Đầu
Xuân Giáp-ngọ (1954)
1.- ĐỨC HỘ PHÁP KIÊM
THƯỢNG TÔN QUẢN THẾ HUẤN DỤ CÁC CẤP CHỈ HUY VÀ CHIẾN
BINH CAO ĐÀI TRONG DỊP ĐẦU XUÂN GIÁP
NGỌ
Các
con,
Thầy thường nói với các con : Lập một nước
thì dễ mà trị một nước thì khó. Về mặt tinh thần, lập một nền Đạo
lại khó mà trị một nền Đạo lại khó nữa. Vì phải hàng phục nhơn tâm
thành hay bại là do nơi đó.
Quân
đội của các con thành lập đặng cũng do toàn thể trụ cả năng lực trên
nền tảng Nghĩa Nhân, Đạo Đức, ngọn cờ cứu khổ của các con xuất hiện
nơi nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải đặng các con bảo vệ, cứu hiểm
phò huy mà làm rạng danh anh tuấn của non sông chủng tộc. Thầy lại
giao luôn cho các con ngọn Đạo Kỳ là cốt ý muốn cho các con bền trụ
khối tin trung đặng giữ vững cơ đồ Tổ Phụ các con, đã dầy công xây
dựng trên 4.000 năm và hiện nay bao nhiêu dòng máu anh phong của nòi
giống Lạc Hồng đã rưới chan đất Việt.
Phận
sự của các con vì đó mà khó khăn. Trách nhiệm của các con vì đó mà
cao cả. Sự khó khăn cao cả ấy nếu các con nhứt quyết thành công thì
tên tuổi các con mới ghi tạc nơi Đài Vân mà lưu lại những trang sử
uy hùng cho hậu thế.
Thầy
không nói, các con cũng dư hiểu rằng từ xưa các bậc thương đời, hể
lo cho quần chúng thì quần chúng thương yêu, bằng ghét bỏ nhơn sanh
thì nhơn sanh ghét lại. Vậy quyền lợi nào hạp với nghĩa nhân thì các
con dùng làm quyền lợi chung, còn trái lại với nhân tâm thì các con
nên từ bỏ.
Để
kết thúc lời Huấn dụ này, Thầy chỉ nói vắng tắc với các con " Chí ôn
nhu của các con là khí cụ tinh anh, còn lòng Đạo Đức của các con mới
thật là lủy đồn kiên cố vậy.
Đầu
xuân Giáp Ngọ Thầy ban ơn lành cho toàn cả các con và mong các con
đoạt thành nguyện vọng đặng giải nguy cho Tổ Quốc và mở con đường
vinh hiển cho chủng tộc của các con buổi sau
này.
Tại Đền Thánh.Ngày
mùng 9 tháng 1 năm Giáp Ngọ
(1954)
2.- ĐỨC HỘ PHÁP
PHỦ-DỤCÁC CHIẾN-BINH
CAO-ĐÀI TRONG LỄ KỶ-NIÊMĐỆ THẤT CHU-NIÊN NGÀY
XUẤT-QUÂN
Hôm nay là ngày Kỷ
Niệm Đệ Thất Chu Niên Lễ Xuất Quân Quân Đội Cao Đài, Bần Đạo xin để
lời cám ơn toàn cả các Quan Khách Đời và các Chức Sắc Đạo có mặt
hiện diện làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng, Bần Đạo để lời cám
ơn và xin toàn thể cho phép Bần Đạo để lời phủ dụ các chiến sĩ tại
đây.
Thượng, Hạ Sĩ Quan Chiến Sĩ của
Đạo, chính Đức Chí Tôn đã dạy Bần Đạo làm cho nền Đạo chóng sản xuất
cho các con đều nhờ nó.
Ngày
Thầy bị lưu đồ về nước, giữa Quốc Gia và chủng tộc các con đã chịu ở
trong một cảnh trạng nguy hiểm, một đàng Cộng Sản Quốc Tế họ nhứt
định lấy cường lực của họ đoạt chủ quyền Tổ Quốc chủng tộc của các
con, một đàng phản động lực là khối Quốc Gia họ không chịu để cho
Cộng Sản lệ thuộc.
Hại
thay ! Trong trường chiến đấu ấy cả các lực lượng Quốc Gia của các
con nằm ở giữa, tức nhiên chịu trong cảnh tượng của hai đường tên
mũi đạn, sự thống khổ của toàn quốc dân nếu muốn tỏ rõ ra cho hết,
ít nữa phải viết một quyển sách, chớ không phải diễn nơi diễn đàn
cho rõ hết đặng.
Các
con ơi ! Khi Thầy bị lưu đày trở về Thầy đã cầu lụy các con phải hy
sinh xương máu để cứu nước, cứu dân, đặng vầy hiệp các Quốc Gia xuất
hiện cho kỳ được một nền công lý thật
sự.
Bấy
lâu Thầy hiểu cái công nghiệp vĩ đại của các con và tinh thần anh
dũng của các con mà thành hình được cuộc tranh đấu đương đầu hôm
nay, tuy còn phân vân nhưng Thầy dám quả quyết rằng : Sự hy sinh của
các con có khuôn luật thiên nhiên của tiền định, luôn luôn có cái
công lý phải thắng cường quyền, cái hạnh phúc tương lai do các con
đem cho nòi giống và Tổ Quốc các con, mà Thầy quả quyết rằng: Các con làm nên đặng và các
con sẽ toàn thắng.
Thầy
mong mỏi chí hy sinh của các con, Thầy ước sao tinh thần anh dũng
của các con phải làm sứ
mạng Thiêng Liêng mới có thể cứu vãn tình thế
đặng.
Các
con đã qua một giai đoạn khắc khe nguy hiểm cuối cùng rồi, chỉ còn
đem cái thắng lợi vinh quang cho toàn quốc và chủng tộc của các con.
Thầy
chỉ biết rằng : Sau lưng của các con có các nước bạn nhứt là Dân Tộc
Pháp đã cùng nhau chung sống trót 80 năm, biết cái lẽ nên hư thắng
bại, biết cả tinh thần ái quốc nồng nàn của chủng tộc các con thế
nào, nước Pháp sẽ thật tâm giúp đỡ các con làm phận sự Thiêng Liêng
cho toàn vẹn và mỹ mãn đặng.
Trước khi dứt lời Bần Đạo cám ơn
Quí Quan Khách và toàn thể
Chiến Binh và Thầy mơ ước năm nầy là năm vinh quang của các
con sẽ đắc thắng..
Tại Đền Thánh Đêm 14
tháng 1 năm Giáp Ngọ (1954)
(Lễ
Thượng-nguơn)
3.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
CỎI HỬU VI THẾ NÀO THÌ
CẢNH THIÊNG-LIÊNG HẰNG SỐNG CŨNG THẾ
ẤY
Đêm
nay ngày Rằmg tháng Giêng. Theo Luật Pháp của Đạo Giáo, nhất là
Triết Lý của nhà Phật, trước khi lập thành mối Đạo, mỗi năm phân ra
tam nguơn là : Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn. Mỗi nguơn niên,
theo ta hiểu biết cái đại nghiệp của Càn Khôn Vũ Trụ với Triết Lý
nhà Phật, thì cả tinh thần lẫn vật chất của vạn linh đều thay đổi
mới. Theo triết lý ấy, ngày nay là ngày các chơn hồn đặng quyền Chí
Tôn ân xá, nếu không nói rằng hưởng được một đặc ân tiến hóa hơn
nữa.
May
duyên cho nòi giống Lạc Hồng : Chúng ta nhờ Đạo Giáo của Tổ Phụ lưu
truyền, một chơn lý mà người ta lấy làm ngạc nhiên thấy cả nòi giống
Dân Việt tình cờ nắm trong tay được một cách đột ngột cũng nhờ ơn
Thiêng Liêng của Chí Tôn (tức nhiên Đại Từ Phụ) đem đến sự thật mà
Tổ Phụ ta dành để. Triết lý lập Giáo cao siêu của ta, không ngờ có
sẵn, về tín ngưỡng hay về xã hội cũng thế, tinh thần Đạo Giáo của Tổ
Phụ ta rất đơn giản, nhưng mà rất chơn thật. Bần Đạo đã có dịp giảng
giải cho các con cái của Đức Chí Tôn nghe, cả nòi giống của chúng ta
không có điều chi thắc mắc gọi là cao kỳ, chỉ tin sự thật để định
cái tâm hồn của mình. Nay nhờ khoa học, nhờ chơn lý của trí não tâm
hồn của nhơn loại, đương nhiên đã tiến triển đến một trình độ rất
cao, đã hiểu thấy các chơn lý ấy, mà thật vậy Tổ Phụ ta chỉ thờ Trời
và thờ Ông Bà, rất hiếu hạnh đối với Cửu Huyền Thất
Tổ.
Cái
Đạo Giáo tinh thần ấy, sẽ được đem ra làm căn bản cho tâm hồn của
nhơn loại trong buổi tương lai kia. Hiện giờ, cả chúng sanh đang tìm
hiểu , vấn đề dấu hỏi mãi, hỏi có Aâm Phủ hay không ? Tội
nghiệp thay ! Tiếng âm phủ nó làm cho họ đeo đuổi tìm tàng mãi mãi
mà họ chưa thoả mãn đặng, vì họ chưa đoạt đặng sự chơn thật của tâm
hồn, nên muốn kiếm hiểu.
Bần Đạo
thường hay nói cái khuôn Luật Tạo Đoan Thiên Nhiên kia vẫn có một,
dầu cho nó hữu tướng hay huyền vi, chỉ có một tình trạng với nhau mà
thôi, vì lẻ thiên hạ đã để câu Aâm Phủ Dương Gian mà từ trước tới
giờ làm cho kẻ tìm Đạo rất thắc mắc không thấu đáo được ý nghĩa của
hai lẻ ấy.
Đức Chí
Tôn đến, Ngài dạy một cách rất đơn giản, Ngài nói :
"Cái cảnh các con đương sống hôm
nay, mảnh xác thịt cơ thể các con thấy trước mắt đó là cảnh hữu
hình, còn cảnh một ngày kia các con bỏ thi hài này trở về cảnh
Thiêng Liêng thì Đức Chí Tôn cho nó một cái tên là cảnh Thiêng Liêng
Hằng Sống".
Ngộ
nghỉnh thay ! Là nhơn loại đương buổi này, sống đây gọi là sống,
không dè nó là cảnh chết. Thấy cảnh chết kia là vô hình tưởng nó là
không có, ai ngờ nó là cảnh tồn tại mãi mãi, không khi nào tiêu
diệt, cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Chí Tôn lập sẵn mà Ngài
gọi nơi ấy, Ngài đã đào tạo dành để cho mỗi đứa con của Ngài một cái
gia nghiệp Thiênh Liêng, Ngài đã nói : Cái gia nghiệp ấy mỗi đứa con
của Ngài đã có sẵn, kỳ dư những đứa con nào chê bỏ thì chính mình
Ngài mới có quyền cho kẻ khác.
Bần Đạo
giải nghĩa cảnh Thiêng Liêng hằng sống ở mặt thế gian này chúng ta
đã thấy cả khuôn khổ của xã hội sẵn có, lành có, dữ có, hư có, đủ
mọi lẽ, đương nhiên giờ phút này xã hội đã biến thiên, kẻ dữ bị
trừng trị, phạt răng đặng chừa lỗi. Tức nhiên kẻ nên có địa vị quan
viên, kẻ giỏi trí não cao kỳ, dìu dở chúng sanh tạo ra các cơ thể
của xã hội nhơn quần giúp sống cho nhơn loại. Mỗi hành vi đều có
định luật của nó, cảnh hữu hình thế nào thì cảnh Thiêng Liêng kia
cũng thế. Khi luận đi tới điều ấy. Bần Đạo nhớ lại thuyết Cộng Sản ở
mặt thế này họ muốn tiêu diệt cấp bậc tức nhiên là muốn phá hủy cả
định Luật Thiên Nhiên, chúng ta thử để một vài dấu hỏi : Ngày giờ
nào chúng ta đem một người thường dân lên cầm quyền được thì chúng
ta mới có thể đả đảo cả đẵng cấp được. Chừng nào chúng ta đem chú
chăn bò lên ngôi làm quan tòa chừng đó chúng ta mới có thể đả đảo
đẳng cấp được chừng nào chúng ta bắt đứa con nít làm ông già, chừng
đó chúng ta mới có thể đả đảo cả đẳng cấp được. Bởi cả đẳng cấp nơi
mặt thế gian này đều có định luật, mà định Luật Thiên Nhiên ấy không
có quyền năng nào sửa đương được.
Cảnh
thế gian chúng ta thấy có quan, có dân, có kẻ tôi đòi, có người làm
chủ, cả đẳng cấùp trước mắt thế nào, cải cảnh Thiêng Liêng kia cũng
thế mà thôi.
Chúng
ta đang sống đây cốt yếu đến đặng tạo nghiệp mình, nếu chúng ta dở
thì tạo nghiệp dở, hay thì tạo nghiệp hay, nên thì tạo nghiệp nên,
hư thì tạo nghiệp hư. Còn cái cửa Địa Ngục trước kia đã gọi là khảo
tội từng răn, thiên hạ họ đã tả một cái cảnh rất quá đáng, làm cho
thiên hạ ghê tởm có sự thật. Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống cái hình nó
khác ở thế gian này, cái hình của nó là hình về tâm hồn trí não. Nơi
thế gian này những kẻ
đã làm hung ác tội tình, nét mặt họ thấy ghê tởm, hình dung con vật
gì, hiện tượng ra con vật đó như : Hùm, beo, cọp, beo, sấu, các con
vật dữ người ta trông vào thấy đủ cả phương diện hung ác
.
Ngày
kia chúng ta bỏ xác này rồi, nguơn linh (tức nhiên xưa kia gọi là
cái vía hay là cái phách), hiển hiện tâm đức của chúng ta con gì thì
nguyên tướng ra con nấy, cũng như nhiều kẻ để tâm hồn của họ vào con
vật nào giống như họ thì hiện tướng giống in
khuôn.
Ấy vậy,
tổng luận Bần Đạo nói :
“Cảnh
hữu vi kia thế nào thì cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống cũng thế ấy”.
Ta có
Tổ Phụ Ông Bà chung ở cùng ta, họ đợi ta qui bỏ xác phàm về cảnh
Thiêng Liêng Hằng Sống,
họ còn sống, họ đợi ta về.
Ngày
28 tháng 1 năm Giáp Ngọ (1954)
(Lễ di
liên đài của Ngài Khai Pháp Chơn Quân)
4.- ĐỨC
HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
CHÍ-HƯỚNG
VĨ-ĐẠI
CỦA
NGÀI KHAI PHÁP CHƠN-QUÂN
Bần Đạo
tưởng ngày giờ này toàn con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ đang chung chịu
cùng Bần Đạo một cái tang, tuy vân, không nói gì cả thảy đều muốn
nghe Bần Đạo nói : Muốn nghe Bần Đạo nói đặng chi ? Đặng hiểu rõ tâm
tình của người bạn tri âm, tri kỷ đồng chung khổ cùng Đức Khai Pháp
Chơn Quân thế nào ?.
Thật
vậy, ở đời những sự vinh sang phú quí bất quá họ cũng hưởng hạnh
phúc thế tình của họ qua một thời gian ngắn ngủi, cả thảy những hạnh
phúc bóng dáng ấy đều tiêu tan như giọt sương đầu cỏ, cái tâm tình
chia sớt khổ não sanh tử với nhau, tình ấy nó mới bền vững và cứng
rắn. Đứng nơi đây Bần Đạo chỉ sợ có một điều giọt huyết lệ của Bần
Đạo nó sẽ làm cho Bần Đạo, không ngăn được đặng đem cả tâm tình của
Bần Đạo trải qua trước mắt toàn thể con cái Đức Chí Tôn để dành làm
khuôn vàng thước ngọc, cho cả Thánh Thể Đức Chí Tôn nhứt là những
lời nói của Bần Đạo. Hôm nay Bần Đạo mong mỏi một điều Thanh Niên
Nam, Nữ lưỡng phái của Đạo, tương lai các con còn dài xin để ý đặng
ghi nhớ cho lắm.
Đức
Khai Pháp Chơn Quân cả toàn Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn đều
hiểu là ai ? Trong 12 vị Chơn Quân của 12 con giáp là cơ huyền bí
tạo Càn Khôn Vũ Trụ thế nào có lẻ cả tinh thần của toàn thể con cái
Đức Chí Tôn hiểu thấu.
Bần Đạo
lại thêm một điều hệ trọng hơn hết, người không phải xa lạ nhơn loại
nơi mặt Địa Cầu 68 này, người đã cùng làm bạn với nhơn loại và chịu
khổ cùng nhơn loại, Ngài là một bậc yếu nhân đã giúp Đức Chí Tôn tạo
dựng một nền Văn Minh hiện tại. Bần Đạo nói quả quyết rằng : Ngài là
một vị yếu nhân đã cầm quyền về tinh thần của nền văn minh. Ngài tái
kiếp sứ mạng của Ngài là không chi khác hơn làm thế nào cho nền văn
minh ấy chung hiệp các nền văn minh tối cổ trên mặt địa cầu này, làm
cho thiên hạ thống nhứt về tâm hồn, thống nhứt về Đạo
Đức.
Đức
Khai Pháp Chơn Quân hiện nay đi đến cái cảnh đại đồng của nhơn loại,
Ngài đến cốt yếu để làm chứng điều ấy và đến đặng để cái tinh thần
của Ngài thiệt hiện cho tròn vẹn cái sứ mạng Thiêng Liêng. Còn về
phần hình chất Ngài cũng sanh trưởng như
ai.
Từ nãy
giờ các cơ quan đã tả cho cả con cái Đức Chí Tôn đều hiểu Bần Đạo
không cần lập lại, cái mảnh xác thịt này như con kỵ vật, tốt cũng
thế, xấu cũng thế, sang cũng thế, hèn cũng thế, không có giá trị chi
đối với nền văn minh tối cao tối trọng, chẳng có chi khác đối với
Ngài Khai Pháp Chơn Quân cả.
Phải,
những công nghiệp vĩ đại của Ngài, Bần Đạo mơ ước một điều ngày kia
toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ và đời đời noi theo cái chí
hướng gương mẫu ấy, đặng làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn càng ngày
càng mạnh càng huyền năng, hễ Thánh Thể của Ngài càng mạnh càng
huyền chừng nào thì Đức Chí Tôn mới có thể phụng sự cho con cái của
Ngài nơi cảnh khổ này.
Bần Đạo
nhấn mạnh một điều này, Đạo Cao Đài vốn là một nền Tôn Giáo để cứu
khổ cho nhơn loại, Đạo Cao Đài cốt yếu không phải làm chủ thiên hạ,
mà cốt yếu làm tôi đòi tạo hạnh phúc cho thiên hạ, tạo cái hạnh phúc
chơn thật, hôm nay Ngài Khai Pháp hưởng đặng nơi cõi Thiêng Liêng
Hằng Sống mà Ngài đã hiểu thấu chơn lý ấy là thật sự, nên Bần Đạo
cùng Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đã
có công lao chung chịu khổ hạnh cùng nhau nhứt tâm, nhứt đức quyết
gồng gánh một nền Tôn Giáo của Đức Chí Tôn và bảo vệ nâng đỡ thiện
hiện hình tướng cho cơ quan giải khổ. Hôm nay một chơn lý bí yếu hơn
hết là : Chúng ta chỉ mơ ước một điều là làm thế nào cho cả sự bất
công của nhơn quần xã hội giờ phút này phải thay đổi hết. Nói cho
cùng, nếu chúng ta không phương thế sửa cải sự bất công ấy được thì
chúng ta còn một điều hèn hơn, tiện hơn chúng ta lấy mảnh thân Đạo
Đức vô biên của chúng ta đặng làm phương an ủi cho nhơn loại bớt
thống khổ, bớt đau đớn, để nêu lên một tâm đức yêu đời đặng làm
gương mẫu tương lai cho con cái Đức Chí Tôn đó
vậy.
Chúng
ta chỉ sợ một điều, cả con cái Đức Chí Tôn rán ghi nhớ là buổi chung
qui của chúng ta, hễ chúng ta thất Đạo tức nhiên chúng ta không đáng
làm con cái của Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu không đáng làm bạn
Thiêng Liêng của Thần, Thánh, Tiên, Phật, chúng ta sợ chết, thiên hạ
gọi chết là mất, Bần Đạo thuyết minh cái cảnh chết là cảnh sống, cái
sống là cảnh chết, họ có biết giá trị nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống
thế nào đâu ? Họ chỉ biết tìm mãi cái hạnh phúc trong cảnh khổ hãi
nãy họ gọi là cảnh sống, mà thật quả nó là cảnh chết, hễ giờ phút
nào chúng ta đã thấy thất phận, thất Đạo, chúng ta sợ buổi chung qui
của chúng ta lìa cõi trần này. Ngày nào chúng ta biết trọn trung
cùng Hội Thánh, trọn hiếu cùng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu, trọn tín
với Các Đấng Thiêng Liêng thì cái hạnh phúc của chúng ta khi lìa
trần là cái vinh diệu chúng ta đó vậy.
Thật sự
hôm nay Đức Khai Pháp Chơn Quân đã hưởng được hạnh phúc mà Bần Đạo
đã tả ra khi nảy đó, cái hạnh phúc chơn thật của Ngài hôm nay Ngài
hưởng được, trái lụng lại chúng ta buồn thảm chia ly về phần xác, mà
Bần Đạo lấy làm hân hạnh phúc hậu vui hứng thấy Ngài đã đoạt Đạo,
Đức Khai Pháp Chơn Quân đã đoạt Đạo tại thế đó
vậy.
Bần Đạo
làm chứng cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn điều
ấy.
Tại
Đền Thánh, ngày 10 tháng 2 năm Giáp Ngọ
(1954)
Sau khi
hành lễ độ thăng
Ngài
Đạo nhơn Phạm Công Đằng.
5.- ĐỨC
HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CÔNG-NGHIỆP
CỦA ĐẠO-NHƠN PHẠM CÔNG-ĐẰNG VÀ CÁC ĐỆ-TỬ
PHẠM-MÔN
Phạm
Công Đằng là một vị Môn Đệ trong Phạm Môn hồi ban
sơ.
Bần Đạo
còn nhớ lại, khi Bần Đạo đến Kiêm-Biên mở hội Thánh Ngoại Giáo, khi
trở về Đức Cao Thượng Phẩm ở nhà dạy đặng một đoàn Môn Đề. Trong số
ấy có Ông Thân của Phạm Công Đằng, buổi nọ Ông Đằng chỉ theo Cha
hành Đạo, có một điều là gia đình của người rất hạnh phúc hơn hết,
cả toàn con cái Tông Đường đều mộ Đạo.
Sanh
nơi thế kỷ 20 này dưới quyền Pháp thuộc Gia Tộc của Phạm Công Đằng
chỉ thủ cựu, cả phong hóa cổ tục của Tổ Phụ để lại, tức nhiên là gìn
giữ Đạo Nho, nhứt là Ông Thân của Phạm Công
Đằng.
Khi Bần
Đạo về cả cha con phế Đời hành Đạo, dầu rằng buổi nọ gia đình ở tại Thanh
Phước nhưng cả con cái Nam, Nữ toàn thể đều theo Đạo, Phạm Công Đằng
tiếp tục đến khi nền Đạo chinh nghiêng, trong quyền của Đạo khảo
đảo, người bị Pháp buổi nọ áp bức làm cho mấy Anh lớn cầm quyền của
Đạo chia rẽ nghịch lẫn nhau với thiên hạ giục cho nghịch, giục cho
loạn.
Đức Cao
Thượng Phẩm về Thảo Xá Hiền Cung, chỉ còn Đức Quyền Giáo Tông, tình
trạng nguy ngập không thể tưởng tượng, chúng tuyệt lương, chúng bắt
buộc bất cứ ai trong Đền Thánh buổi nọ đi ra hành Đạo đều bị chúng
bắt và đem giam cầm. Pháp định diệt Đạo hồi buổi sơ sanh mới phôi
thai. Họ bắt buộc cho đến đổi không có cơm ăn đủ, có sao đặng, miệng
ăn đông, việc làm không có gì hết, ba bốn phen đi xin tiền về để tạo
Đền Thánh, ba bốn phen đều ăn hết, làm cho thiên hạ thối chí ngã
lòng, trong cũng thế, ngoài cũng thế.
Bên
ngoài chúng mướn tay sai của Pháp buổi nọ bắt buộc, giam cầm, bị
nhục một cách không thể tưởng tượng.
Bên
trong chia phe phân phái, một đoàn theo Đức Quyền Giáo Tông, một
đoàn theo Ông Tương, một đoàn theo Đức Cao Thượng Phẩm (ba bốn
phe).
Họ
nghịch nhau cho đến nước, Thầy Trò Phạm Môn không có gì hết, để lại
bao nhiêu người Môn Đệ thiên hạ lại gọi rằng Tả Đạo Bàn Môn, lập
phe, lập phái đi đầu cáo Pháp. Pháp bắt Phạm Môn đem ra tòa xử nào
phạt vạ, nào tù tội, làm cho Đạo buổi nọ phải chết cho đến những kẻ
chứa Đức Cao Thượng Phẩm cũng không đặng và những người trọn hiến
thân hy sinh vì Đạo cũng bị thiên hạ xô
đuổi.
Buổi nọ
Phạm Môn cũng bị đuổi ra khỏi Đền Thánh Thầy Trò dắt nhau mua miếng
đất tạo nên Phạm Nghiệp làm cho Đạo sống trở
lại.
May
thay ! "Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn" nhất là Đức Chí Tôn ở bên
mình nên những mâu thuẩn phá hoại không thành tựu gì
hết.
Trong
số 72 Môn Đệ của Bần Đạo, thật sự hành Đạo chỉ có 26 đứa mà nghiệp
Đạo hôm nay được thành tướng dường này. Nếu không có Phạm Môn thì
Đền Thánh không thành tựu, nếu không có Phạm Môn thì nền Đạo Cao Đài
đã chết rồi.
Trong
công nghiệp gầy dựng, cứu cống Đạo, Phạm Công Đằng đã có chung chịu
trong đó
Đêm
30 tháng 2 năm Giáp Ngọ (1954)
6.- ĐỨC
HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CÁI
THIỆT VÀ CÁI GIẢ CỦA QUYỀN VÀ LỢI
TRÊN
THẾ-GIAN.
Ngày
mai này là ngày Lễ của Đức Cao Thượng Phẩm, Bần Đạo xin toàn thể con
cái Đức Chí Tôn lưỡng phái có mặt đông đảo dự lễ đặng làm cho Chơn
Linh của Người được vui mừng.
Đêm nay
Bần Đạo giảng cái thiệt và cái giả của quyền lợi giữa thế kỷ XX này
mà cả toàn thể nhơn loại đã bị khuẩn bách về tinh thần. Thật sự, từ
Thượng Cổ đến giờ, không có buổi nào nhơn loại không bị thống khổ
tinh thần như hôm nay vậy.
Giờ
phút này nơi mặt địa cầu số nhơn loại đã tăng lên quá độ, chẳng còn
như buổi Thượng Cổ kia. Nếu ta lấy dân số từ thế kỷ thứ 3 cho đến
ngày nay thì ta ngó thấy nó gấp đôi bằng hai buổi nọ, vì cới sự sanh
sống của nhơn loại trở nên khó khăn, trường hợp tranh sống của họ
càng thêm náo nhiệt. Ta thử nghĩ một Quốc Gia đã sanh ra trong đời,
con người muốn lập thân danh của mình là một điều rất
khó.
Chúng
ta đã ngó thấy hạng lê thứ vẫn nhiều, mà hạng thượng lưu trí thức
vẫn ít, Luật Thiên Nhiên vẫn vậy. Vì cớ cho nên trường tranh đấu
đặng bảo vệ quyền lợi của họ trở nên khó khăn và nguy
hiểm.
Thật,
con người bao giờ cũng chạy theo quyền lợi, dầu cho một Quốc Gia hay
Quốc Tế cũng vậy. Chỉ tranh quyền lợi mà nhơn loại đã tương tàn,
tương sát với nhau, chúng ta lấy theo tâm lý của loài người mà luận
thì chưa có buổi nào mà trình độ tâm hồn của nhơn loại đã nghiêng đổ
thái quá như buổi hôm nay. Thật tâm hồn nhơn loại đã bị sa sút xuống
một mức quá thấp hèn.
Vì cớ
cho nên toàn cả tinh thần không còn Thánh Đức như buổi trước, Tiên
Nho đã có nói :
"Cổ nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại
Thánh Đức, kim nhơn biểu tợ nhơn, thú tâm an khả
trắc"
Nghĩa
là người xưa hình dạng
xấu xa gần giống như con thú, mà tâm của họ là Đại Thánh Đức và
Thánh Đức của họ còn nguyên vẹn.Ngày hôm nay nhơn loại đẹp đẽ dáng
phẩm con người, nhưng thú tâm không thể đoán xét được. Nhứt là quyền
lợi, thiên hạ đã theo dõi và mê mẫn, nếu nói cái hám vọng của họ nơi
cửa quyền thì thấy rằng : Trong xã hội muốn đứng đầu thiên hạ cho có
tên tuổi của mình có quyền hành đặng điều khiển độc đoán là một cái
khó làm hơn hết, khó thiệt hiện được.
Vì cớ
cho nên họ không từ chối không có một phương pháp nào hèn hạ mà họ
không làm, thử nghĩ chúng ta đoán xét từ cổ chí kim những quyền mà
lập với phương pháp tàn ác vô nhân đạo, thì ta quan sát coi có bền
vững tồn tại hay chăng ? Con người đem quyền mà thua chuộc với xương
máu của người. Cả cái quyền hành đó nó trở lại làm một ác khí, thử
hỏi những kẻ thọ hưởng nó có bền vững hay chăng ? Chúng ta đã ngó
thấy nào là đài Tần đảnh Hớn mà từ trước tới giờ trên mặt địa cầu
này đã tạo dựng trên xương máu của nhân sanh, hết họ này đến họ khác
làm chúa, làm vua thiên hạ thay đổi mãi không có một ngôi báu nào
còn tồn tại là do chỗ nào ? Là do ngôi báu ấy đã mua chuộc bằng
xương máu của dân, cho nên chẳng hề khi nào những kẻ thọ hưởng nó
được trường cửu đặng.
Chúng
ta thử quan sát trước mắt ngó thấy những mưu mẹo những phương pháp,
những trí độ, họ tìm tàng, họ làm cách nào đặng lập quyền cho họ.
Rốt cuộc lại, chúng ta thấy cái hưởng của họ, nếu họ hưởng, trong
cái hưởng ấy nó dành để cho họ một sự nguy hiểm chẳng khác nào trong
ấy dành để cho họ một chén thuốc độc đặng tự diệt lấy
họ.
Quyền :
Chúng ta thấy quyền thế nào ? Giờ chúng ta kể lại sự tích của Tàu :
Như Hạng Võ khi vô Bao Trung đã có lời cam kết, kẻ nào đã vô Bao
Trung trước thì được làm Chúa.
Hớn Bái
Công và Sở Bá Vương hai
sứ mạng vô diệt Tần phục Hớn, Sở Bá Vương ỷ mạnh tới đâu đánh đó,
thành thử vô Bao Trung sau Hớn Bái Công. Còn Hớn Bái Công chỉ lấy
nhơn nghĩa mà làm thành thử thành luỷ, quan ải, đều mở rộng cửa cho
người vào. Đã vậy Sở Bá Vương không giữ lời hứa và kiếm lời bào chữa
đày Hớn Bái Công vô Bao Trung. Rốt cuộc lại cả sự nghiệp của Hớn lấy
nhân nghĩa hưởng được 800 năm. Còn Sở Bá Vương chỉ một đời người mà
chưa hết thì đây là cái giả của Sở Bá Vương, còn cái thiệt của Hớn
Bái Công là 800 năm đó vậy.
Chúng
ta thử nghĩ các giả quyền đương giờ phút này mới vừa qua trận đại
chiến thứ II như Hitler, Mussolini, Thiên Hoàng của Nhật muốn làm bá
chủ với cả phương pháp cường quyền của họ, vì quân lực của họ có đủ
cường lực muốn cho cả hoàn cầu phục lụy tôn làm bá chủ. Rốt chuyện
cái ngôi báu đã làm cho ba sắc dân ấy điên đảo thổng khổ biết bao
nhiêu, bao nhiêu đế vị cường liệt hôm nay chúng ta đã ngó thấy đều
là giả hết. Bởi họ không có cái lưu lại cho đời một mãi mai gì. Còn
cái thiệt là Người mà chúng ta lên án là mê tín dị đoan; đem đóng
đinh trên cây Thánh Giá là Đức Chúa Jésus Christ, quyền của Ngài
2.000 năm vẫn còn tồn tại mãi thôi mà trái lại càng ngày nó càng
cường liệt.
Người
thứ nhì nữa : Là Ông Già mang Bình Bát đi xin nơi này ăn, đi xin nơi
kia ăn, đi mót từ manh giẻ rách của thiên hạ đặng chầm khiếu làm áo
mặc cho kẻ lạnh, mà 2.500 năm cái quyền Ông ấy vẫn còn tồn tại. Cái
quyền giả thế nào ? Cái quyền thiện thế nào ? Thật không thể đoán
trước được.
Tội
nghiệp ! Những quyền mà tạo nên bền vững, kẻ đào tạo nó khó khăn lắm,
làm cho đến mức đó thật là nguy hiểm mà khi đoạt đặng rồi thì không
thể nào tiêu diệt đặng. Luận lại "Phú hữu tứ hải" của các ngôi vua
chúa dùng xương máu thiên hạ lập đế vị, cả của cải trong nước đều là
của mình. Rốt chuyện lại chúng ta coi giòng họ làm vua trên mặt địa
cầu này giờ phút này các tông đường đó. Nếu Bần Đạo làm chứng quả
quyết các tông đường ấy còn tàn mạt, cò hèn tiện, còn ăn mày, ăn xin
hơn các tông đường khác nữa mà chớ! Không lưu lại sự giàu sang bền
vững cho các cháu của họ.
