Phần Thứ Hai

     

    Các Bài Thuyết Đạo, Huấn Từ
    và Diễn Văn của Đức Thượng Sanh

     

    * * *

     

    LỜI THUYẾT MINH CỦA ĐỨC THƯỢNG SANH

    TẠI TÒA THÁNH ĐÊM 14 RẠNG 15 THÁNG 4
    ĐINH DẬU (13-14/5/1957)

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Thưa ba vị Chánh Phối Sư
Thưa toàn thể Chức sắc Nam-Nữ
Thưa chư Đạo Hữu Lưỡng phái.

Chúng tôi, Thượng Sanh và Chư vị Thời quân, Bảo Quân HTĐ. Hôm nay lấy làm vui mừng về đến Tổ đình hội hiệp với chư quí hiền huynh, hiền tỷ để được cùng nhau chung gánh nhiệm vụ thiêng liêng đối với ĐỨC CHÍ TÔN, với ĐẠO và với nhơn sanh. Cái nhà chung này, trên vùng Thánh địa tạo thành bởi bao nhiêu tâm trí của chức sắc và lao lực của nhơn sanh, giờ này đã gom góp lại hầu hết những người của HTĐ mà lúc ban sơ ĐỨC CHÍ TÔN đã giao phó trách nhiệm lập Đạo. Vậy chúng tôi có lời chào thân mật toàn cả chức sắc Nam Nữ và chư Đạo Hữu lưỡng phái.


Theo quý vị đã biết, ngày nay tôi và chư vị thời quân HTĐ về Tòa Thánh đãm đương trách nhiệm cầm giềng mối Đạo, một là vì có sự thỏa thuận của các cơ quan trong Hội Thánh, hai là vì thấy tình thế của Đạo đã đến lúc cực kỳ nghiêm trọng nên chẳng đành tỏa quan thành bại. Cái nguyên do làm cho nhân tâm ly tán nền Đạo chinh nghiêng, chúng tôi xin miễn nhắc đến, đó là dĩ vãng. Điều chúng tôi cần quan tâm là hiện tại của Đạo, Đạo đã bị nguy nan, chúng ta cần phải lo cứu vãn.


Ngày nay toàn thể chức sắc lưỡng phái đã tín nhiệm chức sắc HTĐ và triệt để tuân theo mạng lệnh HTĐ điều khiển việc Đạo, hai bên HT và CT phải đồng tâm chung trí để lo xây dựng lại nền chánh giáo, sửa đương cho có trật tự điều hòa làm cho lộ rõ nét bác ái từ bi, nhơn sanh mới phấn khởi bước tới lo về tu niệm. Ngày giờ này chẳng phải ngày giờ nói nhiều nữa. Phải làm việc nhiều hơn nói và làm việc một cách minh bạch theo lẽ công, biết lo cho cái nên, biết sợ cái hư, dứt bỏ hết “bản ngã” ra ngoài , thì cả tư tưởng và hành độngmới được thanh cao trong sạch.


Hôm nay chúng tôi về đây để gánh lấy cực nhọc khổ tâm để phụng sự Đạo, phụng sự nhơn sanh chớ chẳng phải để tranh quyền cố vị. Trong cửa Đạo nhơn sanh đã lắm thống khổ, chúng ta hãy quên mình chia sớt cái thống khổ ấy, trong khi chúng ta tận tâm dìu bước Đạo và trông mong đi đến con đường êm ấm hơn, toàn diện hơn.


Điều chúng tôi chú ý là hành vi của tất cả chức sắc phải hoàn toàn ở trong mặt Đạo, do khuôn viên luật pháp của Đạo. Có vậy chúng ta mới cộng tác trong tình thân ái thiệt mặt để tâm dìu dắt nhau, nương nhờ nhau, sức thiêng liêng mới trợ giúp đưa chúng ta đến cứu cánh hoàn hảo. Chúng ta mang nặng xác phàm, tức phải có điều sơ sót. Vì đó một người mà nắm trọn quyền thống nhất trong tay thế nào tránh khỏi lạm quyền và độc đoán là điều tối kỵ đối với Đạo.


Ngày nay về đảm đương việc Đạo, chúng tôi quyết tôn trọng tinh thần tập thể, nghĩa là sẽ chung trí mà lái con thuyền Đạo giữa cơn sóng gió bão bùng. Phàm một sắc lịnh hay một quyết nghị nào sẽ đem ra ban hành là khi đã được phần đông chức sắc Hiệp Thiên Đài chấp thuận. Với tinh thần ấy, thêm vào thiện chí của chúng tôi, nếu có sơ sót, thiết tưởng sự sơ sót ấy không đến nỗi nào. Huống chi, yêu cầu sửa đổi lại là quyền của quý ngài đó vậy!
Thưa quý vị, chúng tôi mong rằng sau hồi sóng lặn gió êm, trời quang mây tạnh, chúng ta sẽ hiệp nhau phát họa một chương trình gồm cả các điều cần thiết trong lúc này để phục vụ đắc lực nhơn sanh trong cả hai phương diện vật chất và tinh thần đạo đức.


Trước khi dứt lời, xin quý vị cùng chúng tôi hằng ngày cầu nguyện Ơn Trên trợ giúp chúng ta làm tròn thiên chức.

    Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
    Thay mặt HIỆP THIÊN ĐÀI.
    (ký tên)
    CAO THƯỢNG SANH

     

LƯƠNG TÂM

Viết để tưởng nhớ hai Đấng Hiền Triết của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ :
ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG VÀ ĐỨC CAO THƯỢNG PHẨM.

 

TÂM hay là LƯƠNG TÂM là một vấn đề mà về mặt Đạo người ta đã có nhiều bàn luận đến, nhưng lý thuyết thì vẫn có mà thực hành ít ai để ý đến. TÂM là chi?
Tâm là một nguồn sáng Thiêng Liêng, một điểm linh quang của Đức Chí Tôn ban bố cho con người để khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như bước đường Đạo của mỗi cá nhân trong kiếp sanh, hầu lúc rời bỏ xác phàm, mỗi nguyên nhân hay hóa nhơn được hoặc qui hồi cựu vị, hoặc thăng đẳng cấp, hoặc bị trừng trị theo Luật Thiên Điều. Dầu cho Thần Thánh Tiên Phật khi xuống thế mang xác phàm thì buổi chung qui được hay phạt, thăng hay đọa đều do nơi Tâm cả, và nếu người được tánh linh hơn muôn vật là nhờ có LƯƠNG TÂM vậy. Nên để ý là trong các đẳng nhơn sanh, người dầu sang hay hèn, Thánh nhân hay thường nhân, cái tâm của Thiêng Liêng ban cho đều có sự sáng suốt ngang nhau không khi nào chênh lệch.


Vì lẽ đó, nếu mỗi người ai cũng theo thiên lý mà tu dưỡng mà hành động thì không ai hơn ai cả. Xưa Thành Nghiễn bảo Tề Cảnh Công rằng: Thánh Hiền là Trượng phu, ta cũng là Trượng phu ta sợ gì không được như Thánh Hiền. Nhan Hồi cũng đã nói: Vua Thuấn là người nào, ta là người nào, ai theo Đạo mà làm thì cũng thế cả.


TÂM được sáng suốt thêm hay trở nên mờ tối là do nơi con người biết nuôi nấng, nâng cao nó lên hay là đàn áp làm cho nó bị che lấp mất. TÂM ở nơi con người cũng như một vị quốc sư ở cạnh một đấngcầm quyền thống trị thiên hạ. Trong khi ta đang ngẩn ngơ trước một sắc đẹp mỹ nhơn hoặc ta đương dùng thẳng trước một món lợi lớn của người đem hiến cho ta đặng dục ta làm chuyện phi pháp, thì một tiếng nói văng vẳng bên tai ta, nghe dịu dàng, chơn chánh và siêu kỳ:

    “Không, người không nên động đến sắc đẹp ấy, vì sắc đẹp ấy đã có chủ (hoặc) sắc đẹp ấy là một thứ trái cấm bất khả xâm phạm. Động chạm đến ắt tai họa sẽ đến cho ngươi.”. Hay là “món lợi ấy là của phi nghĩa, ngươi không có quyền thâu dụng mà làm chuyện bất công. Thâu dụng của ấy, ắt tai họa chẳng nhỏ và danh dự ngươi sẽ bị tổn thương chẳng ít”.

Tiếng nói thân yêu ấy là chi ? Đó là tiếng nói thiêng liêng, tiếng nói của lương tâm vậy. Nhưng khi tiếng nói ấy dứt thì một tiếng nói khác tiếp theo, tiếng nói sau này chẳng phải dịu dàng. Khác với tiếng nói của lẽ phải. Ấy là tiếng kêu gào của xác thịt, của dục vọng, tức là của tà thần.

    Tiếng nói ấy lừng lên đánh đổ tiếng nói trước kia: “Mi dại gì mà chẳng nhận món tiền ấy, mi chỉ ra chút công mọn mà đặng lấp đầy những chỗ thiếu thốn của mi. Mi sẽ được ăn mặc sang trọng thiên hạ sẽ thù phụng mi và mi chẳng còn khổ cực nữa”.

Hay là: “Hương trời, sắc nước là của chung, dại gì mà chẳng hưởng. Thanh xuân bất tái, nếu bỏ qua chẳng còn dịp nào hay hơn nữa”.
Tiếng nói của lương tâm lại nhỏ nhẹ khuyên can nữa và tiếng nói của dục vọng phản đối chẳng vừa. Rốt cuộc lương tâm thắng dục vọng, đó là Thánh Đức thắng phàm tâm. Ta thắng được là nhờ tiếng nói của lương tâm được thích tùng, nhờ ta biết cân phân lẽ phải của đạo lý với sự dục hư của tà thần.
Nếu ta nhu nhược để cho vật dục lôi cuốn đánh đổ cả chơn lý của lương tâm, tất nhiên ta phải bị sa ngã vào đường tội lỗi. Ấy là tinh thần chịu khuất phục vật chất.


Một lần sa ngã cũng chưa phải hại lớn, ngặc nỗi cái sa ngã này lôi cuốn cái sa ngã khác, thất tình lục dục thay phiên nhau đưa đẩy ta đi đến mức đường cùng ; tối tăm ô trược, tức là ta bị đắm đuối giữa vực thẳm hang sâu. Là vì cái sáng suốt thiêng liêng ở nơi mình không khêu lên lại làm cho nó bị lu mờ và bị vùi lấp cho đến chỗ bế tắc. Thì con người lúc ấy đã mất hẳn ánh sáng thiêng liêng và kiếp sống như thế trở nên nguy hiểm cho xã hội. Trái lại cái tâm được nuôi nấng, được nâng cao, cái tâm của các bậc phi thường như ĐỊCH NHƠN KIỆT đời ĐƯỜNG, QUAN CÔNG HẦU đời HỚN là tâm làm cho những đấng ấy danh vọng xa bay, tiếng tăm lừng lẫy. Họ xem sắc đẹp như cây khô, thị tiền tài như dép rách, đời trong sạch thanh bai từng làm cho kẻ thù nghịch phải khép nép cúi đầu. Vì vậy mà được danh tạc sử xanh, thiên hạ sùng bái. Những câu:

    “Mỹ sắc nhơn gian tối lạc xuân
    Ngã dâm nhân phụ, phụ dâm nhân
    Nhược tương mỹ sắc tu vong phụ
    Biến thể thơ toàn diệt sắc tâm.

Và gương Trung, Can, Nghĩa, Khí há chẳng còn được ca tụng đến nay đó sao?
Những bậc vĩ nhân siêu phàm của non nước Việt như PHAN THANH GIẢN, LÊ VĂN DUYỆT, HƯNG ĐẠO VƯƠNG, NGÔ TÙNG CHÂU, VÕ TÁNH ..v..v.... Ngày nay được danh tạc sử xanh là nhờ nơi khí phách anh hùng tâm linh cao thượng, lòng trung quân ái quốc đến thác chẳng dời đổi, mặc thời thế đổi thay, mặc bao nhiêu sóng gió.


Về mặt Đạo, đối với người đã tầm được lý tưởng cao siêu, cái tâm cần phải giữ cho trong sạch thanh cao. Vì tôn chỉ Đạo là khêu ngọn đuốc thiêng liêng để dìu đời cho sáng suốt, chẳng khác chi chiếc thuyền từ vớt khách giữa sông mê, đưa người qua biển khổ. Bên trong đã sẳn cái lý toàn nhiên nơi tâm, bên ngoài nhờ giáo lý cao siêu của Đạo, người hành đạo có đủ tài liệu phương chước sửa mình và trau giồi hầu treo gương sáng cho người đời noi bước.


Trước khi nhập Đạo, ta đã từng quan sát, kiếm hiểu lẽ mầu nhiệm sâu sa, cân phân điều chánh lẽ tà, rõ biết rồi ta dọn mình, lập ý cho thành, tâm cho định, mới đến khắc kỹ tu thân, khi ấy người hành Đạo đã có sẳn chí hướng, đi từ bước một, mỗi bước mỗi dè dặt cân phân và nên mãi đinh ninh rằng người nơi cửa Đạo phải làm sao cho thoát khỏi thường tình, phải đi ngược với thế sự.


Đời chuộng sang vinh, Đạo chuộng khổ hạnh, Đời ham trược phú, Đạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa là cảnh áo bả hài gai nơi tịnh xá, tương dưa thanh đạm chốn thiền môn, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục. Giữ được bao nhiêu đức tính ấy người hành đạo bước được vững vàng không dục vọng nào lôi cuốn nỗi.


THÍCH GIÁO: Theo THÍCH GIÁO, con đường đi đến thành chánh quả là : “MINH TÂM KIẾN TÁNH”. Nghĩa là phải trau giồi bản tâm cho sáng suốt đặng kiến tánh. KIẾN TÁNH tức là cùng PHẬT đồng tánh thấy sáng đạo nhiệm mầu, các điều vọng niệm thảy đều tiêu tan, sống ở chơn tâm hoàn toàn giải thoát.


Bậc đã được kiến tánh, giữ cõi lòng thật thanh tịnh trở lại với bản tánh thiên nhiên tức là lúc mắt tuy thấy thiên hình vạn trạng trí tưởng nghìn muôn pháp, nhưng tâm vẫn yên tịnh dường như không gì xao xuyến. Lúc ấy bậc kiến tánh được thấy ngọn đèn chơn lý đột nhiên đưa đến sáng rạng lạ thường để chỉ đường dẫn lối đưa đến cõi tâm giới nhiệm mầu.


Ví bằng bản tâm để cho mờ ám vọng động bởi sức quyến rũ bên ngoài thì người tu biết bao giờ kiến tánh mà tầm lối giải thoát. Vậy mê là chúng sanh, ngộ là PHẬT. Vì đó PHẬT HỌC cho cái tâm là cái rất nông nỗi, lại đặt cho tâm cái tên là giặc (tâm vi tặc). Phật học dạy xóa bỏ vọng tâm thường lôi cuốn con người vào đường tội lỗi. Nếu không bỏ vọng tâm thì chân tâm diệu minh không hiện phát ra được. Xóa bỏ vọng tâm tức là để cho chơn tâm phát hiện, người tu hành mới thoát khỏi thất tình lục dục hiểu thấu chơn lý và thắng được mọi sự khổ.


THÂN NGHIỆP, Ý NGHIỆP, KHẨU NGHIỆP gọi là tam nghiệp làm cho con người luân hồi từ kiếp này đến kiếp khác. Cứ nghiệp trước tàn, nghiệp sau nối kế tiếp không ngừng, đó là do nơi tâm tạo. Vì tâm động là phát ra tư tưởng, có tư tưởng rồi mới có nói và làm theo.
Thế thì tâm là nguồn gốc sanh điều lành việc dữ, cái máy tạo thành họa phước Thánh phàm, nên Thánh Hiền có dạy rằng:

    Tam điểm như tinh tượng
    Hoành câu tợ nguyệt tà
    Phi mao tùng thủ đắc
    Tổ Phật dã do tha.

Nghĩa là: Trên ba điểm như ba ngôi sao, dưới một vòng câu như hình nguyệt xế, cánh lông theo ấy được, thành Phật do bởi gì?
LÃO GIÁO: Theo triết học của Đạo Giáo, Lão Tử rất chú ý đến việc tu thân để cho mình có đủ đức tính kéo lại những lỗi lầm sa ngã của quần chúng.
Ngài nói: “Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân, nếu ta không có cái thân thì ta có lo gì ?”.Có thân tức là có cái tâm, có cái tâm không dễ gì điều khiển và giữ gìn cho trong sạch.


Theo thuyết của Ngàicái thân đáng quý là khi đem nó ra phụng sự cho thiên hạ, khi phụng sự cho thiên hạ cái tâm không còn gì xao xuyến ích kỷ để lo cho mình nữa. Vì lẽ cái tâm hay lừa đảo, hay làm cho con người sa ngã nên theo phép tu thân của Lão giáo, ta phải dứt bỏ những điều ham muốn, những tư tưởng ngông cuồng có thể hại đến tâm tính. Giữ lòng được phẳng lặng bình tĩnh để trông rõ những sự huyền diệu thiêng liêng, tức là lấy cái tâm đè nén cái khí để nuôi nấng tinh thần được cao siêu thoát tục, đó là con đường dẫn đến cơ đắc đạo.


“TU TÂM, LUYỆN TÁNH” là thuyết của LÃO GIÁO dạy người mộ đạo muốn tầm tiên lánh tục. LÃO TỬ coi danh lợi là thù của thân, không lấy cái sống vật chất làm hạnh phúc, nên khuyên người đời chỉ nên chú trọng tinh thần.Phương pháp giáo hóa của Ngài không giống các bậc hiền triết khác, vì lẽ ngài không thích chen vai với đời để lấy sự hiểu biết khuyên dạy quần chúng.Người lý tưởng của Ngài là người sống trong cảnh tịch mịch, cách biệt vời người đời, đóng cửa, rấp ngỏ không giao thiệp với ai, để rèn luyện tâm tánh, trụ vững tinh thần như thế mới gần gũi được với thiên nhiên, quan năng trực giác mới được sáng suốt, tuy không ra khỏi ngỏ cũng hiểu được thiên hạ, không ngó qua cửa sổ cũng biết được thiên đạo.


