Ðại
- đạo Tam
- Kỳ
phổ - độ
Tòa - Thánh
Tây - Ninh
Con
Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Thuyết
Đạo của Đức Hộ Pháp
Tài
liệu do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo
* * *
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 12 tháng 2 năm Kỷ-Sữu ( 11-03-1949 )
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn
của chúng ta trên con Đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo đã có nói rằng: Khi cúng rồi cả
thảy đều mệt vì cớ cho nên giảng Đạo
không được dài lắm, vả lại khi nào thuyết-pháp
mà dạo đi dạo lại đã nghe không được
còn thêm mệt; nên Bần-Đạo thuyết độ vừa
đủ chừng không cho nhạo tiếng. Nếu thuyết
dài quá thành ra nhảm-nhí, nói cụt quá thì
không đủ đề thuyết không hay; thành thử
phải gom-góp thế nào cho vừa chừng, cả thảy
con cái của Đức Chí-Tôn không có mệt mà
vui nghe. Đêm nay Bần-Đạo giảng có hơi dài
và lâu chút có mệt xin lỗi, xin tha thứ.
Bần-Đạo giảng kỳ rồi vô Cung Phục-Linh,
đêm nay giảng dài dài một chút, vì bài giảng
hôm nay có Bí-Pháp giải-thoát của mình, Bần-Đạo
cho hiểu trước cái cơ Bí-Pháp huyền vi Đạo-Giáo
của Đức Chí-Tôn có cơ giải-thoát. Bài giảng
đêm nay rán để ý cho lắm.
Bần-Đạo đã giảng khi vô Cung Phục-Linh thì
chúng ta sống lụn lại nhờ Đức Phật Phục-
Linh Tánh-Phật gìn-giữ cho nguyên kiếp của
chúng ta; phục-linh lụn lại, qui tựu chơn-linh
lụn lại. Ở trên Thượng-Nê-Hườn thì có
Hộ-Pháp bắt ấn giữ cả Ngươn-Linh chúng
ta cho vững chắc, chúng ta sống nơi Cung ấy
có hồi mê-muội đặng cho quên cả kiếp trước
của mình.
Linh-hồn chúng ta đi đặng nhập mình chúng
ta sống lụn lại, không biết chừng muôn triệu
kiếp từ trong vật loại dĩ chí tới phẩm
nhơn-loại, biết bao nhiêu kiếp, lâu chừng
nào kiếp căn nhiều chừng nấy; khi chúng ta
thác qua sống lại, cơ huyền-bí làm cho chúng
ta nhập vô trong Ngươn-Linh của chúng ta.
Ngươn-Linh ấy nó đoán xét muôn muôn quả
kiếp chẳng khác gì xét đoán tội nhơn kia
vậy, vì cớ cho nên Bần-Đạo có nói mỗi
đứa sẽ làm Tòa lấy mình, xử lấy mình
là vậy. Cái xử mình còn nghiêm-khắc mà xử
lấy mình nữa, mình xử cho mình hỏi còn ai
bào chữa cho. Bần-Đạo nói rằng: Cái án
không cãi, cái tội không có chối, cái hình-luật
không có tránh; tránh thế nào được, chối
thế nào được vì mình xử lấy mình, chối
thế nào được Ngươn-Linh của mình xử mình,
Ngươn-Linh của mình làm chủ cả quả kiếp,
quả kiếp của mình; trái lại nó xử tội
mình thì còn ai mà bào chữa cho!
Ấy
vậy mà có phương-pháp bào chữa chớ, có
mà không biết. Mình có thể tự mình làm trạng-sư
đặng bào chữa tội cho mình. Vì khi mình đang
sống đây muôn triệu kiếp mình biết cái
lỗi của mình, tức nhiên Ngươn-Linh của mình
cãi cho mình. Cái Ngươn-Linh cãi tội cho các
Chơn-Linh, cãi cho mình thì ngày kia không có
bắt tội mình nữa. Ấy vậy, phương-pháp
chữa tội của các Chơn-Linh cao siêu đoạt
Đạo, để lại chơn-pháp rất đơn giản mà
nhơn-sanh đương dùng, không tìm-tàng cái trọng-hệ
của nó, không tìm phương giải-thoát mình.
Phải chăng đây là phương-pháp " Nhựt Nhựt
Tam Tỉnh Hộ Thân ", không phải một ngày mình
thăm Cha, Mẹ mình một lần mà còn phải xét
mình ba lần nữa!
Hỏi thử tội tình của chúng ta đã làm trong
kiếp sanh, Đức Chí-Tôn để trong phương pháp
nói rằng: Tội tình các con đầy dẫy nơi
mặt quả địa-cầu nầy, mà đến giờ chót
các con biết kêu danh Thầy thì Thầy đến
cứu, Thầy đem Bí-Pháp giải-thoát để trong
tay các con đặng các con đoạt chơn-pháp giải-thoát
đó vậy. Kêu danh Thầy là niệm : " Nam-Mô
Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát ".
Chúng ta đã ngó thấy, Bần-Đạo đã thuyết-minh
rằng: Khi Ngươn-Linh của chúng ta đã hiện-tượng
của nó, thì tức nó đồng tánh với Càn-Khôn
Vũ-Trụ, đồng tánh với Chí-Linh là đoạt
Đạo. Càn-Khôn Vũ-Trụ là nơi sản-xuất đấng
ấy, mà Đấng ấy đồng tánh với nhau, tức
nhiên Đấng ấy có quyền tự giải-thoát cho
mình. Vì thế cho nên kêu danh Đức Chí-Tôn
thì đoạt được cơ giải-thoát; dầu tội
tình bao nhiêu chúng ta đã tạo thành nơi quả
địa-cầu nầy, dầu có đầy-dẫy đi nữa
mà giờ chót chúng ta biết kêu danh Đức Chí-Tôn
tức nhiên biết kêu Ngươn-Linh của chúng ta,
tức nhiên chúng ta chối cái quyền làm Tòa
buổi chung quy của chúng ta; hễ chúng ta chối
cái quyền làm Tòa thì còn ai xử ta đâu?
Đấng
Chí-Linh duy chủ mà để quả-kiếp trong tay
Đấng Chí-Linh thì còn ai xử ta đâu, cơ quan
giải-thoát đoạt-pháp là vậy đó!
Bây giờ chúng ta thử, Bần-Đạo nói Chơn-Linh
hiện-tượng ra rồi dường như có quyền năng
vô tận, biểu Ngươn-Linh phải đi đến Chí-Linh;
bỡi vì Càn-Khôn Vũ-Trụ đồng âm-đức của
nó, nó hiện-tượng với cơ huyền-vi bí-mật.
Bỡi đồng tánh, đồng Chí-Linh với Đấng
tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ bỡi vậy cho nên nó
mới biết.
Bần-Đạo dám chắc rằng và Bần-Đạo biết
trái Địa-Cầu nầy nó có đến ba ngàn triệu
( 3.000.000.000 ), biết bao nhiêu nhơn-sanh; chúng
ta tính gộp nội quả địa-cầu 68 nầy, nhỏ
hơn hết mà nhơn-loại ở nơi mặt quả-địa
cầu nầy có hơn hai ngàn bảy trăm triệu nhơn
loại ( 2.700.000.000 ).
Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ có tới ba ngàn triệu
quả địa-cầu thì biết bao nhiêu nhơn-loại.
Tưởng-tượng lại coi Đấng Chí-Linh cầm
quyền trọn vẹn, cầm quyền xử đoán; hễ
tác-phước thì xưng danh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế,
hễ bớt tội thì Đại Thiên-Tôn. Đấng ấy
làm chủ có lạ gì đâu? Bỡi quả Địa-Cầu
từ vật-loại cho đến con người nó có linh-hồn
của nó, mà Ổng làm chúa cả sanh mạng của
nó tồn tại chẳng khác nào như thân-thể
chúng ta. Thử hỏi sợi lông nheo của chúng
ta nó ngứa có động đến thân-thể chúng
ta chăng? Ngón tay nó bị lột phao chúng ta có
biết đau không? Trong Càn-Khôn Vũ-Trụ nầy
nhứt động nhứt tịnh Ổng đều biết, các
vật loại đâu đâu Ổng cũng đều thấu đáo.
Bỡi vì chính thân-thể của Ổng là cơ-quan
giải-thoát. Bí-mật là vậy đó.
Bây giờ Bần-Đạo tả hình ảnh Ngọc-Hư-Cung,
khi chúng ta có hạnh-phúc được nhập vào
cùng các Đấng Thiêng-Liêng kia, chúng ta mới
biết định-phận của chúng ta như thế nào.
Bần-Đạo nói: Khi chúng ta đến đứng ngoài,
nhứt là Cung Phục-Linh, chúng ta thấy đài
các nguy-nga, chớn-chở chói lòa như hột ngọc
giữa không trung. Khi bước vô rồi thấy chiếu-diệu
hào-quang, ngước mặt lên thấy Càn-Khôn Vũ-Trụ
xanh biếc trước mặt, cũng như khi chúng ta
đứng giữa Bát-Quái-Đái, thấy ngôi-vị đẵng
cấp Thiêng-Liêng từ mức, có Đức Chí-Tôn
ngự nơi Huỳnh-Kim-Khuyết kia vậy; ngó xuống
thấy cả triều-đình vô tận vô biên oai-quyền
trị thế.
Thiên-hạ muôn trùng vạn điệp cũng không
khi nào qua khỏi. Cái nền chính-trị Càn-Khôn
Vũ-Trụ thế nào mà nắm vững chắc nó đặng?
Cái nền chính-trị hữu-vi của chúng ta cũng
thế; định quyền của họ là gì? Định quyền,
cầm quyền Càn-Khôn Vũ-Trụ là gì? Là trị
kẽ dữ, mà cái quyền đó nó đơn giản làm
sao đâu! Muốn trị kẽ dữ chưa cần Tòa lên
án, chưa có ngục để nhốt kẽ tội. Muốn
thưởng kẽ lành không cần Vương-Đế, không
cần phần thưởng, không cần quyền năng phẩm-vị
cao thấp; họ không có quyền gì hết. Bỡi
vì cái Ngươn- Linh của chúng ta định án cho
ta, xử lấy ta; tức nhiên nền chính-trị Càn-Khôn
Vũ-Trụ đơn giản quá chừng. Luật khó khăn
hơn hết là trị tội và thưởng công mà hai
điều ấy không có cần thì nền chính-trị
Càn-Khôn Vũ-Trụ để làm gì? Để đặng bảo
thủ sanh tồn Càn-Khôn Vũ- Trụ, để bảo
thủ là gì! Tức nhiên phụng-sự cái quyền
cầm-quyền Càn-Khôn Vũ-Trụ, tức nhiên để
phụng-sự cho Vạn-Loại và Vạn-Linh.
Càn-Khôn Vũ-Trụ ấy để làm tội của nó,
để phụng sự cho Vạn-Linh. Từ thử đến
giờ chưa có quyền nào dị hợm vậy, không
có quyền nào vô đối vô đoán như vậy. Vì
cớ cho nên cái bí-mật của nhơn-loại đem
hình ảnh hữu-hình nầy làm con vật tại thế-gian
nầy có mục đích tối trọng tối Thiêng-Liêng;
đến đặng phụng-sự cho nhơn-loại Vạn-Linh
của mức hữu hình, phụng-sự đặng định-phận
cho chúng ta. Vì cớ cho nên mới có cái thuyết
định-phận. Hễ phụng-sự đắc lực thì
đoạt-vị đặng, còn phụng-sự bất lực
thì phạm tội. Cơ-quan giải thoát Bần-Đạo
lập lại một lần nữa và nói quả quyết
rằng: " Cơ-quan giải-thoát của Đức Chí-Tôn
do nơi công-nghiệp của chúng ta phụng-sự
cho Vạn-Linh đó vậy.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 22 tháng 2 năm Kỷ-Sửu ( 21-03-1949 )
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp con đường
dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng
Hằng-Sống.
Kỳ trước Bần-Đạo dìu-dẫn chư Hiền-Hữu
vào Linh-Tiêu-Điện ( Ngọc-Hư-Cung ). Đêm nay
Bần-Đạo giảng tiếp. Trước khi tiếp, Bần-Đạo
có những điều trọng-yếu căn dặn, từ ngày
Bần-Đạo giảng cái Bí-Pháp ấy, Bần-Đạo
vẫn cầu nguyện với Đức Chí-Tôn luôn luôn;
bỡi vì nó có nhiều điều khó-khăn, những
điều mà mình ngó thấy bằng con mắt Thần,
lấy cái nhân-khẩu của mình mà tả chẳng
hề khi nào đúng chắc đặng. Bần-Đạo thú
thật rằng: Mười phần có lẽ Bần-Đạo
tả được năm bảy phần là nhiều, sợ còn
kém hơn nữa. Bần-Đạo chỉ có cầu-nguyện
với Đức Chí-Tôn cũng như hồi trước Tam-Tạng
đi thỉnh kinh nơi Ấn-Độ. Ngài là người
Tàu, mà kinh viết tiếng Phạn, muốn dịch
ra rất khó lắm; lấy cả Kinh-Luật trong trong
tiếng Phạn đem ra rất khó cho Ngài lắm. Cho
nên Ngài đại nguyện Ngài làm thế nào, Ngài
ráng sức Ngài âm kinh tiếng Phạn ấy ra chữ
Nho. Ngài chắc ý Ngài âm tiếng Phạn ấy chưa
đúng. Ngài có hứa chừng nào mà tôi qui liễu,
nếu trong Kinh-Luật Đạo-Giáo mà tôi không
minh tả ra đặng thì khi chết cho lưỡi tôi
đen, nếu tôi tả (*) trọn vẹn, thì cho lưỡi
tôi đỏ.
May phước Bắc Tông được hưởng một ân-huệ
mà nhà Phật đã ban ân riêng cho Đức Tam-Tạng,
khi Ngài chết người ta vạch lưỡi của Ngài
ra coi thì lưỡi của Ngài đỏ; vì cớ mà
chơn-giáo của nhà Phật là Bắc-Tông nhờ
Đức Tam-Tạng đã minh tả (*) ra trọn vẹn.