Có một
người ta chỉ sợ, đời không ai biết không ai ngó tới, nếu không nói
ra họ gớm ghiết, là Đức Khổng Phu Tử, Đạo của Ngài giờ phút này cái
nền Văn Minh Nho Giáo cũng không tiêu tàn, giờ phút nào Quốc Dân
Trung Hoa không tiêu diệt thì Đạo của Đức Khổng Phu Tử vẫn còn tồn
tại mãi thôi.
Hại
thay mà may thay !... Cho nhơn loại, là Sắc Dân của Trung Hoa tới
450 triệu hay là 500 triệu muốn tiêu diệt không dễ gì, mà hễ sắc dân
ấy vẫn còn tồn tại thì Đạo của Đức Khổng Phu Tử cũng vẫn còn mãi
mãi.
Còn cái
ngôi của các đế vương đào tạo trên mặt địa cầu đều tiêu hủy, còn Đạo
của Đức Khổng Phủ Tử nó in sâu trong đầu óc trí não của nền Văn Minh
nhà Nho cho tới tận thế nó cũng vẫn còn. Mỗi một sắc dân chịu ảnh
hưởng nền Văn Minh ấy như : Triều Tiên, Nhựt Bổn, Việt Nam. Ngày nào
Sắc Dân Trung Hoa chưa tiêu diệt, thì Đạo của Đức khổng Phu Tử chưa
tiêu diệt. Cái Đạo kia là thiệt còn cái Đời kia là
giả.
Ngày
mùng 1 tháng 3 năm Giáp Ngọ (1954)
(Ngày
Vía Đức Cao Thượng Phẩm)
7.- ĐỨC
HỘ PHÁP NHẮC TIỂU SỬ
ĐỨC CAO
THƯỢNG-PHẨM
Mỗi một
năm ngày Vía của Đức Cao Thượng Phẩm Bần Đạo lấy làm vui thấy cả con
cái của Đức Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, trọn tâm yêu ái, nhứt
là cái mừng của Bần Đạo hơn hết là ngày Vía của Ngài cả con cái Đức
Chí Tôn còn gìn giữ sự thương yêu cấy như buổi sanh tiền
vậy.
Sự thật
từ cổ chí kim Bần Đạo tưởng không có một nền Tôn Giáo nào mà
được hưởng một đặc ân
Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn như nền Đạo Cao Đài. Bần Đạo nhắc lại
những sứ mạng Thiêng Liêng của Ngài hầu chia đau sớt khổ, những đặc
sứ sai đến thế này đặng thay thế hình ảnh của Ngài, hầu chia đau sớt
khổ cùng con cái của Ngài thế nào ? Chúng ta có thể nói : Các Đấng
Thiêng Liêng đã làm bạn với các sắc dân, nhứt là Huỳnh Tộc của chúng
ta, tưởng cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết danh giá của Bát Tiên
là thế nào?
Ngộ
nghỉnh thay Đức Chí Tôn làm thế nào mà chư vị Đại Tiên ấy ra đảm
nhiệm sứ mạng Thiêng Liêng, đến đặng tạo dựng cái nền Tôn Giáo của
Ngài nhứt là Hớn Chung Ly tức nhiên Nguơn Linh của Cao Thượng Phẩm
đó vậy.
Nên giờ
phút này nhớ đến có mãi may ân hận cơ huyền diệu của Ngài cầm trong
tay tạo Đạo, thành thử hôm nay không có cây Cơ thứ nhì nữa, nói thật
ra cây Cơ Phong Thánh, Cơ Lập Pháp, Cơ truyền Giáo, đã đem theo Ngài
nên ngày giờ thoản có Cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo
nâng Loan có Ngài trợ lực, còn cây Cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ
phút này không còn tồn tại, cái tiếc của Bần Đạo hay chăng là điều
đó.
Các
Chiến Sĩ Cao Đài nếu trong sự ân hận sự tiếc ấy thật quả các con đã
tiếc cây Cơ ấy chớ phải chi nó còn tồn tại thì nó giữ cho các con
chiến sĩ nhiều lắm rồi.
Người
thiếu Đức Tin Bần Đạo nhờ cây Cơ linh hiển ấy đem Đức tin lại cho
Bần Đạo và Bần Đạo có thể nói nhờ cây Cơ đó độ rỗi Bần Đạo cho đến
hàng phẩm cao trọng này. Các con chiến sĩ ôi ! Chớ chi Đức
Cao Thượng Phẩm còn rất may mắn cho các con lắm vậy. Các con đọc mấy
câu thi của Ngài nhứt là câu thúc và câu kết nếu các con chú ý cho
lắm thì hiểu cái nghĩa lý thâm thuý của nó là dường nào ? Lấy đó mà
làm gương cho các con đó vậy.
"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa
phỉ"
"Để mắt xanh coi nước khải
hoàn"
Khao
khát có bao nhiêu đó mà thôi. Giờ phút nào các con thượng cây Cờ
Nhân Nghĩa lên, các con phục quốc đặng, Thầy có thể nói : Trước khi
các con ca bài khải hoàn, các con đọc hai câu thi đó, ấy là các con
đền ơn cao trọng cho Đức Cao Thượng Phẩm đó
vậy.
Thật, Đức Cao Thượng Phẩm hồi qui
Tiên, chỉ tiếc có bấy nhiêu mà thôi.
"Bốn mươi hai tuổi sanh chưa
phỉ"
"Để
mắt xanh coi nước khải hoàn"
Ngài
khao khát giải ách lệ thuộc cho giống nòi của các con đó vậy. Đâu
các con có gắng coi đặng cho giờ phút này Thầy còn sanh tiền đây,
đặng thấy thiệt hiện công nghiệp của các con, làm cho Thầy ngó thấy
chán chường "Để mắt xanh coi nước khải
hoàn".
Các
con làm ơn cho Thầy ngó thấy hiển nhiên khải hoàn giải ách nô lệ cho
nòi giống Tổ Quốc các con. Thầy trông các con làm tròn sứ mạng và
Đức Cao Thượng Phẩm cũng mơ ước có bao nhiêu đó mà
thôi.
Đêm 14 tháng 3 năm
Giáp Ngọ (1954)
8.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
VĂN-MINH
KHỔNG-GIÁO ĐÀO-TẠO NÊN
HÌNH-TƯỚNG QUỐC-THỂ
VIỆT-NAM
Đêm
nay Bần Đạo thuyết về tâm hồn của Dân Tộc Việt Nam trong giờ buổi
này, cả thảy con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng như Bần Đạo. Chúng ta
đã thọ hưởng đặc ân Tổ Phụ lưu truyền một nền Văn Minh Tối Cổ là Nho
Đạo.
Cả
Phong Hóa Văn Hiến đều thuộc về Khổng Giáo, từ khi lập quốc thì dân
do căn bản tối cổ của nền Văn Minh Khổng Giáo mà đào tạo nên hình
tướng của quốc thể chúng ta. Có lẻ hồi Tổ Phụ Ông Bà lập quốc tưởng
cho cái nền Văn Hiến Cổ Truyền ấy nó phải còn tồn tại mãi mãi. Do
nơi đó mà đào tạo cả tâm hồn của nòi giống, chắc các đấng ấy chưa
biết sự thay đổi trong giờ phút này mà các con cái của họ, máu mủ
của họ đã chịu ảnh hưởng, nếu nói Phong Hóa Cổ Truyền của Tổ Phụ
chúng ta để lại, thì con người của chúng ta về tâm hồn vẫn chơn chất
hiền lương Đạo Đức nếu nói cái tâm hồn chơn thật của họ thì vẫn là
hình tướng Đạo Giáo tạo cho họ đó
vậy.
Sau
80 năm dưới quyền đô hộ của Pháp, Pháp đã đem cho ta một nền Văn
Hiến Mới nữa là : Văn Hiến của đạo Thiên Chúa mà ta gọi là : Gia Tô
Giáo từ trước.
Ấy
vậy ta thử lấy trí xét đoán coi cái nền văn minh của ta, văn minh
tối cổ ấy đương nhiên cùng với một nền văn minh tối tân kia, thử hỏi
tâm lý Nho Tông đào tạo Phong Hóa của ta như thế nào ? Phong hóa của
Thiên Chúa Giáo đào tạo nền văn minh giờ phút này chúng ta chịu ảnh
hưởng gì ?.
Một
đàng thì chỉ lấy Đạo Tam Cang Ngũ Thường làn căn bản, chỉ biết lấy
tinh thần tâm lý làm mực thước mà đào tạo tâm hồn của
mình.
Còn
một đàng thì lấy khoa học, lấy quan sát thiệt tướng của sự sống làm
căn bản, chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mắt rằng : Hai cái hình
ảnh ấy chẳng khác nào như hai người đàn bà một người thì chơn chất
thật thà chỉ lấy tâm lý làm căn bản cử xử thế tình lấy âm làm mực
thước, một hành vi chi chẳng hề khi nào dám đi qua của tiếng gọi tâm
hồn.
Một
đàng lấy cả phong thể trang nghiêm hình ảnh đẹp đẽ sang giàu, hết
thảy cả bóng dáng mỹ thuật ở trong mình đào tạo ra thì chúng ta ngó
thấy một đàng lấy sắc làm căn bản, một đàng lấy tâm làm căn bản. Bần
Đạo dám chắc, thử chúng ta để dấu hỏi ? Nếu như có một người mỹ nhân
như thế và một người thô nhơn như thế. Ta để câu hỏi có một vị tình
lang đang chọn lựa như
vậy. Bần Đạo dám chắc sự chọn lựa ấy không cần nói cả thảy các con
cái Đức Chí Tôn đã để trong cái trí và trong mình rồi. "Hữu nhan sắc
hữu ác đức" lời cổ nhơn đã để lại quả không sai đó
vậy.
Bây
giờ chúng ta nghĩ lụng lại, nếu như một người lịch sự kia chúng ta
để trong óc não của họ, dạy dỗ họ cho có tâm hồn Nhân Đức Đạo Nghĩa
biết giữ khuôn khổ của một người đàn bà thì đáng giá là người của
thiên hạ đó là vì họ lấy Tam Tùng Tứ Đức làm căn
bản.
Người lịch sự ấy làm y theo lời
mình đã dạy thì quí hóa thế nào, tôi tưởng cả thảy trên mặt địa cầu
này, nếu người đàn ông nào để ý lập đời thì mơ mộng có một điều là :
Được người vợ nhân từ Đạo Nghĩa mà lại đẹp thì còn hạnh phúc nào hơn
nữa.
Nếu
có tay nào đào tạo được như thế thì dám chắc cả thiên hạ khen tay đó
lắm vậy.
Ấy
vậy tâm hồn của thiên hạ như thế đó, ta thử hỏi có thể nào đào tạo
nhơn loại, đẹp đẽ như sự mơ ước của chúng ta đó hay chăng ? Bần Đạo
trả lời Đạo Cao Đài sẽ đào tạo
họ.
Ngày 15 tháng 3 năm
Giáp Ngọ (1954)
9.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO
TRONG LỂ KỶ NIỆM CỰU
HOÀNG THÀNH THÁI
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam,
Nữ,
Chư
viên quan giới chức,
Cả
con cái Đức Chí Tôn Lưỡng Phái.
Ba
bài Ai Điếu của Hội Thánh, Quân Đội và Phục Quốc Hội đã tả một đời
thống khổ Cựu Hoàng Thành Thái đã rõ rệt, Bần Đạo không thể nói được
nữa, bởi vì đã đầy đủ quá rồi, Bần Đạo nói ra đây để làm chứng về
tinh thần của một dân tộc đã bị nạn lệ thuộc 80 năm, thật ra thì
Ngài, Đức Hàm Nghi, Đức Duy Tân, ở trong Hoàng Tộc đều kế vị nhau
ngồi trên ngai vàng không muốn thừa hưởng của Tổ Tiên để lại, mà lại
vì Dân vì Nước vì Chủng Tộc hy sinh cả ngai vàng của mình làm Cách
Mạng, Bần Đạo xét lụng lại cái dĩ vãng trong 80 năm lệ thuộc thì Bần
Đạo lấy làm vui hứng và khoái lạc, nếu không nói là kiểu hãnh mà ngó
thấy, một Dân Tộc từ Dân lên trên nữa là Chúa, Vua Chúa nhứt định
không chịu án nô lệ, chẳng có buổi nào mà Quốc Dân Việt Nam không
kiếm phương xô ngã cái án lệ thuộc ấy, biết bao nhiêu đoàn Anh của
chúng ta trong giai đoạn 80 năm chịu đau khổ đủ điều, mà trong đoàn
Anh ấy Đức Cựu Hoàng Thành Thái là Chúa. Ngộ nghỉnh một điều là lo
cái năng lực cường quyền áp bức thế nào thì cái tinh thần cứng rắn
kia chẳng hề khi nào khuất phục, nếu buổi nọ đối với Pháp mà Ngài hạ
mình một chút thì chắc Ngài còn ở trên ngai vàng, trái lại Ngài
đương đầu cùng cường quyền ấy.
Nối
chí của Ngài là Đức Duy Tân, con ruột của Ngài, thật đúng như lời
tục Việt Nam ta nói, cha nào con nấy, thật đáng làm Chúa của nòi
giống Việt Nam lắm, vì cớ cho nên dầu cho đương nhiên giờ phút này,
nếu Pháp không trả độc lập thì Dân Tộc Việt nam cũng đồng tâm tranh
đoạt cho được độc lập của nước nhà, họ tranh đấu bằng mọi
phương-pháp để thâu hoạch cho đặng nền độc lập
ấy.
Cốt
yếu chỉ biết một điều là Quốc Dân Việt Nam không chịu lệ thuộc, họ
chỉ đợi có một việc mà thôi, là họ đợi trọn vẹn độc lập không chịu
mãi mãi môït điều nào lệ thuộc nữa. Vì cớ cho nên cả toàn Dân đồng
tranh đấu quật cường, Bần Đạo còn nhớ trong cảnh lưu đày nơi Hải
Ngoại một thân ở nơi xứ lạ quê người, cả nề nếp của Tổ Đường, cả nề
nếp Phong Hóa của nền Văn Hiến, hai vị Đế Vương chẳng hề khi nào bỏ,
chẳng hề khi nào quên. Bần Đạo còn nhớ, khi Bần Đạo bị lưu đày đi
trên chiếc tàu Combattant đi đến Đảo He de la Réunion cả thảy trên
tàu người ta đều được thong thả đi lại, còn Bần Đạo bữa đó bị nhốt
dưới tàu, Ngài hay tin Ngài gởi nhắn lời thăm Bần Đạo. Một cảm tình
năm 1944 ở trong tù vừa ra thì tiếp được bức thơ của Đức Duy Tân gởi
thăm, nhờ đó mà các thơ từ qua lại cùng Đức Thành Thái và Đức Duy
Tân, Bần Đạo nói thật cả cái mơ vọng của hai Ngài là định vận mạng
nước nhà chủng tộc mà thôi.
Vì
cớ mà Bần Đạo đã lưu một tình cảm với Đức Duy Tân lắm
lắm...
Hại
thay ! Trời chẳng chìu người cả một chương trình cả một biện pháp đã
thương lượng cùng nhau thì cái chết của Ngài làm cho tan rã tiêu huỷ
hết.
Cuộc
tranh đấu của Cao Đài hôm nay chẳng khác nào như áo vá vai quàng,
thật khi Ngài về được nước nhà chính mình Đức Thượng Hoàng Thành
Thái và Tôi có gặp mặt nhau một phen ở Sài Gòn, Tôi còn nhớ một cái
chí khí già rồi mà vẫn còn mãi mãi, khi đàm đạo với nhau, luận về
tương lai của Tổ Quốc nòi giống, khi hai tôi lìa nhau, rồi Ngài đưa
ra ngoài cửa đi nữa đường ra cửa Đức Thượng Hoàng day lại nói với
Tôi một cách quả quyết cứng cỏi rằng : Ngài đừng tưởng tôi già mà
Ngài bỏ, Ngài cho tôi con ngựa cây gươm tôi chiến đấu Ngài coi, dầu
cho một vị anh hùng hay anh quân cũng thế, tuổi đã già mà chí khí
vẫn còn mãi chẳng hề khi nào thay đổi, có một điều ân hận hơn hết là
tại sao đã gọi nước Việt Nam độc lập mà khi Đức Thượng Hoàng Thành
Thái trở về, thiên hạ không cho Ngài trở về cũng cho đến nước chính
mình Bần Đạo phải làm
tờ xin cho Ngài về đặng tạm cầm quyền hành trở lại, nhưng nghĩ cũng
chưa có một quyền hành gì và cho đến khi Ngài chết mới đem về
được.
Bần
Đạo nghịch nhất thử hỏi độc lập chúng ta giờ phút này phải bánh vẽ
hay chăng ? Nội bằng cớ làm chứng quả quyết cái lịch trình tranh đấu
của nước Việt Nam vẫn còn tiếp tục không bao giờ chấm
dứt.
ĐÁP TỪ CỦA HOÀNG TỬ
VĨNH CẦU
Thưa
Hội Thánh,
Thưa
các Ngài Chức Sắc Tòa Thánh,
Thưa
Thiếu Tướng cùng BCH Trung Ương Phục Quốc
Hội.
Tôi
hân hạnh được mời dự cuộc Lễ Truy điệu Phụ Thân chúng tôi và sự tế
lễ rất nên trang hoàng. Tôi chẳng biết lấy chi để đáp đền ơn trọng.
Vậy tôi xin thay mặt cho cả gia đình chúng tôi tri ân nồng hậu cùng
các Ngài.
Tại Đền Thánh Đêm 15
tháng 4 năm Giáp Ngọ
(1954)
10.- ĐỨC HỘ PHÁP
GIẢNG VỀ LÝ-DO CHUYẾN ÂU-DU CỦA ĐỨC
NGÀI
Ngày thứ ba tới đây,
tức nhiên là ngày mốt, Bần Đạo sẽ đi đến Sài Thành đặng sang Âu
Châu, vì có lời thỉnh mời của Đức Quốc Trưởng Bảo Đại, lại nữa Bần
Đạo có phận sự Cố Vấn của Ngài, đương buổi này Ngài phải lo một điều
rất trọng hệ là Ngài làm thế nào thâu hoạch cho nền Độc Lập hoàn
toàn thống nhứt Hoàng Đồ, và phải Hội Nghị cùng Vạn Quốc tại Genève
(tức nhiên Hội Nghị Genève) vì cớ cho nên Ngài mời Bần Đạo đi qua Âu
Châu. Tuy vẫn nói rằng qua Âu Châu mặc dầu, kỳ thật Ngài nói Ngài
mời vị Cố Vấn tối cao của Ngài đến hiệp cùng Ngài đặng liệu phương
về hạnh phúc cho Tổ Quốc cho Giống Nòi của Việt Nam đó vậy. Lãi nữa
đã trót năm nay Chánh Phủ Pháp cũng muốn mời Bần Đạo đến nước Pháp,
nhưng vì thời cuộc trong nước nên Bần Đạo không thể đi được. Hôm nay
nhơn dịp Đức Quốc Trưởng mời, nước Pháp cũng có mời Bần Đạo đến
viếng một lượt. Trong buổi này Bần Đạo đến Âu Châu sẽ nhiều phận sự
trọng yếu để đem ra thi thố. Nhứt là ngọn Cờ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn
đem đến Âu Châu để cho Đức Chí Tôn có đủ năng lực uy quyền đặng cứu
bãn tình thế rắc rối loạn ly.
Thật ra nếu nói nhơn loại bị một sự khảo đảo nặng nề, bị
khủng bố tinh thần vì thời cuộc ấy họ đương lo sợ, e cho trận giặc
đại chiến thứ ba không thể tránh khỏi. Họ tìm phương đặng giải
quyết, tức nhiên làm một thứ bảo vệ hòa bình cho nhơn
loại.
Các
con trên kia Thánh Thể của Ngài tức nhiên cả Thánh Thể của Đức Chí
Tôn giờ phút này đã lo sợ cho Đồng Bào của nước Việt nam thật ra các
phặn của Đức Chí Tôn giao phó từ khi Ngài đến mở đạo tới giờ, cái
Thánh Thể của Ngài tức nhiên Nòi Giống của nước Việt nam ta đó vậy.
Ngài
đã chỉ bảo cái nền Chơn Giáo cốt yếu là một nền Tôn Giáo của toàn
thể Nhơn Loại, nhứt là Ngài giao cho chúng ta một cái sứ mạng đặc
biệt là làm thế nào đặng giải ách lệ thuộc cho Nòi Giống và bảo thủ
Hoàng Đồ Tổ Phụ ở nước Việt Nam. và toàn cả con cái Đức Chí Tôn đã
ngó thấy sứ mạng đó nó rất khó khăn phải hy sinh thế nào đặng thực
hiện được nền độc lập thật sự.
Vì
cớ cho nên Ngài đã giao cái sứ mạng nặng nề cho chúng ta, Ngài mượn
Sắc Dân Việt Nam là một Sắc Dân nhỏ nhoi hèn mạt đang ở trong vòng lệ
thuộc đặng làm Thánh Thể của Ngài, Ngài cố ý để hiển nhiên trước mắt
cho toàn nhơn loại ngó thấy. Ngài không muốn cho Thánh Thể của Ngài
ở trong vòng lệ thuộc nữa, không lẽû Ông Trời mà chịu làm lệ thuộc
sự Thiêng Liêng quí trọng ấy là Ngài giao cho dân Việt và dòng máu
Việt. Cái phận sự Thiêng Liêng quí trọng ấy là Ngài giao cho Dân
Việt Thống Nhứt Hoàng Đồ từ Nam chí Bắc để bảo thủ giang sơn thống
nhứt mảy may lại, theo ý tưởng của Bần Đạo như thế ấy vậy, trong
Thánh Thể Đức Chí Tôn tức nhiên con cái của Ngài đã chịu biết bao
nhiêu khổ hạnh truân chuyên nguy hiểm, biết bao nhiêu Thánh Tử Đạo,
họ làm tiền phong đặng bảo vệ sanh mạng tài sản cho chúng ta, đương
đầu với sự tàn ác giết chóc của loạn ly, vậy mà cả tướng soái của
Đạo cả chiến binh của Đạo, họ vẫn hăng hái hy sinh vì nghĩa vụ
ấy.
Vì
cớ cho nên, họ đã vì phận sự Thiêng Liêng ấy mà bỏ mình, nên Đức Chí
Tôn dành để cho họ địa vị Thánh Tử Đạo, là vì lẻ đó thật cái hy sinh
cao thượng ấy chúng ta thử nghĩ lại coi từ cổ chí kim chưa hề có ai
làm đặng. Giờ phút này Bần Đạo phải tiếp tục làm phận sự Cố Vấn tối
cao trong nước Việt Nam cho Hoàng Thượng Bảo Đại. Vì lẻ trước kia
phân hai Dân Việt và Pháp ký hứa trả nền Độc Lập cho nước Việt Nam.
Hôm nay Bần Đạo muốn đem qua nước Pháp cầu xin phải ký Hiệp
Ước, tức nhiên nước
Pháp phải giao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho nước Việt Nam, Bần Đạo
sẽ còn làm phận sự của mình nữa là làm cho Hoàng Đồ Thống
Nhứt.
Mới
đây Bần Đạo vừa nghe hai đảng phái Quốc Gia và Cộng Sản muốn chia
Hoàng Đồ làm hai, lấy Vĩ Tuyến 16 làm ranh giới. Theo Thánh Ý của
Đức Chí Tôn đã định, nên Bần Đạo mới có viết môït bức thơ không niêm
gởi cho ông Nguyễn Ái Quốc, tức là Hồ Chí Minh, cho biết Giống Nòi
Việt Nam không thể chia đôi và toàn thể Quốc Dân không chịu nhị chúa
như : Nguyễn, Trịnh thuở trước. Từ Hoành Sơn đổ ra là Chúa Trịnh,
hai khối ấy làm cho biết bao nhiêu sanh mạng của nòi giống phải hy
sinh vô cớ. Ngày mai Thánh Thể của Đức Chí Tôn không chịu chia đôi
như trước nữa, chỉ lấy cái số mạng làm của sang giàu mà thôi, thì
mặc cho ai vì quyền, vì lợi, họ tranh nhau thây kệ họ, dầu cho Quốc
Gia hay Cộng Sản cũng vậy, không còn nghĩa lý gì nữa. Bần Đạo sẽ dìu
dắt cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đến địa vị Trung
Lập.
Giờ
phút này chúng ta ngó thấy trong một gia đình kia. Một người anh hay
em chơn chất thật thà, ta không nên quá thật thà rồi cha thằng dại,
Bần Đạo đã dạy về lẻ đó rồi : Vì thấy một người anh thật thà chơn
chất bị một đứa em mình xảo quyệt gian dối nó đã ăn qua mặt và hiếp
bức nên chúng ta binh đó thôi, ngoài ra ta không vì danh vọng, quyền
lợi, mà trái lại ta coi Tổ Quốc là
trọng.
Ngày
nay Thánh Thể Đức Chí Tôn đến giai đoạn làm một vị Giáo Sư Hòa Giải
đặng đem cái hạnh phúc lụng lại cho Nòi Giống Việt Nam trước đã, rồi
đây ta sẽ chịu khó đặng làm khuôn vàng thước ngọc để nơi mặt địa cầu
này, đem tương lai hạnh phúc cho chủng tộc thì cơ khổ của Đức Chí
Tôn dầu có ân cũng là
thường.
Ngày
16 tháng 4 năm Giáp Ngọ
(1954)
11.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ
CÁC CƠ QUAN HÀNH-CHÁNH ĐẠO VÀ
QUÂN-DỘI TIỂN ĐƯA ĐỨC NGÀI SANG
PHÁP.
Thưa Chức Sắc Thiên
Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái.
Mấy
Em Nam, Nữ con cái Đức Chí Tôn,
Và
các Thanh Niên các con Quân Đội.
Hôm
nay Thầy lãnh sứ mạng Thiêng Liêng đem ngọn Cờ Cứu Khổ đến Âu Châu,
mong rằng cánh hạt huyền linh của Đức Chí Tôn sẽ đem tình yêu ái vô
biên của Ngài đặng an ủi tâm hồn các chủng tộc nơi Âu Châu. May ra
nhờ lòng yêu ái vô biên, quyền năng vô tận của Đức Chí Tôn tức nhiên
Đại Từ Phụ sẽ làm cho một trường hổn loạn trở nên Thái Bình và Hạnh
Phúc cho cả Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu nà. Bần Đạo chỉ mong có một
điều là tinh thần mấy triệu con cái Chí Tôn cũng như một tinh thần
của Bần Đạo.
Buổi
Bần Đạo vắng mặt cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn cầu nguyện cùng
Ngài ban phước lành cho toàn thể Nhơn Loại là một điều trọng yếu hơn
hết, và tha thứ cả tội tình của họ gây nên, rồi đem Chơn Truyền lập
Đạo Giáo cho họ, để họ giải cả oan nghiệt đã tạo nên từ
trước.
Thật
ra chúng ta ngó thấy hai trận đại chiến vừa qua, đã gây nên cũng bởi
nơi Âu Châu hết. Trong trường sát khí thấy hiển hiện ra trước mắt,
chẳng phải nơi Á Đông này, mà thật ra bên Âu Châu khởi đầu mà chớ !
Giờ phút này Nhơn Loại đang mơ ước hòa bình, Nhơn Loại đang khao
khát hạnh phúc lắm vậy.
Hại
thay ! Những kẻ làm đầu Nhơn Loại, thay vì họ biết phận sự Thiêng
Liêng tối yếu, tối trọng ấy đặng làm cho Nhơn Loại hết khốn khổ, dứt
bạo tàn, lất cả tâm ái của Đức Chí Tôn làm căn bản hiệp chủng, làm
thế nào cho Nhơn Loại biết mình là con người duy có một mà thôi
:
Một
về Nòi Giống.
Một
về Xã Hội.
Một
về Đạo Đức tinh thần.
Hôm
nay Đức Chí Tôn đem nền Chơn Giáo của Ngài rải khắp trên mặt Đức Chí
Tôn, và nó đã thiệt hiện như thế. Chính Ngài làm đặng Ngài bảo vệ
hạnh phúc, bảo tồn mạng sống của Nhơn Loại cho bền chắc. Còn một
điều trọng yếu là Bần Đạo Âu Du thì toàn thể Thánh Thể, cả con cái
Đức Chí Tôn, các con Quân Đội, phải lấy tâm hòa-ái đối đải với nhau,
cũng như có Bần Đạo trước mặt vậy.
Một
điều trọng yếu hơn nữa là cả thảy cầu nguyện thế nào cho ngọn cờ Từ
Bi bao phủ trên mặt địa cầu này. Nếu mơ ước không có diệt vong mà
thiệt hiện ra được. Bần Đạo dám chắc không có điều chi vui cho Đại
Từ Phụ hơn điều đó.
Bần
Đạo xin để lời từ giã và mong ước khi ra đi thế nào, đến khi về thấy
cả con cái Chí Tôn cũng như thế
ấy.
Ngày
24 tháng 6 năm Giáp Ngọ
(1954)
12.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ
DỤ TRONG DỊP HỘI-THÁNH ĐÓN-TIẾP ĐỨC NGÀI ÂU DU
TRỞ VỀ
Thưa Chư Chức Sắc
Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,
Các
con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn,
Các
Binh Sĩ, hàng Sĩ Quan Đạo và Đời.
Bần
Đạo lấy làm cảm kích đã hưởng được một cái hạnh phúc của toàn thể
con cái Đức Chí Tôn ban cho trong cuộc tiếp rước một cách long trọng
nồng nàn đủ đầy tình ái.
May
thay ! Trên 2 tháng đến xứ Pháp, nhờ ân Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn
ban bố quyền năng vô đối của Ngài mà Bần Đạo đã đặng thỏa mãn, và có
phương kế làm cho đôi bạn đã sống chung cùng nhau trên 80 năm
trường, vì lầm hiểu nhau mà không đem lại hòa bình của hai nước
đặng.
Bần
Đạo nhờ được thiên hạ hiểu biết, nhứt là Quốc Dân Pháp đã rõ tâm
tình của Bần Đạo thế nào, và đã hiểu lời yêu cầu của hai nước cho
chóng đặng hòa bình, đem nền tự do hạnh phúc cho hai dân tộc đã
chung sống cùng nhau trên 80 năm dư. Y như lời Bần Đạo khi Hội Nghị
Toàn Quốc, Bần Đạo có nói một câu Pháp ngữ như vậy :
"Que la France nous aide. Afin
que nous puissions réaleser notre indépendance nation et édéfier le
temple de I'unoin francaise".
Nhờ
cầu ấy mà toàn thể quốc dân đặng hiểu rằng : Cả toàn thể quốc dân có
cái nguyện vọng nồng nàn, là làm thế nào cho toàn cả quốc dân thiện
hiện đặng nền độc lập, vì lẻ tranh thủ nền độc lập ấy mà Nòi Giống
Việt Nam chia đổi xẻ bảy.
Bần
Đạo nói : Nếu không hoàn toàn thâu đặng nền độc lập, thì chúng ta có
thể đem tiếng chuông cảnh tỉnh của Đạo làm cho Quốc Dân Việt Nam
Thống Nhứt, và làm cho cả nguyện vọng của toàn quốc được thỏa mãn
độc lập tự do hạng phúc.
Bần
Đạo nhờ ân Thiêng Liêng giúp đỡ làm đặng điều
ấy.
Đền
Thánh Đêm Mùng 1 tháng 7 năm Giáp Ngọ
(1954)
13.- ĐỨC HỘ PHÁP
TƯỜNG-THUẬT VỀ KẾT-QUẢ CHUYẾN
ÂU-DU
Đêm nay cả con cái
Đức Chí Tôn Nam, Nữ đi cúng đông dữ. Bần Đạo biết cái đông là vì cớ
nào. Nói mà nghe trong hai tháng vắng mặt Bần Đạo cả thảy đều trông
về đặng nghe.
Nhờ
ơn Đức Chí Tôn ban đặc ân Thiêng Liêng mà Bần Đạo và Hồ Bảo Đạo
trong hai tháng trường đã xuất dương, nếu không nói rằng : Đi hành
Đạo Âu Châu mà không có quyền năng Thiêng Liêng ban cho thì cái thân
Già này chưa chắc mạnh khoẻ trở về
đây.
Như
con Vụ, vùi vẫn trong hai tháng trường hỏi tại sao không đau. Một
điều nên để ý, từ trước Đức Chí Tôn có nói và hứa quả quyết rằng :
"Nơi nào con đến là có Thầy"
Một
lời hứa hiển nhiên, nên Bần Đạo có hơi ỷ mình một chút rồi cũng qua
khỏi.
Đức
Chí Tôn đến dạy Bần Đạo lúc nọ, Đức Tin của Bần Đạo chưa có gì hết.
Không biết Ổng tạo nền Chơn Giáo như thế nào, Ổng biểu đem dâng cả
thi hài, trí não, hồn phách cho Ổng lập Đạo. Bần Đạo không tin,
không nói, không trả lời một cách nào quá đáng. Bần Đạo trả lời :
Thưa Thầy, cảm tưởng của con biết con, và con biết Đạo Thầy biểu con làm
phận sự bắt chước làm Phật Thích Ca, Đức Lão Tử, Đức Khổng Phu Tử,
hay là Đức Chúa Jésus Christ thì con không làm đặng, con chỉ biết
con là Tắc đây thôi, Ổng trả lời : Tắc, thoảng như Thầy lấy tánh Đức
của con để lập Giáo con mới nghĩ sao ? Bần Đạo hết đường trả
lời.
Từ
thử đến giờ Bần Đạo ỷ mỉnh hể đi đến đâu, hay đứng trên giảng đài
nào Thuyết Đạo, Bần Đạo cứ nói càng không hiểu mình nói trúng hay
nói trật, ai ngờ nói trúng, có một điều ngộ nghỉnh mà Bần Đạo đến
Miên Triều, Miên Hoàng tuyên bố cho cả Quốc Dân Miên hay : Đấng nầy
đi đến đây đem Hòa Bình lại cho nước nhà Miên, nòi giống Miên
đó.
