Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
( Thập nhị niên)
Tòa Thánh Tây Ninh
Đạo
Luật
Điều
thứ mười hai: Phương Cánh Thân Thiện với Quyền Đời
Luật
Thiên Phong Chức Sắc phải vào Hạnh Đường học thêm
đạo lý, luật Đạo, luật Đời đặng dể bề thân thiện
cùng đời mà độ đời cho biết đạo. Phải giữ phẩm giá
của mình cho đặng thanh cao đạo đức.
Phương Pháp Thật Hành
1- Muốn thân thiện với quyền đời thì chư chức sắc
thiên phong phải có đủ tư cách đạo hạnh, tánh tình
thuần hậu, cùng là ăn mặc cho trang hoàn sạch sẽ.
2- Mỗi khi đi hành đạo nơi nào
phải cần liệu phương thân thiện với quyền đời. Thoản
như có xảy ra điều chi Đạo Đời phản khắc thì phải
đủ năng lực bảo đảm thể diện của Đạo.
3- Nếu vị Chức Sắc nào chẳng vì
danh thể Đạo làm cho đến đổi Đời rẻ rúng thì sẽ
bị Hội Thánh trừng trị nghiêm nhặt.
Điều
thứ mười ba: Hành Vi Đương Thời Thế Nào và Sẽ Phải
Tới Như Thế Nào
Luật
Đương thời Đạo được thạnh hành phát đạt, một phần
ít Chức Sắc vì gìa yếu không lo tròn trách nhiệm.
Vậy từ đây sắp tới xin Hội Thánh tuyển chọn nhơn
tài và mở rộng cho hạng thanh niên gia công giúp
Đạo.
Phương Pháp Thật Hành
1- Đương thời còn nhiều vị chức sắc hành chánh không
biết chữ và lớn tuổi, không đủ sức đảm nhiệm vai
tuồng trọng hệ xin Hội Thánh nên lựa chọn những
vị khác cho có đủ tài đức bặt thiệp để thay thế.
2- Bên nữ phái thì đặng phần châm
chế cho tới ngày đủ thông đạo lý mớI đặng riêng
quyền, bằng chẳng vậy cứ tùng nam mà hành chánh.
3- Mỗi khi thay đổi Chức Sắc thì
vị thiên phong có quyền trong tỉnh phải lập lễ đưa
và rước cho long trọng trừ ra những vị nào có tội
bị Hội Thánh rút về thì không được hưởng đặc ân
ấy.
4- Mỗi hạn kỳ 6 tháng, chư Đầu
tỉnh Đạo phải phúc sự về cho Ngọc Chánh Phối Sư
biết rõ cả sự hành động của mỗi vị Chức Sắc trong
phần tỉnh của mình , đặng Hội Thánh biết mà ban
khen.
Điều thứ mười bốn
(Về phần Phổ Tế, xin xem chương thứ ba)
Điều thứ mười lăm
(Về phần Tòa Đạo, xin xem chương thứ tư)
Điều thứ mười sáu : Bỏ Thăm Tín Nhiệm hay là Không
Tín Nhiệm Quyền Thống Nhất lại Một Lần Nữa
Luật
Toàn Đạo Nam nữ đồng công nhận và tín nhiệm quyền
Thống nhất của Đức Hộ-Pháp cho đến ngày có Giáo-Tông
ra mặt.
Phương Pháp Thật Hành
1- Trong mấy năm vừa qua nền Đạo nhờ nương dưới
quyền thống nhất của Đức Hộ-Pháp mà đặng thạnh hành
phát đạt một cách mau chóng, trên Hội Thánh đủ oai
quyền vững đạt, dưới chúng sanh đặng đầy đủ tinh
thần nghị lực mà thực hành chủ nghĩa cao thượng
của Đức Chí Tôn. Vậy từ đây toàn Đạo nam nữ nên
để cả đức tin nơi Ngài hầu đủ phương pháp tạo đời
sửa thế.
Điều thứ mười bảy: Nhượng Quyền
Cho Quyền Vạn Linh Cầm Quyền Chánh Trị Đạo
Luật
Toàn Đạo Nam nữ giao quyền Chánh Trị Đạo cho quyền
Thống Nhất cầm cho đến ngày có Đầu Sư Nam Nữ chánh
vị.
Phương Pháp Thật Hành
1- Theo Pháp Chánh thì quyền Chánh Trị Đạo là đặc
quyền của Đầu Sư, nhưng hiện thời bên Cửu Trùng
Đài phẩm vị Đầu Sư không có, còn quyền Vạn Linh
thì không đủ sức, vì thiếu bậc tài ba đạo đức, nên
để cho quyền thống nhất đủ năng lực đặng lập thành
quyền Đạo đối vớ quyền Đời đương nhiên cùng các
nền tôn giáo. Ấy là cái hay làm cho Đạo ra thiệt
tướng.
