Của Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài
C.G.- Cả Chức-Sắc Cửu-Trùng-Đài Nam-Nữ, Đều
phải thọ phong nơi Hiệp-Thiên-Đài hoặc bởi cơ-bút hoặc
bởi khoa-mục hoặc bởi công-cử.
Nên khi công-cử phải có mặt Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài,
giữ lẽ công-bình cho khỏi điều tư-vị, lại còn có
phương thế hỏi Đức Giáo-Tông cùng Thầy, coi người
đắc cử có phải chánh vị hay chăng ? nên trước khi thọ
sắc phải do nơi Đức Giáo-Tông cùng Thầy mới đặng
.
P.C.T.-
" Đầu-Sư muốn lên Chưởng-Pháp thì nhờ ba vị công-cử
nhau "
C.G.-
Ba vị Đầu-Sư muốn lên Chưởng-Pháp thì cả ba người
phải có mặt nơi Tòa-Thánh mà công-cử nhau trước mặt
Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài chứng kiến
.
Phối-Sư lên Chánh-Phối-Sư thì Pháp-Chánh-Truyền không
quyết tức là phẩm Chánh-Phối-Sư do nơi quyền Giáo-Tông
lựa chọn.
P.C.T.-
" Phối-Sư muốn lên Đầu-Sư thì 36 vị công-cử
"
C.G.-
Phối-Sư muốn lên Đầu-Sư, thì cả 36 vị xúm nhau công-cử
. Tỷ như hai phẩm Đầu-Sư bị khuyết thì phép chia thăm
làm hai theo luật công-cử thường tình, nghĩa là mỗi người
phải cho đủ 18 lá thăm hay là hơn mới đắc cử. Sự
công-cử ấy phải tại nơi Tòa-Thánh trước Hội-Thánh
Cửu-Trùng-Đài, có Hiệp-Thiên-Đài chứng-kiến mới đặng.
P.C.T.-
" Giáo-Sư muốn lên Phối-Sư thì 72 vị kia xúm nhau
công-cử "
C.G.-
Giáo-Sư muốn lên Phối-Sư thì 72 vị xúm nhau công-cử,
phép chia thăm cũng buộc theo luật thường-tình, sự công-cử
ấy phải tại nơi Tòa-Thánh trước Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
có Hiệp-Thiên-Đài chứng kiến mới đặng .
P.C.T.-
" Giáo-Hữu muốn lên Giáo-Sư, thì nhờ 3.000 vị kia
xúm nhau công-cử ".
C.G.-
Giáo-Hữu muốn lên Giáo-Sư thì cả ba ngàn vị kia xúm
nhau công-cử, phép chia thăm cũng buộc theo luật thường-tình.
Sự công-cử phải nơi Tòa-Thánh trước Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài,
có Hiệp-Thiên-Đài chứng kiến mới đặng .
P.C.T.- " Lễ-Sanh muốn lên Giáo-Hữu, thì nhờ có cả
Lễ-Sanh xúm nhau công-cử.
C.G.-
Lễ-Sanh muốn lên Giáo-Hữu, thì nhờ có cả Lễ-Sanh xúm
nhau công-cử, phép chia thăm cũng cứ theo luật thường
tình. Nếu có bằng nhau, người nào hạnh đức nhiều thì
cho đắc cử. Sự công-cử ấy phải tại nơi Tòa-Thánh,
trước mặt Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài, có Hiệp-Thiên-Đài
chứng kiến mới đặng.
P.C.T.-
" Môn-Đệ muốn lên Lễ-Sanh, thì nhờ cả Môn-Đệ
xúm nhau công cử. Kỳ dư Thầy giáng cơ cho người nào
thì mới khỏi luật ấy mà thôi ".
C.G.- Môn-Đệ muốn lên Lễ-Sanh, thì nhờ cả Môn-Đệ
xúm nhau công-cử, phép chia thăm cũng cứ luật thường
thìn, sự công cử này các nơi Thánh-Thất làm đặng, song
khi đắc cử phải về Tòa-Thánh đặng thi lại, như đậu
mới đặng lãnh chức , bằng rớt thì bỏ, Hay (Ấy là
lời khen của Đức Lý-Giáo-Tông ) kỳ dư Thầy giáng cơ
phong thưởng cho người nào thì mới khỏi luật lệ ấy
mà thôi .
Hộ-Pháp có hỏi Đức Lý-Giáo-Tông về sự công-cử của Chánh-Trị-Sự, Phó-Trị-Sự và Thông-Sự, thì Ngài dạy
như sau này .
" Chức
Chánh-Trị-Sự thì nhờ có cả Phó-Trị-Sự và Thông-Sự
xúm nhau công-cử, phép chia thăm cứ theo luật thường
tình. Sự công-cử ấy phải tại nơi Thánh-Thất sở tại,
trước mặt người Đầu-Họ, có các Chánh-Trị-Sự kia
làm chứng mới đặng. Tờ phong chức cho Chánh-Trị-Sự
thì phải có Giáo-Tông và Hộ-Pháp ký tên mới đặng " .
Tín-Đồ muốn lên Phó-Trị-Sự, thì nhờ cả Tín-Đồ
trong Họ xúm nhau công-cử, Phép chia thăm cứ luật thường
tình , sự công-cử ấy phải tại nơi Thánh-Thất sở-tại
trước mặt người làm Đầu-Họ và có Chánh-Trị-Sự
làm chứng mới đặng. Tờ phong-sắc cho Phó-Trị-Sự phải
để cho Đức Giáo-Tông ký tên mới đặng .
Tín-Đồ muốn lên Thông-Sự thì nhờ cả Tín-Đồ trong
Họ xúm nhau công-cử Phép chia thăm cứ luật thường tình,
sự công-cử ấy phải tại nơi Thánh-Thất sở-tại, trước
mặt người làm Đầu-Họ và Chánh-Trị-Sự chứng-kiến
mới đặng. Tờ phong-sắc cho Thông-Sự phải để cho Hộ-Pháp
ký tên mới đặng.