Rồi
qua Âu Châu vừa bước chân lên đất Pháp họ cũng nói điều ấy. Đem Hòa
Bình cho thiên hạ đem hòa bình làm sao không biết ! Điều đó Bần Đạo
chỉ tin nơi Đức Chí Tôn
làm sao hay vậy. Có hòa bình thiệt mà nước Việt Nam đoạt đặng hòa
bình. Nhưng ôi ! Quả kiếp của Việt Nam đã dầy dặng quá. Bần Đạo cầu
xin Đức Chí Tôn hai điều : xin đặng Hoà Bình, nhưng nạn đổ máu của
Nòi Giống không sao tránh khỏi!.
Cả
con cái Đức Chí Tôn ! Cái đau thảm của Bần Đạo hơn hết là nạn máu đổ
của nòi giống ta, Bần Đạo vì yêu cái Tổ Quốc, vì thương mến Giống
Nòi đã hy sinh nữa kiếp người phế Đời hành Đạo chịu khổ hạnh mọi
điều, chỉ mong có một điều là làm thế nào là giải ách lệ thuộc cho
nòi giống, tạo dựng độc lập cho nước nhà, Bần Đạo mơ vọng có bao
nhiêu đó nên liều hy sinh một đời mình, Bần Đạo chỉ cầu bao nhiêu đó
mà thôi.
Ngoài ra nữa Đức Chí Tôn biểu Bần
Đạo làm nô lệ tôi đòi cho nhơn loại với một giá nào Bần Đạo cũng
chịu, nhưng mong cầu cho tiêu tan quả kiếp của nòi giống mà không
đặng.
Trước mắt toàn thể con cái Đức
Chí Tôn Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy cái tấn tuồng chia đôi Hoàng Đồ
của Tổ Quốc nó đã tái diễn. Nhớ lại Tiểu Sử của nước Việt Nam hồi
đời nhị Chúa, cái loạn ly trong nước khẳng khác nào Tây Sơn buổi nọ.
Cái quả kiếp hiển nhiên là chia đôi thiên hạ mà cả con cái Đức Chí
Tôn đã ngó thấy trước mắt, vì cớ trả vay ấy chúng ta mới có thể tạo
dựng nước nhà đặng.
Khi
đến Ba Lê (Paris) Bần Đạo cùng phái đoàn vào Đền Thời Notre Dame quả
quyết cầu nguyện cho Hội Nghị Genève thất bại, nếu Hội Nghị Genève
kết liễu sẽ chia đôi Hoàng Đồ của chúng ta. Nhưng cả thảy chúng tôi
hết tâm cầu nguyện mà không hiệu nghiệm, là vì quả kiếp vẫn vậy phải
trả vay mà chúng ta trả bằng một cái giá rất đau đơn, khổ não tâm
hồn chúng ta trước cảnh chia đôi Hoàng Đồ Tổ Quốc của chúng
ta.
Bần
Đạo để dấu hỏi có phải chăng ; duy có một phái đoàn năm ba người cầu
nguyện tại chổ đó không đắc thành, lời cầu nguyện không cảm ứng. vậy
Bần Đạo cậy nhờ cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn thành tâm cầu nguyện
đặng nạn chia đôi Hoàng Đồ của chúng ta thống nhứt lại. Vì Bần Đạo
ngó thấy trước mắt cái vụ thống nhứt Hoàng Đồ của chủng tộc vẫn để,
nhưng chỉ khắc khe có một điều họ coi đảng phái họ, cá nhân họ, đoàn
thể họ, họ trọng danh dự quyền lợi của họ hơn là vận mạng Tổ
Quốc.
Hoàng Đồ chúng ta bị chia xẻ, nòi
giống mình đau khổ. Nước nhà ta bị trên 80 năm lệ thuộc, giờ đây
thấy trước mắt mà họ còn đương mê muội đang hám
vọng.
Một
lần nữa Bần Đạo cậy mượn con cái Đức Chí Tôn nhứt là Thánh Thể của
Ngài cầu nguyện để phá tan cái hám vọng của họ, đặng thống nhứt tinh
thần lại làm một.
Bần
Đạo chỉ mong điều ấy.
Tại
Đền Thánh Đêm 15 tháng 7 năm Giáp Ngọ
(1954)
14.- ĐỨC HỘ PHÁP
GIẢNG VỀ SỨ MẠNG
TRUYỀN-GIÁO
Đêm nay Bần Đạo
giảng cho cả Chư Chức Sắc và Thanh Niên có sứ mạng Thiêng Liêng
Truyền Giáo nên để ý. Bần Đạo đã thường giảng nhơn loại trong thế kỷ
20 này đang bị thử thách về tinh thần, trí não mà từ tạo Thiên lập
Địa tới giờ chưa có, nhứt là giờ phút này 92 ức nguyên nhân họ đã bị
thử thách một cách rất đau đớn
khổ não.
Đã
lãnh sứ mạng Thiêng Liêng Đức Chí Tôn giao phó, những thân phàm
chúng ta phải hoạt bát với khối tinh thần vô đối để giải thoát nhơn
loại khỏi cảnh tương tàn. Nhưng rất tiếc cho các vị lãnh sứ mạng đã
không giúp ích cho nhơn loại mà lại còn tìm tàng những điều làm cho
thiên hạ phải khổ sở, nhứt là tạo các võ khí giết
người.
Thời
đại nguyên tử này làm cho họ ăn năn hối ngộ, bị thử thách đau đơn
hơn hết là hạng thượng lưu trí thức, những hạng ấy Chí Tôn đã cho họ
một cái địa vị cao trọng của các nền Chơn Giáo, họ đoạt tới Bí Pháp
huyền vi Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn, rồi họ lại tự xưng mình là
địa tiên, nên họ sản xuất những triết lý tôn giáo vô thần, xô đẩy họ
cho đời là hạng vô tri vô giác.
Hại
thay ! Không biết họ có thuận tùng hoàn cảnh chịu làm con vật để
giúp đời hay chăng ? Chắc không thể họ làm đặng. Vì cớ cho nên tội
nghiệp thay hạng thượng lưu trí thức trong 92 ức nguyên nhân đang bị
đọa đày nơi bể trần cõi tục, vì hạng ấy lại có lắm kẻ cố tâm hại Đạo
nên phải chịu luật vay trả. Bần Đạo trông lại giờ phút này bao nhiêu
người bị đói khát, cũng như kẻ bệnh hoạn kia chờ thuốc. Họ trọng Đạo
một cách không thể tưởng tượng được. Vì sự thử thách gian xảo của
đời không biết bao nhiêu kể.
Tội
nghiệp thay ! Nhưng Đấng hữu hạnh ngộ Đạo mà chưa được hưởng hồng ân
của Đức Chí Tôn, chỉ được gần gũi các Đấng ấy mà thôi. Trông xa Đền
Thánh là những Đấng được Đức Chí Tôn ban hồng ân vì họ đã từng chịu
đau khổ tâm hồn không thể tả được, nên họ mới hưởng được địa vị
ấy.
Mấy em
Nam, Nữ đây rồi mấy em sẽ lãnh sứ mạng Thiêng Liêng đem giọt nước
Cam Lồ rưới vào tâm hồn đau khổ của nhơn loại. Họ đang trông chờ ở
mấy em. Bần Đạo đã hứa chắc rằng giờ phút này họ đang trông đợi mấy
em, nếu mấy em cố gắng trong sứ mạng thì họ yêu ái, kính trọng mấy
em một cách nồng nàn chơn thật. Bần Đạo đã làm chứng hiển nhiên
trước, vì Bần Đạo cùng Hồ Bảo Đạo đã nhận thấy điều
ấy.
May
thay ! Giờ phút này Đức Chí Tôn để mỗi phần thưởng cho con cái của
Ngài, cho kiếp của mấy em. Vì cớ cho nên mấy em được đứng vào hàng
Thánh Thể, Bần Đạo chỉ mong một điều cũng như Đức Chí Tôn đã nói :
Mấy em hưởng hạnh phúc, mấy em cũng nên trông ngó lại 92 ức nguyên
nhân, dầu xa, dầu gần, dầu trong thân nhân hay ngoại tộc, mấy em nên
tìm tàng những điều hay giúp họ trong đường Đạo, để họ thoát khỏi
cảnh khổ đọa đày này. Dầu trong hành vi hay kiếp sống mấy em cũng
không bao giờ hiểu đặng nguyên nhân hay hóa nhân. Mấy em có biết đâu
những hạnh nghèo hèn kia là những chơn linh trong cửu nhị nguyên
nhân đầu kiếp. Nếu rủi họ đầu kiếp ở chung cùng mấy em với số phận
cùng khổ, mấy em thấy họ hèn mạt đần độn rồi mấy em khi rẻ họ, tưc
nhiên mấy em sẽ đắc tội với họ.
Ấy vậy
Bần Đạo để lời căn dặn con cái Na, Nữ của Đức Chí Tôn nhứt là trong
hàng Thánh Thể, rán gìn giữ cho lắm để một ngày kia về nơi cõi
Thiêng Liêng Hằng Sống gặp họ rồi sẽ ân hận mà không dám nhìn mặt họ
mà chớ.
Ngày
20 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1654)
15.-
LỜI PHỦ DỤ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRƯỚC
KHI ĐỨC NGÀI SANG ĐÀI-LOAN
Thưa
cùng Chư Vị cầm quyền các cơ quan Chánh Trị
Đạo,
Con cái
Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái,
Thượng
Hạ Sĩ Quan Quân Đội Cao Đài.
Hôm nay
Bần Đạo vừa được lãnh một sứ mạng mới do ý muốn của Đức Chí Tôn Bần
Đạo vừa được Chánh Phủ Trung Hoa mời đến Đài Loan, chủ định của họ
mời Bần Đạo chỉ vì Đạo mà thôi. Cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã
hiểu rõ nền Triết Lý Văn Minh Tối Cổ của Trung Hoa Dân Quốc. Biết
đâu cả con cái Đức Chí Tôn giờ phút này được gần gủi Ngài, làm đường
đi cho Ngài mà được hưởng tự do hạnh phúc Thiêng Liêng vô tận. Hôm
nay Ngài muốn chia xẻ hạnh phúc ấy cho một nòi giống một chủng tộc,
một màu da, một sắc tóc với nhau. Bần Đạo chẳng cần nhắc lại cả thảy
Quốc Dân Việt Nam cũng đã biết rằng : Nòi giống của mình vẫn là một
nòi giống của Tàu. Nước Việt Nam của chúng ta đã bị Trung Hoa thâu
phục hết rồi. Tổ quán của chúng ta chỉ có Đông Kinh, tức nhiên là
Bắc Việt. Hôm nay sợ e về tay Trung Hoa mà
chớ.
Ấy vậy
ta còn danh Việt mà mất Tổ Quán. Dân Việt ta bị đau khổ về mặt đời
thử thách của Đức Chí Tôn đặng quả kiếp tiền khiên của Tổ Phụ ta đã
tạo thành.
Hôm nay
Thầy được danh dự của Đại Từ Phụ ban cho cầm cây Cờ Cứu Khổ để giải
khổ cho nhơn loại, mình đã đau khổ mà đặng lãnh sứ mạng Thiêng Liêng
để an ủi đau khổ của thiên hạ. Điều ấy làm cho chúng ta suy ngẫm
lung lắm đó vậy.
Thật ra
có hai cái đau khổ, cái đau khổ về xác thịt còn dễ chịu, khổ về tâm hồn nó thái quá, mà
Đức Chí Tôn lại cho tâm hồn là trọng, không coi thể xác là trọng.
Bởi vì quyền năng vô đối của Ngài muốn vậy.
Hại
thay ! Ngài không đến với các chủng tộc nhưng Ngài đã đến với chúng
ta. Vì Ngài muốn đem Sắc dân hèn mạt thất quốc làm Thánh Thể của
Ngài tức nhiên là Hội Thánh đặng đem rải khắp nơi hột giống thương
yêu của Ngài, tức nhiên Đại Từ Bi, Đại Bác Ái đó
vậy.
Hôm nay
Bần Đạo cầm cờ và khối ấy đặng bủa khắp trong nước Trung Hoa tức
nhiên là một chủng tộc của chúng ta.
Ở nhà
Bần Đạo cậy cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn, các cơ quan Chánh Trị
Đạo, cầu nguyện dùm cho Bần Đạo làm sứ mạng cho thành công và đắc
lực.
Ngày
12 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1954)
16.-
ĐỨC HỘ PHÁP TUYÊN BỐ TẠI PHI
TRƯỜNG TÂN SƠN NHẤT.
Khi Đức
Ngài rước xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu
Cường-Để về đến
Tân-sơn-nhất.
Đây
là Di Hài của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, quí danh là Nguyễn Phúc
Vân, Ngài là Đích Tôn của Đông Cung Cảnh tức là Tông Chi Hoàng Tộc.
Cả toàn thể Quốc Dân đều biết dĩ vãng của Ngài, Ngài đã hy sinh một
đời sống lưu vong nơi đất khách, cốt theo đuổi một mục đích, là làm
thế nào phục hồi vận mạng Tổ Quốc, Độc Lập thiệt
hiện.
Ngài
cũng như Bần Đạo, tâm hồn của Ngài phù hạp với tâm hồn của Bần Đạo
là chẳng lúc nào Ngài phân biệt màu sắc chánh trị, cùng đảng phái,
đoàn thể, Tôn Giáo.
Một
kiếp sống của Ngài, chỉ có một mục đích là làm thế nào phục vụ vận
mạng Tổ Quốc và Đồng Bào Việt Nam.
Đau đơn
thay ! Trên 40 năm lưu vong nơi đất khách. Ngài theo đuổi một mơ
vọng mà Ngài không đạt đặng. Công chưa thành, danh chưa toại, Ngài
đã thành người thiên cổ nơi đất khách quê
người.
Hôm
nay, Di Hài của Ngài đã được đem về nước : Do đó khối Anh Linh của
Ngài cũng cùng về hiệp với khối Quốc Hồn của 4.000 năm lập
Quốc.
Thê
thảm thay ! Trước nữa giờ lâm chung, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cùng
tất cả Thanh Niên Việt Nam hãy cương quyết phục cường cứu Quốc, rồi
Ngài nằm thiêm thiếp.
Trước
khi trút hơi thở cuối cùng Ngài còn rán kêu : "Việt Nam Muôn
Năm".
Bần Đạo
nghe thuật lại điều ấy, Bần Đạo cảm khích vô ngần. Những bạn đã lưu
vong cùng Ngài đã khóc hết nước mắt. Khối tâm hồn Ái Quốc ấy hôn nay
ước mong nó sẽ là một ngọn lửa Thiêng nung sôi tâm hồn của toàn thể
Quốc Dân Việt Nam, bỏ thành kiến, bỏ đảng phái hiệp sức cùng nhau để
cứu vãn tình thế nước nhà đang lúc nguy vong tan
tác.
Trước
khi dứt lời, Bần Đạo xin toàn thể Đồng Bào nối điệu theo dư âm khốn
khổ của Ngài đã kêu cả toàn thể Đồng Bào của chúng ta. Bần Đạo hô
như Ngài đã kêu gào thống thiết trước hơi thở cuối cùng của
Ngài.
Tại
Tòa Thánh, ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ
(1954)
17.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ VIỆC RƯỚC
XÁC TRO CỦA CỤ CƯỜNG-ĐỂ VỀ NƯỚC
Thưa
Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng
Phái,
Thánh
thể Đức Chí Tôn, Hội Thánh Nam, Nữ,
Các Cơ
Quan Chánh Trị đạo.
Tiếp
theo lời tuyên bố của Bần Đạo khi về đến Sài Thánh đã nói về đời
sống của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Bần Đạo chẳng cần nhắc đi nhắc
lại thì cả toàn thể Quốc Dân Việt Nam cả toàn Đạo cũng biết rõ sự hy
sinh vô đối của Ngài, kiếp sống của Ngài chỉ có một mục đích quật
cường giải ách lệ thuộc, thâu hồi Độc Lập và Phục Quốc cho Đồng Bào.
Khi mới đến Tân Sơn Nhất Bần Đạo đã tỏ lời kêu gọi theo yếu thuyết
của Đức Kỳ Ngoại Hầu lúc lâm chung. Cả một đời sống hy sinh của Ngài
mong tạo hạnh phúc cho Tổ Quốc cho Giống Nòi mà phải chịu chẳng biết
bao nhiêu gian truân khổ não, cũng chỉ vì lòng ái quốc vô đối của
Ngài.
Cả
Thanh Niên Việt Nam nên ghi nhớ những lời nhắn gởi của Ngài, trước
nửa giờ chết, Ngài còn rán ngồi dậy nhắn cho toàn Thanh Niên Việt
Nam phải cương quyết quật cường cứu Quốc, mặc dầu còn một hơi thở
cuối cùng, nhưng Ngài còn rán hô "Việt Nam Muôn Năm" rồi mới tắt
thở.
Bần Đạo
không thấy mà đã nghe Đồng Bào Việt Kiều ở Đông Kinh thuật điều ấy
làm cho Bần Đạo khóc, và chính mình Bần Đạo chỉ biết khóc mà
thôi.
Nối
theo lời kêu gọi thống thiết của Ngài Bần Đạo về đến đây cũng xin cả
toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái lập lại lời thống
thiết trước giờ chết của Ngài. Bần Đạo hộ cả thảy đều hô theo
:
"VIỆT
NAM MUÔN NĂM".
Tại
Tháp Đức Quyền Giáo Tông Ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ
(1954)
18.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ ANH CẢ
ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG
CHỊU
KHỔ NHỤC BUỔI BAN SƠ
ĐỂ NGÀY
NAY CHÚNG TA ĐƯỢC VINH-HIỂN
Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ
Thánh
Thể của Đức Chí Tôn,
Các cơ
quan Hành Chánh Đạo,
Các Em
Nam, Nữ.
Mấy Con
Nam, Nữ.
Hôm hay
là ngày Vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, mỗi năm ngày Kỷ
Niệm của Ngài Bần Đạo đã thuyết nên không có điều chi lạ, cả con cái
Đức Chí Tôn có đặng mới mẽ điều chi chăng
?.
Trường
hợp đã hiển nhiên trong thế sự, giờ phút này là giờ phút quyết định, vận mạng tương lai của
Tổ Quốc Việt Nam và vận mạng tương lai của chủng tộc nòi giống, tình
trạng thay đổi một điều mới mẽ chúng ta nên để ý suy gẫm, ngộ nghỉnh
thay, là chỉ có 30 năm xuất hiện mà Đạo Cao Đài, có một năng lực đào
tạo thay đổi thế sự nước Việt Nam một cách đáng kể, nhứt là ảnh
hưởng đương nhiên nó đã làm cho cả tâm lý của nhơn loại, vạn quốc
đều phải để mắt đến nó, hỏi cái quyền hành tối cao tối trọng ấy,
chúng ta ngó thấy có phải chúng ta làm nên đặng chăng ? Không :
Không phải, kẻ thiếu đức tin, hay các nhà triết học thấy cả cái mạng
vận đương nhiên của nó rồi quan sát, cả tình thế dĩ vãng của nó thì
người ta sẽ nói Đạo Cao đài có một năng lực, họ tưởng đâu cái năng
lực theo thế thường của thiên hạ, lấy cái mạnh, cái oai quyền, lấy
năng lực tranh đấu, theo thường tình của nó là thành đặng, không Bần
Đạo làm chứng rằng, không phải vậy, quả quyết không phải như vậy,
bởi vì chúng ta nên quan sát cả tình thế nước nhà, cái tình thế
đương nhiên của nòi giống ta, không phải năng lực chúng ra gầy nền
uy tín cao trọng của nó được nhiên được, quyền năng ấy là quyền năng
vô hình trong tay của Đấng Tối Cao Trọng, quyền năng vô biên của Đức
Chí Tôn của Đại Từ Phụ đó ậy.
Bần Đạo
đã quan sát và suy gẫm khi đã đem thân ra Quốc Tế, làm con hạt Đạo,
đem cái tiếng thanh tao của tâm lý Đạo Đưc tinh thần an ủi cả tâm hồn
khổ não đương nhiên của họ Bần Đạo biết rằng, không phải quyền năng
của mình mà quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn đó
vậy.
Trước
khi Đạo chưa ra khỏi nước, mà quyền của Đạo toàn cả thiên hạ đều
biết cái Chơn tướng của Đạo chưa ra khỏi nước, mà quyền của Đạo toàn
cả thiên hạ đều biết cái Chơn tướng của Đạo, thiên hạ đã tầm thấy
trước, ấy vậy Bần Đạo nói cái giọt Cam Lồ Cứu Khổ của Chí Tôn, không
phải rãi nội trong nước Việt Nam này mà thôi, mà cả toàn con cái
Ngài và toàn Nhơn Loại chúng ta suy đoán như thế rồi chúng ta ngó
lụng lại cái dĩ vãng của Đức Quyền Giáo Tông hồi mở Đạo, Đạo mới
phôi thai, như trẻ sơ sanh kia vậy, mặc tình cho thiên hạ muốn để
sống thì sống, muốn giết chết thì giết, họ đã mưu toan diệt tiêu nó
bởi vậy ngày sản xuất nó ra với một huyền linh phi thường, thiên hạ
kinh khủng sợ sệt, trước họ gần họ muốn cho nó trở nên một Tu Sĩ, mà
tiếng tục người ta nói, Cụ Thầy Chùa kia mà thôi, và người ta mơ
vọng cho nó trở nên như thế, người ta đã áp bức nó, người ta đã sỉ
nhục, cái sỉ nhục ấy, người có thể làm chứng chắc chắn là Đức Quyền
Giáo Tông và Đức Cao Thượng Phẩm.
Ngộ
nghỉnh thay ! Cả cái sự sỉ nhục buổi nọ, hôm nay nó đã biến thành
một vinh quang vô đối, Bần Đạo tưởng, nếu cả tâm chúng ta đem cái
giá trị của hai Đấng mà so sánh, không ai tạo dựng nó, nếu không
phải quyền năng Thiêng
Liêng Vô Hình, quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn mà làm nó đặng,
trước người ta sỉ nhục tới một vị ngồi trên Ngai Thiêng Liêng của
Đức Chí Tôn, người ta vẫn mạt sát chà đạp, hôm nay con cái của
Người, đám em út của Người đó có thể có một quyền năng sửa Đời cải Thế đặng, tạo Đời một
cách mới mẻ vậy, cái năng lực chúng tôi tạo dựng riêng biệt không
bắt chước ai không xin ai, chính mình chúng tôi tạo thành đó
vậy.
Xét
lụng lại cái dĩ vãng, ngó cái đương nhiên bây giờ của chúng ta, nếu
cả thảy con cái của Đức Chí Tôn thấy thế nó làm chứng quả quyết cho
người Anh Cả buổi ban sơ chịu khổ nhục đường nào hôm nay chúng ta
hưởng được cái vinh quang phú quí, vinh hiển giờ này, đối với người
buổi đó vậy, thật ra Đức Chí Tôn rất Công Bình và rất mạnh mẽ đó
vậy.
Đêm hôm
Bần Đạo có làm một bài thi để ghẹo Đức Quyền Giáo Tông
:
THI
-
Nguyện vọng như Anh đã thỏa rồi,
- Cố
tâm kế chí có thằng tôi
- Bầu
linh gậy sắt Ông an thế
- Chàng
Giáng Xử Ma tớ giúp Đời
- Vững
tiếng xa thơ già gắng đẩy
- Xuôi
chèo bát nhã trẻ đua bơi
- Khuôn
hồng trước Trời quang đảng
-
Kế
nghiệp mai sau vẫn có người.
Ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ
(1954)
Nhân
dịp lễ vía Đức Quyền Giáo Tông.
19.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ LỊCH-SỬ
THÔNG-CÔNG VỚI CỎI THIÊNG-LIÊNG ĐỂ MỞ
ĐẠO BUỔI BAN SƠ.
Năm
nay Đạo đã được 30 năm, có lẽ là năm Kỷ Niệm xứng đáng
nhứt.
Có
nhiều người viết Đạo Sử và đã nói cho người Ngoại Quốc hiểu Đạo,
trong ấy có nhiều điều không đúng sự thật, nhứt là trong các Bài Cơ,
Đạo ban sơ thế nào ? Nhiều người đã nói đến, đã giảng Lịch Sử Đạo,
nhưng không đúng sự thật chút nào hết. Sự thật như thế
này.
Trong
năm Aát Sửu, các Thầy, các Ông, từ hàng Thông Phán, Phủ, Huyện, muốn
tìm một sự thật mà thiên hạ đã làm đảo lộn trong giới trí thức đường
thời là : "Con người có thể thông công cùng các Đấng Thiêng Liêng Vô
Hình được". Nhứt là thuyết này đã làm cho cả Âu Châu sôi nổi, nhiều
sách vở đã tung ra cả hoàn cầu do các Hội Thần Linh Học và Thông
Thiên Học đã khảo cứu một cách rõ rệt : "Loài người có thể sống với
cảnh Thiêng Liêng kia như chúng ta đang sống đây vậy". Cái triết lý
ấy làm cho nhiều người, nhứt là hạng người học thức muốn tìm tàng
thấu đáo.
Nơi
hạng học thức ấy có một cố tâm hơn hết là Đức Cao Thượng Phẩm. Ban
sơ chưa biết gì, chỉ làm theo phương pháp bên Âu Châu hay bên Pháp
là Xây Bàn. Cái duyên ngộ Đạo của chúng tôi lúc đó chưa có quyền
năng Thiêng Liêng xúi biểu hay xô đẩy. Chúng tôi muốn tìm hiểu huyền
vi bí mật Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã tạo ra Càn khôn Vũ Trụ.
Thật ra sách vở để lại cũng nhiều nhưng thật ra lý thuyết ấy làm cho
chúng tôi chưa quyết định về tín ngưỡng cách nào mà đức tin đã có
thật vậy.
Chúng
tôi Xây bàn, có Các Đấng Thiêng Liêng, nhứt là các Đẵng Chơn Hồn cao
trọng đến làm bạn với chúng tôi, nhứt là Cung Diêu Trì. Các vị Tiên
Nữ đã đến với chúng tôi là : Thất Nương, Bát Nương, Lục Nương, rồi
lần lần các vị Nữ Tiên, Nữ Phật nơi Cung Diêu Trì đến làm bạn với
chúng tôi, sự làm bạn với tình tôn kính đó, chúng tôi chưa gặp ở thế
gian này. Có hạnh phúc, được hưởng, chỉ có tình Bạn Đạo thì mới được
như thế. Buổi đó làm cho chúng tôi thương yêu một cách lạ lùng,
thường yêu dường như họ đã đến với chúng tôi, cùng xác thịt, đồng
sanh, đã tới sống với chúng tôi.
Buổi
ấy, Đức Tin chúng tôi khởi đương ra, nhờ người đầu tiên là Thất
Nương Diêu Trì Cung. Sau khi Đức Chí Tôn, Ngài đến với danh hiệu lạ
lùng là A Ă Â, vì khi Ngài đến Ngài gỏ có ba cái, chúng tôi tính
theo cách Xây bàn. Hễ gỏ một cái là A, gỏ hai cái thì Ă, gỏ ba cái
thì Â. Đấng A Ă ĂÂ này chỉ dạy Đạo và vấn nạn mà thôi. Khi xưng tên
là A Ă ĂÂ, chúng tôi hỏi nữa thì Đức Chí Tôn không nói gì hết. Đức
Cao Thượng Phẩm buổi nọ có nói : "À chịu tên Ông là A Ă ĂÂ rồi, vậy
chớ Ông bao nhiêu tuổi ? Ông viết mãi, không biết bao nhiêu mà nói,
trăm rồi ngàn, ngàn rồi muôn nà còn viết nữa". Đức Cao Thượng Phẩm
nói : Sao Ông cả triệu tuổi vậy ?.
Chúng
tôi thật không biết Ông A Ă ĂÂ là Đức Chí Tôn chút nào hết, bây giờ
hiểu lại Ngài xưng là Tam, mà Tam là Càn Khôn Vũ Trụ định thể, ba
chấm nói rõ là số ba, số Thiêng Liêng tạo vạn vật
vậy.
Tới
chừng Đức Chí Tôn xuống Cơ Bút, dạy Đức Cao Thượng Phẩm cầu Diêu Trì
Kim Mẫu đến cùng chúng tôi, chính mình Đức Chí Tôn dạy chúng tôi làm
lễ rước ngộ nghỉnh lắm. Trong buổi Hội Yến Diêu Trì, Đức Chí Tôn nói
Hội Yến Diêu trì. Chúng tôi tưởng tượng một ngày kia, khi Tu đắc
Đạo, về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống, tức nhiên về cảnh Tiên, mới có
hạnh phúc, mới có thể Hội Yến Diêu Trì hưởng Tiên Tửu, hưởng Bàn
Đào, chớ đâu có ngờ Hội Yến Diêu Trì là hội ngộ các vị Tiên Nương
tại mặt thế gian này, Đức Chí Tôn nói tạo Lễ Rước Diêu Trì Kim Mẫu
là Hội Yến Diêu Trì, chúng tôi nghe lời vậy thì hay vậy. Chính Đức
Chí Tôn biểu Bà Tư là Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu lo Lễ đó và dạy Bà làm Lễ
đó.
Thật ra
trong Cung Diêu Trì có 10 Người, mà ở mặt thế này hết ba Người : Hộ
Pháp, Thượng Phẩm và Thượng Sanh. Chúng tôi buổi đó không biết Hội
Yến Diêu Trì theo Lễ phải làm sao, chúng tôi chỉ ngồi ngó, chính
mình Bà Nữ Đầu Sư Hương Hiếu phải đi gắp từ món ăn, đi mời các vị Nữ
Tiên và Nữ Phật.
Trong
năm Aát Sửu hội ngộ cùng Đức Chí Tôn và Đức Diêu Trì Kim Mẫu, khi ấy
Đức Diêu Trì Kim Mẫu mới dạy chúng tôi hiểu biết chút đỉnh về Đạo
Đức và lúc đó mới biết Đấng xưng là A Ă Â là Đức Chí Tôn đó
vậy.
Khi Đức
Chí Tôn đến với chúng tôi, Đức Chí Tôn mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, chớ
không phải mở Đạo Cao Đài, tới chừng chúng tôi cầm một cây Cơ và một
ngọn Bút đi các nơi. Trọng yếu của Ngài là thâu mấy vị Tông Đồ có sứ
mạng trong Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này đã giáng sanh trước, đặng làm môi
giới độ Đạo này. Đức Chí Tôn biểu chúng tôi Phò Loan, đặng Ngài dùng
quyền năng Thiêng Liêng kêu gọi mấy vị Tông Đồ đó. Quả nhiên chẳng
bao lâu, có đủ Thập Nhị Thời Quân rồi Đức Chí Tôn mới mở Đạo. Chừng
đó Ngài mới chỉ cho chúng tôi biết rằng : Có một người thờ Ngài rồi
là Ông Ngô văn Chiêu, tức nhiên Đức Chí Tôn muốn thâu Ông làm Giáo
Tông đầu tiên đó. Có một điều lạ lùng suy nghĩ không ra nguyên cớ là
Đức Chí Tôn biểu Bà Nữ Phối Sư Hương Hiếu may sắc phục Giáo Tông cho
Người, kỳ hạn trong 10 ngày, Người sẽ được tôn làm Giáo Tông, trong
thời gian 10 ngày, chỉ có 10 ngày mà thôi. Chúng tôi không hiểu
nguyên cớ nào Ông Ngô văn Chiêu không hưởng được địa vị
ấy.
Ông Ngô
văn Chiêu là một vị Phủ, Đốc Phủ Sứ buổi nọ , ở tại Hà Tiên do nới
Cơ Bút, Đức Chí Tôn đến với Người và thâu Người làm Môn Đêh đầu tiên
hết, là Người được Đức Chí Tôn xưng là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát. Trong khi đó Đức Chí Tôn đến với chúng tôi mở Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ. Đức Chí Tôn chỉ nhà của Ông Ngô văn Chiêu cho chúng tôi
và nói : Ngô văn Chiêu Thờ Thầy lâu rồi, các con đến đó kết bạn cùng
nó, vì cới cho nên chúng tôi mới biết Ông Ngô văn
Chiêu.
Một
buổi nọ chúng tôi đang Phò Loan, học hỏi như thường ngày, Đức Chí
Tôn kêu chúng tôi và Đức Cao Thượng Phẩm đi vô trong Chợ Lớn, đến
tại nhà của Đức Quyền Giáo Tông của chúng ta bây giờ là Ông
Lê Văn Trung, buổi nọ Ông Lê Văn Trung đang làm Thượng Nghị Viện.
Hội đồng Thượng Nghị Viện chẳng khác bây giờ là một vị Tổng Trưởng
đời Pháp thuộc chức Nghị Viên lớn lắm Ông là Người Nam làm đến bực
đó thôi, mà nghe ra Ông là Người quá sức đời, Tôi và Đức Cao Thượng
Phẩm không hạp chút nào, chính thật ra buổi nọ Tôi nghe Tôi kỵ hơn
hết, nhưng định không làm điều đó được, nghe danh quá đời, chơi bời
phóng túng không thể tưởng tượng. Mộ Ông Quan mất nước không thể tả
hết, buổi chúng tôi ôm cái Cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ Ngài,
mục đích chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi, khi vô
tới nhà thú thật với Ngài rằng : Chúng tôi được lịnh của Đức Chí
Tôn, biểu chúng tôi đến nhà Anh Phò Loan cho Đức Chí Tôn dạy Đạo,
Anh tính sao Anh tính. Ngộ quá chừng quá đổi, Ông biết Đấng đó hơn
chúng tôi biết. Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi Phò Loan, rồi thì
chúng tôi tiếp rước Ông, độ Ông, bắt Ông Nhập Môn đủ hết, chúng tôi
không hiểu Ông có tin nơi Đức Chí Tôn không ? Có khi tưởng Ông không
tin nơi Đức Chí Tôn nữa
chớ. Trong nhà Ông có nuôi một người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ
độ 12, 13 tuổi gì đó, hai Cha Cọn kiếm đâu được ra một cây Cơ không
biết. Vái Đức Chí Tôn rồi cầu Cơ, khi Phò Loan thằng nhỏ kia dầm đến
cây Cơ thì ngủ, Ông thì thức, Cơ thì chạy hoài. Đức Chí Tôn dạy Ông
nhiều lắm, không biết dạy những gì. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời,
chỉ có hai Người biết với nhau mà thôi. Từ đó Ông mới tin Đức Chí
Tôn.
