ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

* * *

ĐẠI ĐẠO BÍ SỬ

 

Soạn Giả:
TRẦN VĂN RẠNG
Giáo sư sử học

Đại Đạo Năm Thứ 46
1971

 

Nhan uyên kỳ là cờ của Thầy Nhan Hồi tự là Nhan Uyên, học trò cưng của Đức Khổng Tử. Ông người cần mẫn, thức khuya dậy sớm, học Kinh Thi, chuộng kinh Lễ, làm việc gì không lầm lỗi hai lần, nói điều gì không cẩu thả. Khổng Tử khen là người có nhân. Nhưng ông chỉ sống được có 31 tuổi thì mất.

Sử ký của Tư Mã Thiên viết về Nhạn Hồi như sau : " Trong 70 môn đồ, Trọng Ni chỉ khen riêng Nhan Hồi hiếu học, mà Nhan Hồi ( Uyên) thường xác xơ, ăn tấm ăn cám mà cũng không được no, lại chết yểu. Trời kia báo đáp người thiện mà như vậy ư ?"

Trong câu chuyện của Đức Phạm Hộ Pháp nói với ông Đinh Công Trứ, cai trường Qui Thiện ngày 12-8-Đinh Hợi (1947) như sau :
" Nhan Hồi buổi nọ cố công thật hành lý - thuyết bình đẳng nhân loại, tránh nạn tương tàn tương sát nòi giống, nhưng rốt cuộc chưa làm được thì chết"
Ngài nói tiếp :
" Em biết cây cờ trắng trương nó lên để làm gì ? Biểu hiện ấy có phải để cứu nhân loài không ? chỉ một ngày kia, Thượng Sanh ra mặt đời là cây cờ Cứu Thế, còn Thượng Phẩm cây cờ Cứu Khổ. Qua đã thay cho Thượng Phẩm gầy dựng đào tạo. Thầy trò ta đã chung chịu cực khổ, từ khoảng rừng xanh ít người lai vảng. Mà buổi nọ qua vắng mặt, em đi ngược Thánh ý của qua."
"Cây cờ trắng dùng để khi nước nhà nòi giống ta xô xát, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô phương cứu chữa, thì ngày ấy là giá trị của nó"
Ngày giờ nào có kẻ thất thế, yếu cô, rách rưới, lang thang, đói cơm, khát nước , khổ não tâm hồn của nòi giống, không ai binh vực che chở. Chừng ấy nhiệm vụ trọng yếu của Thầy trò ta phải ra gánh vác. Đó là CƠ CỨU KHỔ thực hiện"

Phong trào hòa bình chung sống do các ông Thoại, Kỳ, Đại, Lợi tổ chức Ban Túc trực Bến Hải cắm cờ Nhan Uyên tại đó kêu gọi hai miền Nam Bắc sớm thống nhất, bị chánh quyền Ngô Đình Diệm giải tán.

Cũng nên biết vào ngày 23-10-1961 Sĩ Tải Phạm Duy Nhung thừa ủy quyền của Đức Hộ Pháp họp báo tại nhà hàng Oái Kình Lâm ( Sài gòn) công bố các bức thư gởi qua Mỹ, Anh, Pháp ( trong Hội nghị Genève) có đoạn viết " Chúng tôi tin tưởng sự chân thành của qúi quốc với đại danh là liệt cường luôn luôn có ý chí giúp đỡ dân tộc chúng tôi mà không vụ lợi" ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt và tra tấn đến chết.

Thật ra thì cờ nhan uyên không có, chỉ có trong lý thuyết mà thôi. Một hôm trước hàng môn đệ, Đức Khổng Tử đưa ra một đề tài để thảo luận. Giả thiết rằng trong nước có loạn thì làm cách nào để trị loạn hay nhất. Trong hàng môn đệ người trả lời cách này, kẻ trả lời cách kia. Chỉ có Nhan Hồi là đưa ra ý kiến : làm một cây cờ trắng xông vào chốn ba quân, kêu gọi hai tiếng trách nhiệm chấm dứt đổ máu.
Ý kiến đó được Đức Khổng Tử cho là kế hay hơn ca.

