Tiểu dãn các điển tích

kiến trúc nơi Tòa Thánh

(tiếp theo)

 

20. Bát Bửu - Ðàn Bát Bửu

Bát Bửu là 8 món quí báu, đó là 8 bửu pháp (hay Bửu bối) của Bát Tiên. Mỗi vị Tiên có thể luyện thành nhiều bửu pháp. Các Bửu pháp của Bát Tiên có thể kể ra sau đây :

-         Đại Tiên Lý Thiết Quả có 2 Bửu pháp : Gậy sắt và Hồ lô. 

-         Hớn Chung Ly có 2 Bửu pháp là : Quạt Long tu và Phất chủ.

-         Lữ Đồng Tân có 3 Bửu pháp là : Gươm, Phất chủ, Ống Tiêu.

-         Lam Thể Hòa có Đôi Ngọc bản (Cặp Sanh ngọc).

-         Trương Quả Lão có : Con lừa giấy và Cây gậy. 

-         Hà Tiên Cô có Bửu pháp là Bông sen.  Hàn Tương Tử có : Giỏ Hoa Lam và Ống sáo.

-         Tào Quốc Cựu có : Ngọc Thủ quyển.

Mỗi Bửu pháp của Bát Tiên được làm tượng trưng hình bằng đồng thau, được một con thú chở trên lưng, được đánh bóng sáng loáng, gắn vào một cái cán bằng gỗ dài và sơn màu đỏ. Tám cây có gắn Bát bửu của Bát Tiên được cắm vào trong một cái giá, thành một hàng dài, gọi là Dàn Bát bửu. Có 2 Dàn Bát bửu giống nhau đặt ở cấp thứ 8 CTĐ, dọc theo 2 hàng cột rồng xanh. Trên Dàn Bát bửu có đặt xen kẽ 3 cây lọng. Kể từ trong ra ngoài, Dàn Bát bửu hiện nay đặt tại Tòa Thánh gồm có theo hình vẽ sau đây :

l. Cái bầu Hồ lô có con Nai chở : Bửu pháp của Lý Thiết Quả.

2. Quạt và Phất chủ có con Chim chở : Bửu pháp Hớn Chung Ly.

3. Gươm và Phất chủ có con Chim chở : Bửu pháp Lữ Đồng Tân.

4. Thủ quyển bằng ngọc có con Nai chở : Bửu pháp Tào Quốc Cựu.

5. Cây Gươm có con Phụng chở : Bửu pháp của Hàn Tương Tử.

6. Hoa sen có Rùa chở : Bửu pháp của Hà Tiên Cô.

7. Cây Gậy có Cá chở : Bửu pháp của Trương Quả Lão.

8. Cặp Ngọc bản (Cặp Sanh ngọc) có con Công chở : Bửu pháp của Lam Thể Hòa.

Công dụng của Dàn Bát Bửu :

- Về phương diện hình thức, Dàn Bát bửu với 8 Bửu pháp của Bát Tiên đặt thành 2 hàng dài trước chỗ thờ phượng, thay thế 2 Dàn Lỗ bộ thường thấy, để làm tăng thêm vẻ uy nghi trang trọng của nơi thờ phượng.
- Về phương diện thiêng liêng, 8 Bửu pháp của Bát Tiên trấn giữ ngôi thờ Đức Chí Tôn, không cho Tà Quái xâm nhập, vì hễ xâm nhập vào thì bị 8 Bửu pháp nầy đánh đuổi. 21. Bát Tiên Bát Tiên là 8 vị Tiên ở 8 động đá của núi Bồng Lai trên đảo Bồng Lai nơi cõi Thiêng liêng.  Bát Tiên gồm 8 vị Tiên kể tên ra sau đây :

Lý Thiết Quày, (Thiết Quày là cây gậy sắt) nhưng thường gọi là Lý Thiết Quả.

Hớn Chung Ly.