Chương Thứ Hai
Phước Thiện
Điều thứ mười: Gầy dựng cơ sở phước thiện các nơi
và những phương hay đặng châu cấp cho
những kẻ tật nguyền cô độc.
Luật
Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng của Chức Sắc Phước
Thiện định y như dưới đây:
1- Minh Đức
2- Tân Dân
3- Thính Thiện
4- Hành Thiện
5- Giáo Thiện
6- Chí Thiện
7- Đạo Nhơn
8- Chơn Nhơn
9- Hiền Nhơn
10- Thánh Nhơn
11-Tiên tử
12-Phật Tử.
II- Luật tuyển chọn
1- Bất luận nam hay nữ ai ai cũng đặng được quyền
tuyển chọn vào Phước Thiện của Đạo, hoặc người có
Đạo, hoặc người chưa có Đạo, muốn vào Phước Thiện
thì phải lập tờ hiến thân trọn đời, xin làm công
qủa cho cơ sở Phước Thiện.
2- Những chức sắc hay chức việc
đương quyền hành chánh mà muốn hiến thân làm công
qủa vào cơ sở phước thiện thì phải có giấy chứng
nhận do đẳng cấp trật tự mình mới đặng. Còn tín
đồ thì phải có giấy chứng tánh hạnh tốt của Bàn
Trị Sự cho thì bên Phước Thiện mới thu nhận.
3- Người nào mới nhập vào Phước
Thiện cũng phải khởi đầu làm công qủa theo hạng
Minh Đức.
III- Cầu Phong
4- Chức Sắc Phước Thiện Nam Nữ phải chịu dưới quyền
công nhận của toàn Hội Phước Thiện mới được thăng
chức hay là buộc tội mà bị sa thải.
5- Bậc Minh Đức muốn lên bậc Tân
Dân phải có 3 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách,
phải có tờ khai chứng công nghiệp, tờ khai tánh
đức tốt, trường trai, tư cách xứng đáng mới đặng
dự vào sổ cầu phong.
6- Sổ cầu phong ấy phải đệ về Hội
Thánh ( Văn Phòng sở Phước Thiện tại Tòa thánh)
trước ngày 30 tháng 8 thường niên.
7- Người nào nhập vào Phước Thiện
đều phải do đẳng cấp y theo trên đây mà hành sự,
phải có đủ 3 năm công nghiệp Minh Đức mới đặng cầu
thăng thưởng lên bậc Tân Dân. Bậc Tân Dân phải có
đủ 3 năm công nghiệp mới đặng lên Thính Thiện v...v...
8- Bậc Hành Thiên mà muốn lên Giáo
Thiện thì ngoài ra luật 3 năm công nghiệp, còn phải
nuôi dưỡng đủ 12 gia tộc mới đặng.
9- Mỗi đẳng cấp phải có đủ 3 năm
hành thiện mới mong bước qua đẳng cấp khác.
10- Ngoại trừ ra ai có đại công
mà có đủ bằng cớ và chiếm đặng lòng tín nhiệm của
sanh chúng dâng lên cũng đặng dự vào sổ cầu phong.
Những vị nào để hết tâm vì Đạo mà phải chịu khổ
hạnh hoặc bị tù tội ngục hình cũng đặng dự vào sổ
cầu phong ngoài luật đã định.
IV- Hàm Phong
11- Hạng Hàm Phong cũng vậy. Những vị nào đủ công
nghiệp mà đã qúa lục tuần thì cũng đặng dự vào sổ
cầu phong hàm phẩm, nhưng cũng phải chịu y theo
điều kiện thuộc về hạng ân phong vậy.
V- Truy Phong
12- Hạng truy phong công nghiệp những ngưới đã qúa
vãng mà có đủ bằng cớ đặng công chúng hoan nghinh
và tòa Đạo minh xét rồi thì đặng đem vào sổ cầu
phong cho toàn Hội Phước thiện công nhận.
13- Những vị đắc phong hàm phẩm
lúc còn sanh tiền còn lập thêm công nghiệp mà liễu
Đạo trước ngày cầu phong thăng cấp thì cũng đặng
đem vào sổ cầu truy phong vậy.
VI- Quyền Phong Thưởng
14- Quyền phong thưởng chức sắc Phước Thiện hay
là buộc tội chức sắc ấy thì về quyền đặc biệt của
Đức Hộ Pháp mà thôi.
