CON ÐƯỜNG VỀ VỚI ÐỨC
CHÍ TÔN
Hà
Ngọc Duyên
Thường nhiều người nghĩ rằng chỉ có cách tu chơn hay
tịnh luyện mới dẫn con người về với Đức Chí Tôn. Nhưng
theo Đạo Cao Đài, chẳng những theo đường tu chơn, mà
theo đường tu nhơn đạo tức theo Cửu Thiên Khai Hóa (theo
Hội Thánh Cửu Trùng Đài), và theo Thập Nhị đẳng cấp
Thiêng Liêng (theo Hội Thánh Phước Thiện) con người cũng
được về với Đức Chí Tôn.
Hai cách tu hành trong giáo lý Cao Đài dẫn con người
theo hai đường về với Đức Chí Tôn :
Tu chơn hay tịnh luyện,
tức luyện Tam Bửu, Tinh Khí Thần hiệp nhứt, chơn thần
hườn nguyên, chơn thần chính là Thần sẽ về hội hiệp với
Đức Chí Tôn không qua cỏi giới nào khác, vì con người đã
đắc Đạo tại thế. Nhưng muốn tu chơn, người tu theo Đạo
Cao Đài phải theo con đường tu nhơn đạo để làm tròn Tam
Lập trước, rồi mới được vào tu chơn để nhận bí pháp
luyện Đạo. Đây là chức năng “độ sanh” của Đạo Cao
Đài. Chức năng sẽ hợp với thời kỳ Đạo Cao Đài, chuyển
sang phần Bí Pháp để độ con người đắc đạo tại thế.
Tu nhơn đạo
để đạt địa vị nhơn phẩm. Người tu theo Đạo Cao Đài theo
con đường tu nhơn đạo, sau khi qui liễu, chơn thần và
linh hồn cùng về với Đức Chí Tôn. Con đường này rất khó
khăn, không dễ gì thực hiện, nếu lúc sanh tiền, người tu
theo Đạo Cao Đài không đạt được địa vị nhơn phẩm và làm
tròn Tam Lập. Chơn hồn (chơn thần + linh hồn) người qui
liễu phải qua nhiều cảnh giới, mỗi cảnh giới chơn hồn
phải tu tiến mới được lên cảnh giới cao hơn, nếu không
sẽ bị luân hồi. Về với Đức Chí Tôn không dễ dàng. Đây là
chức năng “độ tử” của Đạo Cao Đài. Chức năng này
phù hợp với thời kỳ Đạo Cao Đài mở Thể Pháp, dẫn dắt
chúng sanh theo con đường của Hội Thánh.
Chức năng của Đạo Cao Đài : Độ Sanh và Độ Tử.
Có 3 cách về với Đức Chí Tôn hay là 3 cách lập vị cho
mình. Cách thứ nhứt là theo con đướng Cửu Thiên Khai Hóa
hay là Hội Thánh Cửu Trùng Đài để dùng tài sức mình lập
công đoạt Đạo. Cách thứ hai là theo Thập Nhị đẳng cấp
Thiêng Liêng hay Hội Thánh Phước Thiện, tức dùng Đức của
mình, có nghĩa là dùng sự thương yêu để cứu độ chúng
sanh. Theo 2 cách trên, người tu theo Đạo Cao Đài đi đến
cái mục tiêu là làm tròn Tam Lập (Lập Đức, Lập Công, Lập
Ngôn). Người trong Đạo Cao Đài thường gọi 2 cách này là
tu theo nhơn đạo. Trong thời kỳ đại ân xá, Đức Chí Tôn
cũng cho những người tu theo nhơn đạo cũng được trở về
ngôi vị củ. Cách thứ ba còn được gọi là con đường thứ ba
Đại Đạo, theo đó người tu theo Dạo Cao Đài sau khi làm
tròn Tam Lập rồi, nếu muốn thì theo con đường tu chơn
hay tịnh luyện để luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần,
luyện Thần hườn Hư. Đó là luyện Tam Bửu, để Tinh Khí
Thần hiệp nhất, mà “hườn nguyên chơn thần”, nghĩa là đưa
chơn thần trở về bản chất mầu nhiệm ban đầu lúc Đức Phật
Mẫu ban cấp cho mỗi người khi đầu thai để chơn thần mang
linh hồn xuống cỏi phàm trần. “Luyện Khí hóa Thần” hay
là luyện chơn thần để chơn thần hóa ra Thần, Thần là
linh hồn, tức là chơn thần hiệp nhứt với linh hồn để
hườn hư, nghĩa là trở nên “hư vô”, đồng bản chất với
Thượng Đế.
