Nữ Trung Tùng Phận
(tiếp theo)
Tác gỉa Đoàn
thị Ðiểm
Tề-Mi vẹn đạo
chẳng nài khổ-thân .
*
* *
Vợ Châu-Công
đình-thần mạng phụ ,
Ở thôn-quê
lam-lụ làm ăn .
Chồng thì triều
nội cao-sang
Vợ lo canh-cửi
cơ-hàn tấm thân .
Giúp chồng trọn
ân-cần nhiếp-chánh ,
Mới nên trang
chúa Thánh tôi hiền .
Vợ không tham
nhũng kim tiền
Chồng lo trọn
đạo nắm quyền chăn dân .
Phạm-Trọng-yêm
mấy lần xa vợ ,
Nợ quân-vương
nhiều thuở truân-chuyên .
May duyên gặp
đặng vợ hiền ,
Thanh-liêm
chánh-trực giữ bền lòng son.
Phải căn nợ cách
non cũng gặp ,
Lỡ trái duyên
vội gắp ra hư .
Con xem từ trước
đến chừ .
Đấng anh-hùng
gặp anh-thư mấy người .
Dầu đẹp xấu để
đời luận biện ,
Vui duyên con
thân miễn an vui .
Đừng chê chồng
phân thiệt-thòi,
Đáng danh
quân-tử phải người lang-quân .
Chữ hằng dạy
thanh-xuân bất tái ,
Vợi người rồi
danh gái hết kêu,
Noi gương đức
hạnh Nhị-kiều ,
Dở dang Du-Sách
giữ điều tiết-trinh.
Hễ thất nghĩa rẻ
khinh Kim-Cải ,
Khó tưới hoa trở
lại thanh tươi .
Hư nên cũng có
một đời ,
Hay chi thay đổi
nhành mai sái mùa .
Tri-âm vì đáng
dây cầm nguyệt ,
Đừng đem tình
chí-thiết giao-hoan .
Căn duyên dầu có
phụ-phàng ,
Cũng do tiết giá
mở đàng ngại lo.
Trai bảy thiếp
cũng cho chẳng hại ,
Gái lộn chồng đã
hoai tánh danh ,
Con coi phận mẹ
mỏng mành,
Chánh thê nay
lại sánh mình thứ thê .
Chữ hằng dạy
thanh-xuân bất tái ,
Vợi người rồi
danh gái hết kêu,
Noi gương đức
hạnh Nhị-kiều ,
Dở dang Du-Sách
giữ điều tiết-trinh.
Hễ thất nghĩa rẻ
khinh Kim-Cải ,
Khó tưới hoa trở
lại thanh tươi .
Hư nên cũng có
một đời ,
Hay chi thay đổi
nhành mai sái mùa .
Tri-âm vì đáng
dây cầm nguyệt ,
Đừng đem tình
chí-thiết giao-hoan .
Căn duyên dầu có
phụ-phàng ,
Cũng do tiết giá
mở đàng ngại lo.
Trai bảy thiếp
cũng cho chẳng hại ,
Gái lộn chồng đã
hoai tánh danh ,
Con coi phận mẹ
mỏng mành,
Chánh thê nay
lại sánh mình thứ thê .
Muốn còn phước
dựa kề quân-tử .
Phải hạ mình
đặng xử vuông tròn .
Chia chồng vì dạ
sắt-son ,
Nhịn chồng bởi
chút sắp con cái nhà .
May tiểu-thiếp
biết hòa biết thuận ,
An thân chồng
đẹpxứng nợ duyên .
Rủi ro gặp gaí
bán thuyền ,
Loạn gia phải
chịu thảm phiền lắm cơn .
Thà thấy dạng
còn hơn hiu-quạnh ,
Nên cắn răng
nhịn nhín tình thương.
Ai đời thắt dạ
mà lường ,
Bưởi bòng bụng
gaí vẫn thường giống nhau.
Cội thung thấy
càng cao tuổi hạc ,
Nhớ liễu mai
chếch mác mà đau.
Trường-Đình giục
thảm canh thâu,
Gối còn nữa
nguyệt đối đầu phòng thu .
Con quốc quốc
chưa âu đổi bạn ,
Máu đổ-quyên đợi
mãn kiếp sanh.
Trượng-phu
hà-hải đã đành ,
Nỡ nào đày thiếp
một mình tương-tư.
Chiêu-Quân chịu
gĩa từ đất Hớn ,
Thân cống Hồ
ngất-ngưởng tha bang .
Thiếp nay cũng
giống như nàng ,
Thân Hồ tâm Hớn
đôi đàng khó nguôi .
Còn Tinh-Vệ lấp
phiền biển ái,
Đòi trả chồng
hà-hải sóng chôn .
Thiếp thân như
ốc mượn hồn ,
Sống không thiết
sống chết còn ngậm đau .
Nơi Phiên-Quốc
xôn-xao lượng thảm ,
Hạnh-Ngươn xưa
đã dám hi-sinh .
Cũng như thiếp
nặng khối tình ,
Gãy trâm
Lương-Ngọc bễ bình Lý-Uyên.
Dầu chàng có vui
riêng quên thiếp,
Thiếp cũng lo
tội-nghiệp thân chàng.
Đậm hương cho
toại hồng-nhan.
Gẫm thân có lúc
khốn-nàn ốm-o .