VII- Thể Lệ Hội Phước Thiện
15- Mỗi năm, sau ngày Hội Quyền Vạn Linh có Đại
Hội Phước thiện một lần.
16- Về phần tuyển chọn phái viên
của hạng Minh Đức, Tân Dân và Thính Thiện tức là
hạng mới xin làm công qủa, học Thiện hoặc theo Thiện,
hoặc nghe Thiện. Mỗi Quận Đạo nào có lập cơ sở lương
điền công nghệ thương mãi thuộc về Phước Thiện thì
từ 1 đến 500 người hiến thân công qủa đặng cử 1
phái viên ra thay mặt, từ 501 đến 1000 thì công
cử 2 vị y theo thể lệ chọn phái viên Quyền Vạn linh.
17- Về phần công cử Nghị viên của
hạng Hành Thiện tức là hạng Chủ sở và Chức việc
Bàn Cai Quản nhà sở phước thiện chánh:
Mỗi Quận Đạo nào có lập cơ sở lương
điền công nghệ, thương mãi thuộc về phước thiện
thì cả Chủ sở nơi ấy và chức việc Bàn Cai quản hiệp
nhau công cử Nghị viên.
- a) Cả Chủ sở lương điền công nghệ, thương mãi
thì đặng chọn cử 1 vị thay mặt.
- b) Cả Chức việc, Bàn Cai Quản nhà sở Phước Thiện
chánh thì đặng chọn cử ra 1 vị thay mặt.
Nghị Viên và Phái Viên hiệp lại
gọi là Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện
nơi mỗi Quận.
18- Người đắc cử phải là hạng trường
trai, có tánh đức tốt mới xứng là người thay mặt
cho phước thiện.
19- Khi đuợc tuyển chọn rồi Đầu
quận phải giao cho người đắc cử ấy tờ kiết chứng
y như kiểu nhứt định của Hội Thánh.
20- Lúc về Tòa thánh dự Hội thì
phải trình tờ kiết chứng ấy mới đặng vào dự Hội.
21- Cuộc chọn cử Ban Ủy-Viên thay
mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi quận thì phải có
vị Giáo Thiện Đầu Quận Phước Thiện làm Chủ tọa.
22- Ban Ủy-Viên phải có mặt tại
Tòa Thánh trước ngày dự hội ít nữa là 5 ngày.
23- Còn phần Chức Sắc chánh danh
Phước Thiện Nam Nữ từ Giáo Thiện đổ lên đều có quyền
đến dự Hội toàn Phước Thiện.
VIII- Phần tạo cơ-sở
24- Mỗi quận Đạo phải lập ra một nhà sở Phước Thiện
chánh thức nơi nhà sở ấy mới đặng phép hội hiệp
lo thương lượng làm ăn thuộc về Phước Thiện.
25- Mỗi Làng Đạo phải khai mở nhiều
sở lương điền, công nghệ thương mãi. Các sở lương
điền, công nghệ, thương mãi ấy phải chịu dưới quyền
của sở Phước Thiện chánh.
26- Nơi mỗi nhà sở Phước Thiện
chánh phải lập một cơ quan thiết dụng như là:
- a) Bảo Sanh viện
- b) Y viện
- c) Ấu Trỉ Viện
- d) Dưỡng Lão Đường
- e) Học viện
27- Mỗi sở lương điền công nghệ
phải có 1 vị Chủ sở làm đầu. Vị nào muốn đặng chọn
cử làm Chủ Sở thì phải là hạng Hành Thiện mới đặng.
28- Mỗi nhà Sở Phước Thiện trong
Quận Đạo phải cử ra 1 Bàn Cai quản để lãnh trách
nhiệm Chủ Trưởng nhà sở ấy.
Mỗi Bàn Cai Quản phải có ít nữa
là 12 người Chức việc :
- 1 Chủ Trưởng
- 1 phủ Trưởng
- 1 Thủ Bổn
- 1 Phó Thủ Bổn
- 1 Từ Hàng
- 1 Phó Từ Hàng
- 6 Nghị viên.
Phương Pháp Thật Hành
1- Trong hàng 6 nghị viên phải chọn cử ra 2 viên
kiểm soát. Chức việc nầy phải chọn trong hạng người
hiến thân trọn đời vào sở Phước Thiện, có tâm đức,
tư cách xứng đáng trừ ra chức Chủ Trưởng thì phải
lựa chọn công cử trong hạng Chủ sở lương điền công
nghệ mà thôi.
2- Cuộc công cử nầy phải có mặt
Đầu Họ, Đầu Quận chủ tọa và Sỉ Tải hay Luật Sự chứng
kiến. Mỗi khi công cử phải lập vi bằng.