Người ấy LÃO TỮ gọi là Thánh nhơn.
Trái lại, người chung đụng với thế gian bị tranh đấu về danh lợi, làm cho tâm tánh vọng động càng đi xa càng bị sóng đời lôi cuốn, bản tâm rối loạn, thiên tính càng lu mờ, đó là tự mình tìm lối diệt vong vậy.
Người ta cho LÃO TỮ có tư tưởng yếm thế tiêu cực, hoặc tư tưởng của Ngài là độc thiện kỳ thân hay cá nhân chủ nghĩa.Nhưng xét ra, người học Đạo nên tùy theo đẳng cấp và trí thức của mình, chọn lọc thuyết nào thuận tiện thi hành cho tâm tánh được nâng cao, tinh thần được cứng rắn.Ngoài ra phương pháp nào quá cao siêu ta chưa với tới được thì để lại cho bậc có quan niệm cao thượng hơn ta thực hành.


KHỔNG GIÁO:Khổng Giáo cho rằng tâm là thần minh của Trời phú cho, nên tâm của ta với Trời là một thể.Mạnh Tử lại cho Tánh là cái bản nguyên thiêng liêng, đối với Tâm vẫn có một.Hễ biết rõ tâm thì ta biết rõ tánh, biết rõ tánh tức là biết rõ trời đất vạn vật."TỒN TÂM DƯỠNG TÁNH” là giữ cho mình còn cái tâm hư linh; nghĩa là đừng để cho tự ý che lấp mất và nuôi cho cái tánh được sáng suốt toàn hảo như của Trời đã ban cho ta, tức là biết có Trời và thờ Trời một cách chơn thật. Cái bản tâm giữ được còn mới thật là lương tâm.Có lương tâm mới có lương năng và lương tri, tức là cái giỏi biết rất tự nhiên, rất mẫn tuệ (người không học mà giỏi gọi là lương năng, không suy nghĩ mà biết gọi là lương tri.Cũng như đứa trẻ con còn ẳm trên tay, không đứa nào là không biết yêu mến cha mẹ, chỉ vì lương tâm còn nguyên vẹn thuần túy).


Theo thuyết KHỔNG GIÁO, người ta ở đời phân biệt nhau ở nơi quân tử hay tiểu nhơn, hiền hay ngu là do người ta giữ cho còn cái tâm hay để cho mất cái tâm.Giữ cho còn cái tâm là đáng bậc Thánh Hiền, bỏ mất cái tâm con người vẫn là một cây thịt biết đi biết chạy mà thôi.Thầy MẠNH TỬ chú ý nhứt về chỗ tìm lại cái tâm của mình đã để sổ ra mất, vì lẽ người ta để con gà, con chó sổ ra còn biết đi tìm, há đâu để món báu thiêng liêng là cái tâm của mình sổ ra lại không đi tìm hay sao?


Tìm lại cái tâm đã mất tức là sửa mình đó.


Từ bậc vua chúa dĩ chí thứ dân, ai cũng lấy sự học để sửa mình làm gốc.Muốn sửa mình cho ra người có đức hạnh hoàn toàn, trước phải giữ gìn cái tâm cho chính, cái ý cho thành, sau mới cách vật trí tri, nghĩa là tìm hiểu rõ các sự vật và biết đến cho cùng cực của sự biết. Muốn giữ cái tâm cho chính, sự sợ hãi, sự vui say, sự ưu hoạn, làm cho cái tâm ta chênh lệch xao xuyến vì một khi tâm bị loạn thì mắt không trông thấy, tai nghe không hiểu, ăn không biết mùi, tất nhiên ta chẳng còn phân biệt được tà chánh ngay gian mà xử sự đúng theo đạo lý. Khi tâm đã chánh, ý đã thành, cái lương tri lương năng của ta trở nên mẫn huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ đến chỗ nhiệm mầu sâu xa dầu đối phó với cảnh ngộ nào cũng điều hòa và hợp với lẽ phải. Chừng đó con đường đã dọn sẵn, sự sáng suốt của tâm đã đủ sức dìu dắt ta trong bước tu thân, có còn chi trở ngại nữa.

.
Việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ cũng do nơi con đường đó mà đạt thành .


Ngày nay ĐỨC CHÍ TÔN khai nền ĐẠI ĐẠO tại VIỆT NAM để cứu vớt nhân loại lần cuối cùng qui tam giáo, hiệp ngũ chi đem chủ nghĩa từ bi bác ái lập nền tảng đại đồng hòa bình. Đức Chí Tôn từng dạy chúng ta lập tâm chí thanh cao và noi theo đức háo sanh của Ngài mà phổ độ sanh chúng.
Lúc mới khai Đạo (1926), mỗi đêm những chức sắc lớn phải đi đến nhà các đạo hữu mới nhập môn đặng làm lễ khai đàn .Một hôm nhiều chức sắc đến khai đàn tại nhà một đạo hữu ở trong một túp lều tranh nơi xóm dân lao động.Đường đi trong ngõ hẽm trơn trợt vì gặp phải mùa mưa, phần đông chức sắc than phiền dường như rất bực lòng đi đến chỗ không xứng đáng .


Lúc khai đàn, Đức Chí Tôn giáng cơ ban khen Vị Đạo Hữu chủ đàn và rầy cả chức sắc sao không hiểu nghĩa vụ của mình đối với Đạo, nhơn sanh.
Bài thi cho cả chức sắc hiện diện như sau đây:

    Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi
    Há cần hạ giới dụng cao ngôi?

    Hèn sang trối kệ tâm là quí

    Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi

 Từ ấy các chức sắc đi chứng lễ khai đàn nơi tư gia, tỏ ý sốt sắng và không dám câu nệ nữa.Đức Chí Tôn thường nói với các môn đệ:
 “TÂM các con vừa động Thầy đã biết rõ, vì TÂM các con là một phần thiêng liêng của Thầy ban cho, vậy tư tưởng các con Thầy đều biết, khá tìm hiểu.”
 Do đó chúng ta biết DÂN TÂM tức là THIÊN Ý và theo thể pháp của Đạo, duy có quyền Vạn linh đối với quyền Chí Tôn mà thôi.
Lúc ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG còn tại thế, Ngài có tiếp một bài thi của Đức Chí Tôn như sau đây:

    Nghiêng vai gánh vác đạo nhà Nam
    Gắng khổ chìu tâm độ tánh phàm

    Khổ ấy về sau danh phận xứng

    Chăm lo trách nhậm mới gìn kham.

Ngài thường nói với các chức sắc gần gũi với Ngài:“Tuy qua đi hành đạo vất vả cực nhọc nhưng qua vẫn vui lòng, vì đối với Thầy, tâm qua được trong sạch, đối với nhơn sanh tâm qua được thơ thới an vui vì làm tròn nhiệm vụ.Ngoài đời người ta được thưởng công bằng tiền bạc, trong cửa đạo chúng ta được thưởng công bằng sự ban khen phủ ủy của lương tâm.


Những tiếng ban khen ấy đối với qua không lấy vật chi quí báu của đời mua được”.
Quí hóa thay lời nói của người Anh cả chúng ta.Ngày nay bậc cao khiết ấy đã về với Thầy rồi, lời nói trên đây còn văng vẳng bên tai của kẻ viết bài này.
Bức tranh xã hội thường ngày vẽ cho chúng ta thấy nhiều chuyện trớ trêu khúc mắc và chỉ cho chúng ta biết rằng đời hiện tại là đời mạt kiếp, nên cang thường đảo ngược, luân lý suy đồi.Người ta đua nhau lăn xả vào vòng trụy lạc, sống một đời vật chất vô nghĩa, vô nhân, vô tâm, vô đạo.Nào con giết cha, vợ giết chồng, nào anh em làm loạn luân thường, nào mẹ bán con vì mối lợi thừa, chồng hiến vợ cho kẻ có quyền để cậy thân dựa thế.Người ta dám giết lẫn nhau vì số tiền một vài trăm đồng hoặc tạo cảnh nồi da xáo thịt vì bát cơm manh áo.


Đức PHẬT THÍCH CA có giáng cơ như vầy:

    Lộ vô nhân hành
    Điền vô nhân canh

    Đạo vô nhân thức

    Ta hồ tận chúng sanh !

Điền là tâm điền, chỉ nghĩa tâm người ta như miếng ruộng, cần phải cày cấy, gieo giống tốt mới nở bông sanh trái, bằng để u trệ không lo săn sóc, ruộng sẽ bị cỏ chạ cây rừng loán mọc, thành đất hoang vu, chứa những độc trùng hiểm nguykhông ít.  Thường ta thấy nơi trường đời người ta mượn cái lốt bề ngoài để lòe quần chúng để che khuất cái tâm khô khan cằn cổi bên trong, đặng chờ dịp lừa phỉnh nhau và sát hại nhau.


TÂM bất chánh trong phạm vi eo hẹp thì làm rối loạn gia đình, tâm bất chánh ở chỗ xử sự xã giao thì gây ác cảm, chác oán thù, tâm bất chánh loán vào xã hội tạo giây oan nghiệt, đưa đến cảnh tội tù, xô đẩy con người vào vực sâu hang thẵm.  Gặp được mối Đạo mầu, chúng ta rất hữu phước được Đức Chí Tôn dìu dắt và giáo hóa, chúng ta nên gắng công trau giồi tâmchí hầu nâng cao danh thể Đạo và thức tỉnh những kẻ sai bước lạc đường.


Đức Chí Tôn cầm quyền cả càn khôn thế giới, đã từng hạ mình làm hồn ma đặng dìu dắt các môn đệ lúc ban sơ, ta há vì tự trọng tấm thân mà không noi gương của Ngài trong muôn một hay sao? Có tài thì cái tài rất hữu dụng, mà đức lại càng qúi hơn. Diêu Trì Cung Bát Nương có khuyên dạy về hai chữ tài và đức như sau đây:

    Tài lấn đức tài mau diệt tận
    Đức đồng tài, tài phấn khởi thêm

    Mênh mông biển khổ con thuyền

    Đạo sơ đức kém ngửa nghiêng sóng trần

    Ỹ tài sức cậy thân dựa thế

    Tài càng nhiều càng lụy đến thân

    Tài kia tai nọ luôn vần

    Đức tài trau luyện đồng cân mới mầu

    Trăm năm một cuộc bể dâu!

 Tố Như Tiên sanh là cụ Nguyễn Du dạy đời hai câu bất hủ nầy:

    Thiện căn ở tại lòng ta
    Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài ”

Nơi cửa Đạo, người hành đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh và muốn lập chữ tâm phải quên được cái “bản ngã” thường tình.Trừ bỏ được bịnh “chỉ biết có mình”, hành vi nào cũng được trong sạch, khỏi bận tâm lo mất còn thiếu đủ.Trong cảnh hèn sang, vui khổ, phải chia sớt với tất cả bạn đồng hành, sự tương thân, tương ái mới được trọn vẹn.


 Lưu Hướng Liệt Nữ truyện Trung Hoa có chép một truyện như sau đây:

 

“Lúc Xuân Thu, nước Tề cữ binh phạt nước Lỗ.Khi đến chỗ giáp giới, viên tướng chỉ huy binh Tề trông thấy một người đàn bà một tay bồng đứa bé, tay kia dắt một đứa bé nữa.Quân tràn tới, người đàn bà vội bỏ đứa bé đang bồng trên tay xuống, xốc đứa bé đang dắt, rồi hơ hãi chạy trốn vào rừng.Đứa bé bị bỏ, chạy theo la khóc, người đàn bà cứ lo chạy không ngó lại.
Viên tướng Tề sai quân bắt lại và hỏi:
“Đứa bé nàng bồng chạy là con ai, đứa bé bỏ lại là con ai?”
- Thưa, đứa tôi bế chạy là con của anh cả tôi, đứa tôi bỏ lại là con tôi.Vì không thể bảo toàn cả hai đứa, nên tôi phải bỏ con tôi.
- Tướng Tề nói:“Tình mẹ con không đau xót sao?- Ai nở bỏ con mình để cứu lấy con của anh là thế nào?
- Con của tôi là tình riêng, con của anh tôi là “nghĩa công”, bỏ con đẻ tuy đau xót, nhưng muốn làm tròn nghĩa công, tôi phải lìa nó mà cứu con anh tôi.Tôi không thể nào mang tiếng “vô nghĩa” mà sống ở nước tôi được.


Viên tướng Tề dừng binh lại, đợi vua Tề đi tới quì tâu: “Nước Lỗ chưa thể đánh được.Quân ta mới tới biên giới, đã thấy một kẻ phụ nhơn ở xó rừng góc núi còn biết chẳng vì “tình riêng” mà hại “nghĩa công” huống chi là những bậc quan lại sĩ phu trong nước.Vậy xin kéo binh về là hay hơn”. Vua Tề cho là phải. Nhờ vậy người đàn bà bảo toàn cả hai đứa bé và sau được Vua nước Lỗ thưởng một trăm tấm lụa và tặng hai chữ “nghĩa cô”.

 

Đó là tâm lý xử nghĩa của một người đàn bà ở tận góc núi ven rừng nơi trường đời.
Khi người ta bỏ được thuyết “bản ngã” ra ngoài hành động trông ra chánh đáng và cao thượng làm sao! Nơi cửa Đạo, chủ nghĩa giác thế độ đời lại cao cả hơn nữa.Nếu tâm vẫn còn chịu khổ để lo cái “của mình” còn hay mất, được hay thua, thêm hay bớt thì phận sự Đạo làm sao cho trọn?


Đức CAO THƯỢNG PHẨM có giáng cơ dạy rằng: “Phải giữthân thể khỏi sa ngã vào sự ràng buộc nào phải cực trí lao thần.Tâm được trong sạch thanh cao, Thần được nhẹ nhàng thơ thới, người hành đạo mới thành hữu dụng cho Đạo Đời. Còn mang lấy xác thân là còn trách nhiệm cho đến ngày thở hơi cuối cùng.Phải tự nuôi tâm chí cho cao thượng, tự bảo đãm cái trách nhậm ấy đặng tự tạo con đường “sống còn” hầu giải thoát cho những kẻ đương “sống mất”. Than ôi !Họ “sống mất” không biết bao nhiêu, thành ra đời loạn, chúng ta có đành chịu kiếp sống mất chăng?


Dưới đây là một bài thi giáng cơ của Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng:

    Tìm Đạo mà chi khá hỏi mình
    Bến mê mới vững vớt quần sinh

    Vun trồng cội phúc ơn chan thấm

    Giong rủi đường tiên nghĩa tạc gìn

    Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh

    Lòng thanh nhờ lẫn lóng hơi thanh

    Thiên cơ tuy hẵn nêu trường khảo

    Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành”

 Thánh Giáo của Đức Diêu Trì Kim Mẫu:

    Đời hay Đạo cũng vậy, muốn lập nền tảng cho sự thái bình, phải cần lập tâm chơn chánh đỉnh đạt để gieo sự hòa nhã yêu đương rồi mới gia tề quốc trị.
    Thiếu nhân kém đức, tâm chí nông nỗi, chủ hướng mơ màng, chẳng qua tạo cảnh khổ cho nhơn sanh mà thôi.Vậy các con nên trao giồi chữ tâm cho lắm.

    Mẹ để ít lời dưới đây cho các con làm chuẩn thằng trong bước Đạo.

    “Gắng sức trau giồi một chữ TÂM

    Đạo đời muôn việc khỏi sai lầm

    Tâm thành ắt đoạt đường tu vững

    Tâm chánh mới mong mối đạo cầm

    Tâm ái nhơn sanh an bốn biển

    Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm

    Đường tâm cửa Thánh dù chưa vẹn

    Có buổi hoài công bước Đạo tầm.”

 Mấy bài Thánh Giáo trích lục chúng ta đã được đọc qua là những lời châu ngọc, chúng ta nên cố gắng nhớ để làm kinh nhựt tụng.
 Trong bước đường tu, dưới bóng từ bi bác ái của Đức Chí Tôn, ước mong những lời dạy bảo ấy sẽ giúp ích mãy may cho những đạo hữu ham tìm ánh sáng của chơn lý.
 

MÙA THU NĂM MẬU TUẤT (Septembre 1958)

 

DIỄN VĂN CHÚC TẾT XUÂN MẬU TUẤT

Sau buổi lễ Chung Niên – Tháng Chạp Đinh Dậu

    Thưa chưChức sắc lưỡng phái,
    Thưa chư Chức việc và Đạo hữu Nam Nữ,

Năm Đinh Dậu hầu mãn, xuân Mậu Tuất sắp đến, ngày tháng như thoi đưa, không mấy hôm nữa chúng ta sẽ bước qua mùa xuân vui tươi đẹp đẽ, để cho đời và Đạo phấn khởi trên đường tiến triển về hình thức lẫn tinh thần.


Một năm đã qua, khác hơn ngoài mặt đời, Chức sắc trong Hội Thánh không tính sổ chung niên để biết lộc vị tấn hay thối, vốn liếng lỗ hay lời, mùa màng được hay thất mà chỉ cân phân về hạnh đứcsánh với năm trước có được tiến triển chăng ? Công quả có được xứng đáng hơn chăng ?Sau nữa hành Đạo có được ổn định và hoàn mỹ hơn chăng ?


Sự so sánh ấy hầu đem lại một bằng chứng hơn hay kém, chúng ta cũng cứ gắng sức nhiều hơn nữa, đặng cho tinh thần đạo đức càng được nâng cao thêm mãi, chúng ta mới có thể dìu cơ phổ độ hầu cứu vớt nhơn sanh cho kịp kỳ theo Thiên ý của Đức CHÍ-TÔN mong mỏi. Cần nhứt là chúng ta nên lưu tâm sự nhận định tình thế của Đạo chẳng căn cứ theo bề ngoài mà phải căn cứ theo tinh thần thiệt mặt của Đạo là cái căn bản của ĐẠO ĐỨC VÔ HÌNH đã được un đúc từ buổi ban sơ, và nhờ thế Thánh Thể nơi mặt thế của Đức CHÍ-TÔN mới cảm hóa nhơn tâm và bảo tồn nghiệp Đạo...