Thương chi thật
con đò đưa khách ,
Nghĩa chi nồng
những cách bán duyên .
Còn thân còn mến
còn quyền ,
Hết ưa hết
chuộng thì duyên hết nồng .
Đây còn nổi bế
bồng thêm trẻ ,
Hễ giao tình
chẳng lẽ không con .
Hai vai gánh
nặng thân mòn ,
Cơn đau thất
nghiã hầu hờn giảm thương .
Chẳng như thiếp
nhớ ơn giải cấu ,
Mến từ khi mở nụ
đào yêu .
Trăm cay ngàn
đắng cũng chiều ,
Quí thân quân-tử
dám liều với thân .
Rẻ rúng bấy hễ
cân cũng trọng,
Quí bao nhiêu
hờ-hững cũng khinh .
Chàng thì nhẹ
thể vì tình,
Thiềp thì lo sợ
lụy mình trượng-phu.
Niềm âu-yếm ai
đâu rõ giá ,
Vui trăn hoa dối
trá là thường .
Ăn nhờ, ở tam
mua thương ,
Tiếc chi những
thói hoa tường buôn ong.
Trông tin nhạn
về đông mòn-mỏi,
Thả lá hồng biết
hỏi nơi ai .
Khối sầu càng
chất càng cay ,
Chờ năm, năm
lụn, đợi ngày ,ngày qua .
Soi kính cũ mặt
hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày
liễu ướm sương .
Mùi chê dưới mắt
chán chường ,
Còn duyên chi
mộng đến đường tái hôn .
Thôi đành gởi
tâm-hồn gió tuyết,
Theo nương con
cho hết tam tùng .
Hoặc là tròn
nghĩa thủy chung ,
Hoặc là chia dạ
não-nùng với con .
Ngắm đường thế
đã mòn vinh-nhục ,
Đổi thay duyên
đặng phúc hạnh gì .
Lánh buồn lại
lạc lối bi ,
Rẽ duyên kim cải
đem bì phấn hương .
Liếc mắt ngó vào
trường phong-nguyệt ,
Mua trận cười
nào tiếc ngàn vàng .
Chừng cơn phấn
lợt hương tàn ,
Núm mồ bạc-mệnh
bên đàng cỏ chôn .
Nào những khách
đoạn-trường kim cổ
Bởi trái duyên
nên lỡ gót trần
Bán xuân khi đắt
giá xuân ,
Thu qua để thẹn
hồng-quần biết bao .
Hỏi đến khách
sớm đào tối mận
Đon những trang
ngọc cận hương thân .
Tầng nghe giá
tuyết trong ngần ,
Cớ sao bị nhiễm
phong-trần bởi đâu .
Bởi thuyền bá
sóng xao biển ái ,
Bởi non thề
sương trải lạnh lùng .
Bởi chàng phụ
tấm tình chung ,
Bởi tơ-duyên cũ,
tơ-hồng hết xe .
Bởi nhan-sắc
không khoé không mặn ,
Bởi hơi đồng
không thẳng không kiêu .
Bởi quen mùi vị
phòng tiêu ,
Bướm ong kiếm
dựa vườn điều đổi hướng .
Bởi hoa chạ bên
đường dễ hái
Bởi buôn hương
nặng ngãi nhiều nhơn .
Đờn hay vặn lắm
trục lờn ,
Đổi hơi cầm sắt
ra trường ca xang .
Bởi vào trướng
ra màn hết vị ,
Bởi ngồi lơn lên
kỷ hết nồng .
Nên ưa mèo mả gà
đồng,
Bỏ hình
loan-phụng, dựa lồng chim xanh .
Bởi mến cảnh đôi
cành đài liểu ,
Bởi ưa hoa,
bận-bịu đài hoa
Bởi ham nguyệt
rạng lánh nhà ,
Đèn chong
buồn-bực, lập lòa rèm thư.
Bởi quen mặt đào
châu bớt đẹp
Bởi nhìn thường
hoa ép liễu nài .
Chê vành xuân
hết bịu mai ,
Kiếm đường hỏi
liễu-chương-đài bao mươi
Bởi cửa tiá bóng
trời nồng-nực
Bởi thiên thu,
gió chặt đường ong.
Cánh hồng quen
với cuồng-phong ,
Nước non
thế-giới vẫy-vùng tinh trăng.
Bởi cung quảng,
bóng hồng nhấp-nhoá
Bởi đến Ngô,
nghe gã Tây-Thi .
Bởi ham bóng sắc
hơn chì ,
Mỹ-nhân thấy
dạng kể gì đến duyên .
Quen xa-mã chê
thuyền là chặm ,
Đã mùi chàm, gọi
thấm là hơn
Ca hay quên hẳn
giọng đàn,
Một đêm túy-mộng
sánh hơn gặp vàng .
Nơi tửu-điếm,
nhà lang khác hẳn ,
Vợ chồng thường
ít sẳn chiều thương .
Trà-mi kém sắc
hơn hường ,
Tiếng cười
Bao-Tỷ hơn hờn Phan-Vương .
Thiếp biết phận
cánh bườm dưới gió,
Đã khổ đời chiụ
khổ cùng đời
Thuyền nan sợ
sóng dòng khơi .
Khúc quanh eo
hẹp, chìu thời khúc quanh .