Phận sự Bàn Cai quản
3- Phận sự Bàn Cai Quản là lo chăm
nom xem xét cả cơ sở lương điền công nghệ thuộc
về sở Phước Thiện của mình cai quản.
4- Mỗi tháng Bàn Cai quản phải
hội nhóm ít nữa là 2 kỳ trong khi có đàn lệ tại
Thánh Thất sở tại.
5- Nếu xa Thánh Thất thì được nhóm
tại nhà sở Phươc Thiện.
Phận sự Chủ Trưởng
6- Khi nhóm, Chủ Trưởng làm Chủ tọa, người đem các
vấn đề cơ-sở Phước Thiện sắp đặt có thứ tự trong
chương trình cho chư nghị viên bàn định.
7- Nghị viên không đặng bàn tính
việc gì khác hơn là vấn đề đã lập trong chương trình.
Khi Chủ Trưởng xướng đề ra thì phải giải rành rẻ
cho chư nghị viên được thông hiểu rồi để cho chư
nghị viên tự do bàn định. Chủ Trưởng không nên bàn
cải chi với nghị viên. Sau khi chư nghị viên bàn
cải rồi, Chủ Trưởng gom tất cả ý kiến hay của phần
đông chư nghị viên mà lập thành quyết nghị.
Phận sự Phó Chủ Trưởng
8- Phó Chủ Trưởng phải chung trí giúp Chủ Trưởng
lập chương trình và bàn định các vấn đề trước khi
đem ra nhóm hội.
9- Khi Chủ Trưởng vắng mặt thì
Phó Chủ Trưởng đặng quyền thay thế như Chủ Trưởng
vậy.
Phận sự Thủ bổn
10-Thủ bổn lãnh phần việc bút toán và biên bản sổ
thâu xuất cho Bàn Cai Quản xem xét trong mỗi kỳ
nhóm lệ. Thủ bổn chịu trách cứ về số tiền mình giữ
và không đặng phép xuất chi phí nào mà không có
Chủ Trưởng hay là Phó Chủ Trưởng thế quyền chứng
kiến.
11-Thủ bổn gìn giữ sổ Thâu Xuất
( Thâu Xuất phải biên hằng ngày và cộng chung mỗi
tháng):
- Một cuốn sổ ghi công qủa
- Một cuốn sổ ghi tài sản
- Một cuốn sổ cấp tế những người cô quả, bệnh hoạn,
đói khó, già cả, tật nguyền, goá buạ và quan hôn
tang tế.
12- Lúc nào Bàn Cai Quản muốn xem
xét thì Thủ bổn phải bày các sổ sách bất hạng là
lúc nào. Chủ Trưởng cũng có quyền xem xét sổ sách
và tiền bạc.
13-Mỗi kỳ nhóm thường lệ Thủ Bổn
phải lược thuật sự quản xuất tài chánh cho rõ ràng.
Phận sự Phó Thủ bổn
14-Phó Thủ Bổn lãnh phần giúp Thủ bổn trong phần
giấy tờ sổ sách về tài chánh và thay mặt cho Thủ
bổn trong khi người vắng mặt.
Phận
sự Từ Hàn
15- Từ Hàn lãnh phần lập Vi Bằng trong mỗi kỳ hội
nhóm. Người giữ:
- 1 cuốn sổ biên tên họ những đạo hữu hiến thân
trọn đời vào sở Phước Thiện, có đủ ngày tháng hiến
thân và những điều cần yếu thuộc về gia tộc đạo
hữu ấy.
- 1 cuốn sổ biên nhận các thơ tín tiếp đặng
- 1 cuốn sổ biên nhận các thơ tín gởi đi
- 1 cuốn sổ biên tên các Chức việc Bàn Cai quản
và tên các đạo hữu có công sáng tạo cơ sở Phước
Thiện.
Phận
sự Phó Từ Hàn
16- Phó Từ Hàn lãnh phần giúp Từ Hàng trong các
phận sự.
Phận sự Nghị viên
17- Nghị viên lo chăm nom quyền lợi chung để giúp
hay cho cơ sở Phước thiện được mau chóng thạnh hành
phát triển.
18- Các vị nầy giúp Chủ Trưởng
việc trật tự trong các kỳ nhóm.
19- Phải chọn lựa trong hàng nghị
viên, cử ra 2 vị Kiểm soát trong hạn lệ là 1 năm
để lãnh phận sự tra xét sổ sách của thủ bổn và Từ
Hàng.
20- Giấy tờ nào cần ích trong cuộc
điều tra sổ sách, thì Thủ bổn phải giao cho kiểm-soát
viên xem xét.