Chức sắc Hiệp Thiên Đài về đảm đương việc Đạo được hơn chín tháng nay. Chúng tôi không dám tự hào cho là đủ tài,đủ đức để làm tròn nhiệm vụ nặng nề, nhưng đã chịu sứ mạng Thiêng liêng, chúng tôi cứ tin nơi sự trợ giúp của Ơn Trên, quyết để tâm trí làm việc chung sức với toàn thể Chức sắc đặng xoay chiều đổi hướng thế nào cho được thuận với đời, hiệp với Đạo, tránh cái hư, tìm cái nên, gắng sức làm tôi tớ cho Đức CHÍ-TÔN mong thực hành chủ nghĩa độ đời và gieo sự thương yêu trong cửa Đạo.


Hằng ngày chúng tôi vẫn cầu nguyện với Đại Từ Phụ bố trí chúng tôi đặng sáng suốt để làm tròn phận sự, một phận sự mà chúng tôi tự biết là quá sức của chúng tôi.
Vì vậy chúng tôi vẫn canh cánh bên lòng nỗi lo lắng về tiền đồ của nghiệp Đạo. Chúng tôi ước mong toàn thể Chức sắc, Chức việc thông cảm nỗi ưu tư ấy, để tâm giúp đỡ lẫn nhau, hầu đem chiếc thuyền từ đến chỗ thuận nẻo êm dòng, đưa con cái của Đại Từ Phụ cho đến tận bên bờ giác.


Thưa chư Chức sắc lưỡng phái, chúng ta mang nặng xác phàm thì dầu cho ai cũng không tránh khỏi sơ sót. Cũngmay là chúng ta đã làm việc trong tinh thần tập thể, hiệp tâm chung trí, nghe nhau, chìu nhau, ai cũng quyết chí làm nên cho Đạo. Nhờ vậy, dầu có sơ sót, thiết tưởng sự sơ sót cũng chẳng đến nỗi nào.
Ngoài ra, chúng tôi không ham lảnh lấy lời khen mà thiếu thành thực, trái lại chúng tôi muốn nghe những lời cải sửa đúng đắn mà không có ác ý và cũng đồng một quan niệm , chúng ta nên thành thật cải sửa lẫn nhau chúng ta mới mau tiến triển trên đường đạo đức. Năm cũ sắp tàn, thời gian trôi qua thấm thoát, tuổi chẳng chờ người mà phận sự còn bộn bề chưa biết đâu là cứu cánh. Một đại thi gia ngày xưa của Việt Nam đã tiếc thời gian trôi qua mà không nên việc trong hai câu:

    “Vô thành vãng nhựt tư nan tích,
    Dĩ lão đương xuân sấm mạc sầu”.

Thích nôm:

    “ Ngày qua đáng tiếc chưa nên việc,
    Già đến đừng phiền với chút xuân”.

Công việc chúng tôi đã thực hành trong năm kể từ ngày Rằm tháng tư,tuy đem lại một kết quả chưa gọi là hoàn toàn tốt đẹp theo ý muốn, nhưng chúng tôi đã gắng sức làm việc đã có giúp ích phần nào cho đời cho Đạo, thì những ngày trôi qua cũng không phải đáng tiếc . Đối với Đạo, năm Đinh Dậu là năm đáng buồn nhứt mà cũng đáng vui nhứt. Buồn là vì có biến chuyển xảy ra trong lúc đầu năm làm cho con cái của Đạo phải chịu thống khổ, nhân tâm ly tán tình thế đảo điên.
Vui là vì nhờ quyền năng vô đối của Ơn Trên mà cơ phục hưng lần hồi thực hiện, để cho toàn Đạo vững tâm lo bề tu niệm, Hội Thánh tiếp tục điều khiển việc Đạo và phục vụ nhơn sanh.


Trong cửa Đạo về phần vật chất, nhơn sanh còn lắm vất vả, nhưng cũng vẫn hy sinh chịu khổ hạnh đủ mọi phương diện để giúp phần xây dựng cho nền chánh giáo.
Chúng tôi không khỏi ngậm ngùi khi mà Hội Thánh thấychưa có thể lấp bằng những chỗ thiếu thốn của bao nhiêu đạo hữu hiến thân cho Đạo, mặc dầu chúng tôi đã cố gắng cải thiện phần nào tình trạng ấy. Chúng tôi vẫn lưu tâm lo tìm phương chước đem lại cho đời sống của bổn Đạo một sự an ủi thiết thực, cần yếu và chúng tôi tin chắc rằng trong sự cộng tác thànhthật của lưỡng đài Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, chúng ta hy vọng một tương lai vui tươi tốt đẹp hơn .


Hiện giờ cùng chung chịu cảnh thanh bần của Đạo, chúng tôi phải tiết kiệm đồng tiền của Đạo hết sức cân phân lợi hại trước khi tiêu phí, vì đó là huyết mạch của nhơn sanh, chúng ta không có quyền phung phí vô lối. Chúng tôi nhận thấy toàn thể Hội Thánhđã gắng công phần nào về mặt tiết kiệm. Vậy chúng ta cố gắng thêm mãi và tin tưởng nơi tình yêu thương cao cả của Đại Từ Phụ, chúng ta nên bằng lòng với cái chi chúng ta đương có,để tâm lo tròn nhiệm vụ đối với Đạo. Đó là điều cần yếu trước nhất, chúng ta chỉ vì lo không nhất tâm nhất trí mà phải phụ lòng tin cậy của Đại Từ Phụ mà thôi.


Vậy cúng buổi lễ chung niên, chúng ta kính cẩn dâng lên Đại Từ Phụ và Đại Từ Mẫu tấm lòng chơn thật, thương Đạo mến Thầy. Cầu xin hai Đấng Tạo Đoan tối cao hỉ xả tất cả cái gì còn thô sơ thiếu kém và trợ giúp chúng ta đi đến chỗ thành công mỹ mãn. Hôm nay nhân buổi lễ nầy, thay mặt cho Chức sắc Hiệp Thiên Đài, tôi có lời cầu chúc toàn thể Chức sắc, Chức việc lưỡng phái Hành Chánh và Phước Thiện cùng chư Thiện nam Tín nữ được đầy đủ sức khỏe, gia đình hòa hiệp đầm ấm vui tươi và ngưỡng xin Đức CHÍ-TÔN và Đức PHẬT-MẪU ban đầy ân huệ cho toàn Đạo, sau nữa dìu dắt cả anh chị em vững bước trên đường thiện niệm để cùng nhau chung lo giữ gìn đại nghiệp của Đạo.
 

TM. Toàn thể Chức sắc HTĐ.
Thượng Sanh
 

ĐIẾU VĂN ĐỌC TRƯỚC LIÊN ĐÀI

CỦA NGÀI BẢO VĂN PHÁP QUÂN CAO QUỲNH DIÊU
Ngày 6 tháng 9 năm Mậu Tuất (18/10/1958)


Kính thưa chư quí Quan Chức,
Kính thưa chư quí Khách quan,
Kính thưa quí Ông , quí Bà,

Thay mặt cho Hội Thánh Hiệp Thiên Đài tôi xin thành thật để lời cảm ơn quí vị không nệï xa xôi khó nhọc có lòng chiếu cố đến dự lễ an tọa liên đài của Đạo huynh chúng tôi là ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu một vị trong hàng Thập Nhị Bảo Quân Hiệp Thiên Đài.


Thưa Hội Thánh và toàn Đạo hữu lưỡng phái, trước liên đài tôi xin nhắc lại công nghiệp của ngài Bảo Văn Pháp Quân đã hết lòng tận tụy với sứ mạng thiêng liêng và đã trải qua bao nhiêu khổ đau cực nhọc để góp phần xây dựng nền Đại Đạo trong lúc ban sơ.


Hưởng thọ 73 tuổi, ngài Bảo Văn Pháp Quân sanh trưởng tại làng Hiệp Ninh, Tổng Hàm Ninh Thượng thuộc tỉnh Tây Ninh, trong một gia đình thế phiệt Nho phong. Cụ thân sinh của Ngài có 3 người con trai mà Ngài là anh cả và kế ngài là Đức Cao Thượng Phẩm của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ngài là một vị trong những Chức sắc Hiệp Thiên Đài mà buổi Đạo mới khai, Đức CHÍ-TÔN và các Đấng Thiêng Liêng đã đến dìu dắt trước nhứt để giao phó cho sứ mạng thiêng liêng sử dụng cơ bút đặng độ nhơn sanh nhập vào cửa Đại Đạo.


Đầu năm 1926, tức là năm Bính Dần, một lượt với chư vị Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài, Ngài đắc lịnh nâng loan,hiệp cùng Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt lúc còn đương phẩm Đầu Sưvà các vị Đại Thiên Phong Cửu Trùng Đài đi phổ độ khắp các tỉnh, nhứt là các tỉnhtrung ương và Miền Tây Nam Việt.
Mặc dù còn giúp việc cho một hãng tư , ngài không nệ cực nhọc gắng làm tròn nhiệm vụ trong hai năm Bính Dần và Đinh Mão (1926-1927)là hai năm mà Đức CHÍ-TÔN cho huyền diệu cơ bút thâu nhập môn gần một triệu tín đồ, đem lại cho nền Đại Đạo một thắng lợi vẻ vang về mặt tinh thần cũng như về mặt phổ thông chơn Đạo.


Ngài thọ phong Tiếp Lễ Nhạc Quân năm Đinh Mão (1927). Qua năm Kỷ Tỵ (1929) lối tháng mười, mặc dầu hưởng lương bổng trọng hậu, Ngài phế đời về Tòa Thánh hiến thân lo Đạo, giúp Hội Thánh sắp đặt nội bộ và nhất là góp công trong việc nâng loan cho Đức CHÍ-TÔN và các Đấng dạy truyền giáo lý. Đầu năm Canh Ngọ (1930),được đắc phẩm Bảo Văn Pháp Quân, Ngài cố tâm chấn chỉnh lễ nhạc, ra công dạy nhạc cho Ban Nhạc sĩ tại Tòa Thánh, từ điệu nghệ cầm roi trống cho tới bài bản âm nhạc. Đến cuối năm Canh Ngũ, ngài rủi bị nạn hỏa tai, cả nhà cửa sự nghiệp bị thiêu hủy, nên vì sinh kế Ngài trở về Phú Nhuận (Gia Định).
Kế một thời gian qua, Ngài hiệp với mấy bạn Thập Nhị Thời Quân Hiệp Thiên Đài để gầy dựng “cơ quan tái lập”tại Thất Từ Vân nơi Phú Nhuận, lo chú giải Tân Luật Pháp Chánh Truyền và lập điều lệ phụ thuộc để sau nầy giúp cho Chức sắc dễ thi hành phận sự. Mãi đến năm Canh Dần (1950), Ngài trở về Tòa Thánh quyết lòng cộng tác với Chức sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài lo làm phận sự.


Nhưng từ ngày ấy đến sau, vì tuổi cao sức yếu Ngài không thể đảm đương nhiệm vụ chung lo với Hội Thánh. Hơn nữa, Ngài phế cả sự nghiệp vì chủ nghĩa của Đạo và bởi đó, ngài lắm chịu vất vả về mặt vật chất, xác thân càng ngày thêm tiều tụy hao mòn.


Vừa rồi Ngài ngọa bịnh không mấy ngày, bỗng phút vĩnh biệt cố thân, xa miền dương thế. Hôm nay Ngài Bảo Văn Pháp Quân đã ra người thiên cổ. Tuy đã biết nợ Đạo rồi xong, tuồng đời chấm dứt, Ngài đã trả xác trần lại cho gió bụi để trở về với Đức CHÍ-TÔN Đại Từ Phụ, và rồi đây chúng tôi có thể tiếp xúc với Ngài bằng huyền cơ diệu bút, nhưng trước cảnh từ biệt kẻ mất người còn, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi, mến tiếc khi nhớ đến bạn đồng thuyền đã cùng chúng tôi chia sớt ấm lạnh, mặn nồng và chung lưng đâu cật trót hơn mấy mươi năm để mưu cầu hạnh phúc của nhơn loại.


Vậy nơi đây là nơi Ngài an nghỉ giấc ngàn thu, chúng tôi thành kính nghiêng mình để bái biệt liên đài lần cuối cùng và xin thành tâm cầu nguyện cho Ngài được hưởng đầy đủ ân huệ của Đức CHÍ-TÔN và Đức PHẬT-MẪU nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
 

TM.Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
Cao Thượng Sanh


HUẤN TỪ CỦA ĐỨC THƯỢNG SANH

Đọc trong buổi lễ nhậm chức Quyền Đầu Sưcủa Ngài Bảo Thế

(Ngày 19 tháng Giêng năm Kỷ Hợi)

    Kính thưa:-Chư Chức sắc lưỡng phái,
    - Chư Chức việc và Đạo hữu nam nữ,


Buổi lễ hôm nay là buổi lễ “nhận chức” Quyền Đầu Sư của ông Bảo Thế, một vị thời Quân HTĐ vừa được HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Đài đề cử lãnh nhiệm vụ điều khiển ở Cơ Quan Hành Chánh Đạo giúp cho HỘI-THÁNH Cửu Trùng Đài làm tròn phận sự. Tôi xin giải thích lý do của sự đề cử này:


Từ trước bên CTĐ nhờ có ông Khai Đạo giúp sức. Ông Khai Đạo đã hành sự với chức vụ Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, hiện tại ông lãnh phận sự cố vấn cho HỘI-THÁNH Cửu Trùng Đài. Nhưng vì quá bận rộn công việc, ông Khai Đạo xin chấm dứt nhiệm vụ cố vấn trên đây để có thời giờ điều khiển và lo chỉnh đốn Cơ Quan Phước Thiện. Vì đó HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Đài đề cử ông Bảo Thế đảm nhiệm Quyền Đầu Sư với thẩm quyền rộng hơn chức Cố Vấn để cho công việc Cửu Trùng Đài được tiến triển tới chỗ hoàn hảo.


Ông Bảo Thế là một vị Thời Quân Hiệp Thiên Đài đã hành sự thâm niên nơi Tòa Thánh, có nhiều kinh nghiệm, am hiểu tình hình Đạo, đủ sáng suốt nhận định cũng như đủ công tâm phục vụ và đã từng giúp sức đắc lực cho HỘI-THÁNH trong thời kỳ đã qua. Có lẽ toàn thể Chức sắc lưỡng phái cũngđồng nhận thức điều nầy, vì vậy tán dương tài đức và công nghiệp của ông là một sự thừa.


May thay, trong lúc nội bộ cần phải được cải tổ, trong lúc hành chánh Đạo cần phải chấn chỉnh để cho nền chánh giáo được thuần túy hơn và có đủ năng lực phổ độ nhơn sanh theo Thánh giáo của Đức Lý Đại Tiên đêm 17/10/Đinh Dậu, ông Bảo Thế không nệ khó khăn lao nhọc, sẵn lòng đáp theo tiếng gọi của HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Đài, chịu ra gánh vác một trách nhậm nặng nề để giúp cho HỘI-THÁNH HTĐ cầm vững giềng mối Đại Đạo và Cửu Trùng Đài làm tròn phận sự. Đó là một thiện chí tuyệt đối, một hy sinh cho chủ nghĩa thương đời vậy.


Hướng về hạnh phúc của nhơn sanh và nhơn danh HỘI-THÁNH Hiệp Thiên Đài, tôi xin đề cao tinh thần phục vụ của ông Bảo Thế.
Nói đến hạnh phúc của nhơn sanh, tôi có lời tâm huyết cùng toàn thể Chức sắc lưỡng phái: Người trên đã vì nhơn sanh mà phục vụ thì cấp dưới cũngvì nhơn sanh mà hết lòng hưởng ứng giúp sức, khép mình vào khuôn viên kỷ luật để cho trên thuận dưới hòa, cùng nhau góp công chung trí hầu đem lại một thắng lợi vẻ vang cho nền chánh giáo.


Đời còn nhiều đau khổ thì trách nhiệm của người hành Đạo còn lắm nặng nhọc. Những vị cầm quyền Đạo lại còn phải chịu lao tâm tiêu tứ nhiều hơn nữa để san bằng những nỗi khó khăn phức tạp, làm cho trong vui ngoài đẹp, cơ Đạo mới được êm ấm điều hòa, tiến triển vững vàng, nêu cao ngọn cờ cứu khổ.
Cái quyền chỉ huy ấy phải được triệt để ủng hộ, kính nể, trật tự mới phân minh, mối giềng mới chặc che,õ người cầm quyền mới có thể bảo thủ uy danh của Đạo, trụ vững tinh thần để điều khiển dìu dắt con cái của Đức CHÍ-TÔN Đại Từ Phụ đi trọn vẹn trên đường Thánh Đức.


Rốt cuộc lại thì anh lớn, em nhỏ đặt quyền lập pháp chi chi cũng để hướng về hạnh phúc của nhơn sanh và tiền đồ đại nghiệp của Đạo. Vậy kể từ ngày nay ông Bảo Thế chánh thức nhận chức Quyền Đầu Sư Cửu Trùng Đài do Đạo lịnh số 15 ngày 11 tháng Giêng năm Kỷ Hợi.


Tôi thành tâm cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN, Đức PHẬT-MẪU các Đấng Thiêng Liêng ban ơn giúp sức cho ông làm tròn nhiệm vụ và yêu cầu toàn thể Chức sắc, Chức việc lưỡng phái hết lòng ủng hộ và giúp đỡ ông trong trách nhậm nặng nề mà ông được giao phó./.
 

THƯỢNG SANH

       

DIỄN TỪ của Đức THƯỢNG SANH

Đọc tại ĐỀN THÁNH sau khi cúng lễ Chung Niên đêm 23 tháng Chạp KỶ HỢI

 

Kính thưa Chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu Nam Nữ .
 

Một năm đã hầu mãn, hôm nay là buổi lễ cúng Tất Niên . Rồi đây chúng ta sẽ tạm nghỉ ít ngày để đón Xuân, cái Xuân nồng nàn xinh đẹp của võ trụ mà cũng là cái Xuân tươi thắm của người ở thế gian, một dịp thay cũ đổi mới gieo vào lòng nhân thế biết bao hy vọng để phấn khởi trên đường nhiệm vụ tương lai.
Nhưng cái Xuân của trời đất thì qua lại thay đổi không ngừng, Xuân mãn rồi Xuân về, năm tàn rồi năm khác đến . Còn cái Xuân của người thì chỉ có một thời, cứ đến trong một lúc rồi thoát qua mà không còn trở lại nữa. Có khác nào:

    Xuân tàn xơ xác trăm hoa rụng
    Thềm cũ nhành trơ bóng nguyệt tà .