Từ khi
Đức Chí Tôn đến độ Đức Quyền Giáo Tông rồi mới xuất hiện ra Hội
Thánh. Nếu chúng tôi làm chứng, thì chúng tôi có thể nói rằng : Do
nới Đức Quyền Giáo Tông mới xuất hiện ra Hội Thánh Cửu Trùng Đài đó
vậy. Ngôi vị của Ông Saint Pière Giáo Hoàng của Thiên Chúa ở La Mã
như thế nào, thì Ngôi vị của Đức Quyền Giáo Tông ngày nay cũng thế.
Bởi vì chính mình Đức Chí Tôn đến thâu Ngài, biểu Ngài lập thành Hội
Thánh, Ngài đi đến đâu, Tôi và Đức Cao Thượng Phẩm theo Phò Loan để
Đức Chí Tôn thâu Môn Đệ, thâu được bao nhiêu thì giao cho Đức Quyền
Giáo Trung Thượng Trung Nhựt giáo hóa, chính do nơi Ngài cầu khẩn
Đức Chí Tôn thâu Môn Đệ, Ngài luôn luôn đi các nơi để Phổ Độ Chúng
Sanh, nhứt là trước ngày mở Đạo, Đức Chí Tôn sai hết chúng tôi, tức
Thập Nhị Thời Quân đi
Phò Loan cùng hết không chỗ nào không có Cơ Bút, Người thì xuống
Miền Tây, Người đi Miền Trung, đi cùng hết. Thâu Môn Đệ xong, Thầy
dạy chúng tôi về Tây Ninh mở Đạo. Với hai bàn tay trắng, không có
một miếng đất cắm dùi làm sao mở Đạo?
Khi đó
Đức Chí Tôn thâu Ông Nguyễn Ngọc Thơ, tức là Phối Sư Thái Thơ Thanh
làm Môn Đệ, Thái Thơ Thanh là bạn chí thân, tức là chồng của Bà Nữ
Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thành thử mỗi người đều có Thiên Mạng nơi
mình mà không ai biết, chính Bà là người cầm đầu Nữ Phái đó
vậy.
Đức Chí
Tôn thâu rồi mới biểu hai vợ chồng Ông Thái Thơ Thanh vào mượn Chùa
Từ Lâm Tự ở Gò Kén đặng mở Đạo, Chùa Từ Lâm Tự chưa xong gì hết, có
Chánh Điện, còn Đông Lang, Tây Lang thì chưa có, đàng này mấy Anh
Lớn họp nhau xuất tiền ra làm cho xong.
Đến
ngày Rằmg tháng Mười năm Bính Dần thì mở Đạo, chúng tôi gởi đơn lên
Chánh Phủ Pháp xin mở Đạo công khai, trong đơn có kể tên những người
Môn Đệ đầu tiên. Sau khi mở Đạo nơi Chùa Gò Kén, tức Chùa Từ Lâm Tự.
Người cầu Đạo càng ngày càng đông, người Pháp buổi nọ sợ chúng tôi
làm loạn, nên xúi giục Hòa Thượng Giác Hải đòi Chùa ấy lại, đuổi
chúng tôi đi cho hết mở Đạo, đồng thời người Pháp bắt đầu làm khó
Đạo, hăm he các Chức Sắc, họ lập hồ sơ đen để trừng trị những người
theo Đạo.
Riêng
phần Bần Đạo là Công Chức, khi vâng lệnh Đức Chí Tôn đến Chùa Gò Kén
mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ 6 tháng, đến chừng trở lại làm việc
người ta không cho Bần Đạo ở Việt Nam nữa đổi Bần Đạo lên Kiêm Biên
tức là Nam Vang (xứ Cam Bốt bây giờ) nơi đó Bần Đạo vừa làm việc vừa
lo mở Đạo, mục đích là làm thế nào cho Đạo chóng thành tựu . Riêng
phần mấy Anh Lớn trong hàng Phủ, Huyện đã có chức phận làm Quan
Triều Pháp, bị người ta dọa đủ điều. Nếu theo Đạo Cao Đài người ta
sẽ bắt bỏ tù, người ta còn hăm he con cái Đức Chí Tôn sẽ bị Chánh
Quyền Pháp triệt để bắt bớ nữa, vì cớ cho nên mấy Anh phải sợ, một
cái sợ rất nên phi lý. Nhưng người Pháp buổi nọ cầm quyền sanh sát
trong tay, hể thuận thì còn, nghịch thì chết không còn ai lạ gì việc
đó nữa.
Cả toàn
con cái Đức Chí Tôn buổi nọ chỉ còn lại có ba người. Ba Người ấy
thiện hạ gọi ba Người lì. Ba người ấy là : Đức Quyền Giáo Tông, Đức
Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo đây, chúng tôi nhứt Tâm nhứt Trí quyết
làm cho Thành Đạo, cho vừa lòng Đức Chí Tôn, bởi vì khôn biết duyên
cớ nào chúng tôi hiểu rằng : Chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí Tôn
và tự nhiên quyền năng Thiêng Liêng giúp chúng tôi biết Đạo Cao Đài
này, tương lai sẽ Cứu Quốc, cứu Chủng Tộc và Giống Nòi, chúng tôi
hiểu rõ rệt như thế, nên ba Anh Em chúng tôi nhứt định hy sinh kiếp
sống mình, hy sinh cả hạnh phúc để tạo dựng cho nên tướng, nhứt
quyết như thế nào, bất kể sống chết, cả ba chúng tôi nhứt định phải
làm cho Đạo Cao Đài thành, thành đặng Cứu Khổ, cứu Chủng Tộc chúng
tôi. Sự quyết chí về tương lai như thế nên phải bỏ Chùa Gò Kén , tức
là Chùa Từ Lâm Tự, đề về đây, về Làng Long Thành Tây Ninh để lập nên
Tòa Thánh bây giờ đây.
Trong
lúc chinh nghiêng như vậy, tiếc thay : Đức Quyền Giáo Tông và Đức
Cao Thượng Phẩm lại về Cảnh Thiêng Liêng trước, còn lại có một mình
Bần Đạo, Bần Đạo thấy rằng : Nạn nước nguy vong thân nô lệ, ra với
hai bàn tay trắng, bắt gió nắn hình, muôn điều khổ não, lập nghiệp
Đạo cho thành, cho con cái Đức Chí Tôn. Hôm nay Đạo là máu là xương
của con cái chí hiếu của Ngài dựng thành đó
vậy.
Ba mươi
năm khổ não, toàn con cái Đức Chí Tôn lập nghiệp cho Đạo hôm nay
đặng thành tựu, ngó dĩ vãng, ngó đương nhiên bây giờ xa cách như
trời với vực. Yếu buổi nọ, so sánh mạnh hôm nay. Nhục buổi nọ so
sánh vinh hiển hôm nay, giá trị xa nhau thiên
lý.
Cả toàn
con cái Đức Chí Tôn, từ khi lập Đạo chịu khổ hạnh truân chuyên, chịu
nhục nhã, chịu mọi điều thống khổ, thì hôm nay được vinh hiển như
thế. Bây giờ Đạo nên hình là cả một khối Tâm Đức vô biên của con cái
Đức Chí Tôn tạo nên tướng.
Thừa
dịp hôm nay Đức Chí Tôn để lời : Thay thể hình ảnh Đức Chí Tôn, Bần
Đạo để lời cám ơn cả toàn con cái Đức Chí Tôn, đã hiểu biết làm vẽ
vang trong Đạo, tương lai vững chắc cho nước nhà nòi
giống.
Bần Đạo
xin để lời cám ơn.
Đoàn-Thánh
Đêm 14 tháng 11 năm Giáp Ngọ (1954)
20.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG
PHẢI
LẬP THÂN DANH THẾ NÀO ?
Đêm
nay Bần Đạo giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng Phái. Có lẽ giảng
hơi dài, đừng vì lẻ mệt ngồi ngủ gục hãy cố lắng tai
nghe.
Bần Đạo
giảng phải lập thân danh thế nào, và căn bản nào ? Vả chăng sanh nơi
thế kỷ 20 này, Bần Đạo thường nói : Cái phương sống của con người là
tranh đấu cố gắng đem cả trí não khôn ngoan đặng bảo vệ sống còn của
mình.
Có chi
lạ, dầu muốn, dầu không, dầu thuận tùng hay là nghịch. Hỏi kiếp sanh
của mình đã ruổi sanh làm người rồi, thân của chúng ta ở giữa vạn
vật là vật hữu sinh cũng như cả vạn vật kia vậy. Có thân, có phận
thì con người của ta phải lập thân phận thế nào ? Bởi thế bậc Hiền
Triết thường nói :
"Đã
sanh ra đứng trong Trời Đất,
Phải có
danh gì với núi sông".
Nếu con
người không nên danh phận chi hết, dường như tinh thần của họ thiếu
phận làm người. Cái sống buộc ta phải sống chung cùng vạn vật, ta
phải khôn ngoan khéo léo, biểu ta sống đặng chi ? Đặng làm gì
?.
Ta đã
đồng sinh cùng vạn vật, tức nhiên giữa khối sinh lực của ta đã xuất
hiện ra, tức ta là một phần tử trong khối sinh lực của toàn thể
chúng sinh. Ta có phận sự phải bảo vệ cái sống ấy. Không có quyền
ấy. Không có quyền diệt cái sống, hay là nghịch với cái sống. Tỷ như
mặt hồ kia đầy nước, mà nếu ra múc nước trong hồ ấy ra thì hồ đầy ấy
sẽ bị vơi một phần.
Ấy vậy,
ta sống, ta chịu nợ của cái sống. Sống chung cùng cả bạn đồng sanh,
chúng ta phải làm thếâ nào cho sống ấy tồn tại hiển hách mãi thôi.
Ta không có quyền pháp nào, quyền hành nào làm mất sống ấy, tức
nhiên không quyền diệt sự sống.
Hại
thay ! Chúng ta phải hiểu rõ rằng : Sống đây không phải là thú vị,
vui hứng gì mà sống đây buộc chúng ta phải tìm phương giải thoát
khỏi sống ấy. Đương nhiên bây giờ ta vẫn sống, ta không thể chối cải
là ta đã chung sống cùng bạn đồng sinh của chúng ta là phải lập thân
danh đặng bảo vệ sống ấy.
Vì muốn
bảo vệ sống ấy mà Tiên Nho của chúng ta để lại thuyết :
"Tu
Thân, Tề Gia, Trị Quốc, Bình Thiên Hạ".
Tu
thân là gì ? Là trau giồi mình, biết mình, biết người biết vạn vật
đặng định phận của mình. Ta không thế ngu muội, ta phải làm sao cho
khôn ngoan ấy nhờ Tu thân. Tu
thân ấy căn bản là gì ?.
Dầu
cho thiên kinh vạn điển đi nữa, cốt yếu một điều là tạo Tâm Đức của
ta và dùng cái tình ái của ta cho có khuôn khổ, có niêm luật, qui
định một căn bản chắc chắn là Tu thân đó
vậy.
Ấy
vậy, nó chỉ có bấy nhiêu, chúng ta tầmg hiểu rằng : Muốn định phận
của mình, muốn tạo công danh của mình phải do căn bản tình đức. Nếu
trái lại do nơi thời may, hoặc là hung bạo, hay là xảo trá, gian lận
những điều ấy đều giả dối hết.
Quan
tiền vũ hậu, ta thử xem xét coi cái sống đương nhiên của bạn đồng
sinh, họ đã hành vi và thi thố điều gì ? Dầu cho tên đạo chích kia
nó là kẻ cướp, kẻ hung bạo, mà nó chưa hề dám từ bỏ Tam Cang Ngũ
Thường của nó, kẻ hung bạo dối trá chừng nào, càng ép mình trong
khuôn khổ tình đức chừng ấy. Họ mượn màu tình ái đặng lợi dụng lường
gạt thiên hạ mới được. Nếu đi ngược chiều tình đức thì chẳng hề làm
lớn với ai được.
Kẻ
cướp, kẻ hung bạo, tàn ác, nó muốn làm anh chị thiên hạ nó muốn mượn
màu tình đức ấy, nhơn
nghĩa ấy cho tới tận cùng, gạt thiên hạ, thiên hạ theo mới
đặng.
Trái
ngược lại, đối với người đã đoạt được khuôn viên tinh thần tình đức
ấy, do tự nhiên nó có, chẳng cần kiếm nó có sẵn hiển
nhiên.
Từ
cổ chí kim, chúng ta giở lịch sử của Nhơn Loại, chúng ta ngó thấy rõ
ràng điều ấy. Bất cứ thời buổi nào vị anh hùng nào quán thế, ở thế
gian này muốn lập thân danh phải mượn màu tình đức ấy. Bần Đạo chỉ
cho ngó thấy, nếu một tướng cướp muốn làm chúa thiên hạ, thâu thiên
hạ trong tay, phải lấy tính đức đối đãi với kẻ bộ hạ mới thâu cả
xương máu cho họ đặng tô điểm địa vị cho
nó.
Trái
lại nương nơi hung bạo lập nghiệp như Sở Bá Vương, như Tần Thuỷ
Hoàng kia thì nó phải tiêu huỷ cả cơ
nghiệp.
Bần
Đạo đã ngó thấy một điều, nếu để tâm quan sát kỷ hơn nữa, hể có tính
đức chắc chắn, thì chẳng cần tìm công danh cũng tự nhiên đến, dầu
đến với phương diện nào nó cũng tìm
đến.
Tích
xưa, một bậc Hiền Triết là : Nguyễn Hiến là học trò yêu của Đức
Khổng Tử lại là Anh ruột của Đạo Chích. Thầy Nguyễn Hiến, Bần Đạo
thuật ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn thấy người như thế không có
người thứ hai nữa.
Buổi
nọ Thầy Tử Cống đi xe bốn ngựa mặc áo lông cừu đi ngang qua nhà Thầy
Nguyễn Hiến, Thầy Nguyễn Hiến nghèo đến nổi nhà lợp bằng cỏ tang,
vách làm bằng cỏ du. Nghe Thầy Tử Cống đi ngang qua lật đật ra chào
đón, lấy áo mặc vô, vải áo rách, xỏ chân vô tới giày, giày thủng
gót, đội mão buộc không nhíp, ra đứng giữa đợi Thầy Tử Cống. Thầy Tử
Cống đi xe ngang thấy Ngài đứng bên đường, Thầy để lời than : "Ôi !
Ngài không nghỉ đến công danh ư ?" Thầy Nguyễn Hiến trả lời Thầy xưa
có nói : "Kẻ biết Đạo dù nghèo cũng không nghèo tức nhiên không làm
quan, ấy là kẻ không mồ. Biết Đạo không giữ Đạo là kẻ bịnh. Tôi chỉ
là kẻ không mồ, chớ không phải kẻ
bịnh".
Thử
coi Thầy Nguyễn Hiến nói ai bịnh, phải chăng Thầy Tử Cống bịnh. Công
danh mà chi tới hôm nay nhắc đến công danh, Thầy Nguyễn Hiến là
người hi hữu danh cần gì cao trọng như hàng phẩm của vị thủ tướng
trong triều đình hay là vua, chúa mới lưu lai danh phận mình. Ông
Vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con mới tìm hiền, lúc chưa gặp
Ông Thuấn, nghe Hứa Do là người có tài đức mới cho người dời Hứa Do
đến triều. Vua Nghiêu nói : "Trẩm nghe người tài đức lớn, vậy trẩm
muốn nhường ngôi cho người thay trẩm làm chúa thiên
hạ".
Hứa
Do trả lời : "Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử ẩm hà bất
quá mãn phúc". Con chim tiêu liêu ở rừng chỉ làm ổ trên một nhánh
cây, con yến thử xuống giòng sông uống nước chẳng qua đầy bụng. Kẻ
hạ thần đã quen thú an nhàn cách sống riêng biệt. Bệ hạ muốn nhường
ngôi cho kẻ hạ thần cũng vô ích. Nói xong bỏ ra về. Khi đi ngang qua
nguồn nước mới lum khum xuống rửa tai cho hết vấn vít vì nghe thiên
hạ nói muốn làm vua kỳ quá.
Ông
Sào Phủ là người giữ trâu thôi, dắt trâu xuống giòng nước cho uống,
thấy Hứa Do lum khum rửa tai, Sào Phủ hỏi : Anh làm chi rửa tai vậy
? Hứa Do mới thuật lại : Vì vua Nghiêu muốn truyền ngôi cho làm vua,
tôi không muốn vấn vít trong lổ tai nữa. Sào Phủ nói : Anh làm gì
cho thiên hạ biết Anh là Hiền Đức muốn truyền ngôi cho Anh nếu người
ta biết Anh là người Hiền Đức, tức nhiên Anh đã muốn làm cho người
biết, chắc chắn hơn nữa là tại Anh tỏ cho thiên hạ biết Anh là Hiền
Đức. Anh đừng tỏ cho thiên hạ biết Anh là Hiền Đức, thì ai biết Anh
đâu mà nhường ngôi, cần chi phải rửa tai. Sào Phủ nói xong liền dắt
trâu đi lên trên kia cho uống. Hứa Do lấy làm lạ hỏi : Bến ở đây sao
dắt trâu lên trên kia cho uống. Sào Phủ trả lời : Vì sợ Anh rửa tai
trôi ra trâu tôi uống nhầm. Đó là công danh của kẻ Triết
Hiền.
Ta
thử ngó lại nước Việt Nam ta từ cổ chí kim, kẻ lập thân danh biết
bao người mưu kế quỷ quyệt như Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đã lập ra một
cơ quan vĩ đại là khối Tây Sơn, Trịnh kia gian xảo thế nào thì Tây
Sơn gian xảo cũng thế. Trịnh phò Lê diệt Nguyễn tức nhiên phò Lê
đặng mượn danh nhà Lê đặng diệt Nguyễn, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ cũng
thế mượn màu phò Lê đặng diệt Trịnh.
`Chúng ta thấy gian xảo bao giờ
cũng nương theo tình đức, lợi dụng tình đức đặng lập thân danh.
Những mưu kế xảo quyệt chẳng hề khi nào bền bỉ lâu dài đặng. Thân
danh dầu lập bao nhiêu cũng không thế tồn tại. Lịch Sử của nước Việt
Nam để trước mắt cho chúng ta ngó
thấy.
Bây
giờ nói chuyện nước Tàu, kẻ lập đế vị bền vững được 800 năm là họ
Lưu. Lưu Bang bất quá
là một Anh Đình Trưởng, tức nhiên là Anh đưa đò vậy thôi, mà thâu
phục được lòng dân, ưu ái dân, binh vực kẻ yếu, đương đầu với kẻ
mạnh, tức nhiên lúc yếu của mình mà dám đương đầu cùng Sở Bá Vương
cứu trăm họ lê dân trong nước lửa. Lấy tình đức làm căn bản lập Hớn Thất giang san của
Ngài được 800 năm. Còn Sở Bá Vương dùng bạo tàn dựng nên cơ nghiệp
chỉ một đời thôi. Từ cổ chí kim chưa một đế vương nào để di tích cho
bằng Tần Thuỷ Hoàng, nhưng đào tạo nên bởi hung tàn bạo ngược, chỉ
ba đời thôi.
Napoléon đệ nhứt vẫn là một con
người thường dân trong hàng lê thứ, đi từ tên lính lên tới đế vị
rồi, biết bao nhiêu vinh diệu cho nước Pháp thọ hưởng. Hại thay !
Tới chừng lên đế vị rồi, phong hầu, phong bá (công, hầu, vương, bá)
cho cả hàng tướng sĩ của Ngài, tới trận Waterloo những kẻ sang trọng
trở nên nhát nhúa mất chí khí anh hùng nên Ngài phải thua. Cả tướng
sĩ đã lập nên đế vị cho Ngài sau khi chỉ còn Ông Nài còn biết tình
của Ngài còn bao nhiêu đều phản phúc. Lợi dụng tình đức ấy nó chỉ là
bóng dáng giả dối. Cả cơ nghiệp dầu đào tạo mạnh mẽ liệt cường cao trọng cũng như giọt
sương trên ngọn cỏ chẳng hề khi nào bền vững
được.
Cả
con cái Đức Chí Tôn, mấy em đã có sẵn tình đức của Đức Chí Tôn đã
đến trong 30 năm nay thôi, chỉ trọng 30 năm hưởng được đặc ân của
Đại Từ Phụ đã đến tạo cả tâm hồn mấy em. Tình đức trong Đạo ấy, mấy em Tu thân
dễ quá chừng quá đổi. Tu thân mấy em là làm nền móng vững chắc đặng lập công
danh, đừng ngó ra ngoài những giả dối đó mà cho là sự thật. Chưa có
thật đâu mấy em. Đứng trong cửa Đạo nương tình đức lập thân danh.
Qua dám nói chắc cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ để ý, do căn bản
tính đức ấy chẳng hề khi nào hư, nếu Qua không nói mấy em ngồi trên
đầu thiên hạ.
Ngày
15 tháng 11 năm Giáp Ngọ
(DL.9-12-1954)
21.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO TRONG DỊP
LỄ BAN QUYỀN NỮ ĐOÀN
TRƯỞNG PHỤ TÁ QUÂN ĐỘI CAO
ĐÀI
Thầy
thành thật khen ngợi sự sáng suốt của Bộ Tư Lệnh thành lập Đoàn Phụ
Tá Quân Sự để định phận cho Phụ Nữ Cao
Đài.
Từ
xưa đến nay, có biết bao ngọn lửa thiêng của Phụ Nữ đã làm cho sáng
tỏ được Quốc hồn : Nước Pháp nhờ Jeanne D'are, nước Việt Nam nhờ
Trưng Triệu đã đưa Quốc Gia, Nòi Giống mình, thoát khỏi ách ngoại
xâm, để tiến đến bờ bến vinh quang. Ngày nay, Bần Đạo ước mong sao
các con sẽ tìm lại được ngọn lửa thiêng ấy, ngọn lửa thiêng ái quốc
ở nơi lòng các con và khơi tỏ nó lên, để cứu nguy cho quốc vận, giải
thoát cho giống nòi.
Nước
Pháp chỉ có một Jeanne D'are, nước Việt ta lại có đến Nhị Trưng và
Triệu Ẩu, thế là nước Pháp có một mà nước Việt ta có đến ba. Ta nên
lấy đó mà hãnh diện, mà cố gắng hơn lên để khỏi thẹn mang danh là
gái Lạc Hồng.
Ngày
29 tháng 11 năm Giáp Ngọ
(1954)
22.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ
DỤ TRONG DỊP LỄ KHÁNH THÀNH CHỢ TÂN DÂN (QUI
THIỆN)
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong,
Chư
Viên Quan quyền Đạo và Đời,
Các Em
Nam, Nữ.
Mấy em đã
đặng ân Thiêng Liêng ban thưởng do lòng Đạo Đức của mấy em, nên mấy
được hưởng sự vinh dự hôm nay là lập một sự nghiệp hữu hình cho
thiên hạ.
Qua nhớ
lại khi Đức Chí Tôn vừa đến tức nhiên năm 1925 khi đó trong các Môn
Đệ của Ngài, Qua chẳng biết mỗi người đã lãnh sứ mạng đặc biệt riêng
nhau làm sao. Đức Chí Tôn đến với họ một cách riêng biệt thế nào Qua
không hiểu. Chỉ Qua biết phận sự của Qua là Đại Từ Phụ giao phó với một lời yếu
thiết như thế này :
Tắc,
Đời quá khổ chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh
thần nữa, nạn của Nhơn Loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao
cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng phải cứu khổ tinh thần mà thôi,
lại lẫn cả thế xác nữa. Trọng hệ hơn hết là điều ấy Thầy giao phó
cho con, nhưng mà con phải hiểu : Có khổ về tinh thần mới biến sanh
ra khổ của thể xác. Thầy nói rõ Thầy giao cho một gánh Đạo và Đời "
Thật sự ra
Bần Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần Đạo
khủng khiếp. Duy có gánh của Đời Ngài giao phó nó nặng nề hơn
hết.
Mấy em
Nam, Nữ nghĩ coi, một lời Tiên tri trước kia nó hiện tượng hôm nay
ra thế nào, mấy em biết cái quyền linh vô biên của Đấng cầm quyền
thưởng phạt vô hình nó mạnh mẽ và chơn thật thế nào ? Bởi cớ cho nên
khi Đạo mới phôi thai thì các quỷ quyền toan diệt Đạo. Buổi sơ sanh
Đạo yếu ớt, bạc nhược, ngu dại, dốt nát thế nào, nên bị nó giục cho
thiên hạ dùng cả năng lực quyền hành của mình toan tiêu diệt cho kỳ
đặng Đạo. Hồ đồ mưu chia rẽ làm cho trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn
phải ly tán, Anh nghịch Em, Em bất hòa với Anh, cả nền Đạo chinh
nghiêng đảo ngược. Gánh một chức vụ Hộ Pháp cầm cả Luật Pháp của
Đạo, không lẻ Qua ngồi ngó đặng chịu tội cùng Đức Chí Tôn, Qua phải
tìm phương giải quyết đem chữ Hòa của Đức Chí Tôn muốn ấy đặn làm
căn bản. Bởi cớ cho nên mới sản xuất ra Phạm Môn và Qui
Thiện.
Thiên hạ
nói Qua lấy Tộc Qua là Phạm, tức nhiên là một đảng phái cho họ Phạm.
Qua hỏi : Thiên hạ đã tuyên truyền dối trá ấy đặng đánh đổi cả uy
tín của Qua như thế nào, Qua chưa hề trả lời cho ai hết, dầu quyền
hành buổi nọ rất mạnh mẽ đôi phen đem đến Luật hình, mà chính mình
Qua cũng chưa nói cho họ biết nghĩa lý Phạm Môn là gì
?.
Hôm nay
mấy em biết chưa ? Có lẽ phần nhiều mấy em đã biết, Phạm ấy là Phật,
Phạm Môn là cửa Phật, nói rõ hơn nữa là cửa Tu Chơn của Đạo, cửa Bảo
Thủ Chơn Pháp của Chí Tôn. Còn Qui Thiện thế nào Qua chưa nói ra cho
thiệt tướng.
Thiên hạ
đều hung bạo, vì lẻ hung bạo làm cho Anh nghịch Em, Em hận Anh,
trong cửa Đạo không có một vẻ chi là Đạo hết. Lập Trường Qui Thiện
là cốt yếu đem lòng lành của toàn thể con cái Đức Chí Tôn hiệp nhứt
cùng nhau làm một đặng bảo thủ Chơn Truyền của Đạo. Buổi đầu tiên nó
sản xuất tại nơi Mỹ Tho, Qua lập "Khổ Hiền Trang" mấy em hai chữ Khổ
Hiền ý định Qua thế nào không ? Trong 72 Anh Em chung sức cùng nhau
mà làm đầu Trường Qui Thiện ấy là Đinh Công Trứ vẫn là một trong đó
vậy. Nhờ cả sự giáo hóa của Qua cái nghĩa lý tối yếu, tối trọng của
Chơn Pháp Đức Chí Tôn Qua giao lại cho nó, để làm thế nào cho thiên
hạ hết thống khổ về tinh thần lẫn vật chất. Sự biết Đạo của Đinh
Công Trứ là vậy.
Tưởng cũng
như Qua đã bị các nạn nhân của các lực lượng quyền Đạo luôn quyền
Đời.
Buổi nọ
thiên hạ tuyên truyền dối trá thì Đinh Công Trứ cũng bị nạn ấy. Qua
đã bị thiên hạ chê là lo Đời hơn lo Đạo, thì Đinh Công Trứ cũng vậy, thiên hạ nói nó
cũng như Qua lo đời hơn lo Đạo.
Mấy em
ôi ! Trong buổi phong ba bão táp, Nhơn Loại ở trong sông mê bể khổ,
một con thuyền Bát Nhã chưa tạo thành đặng độ rổi họ, ít nữa mấy em
cùng Qua cố gắng tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của họ đặng bất
nhiêu hay bấy nhiêu.
Thiện
hạ thấy mấy em khổ não, cái khổ ấy nó đã làm cho Qua đổ biết bao
nhiêu giọt huyết lệ từ khi mới biết Đạo.
Tân Dân
Thị chính của mấy em tìm phương chui đụt, tìm phương giải khổ cho
mấy em. Mấy em được hạnh phúc hay chăng là do lòng Đạo Đức của mấy
em. Qua còn sống đây thig Qua cũng lo tạo dựng mảy may hạnh phúc cho
mấy em. Tạo hạnh phúc ấy chỉ có một đường lối duy nhứt là Qua làm
sao cho mấy em giải khổ, phận sự Thiêng Liêng của Qua là
vậy.
Trong
Bí Pháp Qua viết chữ Hòa, nơi Tân Dân Thị nhờ chữ Hòa mà thêm lòng
yêu ái. Qua gởi hai chữ Hòa Ái nơi lòng của mấy em đó vậy. Qua cầu
xin mấy em có một điều là chung sức cùng nhau đặng tạo hạnh phúc cho
nhau.
Tại
Đền Thánh.Đêm mùng 1 tháng 12 năm Giáp Ngọ
(1954)
23.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
ĐẠO
CỦA ĐẤNG CỨU THẾ
Đêm
nay là đêm Lễ Chúa Giáng Sinh. Mỗi năm Bần Đạo đã giảng về Đạo của
Chúa Jésus Christ nhiều rồi. Nhưng hôm nay Bần Đạo vẫn nhắc lại Đạo
của Đấng Cứu Thế. Trong Sấm Truyền của Thiên Chúa Giáo có nói
rằng: Tổ Tông của loài
người là Bà Eve và Ông Adam do nơi tay Đức Chí Tôn đào tạo ra, lại
còn ban thưởng một đặc ân cho ở nơi Địa Đàng. Nơi ấy Tiên Gia của
chúng ta gọi là Tiên Cảnh.
Nhờ Đức
Chí Tôn ban cho một điểm linh quang nên con người khôn hơn loài vật
hữu sinh đồng chung sống với nhau, không biết chết là gì. Nhưng khi
Đức Chí Tôn cho ra ở nơi Địa Đàng, không giữ lời dặn của Đức Ngài,
ăn trái Cấm nên bị Đức Chí Tôn phạt đuổi ra khỏi Địa Đàng. Vì lẽ mất
nghĩa với Đức Chí Tôn nên phải chịu khổ não. Xét ra cho kỷ giờ phút
này Nhơn Loại khổ não là bị điều phạt của Đức Chí Tôn đuổi ra khỏi
Địa Đàng. Vì cớ nên Ông Cha ta trở nên phàm tục không còn vẻ Tiên
Phong Đạo Cốt nữa nên phải chịu Luật Luân Hồi là
vậy.
Nhưng
cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết lòng Từ Bi Bác Ái của Ngài thế
nào chăng ? Phạt chẳng lẻ phạt mãi, nên Ngài mới liệu phương cứu
rỗi. Vì cớ nên Ngài giao cho Chúa Jésus Christ hay Jésus Nazareth
lãnh phần Cứu Thế đặng chuộc tội cho Tổ Tông của loài người đã nghĩa
đối cùng Đức Chí Tôn.
Vì cớ
cho nên Ngài hy sinh tánh mạng chịu chết trên cây Thánh Giá bởi sự
hung bạo của Dân Do Thái.
Hôm nay
cả toàn thể người Công Giáo đều làm Lễ Kỷ Niệm ngày Chúa Jésus
Christ đến cứu thế. Bần Đạo xin nhắc lại gương hy sinh vô đối của
Ngài dám chịu chết vì loài người, dám chịu chết vì hung bạo của loài
người. Bần Đạo ước mong toàn thể Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu này noi
gương của Ngài, là bởi Ngài chịu khổ hình một cách đau đớn khổ não
của vì loài người.
Nền
Chơn Giáo của Ngài, Ngài chỉ định có một khuôn Luật là Thập điều,
nên khi ấy các Môn Đệ của Ngài hỏi Ngài trong 10 Điều răng ấy phải
giữ điều nào hơn hết. Đức
Chúa Jésus nói : Ta phải Thương yêu Chí Tôn trên hết mọi sự
và Thương Yêu bạn đồng sanh mình cũng như
mình.
Ôi !
Nếu nhơn loại biết yêu thương bạn đồng sanh của họ như Thánh Giáo đã
dạy từ 2.000 năm nay, thì tưởng lại giờ phút này sẽ tránh khỏi nạn
tương tàn tương sát, nó làm cho thế giới chẳng hề buổi nào hưởng
đặng hòa bình, chỉ cứ ly loạn mãi thôi.
Chúng
ta thử giở Lịch Sử Loài Người ra xem, thì không có một thế kỷ nào mà
không có giặc giã tàn sát lẫn nhau giờ này chúng ta cũng thế. Các
bạn đồng Đạo Tôn Giáo cũng thế. Hôm nay xúm xích nơi Đền Thánh chung
vào lòng Từ Bi Bác Ái vô tận vô biên của Đức Chí Tôn để cầu nguyện một điều là
Đức Chúa Jésus Christ sống lại là mơ ước thế nào Nhơn Loại hưởng đặc
ân ấy, để chia khổ não đừng tàn sát lẫn nhau đem trở lại sự yêu ái
lẫnh nhau. Nhìn nhau là bạn đồng sanh, lời cầu nguyện quí báu hơn
hết, với Đức Chí Tôn là cầu nguyện như thế. Bần Đạo nói Đức Chúa
Jésus Christ đối với Triết Lý của Đức Chúa Trời như thế nào thì hôm
nay đường lối của Đức Chí Tôn đến dạy chúng ta như thế ấy. Chúng ta
chỉ mong mỏi có một điều là Nhơn Loại đặng hòa bình mà
thôi.
