Giáo Tông cho Qua phải làm mà Qua chưa hề đem ra thi hành, Qua muốn mỗi việc khó của mấy em đều có Qua ngồi chung với mấy em, nếu có thể ngồi dưới đất cùng mấy em, ăn muối cũng vui với mấy em được vậy, ngày nay mấy em đã đem trọn thân thay thế cho Qua lo Cơ Cứu Khổ, đã hạ mình nơi chỗ thấp mà mấy em chung lại ngồi bốc cơm nguội ăn cũng cư vui lên, nên nhớ đã nghe những cái cực khổ gánh vác nặng nề nầy là chúng tôi chung sức gánh cho Thầy tôi, dầu cảnh khổ não mấy em cứ đổ trúc cho Qua đi cho nhẹ bớt, ấy là quyền Thiêng Liêng định vậy, hiểu chưa ? Nếu mấy em tính có Các Đấng Vô Hình ám trợ dầu gặp việc khổ cũng bớt khổ.

Mấy em hỏi lại mấy Anh của mấy em coi sự khổ của mấy Anh rất đáo để từ hồi tạo Đạo đến giờ hỏi Hiền-Nhơn Cương coi tụi nó chỉ bắt gió nắn nên hình chớ chưa ? Phận sự của mấy em đang lo Cơ Cứu Khổ cho Hội Thánh Phước Thiện thì mấy em phải làm, Hội Thánh Phước Thiện cũng nên giúp đỡ, mấy em nghĩ coi, từ thử đến giờ mấy em có vợ chồng lo cặm cụi sự làm lụng, cực nhọc lo một gia đình mà không rồi, may lãnh thêm 12 gia đình này sao đặng.

Qua thấy mấy em vượt qua Giáo Thiện không nổi thì Qua tạo 12 Gia Nghiệp cho mấy em, tức là thuyền từ cho mấy em nương qua, bên nầy bực Hành Thiện muốn thăng Giáo Thiện cũng như bên Cửu Trùng Đài phẩm Lễ Sanh lên Giáo Hữu rất khó. Vậy nên Qua không tạo thuyền từ cho mấy em làm sao qua ải được.

Hội Thánh Phước Thiện không có định số, hễ phẩm Giáo Thiện, thì cứ đi mãi cho đến Phật Tử, bên Hội Thánh Cửu Trùng Đài đã có số định, hễ Nhập Môn rồi đoạt đến Lễ Sanh thì ở đó cứ ngồi đó mãi, vì đã đủ 3.000 Giáo Hữu chờ có khuyết mới qua được, Giáo Sư 72 Vị, Phối Sư 36 Vị, Đầu Sư 3 Vị, Chưởng Pháp 3 Vị mà ngôi Giáo Tông chỉ có một mà thôi.

Phận sự mấy em không lạ, mấy em có bổn phận làm cha tạo nghiệp cho 12 gia đình, bảo thủ tài sản, chỉ dẫn công ăn việc làm cũng như lo cho gia đình mình đó vạy, dầu việc chưa từng làm ráng cố gắng thì nên việc. Qua căn dặn một điều nên nhớ, thoản như có một trong 12 gia đình mà thưa gởi mấy em là thiếu phận, thiếu tình thương Đạo Đức, thì mấy em phải lỗi ước với Qua. Trong gia đình gặp cơn hoạn nạn, đau khổ, mấy em không ngó đến, rồi đây họ kiện mấy em đến Pháp Chánh thì mấy em  thất phận, mấy em nhớ bổn phận làm cha, nên vẹn giữ cho trọn phận , chớ đừng biếng nhác thì phải mang tiếng "Tử bất giáo, Phụ chi quá" cứ biết với bổn phận mình là người lớn, phải lo cũng như lo nuôi dưỡng con cháu của nhà mình, đã chịu cực khổ để điều với gia đình mình rồi.

Thôi mấy em nên thành tâm cầu nguyện rồi bãi Hội.

 

Ngày mùng 3 tháng 5 năm Ất Mùi (1955)

37.- Đức Hộ pháp huấn dụ Giáo chức & học-sinh  Đạo đức học đường: HỌC VÀ HÀNH PHẢI SONG SONG VỚI NHAU

thưa cùng Viên Quan Chức Sắc quyền Đời, nhứt là Bần Đạo để lời cám ơn Tỉnh Trưởng đã đến dự cuộc Lễ Phát Phần Thưởng Các Học Sinh.

Thưa cùng Hội Thánh Nam, Nữ Lưỡng Phái, Hiệp Thiên và Cửu Trùng, Bần Đạo xin khiếu lỗi cùng các Ngài, Bần Đạo để lời cùng Ty Giáo Huấn và Học Sinh Nam, Nữ.

Hôm nay các em, các con trong Ty Giáo Huấn hơn ai hết, Thầy đã biết rõ cái chí hy sinh của mấy con Nam, Nữ, các Giáo Viên, Thầy hiểu rõ hơn ai hết, các con đã thiếy thốn mọi điều đối cùng sự cực nhọc của các con thì không giá nào mà so sánh đặng. Trọng yếu của tương lai Đạo là tức nhiên tạo tâm hồn của sắp nhỏ mà chính mình các con là tay thợ đào tạo tương lai của chúng đó vậy.

Các con Học Sinh Nam, Nữ, các con sẽ lớn, đời tương lai nòi giống và vận mạng Tổ Quốc của mấy con, hàng niên kỷ như Thầy, như Hội Thánh đều để cả sở vọng của mình trong trí não tâm hồn các con đó vậy. Lẽ dĩ nhiên bất kỳ một xã hội nhơn quần chủng tộc nào cũng thế, mỗi sắc dân đều có văn hóa phong tục khác nhau cả thảy. Ta có thể so sánh một phong hóa của một nước nào có thể cao thượng hơn của ta mà ta không có thể gì nhìn nó rằng giống hệt của ta. Bởi mỗi tinh thần của một chủng tộc nào, sắc dân nào, nó cũng có cái đặc điểm của nó hết, nhứt là Chủng Tộc Việt nam đã thọ ảnh hưởng tối cổ của Nho Tông chúng ta, cả thuần phong mỹ tục làm cái ảnh tượng tâm hồn Nòi Giống Việt Nam, đều là khuôn khổ của nền Văn Minh Tối Cổ Nho Tông của ta đó vậy.

Lẽ dĩ nhiên là mỗi Tôn Giáo đều đào tạo một nền Văn Minh khác nhau, ta có thể so sánh cả phong hóa văn hiến của mỗi chủng tộc, hay mỗi nền văn minh ta có thể chia ra 2 đặc điểm, có nền văn minh xuất hiện ra một tôn giáo, có nền văn minh xu hướng theo xã hội, hơn là xu hướng theo Đạo Đức tinh thần. Nòi Giống và xã hội của cả mấy con có phải lạc hậu chăng ? Chưa chắc, nếu quan sát cho tận tường thì ta ngó thấy cái khuôn khổ xã hội của Nho Tông chúng ta, nó có thể nó làm một nền tảng cho tương lai cả xã hội nhơn quần kia nữa mà chớ. Chỉ ta có chịu thiệt thòi một điều là nền văn minh cao thượng ấy, ta chưa biết đem nó ra đặng cho cả thiên hạ điều biết cái giá trị của nó, chỗ khuyết điểm là do nơi đó mà thôi ? Đương nhiên hôm nay ở trước mắt các con đã ngó thấy trong nước các con. Nếu Thầy nói nó ở trong tâm hồn các con giờ nầy có hai cái ảnh hưởng Thiêng Liêng về hai nền Văn Minh sở hữu của mấy con là Nho.