Nghĩ đến sự ngắn ngủi của kiếp nhơn sanh có nhiệm vụ trong cửa Đạo, không khỏi băn khoăn lo sợ khi tự khỏi lấy mình:

    - TA CÓ THẤT LỜI TUYÊN THỆ VỚI ĐỨC CHÍ TÔN CHĂNG?
    - TA CÓ LÀM CHI GIÚP ÍCH CHO ĐẠO CHƯA?
    - TA CÓ ĐEM CÔNG QUẢ ĐỂ CHUỘC CÁC ĐIỀU LẦM LỖI CỦA TA TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN TẠI CHƯA?

Tự hỏi lấy mình rồi, nếu là người biết phục thiện, có công tâm đối với nghĩa vụ, tất nhiên phải xung xăng bước tới trên đường lập vị, không còn chần chờ nữa, vì ngày tháng sẽ thoát qua và sẽ bỏ rơi ta lại với một mớ tuổi chập chồng với một thân hình gầy yếu và một sự rên xiết đau thương. Bao nhiêu nguồn tinh lực hăng hái của tuổi xuân sẽ bị cuốn mất theo giòng thời gian của võ trụ.


Ngày qua thật đáng tiếc, nhất là khi sức đã mòn, tâm trí đã cằn cỗi mà công nghiệp đối với Đạo và nhơn sanh vẫn còn là một con số không thì dầu có ân hận bao nhiêu cũng chỉ vô ích mà thôi. Tôi nhớ lại một bài Thánh giáo của Đức CHÍ TÔN trong ngày đầu năm Kỷ Tỵ (10/2/1929)và xin trích lục một đoạn sau đây:
“Ôi! Xuân tàn rồi Xuân đến, cái Xuân của người đã rấp lụn hao mà rồi cái Xuân của trời đất nước non cũng chưa chắc là vô cùng tận . Các con nếu biết chịu khổ tâm, biết dày vò tình thế, biết chịu kém sút trong nẻo lợi đường danh, biết chịu thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ lụy để cho kẻ vui cười, biết nhọc nhằn trong kế sinh nhai, biết giữ tâm trí cho thanh bạch, đừng nhơ bợn của chẳng nên dùng, biết động mối từ tâm, thương người hơn kể mình thì là các con được tắm gội hồn trong mà về cùng Thầy đó. Nét nào chưa vẹn, khá biết sửa lần chớ nên trì hưởn” .


Nếu mỗi Chức sắc, mỗi Đạo hữu đều để tâm làm y theo lời của Đức CHÍ TÔN thì chẳng những Đạo phát triển và cao vọi tột mây xanh mà nơi nào có bóng cờ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nơi đó là cảnh Thiên đàng tại thế vậy.


Trải qua 35 mùa Xuân, mặc dầu Đạo đã tiến bước ít nhiều nhưng chưa được theo ý trông đợi của Đức CHÍ TÔN. Là vì đối với Đại nghiệp của Đạo, dầu cho Chức sắc của Hội Thánh có thiện chí xây dựng thế nào mà bao nhiêu người khác không phụ lực tô điểm, không đi đúng nhịp nhàng thì cũng không dễ đoạt mức thành công được.


Toàn thể Chức sắc Thiên phong phải chung lưng đâu cật, đồng tâm hiệp trí, vứt bỏ bản ngã, lấy danh dự Đạo làm trọng, hết sức phụng sự nền Chánh giáo thì bước đường mới được êm ấm, khúc nhạc mới linh động điều hòa, chiếc thuyền từ mới vững lái êm dòng lo vớt khách trầm luân nơi vùng khổ hải. Đạo là tình thương, một tình thương bao la không bờ bến .


Có thương chúng ta mới phục vụ cho nhơn sanh, mới vùi thân khổ hạnh để rèn trau đức tính dìu dắt nâng đỡ lẫn nhau. Được vậy, chúng ta mới có đủ minh mẫn, đầy chí vị tha để đưa người từ chỗ tối ra chỗ sáng, từ chỗ dữ tới chỗ hiền, và nhờ đó chúng ta mới đoạt thủ công trạng phi thường trên trường thi công quả.
Thương người như thế tức là thương mình đó . Chí ư thương mình theo đời phù phiếm xa hoa tức là để cho dục vọng lôi cuốn theo mồi danh bả lợi, thâu của hoạnh tài làm điều phi nghĩa đễ rồi sa vào cảnh trụy lạc vướng lấytội tình, rốt cuộc thân thể bị đọa đày nơi hang sâu vực thẳm. Đó chẳng phải là thương mình mà thật là mình tự ghét mình vậy. Trên bước đường lập vị, có khi quá khiếm khuyết về vật chất , quá khổ đau vì đời sống vất vả thất thường, người tu hành có thể than khóc và rối loạn tinh thần. Nhưng tin tưởng nơi lòng yêu thương của Đức CHÍ TÔN Đại Từ Phụ và nơi tấm thạnh tình chia vui sớt nhọc của các bạn đồng thuyền, người đau khổ cũng tự an ủi được vì ở trong cảnh ngộ đó cũng chưa phải là quá thất vọng chán nãn đưa đến chỗ bán đồ nhi phế bỏ dở hành trình.


Có khi đó là một cuộc thử thách, một giai đoạn nhồi nắn của cơ Thiêng liêng để cho người hy sinh vì Đạo trở nên một đấng phi thường đáng làm tôi tớ Đức CHÍ TÔN trên đường giải thoát cho nhơn loại. Đức CHÍ TÔN đã dạy:“Các con phải chịu thiệt mình để đặng cho kẻ khác vui cười, tức nhiên con đường đau khổ là con đường độc nhất của người tu hành phải trải qua mới bước đến tận nơi bờ giác” . Chúng ta được sống trong vòng đạo đức nghĩa nhơn dưới bóng yêu thương của Đức CHÍ TÔN Đại Từ Phụ, một đời sống của kẻ lánh giả tầm chơn, tuy đạm bạc trong bửa muối dưa nhưng nồng nhuộm nét trong sạch thanh cao, chúng ta thử ngó lại ngoài mặt xã hội còn biết bao nhiêu người xấu số cơ cực bần hàn, bếp trưa vắng khói, áo mỏng đêm đông, vất vả lầm than, mưa chiều nắng sớm, không được một lời an ủi, không một ý nghĩa về kiếp sống thừa, thì cái đau khổ về hình thể lẫn tinh thần của hạng người ấy mới thật là đáng thương xót.


Ngày nào Đạo Cao Đài có đủ phương tiện cứu vớt tất cả những kẻ xấu số nói trên đem nhường cơm, chia áo, dìu dắt nhủ khuyên đưa họ đến tận nơi Đạo Đức dưới bóng từ bi thì mục đích cứu khổ của Đạo mới vẹn toàn theo ý muốn của Đức CHÍ TÔN Đại Từ Phụ. Năm cũ hầu tàn, cúng buổi lễ tất niên tôi có ý bàn bạc với quý Hiền huynh, Hiền ty,û quý bạn về tình yêu thương của Đạo để gợi lại trong tâm trí của mỗi vị một yếu tố căn bản mà Đức CHÍ TÔN thường dạy phải dùng làm phương châm trên đường phổ độ.


Một năm qua, Hội Thánh đã gắng công làm việc để đem lại sự hòa nhã an vui cho nền Đại Đạo. Phận sự nhiều lúc quá nhọc nhằn phức tạp mà chúng ta vẫn tương đắc trong tinh thần kỹ luật và trong sự hiểu biết lẫn nhau. Vậy tôi để lời cám ơn toàn thể Chức sắc lưỡng phái C.T.Đ. Phước Thiện . Tôi mong ước qua năm Canh Tý, Chức sắc và Chức việc đều gắng sức nhiều hơn nữa để nâng cao thêm tinh thần Đạo Đức và đem lại kết quả tốt đẹp cho Cơ phổ độ.


Trên bước đường hành sự, chúng ta phải làm thế nào cho Đạo đời tương đắc, nhứt là giúp ích cho quê hương xứ sở về mặt tinh thần, lo giáo hóa nhơn sanh tiến tới đường đạo đức, làm lành lánh dữ, mến chuộng công lý, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau đặng cùng xây dựng hạnh phúc chung cho đồng bào, chúng ta mới cộng hưởng cảnh thái bình an cư lạc nghiệp.


Trước khi dứt lời, tôi cầu xin Đức CHÍ TÔN, Đức PHẬT MẪU ban hồng ân cho toàn thể Chức sắc, Chức việc C.T.Đ. cũng như Phước Thiện và toàn cả Đạo hữu Nam Nữ. Sau nữa, thay mặt cho Hội Thánh H.T.Đ., tôi cầu chúc cho mỗi vị đầy đủ sức khỏe, được hưởng một cái Tết vui tươi êm dịu trong cảnh sum họp gia đình và trong vòng thân ái của bạn bè quyến thuộc./.

 

TM. HỘI THÁNH HTĐ
THƯỢNG SANH

 

Thuyết về LUẬT NHƠN QUẢ

NHÂN VÍA ĐỨC PHẬT THÍCH CA (Ngày 8/4 Tân Sửu)

Phật Giáo gọi tất cả những thú vui trên đời là Dục Lạc, tức là nguồn gốc của đau khổ . Vậy muốn hạnh phúc thật, con ngừơi không nên chạy theo dục lạc mà phải diệt trừ dục lạc. Trước hết sự tiêu diệt dục lạc phải bắt đầu từ phép TRI TÚC. TRI TÚC là bằng lòng với những gì mình đang có, mình có thể có với sức của mình và trong phạm vi đạo đức.


Người tri túc thì dầu nằm trên đất cũng cho là sung sướng, người không biết tri túc dầu nằm trên đống vàng vẫn thấy chưa đầy đủ. Vì bởi không biết tri túc, không cượng nỗi với lòng ham muốn cho nên người ta chạy theo dục lạc, làm điều bất chánh gây ra tội lỗi dẫy đầy. Sự hành động của ta là NHÂN, tức là NGUYÊN NHÂN, sự báo ứng hay là kết quả của hành động đó tức là QUẢ .


LUẬT NHÂN QUẢ là một LUẬT THIÊNG LIÊNG, CÔNG BÌNH không ai dưới thế nầy thoát ra khỏi luật ấy được . NHÂN QUẢ do nơi chữ Phạn” KARMA” có nghĩa là cái nghiệp hay là hành động.
Khi ta có hành động gì, đó tức là KARMA. Chúng ta tụ họp nhau để dâng lễ Đức CHÍ TÔN, đó là chúng ta tạo ra một hình thức KARMA. Khi chúng ta nói chuyện, khi chúng ta giận hờn, thương xót ai hay ghét ai, hoặc tính mưu định kế chi, đó là chúng ta tạo ra KARMA . Vì lẽ, khi ta làm một việc gì, ta phải tiêu phí đi một ít nghị lực, sự làm của ta gây một phản động hay là một kết quả tương đương và người hành động phải hứng chịu kết quả đó.


LUẬT NHƠN QUẢ cũng gọi là LUẬT ĐIỀU HÒA hay là LUẬT CÔNG BÌNH, và nếu người ta có hành động nào bất chánh làm cho mất sự điều hòa của Đạo lý hay là mất sự công bằng thiêng liêng (ví dụ gạt người lấy của, thâu đa nạp thiểu, hại người để lợi cho mình, ỷ thế hiếp cô, mưu mô để làm việc bất chánh v.v...) thì Đấng Tạo Đoan sẽ lập lại sự thăng bằng, đem một cái quả để báo ứng vào kẻ đã phạm pháp cho đúng theo Luật quân bình của Trời Đất. Bởi đó, mọi sự sanh ra trong đời của chúng ta đều phải có một nguyên nhân kết cấu mà ra.


Cái đời sống của ta hiện giờ giàu sang hay nghèo hèn, liền lạc hay tật nguyền, xinh đẹp hay xấu xa, được yêu vì hay bị ngược đãi, an vui hạnh phúc hay lắm chịu thiên ma bách chiết, cũng đều do ta gây nhân ở tiền kiếp. Cái nhân ở kiếp trước đã định vận mạng cho kiếp này thì ở kiếp này ta cũng có thể gây những nhân lành để định vận mạng ta ở kiếp vị lai. Thành thử tự ta cả tạo đời sống của ta chứ không có một Đấng Thiêng Liêng nào định mạng cho ta cả. Buồn vui, cực sướng là do hành vi của mình tạo ra, hễ gây nhân lành thì trả lại quả vui, gây nhân ác thì trả lại quả dữ, trồng hoa được hoa, trồng đậu được đậu, chính ta định vận mạng cho ta mà thôi.


Ví dụ cờ bạc gây ra cái quả thiếu hụt, nợ nần, vì thiếu hụt phải lường gạt hay trộm cắp; trộm cắp gây ra cái quả lao tù. Bây giờ bỏ dứt sự cờ bạc, lo làm ăn lương thiện thì tất nhiên phải được an thân, khỏe trí. Phật Giáo dạy rằng: “Nhất thiết do tâm tạo”, nghĩa là tất cả đều do lòng người tạo nên. Người ta tự tạo cho mình từ sự đau khổ hoặc sự hạnh phúc cho đến ngôi vị Tiên Phật chi chi đều do nơi lòng mình cả thảy.


Vì vậy, trăm ban vạn sự trên thế gian nầy đều có nguyên nhân chớ chẳng phải tình cờ mà chẳng phải do một định mạng nào cả. Tự ta làm cho đời ta phải khổ, ta tự trói buộc vào vòng luân hồi thì ta phải tự tháo mở, tự giải phóng cho ta vậy. Có nhân quả tức là có luân hồi . Vậy LUÂN HỒI là gì ? LUÂN nghĩa là bánh xe, HỒI nghĩa là xoay tròn. LUÂN HỒI tức là bánh xe xoay tròn không manh mối, không thủy chung.


ĐỨC PHẬT THÍCH CA thấy chúng sanh cứ sanh rồi chết, chết rồi lại sanh, cứ mãi bị trói buộc trong vòng sanh tử để trả nghiệp quả không thể thoát ra khỏi nên gọi là LUÂN HỒI . Giờ đây hiểu thấu cái nguyên nhân của sự VAY TRẢ ở cõi đời, tự nhiên ta nhận thức tại sao mà ta sanh ra ở cõi thế, ta từ nơi nào mà đến vậy và đến đây để đi về đâu? Tại sao con người phải khổ đau ? Phải rên siết ?


Kinh nhơn quả có nói: “Dục tri tiền thế nhân kim sanh thọ giã thị, dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị” . Nghĩa là muốn biết nhân đời trước xem kết quả đời này, muốn biết kết quả đời sau xem nguyên nhân đời hiện tại . Mỗi người đều mang vào thân cái quả hay là nghiệp hoặc nhiều hoặc ít . Nếu trong kiếp sanh chúng ta vừa trả quả tiền kiếp vừa tạo nhân lành cho kiếp sau, nghĩa là mỗi người dầu ở trong hoàn cảnh nào đều giữ lòng công bình chơn chánh, thương người mến vật, khắc kỷ tu thân thì trên đời gió bụi này đâu còn trông thấy những cảnh trạng đau thương khốc hại nữa.


Luật nhân quả vẫn mầu nhiệm sâu xa . Có khi nhân ở kiếp trước sanh ra quả đời này, có khi nhân ở kiếp nầy sanh ra quả ở kiếp sau . Các nhân quả ấy xen lộn hoặc nhập lại thành cái thân tâm và cảnh giới của con người để sắp đặt cuộc thành bại, hư nên, họa phước của mỗi cá nhân một cách công bình mực thước.


ĐẠO LÃO gọi Luật Nhân Quả là CẢM ỨNG . CẢM có nghĩa là xúc, là động hay là hành động. ỨNG nghĩa là đối đáp, dội lại hay là phản động. CẢM ỨNG nghĩa là có sự hành động trước rồi mới có cái sức dội lại hay là sự phản động sau . Kinh CẢM ỨNG của Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN khởi đầu như vầy:


“Họa phước vô môn duy nhơn tự triệu, thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”


Nghĩa là điều họa hay phước không có ngõ nhứt định, chỉ tại người tự dời đến cho mình, sự dữ lành hai lẽ báo ứng tỷ như cái bóng đi theo cái hình vậy.
Theo kinh CẢM ỨNG, con người thở ra thở vô, hơi thở đều có thông đồng với khí hư vô của Trời, cho nên niệm tưởng vừa phát động tuy người phàm không hay chớ Trời đã rõ thấu . Vì vậy Đức THÁI THƯỢNG dạy rằng: Trong lòng vừa khởi tưởng đến việc lành, việc lành tuy chưa làm mà vị thần lành đã theo mình, hoặc trong lòng vừa khởi tưởng đến việc dữ tuy chưa làm ra mà vị thần dữ đã kế bên mình ( Phù tâm khởi ư thiện, thiện tuy vị vi nhi kiết thần dĩ tùy chi, hoặc tâm khởi ư ác, ác tuy vị vi nhi hung thần dĩ tùy chi).


Ông TRANG TỬ nói rằng: Nhứt nhựt bất thiện niệm, chư ác giai tự khởi; Một ngày không tưởng đến việc lành, thì mọi việc dữ đều tự nó dấy lên. NHO GIÁO cũng có luận về luật BÁO ỨNG y như LUÄT NHÂN QUẢ . Đức KHỔNG TỬ dạy rằng: Vi thiện giã thiện báo chi dĩ phước, vi bất thiện giã thiện báo chi dĩ họa, Nghĩa là: Kẻ làm điều lành thì Trời lấy phước mà trả cho, kẻ làm điều chẳng lành thì Trời lấy họa mà trả cho.