P.C.T.-
" Còn Giáo-Tông thì hai phẩm Chưởng-Pháp và Đầu-Sư
tranh đặng, song phải chịu cho toàn Môn-Đệ công-cử mới
đặng. Kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật
ấy "
C.G.-
Phẩm Giáo-Tông thì hai phẩm Chưởng-Pháp và Đầu-Sư tranh
đặng, song phải chịu toàn cả Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài,
Cửu-Trùng-Đài và chư Tín-Đồ đồng-tâm công-cử .Vậy
thì buộc phải có người của Hiệp-Thiên-Đài và Cửu-Trùng-Đài
chứng-kiến cho cả Tín-Đồ công-cử. Khi đắc số thăm
mỗi vị phải gởi về Tòa-Thánh có Thượng-Hội kiểm
soát . Bàn Thượng-Hội ấy phải chọn người của Hội-Thánh
Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài hiệp một kể từ Đầu-Sư,
Thượng-Phẩm, Thượng Sanh đổ lên trừ người ra tranh
cử .
Khi đắc cử thì phải truyền tin ra cho khắp nhơn-sanh đều
biết hết .
Đắc
cử quả quyết rồi, nghĩa là: khi Hội-Thánh đã đủ chứng
chắc không điều chi bất công thì Hội-Thánh mới xúm
nhau làm lễ đăng-điện cho Ngài. Còn như có điều bất
công, thì buộc phải đình hoặc công-cử lại, hay là xét-đoán
lại .
Các chức-sắc đều phải chịu theo luật công-cử nầy,
kỳ dư Thầy giáng cơ phong thưởng cho ai mới ra khỏi luật
.
Trước
khi Thầy lập Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên-Đài, Thầy
kêu " Cả chư Môn-Đệ khá tuân mạng " thì Thầy đã chỉ
rõ rằng : Thầy lập Hiệp-Thiên-Đài rất trọng hệ là
dường nào . Sự trọng hệ ấy là chi ? Sau đây nên giải
rõ :
Cơ Tạo-Hóa chỉ có hai bí-mật tối trọng, một là quan-sát
sự hữu-hình, hai là xét đóan sự vô-vi; quan-sát sự hữu-hình
thì dễ, mà xét đoán sự vô-vi thì khó: hữu-hình với
vô-vi chỉ phân nhau với màn bí-mật, từ thuở tạo Thiên
lập Địa, dầu cho bậc Trí-Thức Nhơn-Sanh đặng tấn
hóa lên tới bậc Đại-giác đi nữa, cũng chưa hề có
phương-thế hé trọn-vẹn màn bí-mật ấy, mà dòm qua phía
vô-vi cho đặng, nhưng nhơn-sanh đã có sẵn nơi tay một
cái chìa khóa, là xem cơ tương-đắc của hữu-hình và
vô-vi trong sự sanh-họat của vạn-vật. Vô-Vi và Hữu-hình
phải hiệp làm một, mới thuận theo cơ-tạo. Trời Đất
có Âm-Dương, vạn-vật có thể-phách, nhơn-lọai có xác-hồn.
Sự sống của vạn-lọai trong càn-khôn Thế-Giái chỉ nhờ
có vật-chất ( La matière ) và tinh-thần ( L'essence ) tương
hiệp mới thành hình. Cả vật-chất hồn, thảo mộc hồn,
thú cầm hồn Nhơn-hồn, Thần-hồn, Thánh-hồn, Tiên-hồn,
Phật-hồn, Thiên hồn đều khác đẳng cấp nhau, nên hình
thể cũng biến sanh ra khác. Vật-chất không giống thảo-mộc,
thảo-mộc không giống thú-cầm, thú-cầm không giống ngừơi,
người không giống Thần, Thần không giống Thánh, Thánh
không giống Tiên, Tiên không giống Phật, Phật không giống
Trời, nói tóm một lời, hình thể tâm thần đều khác
hẵn.
Vật-chất ( La matière ) phải tùng lịnh tinh thần ( L'essence
) mà lập thành hình tựơng. Cái cớ hiển-nhiên là hình
thể của Nhơn-lọai cũng phải tùng tinh-thần mà biệt
phân đẳng-cấp. Kẻ hung bạo thì hình dung cổ-quái, còn
ngừơi lương-thiện thì tướng hảo quang minh; nhờ đó
mà cổ-nhơn xem tướng đoán tánh người.
Xác phải phù hạp với hồn, cũng như vật-chất phải
phù hạp với tinh thần, vật-chất vốn hữu-hình, mà tinh-thần
lại vô-vi, vô-vi cùng hữu-hình phải tương đắc, thấy
hữu-hình đoán vô-vi, biết vô-vi mới định-quyết hữu-hình.
Ấy
vậy Cửu Trùng Đài là xác, Hiệp Thiên Đài là hồn. Đã
nói rằng Cửu Trùng Đài là Đời, tức nhiên là xác của
Đạo, còn Hiệp Thiên Đài là Đạo, tức nhiên là chơn
thần của Đạo, vậy thì xác thịt có định hạn lệ
đẳng cấp, chớ chơn thần chẳng hề định hạn lệ đẳng
cấp đặng. Nhiều đứng Thiêng Liêng cao mà lại tái thế
muốn ra hèn hạ, còn cũng có nhiều đứng Thiêng Liêng
thấp mà lại nhờ một phen đắc Đạo lập vị cao trọng
tột phẩm, vậy thì Thiêng Liêng không có giới hạn tức
là Đạo không có giới hạn. Ấy là cơ bí mật của Đạo
vậy.
Chư Hiền Hữu cũng như chư Hiền Muội sẽ thấy rằng
: Thầy không quyết định trách nhậm của mỗi người
Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, bởi cớ mà gây nên lắm điều
trắc trở trong phẩm trật của cả Thiên Phong. Nghĩa là
: để tự nhiên cho cả Chức Sắc Hiệp Thiên Đài lập
vị mình, thế nào cho xứng đáng cùng phẩm định.
Cửu Trùng Đài là Đời, mà Hiệp Thiên Đài là Đạo,
cho nên buộc Đời phải nương Đạo mà lập ra thiệt tướng,
mới mong độ rỗi nhơn sanh chuyển cơ tạo hóa.
Cái hệ trọng là nếu không có Hiệp Thiên Đài thì không
có Đạo, Trời Đất qua chớ Đạo không qua, nhơn loại
tuyệt chớ Hiệp Thiên Đài không tuyệt. ( Hay lắm - Ấy
là lời khen của Đức Lý Giáo Tông. )
Hiệp Thiên Đài là tay vén màn bí mật cho sự hữu hình
và sự vô vi hiệp làm một, tức là tay làm cho Đạo với
Đời tương đắc vậy. Vì cớ ấy mà Thầy giáng cơ buộc
cả chư Môn Đệ Thầy, chẳng khi nào đặng phép trái mạng
lịnh của Thầy.