Buổi giao thời cả phương pháp huấn nó chưa thiệt hiện tướng diện nó ra cho thiệt chắc đặng làm con đường, con đường tinh thần thiên nhiên phù hạp với cả trí não tâm hồn của nòi giống chủng tộc các con, Bần Đạo ngó thấy rằng, cái pha lộn của phương pháp giáo huấn, Pháp còn tồn tại, Bần Đạo cũng nhìn thấy nó đã ăn sâu vào tâm hồn của nòi giống ta. Sau 80 năm đã chung sống cùng Pháp, nhưng nó chưa hề chắc rằng, nó làm cho tâm hồn của ta phải xu hướng trọn vẹn theo nó, bởi vì cả phong hóa văn hiến đều khác hẳn với ngôn ngữ với trí thức của chúng ta.

Aáy vậy, phương pháp hay ho hơn hết, là nơi các con làm thế nào dung hòa hai nền văn minh ấy tức nhiên hai cái phương học thức ấy. Bần Đạo đã quan sát ở Đài Loan, ở Nhựt, ở Nam Triều Tiên rồi mới cân coi phương-pháp họ đã cải tổ cả nền văn minh của họ thế nào, và họ đã dìu đường cho hạng thanh niên của họ về phương học thức thế nào. Bần Đạo ngó thấy một cái hay của họ hơn hết là những điều chi ngoài họ chỉ để ngoài, lại với cái hàng rào kín đáo, cái chi ở trong họ giữ một cách đáo để kỷ lưỡng ở trong.

Cả cái duy tân của họ bề ngoài nếu bất kỳ nước nào, để bước chân tới xứ sở của họ, thì ngó thấy hoàn toàn là duy tân, từ cách ăn mặc, tánh tình cho tới cử chỉ đều là duy tân hết. Duy có một điều quí hóa hơn hết thảy mà Bần Đạo lấy làm sung sướng thấy đặng là cả phong hóa văn hiến cổ truyền của họ, họ vẫn giữ, họ bảo thủ nó còn tồn tại hiển nhiên, không cho cái ngoài kia xâm phạm.

Aáy vậy cái học thức của nòi giống các con đã 2.500 năm Văn Hiến, Phong Tục Cổ Truyền Nho Tông, cái đẹp đẽ của nó, nếu các con khéo giữ cũng như các nước đã chịu ảnh hưởng của Văn Minh Nho Tông của chúng ta, cái chi mà nó ngoài kia thì để nó ngoài, cái chi mà của ở trong của mình mà nó quí hóa đó của sỡ hữu mấy con thì mấy con giữ.

Cái học thức của Tổ Phụ các con để lại, nhứt là do nới Tiên Nho, họ chỉ mong có một điều, các con học đặng hành, chớ không phải học rồi làm Oâng Thầy Nho, hay học đặng làm các nhà triết học vậy thôi. Tổ Phụ các con buộc các con học đặng phải hành, học lấy cái thuyết ấy, đặng cho các con thực hiện.

Bởi cớ cho nên, những phương pháp Giáo Huấn của Tổ Phụ các con để lại, họ chỉ mơ ước có một điều là các con học đặng hành, mà các con thiệt hiện được cái hành đí, hay, hay dở là do sự phục vụ Tổ Quốc nòi giống các con đó. Nếu nói rằng :

"Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật, nhơn bất học bất như vật".

Lấy theo một khuôn khổ mà nói, con chó giữ nhà, con gà nó canh giờ, con tằm nó kéo tơ, con ong nó mửa mật, rồi còn kết luận, nhơn bất học bất như vật, nghĩa là người không học không bằng vật, nếu đem ra 4 cái thí dụ ấy, là chỉ nghĩa bốn ví dụ là phục vụ mà thôi, dĩ cái sở hành di thượng, lấy cái sở hành ấy làm đầu hết, các con đã hấp thụ được cái sự giáo hóa của các Thầy, Cô các con về Đạo Đức tinh thần, Bần Đạo chỉ mong các con học, học đặng lấy cái thuyết, rồi cố gắng thật hành cái lý thuyết ấy ra mới đáng cái học của mình.

 

Ngày mùng 5 tháng 5 năm Ất Mùi (1955)

38.- ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH-CHÁNH ĐẠO TRONG DỊP LỄ SANH NHỰT TẠI HỘ PHÁP ĐƯỜNG.

Có lẽ Bần Đạo hôm nay nói nhiều một chút, nhưng cũng nhờ Trời không có nắng. Nếu Trời không có nắng có lẽ cả toàn con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài có thể cố tâm nghe đặng.

Bần Đạo xin không trả lời cho các cơ quan khác nhau như ngày Tết Nguyên Đán, những lời của Bần Đạo sẽ nói ra đây xin cả toàn con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài để ý hiểu cho sâu xa một chút. Bần đạo có dành để riêng biệt một chỗ tư tưởng của mỗi người đặng suy gẫm. Xin cả thảy đều nhớ mỗi phen tới ngày Sinh Nhựt của Bần Đạo con cái Đức Chí Tôn đến Chúc Thọ, nhứt là Bần Đạo biết mình năm nay đã 66 tuổi, hiểu cả thâm tâm của toàn con cái Đức Chí Tôn  đã e ngại điều gì ? Biết lắm, Bần Đạo niên cao, kỷ trưởng bao nhiêu, tình ái của cả toàn con cái Đức Chí Tôn đã để trong thân hình nầy trọn 30 năm, lẽ dĩ nhiên họ sợ khối tình ái đó phải tiêu hủy, lẽ dĩ nhiên vẫn vậy.

Cả Thanh Niên con cái của Đạo dòm đó mà coi, hỏi thử ở nơi một thế gian nầy, trong một kiếp sanh của mình có phần thưởng nào mà có hưởng đặng xứng đáng như thế chăng ? Các cơ quan khi nảy kể lễ Công Nghiệp của Bần Đạo mà các Ngài có biết thiệt tướng nó là gì chăng. Cả cơ nghiệp hữu hình ngày hôm nay tượng hình của khối thương yêu vô đối đó, chớ Bần Đạo không có chi trong đó hết, cái thiệt tướng nó là vậy.

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng Đài và Phước Thiện,

Các con Chiến Binh & Phục Quốc Hội,

Hội Đồng Thánh Địa và Đại Diện Bắc Tông Đạo,

Bần Đạo xin kiếu lỗi.

Nhơn dịp hôm nay Bần Đạo có nhiều điều tỏ cùng Chư Thánh tức nhiên là Hội Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện là bạn đồng khổ của Bần Đạo, từ 30 năm chúng ta đã chung khổ, cùng nhau dựng nghiệp Đạo bảo vệ hạnh phúc tương lai cho toàn con cái Đức Chí Tôn, và hiện tại ta nên để tâm quan sát coi hành vi của ta có xứng đáng làm Thánh Thể của Đức Chí Tôn hay chăng cái đã. Cả hành vi 30 năm coi ta có xứng đáng phận sự Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó cho ta hay chăng ?

Bên Quân Đội các con và bên Phục Quốc Hội nên để ý khoảng nầy cho lắm, đã mang danh rằng Hội Thánh tức nhiên mạo hiểm mang danh Thánh Thể Đức Chí Tôn, thử hỏi cử chỉ hành tàng của chúng ta phải làm gì cho nên danh Hội Thánh ấy, và xứng đáng Thánh Thể Đức Chí Tôn ấy. Cả thảy đều biết Đức Chí Tôn là khác mà đời là khác, hai tinh thần hai hình chất nó không tương hiệp lại với nhau, dầu rằng lẽ dĩ nhiên Luật Thiên Nhiên kia buộc phải tiêu diệt, nhưng mà cả thảy đều biết thế tình với Thiên Ý làm thế nào cho phù hạp đặng.