Lại nữa, Đức KHỔNG TỬ có dạy một lời thiết thực đáng ghi nhớ là khi Ngài đau, Thầy Tử Lộ xin phép khẩn đảo . Ngài hỏi xưa có làm như vậy chăng ? Thầy Tử Lộ trả lời: Thưa có vậy, vì trong Văn Lễ có nói: Đảo nhỉ vu thượng hạ thần kỳ. Chúng tôi khẩn đảo các Ngài là Chư Thần trên Trời và dưới Đất . Đức KHỔNG TỬ mới nói: Khâu nầy đã khẩn đảo lâu rồi, vì bình nhựtthấy lỗi thì cải ngay, thấy lành thì dời ngay . Đó là ta khẩn đảo thường thường nào phải chờ đến ngày nay đâu?
KINH THƠ dạy rằng: “Thiên tác nghiệt du khả vi, tự tác nghiệt bất khả hoại”. Trời xuống họa còn có thể tránh, tự mình gây họa thì không thể sống nỗi .
Ấy vậy, chúng ta đã học Đạo thì phải tin LUẬT TRỜI rất công minh, lành dữ báo ứng một mảy không sai chạy.
ĐỨC CHÍ TÔN có dạy trong những bài Thánh giáo năm Bính Dần (1926) như sau đây:

    “Thầy đến để độ rỗi cho các con là lập thành một trường công quả cho các con nên Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn . Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi đường nào khác mà đắc Đạo bao giờ . Các con không tu, không tự lập ở cõi thế này là cái đời tạm của các con thì Thầy cũng không bồng ẫm các con mà đỡ lên cho đặng . Các con làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cải nơi Thiên Luật, phải quấy Thần Thánh, chỉ chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc”.

Là người trong cửa Đạo, chúng ta nên gắng lập công bồi đức, gây nhân lành, tránh quả dữ để cho đời tu hành được trong sạch thanh cao mới chẳng uổng một kiếp sanh may duyên gặp. Đời người qua thắm thoát, thoạt còn thoạt mất như vầng mây nổi, như giọt sương tan. Những cảnh ruột đứt châu rơi hằng diễn ra để đày đọa vày bừa con người giữa chốn sông mê biển khổ. Chúng ta phải quyết tâm thực hiện, phải hồi tâm cải hóa, phải gắng công tu và chỉ có sự tu hành chơn chánh mới giúp ta cởi mở các dây oan trái, chuộc tội tiền khiên để đi trọn vẹn trên đường giải thoát./.
 

THƯỢNG SANH


LƯƠNG TÂM

Đêm 14 Tháng Giêng Nhâm Dần tại Đền Thánh(1962)

 

Tâm hay là Lương Tâm là một vấn đề mà về mặt Đạo người ta đã có nhiều bàn luận và có nhiều lý thuyết, nhưng đem những lý thuyết ấy ra thực hành thì ít ai có thể làm được.


LƯƠNG TÂM là gì ?
Lương Tâm là một nguồn sáng thiêng liêng, một điểm linh quang của Trời ban bố cho con người để khuyên lơn dìu dắt và soi sáng bước đường đời cũng như đường Đạo của mỗi cá nhân trong kiếp sanh. Dầu cho Thần Thánh Tiên Phật khi xuống thế mang xác phàm, thì buổi chung qui được thưởng hay phạt, đọa hay thăng đều do nơi Tâm cả, và con người được tánh linh hơn muôn vật là nhờ có Lương Tâm vậy. Nên để ý là trong các đẳng cấp nhơn sanh, người dầu sang hay hèn, Thánh nhân hay là Phàm nhân cái Lương Tâm của Thiêng liêng ban cho đều có sự sáng suốt ngang nhau không khi nào chênh lệch.


Vì lẽ đó, nếu mỗi người ai cũng theo Thiên lý mà tu dưỡng và hành động thì cả thảy đặng được trọn lành. Xưa thầy Nhan Hồi đã nói: Vua Thuấn là người nào, ta là người nào. Ai theo Đạo mà làm thì cũng thế cả . Tâm được sáng suốt mãi hay là trở nên mờ tối là do nơi con người biết nuôi nấng nâng cao nó lên hay là đàn áp làm cho nó bị che lấp mất. Tâm ở nơi con người là một vị thần hộ mạng, là tiếng nói của lẽ phải, tiếng nói của thiên lương, của chơn lý, tức là tiếng nói của Trời.
Khi con người bị cám dỗ vào đường bất chánh, bị lôi cuốn theo sắc dục hoặc lợi quyền thì Lương Tâm chực sẵn để cản ngăn bằng những lý lẽ cao siêu. Vì đó có sự phản ứng, có tiếng đối lập với dục vọng, tức là với tà thần .


Cứu cánh của sự xung đột giữa LƯƠNG TÂM và DỤC VỌNG có khi Lương Tâm đắc thắng, đó là Thánh đức thắng tà thần, có khi ta quá nhu nhược, thiếu đạo đức để cho dục vọng đàn áp lương tâm, tức nhiên ta phải sa ngã vào đường tội lỗi. Đó là tinh thần chịu khuất phục vật chất . Một lần sa ngã cũng chưa phải hại lớn, ngặt nỗi cái sa ngã này lôi cuốn cái sa ngã khác, thất tình lục dục luân phiên nhau đưa đẩy ta đi đến mức đường cùng tối tăm ô trược, là vì ngọn đèn thiêng liêng ở nơi mình đã không khêu lên lại làm cho nó bị lu mờ và đàn áp cho đến chỗ bế tắc, thì con người lúc ấy đã mất trọn cả Lương Tâm, và kiếp sống như thế trở nên nguy hiểm cho xã hội.


Về mặt Đạo đối với người đã tầm được lý tưởng nhiệm mầu, cái tâm cần phải giữ cho trong sạch, cần phải được nuôi nấng và nâng cao . Tôn chỉ đạo là khêu ngọn đuốc thiêng liêng để dìu đời thoát tục, nếu Tâm không đủ sáng suốt, không nhận định chánh tà, chính mình không tự kềm nỗi với vật dục thì thế nào đi vững bước đường tu để độ chúng?


Trước khi nhập Đạo ta đã từng quan sát, tìm hiểu lẽ sâu xa của Cơ Đạo và quan niệm cái thống khổ của cuộc đời. Rõ biết rồi ta dọn mình lập ý cho thành, tâm cho định mới đến khắc kỷ tu thân. Khi người tu đã có sẵn chí hướng đi từ bước một, mỗi bước mỗi dè dặt cân phân và nên mãi đinh ninh rằng người nơi cửa Đạo phải quyết tâm ra khỏi lối thường tình, tức là phải đi ngược với thế sự...


Đời chuộng vinh sang, Đạo chuộng khổ hạnh, đời ham trược phú, Đạo giữ thanh bần, lên xe xuống ngựa chốn phồn hoa đổi lại cảnh lê hoát nâu sồng, nơi cửa Đạo tương dưa thanh đạm tháng ngày, để mặc miếng mỹ vị cao lương ngoài quán tục. Giữ được bao nhiêu đức tính ấy, người hành đạo bước được vững vàng, không dục vọng nào lôi cuốn nỗi .


Theo THÍCH GIÁO- người tu phải trau dồi bản tâm được sáng suốt đặng biết rõ được lẽ nhiệm mầu của Đạo pháp, các điều vọng niệm phải tiêu tan, sống ở chơn tâm tức là “MINH TÂM KIẾN TÁNH” . Ví bằng bản tâm để cho mờ ám vọng động bởi sức quyến rũ bên ngoài thì người tu còn ở trong vòng mê muội không trông gì tầm lối giải thoát.


Vậy mê là chúng sanh, ngộ là Phật, bởi cái Tâm quá nông nổi nên Phật giáo cho là “ TÂM VI TẶC” tức là Tâm ví như tên giặc loạn. Vì lẽ cái Tâm tạo thành tam nghiệp: THÂN NGHIỆP, Ý NGHIỆP, KHẨU NGHIỆP làm cho con người bị luân hồi từ kiếp nầy đến kiếp khác, kế tiếp không ngừng, Tâm làm cho người phải sa đọa mà Tâm cũng đưa người đến ngôi vị Tiên Phật, do đó Phật giáo cho là nhứt thiết do TÂM ĐẠO.


Theo triết học của ĐẠO GIÁO thì Đức LÃO TƯ rất chú ý đến việc tu thân để cho mình có đủ đức tính kéo lại những lỗi lầm sa ngã của quần chúng. Ngài nói: Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân, nếu không có cái thân thì ta có lo gì. Có thân là có cái Tâm, có cái Tâm không dễ gì điều khiển và gìn giữ cho trong sạch . Theo thuyết của Ngài, cái thân đáng quí là khi đem nó ra phụng sự cho thiên hạ, vì khi phụng sự cho thiên hạ thì cái Tâm không còn xao xuyến, ích kỷ để lo riêng cho mình nữa.


Cái TÂM hay lừa đảo, làm cho con người sa ngã, nên theo phép tu thân của LÃO GIÁO, người tu phải dứt bỏ những điều ham muốn, những tư tưởng ngông cuồng có thể hại đến tâm tánh. Phải sống gần gủi với thiên nhiên, lánh xa thế tục, giữ lòng được phẳng lặng, bình tĩnh để trông rõ sự huyền diệu thiêng liêng, tức là lấy cái TÂM đè nén cái khí để nuôi nấng tinh thần được cao siêu thoát tục.


KHỔNG GIÁO cho rằng TÂM là thần minh của Trời phú cho, nên TÂM của ta với Trời là một thể, THẦY MẠNH TỬ lại cho tánh là cái bản nguyên thiêng liêng đối với TÂM vẫn có một, hễ biết rõ Tâm thì ta biết rõ Tánh, biết rõ Tánh là biết rõ Trời Đất vạn vật, tức là cách vật trí tri vậy.
“TỒN TÂM DƯỠNG TÁNH” là giữ cho còn cái TÂM HƯ LINH của mình, nghĩa là đừng để cho tư ý che lấp mất và nuôi cái TÁNH cho được sáng suốt toàn hảo như của Trời đã ban cho ta, tức là thờ Trời đó.


Cái bản TÂM giữ được còn mới thật là LƯƠNG TÂM, có LƯƠNG TÂM mới có LƯƠNG NĂNGvà LƯƠNG TRI là cái giỏi biết rất tự nhiên, rất mẫn huệ.
Theo thuyết KHỔNG GIÁO, người ta ở đời phân biệt nhau ở nơi quân tử hay tiểu nhân. Hiền hay ngu là do người ta giữ cho còn cái Tâm hay là để cho mất cái Tâm, giữ cho còn cái TÂMlà sánh được với bậc THÁNH HIỀN, bỏ mất cái TÂM, con người chỉ là một cây thịt biết đi, biết chạy mà thôi.
Thầy MẠNH TỬ chú ý nhứt về chỗ tìm lại cái TÂM của mình đã để sổ ra mất, vì lẽ con người ta để con gà, con chó sổ ra còn biết đi tìm, há đâu để món báu thiêng liêng là cái tâm của mình mất đi, lại không lo tìm lại hay sao?


Tìm lại cái tâm đã mất tức là TU THÂN vậy, sự tu thân sửa mình rất nên cần yếu, dầu cho bậc vua chúa dĩ chí thứ dân ai cũng lo sửa mình cho ra người có đức hạnh hầu xử sự cho hợp với lẽ phải. Ngày nay chúng ta rất may duyên được Đức CHÍ TÔN dìu dắt vào nền ĐẠI ĐẠO, chúng ta nên gắng công trau giồi bản tâm hầu nâng cao danh thể Đạo và thức tỉnh những kẻ sái bước lạc đường.


Người hành Đạo phải làm gương mẫu cho nhơn sanh, phải nuôi nấng kềm chế cái tâm cho được thanh cao trong sạch khác hơn người ở mặt đời .
Đối với những người chưa nhập Đạo, chúng ta chịu kém về phần học thức, về tiền bạc, về cách phục sức và cả hình thức bên ngoài. Nhưng chúng ta nhứt định không chịu kém về phần TÂM ĐẠO, về Hiền Từ và Đức Tính.


Sau khi so sánh, nếu chúng ta tự hỏi mình và đã nhận thức là chúng ta chưa hơn họ về mấy điểm vừa kể qua thì chúng ta phải cố gắng trau giồi cái tâm cho đến khi đạt được mức cao siêu hơn thường tình thì ta mới chịu cho. Đó là chí hướng tối cần cho người tu hành .
Trong khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta họp nhau nơi ĐỀN THÁNH để chiêm ngưỡng, thử hỏi chúng ta dâng lên cho Đức CHÍ TÔN cái chi gọi là quí báu nhứt của chúng ta? Thì chúng ta chỉ dâng lên cho ĐẠI TỪ PHỤ cái TÂM của chúng ta mà thôi, ngoài cái TÂM ra chúng ta không dám dâng món chi khác, vì tất cả đều là thường tình và phàm tục. Nhưng cái TÂM phải thế nào mới đáng được dâng lên cho Đức CHÍ TÔN . Điều đó mỗi người trong chúng ta đều có thể tự xét mà tự giải quyết được.


Riêng tôi...tôi thiết tha cầu nguyện Đức CHÍ TÔN giúp sức Thiêng Liêng cho toàn thể Chức sắc và Quý bạn trau dồi BẢN TÂM được minh mẫn trong sạch, để được xứng đáng dâng lên Đức CHÍ TÔN và PHẬT MẪU./.
 

CAO THƯỢNG SANH

 

 

HUẤN TỪ ỦY LẠO

CHỨC SẮC H.T.Đ. và CƠ QUAN PHƯỚC THIỆN
Ngày 16 tháng Giêng Nhâm Dần (1962)
Tại Văn Phòng PHƯỚC THIỆN TRUNG ƯƠNG

    Kính Chư Chức Sắc Lưỡng phái C.T.Đ .
    Kính Chư Chức Sắc Nam Nữ PHƯỚC THIỆN.
     

Hôm nay là ngày nhóm họp thường niên mà cũng là buổi họp đầu tiên năm Nhâm Dần của Chức Sắc Cơ Quan PHƯỚC THIỆN, toàn thể Hội Thánh H.T.Đ. đến dự buổi họp nầy, tiếc vì Ngài KHAI ĐẠO ngọa bịnh phải đi điều trị tại Sài Gòn nên vắng mặt nơi đây. Tôi xin toàn hội để một phút yên lặng đồng đứng dậy cầu nguyện cho Ngài KHAI ĐẠO được chóng bình phục .


Đó là nhờ nơi thiện chí của Chức Sắc Ban Cai Quản, nhờ nơi sự hưởng ứng của toàn thể Chức Sắc PHƯỚC THIỆN Trung ương cũng như ở Địa Phương và cũng nhờ nơi sự tham gia trực tiếp của Hội Thánh H.T.Đ. vào công việc của PHƯỚC THIỆN, đó là ba vị Thời Quân sẵn lòng đảm đương phận sự Thống Quản các cơ cấu trong Ban Cai Quản Trung ương nên mọi việc được sắp đặt hoàn bị, có mực thước, có chuẩn thằng, các việc được tiến hành trong vòng trật tự và cứtheo đà tiến triển ấy, chúng ta hy vọng Cơ Quan PHƯỚC THIỆN sẽ đi đến một tương lai tốt đẹp hơn.


Vì thế tôi ước mong cho tình tương thân, tương ái giữa chúng ta được ngày càng thêm bền chặc nồng nàn. Thương yêu nhau, dìu dắt nhau, chúng ta mới có thể chung tâm hiệp trí và nương nhờ nhau để phục vụ cho Đạo, cho nhơn sanh. Cơ Quan PHƯỚC THIỆN là Cơ cứu khổ về hình thức đối với Đạo cũng như đối với mặt đời .
Chúng ta phải quên mình mới mong cứu khổ nhơn sanh, phải hy sinh mới thực hiện được chủ nghĩa vị tha và mới làm tròn nhiệm vụ. Thanh danh của Đạo là trọng hơn hết, chúng ta phải nâng cao cái thinh danh tôn quí ấy bằng việc làm thực tế chớ chẳng phải bằng lời nói suông và cái khổ của nhơn sanh càng được vơi bớt phần nào, chủ nghĩa PHƯỚC THIỆN càng thêm bành trướng thì cái thinh danh của Đạo càng được cao siêu và càng thêm chói rạng.


Vậy tôi cầu xin toàn thể Chức Sắc PHƯỚC THIỆN gắng công tiến bước trên đường nhiệm vụ và thực hành tôn chỉ của Cơ Quan PHƯỚC THIỆN, cho đúng theo ý nghĩa Thiêng Liêng của nó, đó là chư quý vị hiến dâng cho Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU một lễ quí báu và long trọng hơn hết.


Thưa Chư quý vị, Chư quý vị nên ý thức rằng Chư quý vị đã thọ phẩm tước trong hàng Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng Liêng . Những phẩm tước ấy được có những danh từ đánh kính, đáng trọng, những danh từ đã vẽ sẵn phận sự của mỗi vị trên bước đường hành Đạo như những danh từ : GIÁO THIỆN, CHÍ THIỆN, ĐẠO NHƠN, CHƠN NHƠN.v.v...Mới nghe qua những danh từ ấy người ta tưởng tượng đến những bậc đạo đức cao siêu, có những hành vi thoát tục, những bậc chơn tu phi thường cứu nhân độ thế.


Vì vậy mang cái phẩm tước Thiêng Liêng ấy người Chức Sắc phải trọng cái phẩm giá Thiên tước của mình, vì cái phẩm giá đó tượng trưng cho cái phẩm giá của Đạo. Nếu vô tình mà quý vị làm cho hoen ố cái phẩm giá của mình bằng những hành vi thiếu đạo đức hoặc những cử chỉ quá tầm thường thì tức nhiên cái Thiên tước của quý vị bị tổn thương mà Thiên tước bị tổn thương, tức là thanh danh Đạo bị tổn thương vậy.


Hôm nay có đông đủ Chức Sắc các địa phương về chầu lễ Đức CHÍ TÔN và đến dự nhóm . Tôi cầu nguyện ĐẠI TỪ PHỤ và PHẬT MẪU ban ơn lành cho mỗi vị nơi TRUNG ƯƠNG cũng như ở Địa Phương được mọi sự hanh thông và nhứt là được tinh thần sáng suốt, sức khỏe an khang để cùng nắm tay nhau phụng sự cho Đạo và Nhơn sanh./.
 

CAO THƯỢNG SANH

 

 

HUẤN DỤ

Nhơn bửa tiệc thường niên tại Giảng đường
Ngày 22 tháng giêng năm Nhâm Dần (1962)

    Kính Chư Chức sắc, Chức việc, Đạo Hữu Lưỡng phái .