Soi dòng nước
đặng nhìn thấy dạng ,
Thấy nghi-dung
hết mặn nét ngài .
Chẳng còn yểu
điệu hình mai,
Da mồi tóc đã
ướm thay nửa vàng .
Mảng gượng vui
cùng đàn cháu dại ,
Chỉ lời hay sự
phải khuyên răn .
Tóc xanh là bạn
mày nhăn ,
Nên ba dạy cháu
biết bằng năm mươi .
Khóc của mụ pha
cười của trẻ,
Chậm của già đổi
lẹ của thơ ,
Ngắm coi cái nhỏ
bây giờ ,
Nhớ trong cái
lớn mịt-mờ chiêm-bao.
Nương con gậy ra
vào lụm-cụm,
Lưng gối dùn
lững-thững bước đi.
Thôi gần hết
kiếp làm gì ,
Co tay đếm tuổi
quá kỳ tri thiên .
Bổng tiếng sấm
gần bên tai nổ ,
Nghe tin chàng
mệnh số du tiên .
Ôi thôi trời
động đất nghiêng !
Chết chàng hồn
thiếp chơi miền âm-cung .
Khi tỉnh giấc
còn trong vòng tục ,
Mới biết thân ít
phúc hơn chàng .
Giá chi một mảnh
xương tàn ,
Đày cho thêm nỗi
đoạn tràng tử-ly .
Một thân goá
than-ly lại mặc,
Chống gậy lê,
nhúc-nhắc đưa linh.
Đầu sương chất
trắng khối tình ,
Bao nhiêu ân-ái
trong mình tử thi .
Ngó vạn-vật cũng
kỳ lẽ chết ,
Nghe non sông
như hết khí sinh .
Hỏi ta có sống
thật tình,
Hay là giấc mộng
Diêm-đình đưa nhau .
Xem cây-cỏ như
màu thảm-đạm ,
Ngó thú-cầm
dường cảm đau thương.
Đất nhà cảnh vật
ruộng vườn ,
Hình chàng như
gắn nẻo, đường vô xa .
Kìa đào lý, tàn
già đã cổi ,
Nhắc tượng chàng
dựa cội trông hoa.
Nào là trời lặn
bóng tà ,
Đèn khuya chớ
lụn canh gà thăm em .
Kìa cụm liễu,
gió đêm xao-xác ,
Đám chim chiều
tìm mát nghỉ ngơi .
Ấy là nơi thiếp
trao lời ,
Trăm năm khi hứa
nửa dời buổi nay .
Kìa đầu rừng
chòm mai đua nở
Trước xem màu
hớn-hở như nay.
Cớ sao như ủ như
vày ,
Hay là nhắc
thiếp những ngày trao tơ.
Kìa lũ én dật-dờ
cánh liệng,
Dựa chơn mây kêu
tiếng nỉ-non ,
Cớ sao ngươi
cũng vẫn còn ,
Chồng ta thân
mất hình chôn cớ nào .
Bầy hồng nhạn
lao-xao vịnh liễu,
Đám cò ngà
bận-bịu gành khơi.
Là nơi lúc đứng
khi ngồi ,
Trông trăng hẹn
biển, ngó trời thề non .
Kìa đường cũ
bước mòn lãng-tử,
Đám thú nhà
dụ-dự bước chiều .
Ấy là nẻo thiếp
đến kêu,
Chàng về kẻo trể
quá chiều bửa cơm .
Kìa bến nước
dập-dồn sóng dợn,
Chỗ đôi ta vui
giỡn khi thơ .
Cũng cây, cũng
bải, cũng bờ ,
Mà sao buổi ấy
bây giờ khác nhau ?
Kìa nhịp cầu bên
đầu khe nhỏ ,
Đông chòm cây
tây có triền bưng.
Ấy nơi đôi lứa
gặp mừng ,
Mà nay như nhắc
mấy từng tương-tư.
Kìa chùa cũ nóc
như muốn sập,
Nơi đôi ta lén
gặp gỡ nhau .
Cớ sao cảnh tịnh
úa xàu ,
Hay là thấy
thiếp mà sầu lẻ-loi.
Bóng hải-đường
ta ngồi buổi nọ ,
Bồng con thơ tìm
ngõ nhà thầy.
Còn am-tự, còn
chuà mây,
Mà chàng đâu
vắng, chốn này lặng trang.
Kìa cuối xóm mấy
hàng trước tử,
Nọ đầu làng,
chài lữ phơi sương.
Ấy là nơi thiếp
đến thường ,
Thăm chàng đang
học nơi trường sân Ngô.
Kìa xóm rẫy nắm
mồ lố-xố,
Nơi đôi ta
tảo-mộ đạp thanh.
Gò đâu phút nỗi
thình-lình ,
Nào dè chàng
cũng đến giành một nơi.
Để thân thiếp
mình ngồi hiu-quạnh,
Còn thây chồng
quyết lạnh nắng hồng.
Đã đành bẻ gãy
chử đồng ,
Chia đôi thiếp
xóm, chàng đồng không hay.
Tiếng oan-ương
bên tai dan-díu,
Gió đẩy-đưa bờ
liễu lao-xao.
Lạ nghe lời vật
thế nào ,
Mà ra như tiếng
chàng chào buổi xưa .
Nhành dâu khuất
bóng dưa mờ-mệnh ,
Cõi tà dương như
hết reo chiều .