Cả thảy đều ngó thấy từ 30 năm, Hội Thánh đã đổi cùng đời thế nào, họ còn nghi hoặc chăng ? Họ còn nghi hoặc phi thường cho Thánh Thể Đức Chí Tôn hay chăng ?

Thì đây Bần Đạo nói ở mặt thế gian nầy, chưa có một nhân cách nào đã thiệt hiện đặng "Dĩ ân báo oán" mà Hội Thánh đã làm đặng, dầu rằng Thánh Thể Đức Chí Tôn không có quyền khen ai, không có quyền chỉ trích ai, hay bày tội của ai, nếu như thế chúng ta đặng phép có phẩm cách phê bình bài trích ta, thì ta nên bày trích ta mà thôi, quyền năng ấy có thể dạy cho cơ đời bớt khổ não và giúp ích cho Thánh Thể Đức Chí Tôn lắm đó vậy, nhưng mà chính mình ta buộc phải cấm ta không đặng làm như vậy thiên hạ có nhiều điều khen mà chê cũng ngậm miệng, vẫn có nhiều điều chê chỉ có nuốt buồn ngồi mà chịu.

Cả trường hợp đương nhiên Bần Đạo để dấu hỏi, có ai biết chỗ khen chỗ chê của Hội Thánh thế nào chăng ? Chưa ai biết hết đừng ngó thấy sự lãnh đạm hay sự dè dặt của Hội Thánh mà tự định mình, vì việc khen của Hội Thánh có thể là một điều lầm lỗi quá đáng.

Dĩ ân báo oán, có một người nào ở thế gian nầy mà dám dang tay đưa bàn tay mình, đưa bàn tay nhân từ vô đối đó, tha thứ cả tội tình của kẻ nghịch, rồi còn có thể hiệp tác với họ đặng, có ai làm được chưa ? Mà trong cửa Đạo Thiêng Liêng của Đạo con cái của Đạo sẽ làm đặng, có ai biết kẻ nghịch phá Đạo, giết Đạo và hại Đạo vì cái tôn chỉ bất công của họ, họ đồ mưu hàng ngày tận diệt cho được Đạo Cao Đài mà Hội Thánh dám cho con cái của Đạo Cao Đài hiệp tác cùng họ, không nói rằng cứu vãn cả lập trường nguy hiểm của họ, chưa có ai làm đặng những điều làm đó, chẳng hề bao giờ Thánh Thể Đức Chí Tôn nói trong miệng mà cũng không bao giờ từ của Thánh Thể Đức Chí Tôn thốt ra, chỉ để ngầm cho toàn cả thiên hạ hiểu lấy mà thôi.

À bây giờ hỏi ra cái hành tàng của Đạo đương nhiên bây giờ, đối phó cùng tình trạng của đời thế nào, dám chắc Thánh Thể Đức Chí Tôn định cho một đường lồi nào khác thử coi, trong khi mình không khen đặng mà cũng không chê đặng, chỉ để mình đứng trong cái lập trường dung hòa mà thôi, lập trường dung hóa ấy sẽ bị bao biếm nhẻ, sẽ bị trích điểm bởi vì cái sống của Thánh Thể Đức Chí Tôn hành vi của Đức Chí Tôn nó ở trong thời gian và không gian, nó ở trong lịch sử nhơn loại, chớ không phải ở ngoài cá nhân hay là cả quốc, chỉ để trong không gian và thời gian sẽ giải nghĩa cho họ biết rõ ràng hơn mà thôi.

Ta nói cả Đồng Bào Miền Bắc hơn ai hết ở mặt thế gian này, cái đau khổ của Hội Thánh, nhứt là Hội Thánh đương giờ phút nầy, là máu mủ, là cốt nhục của các người, các người đau đớn lắm, chớ tính thế của đời biến thiên nó đưa đẩy cái mạng số của Nòi Giống Việt, Tổ Quốc Việt Nam đến nơi nguy hiển, như thế giờ phút nầy vậy. Mỗi đêm Bần Đạo chỉ cầu nguyện cầu nguyện một điều mà thôi, cái tấn tuồng nguy kịch nầy khổ não cả toàn Dân nước Việt đây, Bần Đạo cầu xin cả cái tai nạn tương lai kia nó sẽ làm cho cả nòi giống Tổ Quốc Việt Nam khỏi bị lệ thuộc một cách đau đớn, Đức Chí Tôn có thể cho Bần Đạo được 6 tháng mà thôi, trước cùng chẳng đã 6 tháng cho Bần Đạo được có 3 tháng trước để cứu vãn tình thế, thế nào, nếu chẳng may mà cái tình trạng đương nhiên bây giờ, Bần Đạo e cho cái ách lệ thuộc sẽ trồng trở lại trên cổ cả dòng giống Việt Nam hết, không phương giải thoát.

Cả Thánh Thể Đức Chí Tôn và con cái của Ngài đã cầu chúc cho Bần Đạo sống, sống nhiều chăng ? Là do cả toàn thể con cái của Ngài muốn, còn giờ phút nầy cái sống chết của Bần Đạo không có nghĩa lý gì hết, giấc chết của Bần Đạo thật ra là một giấc an ổn, an nhàn của Bần Đạo đó vậy.

Bần Đạo xin để lời cám ơn toàn cả con cái Đức Chí Tôn từ dưới lên trên, nhứt là trong Thánh Thể của Ngài.

 

Tại Đền Thánh Đêm 15 tháng 5 năm Ất Mùi (1955)

39.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ HỒNG-OAI & HỒNG-TỪ

Đêm nay Bần Đạo giảng đặc biệt cho Hội Thánh Nam, Nữ Lưỡng Phái và Hiệp Thiên Đài. Đêm nay Bần Đạo giảng về Hồng Oai và Hồng Từ, hai tiếng Hồng Oai, Hồng Từ ấy là đặc quyền của Đại Từ Phụ đã Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ mà lại vì hai tánh Đức ấy. Ngài trị cả Vạn Linh. Nếu ta luận Hồng Oai và Hồng Từ, thì ta có thể nói luận ác và thiện, rồi ta có thể đem ra hai kiểu mẫu, xã hội tức nhiên đời, cũng như Đức Khổng Phu Tử và Đạo Chích, nói về Đạo chẳng khác nào ta luận Đức Chúa Jêsus Christ, Juda đã nói tới Đạo Phật, ta thử luận Đức Thích Ca Mâu Ni và Dévadata, cái luận thuyết về nghĩa lý ấy vẫn không cùng, ta chỉ nương nơi nghĩa lý và quyền hành ấy, đặng để cho Thánh Thể Đức Chí Tôn đi cho trúng đường lối.

Hại thay ! Chớ phải chi, hai lẽ thiện và ác ấy cả Thánh Thế của Ngài đi một lối mà thôi, nói đơn giản, thà là làm Thầy Chùa thì Thầy Chùa, Thầy Pháp là Thầy Pháp, Đạo thời Đạo đi cho triệt để hay Đời cho triệt để đi. Khổ não thay Thánh Thể Đức Chí Tôn vì lãnh nơi mạng lịnh của Ngài, đến làm tôi con của Ngài cho toàn vẹn, thế gian của Ngài hỏi vậy chớ Đại Từ Phụ đã giao cho ta có phải giao Thánh hay là giao Phàm, nếu ta lấy theo sự suy gẫm của ta, ta phải nhìn rằng Đại Từ Phụ đã giao cho ta Phàm nhiều hơn Thánh, lẽ dĩ nhiên trước mắt ta đã ngó thấy.