Theo thường lệ bửa tiệc hôm nay là bửa tiệc của Hội Thánh ủy lạo các Chức sắc, Chức việc nơi Trung ương và Địa phương trong lúc đầu năm, nhơn dịp các Khâm Châu và Đầu tộc tề tựu đông đủ về Tổ Đình để chầu lễ Đức Chí Tôn.


Cuộc hội hiệp vui vẻ này đã biến thành cái lệ bất di bất dịch, in sâu vào trí não của mọi người trong chúng ta, vì đó là một cuộc hội hiệp đầy thiện cảm chân thành, nồng đượm bao nhiêu vẻ thân mật khắn khít và sẽ ghi lại một kỷ niệm êm dịu trong tâm hồn của những người đến dự khi mà mỗi vị đều ý thức trong một vài ngày nữa đây sẽ có cuộc chia tay, kẻ ở lại nơi đại gia đình, người tản mát nơi tứ phương, để làm phận sự của người con thảo đối với Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ.
Vì vậy bửa tiệc dầu được thịnh soạn, dầu phải đơn giản, điều ấy không cần thiết .Cần thiết là buổi hội diện giữa những bạn đạo cùng chung một chí hướng thương đời, buổi hội diện giữa anh lớn, chị lớn, em nhỏ trong đại gia đình để cho mọi người được cõi lòng sưởi ấm hầu trong năm mới cùng nhau bắt tay vào công việc với một tinh thần vững chắc.


Như Chư quí vị đã rõ, năm vừa qua Hội Thánh đã trải qua nhiều cơ thử thách buồn phiền, tài chánh của Đạo vì đó phải bị kiệt quệ, nhờ nơi lòng sốt sắng của Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nơi Trung ương cũng như ở địa phương nên tình trạng thiếu kém được cứu vãn phần nào.Hội Thánh nhờ đó mà xoay trở các việc cần thiết cũng được tạm yên .


Cho hay nước loạn mới biết tôi ngay, nhà nghèo mới rõ con thảo.Mỗi vị Chức sắc có công trong giai đoạn này nhất là những vị Khâm Châu, Đầu Tộc, Đầu phận và Phó Đầu phận v.v... đã chứng tỏ lòng thiết tha thương Đạo và trung thành với Hội Thánh.Mặc dầu Hội Thánh chỉ có lời ban khen Chư quí vị không hửơng được một phần thưởng cụ thể nào, nhưng Chư quí vị nên tin rằng đối với sự công bình của Đức Chí Tôn, Chư quí vị sẽ không mất phần ban thưởng.


Trong dịp nầy, tôi nhận thấy cái tình thương yêu nhau là quí trọng hơn hết .Với sự thương yêu nhau, với sự đồng tâm hiệp trí, chúng ta có thể san bằng tất cả những khó khăn, lướt qua những cơn phong vũ bất kỳ tang thương ảm đạm.Đời đã lắm chua cay, nhơn tâm đã lắm điên đảo, trong cảnh tu hành chúng ta đã chịu thiệt thòi về mọi phương diện, nếu chúng ta không thương yêu nhau và đùm bọc lấy nhau thì thế nào chúng ta tự cứu lấy mình và giải khổ chung cho nhơn loại.


Vì đó, chúng ta không sợ Đạo nghèo về tiền bạc mà chỉ sợ Đạo nghèo về tình thương yêu, cái tình thương yêu quí báu mầu nhiệm rất cần thiết cho tâm hồn của người tu sĩ cũng như cơm gạo cần thiết cho mảnh xác thân và nếu thiếu hẵn đi thì dầu chúng ta có được con số đông đúc bao nhiêu, chúng ta cũng như bị lẻ loi côi quạnh và cơ phổ độ không còn biết dựa vào đâu mà thực hiện được.


Ở trong cảnh buồn phiền, khó khăn, lo lắng Hội Thánh được đầu Xuân Nhâm Dần đem đến cho ít nhiều an ủi do nơi tình yêu thương của các con cái Đức Chí Tôn nơi bốn phương.Quí hóa thay cái tình thương yêu nhiệm mầu ấy . Tôi cầu xin cho trong Cửa Đạo chúng ta thắt chặt giãi đồng tâm càng ngày thêm khắn khít, xóa bỏ những hờn nghịch nhỏ nhen, nên coi Đại nghiệp của Đạo là quí trọng đễ cùng nắm tay dìu dắt nhau vẹt ngút mây mù cứ vẫn bao phủ quanh vùng Thánh địa hầu đi đến một giai đoạn vui vẻ hơn.


Rồi đây, Chư vị Khâm Châu và Đầu tộc phải lên đường trở về với phận sự, để bắt tay vào những công việc nhiều khi khó khăn, gay cấn, nhất là trong thời buổi hiện tại.Nhưng Chư quí vị cũng nên ý thức rằng nơi Trung ương Hội Thánh cũng có những việc khó khăn không kém gì Chư quí vị . Chúng ta phục vụ cho Đạo, ví như thân tầm đã chịu ơn dâu thì phải tận tụy với mối tơ, dầu đến ngày cũng còn kéo chỉ. Cái Đại nghiệp Đạo nầy đã quyết lưu lại cho nòi giống quê hương và Đạo phải được trường tồn với non sông vũ trụ, thì chúng ta là những kẻ nghiêng vai gánh vác buổi ban sơ, tức nhiên phải chịu lắm nỗi nhọc nhằn đau khổ.Nhưng đối với lòng thương vô biên của Đức Chí Tôn Đại Từ Phụ, phận làm con dầu cực nhọc bao nhiêu cũng chưa gọi là xứng đáng đáp đền trong muôn một.


Ví như không gặp được mối đạo mầu, chúng ta chỉ phải lao tâm tiêu tứ vì manh áo bát cơm, vì gia đình khốn khó nếu có được may mắn hơn nữa, chỉ lên xe xuống ngựa chút ít với đời rồi thì cũng chết mòn như cây cỏ, bụi thời gian vừa khỏa kín nấm mồ thì mấy ai còn nhắc nhở đến. May duyên gặp Đạo, chống chiếc thuyền từ để cứu vớt sanh linh nơi dòng khổ hải hầu buổi chung qui được trở về với cảnh cũ ngôi xưa, Đức Chí Tôn đã hứa hẹn và đưa tay chực rước thì mảnh xác thân này há đâu nại hà cực nhọc. Chúng ta hãy quên mình để những kẻ khác được hưởng nhờ phải hy sinh để cho hoàn thành sứ mạng.Phận sự làm xong, lương tâm được bình tĩnh an vui, đó là phần thưởng êm dịu của chúng ta đó.


Vậy chư quí vị nên vui lòng tiến bước trên bước đường phục vụ . Nhơn buổi hội hiệp nầy, tôi cầu nguyện Đức Chí Tôn và Phật Mẫu ban ơn lành cho mỗi Chức sắc nơi Thánh Địa cũng như ở địa phương được sức khỏe dồi dào, tinh thần mẫn huệ để thực hành tôn chỉ của Đại Đạo và nơi bữa tiệc năm tới chúng ta đều gặp lại nhau đông đủ không thiếu sót một ai.


Riêng về Chức sắc, Chức việc Nam Nữ ở địa phương, tôi cầu chúc Chư quí vị được hành trình yên ổn và tất cả công việc Đạo trong năm đều được hanh thông, có kết quả hoàn toàn tốt đẹp.
 

CAO THƯỢNG SANH

 

ĐÁP TỪ TRONG DỊP LỄ KHÁNH THÀNH NHÀ HỘI VẠN LINH

Ngày mùng 9 tháng Giêng năm Quý Mão (02-02-1963)

    Kính thưa:
    - Thiếu Tướng Đại Biểu Chánh phủ tại Miền Đông Nam Phần.
    - Ông Phó Tỉnh Trưởng
    - Quý ông Dân Biểu Quốc Hội Tỉnh Tây Ninh
    - Ông Quận Trưởng Phú Khương
    - Chư Quý Quan khách,
    - Chư Chức sắc, Chức việc, Đạo hữu nam nữ.


Thay mặt cho HỘI-THÁNH, tôi để lời cám ơn Thiếu Tướng Đại biểu Chánh phủ tại Miền Đông Nam Phần không nệ đường sá xa xôi sẵn lòng đến dự lễ Khánh Thành ngôi nhà Vạn Linh của HỘI-THÁNH làm cho buổi lễ hôm nay tăng phần long trọng quá sự mong ước của HỘI-THÁNH. Tôi cũng để lời cám ơn ông Phó Tỉnh Trưởng, ông Quận Trưởng, chư qúy Quan khách sở tại, chư quý Quan khách đã hoan hỷ đến dự buổi lễ nầy. Sự hiện diện của chư quý vị chứng tỏ lòng thiện cảm của Chánh phủ đối với HỘI-THÁNH chúng tôi trong mọi trường hợp làm cho chúng tôi quá đổi hân hoan và cảm động.


Tạo nên ngôi nhà nầy, HỘI-THÁNH chúng tôi có ý để dùng làm nơi hội họp của bổn Đạo mỗi khi có cuộc lễ long trọng và khi có quý quan khách trong các giới và các tôn giáo ở xa đến viếng Toà Thánh muốn lưu lại đôi ngày thì cũng sẵn có nơi xứng đáng để tiếp rước.


Thưa toàn thể chư Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu, hoàn thành đượccông trình xây dựng nầy, HỘI-THÁNH nhờ nơi tấm nhiệt thành của toàn Đạo Chức sắc, Chức việc, cùng Đạo hữu nam nữ nơi trung ương cũng như ở các địa phương vui lòng chung đậu kẻ ít người nhiều , nhứt là nhờ nơi công quả của Ban Kiến Trúc và thợ chuyên môn toàn là người hiến thân cho Đạo.


Điều mà HỘI-THÁNH quá thâm cảm là mỗi khi có tiếng kêu gọi của HỘI-THÁNH để thật hành một công tác nào thì toàn thể Chức sắc, nhơn viên và công quả đều sẵn sàng hưởng ứng mãnh liệt, đem hết thiện chí và khả năng để phục vụ cho đến khi công việc hoàn thành mỹ mãn. Hôm nay phần đông Chức việc và Đạo hữu nam nữở các nơi tựu về Tòa Thánh để chứng kiến một công trình kiến trúc to tát đồ sộ,một ngôi nhà chung mà mỗi vị đều có góp phần xây dựng. Tôi tin chắc ai cũngđược hân hoan nhận thấy sự hy sinh của mình đã tô điểm thêm cho nghiệp Đạo nhiều nét đan thanh, oai hùng, để làm phấn khởi tinh thần đoàn kết của mỗi con cái Đức CHÍ-TÔN Đại Từ Phụ. Cái tinh thần đoàn kết và xây dựng ấy, HỘI-THÁNH xin đa tạ và thành tâm dâng lên Đức CHÍ-TÔN và Đức PHẬT-MẪU chứng minh.


Thưa Thiếu Tướng đại biểu, thưa chư quý Quan khách, cuộc lễ Khánh Thành Nhà Hội Vạn Linh hôm nay, HỘI-THÁNH chúng tôi tổ chức thật đơn giản trong phạm vi tôn giáo và trong vòng mật thiết của bổn Đạo. Chúng tôi quá may duyên được chư quý vịsẳn lòng đến chứng kiến làm cho chúng tôi được một vinh hạnh quá cao.


Một lần nữa tôi xin thành thật cám ơn. Trong cuộc lễ đơn giản , nếu HỘI-THÁNH chúng tôi có điều sơ sót,xin chư quý Ngài rộng lòng tha thứ .
Sau nữa, nhơn ngày lễ vía Đức CHÍ-TÔN, thay mặt cho HỘI-THÁNH , tôi xin thành tâm cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN ban phước lành cho chư quý vị và toàn thể Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu lưỡng phái./.
 

THƯỢNG SANH

 

HUẤN DU

Đọc tại giảng đường trong bữa tiệc đãi vị TÂN ĐẦU SƯ và
TOÀN THỂ CHỨC SẮC CHỨC VIỆC ngày 24/ 1/ Quý Mão (dl 17/ 02/ 1963)

    Kính thưa Hội Thánh Lưỡng Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng
    Kính thưa Ngài Quyền Đầu Sư , Chư Chức sắc Chức việc và Đạo hữu Nam Nữ .


Buổi lễ lập thệ của Ngài Quyền Đầu Sư và lễ ban quyền cho người đã cử hành xong tại Đền Thánh. Từ đây C.T.Đ. đã có vị cầm đầu, nắm quyền điều khiển dìu dắt Chức sắc và Môn đệ của Đức CHÍ TÔN trên đường Thánh đức.


Hội Thánh H.T.Đ. đã thực hành phận sự đúng theo thiên ý của Đức CHÍ TÔN là lập vị cho Chức sắc C. T. Đ. thăng đến phẩm vị tối cao, tức là góp phần tạo lập con đường cho mỗi môn đệ Đức CHÍ TÔN đi từ cõi phàm tục đến cõi Thiêng liêng, đạt đến ngôi xưa phẩm cũ của mình nơi cảnh vô vi hằng sống.
Kính thưa Hiền huynh Qu. Đầu sư, Hiền huynh đã được uy tín của Chức sắc Hội Thánh, lại được lòng tin cậy của Đức LÝ ĐẠI TIÊN NHỨT TRẤN OAI NGHIÊM, thì cái thanh danh về mặt Đạo của hiền huynh càng thêm chói rạng. Trong cửa ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ, Hiền huynh đã gội nhuần một ân huệ đặc biệt, một sự ban thưởng xứng đáng sau 37 năm tận tụy với chức vụ, một lòng vì Đạo, vì nhơn sanh.


Thay mặt Hội Thánh H.T.Đ. tôi xin để lời mừng cho Hiền huynh, và nhơn dịp nầy tôi xin nhắc lại lời dạy của Đức LÝ ĐẠI TIÊN đêm 29/ 10/ 1926, tức là năm Bính Dần về sự thưởng phạt như sau đây:

    “ Mở một mối Đạo chẳng phải là thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp mối Đạo, cũng chẳng phải dễ. Muốn lập thành tức phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt .Có thưởng mới dục lòng kẻ có công, có phạt mới răn được lòng tà vạy .
    Thưởng phạt tuy chẳng phải hữu hình nhưng là một sự mầng vui chưa có bậc cao thượng nào ở thế ví bằng, và một sự buồn bã nào sánh đặng . Dầu có ăn năn hối hận mấy kiếp ngày giờ cũng đã qua rồi, ngôi Cực lạc vẫn có người choán hết” .

Đức LÝ ĐẠI TIÊN đã nhắc nhở về sự thưởng phạt, một sự thưởng phạt Thiêng liêng, không thể sánh với sự thưởng phạt nơi cõi phàm tục được . Hiền huynh đã phí công lao, đã dụng đức tính, đạo hạnh và tình thương yêu mà đổi lấy phẩm vị Thiêng liêng. Hiền huynh đã nhận thức lẽ mầu nhiệm của cơ thưởng phạt và đã nêu gương sáng cho người trong cửa Đạo . Cái giá trị của người được ban thưởng tức là Hiền huynh đã được nâng cao chính là ở chỗ : Phụng sự mà không chút chi vị lợi, cứ lập công mà không cầu cạnh, cũng không có ý tranh giành và không ước mong điều thăng thưởng. Nhưng sự công bình của Đức CHÍ TÔN là tuyệt đối.


Thiên ý đã xoay chuyển, đã sắp đặt cơ hội, đã tạo thành dịp tốt và rốt cuộc sự ban thưởng đã đến bất ngờ, dầu muốn dầu không cũng phải đành chịu nhận lãnh.
Giờ đây đã đến lúc thi hành sứ mạng Hiền huynh đã nhiều kinh nghiệm trên đường hành Đạo, tôi tin nơi chí cương trực và tinh thần xây dựng của Hiền huynh và cầu chúc cho Hiền huynh được thành công trong nhiệm vụ mới với sự ủng hộ triệt để của toàn thể Chức sắc và Chức việc.

 

Kính thưa Chư Chức sắc, Chức việc C.T.Đ. và Phước Thiện Nam Nữ,
Sự hội hiệp trong đại gia đình của chúng ta lúc đầu năm Quí Mão đã biểu thị tinh thần đoàn kết và tình tương thân tương ái của chúng ta trong cửa Đạo. Rồi đây, sau bữa tiệc thân mật hôm nay mỗi vị sẽ bắt tay vào việc, người thì ở lại trung ương, kẻ phải lên đường trở về nơi chốn xa xôi để tiếp tục thi hành phận sự đối với Đạo đối với nhơn sanh. Cái sứ mạng của mỗi người trong chúng ta, dù chức vụ lớn hay nhỏ, đều phải khó khăn nặng nhọc. Điều chúng ta nên lưu tâm là cái phận sự ấy hướng về hạnh phúc của nhơn sanh và sự xây dựng đại nghiệp của Đức CHÍ TÔN tại thế nầy, nên dầu cho khó nhọc bao nhiêu cũng phải gắng công đi đến một kết quả tốt đẹp để khỏi phụ lòng tin cậy của Hội Thánh và giữ trọn trung hiếu với Đức CHÍ TÔN Đại Từ Phụ.


Tôi thành tâm cầu nguyện Đức CHÍ TÔN và PHẬT MẪU ban ơn lành cho mỗi Chức sắc nơi Trung ương cũng như ở Địa phương được tinh thần sáng suốt, sức khỏe dồi dào để thực hiện tôn chỉ của Đại Đạo và ngày đầu Xuân năm tới chúng ta sẽ gặp lại nhau đông đủ không thiếu sót một ai.
Trước khi dứt lời, riêng về Chức sắc Chức việc Nam Nữ ở Địa phương, tôi cầu chúc mỗi vị thượng lộ bình an, trong năm tất cả công việc Đạo đều được tiến triển khả quan dưới sự che chở của Đức CHÍ TÔN Đại Từ Phụ./.
 

· THƯỢNG SANH

 

DIỄN VĂN CHÀO MỪNG QUỐC TRƯỞNG VIỆT NAM CỘNG HÒA

Ngày 19/ 4/ 1965 (Ất Tỵ)


Kính thưa Quốc Trưởng,
Kính thưa Chư Quý Bộ Trưởng,
Kính thưa Chư Quý Quan Chức Văn Võ

Hôm nay Hội Thánh Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh có cái hân hạnh đặc biệt là được có dịp rước vị Quốc Trưởng, đấng cầm quyền tối cao của VIỆT NAM CỘNG HÒA, có lòng huệ cố thân hành đến viếng Tòa Thánh Tây Ninh làm cho vùng Thánh Địa nầy được có cái diễm phúc bất ngờ và Hội Thánh chúng tôi được có một vinh hạnh quá lớn lao.