Dưới đây Thầy đã nói rõ :
P.C.T.-
Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng
Liêng mối Đạo, hễ Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài vẫn
còn.
C.G.-
Thầy là Chuá cả Càn Khôn Thế Giái, tức là chuá tể
sự vô vi, nghĩa là chủ quyền của Đạo, mà hễ chủ
quyền Đạo, ngự nơi nào thì là Đạo ở nơi ấy.
Thầy đã nói Hiệp Thiên Đài là nơi Thầy ngự, ấy là
nơi Thầy cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo, vậy Đạo
còn thì Tòa ngự của Thầy là Hiệp Thiên Đài vẫn còn,
hễ nói Đạo chẳng hề khi nào bị diệt, vì Đạo diệt
thì là tận thế, vậy thì Đạo chưa tuyệt, ắt Hiệp
Thiên Đài cũng không tuyệt, ( Hay lắm- Ấy là lời khen
của Đức Lý Giáo Tông. ).
P.C.T.-
Thầy đã nói Ngủ Chi Đại Đạo bị qui phàm là vì
khi trước Thầy giao Chánh Giáo cho tay phàm, càng ngày càng
xa Chánh Giáo, mà lập ra Phàm Giáo, nên Thầy nhứt định
đến chính mình Thầy, đặng dạy dỗ các con mà thôi ;
chớ không chịu giao Chánh Giáo cho tay phàm nữa.
C.G.-
Câu nầy Thầy đã nói rõ nghĩa, duy Thầy chỉ than rằng
: khi trước Thầy lỡ giao Chánh Giáo cho tay phàm, hễ càng
lâu chừng nào thì Thánh Đức lại càng hao mòn mà phàm
tâm lại tái phục, nhơn loại sửa cải Chánh Giáo, cho
vừa theo thế lực của nhơn tình mà lần lần làm cho Thánh
Giáo phải trở nên phàm giáo. ( Hay - Ấy là lời khen của
Đức Lý Giáo Tông. )
Nay Thầy nhứt định đến chính mình Thầy đặng dạy
dỗ nhơn sanh mà thôi, chớ không chịu giao nền Chánh Giáo
của Thầy cho tay phàm nữa.
Thảng như có kẻ hỏi : Như đã nói vậy, sao Thầy lại
giao Thánh Giáo cho phàm là Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên
Đài, là ý nghĩa gì? Trong bài diễn văn của Hộ-Pháp đọc
tại Tòa-Thánh ngày 14 tháng hai năm Mậu-Thìn, có giải
rõ rằng : Thầy đến qui các lương sanh của Thầy đã
sai đến trước lại làm một đặng lập Hội Thánh mà
làm hình thể của Thầy, hầu tránh khỏi hạ trần trong
lúc Tam Kỳ Phổ Độ nầy. ( Hay ) Hội Thánh ấy, có hai
phần tại thế : Phần hữu hình là Cửu Trùng Đài, tức
là Đời nghĩa là xác ; một phần bán hữu hình là Hiệp
Thiên Đài nghĩa là : nửa Đời nửa Đạo, ấy là chơn
thần ; còn phần vô vi là Bát Quái Đài tức là hồn, ấy
là Đạo.
Đã
nói rằng : Thầy là chúa tể của sự vô vi, ắt Bát Quái
Đài thì Thầy là chủ, mà chủ Bát Quái Đài là chủ của
hồn Đạo, hồn hiệp với xác bởi chơn thần, ấy vậy
chơn thần là trung gian của hồn và xác ; xác nhờ hồn
mà nên, thì Cửu Trùng Đài cũng phải nhờ Hiệp Thiên
Đài mới mong thành Đạo. ( Hay - Ấy là lời khen của Đức
Lý Giáo Tông.)
Như có kẻ hỏi nữa : Thầy là Chí Tôn, huyền diệu vô
biên, mà lại nói Thầy không giao Thánh Giáo cho tay phàm
nữa, sao lại cũng còn phải nhờ Hiệp Thiên Đài, cũng
là phàm vậy ? Nếu không Hiệp Thiên Đài, thì Thầy không
có thể lập Đạo sao ?.
Ta lại nói : Thầy là chúa sự vô vi, nghĩa là chúa các
việc vô hình, Thầy lại ban cho người đủ khôn ngoan trí
thức Thiêng liêng, đặng làm chúa của sự hữu hình, nghĩa
là chúa cả của vạn vật, nếu muốn cho sự vô vi và
sự hữu hình được tương đắc, thì cả hai ông chúa
phải liên hiệp nhau mới đặng, người có sức sửa cơ
Tạo Hóa, song Tạo Hóa cũng tùy người mà làm cho vạo
loại trở nên tận thiên, tận mỹ.
Chịu dưới quyền Thiêng Liêng của Tạo Hóa, sanh sanh,
tử tử, luật lệ ấy vốn nơi Trời, số số, căn căn
Thiên Điều đã định ; người chỉ đặng có một quyền
tự lập, là mình làm chủ lấy mình, luân luân chuyển
chuyển, giồi cho đẹp đẽ Thánh Đức căn sanh, đặng
lên tột phẩm vị Thiêng Liêng mới nhập vào cử vô vi
đồng thể cùng Trời Đất. (Hay lắm , Lão khen đó - Ấy
là lời khen của Đức Lý Giáo Tông.)
Quyền tự chủ ấy, vẫn đã định trước làm cho cả
nhơn-sanh vui theo cơ Tấn-Hóa, thì dầu cho Thầy cũng không
cải qua đặng ; vì hễ sửa cải thì là mất lẽ công
bình Thiêng Liêng đã định, làm chinh nghiêng cơ thưởng
phạt. Hễ có công thưởng tội trừng thì phải để rộng
quyền cho người tự chủ.
Thiên cơ đã lập có Điạ Ngục với Thiên Đàng, ấy cảnh
thăng cảnh đọa.