Ngày nay Bần-Đạo mỗi phen lên giảng về
Bí-Pháp thì đều cầu-nguyện với Đức Chí-Tôn
cho sáng-suốt mà biết vẫn còn thiếu kém,
không thể gì tả bằng con mắt Thần của
mình đã ngó thấy đặng trọn một bài.
Nếu thoảng như Đức Chí-Tôn ban ân riêng
trong nền Thánh-Giáo của Ngài có cả Thánh-Thể
của Ngài đoạt Pháp đặng, thấy đặng; có
lẽ cũng chỉnh thêm, giùm giúp tay với Bần-Đạo
mới toàn-thiện toàn-mỹ đặng.
Ngày nay Bần-Đạo giảng tiếp khi vô Linh-Tiêu-Điện
lúc mới tới ngoài, chúng ta ngó thấy lầu
các nguy-nga, Bần-Đạo có nói dầu cho vị
kiến-trúc-sư nào mà ngó thấy nó rồi thì
mơ-mơ mộng-mộng hoài, mơ-mộng cái vẽ đẹp
ấy, sợ tới điên chết mhàng phẩm dưới
cũng không cần gì mơ-mộng tưởng-tượng
gì hết; Pháp-Thân của chúng ta cũng đến
mức đoạt-vị đặng. Còn nếu chúng ta dòm
lên thì thấy địa-vị của chúng ta không
thấm vào đâu hết, mà hễ dòm lên cao nữa
mà so-sánh thì địa-vị của chúng ta không
có nghĩa lý gì hết.
Còn nếu chúng ta bị đọa thì hại thay, khổ
thay, đau-đớn thay! Chúng ta thấy cái Triều-Nghi
xa tuốt mút khỏi con mắt chúng ta rồi nó
biến mất. Chúng ta thấy đứng bơ- thờ, không
biết thân hình đến mức nào hay địa-giới
nào, hay mình đến đâu, chỉ đứng đó mà
chịu một tấn-tuồng thảm khổ vô đối.
Hại thay, cả tội tình đều hiện ra trước
mắt chúng ta không thể gì chối cải được,
đứng chịu một cách thảm khổ. Mình xử
lấy mình, hễ xử rồi thì từ từ hạ xuống
cho tới cửa Trần-Gian ấy là cửa Phong-Đô
đó, chúng ta tự-xử chúng, chúng ta tự-xử
chúngịa-vị khả quan đừng suy đoán, chúng
ta sẽ thấy các Đấng ấy cao sang vinh-hiển
dường đó, có nhiều Đấng đến gần Đức
Chí-Tôn xấp-xỉ cùng Đức Chí-Tôn cao sang
vinh-hiển dường ấy, họ đã đoạt đặng
huyền-bí mà chúng ta ngó thấy những vinh-quang
đều hiện ra một chữ Khổ, các Đấng ấy
lập vinh-quang cao trọng là thắng khổ đó
vậy. Họ đoạt được cái quyền-năng vi-chủ
của họ mà cái khổ muôn triệu vô số trong
kiếp sanh của họ, họ đã chịu mà lập-vị
vinh-quang. Chính mình ngó thấy ngay Đức Chí-
Tôn thấy chữ Khổ mà Ổng là Càn-Khôn Vũ-Trụ;
bỡi vì Ổng có quyền-năng vi-chủ cái khổ
của chúng ta, tưởng-tượng lại coi cái khổ
tại sao thắng hơn mình? Tại sao mình không
thắng nó nỗi? Xét đoán là tại mình không
ền-năng vi-chủ cái khổ của chúng ta, tưởng-tượng
lại coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại
sao mình không thắng nó nỗi? Xét đoán là
tại mình không ền-năng vi-chủ cái khổ của
chúng ta, tưởng-tượng lại coi cái khổ tại
sao thắng hơn mình? Tại sao mình không thắng
nó nỗi? Xét đoán là tại mình không ền-năng
vi-chủ cái khổ của chúng ta, tưởng-tượng
lại coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại
sao mình không thắng nó nỗi? Xét đoán là
tại mình không -năng vi-chủ cái khổ của
chúng ta, tưởng-tượng lại coi cái khổ tại
sao thắng hơn mình? Tại sao mình không thắng
nó nỗi? Xét đoán là tại mình không quyền-năng
vi-chủ cái khổ của chúng ta, tưởng-tượng
lại coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại
sao mình không thắng nó nỗi? Xét đoán là
tại mình không ăng vi-chủ cái khổ của chúng
ta, tưởng-tượng lại coi cái khổ tại sao
thắng hơn mình? Tại sao mình không thắng nó
nỗi? Xét đoán là tại mình không uyền-năng
vi-chủ cái khổ của chúng ta, tưởng-tượng
lại coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại
sao mình không thắng nó nỗi? Xét đoán là
tại mình không hấy chữ Khổ mà Ổng là Càn-Khôn
Vũ-Trụ; bỡi vì Ổng có quyền-năng vi-chủ
cái khổ của chúng ta, tưởng-tượng lại
coi cái khổ tại sao thắng hơn mình? Tại sao
mình không thắng nó nỗi? Xét đoán là tại
mình không đủ can đảm, không đủ tinh-thần
chịu khổ, sợ khổ rồi không biết vi-chủ
cái khổ.
À,
hồi lúc Bần-Đạo chưa tin nơi huyền-bí Đạo-Giáo
của Đức Chí-Tôn, chỉ học-thức theo thường
lệ; lấy cái lương-tri lương-năng của mình
mà đoạt định. Bần-Đạo chưa tin phẩm-vị
của Đức Phật Thích-Ca hay Đức Chúa Jésus
Christ, để dấu hỏi ngờ vực? Chừng đó
Đức Chí-Tôn có trách-nhiệm nặng-nề cho
thấy đặng đi ngay đến bổn thân của Đức
Chí-Tôn. Bần-Đạo đã ngó thấy một khối
an-ủi vô biên, chúng ta đã chịu trong kiếp
bao nhiêu thống-khổ về hình-thể và tinh-thần;
sanh sanh, tử tử lập vị mình từ bước.
Một mức mình được phẩm-vị cao trọng hơn
thua một mức thì thấy người ta như con chim
còn mình như con cá vậy. Phẩm-vị đặc-biệt
cao siêu mình đã không có còn thua người ta
một mức, vì người ta cao sang như con chim
còn mình hèn-hạ như con cá vậy; không có
liên-quan với nhau chút nào hết rồi khi dòm
lại hình-thể của Đức Chí-Tôn, thì thấy
như Ngài không có nói, không có thinh âm, mà
tinh-thần của chúng ta và của Ngài dường
như có liên-quan cùng nhau vậy. Thấy Ngài còn
có nhiều thống-khổ; còn ta, ta chịu có một
phần mà ta than-thở thối chí sao? Thống-khổ
Thầy đã chịu muôn triệu lần, vì cớ cho
nên khi ta thấy mặt Đức Ngài thì những sự
sầu thảm đau khổ về tâm hồn và xác thịt
chúng ta đặng an-ủi.
Hỏi tại sao? Tại khối quyền-năng vĩ-đại
kia là khối khổ, hình-ảnh của Ngài là khổ
vô tận; kho Bữu-Pháp mà Ngài đã chịu thống-khổ
mới đoạt được huyền-vi ấy. Vậy chúng
ta được an-ủi là sau khi chúng ta thắng nỗi
khổ.
Bần-Đạo dám chắc và nói quả quyết rằng:
Rất hạnh-phúc cho những kẽ nào đã chịu
nhục-nhã về xác-thịt thì linh-hồn họ sẽ
được một hạnh-phúc vô đối, vì kẽ ấy
phải chịu một thống-khổ của Đời mới
được Đức Chí-Tôn an-ủi.
Rất hữu-hạnh cho những kẽ chịu trong kiếp
sanh bị thiên-hạ đè nén, khinh rẻ, chê bai,
thì Đức Chí-Tôn đem họ vào một địa-vị
phi thường vinh hiển, những kẽ ấy do nơi
tay Đức Chí-Tôn nâng đỡ cho họ được vinh-hiển
oai-quyền.
Nếu chúng ta đủ can-đảm mà chịu nỗi cái
khổ của Đức Chí-Tôn là chúng ta được
một kho vô tận vinh-hiển đó vậy.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 8 tháng 3 năm Kỷ-Sữu ( 05-04-1949 )
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn
của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo giảng gấp-gấp chút cho rồi cái
vấn-đề nầy đặng có ngày giờ giảng về
Bí- Pháp. Bần-Đạo kỳ rồi dắt cả tinh-thần
con cái của Đức Chí-Tôn vào Linh-Tiêu-Điện
( Ngọc-Hư-Cung ), chúng ta đã gặp Đức Chí-Tôn
với Pháp-Thân Ngọc-Đế tức nhiên là Hoàng-Đế
của Càn-Khôn Vũ-Trụ. Ngài chưa có phải là
Đại-Thánh với chúng ta, còn cái hình-ảnh
của Đại-Thiên-Tôn chúng ta không ngó thấy,
vì Đức Chí-Tôn không muốn cho chúng ta ngó
thấy. Pháp-Thân của Ngài chưa được Đại-Thiên-Tôn
chưa thành tại Linh- Tiêu-Điện, Bần-Đạo
đã tỏa một cái oai-quyền vinh-hiển của
Tông-Đường những kẽ đã đoạt-vị.
Hại thay! Cảnh thăng vẫn khác, cảnh đọa
vẫn khác, nếu Bần-Đạo tả ra, dầu một
người nào vững tâm thế nào đi nữa cũng
phải kinh khủng sợ sệt; cảnh hạnh-phúc
mà chúng ta đoạt được với Tông-Đường
Thiêng-Liêng của chúng ta, họ đương sum họp
với nhau không sót một người; đặng chứng-kiến
định-án của chúng ta. Nếu chúng ta đoạt-vị
đặng thì con đường dục- tấn của chúng
ta, cả hạnh-phúc đạo-đức, cả tinh-thần,
cảnh thăng của chúng ta có nhiều tay nâng
đỡ. Rủi thay, nếu chúng ta bị tội tình
phải đọa thì cảnh vinh hiển ấy từ từ
xa, xa lần chúng ta. Đứng một chỗ, cảnh
tượng vinh-hiển ấy, cảnh tượng hạnh-phúc
ấy, nó dường như thối bước xa lần lần
xa mút chúng ta, chúng ta trông hết thấy nó.
Cảnh đi ngược lụn lại, cảnh chạy ta chớ
chẳng phải ta chạy cảnh; hạnh-phúc ta sợ
ta, chạy ta, lánh ta, rồi thoạt nhiên trên
con đường dục-tấn của chúng ta đi biết
bao nhiêu khó khăn. Thường trong miệng thiên-hạ
có nói Thiên-Đàng, Địa-Ngục, tức nhiên
Ngọc-Hư-Cung với Thập-Điện Diêm-Vương cũng
không có gần nhau, mà gần nhau mới lạ lùng.
Nếu chúng ta làm điều gì trọng-hệ nói tỷ-thí
như chúng oán giận giết người, thì liền
đó có kẽ đứng trước mặt chúng ta có vẽ
sầu thảm, thiên-hạ tưởng đâu kẽ đó oán
giận giết lại mình. Không! Không khi nào vậy;
kẽ ấy buồn thảm cho ta một cách đau-đớn.
Vừa ngó thấy kẽ đó rồi, linh-hồn của
chúng ta tức nhiên là đệ-nhị xác thân của
chúng ta tùy theo cái tội của nó mà đi lần
xuống cảnh Diêm-Cung. Trong cảnh tội tình
của chúng ta đã quyết định, liền giờ ấy
người tội nhơn ấy đứng nơi cửa Diêm-Cung
Địa-Ngục đó vậy, rồi tự mình kết án
cho mình.
Thảm thay! Những kẽ nào không biết thương
yêu nhau, những kẽ thiếu tình ái thương yêu
nhau, những kẽ đó không được lời nào của
một chơn-hồn nào an-ủi, chỉ xung quanh mình
nghe tiếng than, tiếng trách móc, không biết
thời gian nào định tội cho mình, hay tội
tình mình mình định cho mình, vì cớ tức
mình không biết chừng nào án ấy đã hết,
khổ não chăng là điều ấy!
Thỉnh-thoảng rồi Bần-Đạo sẽ tỏ. Bỡi
vì Bần-Đạo chưa được phép đi xuống Địa-Ngục
Diêm-Cung, Đức Chí-Tôn có hứa, ngày giờ
nào Bần-Đạo thoát xác, trước khi về cảnh
Thiêng-Liêng Hằng-Sống thì Bần-Đạo sẽ
được phép đi, đi ngang qua đó đặng giải-thoát
cho các chơn-hồn oan khúc tội tình đặng siêu-thăng
họ.
Bần-Đạo đã được Đức Chí-Tôn và các
Đấng Thiêng-Liêng giải-nghĩa cho biết nơi
cảnh ấy thế nào, đặng con đường ấy một
ngày kia Bần-Đạo đi không có lạ, không có
nhát. Ngày giờ nào nếu chúng ta được hạnh-phúc,
đoạt cơ giải-thoát thì gia-tộc Thiêng-Liêng
chúng ta mừng rỡ biết bao nhiêu. Trên chín
phẩm Thần-Tiên Chư Phật dĩ chí cho tới Tam-Thế
họ sẽ hạnh-phúc vui-vẻ không biết làm sao
tả cho cùng, vui-vẻ vinh-hiển không có mực
nào, miệng lưỡi nào tả ra cho hết.
Hễ khi chúng ta đoạt-vị dầu cho một cấp
hay là thấp hơn một cấp đều thấy khác
nhau xa, Bần-Đạo có tả người ta như con
chim, mình là con cá không thế gì so sánh được
như một trời với một biển vậy.
Chúng ta thắng một phẩm, ối thôi lễ tiếp
rước ta không thế gì tả được cái vinh-hiển
ấy, có liên-hệ với Tông-Đường Thiêng-Liêng
của chúng ta kia, họ sẽ làm cho chúng ta có
được một hạnh-phúc vô đối, bỡi vì cả
thảy trong Tông-Đường đều được nhấc
lên một bực hết thảy vinh-hiển không biết
bao nhiêu.