Khi Tinh Khí Thần hiệp nhứt thì hườn hư, người tu theo
Đạo Cao Đài lúc đó sẽ đắc đạo tại thế và có thể xuất
chơn thần của mình về hội hiệp với Đức Chí Tôn, gặp các
Đấng Thiêng Liêng để học thêm Đạo, và sau khi bỏ xác
phàm thì chơn thần chính là Thần hay linh hồn về thẳng
với Đức Chí Tôn không qua cảnh giới nào khác.
Đây là điểm khác biệt với con đường tu nhơn đạo. Người
tu nhơn đạo không đắc quả tại thế, mà chỉ sau khi qui
liễu thì mới được về với Đức Chí Tôn, nhưng bằng cả linh
hồn và chơn thần, gọi chung là chơn hồn, vì chơn thần
chưa hiệp nhứt với linh hồn để hườn hư.
Hai con đường tu trong giáo lý Cao Đài là tu theo nhơn
đạo và tu chơn hay tịnh luyện thể hiện hai chức năng của
Đạo Cao Đài là ĐỘ TỬ và ĐỘ
SANH.
ĐỘ TỬ là độ chơn hồn của người tu theo Đạo Cao Đài sau
khi qui liễu, để dẫn chơn hồn họ về với Đức Chí Tôn.
ĐỘ SANH là độ cho người tu theo Đạo Cao Đài đắc quả tại
thế bằng cách truyền bí pháp để luyện Đạo.
Phương hướng 1 : ĐỘ TỬ
Người tu theo Đạo Cao Đài theo con đường “Cửu Thiên Khai
Hóa” tức theo Hội Thánh Cửu Trùng Đài và theo con đường
“Thập Nhị đẳng cấp Thiêng Liêng” tức theo Hội Thánh
Phước Thiện, gọi chung là tu theo nhơn đạo, cũng được về
với Đức Chí Tôn, nhưng về bằng cả linh hồn lẫn chơn thần,
và chỉ được về sau khi đã qui liễu, tức là lúc đó chơn
hồn (chơn thần và linh hồn) rời bỏ xác phàm sẽ được độ
dẫn từng bước một, qua nhiều Cung, nhiều Điện, qua nhiều
cảnh giới ở cỏi Thiêng Liêng, mà ở mỗi cảnh giới là một
trường học, và là một trường thi để chơn hồn học hỏi và
rèn luyện thi lên cảnh giới cao hơn. Nếu không đậu để
lên cảnh giới cao hơn thì phải ở cảnh giới củ tu tiến
mãi, hoặc phải chịu luân hồi để học hỏi thêm.
Thánh giáo gọi con đường này là "đường của các nhơn
phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi" (TNHT), nếu
chẳng noi theo con đường đó thì "các bậc ấy đều lạc
bước mất hết ngôi phẩm" (TNHT)). Chúng tôi gọi con
đường mà các chơn hồn về với Đức Chí Tôn nói trên là “con
đường luân hồi”, vì nếu không được “đậu” lên cảnh
giới cao hơn thì phải chịu luân hồi. Ngay chính chơn hồn
đã qua khỏi tầng Tạo Hóa Thiên (do Đức Phật Mẫu chưởng
quản) là tầng cuối cùng của Cửu Trùng Thiên, để nhập vào
Bát Quái Đài mà vào Ngọc Hư Cung ở tầng Hư Vô Thiên, để
vào Lôi Âm Tự kiến Phật A Di Đà, mà nếu thiếu công đức
cũng bị rơi xuống ao Ô Trì, tức là chịu luân hồi lại nữa.
Đức Phạm Hộ Pháp đã giảng rõ điều này là “con đường
về với Đức Chí Tôn không phải dễ, mà cũng không phải về
là tới liền”. Muốn về với Đức Chí Tôn, ta phải qua
nhiều Cung, nhiều Điện. Mỗi Cung ta gặp một sự lạ, mỗi
Điện ta gặp một huyền vi khác nhau, phải đi từng Cung
nầy đến Điện nọ, nên gọi là “Dục tấn trên con đường
Thiêng Liêng Hằng Sống”. Về được với Đức Chí Tôn thì
không có gì hạnh phúc bằng.