Mặc dầu phận sự quá nhọc nhằn, việc nước đa đoan trong khi tình trạng quốc gia đương hồi nghiêm trọng, Quốc Trưởng cũng nhín chút thì giờ quí báu quá bước đến vùng Đạo của chúng tôi, thật chúng tôi lấy làm cảm động và toàn thể Chức Sắc, Thiện tín nơi đây đều lộ vẻ hân hoan vô tận. Vậy nhơn danh Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, nhơn danh toàn thể Chức Sắc, Đạo hữu Lưỡng phái và nhơn danh riêng tôi, tôi xin để lời chào mừng Quốc Trưởng. Xin Quốc Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và sự thâm cảm của Hội Thánh chúng tôi.


Thưa Quốc Trưởng; sự hiện diện của Quốc Trưởng hôm nay nơi vùng Thánh Địa Tây Ninh, chứng tỏ một lần nữa lòng ưu ái của Quốc Trưởng đối với toàn thể bổn Đạo chúng tôi. Vì Quốc Trưởng ban cho nhơn sanh nơi đây một ân huệ đặc biệt, là giúp một số tài chánh quan trọng để cho Chánh quyền tỉnh Tây Ninh xây cất một bệnh viện trong vùng chợ Long Hoa. Bệnh viện nầy dùng cho chư thiện tín, phần nhiều ở giai cấp vô sản, khi lâm bịnh có nơi chỗ nằm điều trị khỏi tốn kém . Công việc kiến thiết này sắp được thực hiện và toàn thể Đạo hữu sẽ được chung hưởng cái đặc ân của Quốc Trưởng trong ngày gần đây. Nhơn danh Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, tôi xin thành thật để lời cảm tạ Quốc Trưởng, cái ơn đức của Quốc Trưởng đã gieo rải nơi đây, toàn thể nhơn sanh vùng Thánh Địa sẽ ghi nhớ mãi.
Là người giàu lòng đạo đức, nêu cao gương bác ái để phụng sự nhơn loại, Quốc Trưởng từ ngày cầm quyền lãnh đạo Quốc gia, đã để hết tâm lo cho nước, cho dân. Dù vậy, Quốc Trưởng không quên nghĩa vụ về tinh thần là nâng đỡ tất cả các Tôn giáo trong nước, vừa giúp cho mỗi Tôn giáo được có cơ thuận tiện tiến triển mạnh trên đường đạo đức, hầu thực hành tôn chỉ giải khổ cho nhơn loại.


Vì vậy sự viếng thăm của Quốc Trưởng hôm nay đem đến cho chúng tôi một niềm hân hoan êm dịu, một khích lệ lớn lao, làm cho chúng tôi càng thêm phấn khởi tiến bước trên đường phục vụ cho Đạo và cho nhơn sanh. Chẳng biết lấy chi để đáp lại cái thạnh tình của Quốc Trưởng đối với Hội Thánh . Chúng tôi xin thành tâm cầu chúc Quốc Trưởng được quí thể khang kiện để phụng sự quốc gia và hoàn thành nhiệm vụ tối cao mà Quốc Trưởng đã vì nước, vì dân nghiêng vai gánh vác.
Trước khi dứt lời, chúng tôi cầu nguyện Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU ban phước lành cho Quốc Trưởng, chưQuý Bộ Trưởng và toàn thể Quý Quan chức Văn Võ.

VIỆT NAM CỘNG HÒA muôn năm !
PHAN QUỐC TRƯỞNG muôn năm !

T.M. HỘI THÁNH
THƯỢNG SANH

       

HUẤN TỪ LỄ BÃI TRƯỜNG và PHÁT THƯỞNG

tại ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG niên khóa 1964- 1965(Ất Tỵ)

    Kính Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện,
    Kính Thiếu tướng TỈNH TRƯỞNG TÂY NINH,
    Kính Quý Quan Khách .


Hôm nay tôi lấy làm hân hoan đến dự buổi lễ Bãi Trường và Phát Phần thưởng của ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG . Suốt một niên khóa học dài đăng đẳng, Ban Giám Đốc và Chư Giáo viên đã cố gắng làm phận sự, đã lắm nhọc nhằn để dìu dắt, giáo hóa đoàn trẻ thơ học sinh, toàn là những con em trong cửa Đạo. Phận sự giáo hóa trẻ thơ, dù là nơi mặt đời hay là trong cửa Đạo vẫn là nhiệm vụ cao đẹp. Nhưng nơi cửa Đạo, trách nhiệm của nhà giáo viên lại khó khăn hơn, vì phận sự bao hàm cả một nghĩa vụ thiêng liêng đối với Đạo và một tinh thần hy sinh về mặt vật chất.


Cái công khó dạy dỗ trẻ em không phải đợi đổi một món thù lao tương đối như ở mặt đời, mà chỉ do nơi chí nhiệt thành phục vụ để góp phần công quả vào cuộc xây dựng về tinh thần đối với Đại nghiệp của Đạo. Theo trào lưu tiến hóa của văn minh vật chất, chúng ta vẫn thấy nghề giáo huấn là một nghề vất vả, một nhiệm vụ vô ân, và dường như là một nghề bị đời khinh rẻ, so sánh với các phẩm bậc quan viên có quyền thế trong các ngạch khác.


Còn đâu là nề nếp lễ giáo thời xưa, còn đâu là cái danh dự riêng biệt của người có trọng trách giáo hóa theo thuyết QUÂN, SƯ, PHỤ, của Khổng Giáo?
Xưa kia, một ông Quan học thành tài dự chiếm khoa trường và được vinh qui bái tổ, thì bổn phận trước nhất là khăn áo chỉnh tề mang lễ vật đến viếng Ông Thầy dạy cũ để tỏ sự kính mến biết ơn, vì nhờ thầy mở trí lúc ban sơ mà ngày nay mình mới được đai vàng thẻ bạc.
Thời nay học sanh vừa đến lớp đệ lục hoặc đệ ngũ trung học, khi đi đâu gặp Ông Thầy cũ đã dạy mình ở Tiểu học thì đã vội tẻ ngã khác, hoặc đi qua mặt, hiên ngang coi Thầy cũ như kẻ đi đường.


Thử hỏi chúng ta há chẳng đau lòng mà chứng kiến những trường hợp như vậy sao? May thay! Đây là một trường trong cửa Đạo, đặt dưới quyền Giám đốc của một Chức Sắc do Hội Thánh đề cử. Những giáo viên toàn là người đạo đức, xuất thân nơi cửa Đạo . Tôi tin rằng Ban Giám Đốc và Giáo viên có thể nung đúc trí não của trẻ thơ theo đường lối đạo đức, thế nào cho chúng được hấp thụ một nề nếp lễ giáo thuần túy xứng đáng là những học sinh khuôn mẫu được đào tạo nơi một học đường của Hội Thánh. Đó thật là điều khó khăn, nhưng không phải là một sự khó khăn làm cho ta phải thúc thủ vô sách.


Các em giáo viên hiện giờ nên gắng công nung đúc những tâm hồn non nớt, ngày sau trở nên bậc hiền lương trong cửa Đạo, hoặc những đấng nhơn tài trong xã hội. Cái công ấy không phải nhỏ. Trong cửa Đạo, nhiệm vụ của mấy em không còn là vô ân nữa . Chí hy sinh và lòng can đảm phục vụ của mấy em sẽ được sự ban thưởng của Hội Thánh và các em sẽ được hưởng ân huệ xứng đáng về mặt thiêng liêng. Rồi đây các em sẽ trở nên những Chức sắc của Hội Thánh, có sứ mạng giáo hóa nhơn sanh và góp công xây dựng đại nghiệp của Đức CHÍ TÔN tại thế . Trên con đường lập vị, các em sẽ tạo nên công nghiệp phi thường, để ngày sau bia tạc danh thơm nơi Đạo Sử. Tôi chỉ cầu xin mấy em thành công mỹ mãn.


Về bổn phận của mấy cháu học sinh, tôi xin có mấy lời nầy: Mấy cháu còn đương niên thiếu, đó là lúc tốt đẹp nhứt của đời người. Mấy cháu chỉ biết ăn học và chơi giỡn hoàn toàn vô ưu lự của buổi thiếu thời . Nhưng mấy cháu cũng ý thức được phần nào cha mẹ lắm chịu cực khổ lo cho mấy cháu ăn học đặng ngày sau trở nên người xứng đáng. Cha mẹ thì ngày tháng cần cù lo cho có tiền nuôi mấy cháu, thầy dạy thì lao tâm tiêu tứ để nung đúc trí não của mấy cháu, cố gắng sao cho mấy cháu trở nên người khôn ngoan hữu dụng. Cái công ơn của thầy không kém gì cái công ơn của cha mẹ .Phải ghi nhớ mãi trong tâm trí, mấy cháu mới xứng đáng là con nhà lễ giáo. Có nhiều hạng trẻ thơ phải chịu dốt nát chỉ vì cha mẹ quá nghèo cực, không có tiền cho con ăn học. Mấy cháu được có phước hơn những trẻ ấy, vì mấy cháu được cắp sách đến trường, lại nữa mấy cháu quá may mắn là được ở trong vùng đạo đức, sự học tập được dễ dàng, có Hội Thánh chăm lo, có thầy siêng năng dìu dắt chỉ dạy.


Vậy thì phận sự của mấy cháu chỉ có lo học, đừng để thua sút chúng bạn, đừng để cho cha mẹ phải buồn phiền, cho thầy dạy phải thất vọng. Thì giờ thật quí báu, mấy cháu chớ bỏ ngày tháng trôi qua, vui chơi trong thói hoang đàng, phế công đèn sách thì sau nầy mấy cháu ăn năn rất muộn. Có câu ca dao rằng:

    “Cơm cha áo mẹ chữ thầy,
    Khuyên con gắng học cho tày thế gian”

Mấy cháu khá ghi nhớ mãi trong tâm trí .
Trước khi dứt lời, tôi xin cầu nguyện Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU ban ơn lành cho toàn thể Ban Giám Đốc và toàn thể Giáo viên và nhơn viên ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG./.


THƯỢNG SANH
 

LUẬN VỀ “ NGUỒN GỐC ĐAU KHỔ CỦA NHƠN SANH”

tại ĐỀN THÁNH đêm 7/ 4/Ất Tỵ (1965) VÍA ĐỨC THÍCH CA

 Phật gọi đời là bể khổ, nước mắt của chúng sanh trong ba nghìn thế giới đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn biển . Cái khổ là một sự thực hiển nhiên, mỗi người không ai tránh khỏi . Dầu giàu nghèo sang hèn ai cũng có cái khổ riêng của mình nhưng người đời ít ai dám nhìn thẳng vào đó. Tựu trung cái tâm lý chung của người đời là sợ đau khổ và sợ cả sự nghĩ đến đau khổ, luôn luôn có thái độ lẫn tránh, che đậy hay muốn quên đi bằng cách ẩn mình trong những vui thú nhất thời. Do đó, người đời ít khi muốn bàn đến đau khổ, vì ai cũng muốn sống trong sự vui tươi và ai cũng mong cầu hạnh phúc. Nhưng dầu người ta không dám nghĩ đến đau khổ và muốn tránh xa đau khổ, nó cũng cứ thung dung bước tới chụp bắt con người, chẳng khác chi thú dữ vồ lấy con mồi, không phương nào thoát khỏi được.
Không thoát khỏi được là chí lý, vì tự người ta vời nó đến thì cái nguyên nhân đau khổ chỉ nói ta tạo ra mà thôi. Cái nguyên nhân ấy là dục tức là ham muốn . Con người khổ vì ham muốn cuộc đời, ham muốn hưởng thụ, ham muốn chiếm đoạt, ham muốn chế ngự, ham muốn phô trương, ham muốn khoái lạc về vật chất lẫn tinh thần, ham muốn tình cảm, nói tắt là ham muốn sống một cách huy hoàng dù là phải dấn thân vào vòng tội lỗi.

 

Dục vọng vô bờ bến của con người bao hàm sự quyến luyến ràng buộc với điều mình ham muốn . Nhưng một khi đã dính líu, người ta không còn tự do nữa, như cá phải mắc câu, chim sa lưới. Khi muốn, muốn được rồi lại muốn nữa, muốn cái khác . Dục như ngọn lửa hồng càng cho thêm củi vào thì lửa càng to, cũng như dục càng lớn . Con người khi thiếu thốn quá nên cho là khổ, bởi thiếu thốn nên muốn, muốn tất cả cái gì mình không có. Muốn mà không được là khổ, được rồi lại mất cũng khổ, mọi đau khổ ở đời dưới hình thức cá nhân cũng như dưới hình thức tập thể đều do nguyên nhân sâu xa là dục. Vậy người đời dệt bằng nhiều đau khổ hơn là bằng vui sướng và chính những vui sướng đó lại làm cho đau khổ hơn khi không còn vui sướng nữa . Phật phân chia bể khổ làm 5 loại:

    1/ Sinh lão bịnh tử khổ .
    2/ Ái biệt ly khổ, nghĩa là sự phải ly biệt những người thân yêu là khổ .
    3/ Oán tăng hội khổ, tức là ghét nhau mà phải chung sống là khổ.
    4/ Cầu bất đắc khổ, tức là muốn mà không được là khổ .
    5/ Ngủ uẩn thạnh khổ, tức là 5 yếu tố (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) làm cho người không thấy chân thực, đâm ra triền miên trong ngũ trược và tạo nên khổ.

Những đau khổ trên đều có tính cách công khai rõ ràng, ta cảm thấy hoặc nhận thấy nơi người khác, còn những đau khổ gián tiếp không xuất hiện một cách rõ ràng, ta phải suy nghĩ và chú ý lắm mới nhận định ra được. Thân xác ta luôn luôn có những nhu cầu cần được thoả mãn như: ăn no, mặc ấm, nhà cao, cửa rộng là những điều kiện mà ta cho là hạnh phúc, rồi đến nhu cầu giải trí, ái tình danh vọng, chức tước. Khi ta đi tìm hạnh phúc cá nhân, tất nhiên ta phải đụng chạm đến người khác cũng đi tìm như ta vậy. Thành thử có việc tranh giành, có đụng chạm, tranh chấp, mâu thuẫn giữa người và người để rồi đi đến chỗ thù oán, có khi giết hại lẫn nhau cũng chỉ vì ta làm nô lệ cho dục vọng.


Sự ham muốn làm cho ta mù quáng, chúng ta chỉ muốn hưởng thụ trên cái đau khổ của kẻ khác . Giành giựt được một cái gì của kẻ khác đang hưởng, ta hiu hiu tự đắc, lòng dục được thỏa mãn chớ không dè là sự thỏa mãn ấy chỉ được trong chốc lát, rồi nó phải nhường cho chỗ thất vọng. Sự công bình thiêng liêng đâu có cho ta hưởng như vậy được. Cái vui chưa được thỏa, cái buồn, cái khổ đã kề bên, không có cái gì chân thực vĩnh viễn . Phật ví cái vui, khổ ở đời cũng như những cảm giác của người gánh nặng . Khi đổi vai thì vai không có gánh dễ chịu và vai có gánh thấy khổ cực; một lúc sau đổi vai nữa thì vai vừa mới dễ chịu lại thấy trở lại nặng nề khổ cực . Thế thì cái vui vẫn đi liền với cái khổ chỉ khi nào bỏ gánh xuống thì mới chấm dứt hẳn được vui sướng và khổ đau . Bỏ gánh xuống nghĩa là diệt dục, tức là giải thoát vậy .


Nhận định được nguồn gốc đau khổ, con người cần tìm ra phương pháp để diệt khổ, mà diệt khổ tức là phải diệt dục, diệt nghiệp . Phật giáo cho rằng điều kiện cần thiết của sự giải thoát là “Tự lực” nghĩa là phải có sự nổ lực cố gắng của chính con người muốn giải thoát, bằng không thì dụng phương pháp nào cũng chỉ là vô ích.
Như thế sự cứu rỗi của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi người đó .Đức Phật không tham dự vào công cuộc cứu rỗi của ai khác hết. Ngài đã có công tìm ra con đường giải thoát và chỉ con đường đó lại cho ta cố gắng noi theo để tự giải thoát cũng như Ngài đã tự giải thoát.


Mỗi người đều phải tự liệu đảm nhiệm sự cứu rỗi chính mình đã tự trói buộc gây ra nghiệp nên chỉ chính mình mới cởi trói giải thoát cho mình mà thôi . Ngoài ra có cầu khẩn, cúng bái, dâng lễ cũng không được ơn phúc gì cả . Chính ta tự giúp cho ta không có một quyền lực thiêng liêng nào giúp cho ta được. Về sự diệt dục, Đức Phật có nói: “ Chiến thắng mười vạn quân còn dễ hơn chiến thắng lòng mình, mình tự thắng được mình là chiến công oanh liệt nhứt” . Chúng ta, ai có trải qua những ngày đau khổ vì bị dục vọng lôi cuốn vì mình không tự quyết thắng mình. Khá tua tỉnh giấc mộng trần, quay về với đạo đức chơn thật, để sống lại những ngày giác ngộ sống với ý nghĩa cao đẹp vị tha Cây “giác ngộ” chỉ mọc giữa đám đất đau khổ (vì bị dục vọng lôi cuốn) lấy chúng sanh làm gốc, lấy lòng thương bao la làm nước tưới mới có hoa giữa trí tuệ .


Thánh giáo của Đức CHí TÔN ngày 15/ 4/ 1927 có dạy rằng: “Thầy đã nói cho các con hay trước nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy là cái đời tạm của các con thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy, vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó. Thầy vì công lý mà khai Đạo cho các con cũng là một hạnh phúc lớn cho các con . Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm thì các con chẳng còn để ý chịu nhọc vì Đạo” . Ấy vậy, theo lời Đức CHÍ TÔN, nếu chúng ta không tự lo cứu lấy mình thì Đức CHÍ TÔN cũng không làm sao trợ giúp chúng ta được.