Ngọc-Hư là cảnh mà Đức Chí-Tôn có nói
là đại-nghiệp của mỗi đứa, Đức Chí-Tôn
đã dành để nơi Cực-Lạc Thế-Giới; khi
định-vị được nơi Ngọc-Hư-Cung Linh-Tiêu-Điện
rồi, cả gia-tộc Thiêng-Liêng của chúng ta
rước chúng ta về đại-nghiệp mà Đức Chí-Tôn
đã đào tạo cho ta ở Ngọc-Hư-Cung, Bần-Đạo
không có miệng lưỡi nào tả, chỉ cả thảy
đều tưởng tượng lễ tiếp rước đem chúng
ta về Tông-Đuờng Thiêng-Liêng Hằng-Sống
đó, sẽ làm cho chúng ta vinh-hiển như thế
nào duy tưởng-tượng thì biết.
Ở
Cực-Lạc Thế-Giới tùy phẩm-vị của mình
đoạt được nơi con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống,
cái mức đó không cùng chúng ta cần phải
đi, đi cho đến ngày giờ nào chúng ta có thể
ngồi trên Huỳnh-Kim-Khuyết của Đức Chí-Tôn
là ngày chúng ta đoạt được mục đích đó
vậy. Mà còn xa lắm, cho nên về Đại-Nghiệp
của Đức Chí-Tôn chúng ta được hưởng hạnh-phúc
tùy theo phẩm-vị của ta đoạt được nơi
kiếp sanh.
Phẩm-vị của mình đoạt được cao thấp,
trọng hệ hưởng được cùng chăng? Ở yên
cùng chăng? Vui hưởng nơi đó gọi là Cực-Lạc
Thế-Giới, vui vô cùng tận, cái hạnh-phúc
không thể gì tả được, hạnh-phúc không
cùng. Ở hưởng tại đó một ngàn hai trăm
năm ( 1.200 ), hay là hai ngàn bốn trăm năm (
2.400 ), hay là ba ngàn sáu trăm năm ( 3.600 ),
hay là ba mươi sáu ngàn năm ( 36.000 ), rồi
lại còn tái kiếp lụn lại đặng dục-tấn
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống của
mình nữa. Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng cảnh
Cực-Lạc Thế-Giới.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 13 tháng 3 năm Kỷ-Sửu ( 10-04-1949 )
Chúng ta rủ nhau dục-tấn trên con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kỳ trước Bần-Đạo có hứa dìu-dẫn cả
thảy con cái của Đức Chí-Tôn vào Cực-Lạc
Thế-Giới, hôm nay Bần-Đạo thực-hành lời
hứa đó. Chúng ta rủ nhau đi từ Cửu-Thiên
Khai-Hóa, lấy tinh-thần chúng ta quan-sát: Nếu
chúng ta đoạt-vị đặng thì sự đi, rủ nhau
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, đi
trong một kiếp sanh mà chúng ta đã đào tạo
thì sự ấy vinh-hiển không thể nói. Ra đi
nơi Tiểu-Thiên-Cung tức là gia-tộc của chúng
ta lập thành trong các kiếp sanh, ta đi từ
Tiểu-Thiên-Cung chúng ta cho đến đại gia-tộc
của chúng ta. Sự vinh-hiển không cùng tả
là về đến nơi gọi là Cực-Lạc Thế-Giới.
Từ thử đến giờ Cực-Lạc Thế-Giới trong
Phật-Giáo đã truyền bá tả hình-trạng đã
nhiều, cả thảy đều định, nếu mình tu
theo Phật-Giáo hễ đoạt vị đặng thì về
Cực-Lạc Thế-Giới. Bần-Đạo nói Cực-Lạc
Thế-Giới là cảnh của chúng ta tạm giải-thoát
tức là cảnh của chúng ta định-nghiệp của
chúng ta vậy, chớ chưa phải là cảnh tối
cao tối thượng của các chơn linh.
Thỉnh-thoảng Bần-Đạo sẽ tả và sẽ dắt
con cái của Đức Chí-Tôn đi đến đặc-điểm
của mình rồi mới thấy Cực-Lạc Thế-Giới
do các Đạo-Giáo truyền bá lại chỉ có giá
trị thường thức không mấy trọng-hệ, dịch
ra Pháp-văn là: Nirvana, Quater-Naire thì nó không
có nghĩa gì hết, còn có địa-giới cao trọng
quí báu hơn nữa. Ấy là nơi định- nghiệp,
nơi định vị của chúng ta cũng dường như
chúng ta định- nghiệp của mình nơi thế-gian;
tức nhiên đại-nghiệp của mình đối với
toàn-thể gia-nghiệp của quần chúng tức là
đại chúng tạo trong kiếp sanh.
Cực-Lạc Thế-Giới hay Niết-Bàn không có
lạ chi cả, chỉ là nơi cho các Chơn-Linh đoạt
Đạo đến đây đặng nhập vào Đại-Nghiệp
của họ nên Phật-Giáo coi là trọng-hệ, bởi
không đoạt đặng tức là Đại-Nghiệp của
mình tạo chưa thành. Trước khi đến đó chúng
ta cũng nên hiểu sơ-lược cảnh Cực-Lạc
Thế-Giới, Bần-Đạo căn dặn khi mình bước
tới cửa Cực-Lạc Thế-Giới thấy các Tăng-Đồ
ngồi ngoài mà tụng niệm, có kẻ gặp mình
thì tỏ vẻ đau-đớn thương tâm, khổ não
tâm hồn lung lắm. Những kẻ ấy sau Bần-Đạo
sẽ nói rõ họ là người gì? Có một điều
ta thấy họ đông đảo kẻ lại người qua,
mà người gì thôi đủ thứ; có kẻ đầu
cạo trọc, có kẻ râu dài thậm-thượt, lại
cũng có kẻ tướng-tá dị hợm lắm. Nơi đó
là ta mới tới ngoại-môn Cực-Lạc Thế-Giới,
cũng như về tới ngoại-ô Tòa-Thánh vậy,
thỉnh-thoảng Bần-Đạo sẽ có dịp nói đến
những người ấy.
Cực-Lạc Thế-Giới là gì? Các Chơn-Linh dục-tấn
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống họ
tự-do định-vị, tự-do lập nghiệp trên cảnh
Thiêng-Liêng; Không có quyền nào trọng-hệ
hơn, dầu lớn thế nào, định-vị cho họ
phải chăng vì là quyền tự-chủ, tự-do của
họ. Hai cảnh ấy:
1- Cửu-Thiên Khai-Hóa: tức là tấn-hóa; một
mé bên Ngọc-Hư-Cung, một mé bên Linh-Tiêu-Điện.
2- Hư-Vô Tịch-Diệt tức là Niết-Bàn Cực-Lạc
Thế-Giới.
Hai cảnh ấy ta thấy tướng diện đương nhiên,
giờ phút nầy mỗi cá-nhân đều chịu hai
ảnh-hưởng ấy. Ví như thức thì khổ cực,
ngủ thì sung-sướng; vì cớ nhiều người
ham ngủ hơn thức, ngủ đê-mê, bởi thức
thì khổ cực.
1- Thức thuộc về quyền-lực Cửu-Thiên Khai-Hóa.
2- Ngủ thuộc về quyền-lực Cực-Lạc Thế-Giới.
Chỉ có sướng với khổ; sống là cực khổ,
chết là sung-sướng và hạnh-phúc. Sống thuộc
về quyền Cửu-Thiên Khai-Hóa, chết thuộc
về quyền Cực-Lạc Thế-Giới.
Cầm Vạn-Pháp Chuyển-Luân tức là Pháp-Luân
Thường-Chuyển trong bí-pháp dục-tấn của
các Chơn-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ; toàn-thể
thuộc quyền Cực-Lạc Thế-Giới, là nơi Hư-Vô
Tịch-Diệt đoạt bí-pháp chơn-truyền cũng
thuộc về Cực-Lạc, bên kia trị thế, bên
nầy định-vị; hai quyền hạn đều có tương
liên. Ấy vậy, khi vô Cực-Lạc Thế-Giới
rồi, chúng ta thấy còn hạnh-phúc gấp mấy
lần khi ta còn ở Diêu-Trì-Cung được hưởng
gần Bà Mẹ ta; Bởi hưởng gần Mẹ sự vui
sướng không phải của riêng của mình, nó
là của chung trong Đại-Nghiệp của Đại-Từ-Mẫu
chúng ta, ấy là Đại-Nghiệp chung.
Ví như, mình về nơi ngôi nhà chung của Cha,Mẹ
mình tại thế nầy; Dầu sang trọng hưởng
được đặc ân của Cha, Mẹ bao nhiêu, sự
vui hưởng cũng không bằng ta hưởng chính
cái Đại-Nghiệp của chính tay chúng ta đào
tạo.
Cái Đại-Nghiệp của chúng ta tức là cái
đặc tướng do chúng ta đào tạo mà vui hưởng
nơi Cực-Lạc Thế-Giới ấy là trọng-hệ
hơn ta hưởng của nơi Cha,Mẹ ta.
Sự vui hưởng nơi Ngọc-Hư-Cung không bằng
vui hưởng nơi Cực-Lạc Thế-Giới, ta tạo
nghiệp ấy là Tiểu-Thiên-Địa của chúng
ta, cũng như Đức Chí-Tôn tạo Đại-Thiên-Địa
của Ngài. Trong Tiểu-Thiên-Địa của chúng
ta cũng có Ma, cũng có Phật.
Tại không khéo của ta trong mấy kiếp sanh,
vì thù hận chẳng vì yêu ái, vì oán cừu
chẳng vì bác-ái. Hễ oán cừu thì tạo nghiệp
Quỉ-Ma, còn bác-ái từ-bi thì tạo nghiệp
Phật; cũng như oán cừu của Đức Chí-Tôn
tạo nghiệp là Quỉ-Vương, bác-ái từ-bi của
Ngài tạo nghiệp Trời.
Chúng ta dầu có quyền-năng trong kiếp sanh
đoạt Tiểu-Thiên-Địa, mà sửa đổi những
điều gì giục ta cừu hận, oán ghét thì chúng
ta tuyệt bỏ lần nó đi, mỗi kiếp sanh mua
chuộc sự yêu thương đặng sống hưởng nơi
Cực-Lạc Thế-Giới, một ngàn hai trăm năm,
hay là hai ngàn bốn trăm năm, hay là ba ngàn
sáu trăm năm, hay mười hai ngàn năm, hay hai
mươi bốn ngàn năm, hay ba mươi sáu ngàn năm,
theo thời gian hữu-giới của nó. Ta có phương-pháp
mỗi kiếp sanh các chơn-linh trừ bớt thù hận
đoạt quyền-lực thương yêu y như trên hình-tượng
trước Đền-Thánh Đức Chí-Tôn để Tam-Thánh
ký hòa-ước với Ngài đó vậy.
Nhờ khi mới khai Đạo, Bát-Nương đến để
một bài Thánh-Giáo về yêu thương rất chí
thiết, cả thảy ráng hiểu thấu thêm Bí-Pháp
của Bát-Nương đã cầm cây viết mà biên
cho mình, ấy là Bí-Pháp trọng-hệ. Đến nỗi
Đức Chí-Tôn đến ký hòa-ước buộc chúng
ta chỉ có luật thương-yêu mà thôi. Bởi do
luật thương-yêu mà Ngài cầm-quyền cả Càn-Khôn
Vũ-Trụ trong tay, mà chúng ta có định-nghiệp
được cao trọng cũng do nơi quyền-lực của
luật ấy. Nói thật trong kiếp sanh của chúng
ta rủi có kẻ trong thân-tộc ta thù oán ta,
kẻ ấy tức là Ma nghiệt, chúng ta không nên
sợ. Nếu ta khôn ngoan thì ta lấy tình yêu
ái đối lại đặng cho họ diệt tận oán
cừu đi, ấy là cơ-quan Bí-Pháp mà Bần-Đạo
vừa hé màn bí-mật cho con cái của Đức Chí-Tôn
nhìn thấy để tìm cơ-quan giải-thoát.
Cực-Lạc Thế-Giới là nơi ta về cùng Tiểu-Thiên-Cung
của ta nhứt là bên cảnh Phật của ta, còn
bên Ma cảnh ta đè nó xuống nơi ấy là nơi
Cung chúng ta định-pháp. Trong Đạo-Giáo có
nói là nói chỉ ngồi tự nhiên bất động,
chủ định tinh-thần mà có quyền-lực của
tinh-thần là linh-quang chiếu-diệu, không cảnh
nào trong Càn-Khôn Vũ-Trụ mà không thấu đáo;
chỉ ngồi một chỗ mà dời non lấp bể, đảo
hải di sơn, bất kỳ quyền-lực nào đều
nên hình tại Cực-Lạc Thế-Giới. Bởi chúng
ta đào tạo mỗi kiếp sanh đoạt thành chơn-pháp,
nắm vững trong tay chơn-pháp, lấy hữu-hình
mà đào tạo Bí-Pháp vô biên, nó có quyền
năng vô tận. Có thể Đức Chí-Tôn ban đặc-ân
cho ta chưởng-quản một thế-giới có vài
ba chục quả địa-cầu đặng ta làm Tổng-Trấn
nó, ta chỉ thấy tại nơi Cực-Lạc Thế-Giới
mà vận hành sanh-hóa trong khuôn-luật không
cần đi đâu hết. Quyền-năng vô tận ấy
chính ta cũng không hiểu, mà chính nó tấn
triển mãi cho đến ngày giờ nó đủ quyền
đoạt chơn pháp, đủ quyền tạo Càn-Khôn
đặc-biệt cho nó như Đức Chí-Tôn tạo Càn-Khôn
của Ngài, ngày giờ đó nó đi đến mức cuối
cùng của nó.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 14 tháng 3 năm Kỷ-Sửu ( 11-04-1949 )
Đêm nay Bần-Đạo giảng có hơi lâu một chút,
có mệt xin cảm phiền.