Hương tàn gió
tối hiu-hiu,
Dở chơn hỏi nợ
buổi chiều nghỉ đâu .
Ai sau gót giây
lâu như nói ,
Xin người thương
tha lỗi khi xưa .
Giận đem đổi nhớ
cũng vừa,
Trách mình nào
có đỗ thừa phụ duyên ?
Phải buổi trước
đừng phiền đừng oán ,
Để nguyên tình
uống cạn chén tình.
Làm chi sĩ nợ ba
sinh ,
Mà nay phải chịu
một mình riêng thương .
Tội chàng trước,
tiêu dường tuyết-giá ,
Còn thiếp mang
trọn cả lỗi chàng .
Lời phiền đổi
lại tiếng than ,
Thương kia bao
nã lại càng thêm thương .
Đời vắn ngủn,
huỳnh-lương in giấc,
Kiếp phù-sanh
đặng thất nơi thân .
Còn thân sống
chịu phong-trần ,
Dứt hơi dầu muốn
trọn gần cũng xa .
Nếu thiếp trước
biết hòa biết thuận ,
Nhẫn ghen tương
nhịn lẫn ân-tình .
Chia thương ơn
ấy đã đành .
Thứ thê
chánh-thiếp giựt-giành chi duyên.
Giọt lệ thiếp vì
phiền mà chảy ,
Gẫm thương người
chia dải đồng tâm.
Ta than lỗi bậc
cung cầm,
Nàng sầu nhạn
lạc ngư trầm biển mê.
Vắng mặt chàng
thiếp về kiếm kẻ ,
Chia tương-tư
đặng để nên tình .
Vì chàng thiếp
kế bố kình ,
Giữ câu hải-thệ
sơn-tinh với nàng .
Mảng sầu muộn
ngổn-ngang trăm mối,
Chùa thu-không
bóng tối mịt-mờ .
Oanh về tổ, dế
reo tơ,
Đường về vắng
bước như tờ canh khuya.
Tiếng u-minh
tía-lia gợi thảm ,
Giọng kình khua
cửa Phạm dập-dồn.
Câu kinh tiếng
kệ gọi hồn ,
Kêu thương khách
tục, giải lòng người nhân
Rốn để bước đến
gần điện thánh ,
Nhìn tượng thờ
lại ngảnh thân mình .
Sao đó hiển, sao
đó linh ?
Phải chăng trước
cũng lụy tình như ta ?
Đau-đớn thế nắn
ra tượng Phật,
Lánh khổ nên vụ
tất cửa Không .
Biết chăng cái
thảm mất chồng ,
Xin cho thiếp
dựa nơi lòng từ-bi .
Hay sợ khổ sanh
ly tử biệt ,
Nên tìm phương
dứt tuyệt nợ đời .
Biết chăng tình
aí của người,
Xin cho thiếp
hiểu ít lời chơn-ngôn .
Hay đã sợ thân
mòn gối mỏi ,
Mến ngày xuân mà
tuổi không chờ .
Linh-đinh bể khổ
dật-dờ,
Xin cho thiếp
gởi thân nhờ cửa Không .
Hay đã sợ nắng
nồng tuyết lạnh ?
Cảng đau thương
khó lánh thân phàm.
Thuyền tình chịu
sóng không kham,
Xin cho phận
thiếp biến làm ni-cô.
Buồn tình lóng
nam-mô câu tụng ,
Nhìn tượng cây
rồi khủng cho thân .
Thân còn nương
giữa phong-trần ,
Khổ kia còn đếm
mấy lần mới thôi ?
Rón-rén trước
Phật ngồi cúi gật,
Mấy lạy trình
mấy nấc tương-tư.
Mảnh tâm xin gởi
bấy chừ,
Nương theo
thuyền huệ vào bờ tương giang.
Lui chơn kiếm
con đường nhà nội ,
Lửa đốm nhen dẫn
lối thảm trang .
Mắt xem cái cảnh
điêu-tàn ,
Lòng thương
dường đổ dãy tràng khắp nơi.
Tiếng dế giống
như lời chia thảm ,
Ngọn đèn khuya
nhấp-nhoáng mùi thương .
Thương vì trong
kiếp đoạn-trường,
Cùng căn là chết
ấy đường xưa nay .
Một ngày sống là
bày bước chết ,
Sợ chết nên
không tiếc sống thừa .
Đời không mến
thế không ưa,
Lòng thương
nảy-nở cho vừa tốt-tươi.
Vì sợ chết mà
người kiếm sống ,
Trong căn oan
lại mộng tầm duyên .
Giá hay sợ thế
nên hiền ,
Khuyên đau giải
thảm đổi phiền của ai .
Một vật nhỏ cũng
mài cũng gọt ,
Của dầu hèn cũng
mót cũng cằn .
Giá kia nào kể
nên chăng,
Tay chân chàng
để cũng bằng báu châu .
Thấy ai thảm
lòng đau ái ngại,
Nghe kẻ sầu như
cháy lòng thương .
Lau giọt lệ giải
tan-ương ,
Chia cơm nhịn
muối đỡ đường khó-khăn .
Thấy ai thảm
lòng vàng xót-xáy ,
Nghe kẻ sầu như
cháy tâm can .
Lau giọt thảm,
giúp tai-nàn ,
Nâng hình
quân-tử với hàng lụy chung .