Tự thuở nay, con người dầu sức lực mạnh mẽ thế nào gánh một vai mà thôi. Đại Từ Phụ lại buộc cả Thánh Thể của Ngài phải gánh hai vai Đời và Đạo. Cái kiểu vở hai Tôn Giáo trước mắt ta, ta ngó thấy Phật Giáo thì nghiêng cái gánh bên Đạo, Công Giáo lại nghiêng cái gánh bên Đời, Đời Đạo Phàm Thánh. Đức Chí Tôn đến lập Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu phải đứng ngay chính giữa của nó. Luận ra cho cùng lý, thì Hội Thánh của Ngài, buộc không Đời mà cũng không Đạo ở giữa cái mức trung tim của Đời và Đạo.

Cái khó khăn cho phận sự Thiêng Liêng ấy là vì lẽ đó Hồng Từ ta thử kiếm hiểu, phải có cái tinh thần, Đại Từ Bi, Đại Bác Aùi, nghĩa là mọi điều, nó phải do nơi luật tương đối hiện tượng bây giờ, là cái tình đời, thì ta phải khoan hồng dung thứ. Muốn làm cho không lầm phải có tinh thần lịch lãm và khoan dung. Nắm được tính Đức Hồng Từ của Đức Chí Tôn. Lịch lãm ta phải biết mình, biết người một cái gương lịch lãm từ cổ tới kim chưa hê có một lần thứ nhì nữa. Là Vua Nghêu có 9 người con 7 trai, 2 gái mà đi tìm Oâng Thuấn, đặng truyền ngôi Vua, lại còn 7 người con trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã. Khi tìm đặng Oâng Thuấn đem 2 người con gái gã hết, Nga Hoàng, Nữ Anh, mà ta thử nghĩ Oâng Thuấn Oång là gì, tên ít học, cày ruộng, cha là Cổ Tẩu, em là Tượng ghét đáo để, nhứt là Bà Kế Mẫu của Ngài, bị hiếp bức, ít học bất quá là một người cày ruộng vậy thôi. Ta thử nghĩ vì lẽ gì Vua Nghêu chọn Oâng Thuấn làn Vua kế nghiệp cho Ngài, chỉ vì Oâng Thuấn là Hiếu mà thôi, với cái lịch lãm Vua Nghêu Ngài cho tính Đức Hiếu Nghĩa đó là đủ hết rồi. Hễ Hiếu cùng Cha, Mẹ nghĩa cùng anh em, hai đức tính đó đủ cả tinh thần đặng trị thiên hạ, Ngài đoán rồi chọn Oâng Thuấn, Ngài không lầm, quả nhiên Oâng Thuấn đã thành một Vị Hoàng Đế, từ cổ tới kim chưa hề có một người thứ nhì nữa.

Aáy là lịch lãm, nhờ cái tâm hồn lịch lãm của Vua Nghêu mà cả cái sự hèn hạ của Oâng Thuấn kia nó mất hết. Oâng chỉ lấy có Hiếu với Nghĩa mà thôi. Aáy là cái gương lịch lãm khoan dung mà cái cử chi của Oâng Nghêu đã truyền ngôi cho Oâng Thuấn, là một cái Hồng Từ mà từ thử tới giờ chưa có ai làm một lần thứ nhì nữa.

Bây giờ luận về Hồng Oai, Hồng Oai nhiều cái khúc chiết, phải có tâm thần suy đoán và tha thứ cả tội tình thiên hạ. Ta chỉ chọn một cái Hồng Oai của ta, khi ta trị ta, ta phải làm sự trị ấy của ta lại vì cho kẻ bị trị, cái trị đó, ta toan tính liệu lượng thế nào, cái Hồng Oai của ta đây nó là một món thuốc trị bịnh cho kẻ đã bị bịnh.

Cái tính đức suy đoán có nhiều khi nó không cùng luận, một điều nên nói, Bần Đạo đem ra hai cái thí dụ mới đây có hai vợ chồng ông đó (người Pháp), Bà Vợ đau bịnh lao không thể trị được, thấy chết trước mắt đó vậy. Bà vợ biết mình không thể sống, chỉ có sống đi thì chỉ làm khổ não chồng và con mà thôi. Cái tình thương vợ chồng nồng nàn mà thân hình của Bà hôm nay như thế đó, chỉ có trong cái chết mà không chết đặng Bà mới cậy Oâng Chồng giết mình dùm, tội nghiệp Bà đã khóc cầu khẩn không biết bao lần, Oâng Chồng chỉ có khóc mà chịu thôi, chừng đáo để Oâng chồng ngó thấy sự đau đớn của Bà vợ không thể gì mà hết được, không thế gì mà thoát khỏi bịnh ngặt đó được, nghe lời yêu cầu của Bà vợ, bắn vợ. Tòa đem ra Đại Hình và buộc án sát nhơn, nhưng may thay cả thảy thiên hạ đều biết tính Đức Hiền của Oâng, nên họ làm chứng và quả quyết rằng : Bà kia cầu xin Oâng nọ giết mình dùm, nên được tha, là một gương thứ nhì.

Bần đạo đã đọc sự tích hồi còn đi học, có hai anh em học ở chung một trường với nhau, tới kỳ thi Tú Tài, thi Bachot kêu Bachelier của Pháp, thì người bạn thi rớt về thất chí đến nươc muốn hủy mình, mà may có một điều được người bạn tâm tình kia, đem cả sự đau khổ tâm hồn của mình tỏ cho bạn mình, người bạn an ủi, khuyên lơn chi cũng không đặng hết.

Hôm nọ người thất chí đó nhứt định đi ra đón xe lửa đặng nhào đầu vô xe lửa đặng chết, đặng tự tử, mà không dè là người bạn của mình đi theo bén gót, đi theo xa xa giữ gìn không cho hay. Oâng ta mới vừa đi lại gần xe lửa, người bạn chạy theo níu, năn nỉ giữ lại đó, người kia vùng vẩy đổ quạo lên nói:  Mầy tưởng đâu mày thương tao mà mày kéo dài sự đau khổ của tao chớ không phải mầy thương tao. Bây giờ không thế gì can gián được, phải dùng chiến lược khác, phát gây lộn nói : Cái thân thể mày đã dở, mày ngu, rồi mày thi rớt, rồi mày muốn huỷ mình mày, mày mà có chết đi nữa, linh hồn mày xuống Địa Ngục là thằng tù ngu, dầu mày có được Đức Chí Tôn tức nhiên Đức Chúa Trời ban cho mày thành Oâng Thánh đi chăng nữa, mày cũng là Ông Thánh  ngu, mắng, hai đàng đánh lộn ôm vật với nhau, đánh thẳng tay mà cái ông kia mình làm mưu không nở đánh lắm, đánh sợ đau bạn. Còn ông kia, ông bạn kia đổ quạo thật, đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm. Vô đó, người bạn đó mới nói : Mày ơi, tao cốt yếu, cố tâm đặng cứu mày, mà mày làm tao thân thể như vầy, thôi hết sức nói, tới chừng người kia nằm kế gần bên, mới động lòng khóc mướt đó vậy. Cứu được, từ đó anh kia thi mãi, tới thi đậu ra trường mới thôi. Đó Hồng Oai đó. Bây giờ mình mới nghĩ coi Hồng Oai mà làm được như vậy cũng nên làm chớ.

Bây giờ luận trong Hội Thánh, mấy em thì đông, Nam, Nữ gần đôi 3 triệu, được cái phải của đứa nầy, nó có cái quấy của đứa khác không đồng nhau, vì lẽ đó. Đức Chí Tôn mới lập Pháp Chánh thử cái Cân Công Bình của Hội Thánh nghĩ làm sao mà chớ ? Chỉ có mong một điều là đoàn em nó đặng đắc Giáo, được dạy dỗ cho hiểu Đạo, đặng nó sống dùm cho bạn của nó.