Lữ Động Tân, (Động là cái hang núi, Tân là khách), nhưng thường gọi là Lữ Đồng Tân.

Lam Thể Hòa.

Trương Quả Lão.

Hà Tiên Cô.

Hàn Tương Tử.

Tào Quốc Cựu.

Trên tấm diềm phía bên Nữ phái của Bát Quái Đài, có đắp tượng Bát Tiên trên những cụm mây lành 5 sắc. Trong Bát Tiên, có 4 vị cỡi thú bay và 4 vị cỡi thú chạy. Sau đây là sự tích của Bát Tiên, viết theo Truyện Đông Du Bát Tiên :

 

Lý Thiết Quả :

 

Ngài họ Lý, tên là Huyền, hiệu là Ngưng Dương, nên thường gọi là Lý Ngưng Dương, diện mạo nghiêm trang, tánh hạnh trong sạch, học rộng biết nhiều, không mộ công danh, muốn đi tu Tiên. Biết được Lý Lão Tử đang dạy Đạo trên núi Họa Sơn, Lý Ngưng Dương liền tìm đến đó để xin học Đạo. Đi dọc đường, Ông ngâm thơ rằng:

Tâm tánh con người có thấp cao,

Khen lò Tạo Hóa đúc anh hào.

Làm trai biết thấu vòng vinh nhục,

Đặng chữ thanh nhàn khỏi chữ lao.

Khi đến núi Họa sơn thì Trời đã tối. Lý Ngưng Dương tự nhủ : Mình là đệ tử đi tìm thầy cầu học Đạo, lẽ nào ban đêm dám gõ cửa. Chi bằng ngủ đỡ trên bàn thạch trước cửa động, chờ Trời sáng sẽ xin vào ra mắt. Ở trong động, Đức Lão Tử đang đàm đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, xảy có cơn gió thanh, Đức Lão Tử hỏi :

-         Ông có biết gió ấy là điềm chi chăng ? Chắc có người gần thành Tiên đi tới. Ta đã rõ Lý Ngưng Dương gần thành Tiên và là Tiên đứng đầu sổ hết thảy. Nói rồi, Đức Lão Tử truyền Tiên đồng ra mở cửa động mà đón. Xảy thấy một Đạo sĩ đang đứng trước động, liền hỏi : - Có phải Lý Ngưng Dương đó không ? - Sao Tiên đồng lại biết tên tôi ? - Tôi vâng lịnh Lão Quân ra cửa đón anh. Lý Ngưng Dương vô cùng mừng rỡ, chắc là mình có phước lớn nên mới được Lão Quân biết đến, liền đi theo Tiên đồng vào ra mắt, thấy Lão Quân có hào quang sáng lòa, dung nhan tươi nhuận, râu tóc bạc phơ, và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cũng vậy. Lý liền quì lạy ra mắt Lão Quân và Huyễn Khưu. Hai vị đáp lễ rồi mời ngồi. Lý Ngưng Dương quì thưa rằng : " Đệ tử tầm sư học Đạo, lẽ nào dám ngồi. Xin Thầy dạy bảo." Lão Tử bảo : "Ngươi ngồi xuống rồi ta nói cho nghe :

Học Đạo cho minh,
Lẳng lặng làm thinh,
Đừng lo đừng rán,
Cho tịnh cho thanh,
Chẳng nên nhọc sức,
Chớ khá tổn tinh,
Giữ đặng tánh tình,
Là thuốc trường sanh."

Lý Ngưng Dương mừng rỡ lạy tạ Lão Quân. Huyễn Khưu nói : "Ngươi có tên trong Sổ Tiên, đứng đầu hết thảy. Về tu như vậy thì thành." . Nói rồi truyền Tiên đồng đưa Lý Ngưng Dương ra khỏi động, xuống núi. Lý Ngưng Dương lạy tạ rồi theo Tiên đồng rời khỏi động, trở về quê, lên núi cất nhà bên động đá, tu theo lời Đức Lão Tử dạy, cứ tu luyện hoài như vậy. Chẳng bao lâu cảm thấy nhẹ mình, bước đi như gió. Một người dân quê tên là Dương Tử lên núi thấy vậy cũng phát tâm mộ đạo, xin Lý Ngưng Dương thâu làm đệ tử , ở lại tu hành.