21- Tờ lược thuật về việc quản
xuất tài chánh và sản vật của Thủ bổn phải đủ 2
kiểm-soát viên xem xét và ký tên.
22- Kiểm-soát viên được tự quyền
lập phúc sự các việc điều tra sổ sách đệ về cho
Hội Thánh biết.
23- Trước khi xướng lập cơ-sở lương
điền công nghệ thì chỉ nhờ nơi lòng từ thiện của
toàn đạo hữu trợ giúp. Ngoài ra, những vị nào hảo
tâm dâng thêm tài vật chi xứng đáng thì đặng nêu
tên vào bảng danh dự để làm kỷ niệm nơi cơ-sở.
24- Những vị nào hảo tâm hiến nhà,
hiến đất hoặc các tài vật khác, thì phải làm giấy
tờ cho rành rẻ, đóng bách phần cải bộ , đặng giao
trọn quyền cho Phước Thiện làm chủ.
25- Những vị đã trọn hiến thân
vào sở thì Chủ Sở phải bảo toàn gia tộc của vị hiến
thân ấy như chồng, vợ, con , cha mẹ ruột, cha mẹ
vợ , cha mẹ chồng và cắt phận sự cho mỗi người.
Mỗi sở bảo toàn cho đủ 12 gia tộc mới đúng phép
hành thiện theo luật phước thiện.
26- Chư Chức Việc bên Hành chánh
cũng phải để tâm giúp ích cho bên Phước Thiện đặng
mau kết quả mỹ mản.
27- Nếu trong sở có xảy ra điều
chi bất hoà mà điều đình không đặng thì phải lập
Hội Công Đồng y như bên Hành Chánh mà trừng trị,
kỳ dư xảy ra với cơ-quan trong nền Chánh Trị Đạo
thì buộc phải giải ra toà Đạo phân xử.
28- Phải tìm phương châu cáp những
gia đình nghèo nàn của chư Chức Sắc đắc lịnh Hội
Thánh thuyên bổ đi hành đạo phương xa.
29- Khi các cơ sở đã thành lập
mỗi năm phải tuỳ theo huê lợi trong sở đặng giúp
lương thực trong các Thánh thất, hoăc mỗi văn phòng
trong nền Chánh Trị Đạo và phải định riêng ra 1
phần để châu cấp cho những kẻ tật nguyền cô-độc.
30- Về khoản cấp tế nơi cửa Phước
Thiện, chẳng nên phân biệt người trong Đạo hay là
ngoài Đời, nghĩa là mỗi phen nơi nào bị tai nạn
khổ tâm khổ trí thì lẽ cố nhiên người hành thiện
chẳng thế nào bỏ qua cho đặng, chẳng những trợ giúp
về mặt vật chất hình thức bên ngoài mà thôi lẫn
đến tinh thần bên trong cũng phải có sự an ủi tâm
hồn cho người được an vui bình tâm định trí.
31- Nếu một ai vì cảnh bi thương
trong gia-đình hoặc vì đau thảm về phần xác thịt
mà đến nhà phước thiện cầu xin cứu giúp hay là 1
tấn kịch khốc hại đã phô bày trước mắt mà người
hành thiện nở đành làm ngơ để cho người khốn khổ
ấy phải cam tâm tủi phận, chẳng nhờ nơi lòng ái
truất của nhà lương thiện đoái đến mà có đủ bằng
cớ thì vị hành thiện ấy phải bị lỗi nặng với danh
giá nhà Phước Thiện và phải chịu phần trách cứ.
Điều thứ mười một: Phương chỉnh
đốn về mặt nghi tiết của Đạo nơi các Thánh Thất
và về phần
Quan, Hôn,Tang,Tế.
Luật
Hội Thánh phải bổ đến mỗi Quận Đạo: Lễ Sỉ, Cai Nhạc
và Giáo Nhi có cấp bằng của Hội Thánh đặng chỉnh
đốn về mặt nghi tiết nơi các Thánh thất và các cuộc
quan hôn tang tế.
Phương Pháp Thật Hành
1- Muốn cho y theo 1 kiễu mẫu, xin Hội Thánh lập
1 bổn lễ quan hôn tang tế, đặng ban hành cho toàn
Đạo. Bên Hành Chánh và bên Phước Thiện phải tìm
phương sửa cải các điều lệ của Lễ viện và chỉnh
đốn lễ quan hôn tang tế lại cho đẹp đẻ y theo cổ
tục nước Nam.