Khi ghen ghét
không cùng gặp mặt ,
Nay thấy nhau mà
bắt động tình .
Hơn chi giành én
giựt anh ,
Thước cưu khuất
bóng dựa cành chung nhau .
Học cho thấu máy
linh cơ tạo
Xem nét thảm
nàng đau như thiếp,
Trông tình chung
mòn kiếp hồng-nhan .
Phăng tâm dòm
mảnh đoạn-tràng,
Thì trong mấy
khúc của nàng như ta .
Sầu đã cháy mặt
hoa ủ-dột,
Thảm đã tràn
hình cốt héo-don.
Xuân mai ba bảy
đã mòn .
Cội thu thêm nảy
mấy hườn anh nhi .
Tay bồng con tay
thì dìu trẻ ,
Cảnh gia-đình
quạnh quẻ không ai.
Hương thề để
trước vị bài,
Châm đề thấy rõ
những ngày biệt phu .
Cặp liễn tang
còn câu long-ám ,
Hạc qui hồi lãnh
đạm trần ai .
Quả như chàng có
chốn này ,
Tưởng khi đổ lụy
châu mày với duyên .
Hỏi đon thử lời
nguyền khi trước ,
Gẫm thân nàng
bạc phước như ta.
Oán hình liễu,
ghét mày hoa ,
Kiếp tu mỏng
mãnh mới là nữ-nhi .
Giọt lụy đổ
không chi ngăn nổi ,
Thương thân nàng
chung với thân mình .
Thượng chàng
đầy-dẩy mông-mênh ,
Khối thương khó
lấy gaó tình đem đong .
Đôi mặt cách, mà
lòng vẫn một ,
Khác tông-môn
hài-cốt hòa chung .
Thề nhau trọn
kết dải đồng ,
Cám ơn chàng
giúp mặn-nồng nghĩa-nhân .
Chia gia-nghiệp
trong cơn khốn-khó ,
Hiệp đôi nhà con
nhỏ làm chung .
Này là vẹn giống
trọn dòng,
Nàng sanh thiếp
dưỡng cũng đồng như nhau.
Lập gia-thất làm
giàu con trẻ ,
Định lứa đôi đủ
thế cùng đời .
Nàng thì an
phận, an nơi,
Con thì đáng
mặt, đáng người với ai .
Khi thong-thả
đặt bài trẻ học ,
Lấy gương già
gợi chọc sắp con .
Nhìn non chỉ nước làm hơn ,
Mượn bầu tuế nguyệt, giải hờn
căn sanh.
Cỏ huyên cắm kềnh-kềnh đầu
tuyết,
Con gậy lê mòn khuyết nửa cây
.
Mắt mờ thêm nỗi lãng tai,
Thất tuần đã quá từ ngày
ấu-xuân .
Dò đon hỏi bước rừng thiền cũ
,
Rằng Phật còn ở ngụ Lôi-Âm .
Tính niên rồi lại tủi thầm ,
Con đường cực-lạc biết tầm
sao ra .
Nhẫng vơ-vẩn vào ra bến khổ ,
Trước mặt xem những chỗ sầu
than.
Này là hình ảnh của chàng ,
Này là tiếng khóc của đàn trẻ
con .
Này là chỗ thiếp còn niên
thiếu ,
Này là nơi chàng níu thiếp
trì .
Này là buổi hiệp hồi ly ,
Này là khi khóc khi thì cười
mơn.
Này là chỗ lời hơn tiếng
thiệt ,
Này là nơi cách biệt sanh-ly.
Này là chỗ thiếp chẳng vì ,
Này nơi chàng giận ra đi bỏ
nhà .
Nầy là chỗ đôi ta tái hiệp ,
Nầy là nơi vừa hiệp vừa vui .
Nầy là chỗ thiếp đang ngồi ,
Tin nghe chàng đã qui hồi
tiên-bang .
Các chỗ ấy dẫy tràn thảm tín
,
Càng ở gần khó nhịn sầu than.
Cam tâm nín-nẫm gia đàng ,
Vì con chưa giữ vững-vàng
qui-mô.
Nay tuyết đóng song hồ đông
lãnh ,
Dành cửa không gởi mảnh tâm
hồn .
Tiếng chuông thức giấc
huỳnh-lương,
Toan nương thuyền huệ, vào
đường vĩnh sanh .
Bước cảnh tịnh đã đành để
cẳng ,
Tóc qui-y nửa trắng nửa vàng
.
Phồn-hoa xa mã rộn-ràng,
Vinh-vinh nhục-nhục dãy-tràn
kiếp-căn.
Ngắm thế cuộc chẵng bằng một
giấc ,
Kiếp phù-du đặng thất là bao
.
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng
tin .
Nào là phép giựt-giành quyền
lợi,
Nào là phương chuộng với cầu
vinh .
Thử đem sánh khổ kiếp sanh ,
Chưa ai thấy đặng phước dành
phần hơn .
Nào vui gượng, do cơn khóc
lỡ,
Nào là khi chịu tớ làm thầy .
Quyền là chi lợi là chi ?
Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.
Nào là lúc ăn cay uống đắng ,
Nào là khen rồi mắng bao
phen.
Tuồng đời trọng-trọng
hèn-hèn,
Chẳng qua bướm tối, mến đèn
xôn-xao.