Trước khi Bần-Đạo dìu-dắt cả thảy con
cái của Đức Chí-Tôn vào Cực-Lạc Thế-Giới,
đêm nay là đêm giảng Đạo một triết-lý
Đạo cả thảy con cái Đức Chí-Tôn phải
để ý cho lắm; nhứt là Bần-Đạo sẽ dẫn
đến một chỗ, một lịch cảnh mà từ thử
đến giờ trong Đạo Phật thường nói là
Niết-Bàn cảnh, nhưng trước khi giảng vấn-đề
ấy Bần-Đạo có đôi điều căn dặn...
Bần-Đạo đã nói: Tông-Đường Thiêng-Liêng
của chúng ta mỗi người đã sẵn. Lời của
Đức Chí-Tôn đã nói bóng rằng: " Cái gia-nghiệp
của các con Thầy đã gìn-giữ đã dành sẵn
", ấy là Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng
ta đó vậy.
Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta chia
ra làm ba hạng:
1- Hạng trí-thức tinh-thần chúng ta do Ngươn-Linh
của chúng ta sản-xuất.
2- Hạng ngoại-thân là những chơn-hồn chúng
ta đã làm bạn khi tái kiếp làm người; mỗi
kiếp làm người chúng ta có Cha, Mẹ, Anh, Em
bạn tác, có thân-quyến đó là ngoại-thân.
3- Hạng nội-thân của chúng ta là chính các
Chơn-Linh chính mình của chúng ta giáng linh
đầu-kiếp, mỗi kiếp mình giáng-linh là phân
thân đầu-kiếp, là một người đặc-biệt
riêng ra. Bởi cớ cho nên các bậc cao-siêu
chẳng cần tại kiếp; nhưng họ có quyền,
quyền vô đối của họ, là họ giáng-linh
đặng chuyển-kiếp do câu kinh: " Nhứt thân
ức vạn diệu huyền thần biến " là vậy
đó. Người ta có một thân mà người ta được
ức vạn diệu huyền, không thể trí-thức
tức là lương-tri của mình mà định được;
không thế gì cái lương-tâm của mình mà định
được, cái đó là do huyền-vi của mỗi người
thâu đoạt; nhiều kiếp, nhiều phen mới thâu
đoạt được huyền-linh ấy; được Đức
Chí-Tôn ban cho mỗi kiếp sống chúng ta có
một lần chết, mỗi lần chết có cái Tử-Khí;
Tử-Khí ấy là một khối đặng làm Tòa-Sen
cho chúng ta, tức nhiên định-vị cho chúng
ta đó vậy. Cái Khí-Thân của chúng ta do Ngươn-Linh
của chúng ta quyết định, cái đó trọng-hệ
hơn hết. Nếu chúng ta sợ mất, nao núng, sợ
sệt chăng là cái đó.
Trở lại hai cái kia dầu cho ngoại-thân, dầu
cho nội-thân nó cũng vẫn phản nghịch lại
chúng ta mà thôi. Vì cớ cho nên chính nơi mình
của Đức Chí-Tôn trong nguyên-căn của Ngài
có Quỉ-Vương, Quỉ-Vương là gì? Là người
bạn chí-thân của Đức Chí-Tôn, nhưng Ngài
đem cái tánh-đức chí-thân của họ đặng
ngăn ác-hành của họ mà thôi. Phản-phúc với
Đức Chí-Tôn là định Quỉ-Vị của họ,
ngoại-thân của chúng ta thường phản-phúc
với chúng ta lắm. Nên tấn tuồng chúng ta
vẫn thấy cốt nhục mà chừng phản nghịch
thì phản nghịch, bạn tác của chúng ta thường
phản-phúc chúng ta hơn hết, bạn chí-thân
thường chỉ có một mà thôi.
Bần-Đạo dẩn ( Cái của Đức Chí-Tôn ) vô
Niết-Bàn-Cảnh rồi cả thảy đều thấy,
dầu nội thân có một mà biến hóa ra ức
vạn đi nữa tới chừng qui liễu lại có một,
tới chừng qui pháp-thân cũng có một; duy có
tai hại cho chúng ta hơn hết là phẩm-vị không
xứng đáng của nó, hay địa-vị không vừa
lòng sở định của nó, nó thúc dục chúng
ta đầu kiếp trở lại, ngoài ra nữa không
có gì hết.
Ngoại-thân, Đức Chí-Tôn đã có nói, chúng
ta có thể làm cho nó chí-thiện được, chính
mình Đức Chí-Tôn cũng sợ, sợ đến đỗi
Ngài biểu lập sẵn dưới thế nầy đi, đặng
giáo-hóa họ lần lần. Bởi cớ cho nên riêng
Ngài khi lập Đạo kêu: Tương, Trang, Kỳ; mấy
Vị Đại Thiên-Phong biểu mỗi người đều
lập họ, lập họ tức nhiên là lập ngoại-tộc
Thiêng-Liêng của chúng ta đó vậy, trọng-yếu
hơn hết là điều đó. Tại sao Đức Chí-Tôn
biểu lập? Nếu không có ngoại-thân thì Tiểu
Thiên-Địa của chúng ta không có. Vì cớ cho
nên các Chơn- Linh cao siêu người ta đã lập
một Thiên-Cung của họ rực-rỡ, điều trọng-yếu
hơn hết là những Vị Giáo-Chủ, là người
trong thân thể của họ kêu họ đi, đi cả
thảy đặng giúp sức cho họ.
Bần-Đạo không dấu, vì chính mình Hộ-Pháp
cũng có Tông-Đường khá lắm, vinh-vang lắm;
kém chăng là duy kém một hai Tông-Đường vĩ
đại như: Di-Lạc, Quan-Thế-Âm, A-Di-Đà mà
thôi.
Tông-Đường của Hộ-Pháp cũng khá lắm, nên
Đức Quyền Giáo-Tông thường có nói giả
ngộ, nói bóng nói bí-mật là: Triều-Đình
của họ Phạm mạnh mẽ hơn Triều-Đình của
họ Lê, nói bóng vậy thôi.
Bây giờ Bần-Đạo nói Tông-Đường Thiêng-Liêng
của chúng ta, nếu sợ mất hay chăng là bạn
chí-thân của chúng ta, thiệt hại kia vẫn
thường. Bần-Đạo dắt toàn-thể con cái của
Đức Chí-Tôn phải để ý cho lắm, giảng
ngày nay cốt yếu giảng cho mấy người đó.
Chúng ta rủ nhau về đến Niết-Bàn-Cảnh,
bởi Niết-Bàn-Cảnh cũng như kinh-đô của
Cực-Lạc Thế-Giới vậy, chúng ta sẽ ngó
thấy Đức Phật Thích-Ca nơi Kim-Sa Đại-Điện,
tức Kim-Tự-Tháp giống như bên Egypte vậy,
mà không thiệt giống là mình nó tròn, nó
là Ngũ-Thiên Ngũ-Giái; Còn Kim-Tự-Tháp bên
Pérou không có giống, từ trên tới dưới
chạy ngay như cái nóc nhà hình bánh ếch; nó
cũng Ngũ-Thiên Ngũ-Chuyển như Pyramide, nhưng
tới từng chót thì bằng.
Kim-Tự-Tháp, dân Pérou khi nào họ tế Đức
Chí-Tôn họ lên từng chót mà họ cúng tế.
Kim-Tự-Tháp Egypte giống hơn, chúng ta tới
đã thấy Kim-Tự-Tháp là Kim-Sa vậy. Có một
điều là chúng ta để ý hơn hết là cửa
Kim-Tự-Tháp ấy có một cây dương lớn lắm,
chúng ta không thể gì tả được, hình tướng
của cái lá nó nhỏ như sợi chỉ vậy. Chúng
ta thấy nó bao trùm Kim-Tự-Tháp ấy, nếu chúng
ta lấy con mắt phàm của chúng ta quan-sát bề
mặt của nó chúng ta tưởng-tượng lối chừng
vài trăm cây số ngàn ( Kilomètre ) vậy, nó
không có cùng, thấy mút con mắt. Cây dương
ấy bao phủ phía trên làm như tàn che tủa
xuống trọn vẹn. Trong cái bí-pháp của Niết-Bàn
là cây Dương-Liễu ấy, mỗi lá dương đều
có giọt nước Cam-Lồ; mỗi lá đều có một
giọt nước, mỗi một giọt nước là một
mạng căn trên Càn-Khôn Vũ-Trụ vậy.
Kim-Tự-Tháp có từng, có nấc; hằng hà sa
số Chư Phật chúng ta không thể nào mà đếm
được, mỗi từng ngồi trên Liên-Đài của
mình mà thấy hằng-hà sa-số đủ hết.
Bần-Đạo có nói các Vị Phật ấy do Nguyên-Linh
của Đức Chí-Tôn sản-xuất đoạt-vị mà
thôi. Nếu chúng ta có con mắt Thiêng-Liêng
dòm lên Liên-Đài của họ, thấy ngôi-vị
của họ truyền kiếp cho họ tạo cho đặng
cái Liên-Đài của mình, nhứt đảnh Liên-Hoa
của mình. Nếu một Vị Phật muốn thăng lên
nhứt phẩm Liên-Hoa phải tái kiếp làm con
vật, rồi từ con vật lên tới Phật vị,
mới được một từng Liên-Hoa nữa. Chúng
ta đến từng Liên-Hoa của họ, vô tới Kim-Tự-Tháp,
chúng ta thấy họ hườn nguyên Pháp-Thân ấy
giống như hồi trong Kim-Bàn xuất hiện ra;
Chúng ta thấy trong Kim-Bàn xuất hiện còn mờ
mờ, mịt mịt như một ánh chiêm bao. Còn Pháp-Thân
khi ngự trên Liên-Đài họ rồi, Pháp-Thân
ấy được toàn vẹn trong-trẻo và ngó thấy
hiện-tượng trong Pháp-Thân của họ huyền-bí
vô biên. Mỗi Liên-Hoa của họ chiếu-diệu
tức nhiên mỗi Linh-Pháp chuyển thế của Càn-Khôn
Vũ-Trụ, họ tương thân cùng Càn-Khôn Vũ-Trụ,
mấy địa-giới hết thảy, do điểm Liên-Hoa
của họ chiếu diệu mà thôi, tỷ như chúng
ta ngó thấy radio phát thanh ra, các địa-giới
đâu đâu đều bắt được tiếng hết.
Vì quyền đặt-biệt của người ta cai quản,
không thể đoán không thể tưởng; Càn-Khôn
Vũ-Trụ đều dưới quyền của họ điều
khiển, không phải điều khiển về chính-trị,
mà họ điều khiển về sự giáo-hóa.
Nền chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ có hai cơ-quan:
1- Cơ-quan trị-thế.
2- Cơ-quan giác-thế.
Bên Cửu-Thiên Khai-Hóa cầm quyền chính-trị
Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bên Cực-Lạc Thế-Giới tức nhiên là Niết-Bàn
duy có giáo-hóa Vạn-Linh mà thôi.
Bần-Đạo nói pháp-thân khi lập được Liên-Đài
mà còn mơ mộng, duy có Ngũ-Tầng-Quan hay Thập-Tầng-Quan
mà thôi; còn thua người ta thì tôi phải ở
lại một ngàn hai trăm năm, đặng ngồi định
tinh-thần mà tạo Liên-Đài của tôi cho đặng
cao trọng hơn nữa, các Chơn-Linh đi trong con
đường dục-tấn rồi vô Cực-Lạc Thế-Giới
cũng chỉ ước vọng có bao nhiêu đó mà thôi.
Chư Phật đối với Đức Chí-Tôn, tức nhiên
đối với Đại-Từ-Phụ muôn lần không có
một, cho nên con đường dục-tấn của họ
cứ đi, đi mãi mà thôi.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 18 tháng 03 năm Kỷ-Sửu ( 15-04-1949 )
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, kỳ
trước Bần-Đạo đã dìu-dắt toàn cả con
cái của Đức Chí-Tôn vào cảnh Niết-Bàn.
Bần-Đạo đã tả hằng-hà sa-số Chư Phật
và Bần-Đạo có chỉ giữa Kim-Tự-Tháp có
cây Dương-Liễu tối cổ, tàn của nó bao phủ
cả Kim-Tự-Tháp hết, che trọn vẹn Kim-Tự-Tháp
chẳng khác nào như cái " Thiên-La " bao phủ
vậy. Lá của nó chúng ta ngó thấy trạng thái
của nhành Dương tại mặt thế nầy thế nào
thì nó như thế ấy, lá của nó chỉ lớn
hơn sợi tóc chút đỉnh vậy thôi, mà mỗi
đầu lá đều có giọt nước Cam-Lồ. Giọt
nước Cam-Lồ ấy là gì? Là hóa-sanh các Chơn-Linh
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Bần-Đạo có tả cả
Chư Phật, Bần-Đạo có nói hình-trạng chẳng
khác chi hồi trong Kim-Bàn xuất hiện buổi
trước, hình ảnh của nó còn lờ-mờ tới
chừng về ngự trên Liên-Đài Kim-Tự-Tháp
thì hình ảnh trong-trẻo hiển hiện hết, Pháp-Thân
huyền-bí vô biên vô tận. Tại sao? Chúng ta
tìm hiểu cái triết-lý nguyên do Pháp-Thân
buổi ấy trong Kim-Bàn xuất hiện bất quá
bóng dáng mà thôi. Nhờ sanh sanh tử tử thâu
đoạt Ngươn-Khí tạo đặng Pháp-Thân của
mình với cả muôn muôn triệu triệu kiếp
sanh của chúng ta, đặng đoạt cả huyền-vi
bí-mật quyền phép Tạo-Đoan; Cho nên cái lúc
đoạt đặng Pháp-Thân rồi, tức nhiên đoạt
đặng Phật-Vị vậy, lúc đó cả huyền-bí
Thiêng-Liêng kia, cả Tạo-Đoan kia mình đã
thấu đáo.