Tại
Đền Thánh Đêm 15 tháng 12 năm Giáp Ngọ
(1954)
24.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
SO-SÁNH
NGHIỆP ĐỜI VỚI NGHIỆP ĐẠO
Hôm
nay Bần Đạo giảng cho các Thanh Niên Nam, Nữ Lưỡng Phái. Vì trong
mấy tháng các em làm ngày làm đêm cực nhọc quá. Mấy con mấy đứa nhỏ
nhứt là sự làm việc rất siêng năng. Nên hôm nay Bần Đạo giảng thử so
sánh nghiệp Đời với nghiệp Đạo. Nhứt là trong khi làm rồi mệt mỏi,
mấy em mấy con có thể hiệp lại với nhau suy nghĩ tính toán, có lẽ đứa này hỏi
đứa kia. Tại cớ gì mà chư vị Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái
là đàn Anh của mấy em và mấy con chịu cực nhọc khỏ não theo Đạo trọn
một đời hy sinh cả kiếp sống của mình để chơn theo dõi bước Thiêng
Liên của Đức Chí Tôn, chắc có lẽ mấy em mấy con có khi nói : Kìa nơi
ngoài đời thiên hạ họ lên xe xuống nhựa, sống vinh hiển, giàu sang
phú quí đủ hết ăn mặc sung sướng, không hiểu với gì mà chư vị Chức
Sắc Thiên Phong ăn uống khổ hạnh, nhưng cứ mài miệt mãi theo Đạo.
Không có một món chi để an ủi sự khổ não của tâm hồn và hình
thể.
Mấy em
ơi ! Cái hột Thánh Cốc của Đức Chí Tôn là đấy. Hột giống tối cổ của
Tổ Phụ, của nền Văn Hiển Ông Cha ta để lại. Hôm nay nó đã thành ra
một cội Đạo. Cội Đạo ấy có thể che chở cho loài người đặng nương cái
bóng trong buổi đau khổ tâm hồn lẫn vật chất mà cả chư vị Chức Sắc
Thiên Phong Thánh Thể
Đức Chí Tôn đã cố gắng biết bao nhiêu. Dầu cho còn sống sót
bao nhiêu cũng chịu làm tội cho mấy em, để làm nên nghiệp cả Thiêng
Liêng cho mấy em. Chúng Qua đã từng chịu nhục nhã truân chuyên khổ
não, mà hể còn sống sót bao nhiêu đều cố tâm làm, làm chỉ tìm một
con đường một sở vọng làm thế nào cho đám hậu tấn mấy em mấy con khổ
như chúng Qua đã khổ não vậy.
Thử
nghĩ, nếu đem so sánh nghiệp Đạo của chúng Qua với nghiệp Đời của
thiên hạ, tưởng khi nghiệp Đạo của chúng Qua không thua mấy đâu.
Trái ngược lại chúng Qua sung sướng và hạnh phúc trong cái kiếp sống
của cúng Qua đã may duyên làm nên đặng một lẻ đáng sống. Tức nhiên
là theo con đường Thiêng Liêng của Đấng Yêu Ái và Công Bình. Chúng
Qua chỉ rèn tập sao cho đặng như tánh Đức của Đấng ấy. Yêu Ái và công bình như thế nào ?
Yêu ái đặng chi ? Yêu ái đặng có phương an ủi mấy em mấy con. Công
bình đặng chi ? Công bình đặng có phương dìu dắt mỗi đứa đi trên con
đường Đạo có Niêm Luật, có chuẩn thằng.
Bần Đạo
nghĩ lại, Bần Đạo ngó thấy dầu cho ngôi báu của đế vương kia, qua
một kiếp sanh của họ chưa có đặng an ủi tâm hồn như chúng Qua. Mấy
em chịu cực buổi này rồi, mấy em mấy con suy nghĩ lại đàn Anh của
mấy em buổi nọ. Lúc Đạo còn khổ não, nghèo nàn, hèn hạ, thiên hạ đã
khinh rẽ thế nào, có lạ chi theo thói tục thường tình của thiên hạ,
họ thấy kẻ nghèo, kẻ khổ, kẻ rách rưới bần cùng họ miệt sát khi rẽ.
Trước kia chơn tướng của Đạo cũng bị như
thế.
Hồi
buổi Đạo mới phôi thai còn nghèo nàn thiên hạ có kể nó đâu, lẽ dĩ
nhiên vẫn vậy. Nếu đem nó so sánh với các nền Tôn Giáo có căn bản có
oai quyền, sang trọng giàu có, thì xem nó như một trời một vực. Cái
phận của Đạo buổi nọ chẳng khác chi người nghèo hèn khốn khổ kia bị
thiên hạ mạt sát khinh rẽ. Chỉ thương có một điều là trong nền Đạo
gần ba triệu con cái Đức Chí Tôn nương nơi bóng Đạo cũng bị chung
hoàn cảnh ấy.
Thiên
hạ đã mạt sát chúng Qua, nhưng mạt sát cá nhân chúng Qua không nghĩa
lý gì hết. Chúng Qua coi nó không có giá trị chi
cả.
Tội
nghiệp cho cái hèn hạ ấy, thiên hạ đã khi rẽ đã mạt sát con cái Đức
Chí Tôn gần ba triệu Tín Đồ thờ phượng Ngài không phân biệt đảng
phái. Cái hèn của mình không không có hại gì hết. Chúng Qua chỉ sợ
một điều là cái hèn của mấy em đem ra đương đầu với thiên
hạ.
Kẻ bần
cùng nghèo khổ nói ai thèm nghe, như vậy rồi dạy đời sao đặng. Nhưng
sứ mạng Thiêng Liêng đã giao phó biểu phải dạy đời, tức nhiên chúng
Qua phải làm thế nào cho có định luật. Muốn cho Đạo của mấy em có
hiệu lực ấy thì hôm nay mấy em phải chịu cực khổ đó
vậy.
Những
đế nghiệp của các nền Tôn Giáo đã hiện tượng nơi thế này mười phần
thì Đạo của mấy em chưa được một, mấy em để ý xem xét suy gẫm coi
đặng mãi may gì chăng ? Hồi còn chòi tranh vách lá thiên hạ không có
bước chân tới, họ có kể mình xứng đáng gì mà họ ngó đến, lời tục có
nói :
"Có thế
mới dễ làm ăn"
Đời
cũng thế mà Đạo cũng thế. Thế Đạo của mấy em hôm nay không đáng giá
bao nhiêu, nhưng có thể đối lập với thiên hạ
đặng.
Nghiệp
Đạo buổi này mấy em nên suy nghĩ, bước ra một tấc đường thì phải mặc
áo mới đẹp thì mới có phương diện đối với người ta. Còn Đạo của mấy
em cái đẹp của nó là theo Thánh Ý của Đức Chí Tôn, nên sự cực của
mấy em cũng như chúng Qua, cái khổ của mấy em cũng như chúng Qua đã
khổ.
Mấy em
muốn nên hay chăng đều do cả đầu óc tay chân của mấy em tạo mới nên
nghiệp Đạo ấy. Mấy em muốn vinh hiển hay chăng cũng do cả đầu óc tay
chân của mấy em tạo nên.
Qua xin
nhắn nhủ mấy em mấy con một lời :
Thân
Già nầy, cả Chức Sắc Thiên Phong cũng vậy, Nữ cũng vậy đều già yếu
thành ra người bạc nhược, làm công chuyện như mấy em mấy con không
nổi, lẻ mấy em mấy con sanh nạnh chúng Qua rồi không tạo nghiệp cho
mấy em.
Luân lý
: Nếu trong tủ tiền của Đạo
có đủ đi nữa cũng do nơi túi của mấy em. Mấy em không biết lo chung,
Qua phải mượn thì mấy em thấy rõ rằng: Tiền trong túi của mấy em nó
chạy qua túi khác. Không có tiền lấy công làm lần, lẻ tự nhiên vẫn
vậy. Đạo của mấy em còn nghèo thì mấy em phải chịu cực, chịu nhọc,
đừng để con mắt của các nhà Đạo Đức thấy mấy em khó nhọc rồi họ nói
chúng Qua không yêu ái mấy em.
Qua xin
nhắn gởi với mấy em nói lại cho thiên hạ biết điều
ấy.
Tại
Đền Thánh Đêm mùng 1 tháng Giêng năm Aát Mùi (DL.
24-1-1955)
25.-
ĐỨC CHÍ-TÔN BAN PHÉP LÀNH
Đêm
nay, đêm Giao Thừa năm Aát Mùi. Cũng như các năm trước, Bần Đạo đã
nhớ dường như Đức Chí Tôn khi mở Đạo ngày 15-10 năm Bính Dần tại
Chùa Từ Lâm Tự (Gò Kén) qua đầu năm Đinh Mão cũng giờ này, cũng đêm
nay, khi Hầu Đàn rồi Phò Loan Đức Chí Tôn, Ngài biểu cả thảy con cái
của Ngài hiện diện nơi đó ra : "Thầy đưa Cơ lên các con chung ngang
qua Cơ Thầy ban Phép Lành cho các con". Đức Cao Thượng Phẩm và Bần
Đạo bị Đức Chí Tôn xách đứng lên ra ngay giữa Đại Điện đưa cần Cơ
lên cho cả thảy con cái của Ngài Nam Nữ chung ngang
qua.
Bần Đạo
vâng mạng lịnh của Đức Chí Tôn, đêm nay Bần Đạo Ban Phép Lành cho
toàn cả con cái của Ngài Nam, Nữ. Cả thảy cầu nguyện Đức Chí Tôn
chan rưới "Hồng Ân" Thiêng Liêng, Hồng Aân của Ngài rải khắp cho con
cái Nam, Nữ.
Đức Chí
Tôn ban phép lành.
Đêm nay
Bần Đạo không giảng Đạo chỉ đọc bức thơ của Bần Đạo gởi cho toàn cả
Quốc Dân Việt Nam. Tiếp theo bức thơ Bần Đạo có làm một bảng "Tuyên
Ngôn" gởi các "Quốc Trưởng" và các nhà cầm vận mạng của các dân tộc
trên thế giới. Lát nữa Bần Đạo sẽ giải nghĩa bức thơ này sơ lược cho
nghe.
Bây giờ
Bần Đạo đọc bức thơ Bần Đạo gởi cho toàn Quốc Dân Việt
Nam.
26.-
BỨC THƠ XUÂN CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
GỞI CHO
TOÀN THỂ ĐỒNG BÀO VIỆT NAM ĐẦU
NĂM ẤT MÙI (1955)
Cùng
toàn cả Quốc Dân đồng bào Việt Nam,
Nhơn
dịp ngày xuân năm Aát Mùi, Bần Đạo thành tâm cầu nguyện Đức Chí Tôn
chan rưới Hồng Aân cho toàn dân nước Việt đặng mau thoát khỏi ly
loạn tương tàn.
Sau nữa
Bần Đạo có mấy lời thống thiết ngỏ cùng toàn thể các
dân.
Trót 10
năm quật cường giải ách lệ thuộc, thâu hoặch độc lập cho Tổ Quốc
Giống Nòi thì đoàn thể Đồng Bào đã góp vào biết bao nhiêu xương máu
và đau khổ. Lập trường tranh đấu thâu hoạch cho kỳ đặng hạnh phúc tự
do cơm áo của nòi giống sau 80 năm đô hộ, đã khiến cho lòng ái quốc
nồng nàn của mỗi công dân Việt Nam để tâm vào một chí hướng là Độc
Lập và Thống Nhứt nong sông.
Hại
thay, cơ cấu tranh đấu cho kỳ đặng ấy nó đã chia rẽ dân tộc ra nhiều
phương pháp và nhiều chí hướng : Việt Minh là gì và Quốc Gia là gì ?
Thì
cũng là đồng bào Việt Nam tìm phương tranh đấu. Như các danh từ và
nhãn hiệu ấy chẳng lẽ có năng lực đặng chia rẽ con cái của một nước,
một chủng tộc và xem lẫn nhau như kẻ tử thù
?
Đau đớn
thay nạn tương tàn tương sát đã xảy ra cũng do nơi định nghĩa bất
đồng của các phương pháp và danh từ tranh
đấu.
Từ ngày
mùng 9 tháng 3 năm 1945 Dương Lịch, cuộc Giải Phóng Dân Tộc đã khởi
đầu. Các biện pháp đem thắng lợi cho nước nhà hôm nay cũng chưa thâu
hoạch đặng trọn vẹn, lại còn gây thêm nạn qua phân lẫnh thổ : Từ vĩ
tuyến 17 đổ vô là của khối Quốc Gia, còn vĩ tuyến 17 đổ ra là của
Việt Minh làm chủ. Nạn nhị Chúa phân tranh Nguyễn - Trịnh ngày xưa
đã biểu diễn lại.
Bần Đạo
thử hỏi cuộc tranh đấu giải ách lệ thuộc đặng đem hạnh phúc đó lại
cho ai ?
Phải
chăng cho Tổ Quốc và cho toàn thể Đồng Bào thì lý ra chẳng lẽ có một
nguyên cớ nào làm cho Nòi Giống Việt nầy chia phân cho đặng. Chủng
tộc duy có một thì Hoàng Đồ chỉ có một. Rồi ta lại thử hỏi : Ai đã
gây nên nội loạn ly tán giống nòi ? Phải chăng vì năng lực ngoại
bang đã gây nạn phân chia tộc chủng.
Hai chí
hướng đương nhiên của Quốc Tế và lý thuyết Dân Chủ Xã Hội và Cộng
Sản Xã Hội. Hai lý thuyết ấy đều hứa hẹn răng Nhân Loại phải Duy Tân
và cải tổ Xã Hội, vì tổ chức xã hội đương nhiên đã gây thất vọng cho
nhân loại quá nhiều nên đem lại cho họ nhiều đau thảm hơn là hạnh
phúc. Đôi bên đều hứa hẹn tìm một phương pháp sửa chữa đặng tìm cái
hay trừ cái dở, lời hứa hẹn ấy đã thấm nhuần trong trí não đau khổ
của nhân loại nhất là hạng bần dân và các Quốc Gia lạc hậu đều mong
ước chóng được thực hiện điều ấy.
Hai
triết lý xã hội mới mẻ kia đương tranh đấu đặng thâu hoạch tín nhiệm
của toàn thể nhân loại trên mặt địa cầu này. Cuộc tranh đấu của họ
đã hiển nhiên kịch liệt và hỗn độn nhưng họ cũng đã đủ năng lực phân
chia nhân loại làm đôi chí hướng.
Hại
nỗi, hạnh phúc đâu chẳng thấy, chỉ gây cho nhân loại một tấm thảm
kịch tương sát, tương tàn. Ta nên để đức tin cho thời gian và không
gian định nên hư của họ, nhưng hiển nhiên hôm nay ta chịu biết bao
nhiêu đau khổ. Ta muốn cho vay đặng hưởng lợi, mà lợi đâu chẳng thấy
vì hứa hẹn ấy chỉ với lỗ miệng, không bảo kê, không chứng chắc mà
giờ phút nầy ta bị lỗ vốn một cách đau đớn và oan
uổng.
Cuộc
chạy theo bóng bỏ hình của Nòi Giống Việt Nam từ xưa đã vây ; nó đã
làm nên bịnh chủng tộc. Đồng bào sẽ hỏi Bần Đạo chỉ trả lời một cách
đơn giản như thế này.
* Ngày
nào cả Chủng Tộc Việt Nam đặng định tỉnh trong Quốc Hồn của họ thì
họ mới có thể cố thủ và bảo vệ sanh tồn của
họ.
* Ngày
nào lòng ái quốc nồng nàn của nước Việt Nam thoát khỏi lợi dụng đặng
biến thành một ngọn lửa Thiêng dâng lên bàn thờ Tổ Quốc của họ thì
họ mới bảo thủ được trọn vẹn Hoàng Đồ cùng tộc
chủng.
* Ngày
nào đầu óc của cả khối Quốc Dân biết trọng dĩ vãng lịch sử của mình
rồi định phận cho mình xứng đáng làm một nước đủ liệt cường, đã uy
tín hầu đối diện cùng Quốc Tế rồi chủ định số phận của mình do năng
lực của mình, không ỷ lại mơi một ngoại bang nào thì ngày ấy mới
giải ách lệ thuộc về tinh thần lẫn vật chất của mình mới
đặng.
Tình
thế đương nhiên là Bắc Việt đã bị lệ thuộc của Trung Cộng, còn Nam
thì bị sống gởi nơi tay người, thì kiếp số tương lai của ta chưa
biết nương nơi đâu mà an đặng. Nếu tình thế này mà kéo dài tới mãi
thì hòa bình của họ đã hứa hẹn cùng ta thì là mộng
ảo.
Bần Đạo
ước mong và cầu xin cho toàn thể Đồng Bào sáng suốt hơn đặng tự định
số mạng và tương lai của mình.
Bần Đạo
để lời chào mừng toàn thể Đồng Bào và cầu chúc cho các gia đình đều
hạnh phúc.
Bức thư
bần đạo có gởi cho đài phát thanh sài gòn, đêm nay có lẽ giờ này đã
đọc rồi.
Cái nạn
qua phân lãnh thổ, Bần Đạo nói sẽ làm chơ Nhơn Loại đau khổ và nguy
hiểm không thể tưởng tượng vì năng lực tàn phá của võ khí tối tân
nhứt là bom nguyên tử. Nếu nhơn loại không rán sức đem hòa bình hạnh
phúc do con đường Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã đến thì nhơn loại
sẽ bị tiêu diệt. Nhơn loại mắc nạn tiêu diệt ấy là do tội tình Chí
Tôn chưa có làm phận sự mà cả tinh thần lẫn hình thể của họ đều sáng
suốt chói lọi vậy.
Họ
trông đợi bóng Cơ cứu khổ của các Bạn lắm. Cố gắng thêm các Bạn, vì
trong Đạo Binh Thiêng Liêng theo Hộ Giá Đức Chí Tôn từ khai Thiên
lập Địa tới giờ, do theo Thánh Giáo Đức Chí Tôn có nói : Bần Đạo là
Ngự Mã Thiên Quân, phẩm tước quyền hành cao trọng ấy phải làm thế
nào để dấu hỏi ?
Ta có
đền đáp, có thể thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn đặng làm phận sự của
Ngài hay không ? Hay một ngày kia trỏ về Thiêng Liêng phải thẹn khi
ngó mặt Ngài. Bần Đạo cũng quyết tùng mạng lịch của Đại Từ Phụ làm
cho con cái của Ngài đặng giảm bớt khổ não. Tưởng khi các Bạn đồng
chí hướng với Bần Đạo đó vậy.
Thưa
Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái ! Đang làm việc thay thế
hình ảnh của Đức Chí Tôn, Bần Đạo xin cả Thánh Thể hãy ngó đến con
cái của Ngài đang đau khổ, dốt nát về tinh thần Đạo Đức, họ thiếu cả
tinh thần định phận cho họ, không phải định phận mà thôi, lại thiếu
cả tinh thần bảo vệ cái sống của họ nữa, chúng ta ngó thấy cần phải
dạy dỗ dìu dắt và an ủi họ.
Aáy vậy
cả thảy Thánh Thể Đức Chí Tôn thay thế hình ảnh của Ngài đang lo lập
vị cho con cái của Ngài, hình ảnh bóng dáng của Chức Sắc Thiên Phong
thay thế hình ảnh Đức Chí Tôn không có nghĩa lý gì hết. Trọng hệ hay
chăng là cái giá trị đối phẩm Thiêng Liêng cùng Chư, Thần, Thánh,
Tiên, Phật mà thôi, Bần Đạo ước mong một đứa em của chúng ta lập nên
phẩm vị cho thoát khỏi cái kiếp luân hồi, nếu được như vậy thì công
nghiệp của chúng ta rất vĩ đại đó vậy. Huống chi giờ phút nầy cả
Thánh Thể Đức Chí Tôn đem dường cho nó, nâng đỡ nó đưa vào phẩm vị
Thiêng Liêng Thần, Thánh, Tiên, Phật thì Bần Đạo tưởng không có danh
dự nào bằng, không có phận sự cao trọng nào
hơn.
Giờ
phút nầy nó đã chịu khổ não nhiều rồi, đau khổ Đời, lại kế tiếp đau
khổ Đạo, hôm nay Thánh Thể của Đức Chí Tôn yêu cái và gởi gấm cho ta
lãnh sứ mạng dìu dắt đoàn em đó vậy. Có một phương thế hay ho hơn
hết mới có thể bảo vệ ta khỏi lạc lầm, phận sự ta đối đãi cùng đoàn
em có một phương pháp duy nhứt là chỉ thương yêu mà thôi. Dầu cho sự
thương yêu ấy có vẻ có ra vẻ dại dột, ngu khờ nhục nhã thế nào đi
nữa chúng ta cũng chỉ biết thương yêu mà thôi, sự thương yêu đủ với
chúng ta làm, mỗi đều không cần tìm phương pháp nào khác, các con
Phước Thiện, Hội Thánh Phước Thiện của mấy con tức nhiên Hội Thánh
Hiệp Thiên Đài. Chúng Qua có mười mấy người, Chúng Qua không có thế
gì an ủi sự thống khổ của toàn thể con cái Đức Chí Tôn cho
đặng.
Chúng
Qua có mười mấy người, biến thân ra mấy con, mấy con là hiện thân
của chúng Qua thay thế cho chúng Qua đặng tìm phương giải khổ cho
thiên hạ làm cho ngọn Cờ Cứu Khổ của Đức Chí Tôn giao cho chúng Qua
đặng thiệt hiện ra mãi mãi.
Năm nay
là năm bí yếu hơn hết mà gọi là năm hòa bình, mấy em thôi cũng tin
tưởng như vậy, tin hòa bình đi, hòa bình với đầu óc của mấy em, hòa
bình là buổi nào mấy em an ủi cả thiên hạ đau khổ đương nhiên bây
giờ đó là hòa bình của mấy em.
Thay
thế hình ảnh của chúng Qua giải khổ cho thiên hạ, mấy em ngó lụng
lại qua khỏi cơn thử thách của nước nhà chủng tộc rồi trước chúng em
sẽ thấy một trường thảm khổ không thể tỏa đặng. Nào là tật nguyền và
bịnh hoạn, nào khổ não, nào truân chuyên đủ mọi
điều.
Tình
thế đương nhiên bây giờ, mấy em thấy trước mắt la Đồng Bào bắc Việt,
tội nghiệp thay ! Họ bỏ cả gia nghiệp vào Nam, Qua chỉ sợ một điều
trong cơn buồn tủi của họ, rồi họ sanh ra chán nản, mấy em thấy vì
thiên hạ nâng đỡ binh vực giúp sức cho sự sống còn của họ, Qua sợ
không biết thương rồi bạc đãi khi thị thì nòi giống ta tủi nhục biết
bao nhiêu, Qua gởi cho mấy em cái phận sự biến thân ra, chúng Qua đi
an ủi họ từ nhà, từ người trong cơn khổ
não.
Mấy con
trong Phục Quốc Hội, những điều Thầy làm không được. Mấy con thay
Thầy làm, Quân Đội cũng vậy, Phục Quốc Hội mấy con, không lẽ giờ
phút nầy mấy em biểu Thầy đi ra cởi ngựa cầm cương đặng làm thế các
con. Phận sự tối yếu, tối trọng cứu dân, cứu nước, mười mấy năm các
con đã hy sinh biết bao xương máu cho Tổ Quốc giống nòi. Hôm nay có
thể mong ước như Thầy đã mong ước từ vĩ tuyến 17 đổ vô hay đổ ra đối
với tinh thần của ai đã chia rẽ chớ tinh thần của mấy con không chia
rẽ buổi nào hết, bởi ngọn cờ cờ khổ của mấy con, ngọn cờ Bảo Sanh
Nhơn Nghĩa của mấy con đã đến nơi nào thì nơi đó gia nghiệp Thiêng
Liêng của mấy con. Thầy chỉ sợ mấy con không đến nơi nào thì nơi ấy
còn khổ não, thầy chỉ sợ bao nhiêu đó mà thôi, còn sự thắng lợi của
cơ quan Phục Quốc Hội không lẽ Thầy đi ra làm chánh trị đương đầu
với thiên hạ. Thầy là Nòi Giống Việt Nam, tranh đấu đặng đem tương
lai cho Đất Việt, có nhiều điều các con làm đặng mà Thầy không làm
đặng, các con có nhiều phương làm mà Thầy không có phương làm, thành
thử thật ra từ trước đến giờ sự thâu hoạch thắng lợi đều do công
nghiệp của các con chớ chẳng phải của Thầy.
Thầy
bất quá chỉ có lời nói mà thôi. Đường lối củ các con đi được như hôm
nay là dài lắm rồi, đã được hai phần đường. Các con cố gắng thêm và
sáng suốt làm thế nào cho phận sự Thiêng Liêng của các con tượng
trưng hình ảnh nòi giống của các con. Các con đã tránh đặng một điều
là thiên hạ cám dỗ mua chuộc các con, nên Thầy đã yên tâm, thấy Phục
Quốc Hội không có cái năng lực nào mua chuộc được, nên Thầy gửi gấm
cơ quan chuyển thế một phần do tay mấy con, Thầy để lời ban khen đã
mấy em qua mọi sự đã đem thắng lợi rất nhiều, nhứt là có một điều
làm cho Thầy vui hứng là cơ quan dân vụ của các con nó phù hạp thích
ứng với Thầy hơn hết, các con cố gắng với đường lối dân
vụ.
Đồng
Bào Bắc Việt, Bần Đạo đã thường nói : Mảnh đất gấm vóc của Tổ Tiên
ta để lại từ Aûi Nam Quan đến Mũi Cà Mau Tổ Phụ ta mua chuộc biết
bao nhiêu xương máu, dành để cho nòi giống. Không có mảnh đất nào là
không phải của chúng ta, nên nhớ điều đó, đừng vì di cư ngoài Bắc vô
rồi buồn rầu, không lo đời sống đặng lo làm nghề nghiệp, phải cố
gắng thêm nhiều hơn nữa, từ trước đến giờ lịch sử đã để lại để chúng
ta đã ngó thấy bằng cớ hiển nhiên hễ mỗi khi có quốc nạn là mỗi khi
chúng ta hiệp chủng đó vậy, để người Bắc kẻ trong Nam không biết
nhau là gì, nghe giọng khác nhau, những người dốt nát tưởng đâu là
người ngoại quốc, cái đó lấy làm nguy hiểm hơn
hết.
Hôm nay
tình cờ chúng ta được một phương pháp hiệp chủng, cả thảy Đồng Bào
Nam cũng thế, Bắc cũng thế cố tâm một điều cần yếu hơn hết là gây
tình thân ái vô biên của nòi giống Tổ Phụ để lại trong đầu óc ta hôm
nay có phương thế hiệp chủng cho mạnh mẽ khắn khích, dầu cho có cực
nhọc cũng cố làm, sự làm kia nó sẽ lập lại như hồi nhị Chúa Tây Sơn
buổi nọ, nó đi theo tấn tuồng thống nhứt Hoàng Đồ của Chúa Nguyễn
khi xưa muốn thiệt hiện thốn nhứt Hoàng Đồ thì nòi giống chúng ta
phải hiệp chủng thống nhứt năng lực lại.
Hại
thay ! Có một điều khổ não hơn hết là từ ngày nền văn minh của Tổ
Phụ ta, của Quốc Đạo ta bị thiên hạ chi phối muốn có sự phân tâm của
nước, của chủng tộc, vì lẽ phân tâm ấy hôm nay mới có tình trạng
nầy. Nếu không có Việt Minh thì vinh diệu cho quốc sử của chúng ta
biết bao nhiêu.
Đồng
Bào Bắc Việt hãy nhớ nơi đây là đất địa của mấy người không phải mấy
người ăn tạm ở nhờ, mà là ở trong gia đình Tổ Quốc. Vậy mấy người
đừng buồn thảm, cố gắng hiệp chủng với nhau thì mới mong thống nhứt
Hoàng Đồ trở lại.
Bần Đạo
xin để lời cầu chúc toàn thể các con của Đức Chí Tôn đó
vậy.
Ngày
mùng 8 tháng 1 năm Aát Mùi (1955)
27.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
ĐẠO
CAO-ĐÀI RA MẶT QUỐC-TẾ
Buổi
mai Bần Đạo đã lên Thiên Hỉ Động giảng lý do của Đức Chí Tôn đã đợi
đến 30 năm khai mở Đền Thờ của Ngài, tưởng phần nhiều cả con cái Đức
Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái đều biết rõ.
Aáy vậy
hôm nay là ngày Lễ Kỷ Niệm của Đạo Cao Đài đã ra mặt Quốc Tế. Nếu
luận rằng : Nó đã ra mặt Quốc Tế rồi thì ta cũng nên luận về tình
hình đương nhiên của toàn cả các liệt cường của các quốc gia trên
mặt địa cầu. Nhứt là tình trạng hiện tại của nhơn loại thế nào cả
con cái Đức Chí Tôn đều rõ về hai lý thuyết đường đầu với nhau,
đương đua tranh cùng nhau đặng đọat tinh nhuệ của toàn nhơn loại
trên mặt địa cầu nầy.
Bần Đạo
không cần luận e mích lòng thiên hạ, chỉ nói rằng : Không phải họ
đăng mong mỏi điều ấy. Với một tâm tình không vụ tất danh lợi, Bần
Đạo nói quả quyết rằng : Hai kẻ muốn thâu hoạch cả tinh nhuệ của
nhơn loại đặng làm bá chủ toàn cầu nầy là hai lý thuyết Dân Chủ Xã
Hội và thuyết Cộng Sản Xã Hội.
Chúng
ta đã ngó thấy lập trường tranh đấu, hôm nay đã kịch liệt, bởi sự
hơn thua của hai khối ấy. Tương lai họ sẽ đương đầu cùng nhau thế
nào rồi Bần Đạo không đoán được. Chỉ có một điều nên để ý hơn hết
là giờ phút nào mà
người ta đã lấy lý trí xử với nhau không đặng, phải mượn cường lực
của võ khí đặng làm sức mạnh của mình thì ngày giờ ấy tưởng cả sự
tranh đấu của họ chưa có một phương pháp nào giải quyết
đặng.
Một
đàng thì chỉ có hổn ẩu, gian xảo, dối trá nhứt là côn đồ theo tánh
chất hổn ẩu quyết hơn thiên hạ bất cứ một hành vi nào, không kể gì
tâm tình quân tử ấy là khối Cộng Sản ỷ năng lực mình vô đối tự kiêu,
tự đại.
Lấy
việc nhỏ luận việc lớn khi ta ở cùng chung trong một xã hội nếu cả
thảy con cái Đức Chí Tôn để ý điều ấy là ngó thấy, nếu rủi ta gần
gủi đừng nói rằng mình kết bạn hay chung sống gần gủi với những kẻ
côn đồ thì chỉ biết "rìu búa" là mạnh, lấy hổn ẩu gian xảo của họ,
họ làm khí cụ.
Lời tục
có nói : Một kẻ nói ngang ba làng nói không lại, mà hễ ai nói ngược
lại thì rút rìu búa ra dọa nạt thiên hạ. Đó là một điều người quân
tử gớm ghiết hơn hết. Cho nên không có phương pháp chi mà trị họ
đặng, trị đặng định phương pháp nghĩa là làm thế nào trị kẻ võ phu
đó với phương pháp đặc sắc hơn định luật của nó, và nó lấy sức mạnh
của thuyết Cộng Sản Xã Hội, quyết thắng không kể gì là Nhân từ,
không kể gì là Đạo Đức chỉ biết thắng thôi. Tranh sống đặng tạo hạnh
phúc dầu cho có hèn hạ nhỏ mọn tới mức nào thì họ chỉ biết có hưởng
hạnh phúc mà thôi.
Còn bên
Dân Chủ Xã Hội là thực dân ăn cả của cải Đồng Bào, thâu lấy cả của
cải phú hữu của thiên hạ làm năng lực mạnh mẽ của
mình.
Hai cái
đó Bần Đạo tưởng đem để lên mặt cân Công Lý thì ta thấy "lịch cũng
như lương, mà lương cũng như lịch" có chi lạ. Ngày giờ nào toàn cả
nhơn loại tỉnh mộng lại, thấy mình làm khí cụ cho thiên hạ tranh đấu
với mọt tấn tuồng làm cho mình đau khổ, thiên hạ sẽ tỉnh mộng lại
không cho họ lợi dụng, cả tín ngưỡng đó, tấn tuồng hèn hạ đó dầu cho
các nhà Đạo cũng như hạng côn đồ cướp đảng kia đều cũng vậy. Nếu cả
thảy thiên hạ không ngó tới mặt nó, đừng gần gủi nó, thì nó hết sống
cùng ta chớ gì. Nó cho nó là mạnh, thiên hạ sợ nó, nó còn nhuệ khí,
nó còn nắm cả ủy tín của nó. Ngày giờ nào cả thiên hạ đều gớm ghiết
không còn ngó tới nó nữa thì nó phải tiêu hủy chớ có gì
đâu.
Giờ
phút nào cả quốc gia nhược tiểu không để cho họ lợi dụng mình nữa
bất kỳ trong hai khối đó. Tự chủ lấy mình, tự quyền lấy mình, một
người làm không được, năm bảy người làm, một nước yếu hèn, năm bảy
nước hiệp lại đương đầu với họ, vạt bỏ hai khối đó ra, thiên hạ mới
hòa bình, duy có lẽ đó thiên hạ mới hòa bình mà
thôi.
Ngày
mùng 9 tháng Giêng năm Aát Mùi (1955)
28.-
ĐỨC HỘ PHÁP CÁM ƠN CÁC QUAN KHÁCH
&
PHỦ DỤ CHIẾN SĨ CAO ĐÀI
TRONG
DỊP LỄ XUẤT QUÂN
Thưa
cùng Chư Viên Quan Chức Sắc Đời và Đạo.
Trước
khi Bần Đạo để lời, Bần Đạo xin nghiêng mình cám ơn toàn thể cả thảy
Đồng Bào đôi bên niệm tình của Quân Đội và của Đạo đến dự lẽ đông
đảo và long trọng làm cho rõ thêm vẻ Đạo, Bần Đạo xin cúi mình cám
ơn toàn thể.