2- Cả thức lệ về mặt nghi tiết
và phương pháp thật hành về quan hôn tang tế đều
thuộc về quyền của Phước Thiện sắp đặt , nhưng bên
Hành chánh, Phổ Tế và toà Đạo cũng phải chung lo
cho đặng trang hoàn.
3- Mỗi Quận Đạo thường phải chọn
người hiến thân có thông thạo chút ít về lễ nhạc
đặng gởi về Hội Thánh học tập, đến khi thành tài
có cấp bằng của nhà trường ban cho rồi mới đặng
thuyên bổ đi hành sự, tuỳ theo lịnh Hội Thánh nhứt
định .
4- Sau khi trong mỗi Quận Đạo có
người rành rẻ chăm nom dạy về Lễ Nhạc thì con nhà
Đạo đặng đến học thong thả, nhưng phải làm tờ tình
nguyện lập công đặng hiến lễ trong các Thánh Thất.
Như trò nào có thiên tư về khoa ấy, muốn thi lấy
cấp bằng thì phải làm tờ hiến thân trọn vẹn gởi
về Hội Thánh xin cho dự thi. Khi thi đổ có cấp bằng
của nhà trường ban cho rồi, thì phải tuân theo luật
của Hội Thánh thuyên bổ đi các nơi hành sự.
Chương Thứ Ba
Phổ Tế
Điều thứ mười bốn : Phương cách đối phó cùng các
chi phái phản Đạo
Luật
Chiếu theo Thánh giáo của Đức Chí Tôn và Đạo Nghị
Định số 8 của Đức Lý Giáo Tông, thì toàn cả Chúng
Sanh nhứt định không nhìn nhận các chi phái phản
Đạo và phải định quyết là Bàn Môn Tả Đạo.
Phương Pháp Thật Hành
1- Phần đông con cái của Đức Chí Tôn có 1 hạng biết
rõ mối Đạo là 1 cơ bí mật của Trời sáng tạo đặng
cứu vớt sanh linh khỏi trầm luân khổ hải, song vì
còn yếu ớt đức tin nên hảy còn đứng ngoài vòng để
mắt xem chừng vào cửa Đạo, còn 1 hạng nữa thì lại
đang mê mẩn trong vòng vật chất lầm tưởng cho nền
Đạo là 1 cơ quan xảo kế của phàm nhơn sáng tạo để
mê hoặc tâm lý của người Đời mà xem dường như rẻ
rúng, thành thử con cái của Đức Chí Tôn vẫn còn
mịt mờ trong vòng hắc ám. Vậy phương diện Phổ Tế
Nhơn Sanh là 1 hành vi cẩn cấp để dẫn dắc người
Đời vào trường học Đạo của Trời cho mau chóng, đặng
sớm tầm con đường siêu rổi tội tình cho nhân loại.
2- Hội thánh phải tuyển chọn những
chức sắc thiên phong đủ tài đủ đức đặng thuyên bổ
qua cơ-quan Phổ Tế.
3- Chư vị Chức Sắc lãnh phần Phổ
Tế phải kể mình như các vị quan Phương Bá nhà Châu
buổi nọ, nghĩa là mảnh thân gánh nặng nghĩa vụ nơi
vai, thì phải châu lưu cùng khắp trong chốn thôn
quê sằng giả, vào tận nơi nào có lấp loáng bóng
người đặng đem chân lý Đạo mầu thức tỉnh cho thế
gian hồi tâm giác ngộ, kẻo một ngày trể nải là một
ngày hại cho nhân sanh chưa biết Đạo.
4- Đối với các chi phái do Đại
Đạo lập thành mà phản loạn chơn truyền, ngày nay
đã lỗi thệ cùng Thầy thì xin Hội Thánh thể lòng
đại từ đại bi của Đức Chí Tôn, mở kỳ ân xá cho họ
đặng nhập môn tái thệ y theo châu tri số 31 đề ngày
18 tháng 9 năm Bính Tý, duy trong châu thành Toà
Thánh những kẻ phản Đạo không đặng nhập môn trở
lại mà thôi.
5- Hiện thời đương lo tạo tác Toà
Thánh, cấm nhặc các chi phái vào Thánh Địa toan
mưu khuấy rối. Chừng nào Toà Thánh lập xong dầu
Chức Sắc các chi phái muốn nhập môn làm tín đồ đi
nữa thì cũng phải có Quyền Vạn Linh và quyền Chí
Tôn công nhận mới đặng.
6- Ngoài ra các vị Phổ Tế nếu có
chức việc hoặc đạo hữu nào độ đặng 500 tới 1000
ngườI ngoại đạo nhập môn thì vị ấy sẽ đặng Hội Thánh
đem ra Quyền Vạn Linh xin phong thưởng vào phẩm
Lễ Sanh, độ đặng từ 1000 tới 3000 người thì được
vào phẩm Giáo Hữu, độ đặng từ 3000 tới 10000 người
thì đặng vào phẩm Giáo Sư.