Địa
Ngục dành để cho kẻ bạo tàn, Thiên Đàng cho người
Đạo Đức, thì cân công bình Thiêng Liêng đã sẵn. Ấy
vậy chẳng buộc ai vào Địa Ngục, mà cũng chẳng nâng
đỡ ai đến Thiên Đàng. Đôi đường hiển hiện, tự
quyền người lựa chọn, siêu đọa tại nơi mình, các
đấng Thiêng Liêng duy có thương mà chỉ dẫn. (Hay - Ấy
là lời khen của Đức Lý Giáo Tông).
Thầy đến, nếu dùng cả quyền Thiêng Liêng làm cho chúng
sanh thấy đặng đủ đức tin, theo đường siêu mà bỏ
nẻo đọa, thì cả nhơn loại ắt xu hướng vào đường
đạo đức, thì là Thầy nâng đỡ các chơn hồn vào Thiên
Đàng, không cho vào Địa Ngục, (hay - Ấy là lời khen của
Đức Lý Giáo Tông.) thì sự công bình Thiêng Liêng bởi
nơi nào bền vững. Thưởng phạt ra bất minh, ắt phải
truất bỏ cơ luân hồi chuyển kiếp.
Thầy cùng các đấng Thiêng Liêng không nhơn thân phàm ngữ,
thế nào mà thông công cùng cả chúng sanh, lại còn cao
khó vói, khuất không rờ, chỉ nhờ lương sanh giúp công
gầy đạo đức. Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài là
người giúp công cho Thầy và các đấng Thiêng Liêng gầy
Đạo.
Luâu hồi chuyển kiếp là cơ mầu nhiệm để cho các chơn
hồn đặng cứu chuộc và tấn hóa, nếu truất bỏ cơ
mầu nhiệm ấy đi, thì Đạo nơi nào mà bền chặt ?
Nhơn loại có hóa nhân, quỉ nhân và nguyên nhân, ấy là
có phân đẳng cấp, Nếu Thầy dùng huyền diệu Thiêng
Liêng mà làm cho nhơn loại cả thảy đều thấy đặng
cơ mầu nhiệm của Đạo, đồng đặng đắc kiếp, thì
phẩm vị Thiêng Liêng cũng không còn trật tự.
Trước đã nói Hiệp Thiên Đài là chơn thần, Cửu Trùng
Đài là xác thịt, Bát Quái Đài là linh hồn. Hồn đặng
tương hiệp cùng xác phải nhờ chơn thần, chơn thần lại
là bán hữu hình, tiếp vô vi mà hiệp cùng hình thể, cũng
như Đạo tiếp Thánh Đức của các đấng Thiêng Liêng
mà rưới chan cho nhơn loại (hay). Nhơn loại đặng liên
hiệp cùng Trời thể nào, thì Cửu Trùng Đài phải liên
hiệp cùng Bát Quái Đài thể ấy .
Bát Quái Đài là hồn của Đạo mà Thầy đã nắm chặt
phần hồn thì xác phải nương theo hồn, mới mong giữ
bền sanh hoạt, hồn Đạo Thầy đã nắm chặt rồi ; thì
Đạo chẳng hề khi nào còn chịu dưới tay phàm nữa (hay
lắm, hay lắm - Ấy là lời khen của Đức Lý Giáo Tông.).
Ấy vậy Thầy nói không chịu giao Thánh Giáo cho tay phàm
là tại vậy.
P.C.T.-
" Lại nữa, Hiệp-Thiên-Đài là nơi của Giáo-Tông
đến thông công cùng Tam Thập Lục Thiên, Tam Thiên Thế
Giái, Lục Thập Thất Địa Cầu, Thập Điện Diêm Cung
mà cầu siêu cho cả Nhơn-loại ".
C.G.-
Câu nầy, đã có giải rõ trong chú giải Pháp Chánh Truyền,
Cửu Trùng Đài Nam Phái, nên không cần nói lại.
P.C.T.-
" Thầy đã nói sở dụng Thiêng Liêng ? Thầy cũng
nên nói sở dụng phàm trần của nó nữa ".
C.G.-
Sở dụng Thiêng Liêng là Hiệp Thiên Đài, làm trung gian
của Giáo-Tông cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, nghĩa
là: trung gian của Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài ; vì
Cửu Trùng Đài cầm quyền độ rỗi, còn Bát Quái Đài
cầm quyền siêu-rỗi. (hay) Cả chơn thần toàn trong thế
giái đặng tương hiệp nhau chỉ phải nhờ nơi cửa Hiệp
Thiên Đài, ấy là phần Thiêng Liêng ; còn phần phàm trần
thì cầm quyền luật lệ, cũng như Đạo có phép Thiên
Điều, mà gìn giữ công bình Thiêng Liêng cơ tạo, chế
sửa nguơn Tranh đấu (1) ra nguơn bảo tồn (1) làm cho nhơn
loại đặng hòa bình, lánh xa cơ tự diệt (hay- Ấy là
lời khen của Đức Lý Giáo Tông.)
P.C.T.-
" Hiệp Thiên Đài dưới quyền Hộ Pháp Chưởng Quản,
tả có Thượng Sanh, hữu có Thượng Phẩm, phần của Hộ
Pháp Chưởng quản về Pháp ".
C.G.-
Vậy thì Hiệp Thiên Đài phải dưới quyền Hộ Pháp chưởng
quản, cũng như Cửu Trùng Đài dưới quyền Giáo Tông và
Bát quái Đài dưới quyền Đức Chí Tôn làm chủ.
-------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Nguơn Tạo Hóa, Nguơn Tấn Hóa và Nguơn Bảo Tồn,
đã giải rõ trong bài chú thích Pháp Chánh truyền Cửu
Trùng Đài Nam Phái.
Dưới Cửu Trùng Đài có Tòa Tam Giáo cũng như Bát Quái
Đài có Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng. Khi nào có Tòa Tam Giáo
Cửu Trùng Đài xử đoán rồi mà người bị cáo còn uất
ức hàm oan thì mới kêu nài đến Tòa Hiệp Thiên Đài,
thảng như Tòa Hiệp Thiên Đài xử rồi mà người bị
cáo còn uất ức nữa thì phải kêu nài lên Tòa Tam Giáo
Thiêng Liêng là quyền của Bát Quái Đài chưởng quản.
Dầu cho lập Tòa Tam Giáo dưới Cửu Trùng Đài hay là đệ
lên cho Tòa Tam Giáo Thiêng Liêng là Bát Quái Đài, cũng
đều phải do nơi Hộ Pháp.