Thưa
cùng toàn thể Đồng Bào,
Bần Đạo
xin để lời cùng các Ngài trước vận mạng đương nhiên của Tổ Quốc nòi
giống tới một giai đoạn yếu trọng, nếu không nói đã đến một giai
đoạn khó khăn đặng định vận mạng tương lai của nó, nhứt là Bần Đạo
xin để lời riêng biệt cùng các nhà Văn Sĩ cùng các Sử Gia, trên 9
năm tranh đấu hôm nay cái phận sự ấy yếu trọng cho các Ngài hơn hết,
bởi nó đến giai đoạn chúng ta phải đấu tranh về trí thức tinh thần,
nếu không nói ra rằng : Ta vẫn tiếp tục đương tranh đấu về tâm lý.
Tưởng khi trên 9 năm quốc cường thâu hồi độc lập cho Tổ Quốc giang
san các Ngài có sẵn trong tay một sử liệu có thể một ngày kia ngòi
bút quí báu của các Ngài lưu lại cho hậu tấn một kiểu vở, một khuôn
mẫu y theo tinh thần cố hữu của Tổ Phụ đã để lại, cái chí quật cường
80 năm đô hộ khiến cho Đồng Bào chúng ta muốn giải thoát thâu hồi
độc lập và Hoàng Đồ của Tổ Phụ lại, một giang san gấm vóc như thế,
nên buộc chúng ta hy sinh xương máu, từ cổ kim vẫn vậy, Luật thiên
điều dưới thế nầy chẳng đều cho mà ta xin đặng, ta chỉ phải mua phải
chuộc với một giá cho đồng giá trị với vật mà ta muốn thâu hoạch.
Nhưng ôi thôi ! Vật của toàn quốc dân đồng bào muốn thâu hoạch ấy,
vật đó quí giá không tưởng tượng cho nên phải trả một giá rất mắc là
cái giá xương máu trên 9 năm tranh đấu.
Thưa
cùng Đồng Bào, các nhà Văn Sĩ, các Vị cầm bút đang dìu dẫn cả tinh
thần trí não của chủng tộc ta buổi hôm nay. Có lẽ khi trong lúc rời
rảnh các Ngài có thể để một dấu hỏi ? Cái đường lối của Đạo đã tự
xưng là Quốc Đạo hỏi lấy cả tánh chất của nó đã hiển nhiên trở nên
một nền Đạo cho Quốc tế mà cái nạn nước của họ như thế nầy thì
phương pháp giải quyết của họ như thế mà chớ
?
Có lẽ
trong khi rảnh ấy các Ngài cũng để dấu hỏi ấy ? Trường hợp đó thử
nghĩ những kẻ trí thức tinh thần phải đi đường lối nào ? Phải dùng
giải pháp nào ? Nhứt là của Bần Đạo sau 5 năm đồ lưu trở về nước năm
1946 cả cái tình trạng của nước nhà các Ngài cũng hiểu thấu. Bần Đạo
xin thành thật buổi nọ Bần Đạo đã bí lối không ngõ thoát, một đàng
thì Việt Minh lợi dụng tinh thần ái quốc của toàn thể Quốc Dân Đồng
Bào chí hướng vô một điều là lập trường cứu quốc, nhờ cái năng lực
mạnh mẽ và quyền năng ấy họ đã nắm trọn sứ mạng của nòi giống và Tổ
Quốc trong tay từ Nam chí Bắc, nếu như cơ cấu tranh đấu của họ quả
là một cơ cấu Quốc Gia chơn chánh, thì sự thâu hoạch và thống nhứt
Hoàng Đồ đã làm rồi, đã thành tựu tồi.
Hại nổi
! Họ phải xu hướng theo hai chí hướng của hai khối nhứt là họ vẫn
thấy khối Cộng Sản lầm lạc, lfa nương nơi khối ấy mà họ định mạng
tương lai nước nhà chủng tôc là cái lầm nhứt
hết.
Nếu quả
nhiên cái định hướng của họ đem lại thắng lợi cho nước nhà, cho
chủng tộc thì Bần Đạo tưởng không nói rõ ra cả thảy Đồng Bào đều
biết, cũng như những kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi chớ không chi khác.
Ngó ngọn cờ độc lập mà vẫn lệ thuộc như xưa, thì làm thế nào tạo
hạnh phúc giống nòi đặng ! Hại nổi ! Khi về nước bên nầy gành giựt
cả quần chúng, thì bên kia cũng giành giựt cả quần chúng, bên nầy
Việt Minh, bên kia Pháp, khối Quốc Gia hai tình thế rất nguy hiểm
với hai lằng tên mũi đạn.
Thưa
cùng cả thảy Đồng Bào, thử như thế Đồng Bào mới chỉ con đường nào
cho Bần Đạo đi mà chớ, có một con đường duy nhứt là con đường có của
chúng ta mà Tổ Phụ chúng ta để lại. Con đường đã có trên 4.000 năm
lập Quốc và 4.000 năm Văn Hiến. Là con đường duy nhất là Bần Đạo
phải đi, mà đi con đường ấy, ôi ! không biết bao nhiêu đau khổ, đã
hy sinh cái khối xương máu của chiến sĩ Cao Đài làm thành, làm lũy
đặng bảo vệ sự sống của nòi giống dưới ngọn cờ "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa
Đại Đồng" nếu toàn thể đồng bào hiểu cái tâm lý của nó sẽ ứa lụy
cùng Bần Đạo mà chớ !...
Có một
phen Bần Đạo tuyên bố Quân Đội Cao Đài xuất hiện ra đặng làm tấm
bình phong chịu chết cho giống nòi khỏi chết, bảo vệ sống còn cho
nòi giống bảo thủ cái nhơn nghĩa của Tổ Phụ để lại. Có nhiều khi Bần
Đạo cũng lấy làm đau đớn lắm vậy.
Nhưng
nghĩ đến cái sứ mạng Thiêng Liêng cao cả ấy có chút an ủi mãi mãi
trong tâm não.
Các con
Chiến Sĩ Cao Đài từ Thượng Hạ Sĩ Quan dĩ chí đến Binh Sĩ, một phen
nữa Thầy xô các con ra hy sinh cứu nòi giống và Tổ Quốc các con.
Tương lai vận mạng như vầy các con tiếp tục tranh đấu cho kỳ được
đặng thâu độc lập cho giống nòi cho Tổ Quốc các
con.
Tại
Văn Phòng Hội-Thánh Phước Thiện Ngày 12 tháng 1 năm Aát Mùi
(1955)
(Lễ
Khánh Thành các Dinh Thự)
29.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
HỘI-THÁNH
PHƯỚC-THIỆN DO ĐÂU MÀ CÓ
Ngày
nay là ngày Lễ Khánh Thành các Dinh Thự cùng trong cuộc Lễ Khánh
Thành Đền Thánh.
Khởi
đầu Bần Đạo đi viếng các Dinh Thự nơi Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng
Đài, Bần Đạo chỉ đến viếng chớ không thuyết Đạo, đến đây là văn
phòng Hội Thánh Phước Thiện, Bần Đạo cho toàn Chức Sắc đương quyền
Hành Chánh Đạo được rõ mục đích của Hội Thánh Phước Thiện do đâu mà
sản xuất, bởi trong Pháp Chánh Truyền Chí Tôn lập Hội Thánh Hiệp
Thiên Đài, Hội Thánh Cửu Trùng Đài mà cửa Thập Nhị Khai Thiên đặng
đem Cơ Cứu Khổ để tại mặt thế nầy mà cứu vớt toàn cả 92 ức nguyên
nhân con cái của Ngài. Chí Tôn giao phó cho Hiệp Thiên Đài mà trong
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài chỉ có 15 Ngài Thập Nhị Thời Quân với Thượng
Phẩm, Thượng Sanh và Bần Đạo, trong 15 thì có 4 - 5 ngoe lãnh lịnh
mà thôi. Đức Chí Tôn kêu Anh Cao Thượng Phẩm lãnh trách nhậm lo cứu
thế kế Anh qui Thiên để lại cái gánh nặng nề cho Bần Đạo, Bần Đạo đã
thường nói hôm nay ngày chúc xuân và nơi Đại Đồng Xã, Hội Thánh Cửu
Trùng Đài của Giáo Tông, Hội Thánh Phước Thiện của Hộ Pháp tức Hiệp
Thiên Đài đó vậy, Hội Thánh Phước Thiện là thay thế cho Hiệp Thiên
Đài lo cứu khổ để giải khổ cho toàn cả nhơn loại, mà Hiệp Thiên Đài
chỉ có lãnh lịnh 4 - 5 vị làm sao lập thành cơ cứu khổ được cái Bí
pháp, Chi Pháp Chí Tôn đưa ra biểu phải làm mà trong Pháp Chánh
Truyền không có định, Bần Đạo chỉ lấy Bài Thi Văn của Đức Chí Tôn
dạy mà lập thành dầu cho cả Chơn Hồn đã siêu lạc nơi nào sau nầy
cũng phải nơi cửa Phạm về cùng Ngài.
Bài thi
văn như vầy :
Tỉnh
ngộ xá thân tại Phạm Môn,
Khuyến
tu hậu nhựt độ Sanh hồn,
Vô lao
bất phục hồi Chơn mạng,
Tính
thế kỳ nhân đắc Chánh tôn.
Vì Bài
Thi Văn của Đức Chí Tôn dạy đó mà Bần Đạo mới lập ra Phạm Môn, có
Phạm Môn rồi mới có sản xuất Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Nếu
không có Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng thì không thế nào lập thành
Hội Thánh Phước Thiện được, bởi chữ Phạm Môn là Phật, Phạm Môn là
cửa Phật chớ không phải Phạm là họ Phạm, buổi đó cũng có nhiều tiếng
phân vân nói bần Đạo lập Phạm Môn tức là lập theo họ Phạm của Bần
Đạo, Bần Đạo cũng như tấm bình phong đứng giữa hứng chịu. Sao Bần
Đạo không đầu kiếp các nơi họ Nguyễn, họ Trần mà đến ngay nhà họ
Phạm mà để khiến cho Bần Đạo phải chịu oan ức. Những tiếng phân vân
ấy, Bần Đạo cũng chẳng mang, cứ lo cho kỳ được, bởi vì sự công chánh
Bần Đạo đứng giữa đây Bần Đạo phải nói Bần Đạo nói thiệt cả sự
nghiệp của Đạo còn tồn tại đây là do nơi tay của Phạm Môn nếu không
có Phạm Môn thì Bần Đạo không đứng vững, Đức Chí Tôn đã định cho Bần
Đạo thâu 72 vị Môn Đệ mà chia ra hành sự 36 - 37 buổi đó Thầy trò
chịu cực khổ tầm phương để tạo nghiệp mà bị chúng sanh đánh đổ đến
đổi vận lương thực lục tỉnh đem về Tòa Thánh mà cũng bị ngăn cản
quyết bỏ đói cho chết, mà tội nghiệp thay họ họ không thối chí nản
lòng, cứ cương quyết theo Bần Đạo cho đến ngày lập thành Hội Thánh
Phước Thiện. Thật nổi khổ tâm của Anh Em Phạm Môn chỉ lấy hai bàn
tay trắng mà tạo nên sự nghiệp cho Đạo, họ chỉ bắt gió nắn hình, lấy
không làm có ngày nay Cơ Quan Cứu Khổ đã thành tướng nơi Hội Thánh
Phước Thiện các trách nhậm trọng yếu phải lo hiện trước mặt gần đây
là Bảo Cô Nhi bên kia là Khách Đình về mặt Tang Tế đều phải lo mọi
hình thức, nên Bần Đạo nói mấy người mà về ở nơi Tòa Thánh liệu lo
bề uống thuốc mạnh thì thôi, coi bộ nhắm về không mạnh liệu bề không
kham họ sẽ đem bỏ đại tại Khách Đình cho Hội Thánh chôn cất làm sao
thì làm, đã vậy còn phải lo cái nhỏ kia là Trí Huệ Cung cũng bảo góa
phụ giành cho người góa phụ cũng là Nữ Phái Chơn Tu tức là nhà Tu
của Nữ Phái.
Trên
một hình tướng đang khởi tạo là Vạn Pháp Cung trên núi nhà Dưỡng Lão
tức là nhà Tu của Nam Phái. Cả hình tướng ngày nay đã biểu lộ trước
mặt toàn cả nhơn sanh ai ai họ cũng đều cảm kích hòi trước kia có
tướng mà không có hình, ngày nay hình tướng nên được thì sự tiến hóa
của Hội Thánh Phước Thiện từ đây sẽ vững chắc không còn lại một trở
lực nào mà làm cho Cơ Cứu Khổ của Chí Tôn phải ngưng bước và Bần Đạo
sẽ cho Hội Thánh Phước Thiện hay rằng : Từ đây Hội Thánh Phước Thiện
sẽ được bảo đảm.
Ngày
15 tháng 1 năm Aát Mùi (1955)
30.-
ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT MINH
CÔNG-NGHIỆP
CÁC THÁNH TÔNG ĐỒ
TRONG
KHI LÀM LỄ THIÊU XÁC
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng
Phái,
Các em
toàn cả con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ,
Thanh
Niên của Đạo.
Chắc có
lẽ cả thảy con cái của Đức Chí Tôn đều để dấu hỏi ? Cái nghĩa lý của
cuộc Lễ Khánh Thánh Tòa Thánh và Lễ Thiêu Xác của các Thánh Tông
Đồ.
Có lạ
chi, không cần kiếm đâu xa hơn nữa ở nơi mặt thế nầy dầu cho Đạo nào
họ cũng thường để một cái mơ vọng là kiếp sanh của mình làm thế nào
cho ngộ Đạo.
Một cái
câu Sấm Truyền từ xưa để lại có nói rằng :
"Hữu
duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ,
Muôn đời còn tử phủ nêu danh"
Ngộ
ngĩnh cho chúng ta nên để ý là cái khéo lựa chọn và biết tìm đường
và ngộ Đạo ấy.
Cả toàn
thể quốc dân của chúng ta hạng đại đức cũng nhiều, hạng học thức
cũng nhiều, nam cũng thế, nữ cũng thế. Vì sao họ không giành chỗ của
Oâng Lê Văn Trung, Oâng Cao Quỳnh Cư, bà Lâm Hương Thanh, Oâng Lê Bá
Trang, không lẽ trong thế gian nầy có người đó, mà còn nữa.
Oâi !
Tưởng cả công nghiệp của cả kiếp sanh dành để như họ, nếu có kẻ
thiệt biết tìm cái đại nghiệp Thiêng Liêng của mình, biết bao nhiêu
dự thèm thuồng của thiên hạ, danh giá họ đặng như thế, Đạo của ta và
phận sự của ta dầu chi ta cũng là hiện thân của họ, phải chăng chúng
ta đã làm giá trị Thiêng Liêng của họ thêm quí báu thêm tối trọng,
thêm cao thượng hơn nữa.
Cả con
cái của Đức Chí Tôn đều hiểu nơi Bát Quái Đài là Hồn của Đạo tức
nhiên là Tòa Ngự của Đại Từ Phụ và là nơi Đức Chí Tôn và các Đáng
Thiêng Liêng Ngự, Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật họ đã tìm họ đã đọat
đặng một chỗ nơi đó đặng họ ngự. Không phải dễ gì trong kiếp sanh
hữu duyên đặng đọat được như thế.
Đám
Thanh Niên, Nam, Nữ Lưỡng Phái suy nghĩ coi, tìm một công nghiệp
tương lai, cái trọng, cái khinh, cái bền, cái bở, cái giá trị, cái
vô giá, tưởng khi cả tinh thần toàn thể con cái Đức Chí Tôn đều đã
quyết định rồi mà chớ.
Ngọn
lửa sẽ thiêu các các Thánh ấy, nó sẽ biến thành ngọn lửa thiêng nó
sẽ làm sáng chói Đạo Cao Đài đặng kêu gọi cả tinh thần nhơn loại tìm
một con đường giải thoát của họ, con đường cứu khổ của họ mà nó cũng
sẽ là ngọn lửa thiêng liêng dìu dẫn cả tâm hồn con cái Đức Chí Tôn
luôn cả Thánh Thể của Ngài nữa.
Cái
danh giá của họ Bần Đạo không luận cái công nghiệp của họ cũng thế,
Bần Đạo cũng không muốn nói tới. Chỉ thấy một điều là tiếng gọi
Thiêng Liêng của Đại Từ Phụ buổi ban xưa trong thời nòi giống Việt
Nam ta còn đương bị
trong ách lệ thuộc. Danh giá của họ, sự nghiệp của họ, có thể bị
quyền lực áp bức làm cho nó tiêu hủy họ có thể khổ não cả sanh mạng
của họ, khổ não luôn về tương lai danh phận của họ mà họ vẫn coi cái
đó là thường. Duy có tiếng gọi Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn là trọng
hệ. Nhứt là phế Đời hành Đạo. Cả con cái Đức Chí Tôn sẽ để dấu hỏi.
Oâng nầy là thế nầy, ông kia là thế khác và sẽ để dấu hỏi ? Uûa ...
làm sao Hộ Pháp để trọn vẹn công nghiệp đó hơn tất cả định hạng sao
Hộ Pháp để cho họ đồng phẩm với nhau như
thế.
Bần Đạo
chỉ nói dứt một điều là về Pháp Luật, Bần Đạo làm Hộ Pháp dầu cho
buổi nọ họ loạn bao nhiêu chỉ dùng có quyền lực đặng bảo thủ nền
Chơn Giáo của Đức Chí Tôn mà thôi. Ngoài ra họ là bạn, họ là đoàn
anh, tình đó cao trọng hơn hết. Thứ nhì nữa là cả tội tình cái kẻ
nghịch Đạo trước mắt Bần Đạo vô giá trị. Giá trị thiệt hay không là
ngọn lửa thiêng ấy làm cho bùng dậy Quốc hồn nước Việt-nam tinh-thần
tối cổ và văn-minh tối coorcuar nòi giống, cái đó là hệ-trọng hơn
hết.
Cả con
cái Đức Chí-Tôn nên nhớ điều đó.
Đền
Thánh đêm 30 tháng2 năm Aát-mùi (1955)
31.-
ĐỨC HỘ-PHÁP THUYẾT MINH VỀ
ĐẠI HỘI
LONG-HOA
Oång đã
nói Oûng là Ông già nghèo, Oång đến Oûng dùng có cái Cơ dặng lập
Thánh-thể của Oûng, mà Oång giao phó cho một trách nhiệm tối ư quá
quan-trọng là phải lập nghiệp cho toàn cả con cái đau khổ của Oång.
Mấy em mới nghĩ lại đó coi, chúng Qua không phải là làm chúa ở toàn
cầu nầy, hay làm chúa một nước, cũng hai tay trắng mà thôi,
hiển-nhiên hôm nay chúng Qua đi được một đổi đường, nhờ Đại Từ-Phụ
dìu-dắt và nhờ tay của mấy em đã hy-sinh từ giọt mồ-hôi , giọt nước
mắt mới tạo dựng nên nghiệp Đạo như thế nầy. Nếu chúng Qua nhìn rằng
sự thật thì ta nói nó không phải đủ giàu sang mà ngày hôm nay có thể
làm một bóng mát, một cái Nhà Thờ Chung cho con cái khổ não của
Ngài, để nương bóng Từ-bi của Ngài đặng.
Mấy
em cũng đủ biết giá-trị hy-sinh của mỗi người mấy em như thế nào,
Qua chẳng cần phải dài luận cho lắm, thì đáng lẽ ra thời buổi
loạn-ly nầy, nhứt là Qua và Thánh-thể Đức Chí-Tôn đã biết cái thân
phải truân-chuyên của mấy em là thế nào, cái phương sanh sống của
mấy em đã bị phá hoại
như thế nào, cái khó khăn của mấy em phải bảo vệ cả sắp nhỏ tức
nhiên tương-lai hương-hoả của Đạo là thế nào. Lý ra chúng Qua không
làm mấy em khổ trí nhọc tâm nữa để từ-từ bước đến nhờ ân Đức Chí-Tôn
dìu-dẫn đi, xin miễn đi từ từ nhi tấn mà thôi, đừng đứng chựng lại
đó.
Trót
30 mươi năm Qua sống chung với mấy em cũng như Thánh-thể của Ngài,
mấy em dòm lại coi, đoàn Anh của mấy em già nua, chính mình Qua đây
đã 66 tuổi rồi, chẳng lẽ tuổi Qua lột da sống đời đặng vùa giúp tay
chơn đầu óc với mấy em mãi mãi. Cái đại nghiệp nầy lưu lại cho mấy
em hay chawnglaf do kế chios của mấy em, mấy em cố gắng đặng lưu lại
cho máu mủ, không biết chưng nào đường lối Tổ-Tiên mấy em đã trở
bước lại đây họ được hưởng một cái hạnh-phúc, công-nghiệp của mấy em
chút nào hay chút nấy, ngặt một nỗi là cả cái phận-sự thiêng-liêng
của Đức Chí-Tôn
giao phó trong đáy có nhiều điều buộc ta phải cố-gắng làm cấp
cấp ngày giờ Đức Chí-Tôn đã định mới đặng. Mấy em cũng đã biết trong
Kinh Đại-tường Đức Chí-Tôn đã nói rõ:
Nói như
thế đó, chính mình Đại Từ Phụ đã nói rằng : Quả kiếp Nhơn Quả của
con người Luật ấy hiển nhiên vẫn có thiệt đó
vậy.
Đêm
15 tháng 4 năm
Ất-mùi (1955).
35.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
CHỮ
HIẾU
Đêm
nay Bần Đạo giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ để ý nghe cho lắm. Đêm
nay Bần Đạo giảng chữ Hiếu, đương nửa thế kỷ 20 nầy, Đạo Đức suy vi,
Nhơn-luân điên đảo, Phong Hóa Cổ Truyền do nơi tinh thần chơn chất
hiền lương của Cổ Nhân đã để lại bị Văn Minh Khoa Học nó làm cho cả
tinh thần Đạo Đức đều mất quyền nghĩ cả khoa học từ thế kỷ 20 nầy,
nó đã đem lụng lại cho nhơn loại những gì ? Thật ra cái sanh sống
của nhơn loại nó có thay đổi, nó có hướng về Duy Vật nhiều hơn là
tinh thần khoa học nếu để tâm suy gẫm thì ta ngó thấy, nó có thể tạo
hạnh phúc cho xác thịt nhơn loại mà nó làm cho tiêu hủy cả tinh thần
loài người cũng có.
Những
nhà Triết Học Aâu Châu nhứt là Pháp, đã nói một câu rất chánh đáng,
chánh đáng mà có khuyết điểm khoa học lắm lẵm đó vậy. Họ nói rằng : "La science sans
conscience est le plus grave danger de l'existence humaine" khoa học
không có thiên lương là một đều nguy hiểm cho sự sanh tồn của nhơn
loại. Thật quả vậy, nếu như nhơn luân của cả toàn nhơn loại mà không
có phương pháp cố thủ nó lụng lại đặng, nó đã điên đảo rồi, cái nhơn
luân ấy làm sao nó làm căn bản cho nhơn
loại.
Nay
vì thiếu Nhơn Đạo, nhơn loại không biết yêu ái với nhau, chỉ tranh
sống, chỉ tranh mạnh, mong làm bá chủ của toàn cầu, gây biết bao
chiến tranh khổ não, chẳng phải hao về sanh mạng mà thôi, mà hao cả
phú hữu nơi mặt đất nầy mà chớ, biểu làm sao nhơn loại không thống
khổ cho đặng. Ai đời họ đã làm một điều trái hẳn Luật Thiên Nhiên
của Tạo Đoan mà chính mình Đức Thánh Nava ở tại Đền Thánh La Mã đã
buộc phải lên tiếng, đó là sanh dục không cần nam, nghĩa là người
đàn bà không cần có chồng mà muốn có con khoa học có thể cho có con
đặng. Nếu như cái tình trạng ấy quả nhiên xô đẩy nhơn loại đi tới
một cái địa điểm chúng ta sẽ ngó thấy gì ? Chúng ta ngó thấy Đạo
luân thường của nhơn loại sẽ bị hủy đi mà chớ. Đi tới mục đích đó
biểu sao cả tinh thần con người không hướng về vật hình rồi cái Đạo
nhơn luân không đếm xỉa đến, thử hỏi nếu một trẻ sơ sanh không có
cha, cha nó là một cái ống bơm kia mà thôi, thử cái Đạo nhơn luân
của nhơn loại đã ra sao mà chớ.
Bởi
cớ cho nên mới sản xuất ra cái thuyết Duy Vật của Cộng Sản đáng lý
lắm vậy, trót đã xô đẩy tới cảnh tượng đó, không cần biết Tổ Phụ
Tông Đường Cha Mẹ là chi nữa hết ? Oâng nội cũng đồng chí, Bà nội
cũng đồng chí, đồng chí mẹ, đồng chí anh đồng chí em, cả thảy đều là
đồng chí. Cái thuyết Duy Vật ấy do nơi thất Đạo nhơn luân mà sanh ra
đó vậy.
Bây
giờ nói tiếp qua cái giá trị chữ Hiếu, Văn Minh Nho Tông của chúng
ta là gì ? Tưởng cũng không cần gì nói cho mấy người lớn nghe, Bần
Đạo chỉ giảng cho đám Thanh Niên Nam, Nữ mà
thôi.
Mấy
đứa nhỏ có biết Cha Mẹ đã sanh ra nuôi nấng được cho nên hình, nên
vóc, cái cam khổ của Cha Mẹ như thế nào mà chớ.
Hễ
có rầy la có dạy dỗ, có nhiều đứa cường ngạnh lén lút ra ngoài nói :
Oång vầy, bả khác, gắt gao, ăn hiếp, rủa xã, có nhiều khi ra sau lén
lén ngồi rủa đủ thứ. Tới chừng biết khôn ngoan đến tuổi già, cả tâm
não và lương tâm của mình sẽ cắn rứt và sẽ hình phạt một cách chừng
đó mới khôn ngoan.
Hại
thay ! Oâm một đứa con đỏ từ vú sữa mớm cơm, nuôi cho nên hình, nên
vóc, thật ra không biết bao nhiêu khổ não truân chuyên của Cha Mẹ,
có nhiều khi phải hy sinh cả hạnh phúc của mình, để cả trí não, cả
tâm hồn, cả giọt mồ hôi nước mắt để nuôi con, biết bao nhiêu gia
đình không phải dỡ, mà vì nghèo vì con nên khổ, mấy đứa nhỏ có biết
điều ấy đâu. À mà có biết chăng là khi nào mấy đứa bây có chồng có
vợ, tới chừng bây giờ có con đó mới biết cam khổ nuôi dạy con bây
như thế nào, bây mới biết ơn Cha Mẹ là nặng. Tiên Nho có nói :
"Dưỡng tử phương tri phụ mẫu ân" có nuôi con là thế nào mới biết ân
trọng của Cha mẹ, những nhà Đạo Đức xưa kia trong cửa Đạo Nho Tổ Phụ
ta hay để lời than, hễ đọc đến làm cho ta khổ não cả tâm hồn : "Ai
ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân hiệu thiên võng cực",
không có thế gì mà tưởng tượng được cả, tả ra cả, tâm hồn chí hiếu
gặp một cái nước cũng như nước Việt Nam cả thảy đều có hạnh phúc là
ăn no mặc ấm, dầu cho miệng lưỡi đã nói một tiếng khổ chớ một sắc
dân hạnh phúc hơn các sắc dân toàn cầu đa số
vậy.
Bần
Đạo còn nhớ cái năm 9 tuổi, không biết thất mùa ra sao, mà cả thảy
thiên hạ đều đói, Bần Đạo nghe được một cái tình trạng rất khổ não
lương tâm là có một gia đình con nhiều lắm không đủ nuôi con, bị lúa
cao gạo kém, buổi nọ con nó đã nhịn đói đôi ba bửa, mà thứ con nít
nhịn đói thử như thế đó không la làng la xóm sao được, la rầy um xùm
nên cha mẹ chịu không nỗi, bây giờ kiếm cơm cho con ăn mà không ra,
rồi gạt nó cũng chụm lửa lên ở trong bếp lấy trấu bỏ trong nồi cơm
vậy, bắt lên rồi mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh giữ nồi cơm rồi lén lút
ra sau hè thắt cổ tự vẫn. Mấy em có biết điều đó đâu, cái Hiếu nếu
mấy em không trả cả một đời mấy em chưa hề khi nào nên người bao giờ
"Nhơn sanh Hiếu nghĩa vi tiên" không Hiếu Nghĩa không làm gì nên
người được.
Bần
Đạo thuật một cái bài học hồi còn học trong Trường Nho Thầy của Bần
Đạo dạy : "Tâm đạo cảm Thiên, Hiếu đạo cảm Thiên" ở trong cổ nhơn vị
Sư ổng dạy một tích làm từ đó cho tới lớn không buổi nào quên
hết.
Nhà
Đại Minh Hùng Võ có một người học trò khó mẹ góa con côi học giỏi
lắm, duy có nghèo, lớp nào lo học, lớp nào làm mướn nuôi mẹ với nuôi
thân. Khi nọ người mẹ đau bịnh quá vãng. Cái tục lệ nhà Minh buổi
nọ, ở ngoại thành không được phép vô nội thành, chỉ cách có một dãy
trường thành mà thôi. Hễ ai vô nội thành mà rách rưới xin ăn đều bị
đuổi tống ra, ai mặc đồ tang phục mà vô nội thành cũng bị đuổi ra.
Người học trò khó ấy tính vô nội thành đặng hành khất về chôn mẹ, mà
hễ bận đồ tang phục vô thì bị đuổi. Bây giờ anh ta mới gọi là "Tâm
tang" anh ta xé một miếng khăn tang bằng ngón tay, rồi mới xẻ cái vú
ra một đường nhét vô trổng, ngoài mặc áo học trò như thường để vô
nội thành, gọi là Tâm tang, đi vô nội thành đặng đi xin về chôn
mẹ.
Nhơn
khi đó nhóm ngoại ô ngay chỗ đó lửa phát cháy, cháy một cách dữ dội
lắm, làm cho Oâng Đại Minh Hùng Võ lên hoàng cung hoảng hốt. Thấy
dân chúng khổ não Oång cầu nguyện với Trời đặng cho ngọn lửa tiêu
xuống đi, Oång vừa ngó trên ngọn lửa Oång thấy Quan Thánh Đế Quân,
Quan Bình và Châu Xương hiện hình đứng trên ngọn lửa đặng làm cho
ngọn lửa ấy tắt, thì khi đó đã cháy hết xung quanh rồi, chỉ còn có
một nhà mà thôi, cái nhà ông học trò khó có thây chết của Mẹ. Oâng
Đại Minh Hùng Võ đứng trên cái dịch đài Hoàng cung dòm thấy Quan
Thánh, Quan Bình và Châu Xương đứng trên ngọn lửa, ổng bái, ổng lạy
đặng cám ơn, nhưng mà ổng vừa lạy ổng vừa ngoắc thì Đấng ấy đến ngay
trước mặt của Oâng Hùng Võ, rồi Quan Thánh bái Oâng Hùng Võ nói : Em
chào Đại Ca, rồi Oâng Đại Minh Hùng Võ liền biết mình là Lưu Bị tái
kiếp, mới hỏi lụng lại Quan Thánh : Tam đệ hà tại ? Hỏi vậy tam đệ
là Trương Phi bây giờ ở đâu ? Trấn Bắc Tướng Quân tên ... gì đó (lâu
quá Bần Đạo quên) nói rồi ba hình liền biến mất. Oâng Đại Minh Hùng
Võ nghe tin đó cấp thời gởi ra ngoài biên thùy đòi Trấn Bắc Tướng
Quân về, rồi bị tụi nó xàm tấu không biết chừng đòi cấp thời đây,
đòi về đêm ngày sợ gian thần sủng nịnh nó tâu vô tâu ra sợ về mang
hại nó mới đồ mưu làm để ổng nằm trong cái hòm rồi đệ tờ sớ nói ổng
chết, nó dặn ổng nếu nhược bằng như yên thì Ngài sống lại, không yên
chúng tôi chở Ngài về biên thùy.
Vì
cớ cho nên hòm hồi xưa họ có soi lỗ dưới đáy đặng cho có lỗ hơi, cái
tục lệ đó như vậy ? Khi ông nọ về triều đình Oâng Đại Minh Hùng Võ
mừng rồi Oång khóc lóc là nghe tin bạn chết, mừng là thấy Trấn Bắc
Tướng Quân đã về tới, dầu chết đi nữa còn thấy thi hài của em, tưởng
đâu là mưu như vậy ai ngờ khi vở nấp hòm thì đi dọc đường bọ để lên
để xuống bị nghẹt hồi nào ông kia chết thiệt. Một mặt ổng đòi ông
nọ, một mặt ổng sai đi ra đặng tra gạn coi tại sao hết thảy nhà cháy
mà nhà đó còn. Tới chừng tra ra thì lòi ra người học trò khó vì
Hiếu. Oâng vội đòi rồi tức thì phong quan hàm Văn Minh Điện Đại Học
Sĩ, sau lên tới Giáng Nghị Đại Phu, vậy thấy cái Hiếu, cái Hiếu động
Trời, động Đất như thế đó mấy em bất Hiếu, cả thảy bất Hiếu Trời Đất
xử định mấy em ra sao ?
Từ
đây tới sau dặn đừng có kỳ kèo đối với Cha Mẹ. Hễ còn thanh xuân
chưa lịch lãm thế tình, hãy nương nơi cái hay cái biết của Cha Mẹ.
Cường ngạnh tới chừng sau rồi có một trăm tuổi già ngồi khóc lên
khóc xuống cũng không ích, ăn năn tự hối như Bần Đạo đây có nhiều
khi ngồi nơi nào nhớ, moi óc nhớ coi Cha nói gì, Mẹ nói gì, tìm gần
trối chết, tìm đặng nhớ.