7- Những Thánh Thất thuộc về các
chi phái mà muốn hiến về cho Hội Thánh thì phải
làm giấy tờ rành rẻ giao cho vị Phổ Tế đem về thương
lượng với Hội Thánh.
8- Chức Sắc Phổ Tế khi gặp đặng
những điều bất hợp pháp cùng việc bất hoà xảy ra
giữa các cơ-quan có đủ bằng cớ, hoặc bên quyền Hành
Chánh, bên Phước Thiện, bên Toà Đạo, thì đặng quyền
dâng sớ kêu ca ngay cho mỗi vị Chưởng Quản 3 cơ-quan
ấy.
Chương Thứ Tư
Tòa Đạo
Điều thứ mười lăm: Định án những người phạm luật
pháp và hình phạt ra thể nào
Luật
Những vị nào phạm Luật Pháp thì chiếu theo thập
hình của Đức Lý Gìáo Tông mà định tội. Kẻ phạm phải
chịu dưới 2 quyền luật:
1- Luật : là Tân Luật và Luật Hội
Thánh.
2- Pháp : là Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.
Phương Pháp Thật Hành
Nghĩ vì Toà Đạo là 1 cơ quan bảo thủ chơn truyền
y theo khuôn viên Đạo pháp bảo đảm sanh chúng, trị
loạn phò nguy, gìn cân công lý cho toàn cả chúng
sanh đặng sống một cách thung dung thơ thới dưới
mặt Luật công bình của Đạo.
Toà Đạo lập ra cốt yếu để binh
vực những ngưới bị uất ức, trừng phạt những người
phạm luật pháp, gìn giữ quyền hành phân minh, đẳng
cấp trật tự cho nền Chánh Trị Đạo. Trách nhiệm trọng
hệ hơn hết của toà Đạo là vô tư vô vị.
Phạm Pháp
Đệ nhứt hình
1- Không tuân Pháp Chánh Truyền
và Đạo Nghị Định
2- Phản loạn chơn truyền
3- Chia phe phân phái và lập Tả Đạo Bàn môn.
Những vị nào phạm các điều trên
đây thì khép vào tội thứ nhứt trong thập hình của
Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Trục Xuất.
Đệ nhị hình
Chư Chức Sắc Thiên Phong không
tùng mạng lịnh của Hội Thánh:
1-Thuyên bổ không đi
2- Không trọn phế đời hành Đạo
3- Bỏ bê phận sự.
Những vị nào phạm vào các điều
khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ hai trong
thập hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Giáng Cấp
tới tín đồ hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ
ra các xứ lân bang Nam Quốc như AiLao, Tần Quốc...
Đệ tam hình
1- Làm nhơ danh Đạo
2- Mượn danh Đạo tạo danh Đời
3- Lợi dụng danh Đạo làm điều bất chánh.
Những vị nào phạm vào các điều
khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong
thập hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Giáng Cấp
từ đương quyền xuống tới 2 hay là 1 cấp.
Đệ tứ hình
1- Lấn quyền, dành quyền
2- Phạm thượng
3- Tự chuyên sửa cải chơn truyền.
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong thập hình
của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Ngưng Quyền từ 3 năm
tớI 5 năm
Đệ ngủ hình
1-Mê hoặc chúng sanh
2-Cám dổ.
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị khép vào tội thứ 5 trong thập hình
của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Ngưng Quyền từ 1 năm
tớI 3 năm và phạt vào Tịnh Thất
Phạm Luật
Đệ nhứt hình
1- Không tuân Tân Luật và các Luật
Lệ Hội Thánh
2- Công kích Hội Thánh
3- Nghịch mang.
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị khép vào tội thứ nhứt trong thập
hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Trục Xuất.
Đệ nhị hình
1- Tư thông
2- Giấy loạn chúng sanh
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị khép vào tội thứ nhì trong thập
hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Giáng Cấp tới
tín đồ hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ ra các
xứ lân bang như Ai Lao, Tần Quốc. . .
Đệ tam hình
1- Tham lam tài chánh
2-Giả mạo văn từ.
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong thập hình
của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Giáng Cấp từ phẩm
đương quyền xuống tới 2 hay là 1 cấp.
Đệ tứ hình
1- Khi lịnh Hội Thánh
2- Lập quyền riêng.