Ngày kia, Lý Ngưng Dương thấy hào quang chiếu vào cửa sổ, thì biết có Thần Tiên giáng hạ, rồi mau sửa soạn lên núi đón tiếp. Xảy nghe tiếng hạc, ngó lên thấy Đức Lão Tử và Huyễn Khưu Chơn Nhơn cỡi hạc đáp xuống. Lý Ngưng Dương lạy chào mừng rỡ. Đức Lão Tử nói:

 

- Bữa nay tinh thần hơn trước. Ta nhắm ngươi xuất hồn đã đặng. Vậy 10 ngày nữa, ngươi sẽ xuất hồn đi dạo các nước với ta. Nói rồi liền từ giã, và 2 vị cỡi hạc bay trở về núi. Cách 9 ngày sau, Lý Ngưng Dương kêu học trò là Dương Tử đến dặn rằng : " Thầy sẽ xuất hồn đi thiếp 7 ngày, ngươi phải gìn giữ xác ta cẩn thận. Nếu sau 7 ngày ta không trở về thì hãy thiêu xác." Dặn dò xong, Lý Ngưng Dương nằm thiếp xuất hồn đi. Khi Dương Tử giữ xác thầy được 6 ngày thì có người nhà đến báo tin rằng : Mẹ anh bịnh nặng, đang hấp hối, trông anh mau về cho mẹ thấy mặt mà tắt hơi. Dương Tử khóc lớn than rằng : "Thầy đi thiếp chưa về, nếu ta đi, lấy ai giữ xác thầy, bằng không đi thì làm sao thấy mặt mẹ, ôi khổ biết chừng nào ! " Người nhà liền hỏi rõ Dương Tử về sự đi thiếp của thầy, rồi nói : " Xác người chết đã 6 ngày, ngũ tạng thảy đều hư hết, lẽ nào sống lại bao giờ. Vả lại, thầy có dặn 7 ngày thì thiêu xác, chắc thầy đã thành Tiên. Nay 6 ngày mà thiêu xác thầy cũng không lỗi. Mau thiêu xác thầy rồi về gặp mặt mẹ.".Dương Tử bần dùng không nỡ, nhưng túng thế cũng phải nghe lời, liền đặt nhang đèn, hoa quả tế thầy, rồi thiêu xác. Vừa khóc vừa đọc bài kệ sau đây: Mẹ bịnh ngặt hầu kề, Thầy đi thiếp chưa về, Mẫu thân tình một thuở, Sư phụ nghĩa nhiều bề, Vẹn thảo nên quyền biến, Lỗi nghì luống ủ ê, Hồn linh xin chứng chiếu, Khoái lạc chốn non huê. Thiêu xác thầy xong, Dương Tử liền gấp rút chạy về nhà, vừa đến cửa nhà thì mẹ vừa tắt thở. Rủi ơi là rủi ! Lỗi hết 2 đàng, đã bất nghĩa với thầy, lại không tròn hiếu sự.