Còn
bây giờ đã có dạy dỗ khuyên lơn, rầy la kỳ cào, quạo quọ, ở trong
cửa Đạo nầy Bần Đạo xin dứt cả thảy mấy em Thanh Niên rán giữ chữ
Hiếu làm gương mẫu.
Tại
Báo ân Từ Lúc 4 giờ chiều, ngày 17 tháng 4 năm Ất Mùi
(1955)
36.-
ĐỨc hỘ pháp phỦ giáo VỀ TRÁCH-NHIỆM CỨU-KHỔ
CỦA CƠ
QUAN PHƯỚC-THIỆN
Sau khi kiểm soát
phận sự của Hành Thiện lãnh ủng hộ Đồng Bào Bắc Việt và Hành Thiện
lãnh Thập Nhị Gia Liên Bảo.
Mấy
em ngồi im lặng để Qua nhắc thêm trách nhậm của mấy em, mấy em đã
biết rằng, Hội Thánh Phước Thiện tức nhiên là Hội Thánh của Hiệp
Thiên Đài. Trước chưa xuất hiện Hội Thánh Phước Thiện mà Hiệp Thiên
Đài vẫn có người làm, sau lập thành Hội Thánh được Chí Tôn định đâu
sẵn rồi nên giao phó trách nhậm ấy cho Qua, tức là chính mình Hộ
Pháp là người làm đầu trong Hiệp Thiên Đài, trách nhậm đó có nặng nệ
làm sao đâu. Khi ấy có 3 người Hiệp Thiên Đài lãnh phận sự Thầy, Chí
Tôn nói : "Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi đó
hết khổ" và Chí Tôn cho biết rằng : "Cái khổ ách của nhơn loại là
cùng khắp thế gian, nên Thánh Ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con
phải làm thế nào nêu ngọn cờ cứu khổ để giải khổ cho nhơn sanh cùng
khắp mặt địa cầu này".
Qua
không hiểu Qua là thế nào mà khi Thầy biểu Qua phải lãnh làm rồi
Thầy sẽ dạy Pháp biến thân con ra vạn ức ... Buổi nọ Chí Tôn dạy
phải vưng, chớ chưa hiểu Pháp biến thân của Chí Tôn đã ban cho ra
thể nào. Khi chưa có Hội Thánh Phước Thiện Qua rất ngại, đến chừng
Chí Tôn dạy muốn lập Hội Thánh phải lập Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng
Liêng trước, thật là quyền năng Chí Tôn vô đối, khi ban cho Qua
không bao lâu mà lập thành được Hội Thánh Phước Thiện, tức nhiên là
Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, thì bây giờ đây đã có mấy em sẽ nối gót
phụng sự Hội Thánh Phước Thiện chung lo gánh vác Cơ Cứu Khổ để thay
thế cho Qua gần gủi Chúng Sanh để phụng sự, gánh sự khổ não của con
người thì thấy rằng : Chí Tôn đã giúp cho Qua thêm được nhiều tay
chơn để lo cứu khổ cho mau ra chơn
tướng.
Ở
bên kia Hội Thánh Cửu Trùng Đài đi từ phẩm Lễ Sanh đến Giáo Tông,
bên nầy Hội Thánh Phước Thiện đi từ Minh Đức đến Phật Tử mà mấy em
cố gắng với trách nhậm của Qua đã định cho mấy em, dầu cho các sắc
dân trên địa cầu này mà biết chen vai gánh vác sự khổ của đời thì họ
cũng đọat Tiên tử được. Vậy mấy em thật hành được thì cơ quan cứu
khổ sẽ thành lập đó vậy. Cái trách nhậm rất nặng nề mà mấy em rất
hữu phước nên Chí Tôn ban cho mấy em được đứng vào trong Thập Nhị
Đẳng Cấp Thiêng Liêng. Qua muốn sau khi Qua về Thiêng Liên mà được
thấy mấy em nối nghiệp cho Qua thì Qua rất vui mừng lắm vậy. Huyền
Bí Thiêng Liêng đã định, chỉ có một mình vị Phật Tử, nên sự vui hứng
của Qua là muốn thấy có một đứa em làm xong phận sự đoạt vị Tiên tử
sống tại thế gian nầy.
Mấy
em ráng nhớ đừng bắt chước làm quyền theo quan lại, mấy em phải yểm
tình dục quyền tước lại, cũng như Qua yểm trên Thất Đầu Xà, chỉ mình
tập tánh Thương Yêu mà thôi, đừng hờn giận ai, cứ bình tĩnh chịu
những sự khó của ai đã làm mà mấy em phải
gánh.
Trước kia Qua ôm lấy trách vụ Đức
Lý Giáo Tông cho Qua phải làm mà Qua chưa hề đem ra thi hành, Qua
muốn mỗi việc khó của mấy em đều có Qua ngồi chung với mấy em, nếu
có thể ngồi dưới đất cùng mấy em, ăn muối cũng vui với mấy em được
vậy, ngày nay mấy em đã đem trọn thân thay thế cho Qua lo Cơ Cứu
Khổ, đã hạ mình nơi chỗ thấp mà mấy em chung lại ngồi bốc cơm nguội
ăn cũng cư vui lên, nên nhớ đã nghe những cái cực khổ gánh vác nặng
nề nầy là chúng tôi chung sức gánh cho Thầy tôi, dầu cảnh khổ não
mấy em cứ đổ trúc cho Qua đi cho nhẹ bớt, ấy là quyền Thiêng Liêng
định vậy, hiểu chưa ? Nếu mấy em tính có Các Đấng Vô Hình ám trợ dầu
gặp việc khổ cũng bớt khổ.
Mấy
em hỏi lại mấy Anh của mấy em coi sự khổ của mấy Anh rất đáo để từ
hồi tạo Đạo đến giờ hỏi Hiền-Nhơn Cương coi tụi nó chỉ bắt gió nắn
nên hình chớ chưa ? Phận sự của mấy em đang lo Cơ Cứu Khổ cho Hội
Thánh Phước Thiện thì mấy em phải làm, Hội Thánh Phước Thiện cũng
nên giúp đỡ, mấy em nghĩ coi, từ thử đến giờ mấy em có vợ chồng lo
cặm cụi sự làm lụng, cực nhọc lo một gia đình mà không rồi, may lãnh
thêm 12 gia đình này sao đặng.
Qua
thấy mấy em vượt qua Giáo Thiện không nổi thì Qua tạo 12 Gia Nghiệp
cho mấy em, tức là thuyền từ cho mấy em nương qua, bên nầy bực Hành
Thiện muốn thăng Giáo Thiện cũng như bên Cửu Trùng Đài phẩm Lễ Sanh
lên Giáo Hữu rất khó. Vậy nên Qua không tạo thuyền từ cho mấy em làm
sao qua ải được.
Hội
Thánh Phước Thiện không có định số, hễ phẩm Giáo Thiện, thì
cứ đi mãi cho đến Phật Tử, bên Hội Thánh Cửu Trùng Đài đã có số
định, hễ Nhập Môn rồi đoạt đến Lễ Sanh thì ở đó cứ ngồi đó mãi, vì
đã đủ 3.000 Giáo Hữu chờ có khuyết mới qua được, Giáo Sư 72 Vị, Phối
Sư 36 Vị, Đầu Sư 3 Vị, Chưởng Pháp 3 Vị mà ngôi Giáo Tông chỉ có một
mà thôi.
Phận
sự mấy em không lạ, mấy em có bổn phận làm cha tạo nghiệp cho 12 gia
đình, bảo thủ tài sản, chỉ dẫn công ăn việc làm cũng như lo cho gia
đình mình đó vạy, dầu việc chưa từng làm ráng cố gắng thì nên việc.
Qua căn dặn một điều nên nhớ, thoản như có một trong 12 gia đình mà
thưa gởi mấy em là thiếu phận, thiếu tình thương Đạo Đức, thì mấy em
phải lỗi ước với Qua. Trong gia đình gặp cơn hoạn nạn, đau khổ, mấy
em không ngó đến, rồi đây họ kiện mấy em đến Pháp Chánh thì mấy
em thất phận, mấy em
nhớ bổn phận làm cha, nên vẹn giữ cho trọn phận , chớ đừng biếng
nhác thì phải mang tiếng "Tử bất giáo, Phụ chi quá" cứ biết với bổn
phận mình là người lớn, phải lo cũng như lo nuôi dưỡng con cháu của
nhà mình, đã chịu cực khổ để điều với gia đình mình
rồi.
Thôi
mấy em nên thành tâm cầu nguyện rồi bãi
Hội.
Ngày
mùng 3 tháng 5 năm Ất Mùi
(1955)
37.- Đức Hộ pháp
huấn dụ Giáo chức & học-sinh
Đạo đức học
đường: HỌC VÀ
HÀNH PHẢI SONG SONG VỚI
NHAU
thưa cùng Viên Quan Chức Sắc quyền
Đời, nhứt là Bần Đạo để lời cám ơn Tỉnh Trưởng đã đến dự cuộc Lễ
Phát Phần Thưởng Các Học Sinh.
Thưa
cùng Hội Thánh Nam, Nữ Lưỡng Phái, Hiệp Thiên và Cửu Trùng, Bần Đạo
xin khiếu lỗi cùng các Ngài, Bần Đạo để lời cùng Ty Giáo Huấn và Học
Sinh Nam, Nữ.
Hôm
nay các em, các con trong Ty Giáo Huấn hơn ai hết, Thầy đã biết rõ
cái chí hy sinh của mấy con Nam, Nữ, các Giáo Viên, Thầy hiểu rõ hơn
ai hết, các con đã thiếy thốn mọi điều đối cùng sự cực nhọc của các
con thì không giá nào mà so sánh đặng. Trọng yếu của tương lai Đạo
là tức nhiên tạo tâm hồn của sắp nhỏ mà chính mình các con là tay
thợ đào tạo tương lai của chúng đó
vậy.
Các
con Học Sinh Nam, Nữ, các con sẽ lớn, đời tương lai nòi giống và vận
mạng Tổ Quốc của mấy con, hàng niên kỷ như Thầy, như Hội Thánh đều
để cả sở vọng của mình trong trí não tâm hồn các con đó vậy. Lẽ dĩ
nhiên bất kỳ một xã hội nhơn quần chủng tộc nào cũng thế, mỗi sắc
dân đều có văn hóa phong tục khác nhau cả thảy. Ta có thể so sánh
một phong hóa của một nước nào có thể cao thượng hơn của ta mà ta
không có thể gì nhìn nó rằng giống hệt của ta. Bởi mỗi tinh thần của
một chủng tộc nào, sắc dân nào, nó cũng có cái đặc điểm của nó hết,
nhứt là Chủng Tộc Việt nam đã thọ ảnh hưởng tối cổ của Nho Tông
chúng ta, cả thuần phong mỹ tục làm cái ảnh tượng tâm hồn Nòi Giống
Việt Nam, đều là khuôn khổ của nền Văn Minh Tối Cổ Nho Tông của ta
đó vậy.
Lẽ
dĩ nhiên là mỗi Tôn Giáo đều đào tạo một nền Văn Minh khác nhau, ta
có thể so sánh cả phong hóa văn hiến của mỗi chủng tộc, hay mỗi nền
văn minh ta có thể chia ra 2 đặc điểm, có nền văn minh xuất hiện ra
một tôn giáo, có nền văn minh xu hướng theo xã hội, hơn là xu hướng
theo Đạo Đức tinh thần. Nòi Giống và xã hội của cả mấy con có phải
lạc hậu chăng ? Chưa chắc, nếu quan sát cho tận tường thì ta ngó
thấy cái khuôn khổ xã hội của Nho Tông chúng ta, nó có thể nó làm
một nền tảng cho tương lai cả xã hội nhơn quần kia nữa mà chớ. Chỉ
ta có chịu thiệt thòi một điều là nền văn minh cao thượng ấy, ta
chưa biết đem nó ra đặng cho cả thiên hạ điều biết cái giá trị của
nó, chỗ khuyết điểm là do nơi đó mà thôi ? Đương nhiên hôm nay ở
trước mắt các con đã ngó thấy trong nước các con. Nếu Thầy nói nó ở
trong tâm hồn các con giờ nầy có hai cái ảnh hưởng Thiêng Liêng về
hai nền Văn Minh sở hữu của mấy con là
Nho.
Buổi
giao thời cả phương pháp huấn nó chưa thiệt hiện tướng diện nó ra
cho thiệt chắc đặng làm con đường, con đường tinh thần thiên nhiên
phù hạp với cả trí não tâm hồn của nòi giống chủng tộc các con, Bần
Đạo ngó thấy rằng, cái pha lộn của phương pháp giáo huấn, Pháp còn
tồn tại, Bần Đạo cũng nhìn thấy nó đã ăn sâu vào tâm hồn của nòi
giống ta. Sau 80 năm đã chung sống cùng Pháp, nhưng nó chưa hề chắc
rằng, nó làm cho tâm hồn của ta phải xu hướng trọn vẹn theo nó, bởi
vì cả phong hóa văn hiến đều khác hẳn với ngôn ngữ với trí thức của
chúng ta.
Aáy
vậy, phương pháp hay ho hơn hết, là nơi các con làm thế nào dung hòa
hai nền văn minh ấy tức nhiên hai cái phương học thức ấy. Bần Đạo đã
quan sát ở Đài Loan, ở Nhựt, ở Nam Triều Tiên rồi mới cân coi
phương-pháp họ đã cải tổ cả nền văn minh của họ thế nào, và họ đã
dìu đường cho hạng thanh niên của họ về phương học thức thế nào. Bần
Đạo ngó thấy một cái hay của họ hơn hết là những điều chi ngoài họ
chỉ để ngoài, lại với cái hàng rào kín đáo, cái chi ở trong họ giữ
một cách đáo để kỷ lưỡng ở trong.
Cả
cái duy tân của họ bề ngoài nếu bất kỳ nước nào, để bước chân tới xứ
sở của họ, thì ngó thấy hoàn toàn là duy tân, từ cách ăn mặc, tánh
tình cho tới cử chỉ đều là duy tân hết. Duy có một điều quí hóa hơn
hết thảy mà Bần Đạo lấy làm sung sướng thấy đặng là cả phong hóa văn
hiến cổ truyền của họ, họ vẫn giữ, họ bảo thủ nó còn tồn tại hiển
nhiên, không cho cái ngoài kia xâm
phạm.
Aáy
vậy cái học thức của nòi giống các con đã 2.500 năm Văn Hiến, Phong
Tục Cổ Truyền Nho Tông, cái đẹp đẽ của nó, nếu các con khéo giữ cũng
như các nước đã chịu ảnh hưởng của Văn Minh Nho Tông của chúng ta,
cái chi mà nó ngoài kia thì để nó ngoài, cái chi mà của ở trong của
mình mà nó quí hóa đó của sỡ hữu mấy con thì mấy con
giữ.
Cái
học thức của Tổ Phụ các con để lại, nhứt là do nới Tiên Nho, họ chỉ
mong có một điều, các con học đặng hành, chớ không phải học rồi làm
Oâng Thầy Nho, hay học đặng làm các nhà triết học vậy thôi. Tổ Phụ
các con buộc các con học đặng phải hành, học lấy cái thuyết ấy, đặng
cho các con thực hiện.
Bởi
cớ cho nên, những phương pháp Giáo Huấn của Tổ Phụ các con để lại,
họ chỉ mơ ước có một điều là các con học đặng hành, mà các con thiệt
hiện được cái hành đí, hay, hay dở là do sự phục vụ Tổ Quốc nòi
giống các con đó. Nếu nói rằng :
"Khuyển
thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật, nhơn bất học bất
như vật".
Lấy
theo một khuôn khổ mà nói, con chó giữ nhà, con gà nó canh giờ, con
tằm nó kéo tơ, con ong nó mửa mật, rồi còn kết luận, nhơn bất học
bất như vật, nghĩa là người không học không bằng vật, nếu đem ra 4
cái thí dụ ấy, là chỉ nghĩa bốn ví dụ là phục vụ mà thôi, dĩ cái sở
hành di thượng, lấy cái sở hành ấy làm đầu hết, các con đã hấp thụ
được cái sự giáo hóa của các Thầy, Cô các con về Đạo Đức tinh thần,
Bần Đạo chỉ mong các con học, học đặng lấy cái thuyết, rồi cố gắng
thật hành cái lý thuyết ấy ra mới đáng cái học của
mình.
Ngày
mùng 5 tháng 5 năm Ất Mùi
(1955)
38.- ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC
HỘ PHÁP VỚI CÁC CƠ QUAN HÀNH-CHÁNH
ĐẠO TRONG DỊP LỄ SANH NHỰT TẠI HỘ
PHÁP ĐƯỜNG.
Có lẽ Bần Đạo hôm
nay nói nhiều một chút, nhưng cũng nhờ Trời không có nắng. Nếu Trời
không có nắng có lẽ cả toàn con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của
Ngài có thể cố tâm nghe đặng.
Bần
Đạo xin không trả lời cho các cơ quan khác nhau như ngày Tết Nguyên
Đán, những lời của Bần Đạo sẽ nói ra đây xin cả toàn con cái Đức Chí
Tôn và Thánh Thể của Ngài để ý hiểu cho sâu xa một chút. Bần đạo có
dành để riêng biệt một chỗ tư tưởng của mỗi người đặng suy gẫm. Xin
cả thảy đều nhớ mỗi phen tới ngày Sinh Nhựt của Bần Đạo con cái Đức
Chí Tôn đến Chúc Thọ, nhứt là Bần Đạo biết mình năm nay đã 66 tuổi,
hiểu cả thâm tâm của toàn con cái Đức Chí Tôn đã e ngại điều gì ? Biết
lắm, Bần Đạo niên cao, kỷ trưởng bao nhiêu, tình ái của cả toàn con
cái Đức Chí Tôn đã để trong thân hình nầy trọn 30 năm, lẽ dĩ nhiên
họ sợ khối tình ái đó phải tiêu hủy, lẽ dĩ nhiên vẫn
vậy.
Cả
Thanh Niên con cái của Đạo dòm đó mà coi, hỏi thử ở nơi một thế gian
nầy, trong một kiếp sanh của mình có phần thưởng nào mà có hưởng
đặng xứng đáng như thế chăng ? Các cơ quan khi nảy kể lễ Công Nghiệp
của Bần Đạo mà các Ngài có biết thiệt tướng nó là gì chăng. Cả cơ
nghiệp hữu hình ngày hôm nay tượng hình của khối thương yêu vô đối
đó, chớ Bần Đạo không có chi trong đó hết, cái thiệt tướng nó là
vậy.
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng Đài và Phước
Thiện,
Các
con Chiến Binh & Phục Quốc Hội,
Hội
Đồng Thánh Địa và Đại Diện Bắc Tông
Đạo,
Bần
Đạo xin kiếu lỗi.
Nhơn
dịp hôm nay Bần Đạo có nhiều điều tỏ cùng Chư Thánh tức nhiên là Hội
Thánh Cửu Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài và Phước Thiện là bạn đồng khổ
của Bần Đạo, từ 30 năm chúng ta đã chung khổ, cùng nhau dựng nghiệp
Đạo bảo vệ hạnh phúc tương lai cho toàn con cái Đức Chí Tôn, và hiện
tại ta nên để tâm quan sát coi hành vi của ta có xứng đáng làm Thánh
Thể của Đức Chí Tôn hay chăng cái đã. Cả hành vi 30 năm coi ta có
xứng đáng phận sự Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó cho ta hay
chăng ?
Bên
Quân Đội các con và bên Phục Quốc Hội nên để ý khoảng nầy cho lắm,
đã mang danh rằng Hội Thánh tức nhiên mạo hiểm mang danh Thánh Thể
Đức Chí Tôn, thử hỏi cử chỉ hành tàng của chúng ta phải làm gì cho
nên danh Hội Thánh ấy, và xứng đáng Thánh Thể Đức Chí Tôn ấy. Cả
thảy đều biết Đức Chí Tôn là khác mà đời là khác, hai tinh thần hai
hình chất nó không tương hiệp lại với nhau, dầu rằng lẽ dĩ nhiên
Luật Thiên Nhiên kia buộc phải tiêu diệt, nhưng mà cả thảy đều biết
thế tình với Thiên Ý làm thế nào cho phù hạp
đặng.
Cả
thảy đều ngó thấy từ 30 năm, Hội Thánh đã đổi cùng đời thế nào, họ
còn nghi hoặc chăng ? Họ còn nghi hoặc phi thường cho Thánh Thể Đức
Chí Tôn hay chăng ?
Thì
đây Bần Đạo nói ở mặt thế gian nầy, chưa có một nhân cách nào đã
thiệt hiện đặng "Dĩ ân báo oán" mà Hội Thánh đã làm đặng, dầu rằng
Thánh Thể Đức Chí Tôn không có quyền khen ai, không có quyền chỉ
trích ai, hay bày tội của ai, nếu như thế chúng ta đặng phép có phẩm
cách phê bình bài trích ta, thì ta nên bày trích ta mà thôi, quyền
năng ấy có thể dạy cho cơ đời bớt khổ não và giúp ích cho Thánh Thể
Đức Chí Tôn lắm đó vậy, nhưng mà chính mình ta buộc phải cấm ta
không đặng làm như vậy thiên hạ có nhiều điều khen mà chê cũng ngậm
miệng, vẫn có nhiều điều chê chỉ có nuốt buồn ngồi mà
chịu.
Cả
trường hợp đương nhiên Bần Đạo để dấu hỏi, có ai biết chỗ khen chỗ
chê của Hội Thánh thế nào chăng ? Chưa ai biết hết đừng ngó thấy sự
lãnh đạm hay sự dè dặt của Hội Thánh mà tự định mình, vì việc khen
của Hội Thánh có thể là một điều lầm lỗi quá
đáng.
Dĩ
ân báo oán, có một người nào ở thế gian nầy mà dám dang tay đưa bàn
tay mình, đưa bàn tay nhân từ vô đối đó, tha thứ cả tội tình của kẻ
nghịch, rồi còn có thể hiệp tác với họ đặng, có ai làm được chưa ?
Mà trong cửa Đạo Thiêng Liêng của Đạo con cái của Đạo sẽ làm đặng,
có ai biết kẻ nghịch phá Đạo, giết Đạo và hại Đạo vì cái tôn chỉ bất
công của họ, họ đồ mưu hàng ngày tận diệt cho được Đạo Cao Đài mà
Hội Thánh dám cho con cái của Đạo Cao Đài hiệp tác cùng họ, không
nói rằng cứu vãn cả lập trường nguy hiểm của họ, chưa có ai làm đặng
những điều làm đó, chẳng hề bao giờ Thánh Thể Đức Chí Tôn nói trong
miệng mà cũng không bao giờ từ của Thánh Thể Đức Chí Tôn thốt ra,
chỉ để ngầm cho toàn cả thiên hạ hiểu lấy mà
thôi.
À
bây giờ hỏi ra cái hành tàng của Đạo đương nhiên bây giờ, đối phó
cùng tình trạng của đời thế nào, dám chắc Thánh Thể Đức Chí Tôn định
cho một đường lồi nào khác thử coi, trong khi mình không khen đặng
mà cũng không chê đặng, chỉ để mình đứng trong cái lập trường dung
hòa mà thôi, lập trường dung hóa ấy sẽ bị bao biếm nhẻ, sẽ bị trích
điểm bởi vì cái sống của Thánh Thể Đức Chí Tôn hành vi của Đức Chí
Tôn nó ở trong thời gian và không gian, nó ở trong lịch sử nhơn
loại, chớ không phải ở ngoài cá nhân hay là cả quốc, chỉ để trong
không gian và thời gian sẽ giải nghĩa cho họ biết rõ ràng hơn mà
thôi.
Ta
nói cả Đồng Bào Miền Bắc hơn ai hết ở mặt thế gian này, cái đau khổ
của Hội Thánh, nhứt là Hội Thánh đương giờ phút nầy, là máu mủ, là
cốt nhục của các người, các người đau đớn lắm, chớ tính thế của đời
biến thiên nó đưa đẩy cái mạng số của Nòi Giống Việt, Tổ Quốc Việt
Nam đến nơi nguy hiển, như thế giờ phút nầy vậy. Mỗi đêm Bần Đạo chỉ
cầu nguyện cầu nguyện một điều mà thôi, cái tấn tuồng nguy kịch nầy
khổ não cả toàn Dân nước Việt đây, Bần Đạo cầu xin cả cái tai nạn
tương lai kia nó sẽ làm cho cả nòi giống Tổ Quốc Việt Nam khỏi bị lệ
thuộc một cách đau đớn, Đức Chí Tôn có thể cho Bần Đạo được 6 tháng
mà thôi, trước cùng chẳng đã 6 tháng cho Bần Đạo được có 3 tháng
trước để cứu vãn tình thế, thế nào, nếu chẳng may mà cái tình trạng
đương nhiên bây giờ, Bần Đạo e cho cái ách lệ thuộc sẽ trồng trở lại
trên cổ cả dòng giống Việt Nam hết, không phương giải
thoát.
Cả
Thánh Thể Đức Chí Tôn và con cái của Ngài đã cầu chúc cho Bần Đạo
sống, sống nhiều chăng ? Là do cả toàn thể con cái của Ngài muốn,
còn giờ phút nầy cái sống chết của Bần Đạo không có nghĩa lý gì hết,
giấc chết của Bần Đạo thật ra là một giấc an ổn, an nhàn của Bần Đạo
đó vậy.
Bần
Đạo xin để lời cám ơn toàn cả con cái Đức Chí Tôn từ dưới lên trên,
nhứt là trong Thánh Thể của
Ngài.
Tại
Đền Thánh Đêm 15 tháng 5 năm Ất Mùi
(1955)
39.- ĐỨC HỘ PHÁP
GIẢNG VỀ HỒNG-OAI &
HỒNG-TỪ
Đêm
nay Bần Đạo giảng đặc biệt cho Hội Thánh Nam, Nữ Lưỡng Phái và Hiệp
Thiên Đài. Đêm nay Bần Đạo giảng về Hồng Oai và Hồng Từ, hai tiếng
Hồng Oai, Hồng Từ ấy là đặc quyền của Đại Từ Phụ đã Tạo Đoan Càn
Khôn Vũ Trụ mà lại vì hai tánh Đức ấy. Ngài trị cả Vạn Linh. Nếu ta
luận Hồng Oai và Hồng Từ, thì ta có thể nói luận ác và thiện, rồi ta
có thể đem ra hai kiểu mẫu, xã hội tức nhiên đời, cũng như Đức Khổng
Phu Tử và Đạo Chích, nói về Đạo chẳng khác nào ta luận Đức Chúa
Jêsus Christ, Juda đã nói tới Đạo Phật, ta thử luận Đức Thích Ca Mâu
Ni và Dévadata, cái luận thuyết về nghĩa lý ấy vẫn không cùng, ta
chỉ nương nơi nghĩa lý và quyền hành ấy, đặng để cho Thánh Thể Đức
Chí Tôn đi cho trúng đường lối.
Hại
thay ! Chớ phải chi, hai lẽ thiện và ác ấy cả Thánh Thế của Ngài đi
một lối mà thôi, nói đơn giản, thà là làm Thầy Chùa thì Thầy Chùa,
Thầy Pháp là Thầy Pháp, Đạo thời Đạo đi cho triệt để hay Đời cho
triệt để đi. Khổ não thay Thánh Thể Đức Chí Tôn vì lãnh nơi mạng
lịnh của Ngài, đến làm tôi con của Ngài cho toàn vẹn, thế gian của
Ngài hỏi vậy chớ Đại Từ Phụ đã giao cho ta có phải giao Thánh hay là
giao Phàm, nếu ta lấy theo sự suy gẫm của ta, ta phải nhìn rằng Đại
Từ Phụ đã giao cho ta Phàm nhiều hơn Thánh, lẽ dĩ nhiên trước mắt ta
đã ngó thấy.
Tự
thuở nay, con người dầu sức lực mạnh mẽ thế nào gánh một vai mà
thôi. Đại Từ Phụ lại buộc cả Thánh Thể của Ngài phải gánh hai vai
Đời và Đạo. Cái kiểu vở hai Tôn Giáo trước mắt ta, ta ngó thấy Phật
Giáo thì nghiêng cái gánh bên Đạo, Công Giáo lại nghiêng cái gánh
bên Đời, Đời Đạo Phàm Thánh. Đức Chí Tôn đến lập Thánh Thể của Ngài,
Ngài biểu phải đứng ngay chính giữa của nó. Luận ra cho cùng lý, thì
Hội Thánh của Ngài, buộc không Đời mà cũng không Đạo ở giữa cái mức
trung tim của Đời và Đạo.
Cái
khó khăn cho phận sự Thiêng Liêng ấy là vì lẽ đó Hồng Từ ta thử kiếm
hiểu, phải có cái tinh thần, Đại Từ Bi, Đại Bác Aùi, nghĩa là mọi
điều, nó phải do nơi luật tương đối hiện tượng bây giờ, là cái tình
đời, thì ta phải khoan hồng dung thứ. Muốn làm cho không lầm phải có
tinh thần lịch lãm và khoan dung. Nắm được tính Đức Hồng Từ của Đức
Chí Tôn. Lịch lãm ta phải biết mình, biết người một cái gương lịch
lãm từ cổ tới kim chưa hê có một lần thứ nhì nữa. Là Vua Nghêu có 9
người con 7 trai, 2 gái mà đi tìm Oâng Thuấn, đặng truyền ngôi Vua,
lại còn 7 người con trai kia, ta thử nghĩ thế nào đã. Khi tìm đặng
Oâng Thuấn đem 2 người con gái gã hết, Nga Hoàng, Nữ Anh, mà ta thử
nghĩ Oâng Thuấn Oång là gì, tên ít học, cày ruộng, cha là Cổ Tẩu, em
là Tượng ghét đáo để, nhứt là Bà Kế Mẫu của Ngài, bị hiếp bức, ít
học bất quá là một người cày ruộng vậy thôi. Ta thử nghĩ vì lẽ gì
Vua Nghêu chọn Oâng Thuấn làn Vua kế nghiệp cho Ngài, chỉ vì Oâng
Thuấn là Hiếu mà thôi, với cái lịch lãm Vua Nghêu Ngài cho tính Đức
Hiếu Nghĩa đó là đủ hết rồi. Hễ Hiếu cùng Cha, Mẹ nghĩa cùng anh em,
hai đức tính đó đủ cả tinh thần đặng trị thiên hạ, Ngài đoán rồi
chọn Oâng Thuấn, Ngài không lầm, quả nhiên Oâng Thuấn đã thành một
Vị Hoàng Đế, từ cổ tới kim chưa hề có một người thứ nhì
nữa.
Aáy
là lịch lãm, nhờ cái tâm hồn lịch lãm của Vua Nghêu mà cả cái sự hèn
hạ của Oâng Thuấn kia nó mất hết. Oâng chỉ lấy có Hiếu với Nghĩa mà
thôi. Aáy là cái gương lịch lãm khoan dung mà cái cử chi của Oâng
Nghêu đã truyền ngôi cho Oâng Thuấn, là một cái Hồng Từ mà từ thử
tới giờ chưa có ai làm một lần thứ nhì
nữa.
Bây
giờ luận về Hồng Oai, Hồng Oai nhiều cái khúc chiết, phải có tâm
thần suy đoán và tha thứ cả tội tình thiên hạ. Ta chỉ chọn một cái
Hồng Oai của ta, khi ta trị ta, ta phải làm sự trị ấy của ta lại vì
cho kẻ bị trị, cái trị đó, ta toan tính liệu lượng thế nào, cái Hồng
Oai của ta đây nó là một món thuốc trị bịnh cho kẻ đã bị
bịnh.
Cái
tính đức suy đoán có nhiều khi nó không cùng luận, một điều nên nói,
Bần Đạo đem ra hai cái thí dụ mới đây có hai vợ chồng ông đó (người
Pháp), Bà Vợ đau bịnh lao không thể trị được, thấy chết trước mắt đó
vậy. Bà vợ biết mình không thể sống, chỉ có sống đi thì chỉ làm khổ
não chồng và con mà thôi. Cái tình thương vợ chồng nồng nàn mà thân
hình của Bà hôm nay như thế đó, chỉ có trong cái chết mà không chết
đặng Bà mới cậy Oâng Chồng giết mình dùm, tội nghiệp Bà đã khóc cầu
khẩn không biết bao lần, Oâng Chồng chỉ có khóc mà chịu thôi, chừng
đáo để Oâng chồng ngó thấy sự đau đớn của Bà vợ không thể gì mà hết
được, không thế gì mà thoát khỏi bịnh ngặt đó được, nghe lời yêu cầu
của Bà vợ, bắn vợ. Tòa đem ra Đại Hình và buộc án sát nhơn, nhưng
may thay cả thảy thiên hạ đều biết tính Đức Hiền của Oâng, nên họ
làm chứng và quả quyết rằng : Bà kia cầu xin Oâng nọ giết mình dùm,
nên được tha, là một gương thứ nhì.
Bần
đạo đã đọc sự tích hồi còn đi học, có hai anh em học ở chung một
trường với nhau, tới kỳ thi Tú Tài, thi Bachot kêu Bachelier của
Pháp, thì người bạn thi rớt về thất chí đến nươc muốn hủy mình, mà
may có một điều được người bạn tâm tình kia, đem cả sự đau khổ tâm
hồn của mình tỏ cho bạn mình, người bạn an ủi, khuyên lơn chi cũng
không đặng hết.
Hôm
nọ người thất chí đó nhứt định đi ra đón xe lửa đặng nhào đầu vô xe
lửa đặng chết, đặng tự tử, mà không dè là người bạn của mình đi theo
bén gót, đi theo xa xa giữ gìn không cho hay. Oâng ta mới vừa đi lại
gần xe lửa, người bạn chạy theo níu, năn nỉ giữ lại đó, người kia
vùng vẩy đổ quạo lên nói:
Mầy tưởng đâu mày thương tao mà mày kéo dài sự đau khổ của
tao chớ không phải mầy thương tao. Bây giờ không thế gì can gián
được, phải dùng chiến lược khác, phát gây lộn nói : Cái thân thể mày
đã dở, mày ngu, rồi mày thi rớt, rồi mày muốn huỷ mình mày, mày mà
có chết đi nữa, linh hồn mày xuống Địa Ngục là thằng tù ngu, dầu mày
có được Đức Chí Tôn tức nhiên Đức Chúa Trời ban cho mày thành Oâng
Thánh đi chăng nữa, mày cũng là Ông Thánh ngu, mắng, hai đàng đánh lộn
ôm vật với nhau, đánh thẳng tay mà cái ông kia mình làm mưu không nở
đánh lắm, đánh sợ đau bạn. Còn ông kia, ông bạn kia đổ quạo thật,
đánh thôi mình mẩy sưng tùm lum túa lua, rồi đem vô nhà thương nằm.