-----------------------------------------------------------------------------------------------------
Hộ Pháp là ai ?
Huyền vi mầu nhiệm của Đạo có Thiên Điều, cơ bí mật
của Đời có luật pháp, Hộ Pháp là người nắm cơ mầu
nhiệm của Đạo, nắm luật của Đời, xử đoán chư Chức
Sắc Thiên Phong và cả Tín Đồ cùng là xin ban thưởng
; công thưởng, tội trừng nơi thế nầy. Hễ có phàm trị
mới khỏi Thiên trị ; phải chiếu luật Đạo cho toàn
cả Tín Đồ, khỏi bị Thiên Điều, giữ phẫm vị Thiêng
Liêng mỗi Chức Sắc, ắt phải gìn giữ đạo-đức của
mỗi người . Người dùng hình phàm làm cho giảm tội Thiêng
Liêng (Hay - Ấy là lời khen của Đức Lý Giáo Tông). Nắm
cơ mầu nhiệm công bình mà đưa các chơn hồn vào Bát
Quái Đài, hiệp cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Người
nắm trọn cả luật Đạo và luật Đời đặng xử đoán,
làm chủ phòng Xử Đoán.
Dưới quyền Hộ Pháp có bốn vị :
Bốn vị ấy đồng quyền cùng Hộ Pháp ; khi đặng lịnh
người sai đi hành chánh, song mỗi vị có mỗi phận sự
riêng, quyền hành riêng là :
Tiếp-Pháp là người tiếp luật lệ, đơn trạng kiện
thưa, có quyền xét đoán, coi có nên phân định hay chăng
; những điều nào không đáng thì chiếu theo Đạo Luật,
hoặc bỏ qua, hoặc trả lại Cửu Trùng Đài còn như đáng
việc phải phân định, thì phải dâng lên cho Khai-Pháp
định đoạt.
Khai-Pháp khi tiếp đặng luật lệ, đơn trạng kiện thưa
của Cửu Trùng Đài định xử hay là đã xử nơi Tiếp-Pháp
dâng lên, thì quan sát coi nên cho cả Chức Sắc Hiệp Thiên
Đài biết cùng chăng, như đáng việc thì tức cấp nhứt
diện tư tờ cho Cửu Trùng Đài xin đình đãi nội vụ
lại bao lâu tùy ý, song chẳng đặng phép quá 15 ngày, nhứt
diện trình cho Hộ Pháp hay, đặng Hộ-Pháp mời nhóm HI.P
THIÊN ĐÀI khi hội Hiệp Thiên Đài thì Khai-Pháp phải khai
rõ nội vụ ra cho Hiệp Thiên Đài quyết định, như quyết
định phải sửa cải Luật lệ hay là buộc án, thì Khai-Pháp
phải dâng lại cho Hiến Pháp.
Hiến Pháp khi tiếp đặng luật lệ đơn trạng, thì phải
mở đường tra vấn cho minh lẽ nên hư, phải trái, đủ
chứng cớ rõ ràng, rồi dâng lên cho Bảo Pháp cho đủ
nội vụ, cấm Hiến-Pháp không đặng thông đồng cùng
Hiến-Đạo và Hiến-Thế. Ấy vậy kể từ việc chi đã
giao vào tay Hiến-Pháp rồi, thì đã ra bí mật, dầu cho
chức sắc Hiệp-Thiên-Đài cũng không đặng biết tới
nữa.
Bảo-Pháp thì giữ gìn sự bí mật ấy cho kín nhiệm, làm
tờ đoán xét và định án chiếu y theo luật Đạo rồi
dâng lên cho Hộ-Pháp đặng người phân xử.
Bảo-Pháp là người Đầu-Phòng Văn của Hộ-Pháp.
P.C.T.
- "Lo Bảo-hộ luật đời và luật Đạo, chẳng ai
qua luật mà Hiệp-Thiên-Đài chẳng biết".
C.G.
- Nói tóm lại, Hộ-Pháp là người bảo-hộ, luật đời
và luật Đạo, gìn giữ cho Đạo khỏi qui phàm, nâng đỡ
cho đời vào Thánh-vị, chẳng ai qua luật mà Hiệp-Thiên-Đài
chẳng biết, dầu toàn Cửu-Trùng-Đài hay là Hiệp-Thiên-Đài
sái luật thì Hộ-Pháp phải phân xử cho phân minh, vì vậy
mà Thầy buộc cả chi "Pháp" phải thề giữ dạ vô tư
mà hành chánh.
Thượng-Phẩm
là ai?
Thượng-Phẩm là người thay mặt cho Hộ-Pháp, phải tùng
lịnh Hộ-Pháp mà hành chánh. Hể bước chơn vào cửa Đạo,
thì là có Thiên-Phẩm, mà hể có Thiên-Phẩm rồi thì Thầy
lại đem lên cho tới Thượng-Phẩm mới trọn nghĩa Phổ-Độ.
Các chơn linh dầu nguyên-nhân hay hóa-nhân đều nhờ Thượng-Phẩm
gìn-giữ binh vực cho ngồi đặng an-ổn địa-vị mình,
giúp đỡ cho đức hạnh trổi thêm cao cho khỏi phạm luật
lệ; xem sóc ngôi thứ chẳng cho giành-giựt lẫn nhau, ắt
giữ cho Cửu-Trùng-đài đặng hòa nhã êm-đềm, khép cửa
Thiên Môn, cấm đường không cho các chơn linh thối bước
(hay). Phẩm trật nhờ người mà đặng thăng lên, hay là
bị người mà phải hạ.
Người nắm luật Đạo nơi tay mà binh vực ca chư chức
sắc Thiên-phong và các Tín-Đồ, chẳng cho ai phạm luật,
vừa lo cho người Đạo-hạnh lên cho tột phẩm vị mình.
Thượng-Phẩm là chủ phòng cải luật, làm Trạng-Sư của
Tín-Đồ.
P.C.T.
- Thượng-Phẩm thì quyền về Đạo, dưới quyền:
Lo về Tịnh-Thất, mấy Thánh-Thất đều xem sóc chư Môn-Đệ
Thầy, binh vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc
cho đặng.
C.G.