Một kiếp tu chưa chắc đã về được với Đức Chí Tôn, muôn
ngàn kiếp mà nếu thiếu tu, cũng không khi nào về được
với Đức Chí Tôn (Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống -
Thuyết Đạo đêm 13 tháng 8 năm Mâu Tý , 16-9-1948).
Dù trong thời kỳ Đại Ân Xá, chỉ "ngộ kiếp một đời tu"
cũng về được với Đức Chí Tôn, nhưng việc đó không phải
dễ dàng nếu không làm đúng theo "lẻ Đạo của Thầy".
Tuy Đức Chí Tôn đặc ân cho những người tu theo Nhơn Đạo
nói trên cũng được về với Đức Chí Tôn, nhưng trước hết
họ phải đạt cho được phẩm vị nhơn loại, tức nhơn phẩm.
Pháp Chánh Truyền viết : “Lập Tam Kỳ Phổ Độ này, Thầy
đem các chơn linh dầu nguyên sanh, quỷ sanh hay hóa sanh
lên phẩm vị nhơn loại mới tròn câu Phổ Độ.” Thánh
Giáo cũng dạy : “Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong
nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm;
loài người phải chuyển kiếp ngàn năm muôn lần mới đến
địa vị nhơn phẩm.” (TNHT) Thánh Giáo cũng dạy : “Đạo
là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi.”
(TNHT).
Con người muốn đạt địa vị nhơn phẩm phải theo con đường
“Cửu Thiên Khai Hóa” tức theo Hội Thánh Cửu Trùng Đài,
hay con đường “Thập nhị đẳng cấp Thiêng Liêng” tức theo
Hội Thánh Phước Thiện để thực hành Tam Lập (Lập Đức, Lập
Công, Lập Ngôn) mà lập vị mình. Sau khi qui liểu, chơn
hồn của những người đó tùy theo công đức ở dương thế, mà
sẽ được độ dẫn vào cảnh giới nào tương xứng ở cỏi Thiêng
Liêng. Chỉ trong thời kỳ đại ân xá này, chơn hồn của
những người ở dương thế đã đạt địa vị nhơn phẩm mới được
độ dẫn về cỏi Thiêng Liêng, chớ trong trường hợp bình
thường, chơn hồn phải tái kiếp muôn lần để đi hết 72 Địa
Cầu cho đến Đệ Nhứt Cầu, qua Đệ Nhứt Cầu mới đến Tam
Thiên Thế Giới, rồi Tứ Đại Bộ Châu, qua khỏi Tứ Đại Bộ
Châu mới đến Tam Thập Lục Thiên, đến Tam Thập Lục Thiên
rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng vào Bạch Ngọc
Kinh (xin xem sơ đồ Càn Khôn Vũ Trụ đính kèm).
Tóm lại, phương hướng độ tử trong giáo lý Cao Đài là con
đường mà các chơn hồn của những người tu theo Đạo Cao
Đài đã đạt địa vị nhơn phẩm ở dương thế, sau khi qui
liểu, được độ dẫn về với Đức Chí Tôn, để lánh khỏi luân
hồi. Đây là con đường lánh luân hồi của các bậc nhơn
phẩm.
Phương hướng 2 : ĐỘ SANH
“Độ Sanh” là mục tiêu xa xôi của Đạo Cao Đài phải thực
hiện. Vai trò của Quan Thế Âm Bồ Tát trong hàng Tam Trấn
của Đạo Cao Đài là vai trò “độ sanh”, tức độ con người
đắc đạo trong kiếp sanh của mình. Đức Hộ Pháp giảng : “Từ
khổ hải về cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống phải đi ngang
sông Ngân Hà, có một chiếc thuyền Bác Nhã của Đức Quan
Âm Bồ Tát, vâng lệnh Đức Phật Di Lặc, chèo thuyền qua
lại sông Ngân Hà và khổ hải đặng độ sanh Thiên hạ.”
(Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống – Thuyết Đạo ngày 29
tháng 9 năm Mậu Tý, 1948). ý niệm “độ sanh” gắng liền
với ý niệm “Bác Nhã”, nên “độ sanh” là độ dẫn con người
đắc Đạo tại thế, để sau này con người đều là Thần Thánh
tiên Phật tại thế theo như các lời tiên tri trong giáo
lý Cao Đài. Ý niệm “độ sanh” cũng được thể hiện trong
các bài kinh của Đạo Cao Đài: “Chèo thuyền Bác Nhã,
Ngân Hà độ sanh” (Kinh Giải Oan), hay “Bộ Công Di
lạc, Tam Kỳ độ sanh “ (Kinh Tiểu Tường).
Đạo Cao Đài “độ sanh” con người tức là truyền bí pháp để
họ tịnh luyện để hiệp nhứt Tinh Khí Thần, mà “siêu phàm
nhập thánh”, “phản bổn hườn nguyên”, tức là độ con người
đắc đạo trong kiếp sanh của mình. Không phải ai cũng
được truyền bí pháp luyện Đạo. Theo giáo lý Cao Đài, chỉ
có những người đã theo con đường Cửu Thiên Khai Hóa hay
theo con đướng Thập Nhị đẳng cấp Thiêng Liêng, và họ đã
làm tròn Tam lập rồi, mới được tiếp tục con đường tu
chơn hay tịnh luyện.
Thực ra, không thể xác định ai đã làm tròn Tam Lập.
Chính Đức Hộ Pháp đã xác nhận điều đó. Việc xác nhận ai
đủ tiêu chuẩn theo đường tu chơn sẽ do Thiêng Liêng phán
xét : Phái Chiếu Minh xin keo thể hiện Thiên Ý, còn ở
Tòa Thánh Tây Ninh, Đức Hộ Pháp trục chơn thần cho họ
rồi cho hội diện cùng quyền năng Thiêng Liêng, nếu có đủ
Tam Lập thì vô, không thì ra. Thực tế, làm sao xác định
ai làm tròn Tam Lập ? Đức Hộ Pháp giảng : “Phương
pháp Tam Lập nói rõ ràng là chỉ đem trọn mảnh thân này
làm tế vật cho Chí Tôn, đặng phụng sự nhơn loại” và
“Đức Chí Tôn mở Đạo Cao Đài là lập một trường thi
công quả, hay nói cách khác là một trường thi Tam Lập,
nên 3 môn thi chánh là : Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn.
Người tín đồ Cao Đài là những sĩ tử sẽ tham dự kỳ thi ấy,
nên cần phải lo học tập và rèn luyện 3 môn thi ấy, cho
giỏi, cho hay để đi thi. Nếu không rèn luyện 3 môn thi
này, mà lại học những môn khác như luyện Đạo chẳng hạn
thì chắc chắn sẽ bị rớt.”
Phương hướng "độ sanh" là dẫn dắt con người đắc quả
trong kiếp sanh tức là "hồi cựu vị" về với Đức Chí Tôn
một cách trực tiếp không qua một cảnh giới nào ở cỏi
Thiêng Liêng. Trong Thánh Giáo, chúng ta chỉ thấy nói
đến việc độ rỗi 92 ức nguyên nhân hồi cựu vị, mà không
thấy nói đến độ rỗi toàn chúng sanh hồi cựu vị như các
nguyên nhân. Tại sao như vậy ? Thế sao gọi là đại ân xá
? Thánh Giáo cũng đã nói : “Đạo là con đường để Thánh
Tiên Phật đọa trần, do theo mà hồi cựu vị.” Theo
chúng tôi, các nguyên nhân hay Thần Thánh Tiên Phật đọa
trần vốn bản chất còn gần với Đức Chí Tôn nên dễ được độ
sanh để hồi cựu vị hơn các chúng sanh khác, vốn bản chất
đã tiêm nhiễm thất tình lục dục nên khó độ rỗi hồi cựu
vị ngay được. Các chúng sanh không phải nguyên nhân phải
qua nhiều kỳ thi, trước hết ở dương thế phải qua kỳ thi
nhơn đạo để đạt địa vị nhơn phẩm, rồi các bậc nhơn phẩm
sau khi qui liễu, chơn hồn của họ cũng được hướng dẫn
qua từng cảnh giới ở cỏi Thiêng Liêng (độ tử), phải học
để tu tiến, phải "thi" để vượt lên cảnh cao hơn mà lánh
khỏi luân hồi. Đây là con đường lánh luân hồi của các
bậc nhơn phẩm. Chỉ có những chơn hồn vượt qua được tất
cả cảnh giới mới về với Đức Chí Tôn. Còn các chơn hồn
khác sẽ luân hồi tái kiếp mãi để lại học hỏi ở cỏi phàm
cho tinh tấn, để làm tròn Tam Lập. Khi toàn chúng sanh
đều làm tròn tam Lập thì sẽ được độ sanh dễ để đắc quả
tại thế, tức hồi cựu vị trong kiếp sanh. Lúc đó toàn thể
nhơn loại đều là Thần Thánh Tiên Phật tại thế.