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong thập hình
của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Ngưng Quyền từ 3 năm
tới 5 năm
Đệ ngủ hình
Phạm Ngủ Giới Cấm
Những vị nào phạm vào luật nầy
thì bị khép vào tội thứ năm trong thập hình của
Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Ngưng Quyền từ 1 năm tới
3 năm.
Đệ lục hình
Cường ngạnh
Những vị nào phạm vào luật nầy
thì bị khép vào tội thứ sáu trong thập hình của
Đức Lý Giáo Tông nghĩa là phạt vào tịnh thất từ
1 tháng tới 1 năm mà còn hành chánh như thường.
Đệ thất hình
Phạm Tứ Đại Điều Qui
Những vị nào phạm vào luật nầy
thì bị khép vào tội thứ bảy trong thập hình của
Đức Lý Giáo Tông nghĩa là thuyên bổ đi nơi khác
chỗ của mình đương hành đạo.
Đệ bát hình
1- Bê trể phận sự
2- Biếng nhác.
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị khép vào tội thứ tám trong thập
hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là phải về Toà Thánh
đặng gần Giáo Tông và Hộ-Pháp cầu học Đạo.
Đệ cửu hình
1- Ganh ghét
2- Hung bạo
3- Đố kỵ
4- Xu phụ
Những vị nào phạm vào các khoản
trên đây thì bị ghép vào tội thứ chín trong thập
hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là phải ăn-năn sám
hối, thọ tội cùng chúng sanh.
Đệ thập hình
1- Phạm Thế Luật
Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội
thứ mười trong thập hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa
là hầu kẻ đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học
đạo.
2- Những vị nào đã bị luật ngoài đời trừng trị,
tùy theo tội hình nặng nhẹ, Tòa Đạo sẽ chiếu theo
thập hình mà trừng trị thêm nữa.
3- Những vị đã phạm tội mất phẩm vị thiên phong
của mình, phải có Luật Ân Xá của quyền Vạn Linh
và quyền Chí-Tôn mới đặng, nhưng 4 cơ-quan toàn
thể Chánh Trị Đạo, còn phương tế độ là minh tra
công nghiệp, khi những vị ấy đã biết ăn-năn, lập
nên công nghiệp phi thường, toàn công chúng hoan
nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ, thì đặng phép
phục sự với 1 vị Chức Sắc Thiên Phong nào của kẻ
phạm lựa chọn, hầu phục quyền đoái công chuộc tội
thì mới đặng cầu xin phục chức.
Bộ Luật nầy ban hành kể từ ngày
Rằm tháng Giêng nam Mău Dần (14 Fevrier 1938) và
ngày sau còn thêm vào nữa tùy theo trình độ của
chúng sanh.
CHUNG
Những Khoản Thêm Vào Bộ Đạo Luật
và Ban Hành Kể Từ Ngày Hôm Nay :
1- Thủ tiêu 2 chữ Tuyệt Dục trong Tân luật.
2- Rộng ơn cho thỏa lời ước vọng của nhơn sanh là
để tự do cho hàng Lễ Sanh giữ trai tâm bao nhiêu
tùy ý, song chẳng đặng dưới 10 ngày.
3- Truất quyền dự Hội Nhơn Sanh, quyền Hành chánh
và quyền hành pháp cho những vị Lễ Sanh nào chưa
trường trai.
4- Cho tự do vợ chồng của Chức Sắc muốn theo cùng
nhau cũng đặng, như thuộc về phần đời mà thôi, chớ
chẳng dính dấp chi với Đạo, vì chúng sanh duy biết
nuôi người thay mặt Chí Tôn, chứ chưa hề biết nuôi
vợ chồng của vị Chức Sắc nào cả.
5- Vị Chức Sắc Thiên Phong Nam Phái nào có vợ con
nghèo nàn, nhỏ dại thì Hội Thánh sẽ định cho 1 số
tiền cứu giúp hằng niên, khi đã minh tra đủ bằng
cớ rằng vợ con của vị ấy không gia thế không phương
làm, bần hàng, đói khó.
6- Còn bên Chức Sắc Nữ Phái thì Hội Thánh không
có định cấp dưỡng cho chồng con chi hết , vì chẳng
lẻ người chồng nuôi con không nổi, bất tài đến đổi
phải nhờ vợ.
7- Nếu như vị Chức Sắc Nữ Phái nào rủi góa bụa mà
con còn thơ dại, khi đã minh tra đủ lẽ thì Hội Thánh
sẽ định 1 phần cấp dưỡng nuôi con.
Lập tại Toà Thánh Tây Ninh ngày 5-11-Mậu Dần
( Le 26 Decembre 1938 )
Toà Đạo Hiệp Thiên Đài
|