Bần-Đạo đã có nói " Tử-Khí " của chúng
ta, tức nhiên xác của chúng ta mang nơi cảnh
trần nầy, đặng làm bạn với Vạn-Linh. Xác
ấy tới chừng chết tức nhiên trở lại Tử-Khí,
thiên hạ tưởng thối hoại không còn gì hết,
nhưng thật ra nhờ Tử-Khí nó tạo Liên-Đài
của chúng ta vậy đó. Bần-Đạo nói rõ hơn
nữa, Pháp-Thân của các Vị-Phật ngự trên
Liên-Đài Kim-Tự- Tháp tổng-số lụng lại
vạn kiếp sanh của họ; vạn Pháp-Thân của
họ tổng-số lại biến tướng nên hình ảnh
vô biên vô tận của họ. Bần-Đạo nói: Tuy
vậy, nếu chúng ta thấy Tử-Khí sợ sệt,
mà thật sự ra ta thèm thuồng biết bao nhiêu.
Giờ phút nầy dưới cội cây Dương-Liễu
ấy chúng ta vẫn thấy một Liên-Đài rực
rỡ quí báu vô biên vô giới chiếu diệu cả
muôn muôn vạn vạn Linh-Quang trong Càn-Khôn
Vũ-Trụ bao phủ Càn-Khôn Vũ-Trụ. Trên Liên-Đài
ấy giờ phút nầy vị Chưởng-Giáo ở Niết-Bàn
là Đức Di-Lạc Vương-Phật đó vậy. Buổi
trước Ngai đó thuộc quyền của Đức Di-Đà.
Ngày giờ mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ,
tức nhiên là mở Đạo Cao-Đài, Đức Chí-Tôn
đã giao quyền lại cho Đức Di-Lạc Vương-Phật,
ngày giờ nầy, giờ phút Thiêng-Liêng nầy,
Đức Chí-Tôn ban cho nhơn-loại nguyên-tử-lực,
cũng do nơi Liên-Đài đó vậy.
Nếu chúng ta đến cảnh Niết-Bàn thấy cái
bí-mật là chữ " Khí ", chúng ta thấy Đức
Chí-Tôn đã để lại nơi sau lưng Hộ-Pháp
là nó đó chẳng gì khác. Nếu đoạt nguyên-tử-lực
nó là Khí-Sanh-Quang, còn tinh ba của nó là
khí sanh, của họ là Nguyên-Tử. Đức Di-Lạc
ngự trên khối Nguyên-Tử là ngôi của Ngài,
là Liên-Đài của Ngài đó vậy.
Giờ phút nầy Liên-Đài của Ngài là khối
Nguyên-Tử ai cũng muốn, ai cũng thèm cái chỗ
đó; Đức Chí-Tôn tạo cảnh đó, các Chơn-Linh
không ai mà không muốn, không thèm thuồng.
Vì vinh quang, huê hạ, phú quí, giàu sang, dầu
cho làm Chúa cả mặt địa-cầu nầy, dầu
nơi Cực-Lạc Thế-Giới cũng chưa bằng cái
cảnh giới ấy. Còn nói gì ngự được trên
Kim-Tự-Tháp, ngồi trên Liên-Đài rực rỡ
ai cũng thèm thùa, ai cũng ham, mà không phải
không có người được, được hay không là
do nơi mình. Bần-Đạo nói Đức Phật Thích-Ca
đã nói hằng hà sa số Phật, Ngài không phải
nói dối với chúng sanh đâu, có thật vậy,
không có số đếm.
Cảnh tượng ấy Bần-Đạo nói quả quyết,
cảnh tượng của Đức Chí-Tôn đào tạo để
dành cho con cái Ngài vậy. Ngôi vị ấy trước
kia ai ngồi đặng thì bây giờ mình cũng ngồi
đặng; Trước kia ai đoạt đặng thì bây giờ
mình cũng đoạt đặng, ngự đặng. Ấy là
Kim-Bàn mình cũng ngồi đặng, mà ngồi đặng
hay không cũng là do nơi căn đức của mình;
không phải của cải vô biên ấy quí báu ấy
vô giới ấy, để lựa chọn cho có người,
của ấy không phải của người nào hết,
ai cũng đặng.
Các Chơn-Linh định quyền lập vị của mình,
định quyền như ở thế gian, định quyền
bao giờ cũng có thật. Muốn làm cho đặng,
muốn có Liên-Đài nơi Kim-Tự-Tháp thì cũng
do nơi mình, chúng ta muốn mà được bền hay
không bền thì cũng do chúng ta, đó là sự
thật vậy. Chơn-Lý nó bao giờ cũng vậy.
Bần-Đạo nói trước khi vô Cực-Lạc Thế-Giới,
chúng ta sẽ gặp một đám ở ngoại-ô Cực-Lạc,
chúng ta thấy đủ thứ hết, đủ các sắc
dân trên Càn-Khôn Vũ-Trụ, không phải quả
địa cầu 68 nầy thôi đâu. Trọc cũng có,
râu dài cũng có, đủ thứ người; mà họ
đi đến Cực-Lạc Thế-Giới rồi họ gặp
một bức tường cao vọi vọi cản ngăn họ
cũng như Vạn-Lý Trường-Thành, chúng ta cũng
lấy làm bực tức cho họ. Khi chúng ta đi trên
không trung vào Cực-Lạc Thế-Giới dòm xuống
thấy họ lao-nhao lố-nhố chùm nhum lại; chùm
ba, chùm bảy, tới giờ cũng tụng kinh vậy.
Không phải nói đặng nhạo báng người ta
hay kêu ngạo người ta; mà thấy tình trạng
của họ thấy thương quá, thấy tội nghiệp
quá. Các Chơn-Hồn ấy là gì? Nếu chúng ta
thấy được triết-lý của Đức Chí-Tôn thì
không sợ cho những kẻ ấy, những kẻ ấy
là các Tăng-Đồ của các nền Tôn-Giáo, dầu
cho Tả-Đạo Bàn-Môn nhưng mà tâm-linh của
mỗi người bao giờ họ cũng hướng về Đạo-Giáo;
nhiều hạng trí-thức, nhiều Chơn-Linh siêu
thoát. Một nền Tả-Đạo, biết Tả-Đạo
Bàn-Môn đi nữa cũng có người chỉ dẫn hướng
đạo về triết-lý vừa bụng họ tinh-thần
họ, thấu đáo thiên-hạ mới theo, vì thế
mà họ theo có gì lạ đâu.
Tội nghiệp cho người ta, không phải người
ta duy-chủ, mà là người ta lầm-lạc đó,
do nơi đâu có nền Tôn-Giáo thì người ta
cứ theo không biết chơn-truyền là gì hết.
Cũng như bây giờ chúng ta thấy cạo đầu
vô chùa tu đặng thành Phật thôi chứ không
biết gì hết, lầm lạc đó do nơi đâu chỗ
nào? Chớ không phải do nơi họ, điều hại
bất ngờ cho họ là họ không thấu đáo chơn-truyền,
họ không biết cảnh Niết-Bàn thiệt-tướng
của nó, Cực-Lạc thiệt-tướng thế nào?
Biểu sao vô Cực-Lạc cho đặng, họ thật
tâm tu mà họ không vào được là tại nền
Tôn-Giáo nơi mặt thế gian nầy thất chơn-truyền,
rồi họ vì nghe, vì tin mà theo. Theo, họ cũng
đến Cực-Lạc được, duy có một điều là
họ không hưởng thiệt cảnh, họ hưởng giả
cảnh mà thôi. Họ phải ở ngoại-ô Cực-Lạc
một thời gian đặng họ biết, họ đào luyện
tinh-thần họ, họ không có tội tình gì hết,
họ chỉ đi lạc lối mà thôi, nên họ hưởng
không phải thiệt cảnh nơi Cực-Lạc Thế-Giới
hay Niết-Bàn họ chỉ ở đó ẩn thân tu luyện
một thời gian năm bảy trăm năm rồi đầu
kiếp lại tu nữa; nếu tái kiếp lại tu nữa,
chừng đó mới tìm-tàng thấu đáo chơn-truyền,
mới được nhập vào thiệt cảnh.
Bây giờ chúng ta thử hỏi gặp các bạn chúng
ta nơi Cực-Lạc Thế-Giới rủ nhau ra khỏi
Niết-Bàn cảnh, còn đi hội-hiệp nghị luận
với họ, họ gặp ta, họ vấn nạn như mấy
người Tây bên Pháp thấy mấy người bên
thuộc-địa về gặp họ hỏi thăm sự làm
ăn ra sao? Anh em thế nào? Thì các Đấng Thiêng-Liêng
kia cũng vậy, họ hỏi tình thế các Chơn-Hồn
tội phước thế nào? Họ có làm nên chuyện
hay chăng? Các Chơn-Linh có biết mình hay không
biết mình, chúng ta sẽ có một cuộc đàm
luận rất hữu tình rất may duyên.
Nhơn-loại họ gì cớ nào họ lập vị họ
khó khăn lắm vậy, chúng ta trả lời: Họ
ngờ vực, họ tưởng đến mức đó là đủ
rồi; tại họ ngờ vực, họ không biết cái
chơn-lý chỗ thiệt là chỗ nào. Họ nói dối
đã nhiều rồi, họ nghi gì lẽ gì? Họ nghi
về Niết-Bàn không có Cực-Lạc, họ nói không
có cõi Thiên-Cung, chỉ mờ ám hình bóng chứ
không có Phật, Tiên, Thánh, Thần gì hết,
họ ngờ vực. Đến chừng mình trả lời thì
họ chắc lưỡi họ than. Thấy ở thế-gian
đủ kẻ ngu người dốt, dĩ chí tới bực
thông-minh quyền phép thấu đáo cả cơ thể
Tạo-Đoan, biết lợi dụng cơ thể Tạo-Đoan
như chúng ta thấy ở thế-gian nầy vậy, thì
ở Tây-Phương Phật cũng có đẳng-cấp do
chơn-pháp tạo thành Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Nếu ở thế-gian chúng ta thấy có những bậc
cao siêu đến nước đó thì ở cảnh Thiêng-Liêng
kia cũng vậy. Sự thật hiện đã có rồi mà
còn nghi hoặc gì nữa, tại mình không thấu
đáo phẩm-vị cao siêu ấy, mờ ám là tại
mình. Ở thế-gian nầy đã có những bậc cao
siêu hơn, tinh-thần hoạt bát hơn, nhơn loại
thường thấy như Đức Phật Thích-Ca, Đức
Chúa Jésus Christ các vị Giáo-Chủ trên họ
còn ai nữa, mà chính họ còn nói: " Họ là
Vị Phật tại thế, mà trên họ còn nữa,
mình chưa ngó thấy trên cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống
nên chưa chịu tin vậy ". Chơn-Lý không tả
được. Ấy vậy, sự mờ ám ngờ vực của
họ do nơi quả kiếp của họ, họ phải chịu
thống khổ, phải chịu dưới quyền-lực của
Tạo-Đoan, chịu tấn-triển mỗi kiếp sanh
của họ, họ phải đi từ từ mà tấn-hóa
trong khuôn luật quả kiếp của nhơn-loại.
Đức Chí-Tôn có nói với con cái của Ngài:
Nếu các con biết Đạo các con tu một kiếp
thì đoạt đặng; Lời nói ấy của Đức Chí-Tôn
nói không sai, đoạt đặng cùng chăng là do
nơi mình ngó ngay Đức Chí-Tôn thì biết.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 22 tháng 03 năm Kỷ-Sửu ( 19-04-1949 )
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn
trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Kỳ trước Bần-Đạo đã dìu-dắt toàn cả
con cái của Đức Chí-Tôn về tinh-thần vào
Cực-Lạc Thế-Giới, Bần-Đạo còn đem họ
lên đặng xem Niết-Bàn cảnh, Bần-Đạo còn
chỉ cho họ ngó thấy Cực-Lạc ngoại-môn,
tưởng các chơn-pháp của Đức Chí-Tôn đến
đây là đủ. Cửu- Thiên Khai-Hóa còn trên
nữa, ít ra phải đoạt Đạo mới có quyền
đi đến. Trước khi Bần-Đạo tả mấy cảnh
trên, tưởng cũng cần phải cho toàn cả con
cái của Ngài đặng hiểu biết con đường,
đặng một ngày kia có qui liễu thì đã hiểu
rõ khỏi sợ sệt, khỏi ngập ngừng bước
tấn-hóa của mình. Bần-Đạo nên nhắc lụn
lại một điều trọng-yếu, duy thuộc về
phận sự đặc-biệt của Bần-Đạo. Bần-Đạo
phải làm ở trỏng, có ảnh hưởng đến các
nền Tôn-Giáo, nhứt là nền Phật-Giáo. Chúng
ta từ Thượng-Cổ đến giờ, tu thì nhiều
mà thành chánh-quả thì ít, cái nguyên-lý ấy
là tại Đạo bị bế. Bần-Đạo chưa có duyên
phần đặng vấn nạn hay luận-thuyết với
các Đấng Thiêng-Liêng, đặng Bần-Đạo có
hỏi cho tận tường.
Khi ở Ngọc-Hư-Cung Linh-Tiêu-Điện, Bần-Đạo
được Thánh-Lịnh của Đức Chí-Tôn sai qua
mở Cực-Lạc Thế-Giới. Buổi ban sơ, tinh-thần
của Bần-Đạo còn hoang mang, không có biết
sao lại còn có bổn phận đi mở Cực-Lạc
Thế-Giới nữa, Cực-Lạc Thế-Giới là gì?
Sao lại phải đi mở? Bần-Đạo tự hỏi.
Tới chừng đi rồi mới biết tình-trạng của
các Đẳng Chơn-Linh đã đoạt-vị trong Càn-Khôn
Vũ-Trụ chịu nạn khảo-thí do nơi Kim-Quan-Sứ,
Kim-Quan-Sứ đã được Đức Chí-Tôn cho làm
Giám-Khảo kỳ thi Hạ-Ngươn Tam-Chuyển qua
Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển nầy. Kim-Quan-Sứ
là ai? Bên Thánh-Giáo Gia-Tô gọi là Quỉ-Vương
đó vậy.