Phác họa con đường về với Đức Chí Tôn của người tín đồ
Cao Đài.
Con đường tu chơn tịnh luyện để đắc quả trong kiếp sanh
rất khó đạt được vì chỉ dành riêng cho một ít người có
tích cách nguyên nhân, có đủ điều kiện Tam Lập. Việc “độ
sanh” đòi hỏi phải truyền “bí pháp luyện Đạo”, vậy ai có
đủ quyền năng truyền bí pháp đó ? Không phải ai cũng làm
được việc này ! Có lẽ đến thời kỳ nào đó, có thể lúc Đạo
Cao Đài chuyển sang phần Bí Pháp đúng theo Thiên Cơ qui
định, sẽ có những bậc nguyên nhân vâng lệnh Đức Chí Tôn
giáng trần truyền bí pháp luyện đạo cho chúng sanh.
Do đó, trong thời kỳ hiện tại, chức năng của Đạo Cao Đài
là “độ tử”, tức là độ chơn hồn của tín đồ Cao Đài khi
qui liểu về với Đức Chí Tôn. Chúng ta tìm hiểu lời giảng
của Đức Hộ Pháp là tín đồ Cao Đài qui liểu sẽ về với Đức
Chí Tôn bằng linh hồn lẫn chơn thần, có nghĩa là gì ?
Khi tín đồ Cao Đài qui liểu sẽ được làm phép đoạn căn (nếu
có ăn chay từ 10 ngày trở lên lúc sanh tiền), rồi được
làm lể tuần cửu, kế đó là Tiểu Tường và Đại Tường. Riêng
Chúc Sắc Thiên Phong qui liểu thì chỉ làm lể cúng Tiểu
Tường và Đại Tường mà thôi. Việc cúng này theo chúng tôi
không có nghĩa là chơn hồn của người tu theo Đạo Cao Đài
được vào ngay cỏi Thượng Giới (đối với tín đồ) hay vào
ngay tầng Trời Hư Vô Thiên (đối với Chức Sắc Thiên Phong),
mà chỉ nói lên hai ý nghĩa :
1.
Nói lên giá trị tu hành của người tu theo Đạo Cao Đài
nếu thực hiện đúng “lẻ Đạo” của Đức Chí Tôn thì sẽ được
hưởng như vậy.
2.
Nhắc nhở chơn hồn người qui liểu biết đường về với Đức
Chí Tôn để cố gắng tu tiến.
Bởi vì chơn hồn đến cảnh giới nào là do nơi sự “thanh”
hay “trược” của chơn thần. Chơn thần chính là cái hộp
nhốt linh hồn trong đó. Lúc con người đi đầu thai, được
Đức Chí Tôn ban cấp cho một điểm linh quang, chiếc từ
Đại Linh Quang của Người. Linh hồn như vậy chỉ là một
điểm sáng không thể đi từ cỏi Thái Cực xuống cỏi phàm.
Do đó, Đức Phật Mẫu mới ban cho một chơn thần, tức là
xác thân Thiêng Liêng, bao bọc lấy linh hồn để mang linh
hồn qua 7 cỏi giới : Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng, Bồ
Đề, Thượng Giới, Trung Giới, Hạ Giới (cỏi Phàm). Qua mỗi
cỏi giới, chơn thần lại được bận một lớp áo tức là lớp
tinh thể, phù hợp với tinh thể ở cỏi đó, khi đến cỏi
phàm thì chơn thần được bao bọc bởi xác phàm. Chơn thần
như vậy đã được bọc 7 lớp áo qua 7 cỏi, nên khi về với
Đức Chí Tôn thì cứ qua một cỏi giới bỏ một lớp áo, cho
đến cuối cùng lên đến cỏi Thái Cực, chỉ có linh hồn về
với Đức Chí Tôn mà thôi (theo ĐTCG). Tuy nhiên chúng tôi
ghi nhận điểm khác biệt là theo như Kinh Cửu Cửu, khi
chơn hồn đến tầng Trời thứ 9 của Cửu Trùng Thiên tức Tạo
Hóa Thiên do Đức Phật Mẫu chưởng quản, thì chơn hồn vào
Cung Trí Giác để luyện Tam Bửu, để hườn hư chơn thần,
tức chơn thần và linh hồn hiệp nhứt.