Nhắc lại, Lý Ngưng Dương, hồn xuất về chầu Đức Lão Tử, được thầy dẫn đi khắp các nước trên cõi thiêng liêng, đến núi Bồng Lai, gặp các Thánh Tiên, ra mắt đủ mặt, đến 7 ngày thì xin về. Đức Lão Tử cười nói rằng : - Hãy nghe bài kệ nầy thì rõ : Tịch cốc ăn lúa mì, Đường quen xe phơi phới, Muốn tìm cốt cách xưa, Lại gặp mặt mày mới. Lý Ngưng Dương nghe bài kệ của thầy thì ghi nhớ chớ không hiểu ngụ ý gì, nhưng cũng lạy thầy từ tạ ra về. Khi hồn về tới nhà thì không thấy xác , không thấy học trò, coi lại thì xác đã ra tro bụi.  Lý Ngưng Dương rất giận đứa học trò bất nghĩa nầy. Hồn bay phưởng phất xuống chơn núi, gặp một thây ăn mày nằm dựa bên đường, kế bên cây gậy, có một chân cùi. Lý Ngưng Dương nghĩ lại bài kệ của thầy cho, chợt hiểu, biết phận mình phải vậy chớ không nên oán trách học trò, liền nhập hồn vào xác ăn mày, rồi ngậm nước phun vào gậy tre hóa ra gậy sắt. Bởi cớ đó, người đời không biết họ tên ông ăn mày nầy, thấy cầm cây gậy sắt, nên gọi là Ông Thiết Quày, sau gọi trại ra là Thiết Quả.  Sở dĩ Đức Lão Tử không cho hồn Lý Ngưng Dương về kịp trước khi học trò thiêu xác là vì Đức Lão Tử muốn Lý Ngưng Dương bỏ xác phàm cho tuyệt sự hồng trần mà về luôn nơi Tiên cảnh, còn xác ăn mày là mượn tạm để tu, chớ muốn biến hóa thế nào cũng được. Thiết Quả đánh tay biết rõ các việc đã xảy ra với đứa học trò mình là Dương Tử. Thiết Quả liền đem bầu linh dược đến cứu tử mẹ nó, kẻo đứa học trò mình tức tối ân hận cả đời tội nghiệp. Đến nơi thấy Dương Tử đang ôm quan tài mẹ khóc ngất, rồi rút gươm ra định tự vận. Thiết Quả kịp đến ngăn cản và nói : - Ngươi có lòng thành nên Trời khiến ta đến đây đem bầu linh dược cứu tử mẹ ngươi. Vậy ngươi mau giở nắp quan tài ra, cạy miệng mẹ ngươi ra mà đổ thuốc. Nói rồi lấy ra một hoàn thuốc đưa cho Dương Tử. Dương Tử làm y lời, giây lát, bà mẹ hắt hơi lấy lại hơi thở, rồi ngồi dậy bước ra khỏi quan tài, xem có vẻ mạnh khỏe hơn trước.

 

Cả nhà vô cùng mừng rỡ. Dương Tử quì lạy Thiết Quả, thưa rằng : - Cảm tạ Tiên ông, xin Tiên ông cho biết danh hiệu. - Ta đây là Lý Ngưng Dương, là thầy của ngươi. Bởi ngươi thiêu xác ta nên hồn ta phải nhập vào xác ăn mày nầy. Biết rõ việc làm của ngươi, nên ta không chấp, lại đến cứu tử mẹ ngươi để ngươi nuôi mẹ phỉ tình. Ta tặng thêm cho ngươi một hoàn thuốc nữa để ngươi uống vào sống lâu nuôi mẹ. Thầy trò sẽ gặp lại sau nầy. Dương Tử cúi đầu lạy tạ thầy, chưa kịp hỏi thăm thì Thiết Quả đã biến mất. Thiết Quả biến hóa về núi Họa sơn, hầu thầy. Đức Lão Tử cười nói : - Vậy mới chắc thành Tiên, không lo trở lại trần thế. Nói rồi truyền dọn tiệc ăn mừng Thiết Quả.