Nào chữa đẻ biết bao khổ
nhọc,
Nào hơn thua theo học sách
đời .
Tang thương lúc biến khi dời
,
Trăm năm e cũng một đời thế
thôi .
Nào tranh đấu thắng rồi lại
thất,
Của phù-du chứa chất gọi giàu
.
Thân còn đã quí là bao .
Dứt hơi của cải thế nào không
hay.
Thiệt thì bỏ,giả vay nên nợ,
Mãn căn xưa chưa mở dây oan.
Kia là vua,nọ là quan
Cũng như bọn hát, hí tràng
bán vui .
Sống thấy chết miệng cười mắt
khóc ,
Nịnh lừa trung lưỡi thọc tay
đâm .
Cũng như ác thú nhốt hầm ,
Ăn nhau cho đã nào cần mệnh
nhau.
Muốn lấy đạo làm đao hại thế
,
Toan dùng văn, gọi kế sanh
nhai.
Đường hung ác, nẻo chông gai,
Lấn chen vào chốn nghiệt-đài
gọi ngoan.
Mạnh hiệp yếu lấy gan hung
bạo,
Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn
.
Nhẫng lo chác oán mua hờn,
Hại nhau chẵng biết nghĩa
nhơn thế nào .
Thấy cảnh thế mà đau với thế
,
Biết thương đời mấy kẻ vì đời
.
Ngán thay cái kiếp con người
,
Thôi đành bến Phạn để lời
phật răn.
Thay đạo-phục bước xăng lánh
thế ,
Mơi thì kinh, tối kệ giải
lòng.
Từ-bi hứng giọt nhành-dương ,
Lau thanh trái chủ, lấp đường
nghiệp căn .
Đoạn tình ái đem quăng bể
khổ,
Bứt hồng-duyên tính bỏ non
thề.
Nầy bờ tục, nọ bến mê,
Từ đây không trở lộn về thấy
ngươi .
Vì thấy đó phải cười lộn khóc
,
Sách của ngươi chẳng học mà
say .
Của ngươi, của đoạ, của đày,
Ghét ngươi ta dứt từ ngày
buổi ni.
Lần chuỗi hột từ-bi cửa khổ ,
Nương gió thanh trăng tỏ là
nhà .
Nước non để bước ta-bà ,
Sô liêm đem nhuộm màu dà gọi
duyên .
Trương thẳng cánh con thuyền
Bát-Nhã,
Cỗi đau thương giải quả trừ
khiên .
Lấy thân rửa thảm lau phiền,
Đem công chuộc khách
thuyền-quyên lụy tình .
Túi gió trăng
thinh-thinh rộng mở,
Vui hạc cầm hay
dở thú riêng .
Khi động Thánh,
lúc non Tiên ,
Sớm thì Hải-Đảo
tối miền Thiên-thai.
Đạp giày cỏ
nương cây gậy bá ,
Mặc áo tơi nón
lá che thân .
Trừ trần-cấu, xũ
phất-trần ,
Quen bờ biển
trí, dựa gần non nhân .
Đến phồn-hoa
thân gần tục-lự ,
Chơi lầu hồng
hỏi thử trái căn .
Chuỗi bồ trừ
nghiệt gió trăng ,
Linh-đơn cứu kẻ
khổ phần liễu hoa .
Gót nhân-ái đến
nhà kẻ bịnh ,
Giọng từ-bi
thức-tỉnh hung tâm .
Giữa cơn
náo-loạn trổi cầm ,
Lấy hơi hòa-nhã
dẹp lần bỉ-thô.
Giúp những kẻ ôm
mồ thủ hiếu,
Dỗ những trang
bận-bịu khối tình .
Dọ đường phước
giúp mày xanh,
Đưa con thuyền
hạc đến gành thiên-lương.
Tưới hoa chạ bên
đường vô chủ ,
Đậy giậu thưa
cúc xủ mai xàu .
Bỏ lòng thảm,
dệt tâm đau,
Nâu-sồng cậy
phép đổi màu anh hoa .
Câu tư hiềm biến
ra bác-ái,
Nghiệp oan khiên
đổi lại hồng-ân.
Khi kinh
Thánh,lúc kệ Thần ,
Đọan-trường diệt
dứt nợ-nần nữ-lưu.
Lầu xanh dậm màu
tu trở vẻ,
Cửa không môn mở
hé chơn hồng.
Thu-phòng học
chước thu không,
Đốt hương cho ấm
cho nồng phòng tiêu .
Đưa tuổi hạc quen chìu
non-nước,
Mượn bút nghiên làm chước chê
đời .
Nâng bầu nhựt-nguyệt lưng
vơi,
Dành gương liệt-nữ để lời
trinh-phu .
Nắm huệ-kiếm định thâu trái
chủ,
Mặc đạo y, sạch giũ phồn-hoa.
Nơi bến khổ, để bước già ,
Xuân xanh noi dấu xây tòa
anh-phong .
Cột thân-ái cây lòng đạo đức
,
Gầy từ-tâm gắng sức ôn-nhu.
Nung trang trí-thức nữ-lưu,
Biết thân giữ mặt hảo-cừu
giai-nhân.
Giồi trí-thức tinh thần
đẹp-đẽ,
Trao tài-ba vẹn vẻ anh thư .