Đại gia đình Thiêng Liêng nầy nó phải tương liên sống chung, chết chung với nhau đó. Nếu cả Thánh Thể Đức Chí Tôn không có Giáo Hoá cho họ hiểu thấu đáo nghĩa lý cái sống trong cửa Thiêng Liêng nầy, trong đại gia đình Thiêng Liêng nầy là gì ? Thì bao giờ cũng vậy. Đứa phải trở lại đả đảo đứa quấy, đứa quấy cũng không nhịn đả đảo trở lại đứa phải. Tấn tuồng đời chuyển luân ngay giữa cửa Thiêng Liêng cửa Đạo đây, Nam, Nữ em cũng đồng em hết, mình coi quyền lợi cả thảy của nó, mình tính cái nào nhiều theo đa số, giờ bắt chước theo kiểu vở chánh trị thiên hạ bên Aâu Châu, hễ đầu phiếu nhiều là được, bây giờ hễ đoàn em của mình, hễ đa số chịu cái gì, nếu phải mình làm theo nó, giúp đỡ cho nó làm đa số nó không bằng lòng cái gì thì mình từ, ráng cố gắng mà tránh. Có một điều nên để ý hơn hết, trước mặt Đức Đại Từ Phụ, Đại Từ Phụ coi cả con cái của Ngài ở dưới thế gian nầy là đám mồ côi, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, vì lý do đó mồ côi nên Ổng chống gậy đến, Ổng nói con Ổng mồ côi, bây giờ ta cũng kể em ta là đám mồ côi nương lấy anh, muốn nuôi nấng dạy dỗ nó, nhứt là phải dạy dỗ chẳng phải bằng lỗ miệng mà thôi, mà dạy dỗ sự hành vi của nó. Có nhiều đứa nhứt là đám mồ côi của phái Nữ, tâm thần thì hay thương yêu, có nhiều đứa mồ côi chưa được lỗ mũi mẹ hun hít, một cái nó thèm thuồng tìm kiếm trong cửa Đạo mẹ của nó, trông kiếm nơi cửa Đạo cha của nó Nam cũng vây, Nữ cũng vậy. Cả Thánh Thể Đức Chí Tôn cố gắng làm cha làm mẹ nó dùm, cố gắng mỗi người đều dạy dỗ.

Bần Đạo chỉ có buồn một điều thay vì dạy nó đặng dìu dắt cho nó đi vào Thánh Đức, có nhiều người dạy nó đi theo cái gì, Bần Đạo không nên nói rõ ra đây.

Từ đây tới sau, xin cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đã gọi là Thánh Thể của Ngài, thì bắt chước mảy may theo Ngài đặng cho nó có tánh đức Hồng Oai, Hồng Từ ấy.

Mai đây Bần Đạo làm oai, cho biết chừng, ai đời không có tiền cất chợ cho em, ráng làm được 4 cái nhà lồng, đặng cho sắp nhỏ vô chui đục nắng mưa. Mấy bà nào đó không biết giăng ngang qua hết thảy vậy, đem trại thiết giăng ngang chận đường mà năn nỉ biểu dời, đặng cho sắp nhỏ có chỗ vô nhà lồng buôn bán với, ngăn ngang qua đó, đáo để đuổi cũng không đi. Cho đất đặng dời cũng không đi nữa. Mai này Bần Đạo làm oai ra lịnh vở tất đồ đó hết. Bần Đạo làm oai một lần thử coi.

 

Tại Đền Thánh Ngày 12 tháng 8 năm Ất Mùi (1955)

(Lễ Đại Tường Ngài Khai Pháp Chơn Quân)

40.- ĐỨC HỘ PHÁP NHẮC LẠI CÔNG-NGHIỆP CỦA NGÀI TRẦN KHAI PHÁP

Thưa cùng Chư Quan Viên và Chức Sắc cùng mấy em Nam, Nữ.

Hôm nay là ngày Lễ Đại Tường Đức Khai Pháp Chơn Quân, Bần Đạo không cần minh tả, tưởng lại toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng hiểu Đức Ngài là một Vị Chơn Quân nơi Hiệp Thiên Đài là một Chơn Linh nguyên nhân Đức Chí Tôn đã định.

Nhắc lại công nghiệp của Ngài Bần Đạo lấy làm ngậm ngùi cảm xúc vô cùng, sự cảm xúc của Bần Đạo đối với Đức Ngài không giờ phút nào Bần Đạo quên cái công cực khổ đáo để của Ngài đối với Đạo. Bần Đạo chắc chắn rằng, trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, Bần Đạo chỉ nhờ Đức Ngài Khai Pháp nhiều hơn hết, đó là bằng chứng hiển nhiên ngày nay Đức Ngài đã Qui Tiên, thì Bần Đạo đã bớt một cánh tay gánh vác Sự Nghiệp Thiêng Liêng Vĩ Đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế nầy.

Bần Đạo đã thấy cái sống ở đời của Đức Ngài Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả, vì sự nghiệp giàu sang vinh hiển của Ngài mà Ngài cũng không màng, chỉ nguyên đem cái xác thân nầy hiến trọn vẹn nơi cửa Đạo.

Đức Chí Tôn đã định sẵn đâu hồi nào mà chính mình Đức Chí Tôn lựa thật là xứng đáng. Trong buổi lập Hiệp Thiên Đài Đức Chí Tôn dạy con muốn ra gánh vác Sự Nghiệp Thiêng Liêng lập nên nền Đạo. Trước hết con phải lập Pháp cho xong thì Đạo mới vững bền được.

Buổi nọ Bần Đạo nguyện để trọn vẹn Đức Chí Tôn lựa, chớ không phải phàm lựa, khi được lịnh Cơ Bút dạy đi tìm Khai Pháp thì chỉ dạy Bần Đạo đến Tỉnh Gò Công mà tìm tên Trần Duy Nghĩa, Đức Chí Tôn chỉ cho biết Tỉnh Gò Công mà thôi. Khi tìm đến biết đâu có phải hay chăng ? Bởi vì nơi Tỉnh Gò Công Bần Đạo chưa từng đến và không có làm bạn với một người nào nhưng mà cũng vâng lịnh, để đi tìm. Khi vừa đến Tỉnh Thành Gò Công, ngừng xe lại tìm hỏi thăm thì đã trúng ngay nhà Ông Trần Duy Nghĩa và gặp người đứng trước thềm nhà, người nói tôi là Trần Duy Nghĩa đây, bèn mời Bần Đạo vào nhà. Bần Đạo không ngần ngại để trọn Đức Tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn tỏ hết công việc Đạo thì Đức Ngài hứa và nguyện cố một đời là huỷ cái đời giàu sang vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo, Bần Đạo không tin còn hồ nghi bị gạt, khi Ngài về đến Sài Gòn chỉ xách theo một gói đồ trên tay và không trở lại gia đình lần nào.

Bần Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi Tâm, biết rằng Oâng này có thẻ chung sức với mình gánh vác nổi sự nghiệp của Chí Tôn đã giao phó.

Ngài nói rằng : Tôi tưởng dòng dõi của Dân Tộc Việt Nam trên 4.000 năm đã chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn rằng Đất Nước Việt Nam sẽ sống lại được, mà sẽ là cứu chữa Tổ Quốc và Giống Nòi Dân Tộc Việt Nam cởi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc đang bạo hành.

Kể từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo để không bao giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần Đạo.

Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc đến làm cho giọt lệ Bần Đạo đã chảy không ngừng, chẳng phải riêng Bần Đạo, mất một người ân trọng nghĩa thâm, mà là toàn cả Đạo Nam, Nữ thấy đều mất một người bạn yêu mến Thiêng Liêng đó vậy.

Lúc Chánh Quyền Pháp đày ra Hải Đảo Madâgcar. Trong đó nhiều vị Chức Sắc Đại Thiên Phong cũng chung chịu ảnh hưởng.

Bần Đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiền hết lòng phụng sự giúp đỡ Bần Đạo, còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt Bần Đạo đáo để. Anh Trọng già rồi chẳng nói chi, nhứt là Ông Thái Phấn và Gấm, dựa quyền lợi theo thuyết Cộng Sản Nga Xô, dùng sức mạnh trở lại hành phạt khổ khắc Bần Đạo mà chưa vừa lòng, họ còn xúi giục Chánh Quyền đày Bần Đạo lên chỗ nguồn cao nước độc đặng giết một cách gián tiếp cho vừa lòng, nếu chẳng phải quyền năng Thiêng Liêng giúp sức thì không thế trở về Tổ Đình, Thánh Địa Đất Nước Việt Nam với ngày nay.

Tội nghiệp thay ! Em Thánh Hiền với Đức Ngài Khai Pháp thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đánh đuổi mà tìm kế đi theo nuôi dưỡng Bần Đạo cho được, Thánh Hiền vì đi theo Bần Đạo bị uống nước độc, mà bỏ mình nơi rừng sâu nước thẳm, chỉ còn Bần Đạo và Đức Ngài ôm lấy Bần Đạo mà khóc chỉ van vái có một điều là cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu đem xác về gởi Đất Thánh Địa lúc cởi xác mà thôi, thật quả nhiên lời nguyện không sai.

Khi trở về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo không bao giờ khắc nào mà quên trong cảng tù đày lao lung.

Bần Đạo đã thấy toàn thể con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung đột.

Kể từ ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì quân đội Cao Đài, ai vui hứng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc lẫn nhau, làm đến tương tàn cốt nhục của Nòi Giống Việt Nam ta nữa mà chớ.

Sau này Trung Tá Trấn (Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) bị quân đội Thành ám sát, Đức Ngài thường đến Trí Huệ Cung mà ôm Bần Đạo vào lòng mà than rằng : Thầy ôi ! Cái sợ của Tôi ngày nay đã đến rồi, Tôi hằng than thở với Thầy từ nơi Hải Đảo là chốn đày khổ thân của Thầy Trò mình mới về để dìu dẫn con cái Chí Tôn mà họ đâu thấu đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết đi rồi thì tôi thấy càng gây nhiều hiểm họa dẫy đầy, từ từ gây phản bội mà làm ly tán, bầy con dại của Chí Tôn rồi đây họ phải sống nơi nào cho an phận.   Thưa Thầy, nếu mà Tôi biết hậu quả và tình trạng ngày nay như thế này, thà là Thầy Trò mình ở lại nơi chốn tù đày Hải Đảo, là nơi rừng xang nước độc, còn thú vị hơn về đây thấy cảnh đổ máu không lịch sử, dòng dõi Chủng Tộc Việt Nam sẽ ly tán, tiền đồ Tổ Quốc không dựng lại mà hầu hết Nhơn Loại chịu trong cảnh sắp điêu tàn, nền Đạo chinh nghiêng bởi cảnh đó.

Nghe qua những tiếng than thảm thiết làm cho giọt lệ Bần Đạo phải chảy theo không ngừng, nhưng Bần Đạo cố gượng cho khuây khỏa, hồi nghĩ lại Bần Đạo làm vui mượn cớ an ủi cho Ngài bớt buồn rầu đau thảm.

Không Anh à, mấy em vì nó có óc thanh niên không phải như mấy Anh lão thành vậy đâu, vì máu nóng phải vậy, còn đua tài chát lợi, quyền trọng, tham danh, chớ buộc cả thảy như chí của Anh vậy sao được. Bần Đạo  thấy Ngài buồn kiếm chước cho vui đỡ, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung được khuyên Ngài vào ở cho an tịnh cho bớt cảnh thảm họa trên, diễn mãi trước mắt hằng ngày.

Bần Đạo gẫm lại, đã lãnh cái sứ mạng dầu khổ tâm Bần Đạo cũng cố gắng dằn lòng để thi hành trách nhậm là phận sự của Đại Nghiệp Thiêng Liêng đó thôi, để gầy dựng tương lai hạnh phúc cho toàn cả Nhơn Loại chung hưởng Hạnh Phúc Hòa Bình Đại Đồng Thế Giới.

Trước kia Bần Đạo cũng chạy theo quyền lợi chắc lót từ đồng lương cũng có thể an thú lạc hoan với gia đình, cả cuộc mộng ảo củ trường đời chỉ biết có quyền lợi đó thôi.

Chớ họ đâu có biết được cái nghiệp sống Thiêng Liêng vĩnh cửu vô bờ bến kia mà !

Ngày nay mấy em nương lấy quân đội đã chạy theo quyền lợi quá mức bạo hành mà quên hẳn sự nghiệp của Đại Gia Đình là tấm Đất Thánh Địa, là chỗ miên diễn và tồn tại.

Hầu hết họ đã nhờ bóng Từ Bi của nhà Lãnh Đạo Đại Gia Đình nầy mà dựng nên sự nghiệp cá nhân, có quyền thế vinh hiển với người ta, mà trái ngược lại còn đang tâm hủy hoại nó, họ không biết giá trị cao trọng đó phải nương nhờ nơi đây do Đại Nghiệp Đại Gia Đình nầy mà có.

Bần Đạo nói thật, họ không nhờ Đại Gia Đình nầy, ngoài ra thì đã bị người khinh rẻ mà phải bị tiêu diệt ngày gần đây mà chớ.

 

Ngày 16 tháng 8 năm t Mùi (DL. 1-10-1955)

41.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG ĐẠO TẠI LỄ KHÁNH THÀNH TẠI BÁO QUỐC TỪ

Bần Đạo xin trân trọng, để lời cám ơn Quan Khách quyền Đời và Chức Sắc Thiên Phong của Hội Thánh Cao Đài cùng Quân Đội Quốc Gia đã có hiện diện nơi đây, đặng giúp cho Lễ Khánh Thành Đền Báo Quốc Từ thêm phần long trọng.

Các Ngài cũng như Bần Đạo đã chung chịu một tình trạng đau thảm, sau 80 năm nước nhà bị lệ thuộc, 80 năm dài đăng đẳng, nỗi thương đau khổ của toàn Quốc, mong mỏi đặng ngày quật cường cứu Quốc, thì công cuộc tranh đấu thời gian dài đăng đẳng ấy, biết bao nhiêu bực Tiền Bối ái Quốc chơn thành, đã chịu lắm nỗi hy sinh cho vận mạng Tổ Quốc Giống Nòi.

Tiếp tục công trình vì Dân vì Nước ấy, chủng tộc Đồng Bào ta cùng con đường đấu tranh  chánh nghĩa duy có một, nhưng phương-pháp tranh đấu bất đồng mới khiến gây nạn nồi da xáo thịt.