 

Hớn Chung Ly :

 

Hớn Chung Ly, họ là Chung Ly đời nhà Hớn (Hán), tên là Quyền, hiệu là Vân Phòng, làm Đại Tướng trong triều đình nhà Hớn. Khi mới sanh, Chung Ly Quyền có điềm khác lạ, trên nóc nhà hào quang sáng đỏ, ai nấy đều kinh. Lớn lên thành một vị tướng quân, võ nghệ như thần, oai danh quá cọp. Khi ấy triều đình nhà Hớn nhận được sớ khẩn cấp của tướng trấn ải báo có binh Phiên do Bất Dực thống lãnh đánh vào ải rất nguy kịch, xin triều đình cử binh cứu viện. Xem xong, Hớn Đế rất kinh hãi, liền hạ chiếu sai Đại Tướng Chung Ly Quyền làm Nguyên soái, Phùng Dị làm Phó Tướng, kéo đại binh 50 vạn gấp rút đi ra quan ải cứu viện.


Nguyên Soái Chung Ly tế cờ, hiểu dụ tướng sĩ xong thì kéo quân đi ngay tới ải Kỳ Thủy đóng trại. Rạng ngày hôm sau, 2 bên ra trận. Bất Dực đánh không thắng nổi Chung Ly, quân Phiên bại trận chạy dài. Tin chiến thắng liên tiếp báo về triều đình, danh tiếng Nguyên soái Hớn Chung Ly vang dậy. Lúc đó, Lý Thiết Quả đang ở Cung Tiên, đánh tay biết Hớn Chung Ly đã thắng quân Phiên nhiều trận, uy danh lừng lẫy, và lại biết kiếp trước của Hớn Chung Ly là Tiên coi sổ bộ ở Thượng giới, phạm tội bị đọa trần, nay mê việc chiến tranh mà không lo tu hành, biết chừng nào trở về ngôi vị cũ. Lý Thiết Quả muốn độ Chung Ly, nhưng nếu để Chung Ly thắng trận hoài, triều đình sẽ gia phong quan tước, thì bị mê đắm trong vòng phú quí vinh hoa, nên Thiết Quả định làm cho Chung Ly bại trận thì mới độ được. Tính rồi liền hóa ra một Ông già bay xuống dinh Phiên Bất Dực. Lúc bấy giờ Bất Dực đang ngồi trong dinh, thở vắn than dài, không tìm được kế chi để đánh lại binh Hớn. Xảy thấy quân vào báo : Có một ông già cốt cách Thần Tiên xin vào ra mắt. Bất Dực lấy làm lạ, liền cho mời vào, hỏi : - Lão trượng đến tôi có việc gì ? - Tôi đến đây bày cho Tướng quân kế thắng binh Hớn. Đêm nay tôi biết bên dinh Hớn có hỏa hoạn lớn, Tướng quân thừa dịp nầy kéo quân vào cướp dinh thì chắc thắng 10 phần. Ông già nói xong liền từ giã đi mất. Bất Đực, lòng bán tín bán nghi, sợ lầm kế của Nguyên soái Chung Ly, nhưng cũng truyền lịnh chuẩn bị canh hai đến cướp dinh Hớn. Nếu thấy dinh Hớn bị hỏa hoạn như lời của ông già thì sẽ tràn quân đánh vào, bằng không thì rút binh về. Bên dinh Hớn, tuy vừa mới thắng quân Phiên, nhưng cũng không dám kiêu, cắt đặt canh phòng ban đêm rất cẩn mật vì sợ cướp dinh. Khoảng giữa canh ba, Lý Thiết Quả hóa phép đốt dinh Hớn, ngọn lửa cháy lan rất mạnh, binh lính không dập tắt nổi. Bất Dực thấy đúng thời cơ, liền kéo đại binh đánh vào. Chung Ly Nguyên soái cầm giáo lên ngựa đánh với Bất Dực, thấy binh Hớn hoảng sợ chạy hết thì cả kinh, quày ngựa bại tẩu. Bất Dực muốn bắt sống Chung Ly Nguyên soái nên buông tên nhắm vào con ngựa của Chung Ly đang cỡi, làm cho ngựa trúng tên té nhào, may có Phó tướng Phùng Dị chạy đến tiếp cứu, bắt một con ngựa khác đưa cho Nguyên soái. Hai người bại tẩu, ngó lại dinh Hớn bị lửa thiêu rụi, binh Hớn bỏ chạy tán loạn. Nguyên soái tức quá té nhào xuống ngựa chết giấc.