- Các Tịnh-Thất đều về quyền của Thượng-Phẩm cai-quản.
Cả Tín-Đồ thì về phần người binh-vực, chẳng cho ai
phạm luật đến khổ khắc cho đặng, các chức sắc trấn
nhậm mấy Thánh-Thất phải do nơi quyền người thuyên
bổ, liệu lượng tài sức mỗi người, mà chỉ định
phận sự (công bình vậy).
Thượng -Phẩm là cây cờ của Đạo. Hễ Đạo nơi nào
thì Thượng-Phẩm nơi ấy.
Thượng-Phẩm đối quyền với Chưởng-Pháp bên Cửu-Trùng-Đài.
Hiệp-Thiên-Đài là luật-lệ mà Thượng-Phẩm lại là
Chánh-Trị, ấy vậy Thượng-Phẩm là người của Cửu-Trùng-Đài
nơi Hiệp-Thiên-Đài.
Bốn vị Thời-quân của Chi Đạo đồng quyền cùng Thượng-Phẩm
khi người ban quyền hành-chánh, song mỗi vị có phận-sự
riêng, quyền-hành riêng là:
Tiếp-Đạo là người tiếp cáo trạng án-tiết thì phải
quan-sát trước coi có oan khúc chi chăng, đáng ra binh vực
thì phải dâng lại cho Khai-Đạo.
Khai Đạo khi đặng tờ kêu nài cầu-rỗi, thì liệu như
đáng rỗi, phải nhứt diện tư tờ qua cho Tòa Tam-Giáo
Cửu-Trùng-Đài xin đình án bao lâu tùy ý, song chẳng đặng
phép quá 15 ngày, nhứt diện dâng sớ cho Hộ-Pháp cầu
nhóm Đại-Hội Hiệp-Thiên-Đại đặng định liệu, như
phải đáng bào chữa thì Khai-Đạo phân-giải giữa hội
cho ra lẽ oan- ưng, Hiệp-Thiên-Đài cho lịnh thì mới dâng
nội vụ lên cho Hiến-Đạo.
Hiến-Đạo khi đặng tờ chi của Khai-Đạo dâng lên, tức
cấp phải tìm biết căn nguyên cho rõ ràng, cấm không cho
Hiến-Đạo thông đồng cùng Hiến-Pháp và Hiến-Thế.
Sự chi đã vào tay Hiến-Đạo rồi thì đã ra bí mật,
dầu cho Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài cũng không đặng biết
tới nữa.
Hiến-Đạo phải dâng nội-vụ lên cho Bảo-Đạo.
Bảo-Đạo phải gìn-giữ bí mật ấy cho kín nhiệm, làm
tờ lý-đoán binh-vực chiếu y luật Đạo rồi dâng lên
cho Thượng-Phẩm.
Thượng-Phẩm và tứ vị Thời-Quân của chi Đạo, phải
thề giữ dạ vô tư mà hành chánh.
Thượng-Sanh
là ai?
Vật-chất hữu-sanh thảo-mộc hữu-sanh, cầm-thú hữu-sanh,
nhơn-loại hữu-sanh, tức là chúng-sanh. Trong chúng-sanh đã
có nguyên-sanh (1), hóa-sanh (2) và quỉ-sanh (3)
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(1) Nguyên-sanh là gốc từ Khai-Thiên đã có
(2) Hóa-sanh là Khai-Thiên rồi mới biến hóa ra
(3) Quỉ-sanh là hai phẩm kia phạm Thiên-Điều bị sa-đọa.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Tỷ như nguyên-nhân là khi Khai-Thiên rồi, thì đã có chơn-linh
ấy còn hóa-nhân là chơn-linh vật-loại, đoạt đến phẩm-vị
nhơn-loại, còn quỉ-nhơn là hai chơn-linh kia xu hướng ác-hành
mà bị đọa-đày vào quỉ-vị.
Trong các kiếp hữu-sanh duy có phẩm người là cao hơn hết,
nên gọi là Thượng-Sanh.
Lập Tam-Kỳ Phổ-Độ này, Thầy đem các chơn-linh dầu
nguyên-sanh, quỉ-sanh hay là hóa-sanh lên phẩm-vị nhơn loại
mới trọn câu phổ-độ.
Chơn linh các nguyên-nhân bị đọa trần, quỉ-nhơn chuộc
tội hay là hóa-nhân thăng cấp đều nhờ Thượng-Sanh độ-rỗi
(ấy là thế độ) nên. Thượng-Sanh làm chủ của Thế-Đạo,
nắm luật thế nơi tay, mà dìu dắt cả chúng sanh vào cửa
Đạo.
Ai làm ngăn cản bước đường tu của thế-gian thì Thượng-Sanh
đặng quyền kiện cùng Tòa-Thánh; Chư Chức-Sắc phạm
luật làm cho chúng-sanh phải xa lánh Đạo, thì người có
quyền xin trị tội tức thì.
Thượng-Sanh làm chủ phòng Cáo-Luật.
P.C.T.
- Thượng-Sanh thì lo về phần Đời.
C.G. - Mỗi sự chi thuộc về đời thì về quyền của Thượng-Sanh
Dưới quyền của Thượng-Sanh có bốn vị Thời-Quân là:
Bốn vị Thời-Quân chi Thế đặng cùng quyền cùng Thượng-Sanh
khi người ban lịnh hành-chánh; song mỗi vị có mỗi phận
sự riêng quyền hành riêng là:
Tiếp-Thế khi đặng thế luật hay là trạng-cáo chi của
ngoại Đạo cùng là của Tín-Đồ, mà kiện thưa trách-cứ
Chức-Sắc Thiên-Phong, bất câu phẩm-vị nào, phải dâng
lên cho Khai-Thế.
Khai-Thế khi tiếp đặng đơn trạng chi chi của Tiếp-Thế
dâng lên, thì phải kiếm hiểu các nguyên do coi có đáng
buộc án cùng chăng, như đáng thì nhứt diện tư tờ qua
Cửu-Trùng-Đài cho biết nội-vụ, nhứt diện dâng sớ
cho Hộ-Pháp cầu người mời hội Hiệp-Thiên-Đài đặng
định đoạt. Khi đặng lịnh của Hiệp-Thiên-Đài thì
Khai-Thế phải dâng nội-vụ lên cho Hiến-Thế.