Kim-Quan-Sứ là một vị Đại-Tiên có quyền
hành đem ánh sáng Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn
chiếu diệu trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, vị Đại-Tiên
ấy gấm-ghé bước vào Phật-Vị. Cái quyền-năng
của Ngài đoạt đặng tưởng không thua kém
Đức Chí-Tôn là bao nhiêu, do cái tự-kiêu
tự-trọng còn một bước đường nữa mà
đoạt không đặng. Nếu người nhường là
nhường Đức Chí-Tôn mà thôi. Vì người hám
vọng, tự-tôn tự-đại, gọi cả quyền-năng
của Đức Chí-Tôn người không nhường, tức
nhiên người đủ quyền-năng hơn Đức Chí-Tôn
mà chớ, vì cớ cho nên Ngài dành quyền trọng
đại muốn cầm một quyền-lực để điều
khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ, chưa đoạt đặng
mà Ngọc-Hư-Cung đã biết tinh-thần Kim-Quan-Sứ
muốn phản phúc.
Phản phúc dám đối diện cùng Đức Chí-Tôn,
mà Ngọc-Hư-Cung đã biết cho làm Thống-Đốc
một thế-giới của chúng ta đương thời bây
giờ. Thế-giới địa hoàn nầy, nếu như người
mà không có tự-kiêu, tự-đại; cái chức
tước dù cho quả là làm Tổng-Thống của
một Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng không phải là hèn-hạ
gì. Người không vừa, phản lại mới bị
đọa vào Quỉ-Vị. Nếu chúng ta muốn biết
cái tình trạng của Kim-Quan-Sứ, đoạt quyền
Thiên-Cung buổi nọ thì coi trong quyển Chơn-Truyền
Thánh-Giáo Gia-Tô buổi nọ thì chúng ta thấy
rõ.
Ngày giờ nầy, Đại-Tiên Kim-Quan-Sứ đã đặng
ân xá, cũng như các Đẳng Chơn-Linh được
ân xá, bởi vì trong Quỉ-Vị cũng được hưởng
Hồng- Ân Đức Chí-Tôn ân xá cũng như toàn-thể
các Chơn-Hồn trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Vì cớ
cho nên, người Chúa Quỉ đàng ấy còn lãnh
một phận-sự tối trọng, tối yếu là làm
Giám-Khảo dượt Chư Tiên đoạt phẩm-vị
Phật.
Vì cớ cho nên người có giáng-cơ trong buổi
Đạo đương bình tịnh, cả thảy Thánh-Thể
của Đức Chí-Tôn đương hòa ái với nhau,
không có tâm-tánh gì phản động; chưa có
một mảy may gì gọi là loạn, họ còn giữ
theo nề-nếp chơn-truyền của Đức Chí-Tôn
mà thinh không Kim-Quan-Sứ giáng-cơ cho một
bài thi chẳng khác nào như tìm đến Thánh-Thể
của Đức Chí-Tôn mà liệng một tối hậu
thư; bài thơ ấy như vầy:
"
Cửu phẩm Thần-Tiên nể mặt ta,
Thích-Ca dầu trọng khó giao hòa;
Cửa Kinh Bạch-Ngọc năng lui tới,
Đường Đạo Tây-Phương thử chánh tà ".
Ngó
thấy quyền của người ta như thế đó, hại
thay! Đường đi từ Ngọc-Hư-Cung qua Cực-Lạc
Thế-Giới buổi nọ bị Người ngăn đường
không cho người ta đi qua, bằng không thì trở
lại, theo chúng ta lấy tình thật thì Đạo-Giáo
sẽ chỉ điều ấy, cũng không có lạ gì với
Đức Chí-Tôn.
Đấng
mà dám đưa tay cho kẻ thù nghịch định phận,
quyền năng đường ấy để khảo dượt toàn
con cái của Ngài, tức nhiên là khảo-dượt
Ngài đó; mà Ngài không có nao không có sợ.
Chúng ta đủ biết quyền phép của Đức Chí-Tôn
hơn quyền phép Kim-Quan-Sứ thế nào? Hơn nhiều
lắm.
Đối
với tinh-thần nhơn-loại đương nhiên bây
giờ, đáng lẽ Đức Chí-Tôn gìn-giữ kỹ
càng cho lắm, nhưng Đức Ngài không cần để
tâm giữ cho kỹ lưỡng điều đó mà chớ.
Bởi cớ cho nên khi mở Đạo, tại Từ-Lâm-Tự
Đức Ngài đến, Đức Ngài cầm cơ viết tên
Ngài, rồi Ngài liền thăng. Ngài cho Quỉ đến
đặng phá khảo-dượt, phá cho tiêu nền chơn
giáo của Ngài. Ngài đã cho phép làm, nó vẫn
thi hành chứ không sợ sệt e lệ gì không
làm. Kim-Quan-Sứ đã thi hành trong hai mươi
mấy năm, cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn và toàn
thể con cái của Ngài nam, nữ cũng thế, đang
bị tay Người làm tàn hại; đủ mưu lược,
đủ mưu chước đặng hại cho thất Đạo.
Không một điều gì, không một mưu chước
gì mà Người không dùng, không mưu chước
gì Người không làm đặng tàn phá Thánh-Thể
của Đức Chí-Tôn. Nhưng không phải dễ dầu.
Quyền lực Kim-Quan-Sứ bao nhiêu đi nữa cũng
chưa qua khỏi cái mức của Đức Chí-Tôn đã
gạch sẵn cho con cái của Ngài đi, thì chúng
ta ngó thấy đủ bằng cớ đoạt được.
Ngộ-nghĩnh thay! Tuy biết hay là không biết
mình không chịu cho Kim-Quan-Sứ biết, Đức
Chí-Tôn cho thử con cái của Ngài đặng bỏ
cái phàm lấy cái Thánh.
Bần-Đạo đọc truyện sử còn nhớ buổi
nọ, trước khi Hàn-Tín vào Quang-Trung, Trương-
Tử-Phòng có đưa cho một giác-thư đặng được
trọng dụng. Ngài đã đưa gươm Hùng-Kiếm
tức nhiên là gươm Thư-Hùng ( gươm nầy chỉ
có một cặp, mà một cây thì Tiêu-Hà đã
giữ, còn một cây đưa ra cho người đến
Hớn-Bái-Công đặng nhìn Hàn-Tín thâu cho làm
Soái đăng đàng bái tướng. )
Hàn-Tín đã đặng giác thơ của Trương-Tử-Phòng
lập thân danh mà không biết thế nào người
lại yểm giác thơ ấy đi, quyết lấy tài
mình thi thố làm cho Hớn-Bái-Công trọng dụng
không cần phải có người tiến dẫn bằng
một giác thơ.
Hại thay! Con người ta muốn tự mình cho người
ta biết không phải dễ, cho nên Hàn-Tín bị
khảo-dượt, lấy tài bao nhiêu đi nữa cũng
không qua cái thời mà thôi. Cậy tài không
được trái lại còn gặp Giám-Khảo là Phàn-Khoái
làm cho Hàn-Tín trổ tài trí không được,
rốt cuộc lập kế gọi là: " Ly gián ", nữa
đêm thoát lên ngựa về Quang-Trung, tới chừng
Tiêu-Hà hay chạy rượt theo kịp, chừng đó
mới chịu đưa giác thư. Vì cảnh tự tôn,
tự đại mới ra đến thế, mà cũng có cái
cao thượng, nhưng rốt cuộc rồi cũng phải
chịu khảo-dượt mới lập thân danh được
hay giá-trị được.
Người thứ nhì nữa là Phụng-Sồ cũng y như
vậy, bị Trương-Phi làm giám-khảo thành thử
lập thân danh của người cũng không phải
do tài đức của mình. Đức Chí-Tôn có thể
định được cho mình, mà chính mình phải
lập quyền do tài đức của mình. Đức Chí-Tôn
có thể định vị cho mình mà mình phải lấy
đạo-đức của mình mà lập phẩm-vị, tức
nhiên mình phải chịu khảo-dượt, phải thi
thố cho đậu mới đoạt đặng phẩm-vị cao
siêu của mình. Rớt phải chịu đọa lạc
không thế gì chối cãi được, giám-khảo
ấy rất khó.
Theo cái chơn-pháp của Ngài còn khó định;
huống chi Kim-Quan-Sứ người tự tôn tự đại,
không có Đấng nào hoặc một Chơn-Hồn nào
tới lo lót cho Kim-Quan-Sứ để cho họ đoạt
được đâu. Bởi cớ cho nên, Bần-Đạo phải
thuật buổi mà Bần-Đạo do Thánh-Lịnh của
Đức Chí-Tôn đi mở Cực-Lạc Thế-Giới.
Buổi ấy, Bần-Đạo đi với cái Pháp-Bửu
bằng Vân-Xa, đi ngang qua từ Ngọc-Hư-Cung đến
Cực-Lạc Thế-Giới. Khi Vân-Xa đi ngang qua
đó bị Kim-Quan-Sứ đón đường không cho đi,
Bần-Đạo đương bối-rối không biết tính
làm sao; liền khi ấy ngó thấy Đức Lý-Minh-
Vương trong Pháp-Thân của Đức Quyền Giáo-Tông
Thượng-Trung-Nhựt cầm cây gậy cà thọt nhảy
ra chiến-đấu với Kim-Quan-Sứ, Bần-Đạo
ngó thấy cà ạch cà đuội, chơn cụt chơn
dài nhảy cà quơ cà quơ.
Bần-Đạo ngồi trên Vân-Xa suy nghĩ Đức Lý-Minh-Vương
có một mình mà làm sao đánh lại người ta,
thấy ban đầu có một mình Đức Quyền Giáo-Tông
tức Đức Lý-Minh-Vương. Bên kia Kim-Quan-Sứ,
hai đàng đánh với nhau không phân thắng bại,
bửu-bối không biết bao nhiêu mà bất phân
thắng bại, hồi lâu ngó thấy Đức Lý-Minh-Vương
đập Kim-Quan-Sứ một gậy, đập văng hào
quang ra đen như lọ nồi, như đập bể bình
mực văng túa sua ra vậy, đập thấy biến
ra người thứ nhì nữa. Đàng nầy cả trong
Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn có một Vị Chức-Sắc
Thiên-Phong mà tôi không nói tên, ra cản lại
đánh với người thứ nhì đó. Kim-Quan-Sứ
biến ra bao nhiêu thì bên nầy cũng hiện ra
bao nhiêu để đánh với nhau; một trận đại
chiến náo nhiệt. Bần-Đạo ngồi trên Vân-Xa
cũng như người ngồi trên máy bay mà khán
trận vậy. Dòm riết mỏi mòn buồn ngủ, ngủ
đi rồi thức dậy thấy cũng còn đánh; ngồi
lâu lắm gục xuống ngủ nữa, làm ba lần
như vậy, tới chừng lần thứ ba tỉnh lại
thấy mặt trận đầy Càn-Khôn Vũ-Trụ; lớn
quá bên mình không biết làm thế nào mà chiến-đấu
cho lại, không lẽ ngồi trên Vân-Xa nầy hoài,
phải có phương-pháp gì giúp tay mới đặng.
Bần-Đạo vừa nghĩ như vậy, thì Pháp-Thân
Bần-Đạo hiện ra một Người nữa, hồi Bần-Đạo
ngồi trên Vân-Xa mặc cái áo trắng, bịt khăn
trắng y như cái đạo phục của Tôi mặc đi
cúng thường ngày đây; làm bằng gì không
biết mà mặc vào mình rồi nghe trong mình nhẹ-nhàng
sung-sướng làm sao đâu. Tới chừng xuất Pháp-Thân
của Tôi ra, Tôi ngó thấy mặc đồ Đại-Phục
mà tôi đang nhái theo, làm theo kiểu đó mà
cũng chưa thiệt trúng.
Mặc đồ Đại-Phục rồi tay cầm cây Giáng-Ma-Xử
với cây Kim-Tiên bay giữa không trung ở trên
đầu có người ngồi dưới Vân-Xa. Có một
điều là người ngồi dưới và người ngồi
trên biết hiểu như một người vậy. Dòm
thấy mặt trận lớn quá, mới cầm cây Kim-Tiên
( còn cây Giáng-Ma-Xử thì không có hình tướng
) pháp-bửu ấy vô vi. Cây Kim-Tiên của Cửu-Tiên
Cảm-Ứng Lôi-Âm Phổ-Hóa Thiên-Tôn, tức nhiên
là của Đức Thái-Sư Văn-Trọng, Ngài giao
cho Tôi một cây Pháp-Giới ( chừng vô nhà
tịnh mới ngó thấy ). Pháp-Giới ấy triệt
Quỉ đừng cho nó lộng trong Đền-Thánh của
Đức Chí-Tôn và đừng cho nó phá con cái của
Ngài.
Đến
chừng bay giữa không trung, thấy minh mông không
biết làm sao gom lại được, để vậy đánh
khó thắng lắm. Ai ngờ tôi cầm cây Kim-Tiên
định vẽ vòng gom lại thì chẳng khác nào
giải cái chài vậy. Tôi cầm cây Kim-Tiên định
thần gom lại, vừa gom thì nó thúc nhặt mặt
trận ấy lại nhỏ lần lần thấy đàng ta
đã thắng Kim-Quan-Sứ.
Bên Đạo của chúng ta tức là Lý-Minh-Vương
đã diệt được bên Kim-Quan-Sứ, tới chừng
rốt cuộc chỉ còn Đức Lý-Minh-Vương đánh
với Kim-Quan-Sứ mà thôi, đánh với nhau một
hồi, Đức Lý-Minh-Vương đập Kim-Quan-Sứ
một gậy thì Kim-Quan-Sứ hóa hào-quang đằng
vân bay đi mất.
Đi
qua Cực-Lạc Thế-Giới phải chăng vì lẽ
ấy trong Đạo-Giáo nói " Đạo bị bế " phải
chăng là vì lẽ đó.