Những Danh Nhân Chí Sĩ, Vị Quốc Vong Thân ta chỉ được quí danh quí tánh Thơ Phụng tôn sùng đã đành, còn những vị Anh Hùng Vô Danh Vị Quốc, có lẽ ta phải mang một tội tình cùng họ vì ta không nghĩ đến việc hy sinh công danh và xương máu cao cả của họ. Còn những Chiến Sĩ đương xông pha nơi chiến địa buổi hôm nay cũng thế ta chỉ biết danh tánh của họ một phần ít còn quên lại là phần nhiều, bởi cớ họ phải bị thân danh mai một.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài chỉ cho phép những Tín Đồ của mình phụng sự Quốc Gia và Chủng Tộc Việt Nam, chớ không phân biệt màu sắc Đảng Phái.

Nơi Đền Thờ nầy, các Ngài đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ Ngoại hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng : Đạo đã xu hướng theo thuyết "Bảo Hoàng" mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng Trung Quân Aùi Quốc của Xã Hội Việt Nam mà thôi.

Vì công nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng đồng cùng các chiến sĩ cách mạng khác kia vậy.

Tưởng Niệm tới Lễ ấy, nên Hội Thánh mới quyết định lập Báo Quốc Từ thờ trọn cả các Vong Linh của các Anh Hùng Chiến Sĩ, Cứu Quốc Công Thần cùng là Trận Vong Chiến Sĩ.

Tưởng khi các Ngài cũng đã rõ cả hành tàng của Đạo. Từ ngày xuất hiện Đạo nhà của ta trước đã rồi sau mới biến thành nên nền Tôn Giáo Quốc Tế, vì tư tưởng Đạo Giáo khoan hồng của Tổ Phụ chúng ta mới đem phương pháp Tín Ngưỡng duy nhứt mối Đạo Thờ Trời và Người của Tổ Phụ ta noi truyền từ trước. Aáy vậy đã nói rành Đạo nhà ta trước đã thì ta cũng phải vì nhà của ta là Tổ Quốc và Nòi Giống Việt Nam đặng phụng sự trước, hầu định tỉnh Quốc Hồn, thống nhứt tinh thần và năng lực trong cuộc Đại Đoàn Kết của khối Quốc Gia mới đủ phương cứu nguy cho Tổ Quốc.

Biết đâu gương mẫu ấy, nếu ta thực hiện ra được, nó sẽ không thành một phương pháp duy nhất cho các Quốc Gia nhược tiểu một phương châm duy nhứt đặng tranh thủ tự do độc lập cho họ, quan niệm tưởng đến công trình tranh đấu của đàn anh may ra nó sẽ an ủi và giúp tâm cho các bạn, đồng thời phục vụ cho Quốc Gia Xã Hội.

Trái lại, nếu ta vô tình lãnh đạm để cho họ phải chịu mai một thân thể lẫn tâm hồn, thì cái tội của ta vong ân bội nghĩa không cải chối. Hôm nay các Anh Linh Chư Vị Anh Hùng Tiền Bôùi và Hậu Tiền Bối đang ngự trị trong khối Quốc Hồn của ta và đang vơ vẫn bên ta.

Giờ phút Thiêng Liêng nầy. Bần Đạo xin cả các Ngài hiệp tâm làm một cùng Bần Đạo thành một khối tưởng niệm duy nhứt đạng cầu xin Các Đấng ấy giúp cho Nòi Giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt nhục tương tàn đạng đem Hạnh Phúc Hòa Bình lại cho Nước Nhà và cho toàn Thiên Hạ.

 

Ngày mùng 1 tháng giêng năm Bính-thân.

42.- ĐỨC HỘ PHÁP NGÕ LỜI CÙNG TOÀN ĐẠO NHƠN DỊP LỄ CHÚC XUÂN BÍNH-THÂN

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong,

Hội Thánh Cửu trùng Dài, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện và toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Các Bạn cùng Bần Đạo.

Hôm nay đã thêm một tuổi nữa tức Bần Đạo đã 67 tuổi.

Thưa cùng Chư Huynh, Chư Đệ,

Giữa thế kỷ 20 Đạo Đức suy vi, Nhơn luân điên đảo, Phong hóa suy đồi. Bởi cớ cho nên, Đức Chí Tôn đến đặng chung chịu cùng con cái đau khổ của Ngài, tạo nên một Cơ Quan Cứu Thế, mở Chơn Truyền Đại Đạo của Ngài vì cả nhơn luân của thiên hạ nó đã điên đảo. Cả thảy Thánh Thể đều thấy một nền Tôn Giáo Tối Cổ đã đến lập Quốc cho Nước Việt Nam nầy là Nho Tông, Tổ Phụ ta để lại nền Nho Tông cốt yếu giữ gìn bảo trọng Nhơn luân của Nhơn loại.

Vì cớ cho nên, Ngài đến lấy căn bản ấy làm "Thước ngọc, Khuôn vàng" cho toàn thể tâm lý nhơn sanh. Bởi cớ cho nên Ngài để lại tiếng "Chuyển Thế" chẳng cần luận cho xa xuôi, Thánh Thể đều biết giữa buổi nguy hiểm khó khăn nầy, Đại Từ Phụ đã đến giao cho ta một phận sự Thiêng Liêng như thế đó. Phận sự khó khăn không có hình hài xác thịt Ngài đến phú xác thịt cho ta làm Cha, làm Thầy. Phận sự Thiêng Liêng làm Cha thế nào, làm Thầy thế nào gìn trọn, cả thảy khuôn luật đó dường nào, cả con cái Đức Chí Tôn đều hiểu biết. Làm Cha là tạo sự nghiệp tạo hạnh phúc lưu lại cho con. Làm chủ hai phận sự ấy khó khăn biết mấy !

Trong Đại Gia Đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó cho ta phải theo một khuôn Luật Thiên Nhiên ấy, là khuôn luật tiểu gia đình của ta mà thôi không chi khác.

Lạ gì tuồng đời đương buổi này, tâm lý của nhơn loại thế nào ta đã chắc biết. Trong một gia đình con cái bất hòa với nhau, bao nhiêu tội lỗi ấy đều trút trên đầu của người Cha nó. Trong một trường, nếu có tranh hơn, tranh thua, tranh ngu, tranh khôn, tranh thiệt, cả danh vọng quyền thế bao giờ kẻ bất mãn cũng đổ trút trên đầu Thầy nó, lẽ tự nhiên vẫn vậy.

Trong một gia đình dầu cho Oâng Cha công bình thế nào, đứa con bất mãn hoang đàng chi địa, vô nghĩa, vô nghì nó đổ trên đầu Cha nó, nó nói Cha nó hại nó.

Trong một trường lập thân danh nó không nên với đời, nó cho Thầy nó dở dạy, tấn tuồng đời vẫn vậy.

Mấy em ! Cẩ thảy Nam, Nữ Lưỡng Phái, Qua nói thật, "Trường hợp biến thiên ra vì con cái của Đạo không đủ yêu ái, không đủ căn bản tinh thần Đạo Đức, nó mới ra nông nỗi". Mấy em biết một gia đình nhỏ mọn kia, nếu xảy ra sự vô phúc ấy, nó làm thế nào ? Huống chi Đại Gia Đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, Thánh Thể của Ngài cho Qua, tránh sao cho khỏi, làm thế nào tránh cho khỏi những kẻ ấy. Một Oâng Cha tạo con cái của mình chia từ tinh khí, huyết quản tạo hình hài cho nó, là của sở hữu của mình, có khi làm chủ tinh thần của nó không được. Huống chi nơi cửa Đạo, nơi cửa Đại Gia Đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, biết bao nhiêu đầu óc, trí não tâm hồn không đồng một thể.