Kết luận câu chuyện của Đức Phạm Hộ Pháp nói với ông Trứ là :
"Mấy em nếu có chí can đảm đến Thái Bình Dương sẽ gặp Thầy là buổi sau này kìa. Dầu cho Thượng Sanh chừng đó có can đảm đến đó sẽ gặp. Bằng chẳng vậy, cây cờ CỨU THẾ của Thượng Sanh về tay kẻ khác hay là qua sẽ đến giữa trận giặc toàn cầu thứ ba"

Thế thường người ta nói Bạch Vân Am, nơi Nguyễn Bỉnh Khiêm về trí sĩ sau khi dâng sớ hạch tội 18 triều thần lộng quyền. Năm 95 tuổi Ngài qui tiên về Bạch Vân Động gồm có 3 vị gọi là Tam Thánh:

    1. Nguyễn Bỉnh Khiêm : Thánh danh Thanh Sơn Đạo Sĩ, sư phó Bạch Vân Động (Le Mâitre de la loge Blanche ) ngươn linh Cardinal de Richelieu
    2. Victor Hugo : Thánh danh Nguyệt Tâm chơn nhơn, Chưởng Đạo Hội Thánh Ngoại Giáo (Mission Etrangère ) ngươn linh Nguyễn Du.
    3. Tôn Dật Tiên : Thánh danh Tôn Trung Sơn ngươn linh là Nguyễn Trãi

Nhiệm vụ Tam Thánh là chăm sóc chư tín đồ, ban phép Tam Thánh ( quen gọi tắm Thánh) khai khiếu trẻ em và ban đạo hiệu cho tín hữu trưởng thành. Chia làm hai nhóm Bạch và Vân.

- Nhóm BẠCH gồm có Bạch Linh ( Hồ Bảo Đạo), Bạch Minh ( Hồ Thái Bạch), Bạch Tuyết ( con gái ông Ngọc Lịch Nguyệt) …

- Nhóm VÂN gồm có Vân Phong ( Bảo Thế Lê Thiện Phước), Vân Tinh ( Hiến Đạo Phạm Văn Tươi) , Vân Đằng ( HT.Trần VR)…
Ngoài ra, có nhiều vị được Bạch Vân Động ban đạo hiệu mà không có hai chữ Bạch Vân .
Chẳng hạn : Giáo sư Thượng Bảy Thanh ( Lê Văn Bảy) , đạo hiệu là Phong Chí, Phối sư Thượng Chữ Thanh ( Đặng Trung Chữ) đạo hiệu là Ngạn Sơn. Phối sư Thái Đến Thanh ( Huỳnh Văn Đến) đạo hiệu là Thông Quang….Dù đạo hiệu dưới hình thức nào, những vị ấy đều tuân theo lịnh của vị sư phó ( Le Maitre)

      DƯỠNG SINH THI
      Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
      Thiêu tư, quả dục, vật lao thân
      Thực thôi bán bão, vô khiêm vị
      Tửu chỉ tam phân, mạc quá tần
      Mỗi bả hí ngôn, đa thủ tiếu
      Thường hàm lạc ý, mạc sinh xân
      Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
      Nhiệm ngã tiêu dao quá bách xuân

      Nguyễn Bỉnh Khiêm

      TẠM DỊCH :
      Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
      Ít lo, ít muốn, ít lao thân
      Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị
      Rượu chỉ vài phân, chớ quá từng
      Miệng cứ câu đùa vui miệng mãi
      Bụng thường nghĩ tốt bụng lâng lâng
      Nhiệt thành, biến trá, thôi đừng hỏi
      Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm

Đứng trước đền Thánh nhìn vào, ta thấy có hai pho tượng mặc khối giáp, đầu đội kim khôi. Pho tượng bên phải ( ngoài nhìn vào) bức tượng có nét mặt hiền lành, tay cầm đại đao. Đó là ông Thiện. Đối xứng qua bên trái, bức tượng này cũng mặc khôi giáp nhưng nét mặt hung dữ, ta cầm búa đưa lên, tay kia cầm Ngọc ấn tỉ phù. Đó là ông Aùc

Tương truyền, trong Nhứt kỳ phổ độ, vua Tỳ Kheo về già lập một ngôi chùa để tu. Vua muốn truyền ngôi lại cho con là Tỳ Văn (Ông Thiện ) nhưng ngại Tỳ Vũ ( Ông Aùc) tranh đạt. Thế nên vua cha xuống chiếu cho Tỳ Vũ đi ra biên cương chiêu mộ hiền tài. Ơû triều đình vua làm lễ truyền ngôi cho Tỳ Văn.

Khi Tỳ Vũ trở về thấy anh mình là Tỳ Văn trên ngôi vua bất bình mà nói rằng : "Anh quá hiền mà làm vua, dân chúng không sợ đâu, hãy nhường ngôi lại cho tôi. Tôi dữ là dữ với kẻ hung ác, bạo tàn, vô nhân đạo. Chớ tôi không dữ với những người hiền lương đạo đức"