Còn nói nữa, khi tới cửa Cực-Lạc Thế-Giới
môn-ngoại, khi gần tới thấy có hai cái chong
chóng quay tròn luôn, nếu chúng ta lấy trí
tưởng-tượng chong chóng quay thì mặt dưới
lên tới mặt trên ít nữa nó cũng năm mười
ngàn thước đặng ngăn Cực-Lạc Thế-Giới
môn ngoại như Vạn-Lý Trường-Thành không
có một người nào qua lọt. Hai cửa ấy; một
cửa hóa ra hào-quang trắng, một cửa hóa ra
hào-quang đỏ hồng hồng. Mới ngó thấy hai
cửa ấy Tôi không biết gì hết, ấy là hai
cái cửa, tới chừng Tôi dùng cây Giáng-Ma-Xử
trong thân Tôi định thần chỉ ngay vào bảo
ngừng thì nó liền ngừng lại, coi kỹ vòng
tròn trắng ấy là chữ Vạn. Tôi vừa biểu
ngừng thì mấy người ở Môn-Ngoại Cực-Lạc
chạy ùa vào, chừng vô được một mớ, Bần-Đạo
lại chỉ phía bên kia biểu ngừng thì cũng
chạy ùa vô được một mớ nữa. Vô rồi
thấy có một Vị Phật đứng ở trên hai tay
bắt ấn liệng xuống chữ Vạn thì chữ Vạn
quay nữa, thành thử các Đẳng chơn hồn chỉ
vô được một mớ thôi. Khi Tôi bắt đứng
hai chữ Vạn lại, phải chăng vì nơi Cực-Lạc
Môn-Ngoại có các Đẳng chơn-hồn đã đoạt-vị
mà bị Pháp-Giới đã bế, khiến cho Tôi đi
đến đó đặng bắt hai chữ Vạn ngừng lại
cho họ vào, tới chừng Vị Phật kia cho hai
chữ Vạn chạy lại Tôi dám chắc các Đẳng
Chơn- Hồn vô cửa Cực-Lạc Thế-Giới đã
hết. Đó là do Thánh-ý của Đức Chí-Tôn
chớ không phải theo con mắt của chúng ta tưởng,
đó là sự tình cờ. Ấy vậy, Đức Chí-Tôn
sai qua mở cửa Cực-Lạc Thế-Giới bởi hai
nguyên do:
1- Vì đường từ Linh-Tiêu-Điện, Ngọc-Hư-Cung
qua Cực-Lạc Thế-Giới buổi nọ bị Kim-Quan-Sứ
đón đường.
2- Các Vị Tăng-Đồ từ trước có tu mà thành
thì không thành, vì bị thất Pháp-Bửu nên
bị đồ lưu nơi Cực-Lạc Môn-Ngoại. Đức
Chí-Tôn biểu qua đó dẫn các Chơn-Hồn dành
để cho có ngôi-vị nơi Cực-Lạc Thế-Giới.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 26 tháng 03 năm Kỷ-Sửu ( 23-04-1949 )
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự dục-tấn
của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo giảng tiếp kể từ Cung Tạo-Hóa
Huyền-Thiên tức nhiên Cung Đức Phật-Mẫu,
Phi-Tưởng Diệu-Thiên cho tới Hư-Vô Cao-Thiên
cầm quyền giải-thoát cho Vạn-Linh.
Quyền ấy, quyền Thiêng-Liêng không cho Bần-Đạo
nói mà may thay trong kinh đã có minh tả không
lạ gì, đã có minh tả rồi nói thêm nó cũng
thừa không ích. Duy có Cung Hỗn-Ngươn Thượng-Thiên
chúng ta đương thấy giờ nầy đương trong
Đệ Tứ-Chuyển nầy, Thượng-Ngươn Đệ-Tứ-Chuyển
nầy giao quyền Chưởng-Quản trị phần hồn
và phần xác của Càn-Khôn Vũ-Trụ do nơi tay
của Đức Di-Lạc Vương-Phật mà trong Cung
ấy là Cung chúng ta thấy mặt Đức Chí-Tôn
tức nhiên gần Đức Đại-Từ-Phụ hơn hết.
Khi giảng phần Ngọc-Hư-Cung, Linh-Tiêu-Điện
Bần-Đạo có nói Đức Chí-Tôn tức nhiên
Đại-Từ-Phụ, nhưng khi đến Ngọc-Hư-Cung
là Vị Thượng-Hoàng mà thôi, chớ không phải
Đại-Từ-Phụ. Cung Hỗn-Ngươn-Thượng-Thiên
Ngài đến với hình-thể danh-từ là một Vị
Đại-Từ-Phụ, chúng ta ngó thấy như dân Do-Thái
được đoạt-pháp đã qui-liễu được về
Cung Hỗn-Ngươn Thượng-Thiên thì thấy Đức
Chí-Tôn tức nhiên Đại-Từ-Phụ hiện hình
là Jehovah giáo-hóa họ, đồng sống với họ.
Bần-Đạo dám chắc được hạnh-phúc đó
không Chơn-Linh nào không mơ ước. Chúng ta
là người Tàu, nếu đoạt-pháp về được
nơi Cung Hỗn-Ngươn Thượng-Thiên thì chúng
ta thấy Đức Đại-Từ-Phụ đến với hình
ảnh Hồng-Quân Lão-Tổ. Người Ấn-Độ tùy
theo trường hợp hành động của họ mà Đức
Đại-Từ-Phụ sẽ đến với hình ảnh Brahma,
Civa, hay là Christna.
Cung ấy là Cung Vạn-Linh hiệp Nhứt-Linh đó
vậy. Cung ấy là Cung Chánh-Pháp của Đạo
Cao-Đài để tại mặt thế nầy cho nhơn-loại
đoạt đến. Chúng ta thấy nơi Cung ấy Đức
Chí-Tôn cho những kẻ dầu đoạt-pháp hay không
đoạt-pháp, cũng vẫn về hiệp một cùng Đức
Chí-Tôn, rồi chính mình Ngài đến đặng giáo-hóa,
đặng dạy-dỗ; chính mình Ngài đến đặng
cùng chung sống với con cái của Ngài. Trong
buổi giáo-hóa, Ngài không tiếc chi với con
cái của Ngài. Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn tức
nhiên là Đức Chưởng-Đạo có nói:
"
Làm Cha nuôi nấng ân cần,
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên
".
Nếu chúng ta muốn thấy hiện-tượng ấy là
khi đến Cung Hỗn-Ngươn Thượng-Thiên chúng
ta mới ngó thấy được hạnh-phúc ấy.
Lại nữa: Nơi Cung Hỗn-Ngươn Thượng-Thiên
cốt yếu là nơi chung hợp cùng các Đấng
Chơn-Hồn Cao-Siêu, trí-thức thông-minh; kể
từ Bậc Tiên-Thiên cho đến Phật Vị đều
đến ở nơi đây. Ở nơi đây đặng tạo
dựng đại-nghiệp của mình. Cả toàn-thể
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hoặc tiêu-diệt hoặc
biến sanh cũng do nơi đó cầm chơn-pháp quyết
định.
Nơi đây là nơi quyết định chương trình
Long-Hoa Đại-Hội của toàn-thể Vạn-Linh trong
Càn-Khôn Vũ-Trụ. Bởi cớ về nơi đó thấy
họ thì thầm tưởng niệm không giờ phút
nào xao lãng, không giờ phút nào không niệm
danh của Đức Chí-Tôn, sống trong Đức Chí-Tôn
và hình ảnh hiệp một cùng Đức Chí-Tôn
vì cớ cho nên Đạo Pháp nhà Phật đã nói:
Nếu chúng ta đã xuất hiện ra, biến tướng
ra đến ngày giờ nào chúng ta trở lại đặng
tức nhiên là ngày ấy chúng ta đoạt-pháp,
đoạt Đạo đó vậy.
Ấy
vậy nơi Cung Hỗn-Ngươn Thượng-Thiên gọi
là Cung-Định, Cung Pháp? Bởi cớ Cung ấy Vạn-Linh
phải hiệp cùng Chí-Linh. Hình ảnh của Đức
Chí-Tôn tên tuổi của Ngài, chúng ta đã ngó
thấy các vị Đại-Tiên ngự nơi đó, chính
nơi đó là Cung Hỗn-Ngươn Thượng- Thiên.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ dắt con cái của Đức
Chí-Tôn qua Bạch-Ngọc-Kinh là hình ảnh của
Bát-Quái-Đài chúng ta để tại mặt thế-gian
nầy.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 30 tháng 03 năm Kỷ-Sửu ( 27-04-1949 )
Bần-Đạo hôm nay giảng tiếp dục-tấn của
chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo xin cả thảy đều để ý buổi
thuyết-giảng hôm nay cho lắm, vì nó có Bí-Pháp
đoạt Đạo trong ấy; phải để tâm hạng
nhứt là nghe và nhớ; trụ cả đức-tin mình
nơi Đức Chí-Tôn đặng đoạt cơ giải-thoát,
chúng ta tu chỉ mong có bao nhiêu đó, cần yếu
tu là chắc đoạt được cơ-quan giải-thoát
mà thôi.
Kỳ rồi Bần-Đạo có dẩn toàn thể tinh-thần
con cái của Đức Chí-Tôn được vào Cực-Lạc
Thế-Giới nhứt là chúng ta được xem biết
rõ Kim-Tự-Tháp.
Đêm
nay Bần-Đạo rủ cả thảy vô Lôi-Âm-Tự
cũng như Bần-Đạo đã đến trình diện với
Đức Di-Đà. Bởi Đức Di-Đà đã giao quyền
lại cho Đức Di-Lạc, giao quyền Chưởng-Quản
Càn-Khôn Vũ-Trụ, Đức Di-Lạc ngồi ngự nơi
Kim-Tự-Tháp, còn Đức Di-Đà trở vào ngự
nơi Lôi-Âm-Tự. Khi đến đó chỉ học các
triết-lý Phật-Giáo từ tạo thiên lập địa
đến giờ. Cả triết lý ấy để tại mặt
thế-gian nầy; duy nhơn-sanh không có tu nên
không có đoạt-pháp, không có điều gì bí
ẩn cả, Phật-Giáo cơ giải-thoát cũng để
tại mặt thế-gian nầy. Từ Thượng-Cổ cho
đến giờ chỉ có nền Phật-Giáo tối cổ
nhứt, một nền Tôn-Giáo mẹ của các nền
Tôn-Giáo khác; vào đây Bần-Đạo được nghe
thấy thuyết-pháp của Đức Di-Đà nơi đó
là nền Tôn-Giáo tối cổ của nhà Phật.
Khi Bần-Đạo đến Lôi-Âm-Tự, liền khi đó
Bần-Đạo nghe tiếng chuông kêu, trong tiếng
chuông ngân ấy, lại có tiếng biểu Bần-Đạo
phải lên Pháp-Xa tức nhiên là Vân-Xa đặng
đi đến Bạch-Ngọc-Kinh, hai bên có hai Tiên-Nữ
và Thần-Đồng điều khiển cái Pháp-Xa ấy
thúc dục Bần-Đạo đi, Bần-Đạo dòm thấy
dường như họ hối-hả thúc dục Bần-Đạo
lên Pháp-Xa ấy đặng đi.
Ngày kia vào nhà tịnh có rỗi thì giờ Bần-Đạo
sẽ tả cái Tướng và cái Hình của nó khi
Pháp-Xa ấy giong ruổi trên con đường Thiêng-Liêng
Hằng-Sống ấy, khi Bần-Đạo đi ngang qua Cung
Hỗn-Ngươn Thượng-Thiên là nơi Đức Di-Lạc
đã thâu Pháp, đã định-vị nơi ấy.
Bần-Đạo có tả mà trong tâm còn mơ hồ không
biết tại sao, vì lẽ gì Đức Phật-Mẫu là
Mẹ phải chịu dưới quyền con là Đức Di-Lạc,
trong bụng có hơi bất mãn. Liền khi ấy Bần-Đạo
ngó thấy cái Tướng, Hình của Đức Phật-Mẫu
đứng đàng trước, còn Đức Di-Lạc ở đàng
sau lưng quỳ xuống đưa hai bàn tay lên đặng
tỏ cho Bần-Đạo hiểu dầu cho người con
ấy mạnh-mẽ, quyền hành thế nào mà quyền
Mẹ vẫn là quyền Mẹ không thể gì qua được.
Ngài chỉ tuân theo mạng lịnh của Đức Phật-Mẫu
đặng trị thế mà thôi. Bần-Đạo giong ruổi
luôn không có dừng lại, cái Pháp-Xa ấy đi
mãi mãi trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống
không thế gì luận cái thời-gian ấy đặng.
Thoạt tiên chúng ta thấy phía xa xăm có ánh
sáng chói dọi cũng như mặt trời mọc buổi
sáng, đàng xa xăm ngó thấy có một ánh sáng
chiếu diệu cũng như một vừng thoại khí.
Khi Pháp-Xa của Bần-Đạo đến thấy hào-quang
chiếu diệu chói vào Pháp-Xa sáng rỡ, dường
thể ánh sáng đèn pha ở thế-gian nầy vậy.
Hào-quang ấy chiếu vào mình của Bần-Đạo,
trong mình của Bần-Đạo xuất hiện một bóng
hào-quang trở lụn lại lạ lùng lắm. Pháp-Thân
đi đến chừng nào thì sự vui sướng trong
mình càng tăng lên mãi. Ngồi trên Pháp-Xa ấy
mà Bần-Đạo mê-man không biết mình ở nơi
nào, sự vui sướng vô cùng tả, không thể
nào tả bằng ngôn-ngữ cho hết đặng. Lại
gần tới còn thấy một vật khác thường
quái lạ, nhưng nó là một Tòa Thiên-Các đẹp-đẽ
lắm, màu sắc đổi thay sáng rỡ; mà cả thoại
khí bao quanh làm như thế vận chuyển hình-trạng
của nó vậy.
Lầu đài chớn-chở mà nó là con vật sống
chớ không như gạch đá của chúng ta làm đây,
nó vận hành như con vật sống vậy; thay đổi
màu sắc vô cùng vô biên, Bí-Pháp ấy không
thể gì tả đặng, ngó thấy đặc sắc lắm.