Vô đó, người bạn đó mới nói : Mày ơi, tao cốt yếu, cố tâm đặng cứu
mày, mà mày làm tao thân thể như vầy, thôi hết sức nói, tới chừng
người kia nằm kế gần bên, mới động lòng khóc mướt đó vậy. Cứu được,
từ đó anh kia thi mãi, tới thi đậu ra trường mới thôi. Đó Hồng Oai
đó. Bây giờ mình mới nghĩ coi Hồng Oai mà làm được như vậy cũng nên
làm chớ.
Bây
giờ luận trong Hội Thánh, mấy em thì đông, Nam, Nữ gần đôi 3 triệu,
được cái phải của đứa nầy, nó có cái quấy của đứa khác không đồng
nhau, vì lẽ đó. Đức Chí Tôn mới lập Pháp Chánh thử cái Cân Công Bình
của Hội Thánh nghĩ làm sao mà chớ ? Chỉ có mong một điều là đoàn em
nó đặng đắc Giáo, được dạy dỗ cho hiểu Đạo, đặng nó sống dùm cho bạn
của nó.
Đại
gia đình Thiêng Liêng nầy nó phải tương liên sống chung, chết chung
với nhau đó. Nếu cả Thánh Thể Đức Chí Tôn không có Giáo Hoá cho họ
hiểu thấu đáo nghĩa lý cái sống trong cửa Thiêng Liêng nầy, trong
đại gia đình Thiêng Liêng nầy là gì ? Thì bao giờ cũng vậy. Đứa phải
trở lại đả đảo đứa quấy, đứa quấy cũng không nhịn đả đảo trở lại đứa
phải. Tấn tuồng đời chuyển luân ngay giữa cửa Thiêng Liêng cửa Đạo
đây, Nam, Nữ em cũng đồng em hết, mình coi quyền lợi cả thảy của nó,
mình tính cái nào nhiều theo đa số, giờ bắt chước theo kiểu vở chánh
trị thiên hạ bên Aâu Châu, hễ đầu phiếu nhiều là được, bây giờ hễ
đoàn em của mình, hễ đa số chịu cái gì, nếu phải mình làm theo nó,
giúp đỡ cho nó làm đa số nó không bằng lòng cái gì thì mình từ, ráng
cố gắng mà tránh. Có một điều nên để ý hơn hết, trước mặt Đức Đại Từ
Phụ, Đại Từ Phụ coi cả con cái của Ngài ở dưới thế gian nầy là đám
mồ côi, Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, vì lý do đó mồ côi nên Ổng chống
gậy đến, Ổng nói con Ổng mồ côi, bây giờ ta cũng kể em ta là đám mồ
côi nương lấy anh, muốn nuôi nấng dạy dỗ nó, nhứt là phải dạy dỗ
chẳng phải bằng lỗ miệng mà thôi, mà dạy dỗ sự hành vi của nó. Có
nhiều đứa nhứt là đám mồ côi của phái Nữ, tâm thần thì hay thương
yêu, có nhiều đứa mồ côi chưa được lỗ mũi mẹ hun hít, một cái nó
thèm thuồng tìm kiếm trong cửa Đạo mẹ của nó, trông kiếm nơi cửa Đạo
cha của nó Nam cũng vây, Nữ cũng vậy. Cả Thánh Thể Đức Chí Tôn cố
gắng làm cha làm mẹ nó dùm, cố gắng mỗi người đều dạy
dỗ.
Bần
Đạo chỉ có buồn một điều thay vì dạy nó đặng dìu dắt cho nó đi vào
Thánh Đức, có nhiều người dạy nó đi theo cái gì, Bần Đạo không nên
nói rõ ra đây.
Từ
đây tới sau, xin cả Thánh Thể Đức Chí Tôn đã gọi là Thánh Thể của
Ngài, thì bắt chước mảy may theo Ngài đặng cho nó có tánh đức Hồng
Oai, Hồng Từ ấy.
Mai
đây Bần Đạo làm oai, cho biết chừng, ai đời không có tiền cất chợ
cho em, ráng làm được 4 cái nhà lồng, đặng cho sắp nhỏ vô chui đục
nắng mưa. Mấy bà nào đó không biết giăng ngang qua hết thảy vậy, đem
trại thiết giăng ngang chận đường mà năn nỉ biểu dời, đặng cho sắp
nhỏ có chỗ vô nhà lồng buôn bán với, ngăn ngang qua đó, đáo để đuổi
cũng không đi. Cho đất đặng dời cũng không đi nữa. Mai này Bần Đạo
làm oai ra lịnh vở tất đồ đó hết. Bần Đạo làm oai một lần thử
coi.
Tại
Đền Thánh Ngày 12 tháng 8 năm Ất Mùi
(1955)
(Lễ
Đại Tường Ngài Khai Pháp Chơn
Quân)
40.- ĐỨC HỘ PHÁP
NHẮC LẠI CÔNG-NGHIỆP CỦA NGÀI TRẦN KHAI
PHÁP
Thưa cùng Chư Quan
Viên và Chức Sắc cùng mấy em Nam, Nữ.
Hôm
nay là ngày Lễ Đại Tường Đức Khai Pháp Chơn Quân, Bần Đạo không cần
minh tả, tưởng lại toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng hiểu Đức Ngài
là một Vị Chơn Quân nơi Hiệp Thiên Đài là một Chơn Linh nguyên nhân
Đức Chí Tôn đã định.
Nhắc
lại công nghiệp của Ngài Bần Đạo lấy làm ngậm ngùi cảm xúc vô cùng,
sự cảm xúc của Bần Đạo đối với Đức Ngài không giờ phút nào Bần Đạo
quên cái công cực khổ đáo để của Ngài đối với Đạo. Bần Đạo chắc chắn
rằng, trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, Bần Đạo chỉ nhờ Đức Ngài Khai
Pháp nhiều hơn hết, đó là bằng chứng hiển nhiên ngày nay Đức Ngài đã
Qui Tiên, thì Bần Đạo đã bớt một cánh tay gánh vác Sự Nghiệp Thiêng
Liêng Vĩ Đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế
nầy.
Bần
Đạo đã thấy cái sống ở đời của Đức Ngài Khai Pháp trong buổi sanh
tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả, vì sự nghiệp giàu
sang vinh hiển của Ngài mà Ngài cũng không màng, chỉ nguyên đem cái
xác thân nầy hiến trọn vẹn nơi cửa
Đạo.
Đức
Chí Tôn đã định sẵn đâu hồi nào mà chính mình Đức Chí Tôn lựa thật
là xứng đáng. Trong buổi lập Hiệp Thiên Đài Đức Chí Tôn dạy con muốn
ra gánh vác Sự Nghiệp Thiêng Liêng lập nên nền Đạo. Trước hết con
phải lập Pháp cho xong thì Đạo mới vững bền
được.
Buổi
nọ Bần Đạo nguyện để trọn vẹn Đức Chí Tôn lựa, chớ không phải phàm
lựa, khi được lịnh Cơ Bút dạy đi tìm Khai Pháp thì chỉ dạy Bần Đạo
đến Tỉnh Gò Công mà tìm tên Trần Duy Nghĩa, Đức Chí Tôn chỉ cho biết
Tỉnh Gò Công mà thôi. Khi tìm đến biết đâu có phải hay chăng ? Bởi
vì nơi Tỉnh Gò Công Bần Đạo chưa từng đến và không có làm bạn với
một người nào nhưng mà cũng vâng lịnh, để đi tìm. Khi vừa đến Tỉnh
Thành Gò Công, ngừng xe lại tìm hỏi thăm thì đã trúng ngay nhà Ông
Trần Duy Nghĩa và gặp người đứng trước thềm nhà, người nói tôi là
Trần Duy Nghĩa đây, bèn mời Bần Đạo vào nhà. Bần Đạo không ngần ngại
để trọn Đức Tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn tỏ hết công việc
Đạo thì Đức Ngài hứa và nguyện cố một đời là huỷ cái đời giàu sang
vinh hiển để nạp mình tìm nơi cửa Đạo, Bần Đạo không tin còn hồ nghi
bị gạt, khi Ngài về đến Sài Gòn chỉ xách theo một gói đồ trên tay và
không trở lại gia đình lần nào.
Bần
Đạo đưa bài Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với
Bần Đạo hai câu, mà làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi
Tâm, biết rằng Oâng này có thẻ chung sức với mình gánh vác nổi sự
nghiệp của Chí Tôn đã giao phó.
Ngài
nói rằng : Tôi tưởng dòng dõi của Dân Tộc Việt Nam trên 4.000 năm đã
chết, nào dè ngày nay Đức Chí Tôn đến định lập Quốc Đạo thì chắc hẳn
rằng Đất Nước Việt Nam sẽ sống lại được, mà sẽ là cứu chữa Tổ Quốc
và Giống Nòi Dân Tộc Việt Nam cởi ách lệ thuộc giữa thời Pháp thuộc
đang bạo hành.
Kể
từ đó thì Ngài vẫn cương quyết lo giúp đỡ Bần Đạo và sự kính nể đáo
để không bao giờ phút nào mà Đức Ngài muốn rời xa Bần
Đạo.
Không nhắc đến thì thôi, mà nhắc
đến làm cho giọt lệ Bần Đạo đã chảy không ngừng, chẳng phải riêng
Bần Đạo, mất một người ân trọng nghĩa thâm, mà là toàn cả Đạo Nam,
Nữ thấy đều mất một người bạn yêu mến Thiêng Liêng đó
vậy.
Lúc
Chánh Quyền Pháp đày ra Hải Đảo Madâgcar. Trong đó nhiều vị Chức Sắc
Đại Thiên Phong cũng chung chịu ảnh
hưởng.
Bần
Đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiền hết lòng phụng sự giúp đỡ
Bần Đạo, còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi hành phạt Bần Đạo
đáo để. Anh Trọng già rồi chẳng nói chi, nhứt là Ông Thái Phấn và
Gấm, dựa quyền lợi theo thuyết Cộng Sản Nga Xô, dùng sức mạnh trở
lại hành phạt khổ khắc Bần Đạo mà chưa vừa lòng, họ còn xúi giục
Chánh Quyền đày Bần Đạo lên chỗ nguồn cao nước độc đặng giết một
cách gián tiếp cho vừa lòng, nếu chẳng phải quyền năng Thiêng Liêng
giúp sức thì không thế trở về Tổ Đình, Thánh Địa Đất Nước Việt Nam
với ngày nay.
Tội
nghiệp thay ! Em Thánh Hiền với Đức Ngài Khai Pháp thấy vậy cũng xin
đi theo, đã bị chúng đánh đuổi mà tìm kế đi theo nuôi dưỡng Bần Đạo
cho được, Thánh Hiền vì đi theo Bần Đạo bị uống nước độc, mà bỏ mình
nơi rừng sâu nước thẳm, chỉ còn Bần Đạo và Đức Ngài ôm lấy Bần Đạo
mà khóc chỉ van vái có một điều là cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu
đem xác về gởi Đất Thánh Địa lúc cởi xác mà thôi, thật quả nhiên lời
nguyện không sai.
Khi trở
về Thánh Địa Bần Đạo gượng làm vui chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài
Khai Pháp và Bần Đạo không bao giờ khắc nào mà quên trong cảng tù
đày lao lung.
Bần Đạo
đã thấy toàn thể con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nhưng Bần
Đạo ôm lòng nín chịu và căn dặn Ngài vẫn dằn lòng không thốt ra lời
nói gì cả. Bần Đạo sợ nói ra đây gây oán chất hờn thêm cho Đạo, nếu
Bần Đạo nói ra không có bút mực nào tả cho hết, lại thêm xung
đột.
Kể từ
ngày về Thánh Địa Đức Ngài Khai Pháp thường than khổ với Bần Đạo, vì
sợ e không khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì Pháp, bên
trong thì Việt Minh, ở giữa thì quân đội Cao Đài, ai vui hứng chớ
riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ sự đổ máu giết chốc
lẫn nhau, làm đến tương tàn cốt nhục của Nòi Giống Việt Nam ta nữa
mà chớ.
Sau này
Trung Tá Trấn (Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) bị quân đội Thành ám
sát, Đức Ngài thường đến Trí Huệ Cung mà ôm Bần Đạo vào lòng mà than
rằng : Thầy ôi ! Cái sợ của Tôi ngày nay đã đến rồi, Tôi hằng than
thở với Thầy từ nơi Hải Đảo là chốn đày khổ thân của Thầy Trò mình
mới về để dìu dẫn con cái Chí Tôn mà họ đâu thấu đáo tâm trạng, nay
Trấn đã chết đi rồi thì tôi thấy càng gây nhiều hiểm họa dẫy đầy, từ
từ gây phản bội mà làm ly tán, bầy con dại của Chí Tôn rồi đây họ
phải sống nơi nào cho an phận. Thưa Thầy, nếu mà Tôi
biết hậu quả và tình trạng ngày nay như thế này, thà là Thầy Trò
mình ở lại nơi chốn tù đày Hải Đảo, là nơi rừng xang nước độc, còn
thú vị hơn về đây thấy cảnh đổ máu không lịch sử, dòng dõi Chủng Tộc
Việt Nam sẽ ly tán, tiền đồ Tổ Quốc không dựng lại mà hầu hết Nhơn
Loại chịu trong cảnh sắp điêu tàn, nền Đạo chinh nghiêng bởi cảnh
đó.
Nghe
qua những tiếng than thảm thiết làm cho giọt lệ Bần Đạo phải chảy
theo không ngừng, nhưng Bần Đạo cố gượng cho khuây khỏa, hồi nghĩ
lại Bần Đạo làm vui mượn cớ an ủi cho Ngài bớt buồn rầu đau
thảm.
Không
Anh à, mấy em vì nó có óc thanh niên không phải như mấy Anh lão
thành vậy đâu, vì máu nóng phải vậy, còn đua tài chát lợi, quyền
trọng, tham danh, chớ buộc cả thảy như chí của Anh vậy sao được. Bần
Đạo thấy Ngài buồn kiếm
chước cho vui đỡ, và lần lượt kiến tạo Trí Giác Cung được khuyên
Ngài vào ở cho an tịnh cho bớt cảnh thảm họa trên, diễn mãi trước
mắt hằng ngày.
Bần Đạo
gẫm lại, đã lãnh cái sứ mạng dầu khổ tâm Bần Đạo cũng cố gắng dằn
lòng để thi hành trách nhậm là phận sự của Đại Nghiệp Thiêng Liêng
đó thôi, để gầy dựng tương lai hạnh phúc cho toàn cả Nhơn Loại chung
hưởng Hạnh Phúc Hòa Bình Đại Đồng Thế Giới.
Trước
kia Bần Đạo cũng chạy theo quyền lợi chắc lót từ đồng lương cũng có
thể an thú lạc hoan với gia đình, cả cuộc mộng ảo củ trường đời chỉ
biết có quyền lợi đó thôi.
Chớ họ
đâu có biết được cái nghiệp sống Thiêng Liêng vĩnh cửu vô bờ bến kia
mà !
Ngày
nay mấy em nương lấy quân đội đã chạy theo quyền lợi quá mức bạo
hành mà quên hẳn sự nghiệp của Đại Gia Đình là tấm Đất Thánh Địa, là
chỗ miên diễn và tồn tại.
Hầu hết
họ đã nhờ bóng Từ Bi của nhà Lãnh Đạo Đại Gia Đình nầy mà dựng nên
sự nghiệp cá nhân, có quyền thế vinh hiển với người ta, mà trái
ngược lại còn đang tâm hủy hoại nó, họ không biết giá trị cao trọng
đó phải nương nhờ nơi đây do Đại Nghiệp Đại Gia Đình nầy mà
có.
Bần
Đạo nói thật, họ không nhờ Đại Gia Đình nầy, ngoài ra thì đã bị
người khinh rẻ mà phải bị tiêu diệt ngày gần đây mà
chớ.
Ngày
16 tháng 8 năm
Ất Mùi (DL. 1-10-1955)
41.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG ĐẠO TẠI LỄ
KHÁNH THÀNH TẠI BÁO QUỐC TỪ
Bần
Đạo xin trân trọng, để lời cám ơn Quan Khách quyền Đời và Chức Sắc
Thiên Phong của Hội Thánh Cao Đài cùng Quân Đội Quốc Gia đã có hiện
diện nơi đây, đặng giúp cho Lễ Khánh Thành Đền Báo Quốc Từ thêm phần
long trọng.
Các
Ngài cũng như Bần Đạo đã chung chịu một tình trạng đau thảm, sau 80
năm nước nhà bị lệ thuộc, 80 năm dài đăng đẳng, nỗi thương đau khổ
của toàn Quốc, mong mỏi đặng ngày quật cường cứu Quốc, thì công cuộc
tranh đấu thời gian dài đăng đẳng ấy, biết bao nhiêu bực Tiền Bối ái
Quốc chơn thành, đã chịu lắm nỗi hy sinh cho vận mạng Tổ Quốc Giống
Nòi.
Tiếp
tục công trình vì Dân vì Nước ấy, chủng tộc Đồng Bào ta cùng con
đường đấu tranh chánh
nghĩa duy có một, nhưng phương-pháp tranh đấu bất đồng mới khiến gây
nạn nồi da xáo thịt.
Những
Danh Nhân Chí Sĩ, Vị Quốc Vong Thân ta chỉ được quí danh quí tánh
Thơ Phụng tôn sùng đã đành, còn những vị Anh Hùng Vô Danh Vị Quốc,
có lẽ ta phải mang một tội tình cùng họ vì ta không nghĩ đến việc hy
sinh công danh và xương máu cao cả của họ. Còn những Chiến Sĩ đương
xông pha nơi chiến địa buổi hôm nay cũng thế ta chỉ biết danh tánh
của họ một phần ít còn quên lại là phần nhiều, bởi cớ họ phải bị
thân danh mai một.
Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ tức là Đạo Cao Đài chỉ cho phép những Tín Đồ của mình
phụng sự Quốc Gia và Chủng Tộc Việt Nam, chớ không phân biệt màu sắc
Đảng Phái.
Nơi Đền
Thờ nầy, các Ngài đã thấy Linh Vị của mấy vị Cựu Hoàng và Kỳ Ngoại
hầu Cường Để, xin các Ngài đừng lầm tưởng rằng : Đạo đã xu hướng
theo thuyết "Bảo Hoàng" mà kỳ thật các Đấng ấy, chỉ liệt vào hàng
Trung Quân Aùi Quốc của Xã Hội Việt Nam mà
thôi.
Vì công
nghiệp của họ tranh đấu giải ách lệ thuộc cũng đồng cùng các chiến
sĩ cách mạng khác kia vậy.
Tưởng
Niệm tới Lễ ấy, nên Hội Thánh mới quyết định lập Báo Quốc Từ thờ
trọn cả các Vong Linh của các Anh Hùng Chiến Sĩ, Cứu Quốc Công Thần
cùng là Trận Vong Chiến Sĩ.
Tưởng
khi các Ngài cũng đã rõ cả hành tàng của Đạo. Từ ngày xuất hiện Đạo
nhà của ta trước đã rồi sau mới biến thành nên nền Tôn Giáo Quốc Tế,
vì tư tưởng Đạo Giáo khoan hồng của Tổ Phụ chúng ta mới đem phương
pháp Tín Ngưỡng duy nhứt mối Đạo Thờ Trời và Người của Tổ Phụ ta noi
truyền từ trước. Aáy vậy đã nói rành Đạo nhà ta trước đã thì ta cũng
phải vì nhà của ta là Tổ Quốc và Nòi Giống Việt Nam đặng phụng sự
trước, hầu định tỉnh Quốc Hồn, thống nhứt tinh thần và năng lực
trong cuộc Đại Đoàn Kết của khối Quốc Gia mới đủ phương cứu nguy cho
Tổ Quốc.
Biết
đâu gương mẫu ấy, nếu ta thực hiện ra được, nó sẽ không thành một
phương pháp duy nhất cho các Quốc Gia nhược tiểu một phương châm duy
nhứt đặng tranh thủ tự do độc lập cho họ, quan niệm tưởng đến công
trình tranh đấu của đàn anh may ra nó sẽ an ủi và giúp tâm cho các
bạn, đồng thời phục vụ cho Quốc Gia Xã Hội.
Trái
lại, nếu ta vô tình lãnh đạm để cho họ phải chịu mai một thân thể
lẫn tâm hồn, thì cái tội của ta vong ân bội nghĩa không cải chối.
Hôm nay các Anh Linh Chư Vị Anh Hùng Tiền Bôùi và Hậu Tiền Bối đang
ngự trị trong khối Quốc Hồn của ta và đang vơ vẫn bên
ta.
Giờ
phút Thiêng Liêng nầy. Bần Đạo xin cả các Ngài hiệp tâm làm một cùng
Bần Đạo thành một khối tưởng niệm duy nhứt đạng cầu xin Các Đấng ấy
giúp cho Nòi Giống ta khỏi cơn ly loạn, cốt nhục tương tàn đạng đem
Hạnh Phúc Hòa Bình lại cho Nước Nhà và cho toàn Thiên
Hạ.
Ngày
mùng 1 tháng giêng năm Bính-thân.
42.-
ĐỨC HỘ PHÁP NGÕ LỜI CÙNG TOÀN ĐẠO
NHƠN
DỊP LỄ CHÚC XUÂN BÍNH-THÂN
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong,
Hội
Thánh Cửu trùng Dài, Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện và toàn thể con cái
Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái,
Các Bạn
cùng Bần Đạo.
Hôm nay
đã thêm một tuổi nữa tức Bần Đạo đã 67
tuổi.
Thưa
cùng Chư Huynh, Chư Đệ,
Giữa
thế kỷ 20 Đạo Đức suy vi, Nhơn luân điên đảo, Phong hóa suy đồi. Bởi
cớ cho nên, Đức Chí Tôn đến đặng chung chịu cùng con cái đau khổ của
Ngài, tạo nên một Cơ Quan Cứu Thế, mở Chơn Truyền Đại Đạo của Ngài
vì cả nhơn luân của thiên hạ nó đã điên đảo. Cả thảy Thánh Thể đều
thấy một nền Tôn Giáo Tối Cổ đã đến lập Quốc cho Nước Việt Nam nầy
là Nho Tông, Tổ Phụ ta để lại nền Nho Tông cốt yếu giữ gìn bảo trọng
Nhơn luân của Nhơn loại.
Vì cớ
cho nên, Ngài đến lấy căn bản ấy làm "Thước ngọc, Khuôn vàng" cho
toàn thể tâm lý nhơn sanh. Bởi cớ cho nên Ngài để lại tiếng "Chuyển
Thế" chẳng cần luận cho xa xuôi, Thánh Thể đều biết giữa buổi nguy
hiểm khó khăn nầy, Đại Từ Phụ đã đến giao cho ta một phận sự Thiêng
Liêng như thế đó. Phận sự khó khăn không có hình hài xác thịt Ngài
đến phú xác thịt cho ta làm Cha, làm Thầy. Phận sự Thiêng Liêng làm
Cha thế nào, làm Thầy thế nào gìn trọn, cả thảy khuôn luật đó dường
nào, cả con cái Đức Chí Tôn đều hiểu biết. Làm Cha là tạo sự nghiệp
tạo hạnh phúc lưu lại cho con. Làm chủ hai phận sự ấy khó khăn biết
mấy !
Trong
Đại Gia Đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó cho ta phải theo
một khuôn Luật Thiên Nhiên ấy, là khuôn luật tiểu gia đình của ta mà
thôi không chi khác.
Lạ gì
tuồng đời đương buổi này, tâm lý của nhơn loại thế nào ta đã chắc
biết. Trong một gia đình con cái bất hòa với nhau, bao nhiêu tội lỗi
ấy đều trút trên đầu của người Cha nó. Trong một trường, nếu có
tranh hơn, tranh thua, tranh ngu, tranh khôn, tranh thiệt, cả danh
vọng quyền thế bao giờ kẻ bất mãn cũng đổ trút trên đầu Thầy nó, lẽ
tự nhiên vẫn vậy.
Trong
một gia đình dầu cho Oâng Cha công bình thế nào, đứa con bất mãn
hoang đàng chi địa, vô nghĩa, vô nghì nó đổ trên đầu Cha nó, nó nói
Cha nó hại nó.
Trong
một trường lập thân danh nó không nên với đời, nó cho Thầy nó dở
dạy, tấn tuồng đời vẫn vậy.
Mấy em
! Cẩ thảy Nam, Nữ Lưỡng Phái, Qua nói thật, "Trường hợp biến thiên
ra vì con cái của Đạo không đủ yêu ái, không đủ căn bản tinh thần
Đạo Đức, nó mới ra nông nỗi". Mấy em biết một gia đình nhỏ mọn kia,
nếu xảy ra sự vô phúc ấy, nó làm thế nào ? Huống chi Đại Gia Đình
Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó, Thánh Thể của Ngài cho Qua,
tránh sao cho khỏi, làm thế nào tránh cho khỏi những kẻ ấy. Một Oâng
Cha tạo con cái của mình chia từ tinh khí, huyết quản tạo hình hài
cho nó, là của sở hữu của mình, có khi làm chủ tinh thần của nó
không được. Huống chi nơi cửa Đạo, nơi cửa Đại Gia Đình Thiêng Liêng
của Đức Chí Tôn giao phó, biết bao nhiêu đầu óc, trí não tâm hồn
không đồng một thể.
Oâng
Thầy mở một trương như Đức Khổng Phu Tử có quyền lựa chọn Môn Đồ của
Ngài. Trái lại trong Đại Gia Đình của Đức Chí Tôn, Thánh Thể của
Ngài không quyền lựa chọn, thế nào tránh cho khỏi kẻ bất nghĩa vô
nghì ? Mấy em đừng coi điều ấy là trọng hệ, trái lại phải định phận,
cố gắng hơn, dạy mấy đứa nhỏ nó là Hương Hỏa tương lai Đại Gia Đình
của mấy em và thánh Thể của Đức Chí Tôn mai
hậu.
Qua
thường nói, nếu giờ phút nào Thân Già yếu đuối nầy còn, Qua cố gắng
làm nên sự nghiệp cho Đạo cốt yếu là vì chúng nó. Nếu Qua không vì
chúng nó, giờ phút nầy chẳng còn lầm lủi đặng tạo dựng Cơ Nghiệp
Thiêng Liêng nầy. Qua là một thằng điên, đáng đem nhốt nơi nhà
Thương Điện Biên Hòa mà chớ !
Một đời Qua chịu khốn khổ, đàn
Anh của mấy em cũng thế, chung chịu một trường hợp đau đớn như Qua,
Qua không thế nào buổi sanh tiền nầy còn thấy dưới mắt sự đau khổ
đối với chúng nó. Vì cớ cho nên Qua lạo hạnh phúc tương lai cho
nó.
Mấy em
thử nghĩ ! Trót 31 năm, cả thảy con cái của Đức Chí Tôn Nam, Nữ
Lưỡng Phái, từ trên tới dưới đã hy sinh biết bao nhiêu mồ hôi nước
mắt, tạo dựng Đại Nghiệp Thiêng Liêng cho Đạo. Vì ai, thử để dấu hỏi
? Mấy em sẽ lấy làm đau đớn lắm vậy !
Trường
hợp khi Đức Chí Tôn đến cùng chúng Qua, Oâng Già Nghèo ấy. Oâng đến
với một cây Cơ thôi. Oâng đến với một xác thân hèn yếu, nghèo nàn.
Bởi do nơi hèn yếu đó tạo nên một sự nghiệp trọng đại, sự nghiệp đó
biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, xương máu toàn cả mấy em hiện tượng
như thế đó.
Có một
điều đừng lầm lộn, cả con cái của Đức Chí Tôn nhớ điều nầy : "Giàu
sang phú quí của Đạo là cái giàu sang cả toàn thể con cái Đức Chí
Tôn đôi triệu người hiệp lại. Nếu thoản như cả phần tử đôi triệu ấy
nghèo khổ, đều thống khổ, tới hôm nay mấy em nhìn lụng lại Sự Nghiệp
Thiêng Liêng nầy, mấy em đào tạo được sang trọng vẽ vang như thế
nầy, mấy em nhớ rằng hình trạng đó là mồ hôi nước mắt thành tưởng đó
vậy".
Chúng
Qua có mục đích là phận sự Thiêng Liêng mà chúng Qua thay thế cho
Đức Chí Tôn tạo nghiệp Thiêng Liêng cho mấy em, là Nghiệp của Đạo.
Chúng qua mơ ước thật sự. Tâm hồn chúng Qua mơ ước cái giàu sang
vinh hiển, đại thể là cái giàu sang vinh hiển của Đạo mà chớ
!
Trái
lụng lại dầu cho Đại
Nghiệp Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn sang trọng thế nào, mà mấy em bị
nghèo hèn đói khó, khổ cực thì giàu sang bóng dáng mà thôi chớ không
nghĩa lý gì hết, giả tướng mà thôi.
Chúng
Qua đã nghèo khổ 31 năm trước, Hội Thánh chỉ mong một điều là kiếm
phương nuôi cả toàn con cái của Đức Chí Tôn, tìm phương thế nuôi lẫn
nhau chưa hề biết trước Đại Nghiệp Thiêng Liêng Vĩ Đại như vầy. Qua
chỉ mong một điều tạo đặng hạnh phúc cho mấy em, đó là mục đích tối
yếu trọng của chúng Qua đó vậy.
CHUNG
MỤC-LỤC
1.- Đức
Hộ-Pháp huấn-dụ các cấp chỉ-huy và chiến binh Cao-Đài trong dịp đầu
xuân.
2.- Kỷ
niệm đệ thất chu niên ngày xuất quân
Cao-Đài.
3.- Cỏi
hửu vi thế nào thì cánh thiêng-liêng hằng sông thế
nấy.
4.-
Chí-hướng vĩ-đại của Ngài Traần Khai Pháp.
5.-
Công nghiệp của Đạo-nhơn Phạm-công-Đằng và các đệ-tử
Phạm-môn.
6.- Cái
thiệt và cái giả của Quyền và Lợi trên thế
gian.
7.-
Nhắc lại Tiểu-sử và công-nghiệp Đức Cao
Thượng-Phẩm.
8.-
Văn-minh Khổng-giáo đào-tạo nên hình tướng Quốc-thể
Việt-nam.
9.- Lễ
kỷ-niêm đức Cựu-Hoàng Thành-Thái.
10.-
Lý-do chuyến Aâu-du của Đức Hộ-Pháp.
11.-
Các Co-quan hành-chánh Đạo và Quân-đội tiển đưa Đức Hộ-Pháp sang
Pháp.
12.-
Hội Thánh tiếp đón Đức Hộ-Pháp Âu-du trở
về.
13.-
Kết-quả chuyến Âu du của Đức Hộ-Pháp.
14.-
Sứ-mạng Truyền-giáo.
15.-
Lời phủ-dụ của Đức Hộ-Pháp trước khi đi
Đài-Loan.
16.-Đức
Hộ-Pháp tuyên-bô khi Đức Ngài rước xác tro của Đức Kỳ ngoại hầu
Cường Để về đến tại phi-trường
Tân-sơn-nhứt.
17.-
Đức Hộ-Pháp giảng về việc rước xác tro của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để
về nước.
18.-
Anh Cả Đức Quyền Giáo Tông chịu khổ nhục buổi ban sơ, để ngày nay
chúng ta được vinh-hiển.
19.-
Lịch-sử thông công với cỏi Thiêng-Liêng để mở Đạo buổi ban
sơ.
20.-
Phải lập thân danh như thế nào ?
21.- Lễ
Ban quyền Nữ Đoàn trưởng Phụ-tá Quân-Đội
Cao-Đài.
22.- Lễ
khánh thành chợ Tân-dân (Quy Thiện).
23.-
Đạo của Đấng Cứu-Thế.
24.-
So-sánh Nghiệp Đời với Nghiệp Đạo.
25.-
Đức Chí-Tôn Ban phép lành.
26 Bức
thơ Xuân của Đức Hộ-Pháp gởi toàn thể đồng-bào Việt-nam đầu xuân
Aát-mùi.
27.-
Đạo Cao-Đài ra mặt Quốc-tế.
28.-
Đức Hộ-Pháp cám-ơn quan-khách và phủ-dụ chiến-sĩ Cao-Đài trong dịp Lễ Kỷ-niệm
ngày Xuất Quân.
29.-
Hội Thánh Phước-Thiện do đâu mà có.
30.-
Đức Hộ-Pháp thuyết-minh công-nghiệp của các Thánh Tông-đồ trong dịp
lễ thiêu xác.
31.-
Đức Hộ-Pháp thuyết-minh về Đại-hội
Long-Hoa.
32.- Vì
lẽ gì Chí-Tôn đến và đến đặng làm gì.
33.-
So-sánh Quyền Đời và quyền Đạo.
34.-
Triết-lý nhơn-quả.
35.-
Chữ Hiếu.
36.-
Đức Hộ-Pháp phủ-giáo về trách-nhiệm cứu-khổ của Cơ-quan
Phước-Thiên.
37.-
Học và hành phải song song với nhau.
38.-
Đáp từ của Đức Hộ-Pháp trong dịp Lễ
Sinh-Nhật.
39.-
Hồng-oai Hồng từ.
40.-
Công nghiệp của Ngài Trần Khai Pháp.
41.- Lễ
khánh-thành Báo Quốc từ.
42.-
Đức Hộ-Pháp ngỏ lời cùng toàn Đạo nhơn dịp Lễ chúc xuân
Bính-thân.