Tỳ Văn thấy Tỳ Vũ muốn làm vua, nếu ông chống đối nhứt định lưu huyết sẽ xảy ra. Thế nên bỏ ngôi đem Ngọc ấn tỷ phù chạy lên chùa, nơi vua cha đang tu luyện để nhờ phân xử. Vừa mới tới cửa chùa thì hồn viên tịch đắc Phật, bỏ Ngọc ấn tỷ phù lăn lóc. Tỳ Vũ đuổi theo anh bắt gặp xác anh, hối hận về việc làm sai trái của mình, rồi thoát xác. Vì thế người đời mới nói : "Tu nhứt kiếp , ngộ nhứt thời"

Ông Thiện, Ông Ác tượng trưng cho hai mặt của cuộc sống nên Đạo Cao Đài tôn thờ cả sự Thiện và sự Aùc vì ác đúng lúc là Thiện, mà Thiện không đúng lúc là ác. Hai trạng thái thiện ác trong xã hội được thể hiện luôn, nó thúc đẩy và hỗ trợ cho sự tiến hóa của loài người " Thiện Aùc giai thiên lý" ( Trình Minh Đạo). Nói một cách khác, Đấng Chí Tôn hiểu điều ác, tội lỗi từ trong bản chất để không kết án tội lỗi, nếu đôi lần có chê trách trừng phạt là để con người tiến hóa thánh thiện. Thế nên, vượt lên Thiện Aùc thì mới mong siêu thoát vì " hào ly hữu sai, Thiên địa huyền cách" ( Tăng Xán)

Không hiểu được cái lý cao siêu của Thiện Aùc thì loài người còn chống báng lẫn nhau. " Những giáo lý chủ trương chia đôi Thiện Ác, lấy Thiên đường dành cho hàng Thánh Thiện, lấy địa ngục làm nơi đày kẻ tội ác thì đều hoàn toàn ảo tưởng" ( Nguyễn Duy Cần, Chu Dịch huyền giải, trang ?? )

Hai ông Nhuận và Ruộng ( Nguyễn Ngọc Điền) là công quả xây dựng Toà Thánh. Vì cuồng vọng kéo một số người nhẹ dạ xuống tóc mặc áo dà không ăn ngũ cốc nên người ta gọi là Nhóm Tuyệt Cốc.

Mỗi người có một xâu chuỗi bồ đề, họ tuyên bố đã luyện thành phép biến hóa, là bảo vật hộ thân. Cây, đá, người bị xâu chuỗi đánh đều tan thành tro bụi, còn chỉ vào bộ ngựa ván thì ngựa ván bay cao.

Họ chuẩn bị tuyên truyền phép lạ như vậy để đợi thời cơ chiếm Đền Thánh.
Vào năm 1936, sau giờ Lễ Ngọ,các chức sắc chức việc và đồng nhi trở về phòng riêng. Đền Thánh lúc ấy chỉ còn anh Nghiêm, tuần quân đứng canh gác. Nên biết, Đền Thánh mới cất bằng cây ván thô sơ dễ vào ra.
Bỗng nhiên, anh Nghiêm nghe tiếng động rất lớn trong bửu điện. Anh vội chạy vào thì thấy độ mười người mặc áo dà ( nâu), đầu trọc, tay cầm chuỗi bồ đề. Họ ra sức xô các cốt Phật, Tiên,Thánh, Thầy ngã xuống.
Anh Nghiêm báo động, bổn đạo quanh Đền Thánh chạy đến thì thấy Bảy cái ngai đều bị các vị tả đạo leo lên chiếm ngồi chiễm chệ.

Bảy cái ngai trước cung Đạo là : 1 ngai Giáo Tông, 3 ngai Chưởng Pháp, 3 ngai Đầu Sư.

Trong Đền Thánh hết ghế nên một tên chạy ra trước Đại Đồng Xã tót lên chiếm con ngựa càn trắc của Đức Phật Tổ đang cưỡi.

Bổn Đạo còn do dự vì sợ bảo vật của họ có phép. Nôn nóng quá, một người liều mạng xông tới ngai Giáo Tông kéo tên tả đạo xuống. Y tung chuỗi đánh trả anh thanh niên. Nhiều bổn đạo thấy xâu chuỗi không biến thanh niên ra thành tro bụi. Họ biết là đồ giả, nên hè nhau tiến tới xua đuổi bọn tả đạo chạy ra khỏi bửu điện. Trong cùng thời gian, tại Quan Âm Các ở Ngã Năm, hai nữ gian đạo sĩ xô cột Phật Quan Âm leo lên bàn thời ngôi xưng là Phật Quan Âm giáng trần, bổn đạo tấn công, hai nữ tả đạo tung chuỗi không hiệu nghiệm bị xô té rồi nằm vạ luôn.

Các tên cuồng vọng quyền tước bỏ chạy. Bổn đạo thu dọn, gom được một bị chuỗi hạt bồ đề không linh nghiệm. Đó là bài học để đời cho những kẻ hám vọng.

 
về trang chủ  

xem trang sau