Hiến-Thế khi tiếp đặng nội-vụ của Khai-Thế dâng qua,
thì tức cấp phải tra xét cho đủ chứng cớ rõ ràng rồi
dâng lên cho Bảo-Thế. Cấm nhặt không cho Hiến-Thế thông
đồng cùng Hiến-Pháp và Hiến-Đạo.
Mỗi việc chi đã vào tay Hiến-Thế rồi thì đã ra bí
mật, dầu cho Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài cũng không biết
tới nữa.
Bảo-Thế phải giữ-gìn sự bí-mật ấy cho kín nhiệm
rồi chiếu y theo Đạo-Luật và Thế-Luật mà làm tờ buộc
án, kế dâng lên cho Thượng-Sanh đặng người đến Tòa-Tam-Giáo
Cửu-Trùng-Đài, Hiệp-Thiên-Đài hay là Bát-Quái-Đài mà
buộc tội.
Bảo-Thế là người Đầu-Phòng Văn của Thượng-Sanh.
Thượng-Sanh là cây cờ của thế, tức là Đời, ấy vậy
đời nơi nào thì Thượng-Sanh nơi đó. Người có quyền
xem-xét kẻ hành đạo coi Thánh-Đức có đắc nhơn tâm
cùng chăng, nhược bằng kẻ ấy thể Đạo không đủ tư
cách, thì người có quyền dâng sớ cầu xin thuyên-bổ.
Thượng-Sanh đối quyền với Chưởng-Pháp bên Cửu-Trùng-Đài.
Hiệp-Thiên-Đài là luật-lệ, mà Thượng-Sanh lại là Chánh-Trị,
ấy vậy là người của Cửu-Trùng-Đài nơi Hiệp-Thiên-Đài.
Thượng-Sanh và tứ vị Thời-Quân về chi Thế, cũng phải
thề giữ dạ vô tư mà hành-chánh.
Ngoài Pháp-Chánh-Truyền dưới quyền Hộ-Pháp thì còn Bảo-Văn-Pháp-Quân
(Arts Belles Littres) trước Thầy phong đỡ làm Tiếp-Lễ-Nhạc-Quân
nay đã vào chánh vị đặng chỉnh-đốn lễ-nhạc lại
cho hoàn-toàn, cho tớ ngày thành Đạo. Bảo-Sanh-Quân (Assistance
publique) Thầy đương phong đỡ làm Tiếp-Y-Quân đặng đợi
tới ngày thành Đạo. Bảo-Học-Quân và nhiều vị Chức-Sắc
khác nữa Thầy chưa lập.
Các vị ấy Hộ-Pháp còn đương chờ đến.
P.C.T.
- "Thầy khuyên các con lấy tánh vô-tư mà hành-đạo,
Thầy cho các con biết trước rằng: hễ trọng quyền thì
ắt có trọng phạt".
C.G.
- Vì lời khuyên của Thầy mà Đức Lý-Giáo-Tông xin buộc
cả Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài phải Minh-Thệ giữa Hội-Thánh
rằng: lấy dạ vô tư mà hành Đạo, lại muốn tỏ ra rằng:
Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài thật trọng quyền, Ngài mới
ban dây sắc lịnh, buộc cả Tín-Đồ và cả Chức-Sắc
Thiên-Phong, hễ mỗi Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài mang dây
sắc lịnh vào mình mà hành-chánh nơi nào, thì phải tuân
mạng, dầu lỗi quấy cũng phải chiều theo, chỉ để cho
Hội-Thánh có quyền định tội, lại buộc cả Chức-Sắc
nào đã thọ quyền của Hiệp-Thiên-Đài cũng phải minh
thệ, y như vậy mới đặng hành-chánh. (Bảo-Văn-Pháp-Quân
cũng phải vậy nữa nghe - Ấy là lời của Đức Lý-Giáo-Tông
dặn Bảo-Văn-Pháp-Quân).
Đạo-Phục
Của Hộ-Pháp
C.G.
Đạo-Phục của Hộ-Pháp có hai bộ, một bộ Đại-Phục
và một bộ Tiểu-Phục.
Bộ Đại-Phục, người phải mặc giáp, đầu đội Kim-Khôi
toàn bằng Vàng, trên Kim-Khôi có thể Tam-Sơn, giống như
cái chỉa ba ngạnh, chủ-nghĩa là Chưởng-Quản Tam-Thiên
bên Tây-Phương Cực-Lạc. Chơn đi hia, trên chót mủi hia
có chữ "Pháp", ngoài giáp thì choàng mãng bào, thế nào
bên tả phải giáp, bên hữu thì mãng. Tay hữu (bên Đạo,
nghĩa là bên Thượng-Phẩm) cầm Gián-Ma-Xử (thể, lấy
Đời chế Đạo) còn tay tả (bên Thế, nghĩa là bên Thượng-Sanh)
nắm sâu chuỗi 'từ-bi" (thể, lấy Đạo chế Đời) thành
ra nửa Đời nửa Đạo. Ngang lưng cột dây lịnh sắc có
ba màu Đạo (thể Chưởng-Quản Tam-Giáo nơi mình, nắm
trọn Thể-Pháp và Bí-Pháp đặng qui-nhứt, cái mối dây
lịnh sắc phải ngay chính giữa bụng.
Bộ Tiểu-Phục thì toàn bằng hàng vàng (màu Đạo), đầu
đội Hổn-Ngươn-Mạo màu vàng, bề cao một tấc ngay trước
trán chính giữa có thêu ba Cổ-Pháp của Tam-Giáo là Bình-Bát-vu,
cây Phất-Chủ, và bộ Xuân-Thu, ngay trên ba Cổ-Pháp ấy
có chữ "Pháp" lưng nịt dây lịnh sắc như Đại-Phục.
Khi ngồi Tòa-Tam-Giáo, thì mặc bộ Tiểu-Phục, còn Đại-Phục
thì chỉ để ngự trên ngai mình.
Đạo-Phục
Của Thượng-Phẩm
C.G.
Đạo-Phục của Thượng-Phẩm cũng có hai bộ, một bộ
Đại-Phục và một bộ Tiểu-Phục.