Trong cuộc tiến hóa, mình làm mình hưởng, có nhân tất có quả, chúng ta đừng bao giờ bỏ dở cơ hội tốt nào. Hãy phấn đấu không ngừng, phấn đấu để thắng dục vọng, thực chứng sự lý giải thoát, để khỏi phải phụ lời dạy dỗ của Đức CHÍ TÔN và thực hành lý tưởng của người tu chơn là giữ trọn cuộc đời cao thượng trong sạch sáng suốt, an vui, tự tại và giải thoát./.
 

THƯỢNG SANH

 

Lễ kỷ niệm ĐỨC HỘ PHÁP Qui Thiên

TẠI ĐỀN THÁNH, đêm mùng 9/ 4/ Ất Tỵ (1965)

 

Kính Chư Chức sắc Hiệp Thiên , Cửu Trùng, Phước Thiện Nam Nữ.
Kính Chư Chức việc và Đạo hữu lưỡng phái .
 

Hôm nay là ngày kỷ niệm Đức HỘ PHÁP Qui Thiên, tôi xin nói về vấn đề đức chí thành và công nghiệp của Đức Ngài trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Chí Thành là một đức tính mà con người sanh ra ở thế gian ai cũng cần phải có, để tự kềm chế mình được ngay thẳng thành thật trong đường đời cũng như đường Đạo . Có chí thành con người mới có phẩm hạnh sáng tỏ, mới biết cân phân tà chánh, thị phi trong khi tiếp xúc với nhân quần xã hội, mới dám quyết định nên hư trong các công việc của mình và nhờ đó mà đi đến mức thành công mỹ mãn.


Người có đức chí thành không hề biết dối trá gạt gẫm ai, không biết a dua, bợ đỡ, không vì lợi bỏ nghĩa, không vì mình hại người, cứ thẳng thắn đường ngay tiến bước, thà là chịu thất bại còn hơn là dụng mưu mô bất chánh để dối người, lừa bạn. Trên đường đời con người vì bị văn minh vật chất lôi cuốn làm cho điên đảo thần hồn, mịt mờ trí nảo nên không mấy ai còn giữ được đức chí thành .Vì đó mà người ta đối đãi nhau bằng những lừa dối, nghi kỵ xảo trá mưu mô khiến cho từ việc nhỏ đến việc lớn đều bị thất bại, nhứt là trong trường hợp có sự cộng tác của nhiều người hướng về một mục đích hay một chủ nghĩa nào. Đối với xã hội đức chí thành có một tầm quan trọng như thế, huống chi trong đường Đạo, đối với tôn chỉ siêu việt cao cả của tôn giáo, đức chí thành lại còn quan trọng lớn lao hơn nữa.


Người hành Đạo mà thiếu chí thành cũng chẳng khác chi người băng rừng lúc ban đêm mà trong tay không có ngọn đuốc để chỉ đường dẫn hướng, vì chí thành là căn bản của con người thuần túy. Có cái căn bản đó, người ta mới mong trau giồi hạnh đức chí quyết tự giác nhi giác tha, không thể lầm đường lạc nẻo. Thiếu chí thành tức là mình tự dối với mình trước, sau là dối với bạn Đạo, dối với người trên trước, dối với nhơn sanh . Cái lòng giả dối sẳn có ấy không thể nào thay đổi được . Một sự tầm thường dễ thấy hơn hết là khi tụng kinh hoặc khẩn vái, cầu nguyện với các Đấng Thiêng Liêng mà lòng không được nét chí thành thì sự cầu nguyện chẳng qua là làm cho có vẻ bề ngoài chớ tựu trung không bổ ích gì hết. Vì có cảm mới có ứng, không chí thành thì không thể có hiệu nghiệm . Người hành Đạo có đủ chí thành thì cốù gắng lập công vì nhiệm vụ, vì chủ nghĩa thương đời chớ không cầu danh chác lợi .


Không vì công lớn mà tỏ vẻ tự đắc, lập thế chuyên quyền làm điều trái đạo cho kẻ ăn oán nuốt hờn, người thở than đau khổ, biết lo chung cho sanh chúng, không cần tiếng bợ lời khen, tự khép mình vào khuôn viên đạo đức, treo tấm gương thanh bạch quyết thực hành tôn chỉ vì Đạo cứu đời. Theo thuyết Khổng giáo thì phải tu luyện ý chí cho đạt đến Chí Thành để rồi quyết định làm những điều hay lẽ phải để tiến tới Dũng . Dũng cảm đối với Đức Khổng Tử không phải là cậy sức làm liều mạng, mà Dũng là giữ niềm hòa khí, lúc nào cũng sống với đạo lý của mình, ý chí không thể bị lay chuyển dù là lúc bình thường hay trong hồi nguy biến. Vậy luyện chí thành tức là :

    1/ Thấy việc nghĩa nhứt định làm .
    2/Thiết tha với hoài bão của mình .
    3/ Tìm mọi biện pháp để thực hiện hoài bão đó.
    4/ Dầu là trong khó nhọc gian lao, chí thực hiện đó không sờn mẻ.

Ví dụ có điều mình chẳng học, nhưng đã học mà chẳng thành công thì chẳng thối; Có điều mình chẳng nghĩ, nhưng suy nghĩ mà chẳng ra thì cứ suy nghĩ mãi; Có điều mình không làm nhưng làm mà chưa hoàn tất thì không bỏ dở. Người ta ra công một lần mà được thành, mình dầu ra công một trăm lần mà chưa thành cũng cứ tiếp tục cho đến khi thành mới chịu. Sự cường dũng là nơi đó vậy . Đức HỘ PHÁP nếu chẳng phải là người đầy đủ đức chí thành thì ngày nay không có một sự nghiệp vĩ đại để lại cho toàn Đạo chung hưởng. Đức Ngài lãnh mạng lịnh với Đức CHÍ TÔN quyết tạo lập Đền Thánh thì cương quyết thế nào cũng phải làm tròn sứ mạng .
Lúc bấy giờ Đạo đương hồi chia rẽ, người thì ra lập chi phái riêng, kẻ thì hô hào bất hợp tác, tìm phương phá rối nội bộ làm cho nhân tâm ly tán. Tài chánh lại eo hẹp, thêm chính quyền thực dân để ý nghi kỵ làm khó dễ đủ mọi phương diện, nhưng mặc cho đường Đạo gay go, mặc tình đời khắc khổ. Đức Ngài vẫn bình thản khởi công, quyết chí hy sinh , tận tâm vì nghĩa vụ.


Suốt 5 năm công khó, ăn ngủ thất thường, đem hết trí não điều khiển công cuộc xây dựng . Đền Thánh vừa mới tạo xong mặt ngoài thì chánh phủ Pháp ra lệnh cho nhân công phải ngưng hết mọi công việc xây cất . Đó là ngày 28/ 5/ Tân Tỵ (1941) . Kế Đức Ngài bị bắt và bị đưa đi sang MADAGASCAR vào ngày 27/7 năm 1941 cùng 5 vị Chức sắc. Cơ thử thách quá nặng nề, dầu cho ai lâm vào cảnh tang thương não nùng như vậy thì chí cương quyết cũng phải tiêu ma, nhưng Đức Ngài nhờ có khối nhiệt thành trau luyện tột bực, nên Đức Ngài đinh ninh là cái sứ mạng xây dựng Đền Thánh do Đức CHÍ TÔN giao phó, không vì cái bạo tàn của thực dân mà phải bỏ dở. Vầng trăng đương soi sáng vũ trụ, bỗng nhiên một thoáng mây đen thoáng qua, tuy là làm cho lu mờ cảnh vật, nhưng đó chỉ là trong chốc lát. Một luồng thanh phong thổi tới, áng mây bị đẩy đi xa, ánh trăng cũng trở lại tỏ rạng khắp bốn phương trời .


Thật vậy, sau 5 năm mấy tháng lưu đày . Đức Ngài hồi hương với một tinh thần cao siêu hơn, một tâm linh cao đẹp hơn, một chí thành cứng rắn hơn . Chim bằng đã dưỡng sức từ bấy lâu nay chớp cánh bay tận bốn phương trời, mặc sức vẫy vùng giữa chốn ngàn mây dặm gió . Về đến vùng Thánh địa, điều lo nghĩ trước nhứt của Đức Ngài là tiếp tục công cuộc kiến thiết Đền Thánh. Khích lệ đám nhân viên công thợ của Đạo, Đức Ngài chăm lo tiện tặn tài chánh, lo tô điểm ngôi Đền Thờ cho đến khi hoàn thành mỹ mãn.  Xong công cuộc xây dựng Đền Thánh, Đức Ngài lo tu bổ các dinh thư,ï mở mang đường sá, xây cất Trí Huệ Cung, tổ chức Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh. Nhờ uy tín và chí thành của Đức Ngài, Đạo lúc bấy giờ phát triển không ngừng . Bàn tay của Đức Ngài là bàn tay sáng tạo. Có Đức Ngài đại nghiệp Đạo mới được đồ sộ như ngày nay, thanh danh Đạo mới được loan truyền khắp mặt địa cầu. Đức Ngài đã hy sinh trọn đời để lo cho sanh chúng, tạo cho đời một kỷ niệm tinh thần, nâng cao nền tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam ngang hàng với các nước Âu Á về mặt tôn giáo. Sứ mạng hoàn thành, Đức Ngài trở về Thiêng Liêng vị, bằng lòng với công cuộc của mình đã xây dựng để lưu lại cho bao nhiêu bạn đồng hành, bao nhiêu con em trong cửa Đạo.


Ăn trái nhớ kẻ trồng cây, thừa hưởng sự nghiệp của Đức Ngài, mỗi Chức sắc, mỗi Đạo hữu phải ghi nhớ công ơn của Đức Ngài. Sự nhớ công ơn đó chẳng phải là bằng lời nói không, mà phải bằng những cử chỉ và hành động xây dựng, thế nào cho thanh danh Đạo ngày càng thêm cao, thế nào cho Đại nghiệp nầy được bành trướng và trường tồn mãi mãi. Nhớ công ơn Đức Ngài, chúng ta phải noi theo gương vị tha và đức chí thành của Đức Ngài, tức là phải quên mình để phục vụ, cố gắng làm nên để cho nhơn sanh hưởng nhờ và cương quyết theo hoài bão xây dựng cho đến mức thành công. Sau nữa, nhớ công ơn Đức Ngài, chúng ta phải thành thật thương yêu nhau, không vì một lẽ nào mà chia rẽ nhau, thù nghịch lẫn nhau, vì Đức Ngài cũng vì thương yêu, nên đã phí cả một kiếp sanh để gắng công lưu lại cho đời một tinh thần bất diệt.


Hướng về chốn ngàn mây động bích, chúng ta đồng cầu xin Đức Ngài trợ giúp chúng ta vững tiến đường đạo đức và làm tròn nhiệm vụ.
Mong thay! Kính thay!
 

THƯỢNG SANH


DIỄN VĂNLỄ ĐẶT VIÊN GẠCH ĐẦU TIÊN

KIẾN THIẾT CHÁNH MÔN TÒA THÁNH TÂY NINH

    Kính Chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện Nam nữ,
    Kính Thiếu Tướng cựu Tỉnh Trưởng Tây Ninh và quý Quan khách .
    Kính Chức việc và Đạo hữu lưỡng phái .


Hôm nay là ngày lễ đặt viên gạch đầu tiên kiến thiết Chánh môn Tòa Thánh Tây Ninh .
Tôi để lời cám ơn Chư quý viên quan và quan khách đã sẵn lòng đến dự làm cho cuộc lễ tăng thêm phần long trọng . Tôi cũng để lời cám ơn toàn thể Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu Nam Nữ đến đông đảo để nâng cao tinh thần đoànkết trong công cuộc kiến thiết nầy. Đã bao lâu rồi HỘI-THÁNH có ý định xây cất Chánh môn Tòa Thánh theo sự trù hoạch của Đức Hộ Pháp từ trước. Nhưng vì tài chánh eo hẹp, lại nữa trong vùng nội ô có nhiều sự kiến trúc và tu bổ cấp bách cần phải lo trước, nên không thể thực hành ý định sớm hơn được. Mãi cho đến ngày hôm nay mới có thể khởi công xây dựng .


Theo sự thỏa thuận trước đây giữa HỘI-THÁNH và ông cựu Tỉnh Trưởng thì công cuộc vận động cho có đủ tài chánh mua vật liệu về phần ông cựu Tỉnh Trưởng đảm nhiệm, còn HỘI-THÁNH thì lo về chi phí công thợ. Nhưng ngày 12 tháng sáu Ất Tỵ (nhằm 10/07/1965) thì chánh phủ bổ nhiệm ông Tỉnh Trưởng mới đến thay thế cho ông Lê Văn Tất được lãnh nhiệm vụ khác. Lẽ dĩ nhiên, ông cựu Tỉnh Trưởng không còn lo nhiệm vụ kể trên nữa, và công cuộc xây dựng Chánh môn Tòa Thánh hiện nay đã chính thức trọn vẹn phần HỘI-THÁNH đảm nhiệm về phương diện tài chánh cũng như về phương diện kiến thiết.


Từ mấy chục năm qua, đại nghiệp của Đức CHÍ-TÔN tại thế vẫn được bồi đắp lần hồi do nơi lòng trung thành và chí hy sinh của toàn Đạo, tức là của Chức sắc và Thiện tín. Đạo trải qua bao nhiêu nỗi thăng trầm, lướt qua bao phen bão bùng, giông tố gây nên bởi lòng tham hiểm của thế tình, nhưng chánh khí trung cang của con cái Đức CHÍ-TÔN không bao giờ sờn mẻ. Trong những giờ phút khó khăn, điên đảo; trong những hồi đen tối khuynh nguy, nếu vạn đắc dĩ, HỘI-THÁNH phải để lời kêu gọi thì nhân sanh trong cửa Đạo sẵn sàng hưởng ứng kẻ của người công xúm nhau đem khối nhiệt thành điểm tô cho cơ nghiệp Đạo. Đó chính là một tinh thần phục vụ cao siêu mà cũng là cái năng lực hữu hiệu của Thiêng Liêng đã mầu nhiệm dành sẳn cho Thánh Thể Đức CHÍ-TÔN tại thế . Cái tinh thần đó bất diệt cũng như cái năng lực đó vẫn mãi trường tồn và luôn luôn chực sẵn để phụng sự cho chánh nghĩa,nâng đỡ cho lẽ phải và giúp nên cho những bậc lãnh đạo chơn chánh, thiết tha hoài bão xây dựng cho nền Chánh giáo.


Những đấng đàn anh tiền bối trong cửa Đạo ngày nay dù khuất bóng đã để lại biết bao công trình, bao nhiêu tâm huyết, lao tâm tiêu tứ có khi đến hơi thở cuối cùng, chỉ vì quyết phục vụ nhơn sanh, chỉ vì quá thương Thầy mến Đạo, quyết lưu lại một chút sự nghiệp cho người sau chung hưởng, đó là những bậc vĩ nhân đạo đức đáng kính mến, đáng tôn thờ . Lo làm để cho kẻ khác hưởng, cho người sau hưởng, đó là vị tha, đó là chánh nghĩa. Lo làm để cho chính mình hưởng đó là vụ lợi, tức là bất chánh, việc làm dù thành công cũng không tồn tại được.


Công cuộc kiến thiết Chánh môn hôm nay bắt đầu thực hành, HỘI-THÁNH vui lòng nhận thấy không biết bao nhiêu người trong Đạo sẳn lòng hổ trợ, hân hoan góp phần xây dựng. Mặc dù cuộc sinh hoạt đương hồi khó khăn, đời sống của nhơn sanh quá chật vật, nhưng lòng háo nghĩa của bổn Đạo quá nồng nàn, thật HỘI-THÁNH lấy làm cảm động. Tô điểm cho đại nghiệp là bổn phận của mỗi Chức sắc, mỗi Đạo hữu, chúng ta cùng chung lưng góp sức để vun đắp nền Đạo càng ngày càng thêm đồ sộ vững bền, hầu tỏ tình đoàn kết chặc chẽ giữa các con cái của một đại gia đình, dưới sự dìu dắt chở che của Đức CHÍ-TÔN Đại Từ Phụ, đó là một điều quí báu vô giá mà Đức CHÍ-TÔN hằng ước mong trông thấy trong cửa Đạo. Sự đoàn kết đó là mối dây thiêng liêng tạo nên tình thương yêu đậm đà, một căn bản siêu nhiên trên bước đường giải khổ cho nhân loại .


Về việc xây dựng Chánh môn, mặc dù sự phỏng định tạo tác hơi lớn lao, nhưng đối với thanh danh của Đạo, cuộc kiến thiết cũng phải có một giá trị xứng đáng để tượng trưng cái thể thống của một nền tôn giáo do Đức Thượng Đế sáng lập. HỘI-THÁNH tin rằng với lòng sốt sắng hỗ trợ của toàn Đạo với sự quyết tâm hưởng ứng của con cái Đức CHÍ-TÔN, công cuộc kiến thiết Chánh môn Tòa Thánh sẽ được hoàn thành mỹ mãn trong một thời gian ngắn. “Một cây làm chẳng nên non, ba cây dụm lại nên hòn núi cao” . Đó là câu phương ngôn đúng xác ý nghĩa trong sự tạo tác nầy .


Với những nhà hảo tâm trong Đạo cũng như ngoài mặt đời, để góp phần hỗ trợ cho HỘI-THÁNH, với những Đạo hữu công thợ trung thành với nhiệm vụ, vui lòng hiến công vào cuộc xây dựng nầy, HỘI-THÁNH xin để lời thành thật cám ơn. HỘI-THÁNH cũng không quên để lời cảm tạ ông cựu tỉnh trưởng Tây Ninh đã có lòng sốt sắng đảm nhiệm lúc ban sơ việc vận động cho có đủ tài chánh mua vật liệu . Mặc dù ông không còn phận sự hành chánh tại Tây Ninh để thực hành theo như ý muốn, song cái hảo ý của ông vẫn đáng khen và đáng ghi nhớ.


Trước khi dứt lời, tôi thành tâm cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN ban ơn cho toàn thể Chức sắc Đạo hữu và Chư quí quan khách.


Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát .

    (16/06/Ất Tỵ) 1965
    THƯỢNG SANH

 

về trang chủ