Vinh thì chuộng, nhục thì từ,
Cân cao tính thấp đặng trừ
thiệt hơn .
Nước ma-ha rửa hờn nhi-nữ,
Chuỗi bồ-đề gìn giữ hồng-nhan
.
Cây trăm thước, đổi hương tàn
,
Treo y bá-nạp
làm màn phòng the .
Để chuông mõ dựa
kề son phấn,
Chất nhơn-tình
chồng cận kệ-kinh .
Tâm ẩn ái giúp
chí-linh ,
Biển mê chèo
nhặt thuyền tình độ nhân .
Lấy tâm chánh
làm cân đong thế,
Cậy lòng lành
làm kế dìu đời .
Chông gai, vạch
bước thảnh-thơi ,
Cầm phương cứu
khổ, độ người trầm-luân.
Vẹn nhân-đạo đi
lần nẻo chánh ,
Đến vô-ưu, đặng
lánh nhơn-luân.
Thuyền con
mệnh-mệnh như rừng ,
Đọn đường
thánh-đức hỏi chừng Như-Lai.
Am-tự đóng, chặt
gài bước tục,
Nước Cam-Lồ, cho
phước tiêu-diêu .
Oan-trái dứt,
nghiệp chướng tiêu ,
Cảnh vui Cực-lạc
mỹ-miều vẻ-tâm.
Lánh bợm tục,
tình thâm cũng tránh ,
Trốn đau thương,
xa cảnh trần-gian .
Biến thân hạc
nội mây ngàn,
Nắm phan tiếp
dẫn, mở đàng Lôi-Âm .
Nơi cảnh tịnh,
âm-thầm vui thú,
Đem tâm tình để
ngụ đài sen.
Thông-dong quạt
gió trăng đèn ,
Nhành dương làm
bạn, sách hiền gợi quen.
Bế ngũ-quan
không kiêng tục tánh,
Diệt tục trần,
xa lánh phàm tâm .
Mệnh thiên giữ
vững tay cầm ,
Đoạt phương
tự-diệt, giải phần hữu sinh.
Linh linh hiển
hiển, khinh khinh khứ,
Sắc sắc, không
không, sự sự tiêu .
Chơn-linh đẹp-đẽ
mỹ-miều,
Xuất dương sớm
đã đến triều cung-hư .
Ngũ khí thanh
diệt trừ quả kiếp ,
Linh quang đầy
đặng tiếp hồng-ân .
Xác tại thế, đã
nên Thần,
Ba mươi sáu cõi,
đặng gần linh thiên .
Hiệp tạo-hóa cầm
quyền chuyển thế ,
Dạy vạn-linh
dụng thế từ-bi.
Sanh ấy ký, tử là qui ,
Diệu-huyền cơ tạo, chẳng gì
gọi hơn .
Chừ mới rõ nguồn cơn kiếp
sống ,
Tấc thây phàm rất mỏng số căn
.
Ham phương cứu thế độ nhân ,
Giải mê khách tục, cõi trần
lánh xa .
Lấy bác-ái làm hòa vạn-vật ,
Đem thiện-duyên xây nấc thang
hồng.
Đọan căn đóng chặt âm-cung ,
Tòa sen chín phẩm, để cùng
Phật tâm .
Trăm tuổi sống chẳng lầm tuổi
sống ,
Một kiếp sanh, chưa trọng
kiếp sanh.
Thay thân tạo-hóa là mình ,
Nâng-niu sanh chúng mới đành
chữ nhơn .
Ngồi mà lóng tiếng đờn vô cực
,
Phước siêu thăng đặng thất
nơi ta .
Biết coi thế giới như nhà
Sống nên chí Thánh, thác là
Thần Tiên .
Thiếp nhờ Đạo giải phiền diệt
khổ ,
Biết may duyên, lựa chỗ gởi
tâm .
Tìm đâu đặng kẻ tri-âm ,
Ôm thương đem gởi cảnh thần
cửa không .
Càng ngó trái lại miền thế
tục ,
Lụy nhỏ dầm, đôi khúc lòng
đau.
Ái-ân, ân-ái là sao ,
Đày thân lắm khách má đào
gian-truân .
Chịu mòn-mỏi mảnh thân nhi-nữ
,
Cũng toan lo gìn-giữ khối
tình .
Trăm năm dầu sống mảnh hình,
Thì trong tâm-lý đã đành tiêu
tan.
Nào những mộng mơ chàng duyên
thiếp ,
Nào những mơ ý hiệp tâm đầu .
Duyên là đâu, nợ là đâu ,
Chẳng qua biển khổ bắt cầu
sống mê .
Khối thảm chất tràn-trề bể
hẹn,
Giọt đau thương quá chén hiệp
phu.
Hễ là trí, ấy là ngu ,
Càng say âu-yếm, càng sầu nhớ
thương .
Khách má phấn môi son đậm sắc
,
Đặng đem mồi trêu mặt
ác-phong .
Đâu chữ tiết gọi là đồng ,
Lời than tiếng thiết để lòng
trăm năm .
Chẳng qua khách ăn nằm quán
tục,
Vắng một ngày lâu chút trọn
đời .
Hỏi ai thỏa chí ai ôi ,
Tra phòng hiệp-cẩn, bao hồi
khóc riêng .
Một câu mến gieo phiền muôn
tiếng ,
Đôi lời phân, ngàn miệng
xa-xôi .