Bộ Đại-Phục thì toàn bằng hàng trắng, ngoài mặc áo
lá màu xanh có viền chỉ kim-tuyến bạc. Đầu để trần,
chơn đi giầy vô ưu màu trắng, trước mũi có chữ "Đạo
". Lưng buộc dây lịnh sắc y như của Hộ-Pháp song mối
phải thả ngay bên hữu. Tay hữu cầm Long-Tu-Phiến (nghĩa
là cây quạt kết đủ 36 lông cò trắng) trên đầu quạt
ngay giữa có Phất-Chủ, (thể quạt đưa các chơn-hồn
vào Tam-Thập Lục-Thiên, nghĩa là vào Thiên-vị) tay tả
cầm sâu chuỗi Từ-Bi, (thể dâng Đạo vào cho Hộ-Pháp).
Bộ Tiểu-Phục cũng bằng hàng trắng, lưng cột dây lịnh
sắc y như Đại-Phục, đầu đội Hổn-Ngươn-Mạo màu
trắng, y như của Hộ-Pháp, ngay giữa trán có thêu chữ
"Long-Tu-Phiến" ngay trên hình Long-Tu-Phiến co chữ "Đạo".
Khi đến Tòa-Tam-Giáo, thì phải mặc bộ Tiểu-Phục, còn
Đại-Phục thì chỉ dùng khi đến ngự trên ngai mình.
Đạo-Phục
Của Thượng-Sanh
C.G.
Đạo-Phục của Thượng-Sanh cũng có hai bộ, một bộ Đại-Phục
và một bộ Tiểu-Phục.
Bộ Đại-Phục cũng y như của Thượng-Phẩm, đầu bịt
"Thanh-cân" nghĩa là: (một bao đảnh xanh), lưng mang dây
Thần-Thông (nghĩa là một đường lụa đỏ) và nịt dây
lịnh sắc y như của Hộ-Pháp và của Thượng-Phẩm, song
mối phải thả ngay về bên tả. Nơi lưng giắt Thư-Hùng-Kiếm
(thể tạo thế và chuyển thế) tay hữu cầm cây Phất-Chủ
(thể, đưa thế vào cho Hộ-Pháp) tay tả nắm sâu chuỗi
"Từ-Bi" (thể dâng Đạo cho Nhơn-Sanh), chơn đi giầy vô-ưu
màu trắng, trước mũi có chữ "Thế".
Bộ Tiểu-Phục cũng y như của Thượng-Phẩm, song ngay trước
mão chính giữa có thêu Thư-Hùng-Kiếm và Phất-Chủ, ngay
trên hình Thư-Hùng-Kiếm và Phất-Chủ có chữ "Thế", lưng
cột dây lịnh sắc như Đại-Phục.
Khi đến Tòa-Tam-Giáo, thì phải mặc bộ Tiểu-Phục, còn
Đại-Phục thì chỉ khi đến ngự trên ngai mình.
Đạo-Phục
Của Thập-Nhị Thời-Quân
Đạo-Phục
của Thập-Nhị Thời-Quân có hai bộ, một bộ Đại-Phục
và một bộ Tiểu-Phục.
Bộ Đại-Phục toàn bằng hàng trắng, cổ trịt viền chỉ
Kim-Tuyến bạc. Đầu đội mão quạ cũng bằng hàng trắng,
lưng nịt dây lịnh sắc theo chi mình mà thả mối, chơn
đi giầy vô-ưu màu trắng.
Bộ Tiểu-Phục cũng toàn bằng hàng trắng. Lưng nịt dây
lịnh sắc như Đại-Phục. Đầu đội mão cũng như Tiểu-Phục
của Hộ-Pháp, Thượng-Phẩm và Thượng-Sanh, tùy theo chi
mình mà để Cổ-Pháp, chơn đi giầy vô-ưu màu trắng.
Khi Hành-Chánh thì mặc bộ Tiểu-Phục, còn Đại-Phục
thì khi Đại-Lễ. Còn nhiều vị Chơn-Quân khác hoặc đã
đến rồi hoặc chưa đến, mà Đạo-Phục còn để tạm
hay là Thầy chưa quyết-định, sau sẽ giải rõ.
Đạo-Phục
Của Bảo-Văn Pháp-Quân
C.G.
- Bộ Đại-Phục Của Văn-Pháp toàn bằng hàng trắng, đầu
đội Nhựt-Nguyệt-Mạo (1) như các Chức-Sắc nơi Hiệp-Thiên-Đài,
song hai bên ngay chính giữa có kết một bông sen năm cánh,
trên mỗi bông thì thêu Thiên-Nhãn Thầy ngay đường giữa
trước mão cũng kết một bông sen nhưng khỏi thêu Thiên-Nhãn.
Cả thảy là ba bông sen trên mão.
Lưng đai Bạch-Tuyết Thần-Quang bằng hàng trắng, bề dài
ba thước ba tấc ba phân; bề ngang ba tấc ba phân ba ly,
buộc mối chừa ra trước thế nào đủ thắt một bông
sen năm cánh.
Chơn đi giầy vô-ưu cũng bằng hàng trắng, trước mũi
mỗi chiếc cũng có một bông sen nhỏ hơn một thí.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
(1) Y theo Thánh Giáo ngày 13 Mars 1931 của Lục-Nương Diêu-Trì
cung dạy về mão của Thập-Nhị Thời-Quân thì cái vòng
tròn úp lên đầu đội là "Thế Nhựt-Hình" còn hình bán
nguyệt của mão là "Thế Nguyệt-Tượng". Vậy thì gọi
là Nhựt-Nguyệt-Mạo.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Đạo-Phục
Của Bảo Sanh-Quân
C.G.
- Bộ Đại-Phục Của Bảo Sanh-Quân toàn bằng hàng trắng.
Đầu đội Nhựt-Nguyệt-Mạo (1) như các Chức-Sắc nơi
Hiệp-Thiên-Đài, ngay giữ mão từ ba phân lên 4 phân thêu
một Thiên-Nhãn; hai bên mão thêu hai Thiên-Nhãn nữa, cả
thảy là ba. Vòng theo vành mão cột một sợi dây Tiên-Thằng,
(bề ngang tám phân, bề dài hai thước) buộc thế nào chừa
Thiên-Nhãn ngay giữa mão ra, cho hai mối thòng xuống hai
bên vai. Lưng đai Song-Quang Thần-Thông, nghĩa là một đường
lụa trắng, kết hai bên hông hai vòng vô vi.