Oâng Thầy mở một trương như Đức Khổng Phu Tử có quyền lựa chọn Môn Đồ của Ngài. Trái lại trong Đại Gia Đình của Đức Chí Tôn, Thánh Thể của Ngài không quyền lựa chọn, thế nào tránh cho khỏi kẻ bất nghĩa vô nghì ? Mấy em đừng coi điều ấy là trọng hệ, trái lại phải định phận, cố gắng hơn, dạy mấy đứa nhỏ nó là Hương Hỏa tương lai Đại Gia Đình của mấy em và thánh Thể của Đức Chí Tôn mai hậu.

Qua thường nói, nếu giờ phút nào Thân Già yếu đuối nầy còn, Qua cố gắng làm nên sự nghiệp cho Đạo cốt yếu là vì chúng nó. Nếu Qua không vì chúng nó, giờ phút nầy chẳng còn lầm lủi đặng tạo dựng Cơ Nghiệp Thiêng Liêng nầy. Qua là một thằng điên, đáng đem nhốt nơi nhà Thương Điện Biên Hòa mà chớ !

Một  đời Qua chịu khốn khổ, đàn Anh của mấy em cũng thế, chung chịu một  trường hợp đau đớn như Qua, Qua không thế nào buổi sanh tiền nầy còn thấy dưới mắt sự đau khổ đối với chúng nó. Vì cớ cho nên Qua lạo hạnh phúc tương lai cho nó.

Mấy em thử nghĩ ! Trót 31 năm, cả thảy con cái của Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, từ trên tới dưới đã hy sinh biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt, tạo dựng Đại Nghiệp Thiêng Liêng cho Đạo. Vì ai, thử để dấu hỏi ? Mấy em sẽ lấy làm đau đớn lắm vậy !

Trường hợp khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng Qua, Oâng Già Nghèo ấy. Oâng đến với một cây Cơ thôi. Oâng đến với một xác thân hèn yếu, nghèo nàn. Bởi do nơi hèn yếu đó tạo nên một sự nghiệp trọng đại, sự nghiệp đó biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, xương máu toàn cả mấy em hiện tượng như thế đó.

Có một điều đừng lầm lộn, cả con cái của Đức Chí Tôn nhớ điều nầy : "Giàu sang phú quí của Đạo là cái giàu sang cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đôi triệu người hiệp lại. Nếu thoản như cả phần tử đôi triệu ấy nghèo khổ, đều thống khổ, tới hôm nay mấy em nhìn lụng lại Sự Nghiệp Thiêng Liêng nầy, mấy em đào tạo được sang trọng vẽ vang như thế nầy, mấy em nhớ rằng hình trạng đó là mồ hôi nước mắt thành tưởng đó vậy".

Chúng Qua có mục đích là phận sự Thiêng Liêng mà chúng Qua thay thế cho Đức Chí Tôn tạo nghiệp Thiêng Liêng cho mấy em, là Nghiệp của Đạo. Chúng qua mơ ước thật sự. Tâm hồn chúng Qua mơ ước cái giàu sang vinh hiển, đại thể là cái giàu sang vinh hiển của Đạo mà chớ !

Trái lụng lại  dầu cho Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn sang trọng thế nào, mà mấy em bị nghèo hèn đói khó, khổ cực thì giàu sang bóng dáng mà thôi chớ không nghĩa lý gì hết, giả tướng mà thôi.

Chúng Qua đã nghèo khổ 31 năm trước, Hội Thánh chỉ mong một điều là kiếm phương nuôi cả toàn con cái của Đức Chí Tôn, tìm phương thế nuôi lẫn nhau chưa hề biết trước Đại Nghiệp Thiêng Liêng Vĩ Đại như vầy. Qua chỉ mong một điều tạo đặng hạnh phúc cho mấy em, đó là mục đích tối yếu trọng của chúng Qua đó vậy.

CHUNG

MỤC-LỤC

1.- Đức Hộ-Pháp huấn-dụ các cấp chỉ-huy và chiến binh Cao-Đài trong dịp đầu xuân.

2.- Kỷ niệm đệ thất chu niên ngày xuất quân Cao-Đài.

3.- Cỏi hửu vi thế nào thì cánh thiêng-liêng hằng sông thế nấy.

4.- Chí-hướng vĩ-đại của Ngài Traần Khai Pháp.

5.- Công nghiệp của Đạo-nhơn Phạm-công-Đằng và các đệ-tử Phạm-môn.

6.- Cái thiệt và cái giả của Quyền và Lợi trên thế gian.

7.- Nhắc lại Tiểu-sử và công-nghiệp Đức Cao Thượng-Phẩm.

8.- Văn-minh Khổng-giáo đào-tạo nên hình tướng Quốc-thể Việt-nam.

9.- Lễ kỷ-niêm đức Cựu-Hoàng Thành-Thái.

10.- Lý-do chuyến Aâu-du của Đức Hộ-Pháp.

11.- Các Co-quan hành-chánh Đạo và Quân-đội tiển đưa Đức Hộ-Pháp sang Pháp.

12.- Hội Thánh tiếp đón Đức Hộ-Pháp Âu-du trở về.

13.- Kết-quả chuyến Âu du của Đức Hộ-Pháp.

14.- Sứ-mạng Truyền-giáo.

15.- Lời phủ-dụ của Đức Hộ-Pháp trước khi đi Đài-Loan.

16.-Đức Hộ-Pháp tuyên-bô khi Đức Ngài rước xác tro của Đức Kỳ ngoại hầu Cường Để về đến tại phi-trường Tân-sơn-nhứt.

17.- Đức Hộ-Pháp giảng về việc rước xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về nước.

18.- Anh Cả Đức Quyền Giáo Tông chịu khổ nhục buổi ban sơ, để ngày nay chúng ta được vinh-hiển.

19.- Lịch-sử thông công với cỏi Thiêng-Liêng để mở Đạo buổi ban sơ.

20.- Phải lập thân danh như thế nào ?

21.- Lễ Ban quyền Nữ Đoàn trưởng Phụ-tá Quân-Đội Cao-Đài.

22.- Lễ khánh thành chợ Tân-dân (Quy Thiện).

23.- Đạo của Đấng Cứu-Thế.

24.- So-sánh Nghiệp Đời với Nghiệp Đạo.

25.- Đức Chí-Tôn Ban phép lành.

26 Bức thơ Xuân của Đức Hộ-Pháp gởi toàn thể đồng-bào Việt-nam đầu xuân Aát-mùi.

27.- Đạo Cao-Đài ra mặt Quốc-tế.

28.- Đức Hộ-Pháp cám-ơn quan-khách và phủ-dụ chiến-sĩ  Cao-Đài trong dịp Lễ Kỷ-niệm ngày Xuất Quân.

29.- Hội Thánh Phước-Thiện do đâu mà có.

30.- Đức Hộ-Pháp thuyết-minh công-nghiệp của các Thánh Tông-đồ trong dịp lễ thiêu xác.

31.- Đức Hộ-Pháp thuyết-minh về Đại-hội Long-Hoa.

32.- Vì lẽ gì Chí-Tôn đến và đến đặng làm gì.

33.- So-sánh Quyền Đời và quyền Đạo.

34.- Triết-lý nhơn-quả.

35.- Chữ Hiếu.

36.- Đức Hộ-Pháp phủ-giáo về trách-nhiệm  cứu-khổ của Cơ-quan Phước-Thiên.

37.- Học và hành phải song song với nhau.

38.- Đáp từ của Đức Hộ-Pháp trong dịp Lễ Sinh-Nhật.

39.- Hồng-oai Hồng từ.

40.- Công nghiệp của Ngài Trần Khai Pháp.

41.- Lễ khánh-thành Báo Quốc từ.

42.- Đức Hộ-Pháp ngỏ lời cùng toàn Đạo nhơn dịp Lễ chúc xuân Bính-thân.

 

về trang chủ