Tóm lại, con người có 3 xác thân : xác phàm, chơn thần
và linh hồn. Sau khi qui liểu, chơn hồn (tức chơn thần
và linh hồn) lìa bỏ xác phàm. Linh hồn chỉ là một điểm
sáng không thể xuất khỏi Càn Khôn được, nên chơn thần
bao bọc linh hồn, chơn thần chính là cái xe đưa linh hồn
về cỏi Thiêng Liêng. Nhưng chơn thần dễ bị thất tình lục
dục khuấy động nên dễ bị ô trược. Chơn thần ô trược sẽ
chìm xuống cỏi âm u hơn, thường được gọi là phong đô,
theo Đạo Cao Đài gọi là cỏi Âm Quang, mang theo cả linh
hồn bên trong. Trái lại, nếu trong kiếp sanh, con người
có tu, có bồi bổ chơn thần cho thanh khiết nhẹ nhàng,
thì sau khi bỏ xác phàm, chơn thần sẽ mang linh hồn lên
cảnh giới cao hơn. Chơn thần càng thanh khiết, tức lúc ở
dương thế con người có nhiều công đức, thì lên cảnh giới
càng cao. Do đó, người tu theo Đạo Cao Đài sau khi qui
liễu, chơn hồn có thể đi đến 1 trong 3 nơi :
1.
Cỏi Âm Quang
: Người có nhiều tội lỗi, lúc sanh tiền thiếu công đức,
chơn thần vì ô trược rơi xuống cỏi này, kéo theo linh
hồn trong đó. Do đó, Đạo Cao Đài có phép đoạn căn là
chặt đứt 7 giây oan nghiệt khỏi chơn thần để chơn thần
không bị thất tình lục dục níu kéo.
2.
Cỏi Trung Giới
: Người tu theo Cửu Thiên Khai Hóa hay Thập Nhị đẳng cấp
Thiêng Liêng, có nhiều công đức, nhưng chưa tròn, chơn
thần sẽ mang linh hồn về cỏi Trung Giới, chờ Tòa Tam
Giáo xét định công tội (trường hợp 1 vị Chức Sắc Đại
Thiên Phong giáng cơ cho biết là Ngài đang ở Bắc Đại Bộ
Châu chờ Tòa Tam Giáo xét).
3.
Cỏi Thượng Giới
: Người tu theo Cửu Thiên Khai Hóa hay Thập Nhị đẳng cấp
Thiêng Liêng ở dương thế làm tròn Tam Lập, sau khi qui
liễu, chơn thần của họ sẽ mang linh hồn về Thượng Giới,
sẽ qua nhiều cảnh giới ở Cửu Trùng Thiên, mỗi cảnh giới
là một trường học, và là một trường thi để được lên cảnh
giới cao hơn. Sau khi ở tầng Trời thứ 9 là Tạo Hóa Thiên,
chơn thần mới hiệp một với linh hồn, rồi sau đó lên tiếp
ở 3 tầng Trời cao nhất của Thập Nhị Khai Thiên để được
Đức Phật Di Lạc phong Phật vị. Khi đạt xong Phật vị,
linh hồn vẫn chưa nhập vào Đại hồn của Thượng Đế (tức
Tiểu Linh Quang nhập vào Đại Linh Quang), mà linh hồn
còn phải tiếp tục qua cỏi Tứ Tượng và cỏi Lưỡng Nghi để
vào cỏi Thái Cực tức Bạch Ngọc Kinh. Tiều Linh Quang lúc
đó mới nhập vào Đại Linh Quang (xin xem Sơ Đồ Càn Khôn
Vũ Trụ).