Hỏi ai trộm đứng lén ngồi,
Những cay, những đắng cái mùi
ra sao ?
Tính để viết khuyên rào tiết
ngọc,
Thì sợ e ghẹo chọc si-tình.
Còn không để trọn lời lành ,
Lại e cho gái nhẹ mình nữ
trung .
Toan để bút, ngăn vòng chồng
vợ ,
Thì lại e nghịch nợ tiền
khiên .
Còn khổng lưu lại lời hiền ,
Mưu chi gỡ nổi, thảm phiền
đạo thê .
Thấy trẻ gái dầm-dề lụy đổ ,
E cho sau chịu số như già .
Muốn khuyên đầu Phật xuất gia
,
Lại e để hại nước nhà khuyết
dân .
Thấy nhi-nữ kiếp căn
mỏng-mảnh ,
Muốn binh lời làm mạnh đỡ
nâng .
Lại e lỗi đạo nhơn-luân ,
Dở-dang gia-pháp vương-thần
loạn ngôi.
Gẫm thân gái, trọn đời cực
nhọc ,
Tính buông câu gọi chút
nghỉ-ngơi .
Lại e sái thế lỡ thời ,
Giúp nam-nhân, chẳng có người
trọn tâm .
Nghĩ phận vợ ngàn trăm
đau-đớn ,
Sanh đẻ con nuôi-dưỡng
nhọc-nhằn .
Muốn khuyên giảm bớt ái-ân ,
Lại e giục kẻ Tấn-Tần chia
phôi .
Nên ngậm thảm, đặng ngồi nuốt
thảm ,
Toan buông lời, chẳng dám hở
môi .
Lén xem sự thế ngậm-ngùi,
Nguyền trông chỉ đợi phép
trời dạy khuyên
Tay lịch-sự tự nhiên chê sự ,
Lòng đa tình vẫn cứ vị tình .
Biết tùng quyền, hiểu chấp
kinh ,
Tìm phương hay gởi lấy mình
cửa tu .
Nhẫng thảng mãn tháng thâu
năm lụn ,
Sớm công-phu, tối tụng
vãng-sanh .
Đã quen cảnh phạm lánh mình ,
Nên phương nhờ bởi đoạn tình
ái yêu .
Nghe một sự hiểu điều khác
nghĩ ,
Trong thất tình, tiêu-hủy
không không .
Hết ham danh, chẳng mến công
,
Xem hình lẫn lộ, bùi nồng thế
gian .
Cây trăm thước bắc thang bến
khổ ,
Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp-nhơ
.
Vui đọc truyện, buồn ngâm thơ
,
Non vu lấp nẻo đàn tơ dở mùi
.
Đếm thử tuổi tám mươi đã quá
,
Giấc Nam-kha giục-giã tỉnh mê
.
Tâm-thần mỏi-mệt ủ-ê ,
Khối sanh khi đã gần kề dứt
hơi .
Khổ bịnh thấy trêu người đã
quá ,
Buổi vãng sinh giục-giã kêu
hồn .
Tỉnh say trong
kiếp dương-môn ,
Nữ thì thấy cảnh
hoàng-hôn mộng hình .
Muốn gặp mặt
thâm tình gởi trối,
Những lỡ bề vì
buổi đoạn từ .
Không nhan tín,
khó hồng thư ,
Viết quơ chẳng
nỗi, giấy như tránh đề .
Muốn nhắm mắt
một bề cho khoẻ ,
Những tình hình
mọi vẻ trêu ngươi .
Khi thì khóc,
lúc thì cười ,
Bao nhiêu tình
nghiã, một đời thoáng qua .
Tám chục năm lâu
xa cách mấy ,
Trong giấc mê
xem thấy ngắn thay !
Ba vạn sáu ngàn
ngày .
Cõi dương-gian
với tuyền-đài gần nhau .
Nhớ con cháu còn
lâu kiếp sống ,
Dầu gặp hình như
bóng sá chi .
Dỡ hồn-phách,
yếu thây thi ,
Dậy ngồi chẳng
nổi, bước đi không rồi .
Gắng cầm viết,
nín hơi sống rốt ,
Đề năm vần, khắc
cốt nữ-lưu .
Dứt tình ái,
giải sầu ưu ,
Hễ thương thì
cũng lo mưu giữ mình .
THI :
Giữ mình dầu vẹn
tấm tình chung .
Danh tiết nữ-lưu
ở phụ tùng.
Mặt biển khổ
dồi-dào ái thủy ,
Đầu non thế
hoại-hủy hương nồng .
Mày xanh khá nhớ
cơn đầu bạc
Ngọc trắng đừng
cho nhiễm bợn bùn .
Khí tượng
anh-thư gìn lẩn giá .
Giúp đoàn nhi-nữ
mở non sông .
Rán quá sức cẩn
phong thi nhạn .
Dường say mê, lơ
lảng tinh thần .
Sấn tay thêm một
chữ thân .
Để dành gỡ khổ,
đoạn-tràng hồng-nhan .
Buông ngon viết
vào làn mây trắng ,
Hễ có thương nhớ
dạng là hơn .
Cảnh thiên gởi
tấc hương hồn ,
Để câu tiết
nghĩa vĩnh-tồn hậu-lai .
Đời đời danh
chói CAO-ĐÀI
.
|