Nhà cửa ở thế-gian nầy là con vật chết,
nơi Bạch-Ngọc-Kinh là con vật sống, biến
hóa thay đổi như thế vận hành, chung quanh
thoại khí bao trùm từ Nam chí Bắc, từ Đông
qua Tây. Khói lửa ánh sáng ấy chúng ta thấy
như mặt trời vậy, mà ánh sáng mặt trời
thì nóng nực, bực bội; còn ánh sáng nơi
Tòa Bạch-Ngọc-Kinh lại dịu-dàng và huyền-bí
lắm, sung sướng khoái lạc lắm.
Tại sao đài các nó là con tử vật mà nó
sống? Sống là do nơi đâu? Nếu biết được
thì không có gì lạ.
Nơi Bạch-Ngọc-Kinh nó là Hổn-Ngươn-Khí,
biến hình Hổn-Ngươn-Khí ra là Khí Sanh- Quang
của chúng ta đã thở, đã hô hấp, khí để
nuôi sống cả sanh linh vạn-vật, ta sống cũng
do nơi nó xuất hiện mà biểu làm sao không
sống.
Khi Bần-Đạo ngồi trên Pháp Xa đến thấy
các Chơn-Linh hằng-hà sa số, bao vây trước
cửa la-liệt không thể đếm. Pháp Xa vừa
ngừng Bần-Đạo bước xuống thấy ba cửa
nơi Bạch-Ngọc-Kinh có mười hai vị Thời-Quân
mặc khôi giáp tay cầm Bửu-Pháp đứng cản
đường không cho thiên-hạ vô, Bần-Đạo giận
quá chừng quá đổi. Ba cửa ấy xa nhau, mỗi
cửa có bốn người giữ; Bần-Đạo muốn
nói chuyện thì ba cửa ấy gom lại, mười
hai người họp lại đứng trước mặt Bần-Đạo,
Bần-Đạo hỏi vì cớ nào không cho người
ta vô? Vừa hỏi thì họ bỡ-ngỡ nói Người
ta biểu đừng cho vô, nói Người ta biểu thì
Bần-Đạo liền biết là Kim-Quang-Sứ biểu
nó xúi nó đừng cho các Chơn-Linh được vào
Bạch-Ngọc-Kinh. Giận quá quay mặt ra ngoài
biểu các Chơn-Linh vô, họ tràn vô nghe một
cái ào, dường như nước bể bờ chảy tràn
vào Bạch-Ngọc-Kinh vậy. Tới chừng các Chơn-Linh
vô hết, liền biểu mười hai vị Thời-Quân
ấy vô, biểu họ đi rồi, Bần-Đạo đứng
dòm cùng hết thảy coi còn ai ở ngoài nữa
không.
Bần-Đạo vác cây Giáng-Ma-Xử đi vô Bạch-Ngọc-Kinh
sau hết. Bạch-Ngọc-Kinh chia ra làm ba căn,
cửa chính giữa các Vị Phật cao siêu ngự,
mình đứng day vô, phía bên tả là phái Nữ,
phía bên hữu là phái Nam, Bần-Đạo nghe đi
rần rần rộ rộ bên kia, hình bóng thì chỉ
thấy chiếu qua vách mà thôi, tấm vách thật
lạ lùng trong trắng giống như sương sa vậy.
Buổi đầu Bần-Đạo không để ý đi tới
nữa thấy cả thảy đều có ngôi-vị của
họ sẵn, Bần-Đạo vô cửa thấy họ ngồi
có chỗ hết, còn mình bơ thờ vác cây Giáng-Ma-Xử
đi vô không biết đi đâu. Nói sao người ta
có chỗ ngồi còn mình không có? Vừa nói rồi
thì thấy có người đứng gần bên mình mà
không hay, họ trả lời: Cái Ngai của Ngài
kia, Bần-Đạo dòm lên thấy cái Ngai tốt lắm;
thấy rồi mà trong bụng hồ nghi, không biết
họ có gạt mình không? Bần-Đạo sợ bị
họ gạt phá, vừa sợ thì có người nói:
" Chính cái Ngai đó là của Ngài ".
Từ thử đến giờ, dầu vạn kiếp sanh chịu
khổ để tạo vị nơi mặt thế-gian nầy cũng
không bằng ngồi được lên đó, nơi đó sung-sướng
lắm, sung-sướng làm sao đâu! Trong bụng nói
làm sao lên được trên đó, vừa tính rồi
thì dường như có nấc thang Bần-Đạo lên,
ngồi rồi thì thấy trước mặt của mỗi
người đều có vật ăn và rượu để uống;
Bần-Đạo nói sao họ có ăn còn mình không
có. Vừa nói rồi thì có một trái Đào Tiên
và một chung Tiên Tửu. Ở đó tưởng, muốn
cái gì đều có hết, nhứt nhứt không có
món gì mình tưởng muốn mà không có, tôi
tưởng ở thế-gian dầu muôn triệu kiếp sanh
cũng chưa có cái sang trọng sung-sướng dường
đó.
Long-Hoa-Hội đó! Long-Hoa-Hội chúng ta đang
ngự tại Bạch-Ngọc-Kinh đó vậy. Đức Chí-Tôn
cho Bần-Đạo thấy trước và ngó thấy các
Chơn-Linh ngự trước đó đặng ngày kia con
cái của Ngài cũng ngự như vậy. Bần-Đạo
làm chứng đặng nói lại với con cái của
Ngài. Tôi tưởng nếu chúng ta đoạt được
cơ giải-thoát về hiệp một cùng Đức Chí-Tôn
được ngồi hưởng ngôi-vị nơi đó. Chúng
ta chịu đầu thai chịu cái khổ của đời
mà lập-vị mình, đối với cái khổ hạnh
muôn kiếp của mình nó trả lụn lại một
cách vô đối. Nếu có thấy mới tưởng-tượng
rằng Đức Chí-Tôn chẳng hề khi nào chịu
thiếu nợ ai cả.
Rất hạnh-phúc cho kẻ nào dám cả gan cho Ngài
vay, rất hạnh-phúc cho những kẻ nào biết
yêu ái, biết làm tôi tớ cho Ngài; Ngài sẽ
đáp lại cái ơn ấy cho mình; tới chừng Đấng
ấy làm tôi tớ lại cho mình, trả lại cho
mình thì không có cái hạnh-phúc hay giá-trị
gì ở mặt thế-gian nầy bằng đặng. À bây
giờ nói đến mấy Bà ở bên kia, bên nây
chỉ thấy cái bóng của họ đi mà thôi, không
biết tại sao dựng tấm vách cản ngăn không
cho thấy, không biết tại sao vậy? Giận tấm
vách ấy quá chừng, lại gần coi như sương
sa vậy; thò tay vào thì nó lủng, rút tay ra
thì nó nhíp lại bằng cái gì không biết.
Bấn-Đạo lại có tánh tọc mạch, giận quá,
muốn làm sao cho ngó thấy bên kia; trong bụng
vừa tính như vậy, thinh không nó chạy vẹt
ra một bên, chừa một chỗ trống ngó thấy
bên kia toàn Nữ phái không; thấy sung-sướng
làm sao đâu, sung-sướng lắm mấy Bà ơi. Bên
Nam thế nào thì bên Nữ cũng vậy.
Trên cảnh đó họ lịch-sự lắm, vì cái Pháp-Thân
của họ thiên biến vạn hóa, nơi Bạch-Ngọc-Kinh
nên họ lịch-sự lắm, không biết thế nào
mà họ lịch-sự quá vậy. Mấy Bà muốn lịch-sự
thì ráng tu đặng về cảnh ấy sẽ lịch-sự
( đẹp ) chớ ở thế-gian nầy không có gì
lịch-sự đâu!
Kể từ ngày Bần-Đạo hội được Long-Hoa-Hội
Thiêng-Liêng rồi thì không còn muốn sống
nữa, muốn chết đặng có về cảnh ấy, ham
chết làm sao đâu; ở càng thấy thêm bực
bội, trông cho nó chết, chết đặng có về
cảnh ấy mà thôi, mà chết không đặng.
Nếu ai không phải tinh-thần cao siêu, thì Đức
Chí-Tôn không dám cho họ ngó thấy, Tôi tưởng
họ điên đi mà chớ, hay họ tự vận đặng
về cảnh ấy, đặng hưởng sung-sướng; tự
vận về cảnh ấy không đặng; trái lại còn
phải xuống Uổng-Tử-Thành ở một thời gian
để đền tội rồi đầu thai trở lại nữa,
ráng tu rồi về, đừng có nóng nảy; hạng
nhứt là mấy người ở trên núi kia ( mấy
Ông Đạo núi ) cạo đầu tròn vo, không phải
làm như thế mà đặng đâu, đừng có lật
đật.
Khi Bần-Đạo vào trong muốn biết Đức Đại-Từ-Phụ
là ai? Ông nầy có phải là Đức Ngọc-Hoàng
Thượng-Đế mà Ổng có phải là một người
không, làm sao cho Tôi được biết Ổng với.
Tôi vừa tưởng thì xa lắm, thấy cái gì bao
phủ như tấm màn che vậy, vô gặp rồi mới
biết Ổng ở trỏng. Có tấm màn che ý muốn
cái màn nầy vạch ra đặng thấy Ổng, vừa
muốn thì cái màn ấy hé mở vạch ra, dường
như có tầng có nấc xa lắm không thể gì
tả đặng, kế đó ngó thấy Ổng bước ra
mặc áo trắng, bịt khăn trắng giống như
bộ đồ Tiểu- Phục của Giáo-Hữu mặc vậy.
Cũng có một hai miếng vải lòng thòng sau lưng,
râu bạc trắng coi đẹp lắm, thấy thương
làm sao đâu. Trong bụng nói Ổng ngồi tại
Linh-Tiêu-Điện, mình ngó thấy Ổng mặc bộ
đồ khác; không lẽ hai người? Chắc không
phải Ổng, vừa nói rồi thì thấy Ổng bước
ra đứng ngay chính giữa ngó ngay Bần-Đạo,
dường như thể biểu con coi đây; ngó ngay
lên Ổng thấy Đạo hào-quang chiếu diệu ra,
tay cầm cây gậy coi đẹp lắm. Cây gậy của
Ổng quảy cái bầu, bên mình Ổng mang một
cái bị, mặc bộ đồ Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.
Nắm ngang cây gậy trên tay thành cây đòn cân,
Ổng kéo cái bầu ra thành cái giá cân, kéo
cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy hiệp
lại thành Cây Cân-Thiêng-Liêng mà chính mình
đã thấy Ổng nơi Linh-Tiêu-Điện, không còn
ai xa lạ nữa, cũng Đại-Từ-Phụ nhưng thiên
biến vạn hóa của Ổng mà tạo ra Càn-Khôn
Vũ-Trụ đó vậy.
Vì cớ cho nên dầu cho một cái bông chúng
ta chưa chắc là một vật, nếu chúng ta bẻ
nó một cách vô lối, rủi phải nhầm sanh
mạng của Phật thì khó mà tu lắm.
Con thú, nếu chúng ta nói nó là một vật mà
biết đâu trong nó là một Vị Phật Bồ-Tát
đương chuyển kiếp; nếu mình ăn thịt nhằm
nó, ngày kia nó về trển nó ngồi ngang mình,
nó nhắc kiếp trước Phật có ăn thịt tôi.
Nhắc nội bao nhiêu đó cũng đủ mang bầu,
quảy gậy mà tái kiếp nữa. Chúng ta ngó thấy
nơi thế-gian nầy, hằng-hà sa-số con vật,
mà biết đâu trong con vật lại có một Vị
Phật Bồ-Tát đương tái kiếp để tạo Liên-Đài,
rủi thay ta ăn nhằm thì khó mà đoạt-vị
lắm. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn biểu chúng
ta trường chay là vậy.
Chừng ngó thấy rồi còn tọc mạch nữa, muốn
biết hết Bạch-Ngọc-Kinh vì thấy Bạch- Ngọc-Kinh
lớn lắm, đi biết chừng nào cho cùng, coi
biết chừng nào cho hết. Liền vô thưa Thầy
cho con coi toàn-thể trong Bạch-Ngọc-Kinh, vừa
nghĩ rồi dường như Ổng đã biết, Ổng bước
lại gần cái Đôn, cái Đôn ấy biến ra một
Ông Già, nhưng Bần-Đạo không biết tên gì,
từ đó đến giờ Bần-Đạo chỉ gọi là
Ông Đôn mà thôi chớ không biết Ổng là gì
cả. Nhờ Ổng dắt Bần-Đạo đi cùng khắp
nơi nầy qua nơi khác; mỗi cảnh các Chơn-Linh
đều thu nhỏ lụng lại như hòn non bộ vậy.
Bần-Đạo đi cùng (khắp nơi trong Bạch-Ngọc-Kinh)
mà sợ có chỗ còn sót nữa. Càn-Khôn Vũ-Trụ
mênh-mông đại-hải, không có bờ bến mà
thâu hẹp lại.
Vô trong Bạch-Ngọc-Kinh; cảnh giới ấy Nam
cũng vậy, Nữ cũng vậy, về đến cảnh giới
ấy rồi đừng sợ thiếu chỗ ngồi; không
có thiếu đâu, nếu có thiếu kêu Bần-Đạo,
Bần-Đạo sẽ thường cho. Bần-Đạo dám chắc
con cái của Đức Chí-Tôn, không thể gì thiếu
chỗ hay bị sa thảy đâu, còn dư chỗ ngồi
nhiều lắm.
Ở
thế-gian nầy ráng tu, tu xin cho được về
cảnh ấy mà thôi; còn về chỗ ở mướn phố,
mướn nhà để Bần-Đạo lo cho hết thảy.
Bần-Đạo cho hiểu đó, cho ngó thấy đó,
đặng cho mấy người tu, mà không tu là tại
mình, đừng để sau nầy nói Hộ-Pháp không
nói gì hết nên tôi không biết; đừng có
ăn gian ăn lận, nói ngược nói ngạo gì hết
thảy. Bần-Đạo nói có chứng thiên-hạ hết
thảy.
Từ đây đến sau con đường dục-tấn trên
cảnh Thiêng-Liêng hằng sống đã chấm dứt.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ khởi thuyết Bí-Pháp./.
|