 

Khi tỉnh lại than rằng : - Ta làm Đại Tướng vâng chỉ đánh Phiên, ngỡ là cứu nước rạng danh, nào hay Trời khiến ta thảm bại thế nầy, chẳng những mắc tội với vua, lại còn hổ mặt với triều thần, thiệt là Trời muốn giết ta, ta còn sống làm chi nữa. Than rồi, Hớn Chung Ly toan rút gươm tự vận. Phùng Dị cứ mãi khuyên can. Xảy thấy binh Phiên kéo đến truy nã. Phùng Dị cản hậu, Hớn Chung Ly chạy trước. Chạy tới sáng thì lạc mất, Hớn Chung Ly đến một nơi không có nhà cửa dân chúng, phía trước là núi, vừa đói vừa khát, tiến thoái lưỡng nan. Xảy thấy một ông sãi mắt xanh chống gậy đi tới. Chung Ly mừng rỡ bước đến thưa rằng : - Tôi là Hớn Nguyên soái Chung Ly Quyền đem quân đi đánh Bắc Phiên, bị bại trận nên chạy lạc tới đây, xin thầy chỉ nhà cho tôi tá túc để trở về triều đình xin binh cứu viện. Ông sãi gật đầu, dắt Chung Ly đi một đổi, chỉ một cái am, nói rằng :

- Đây là chỗ ở của Đông Huê Chơn nhơn, tướng quân vào đó mà tạm nghỉ.
Nói rồi đi thẳng như bay. Hớn Chung Ly đi đến am, nhìn thấy cảnh vật xinh tươi yên tĩnh, phải chỗ của Thần Tiên, đến trước cửa am, định gõ cửa thì nghe có tiếng ngâm thơ từ trong am vọng ra :

Việc thế chẳng đua tranh,
Thanh nhàn lánh lợi danh,
Thân nương theo động đá,
Tình gởi tại mây xanh.
Chơi dạo say mùi đạo,
Thong dong dưỡng tánh lành,
Hỏi ai là bạn tác ?
Gió mát với trăng thanh

. Lý Thiết Quả sắp đặt trước, giả làm sãi mắt xanh dẫn đường đến cho Đông Huê Chơn Nhơn dạy đạo. Hớn Chung Ly nghe tiếng ngâm thơ vừa dứt thì có một ông Lão cốt cách Thần Tiên, chống gậy bước ra hỏi : - Có phải là Chung Ly Quyền, Nguyên soái của Hớn triều chăng ?


Hớn Chung Ly kinh hãi thưa : - Phải, tôi vâng chỉ đi đánh Phiên, chẳng may thất trận chạy lạc đến đây, xin Thượng Tiên từ bi cho tôi tá túc. Đông Huê Chơn Nhơn mời vào am đãi cơm chay, nói : - Công danh như bọt nước, phú quí như ngọn đèn trước gió. Từ xưa đến nay, giang sơn nhiều chủ, phước thọ ít người. Bần đạo chán cảnh đời đau khổ, tìm nơi u nhã, sống thanh nhàn, thoát vòng lợi danh trần tục. Tướng quân cũng nên thừa dịp nầy mà tu tâm dưỡng tánh, còn ham công danh phú quí làm chi. Chung Ly Nguyên soái lắng nghe, liền tỉnh ngộ, muốn theo học đạo, hỏi : - Tiên ông luyện phép chi mà đặng trường sanh ? - Phép trường sanh có gì lạ đâu, lòng phải trống mà bụng phải đặc. Lòng trống là không lo lắng, để cho thơ thới như không; bụng đặc là không theo sắc dục, nguơn khí chẳng hao, được như vậy thì thành Tiên, trường sanh bất tử. Hớn Chung Ly nghe vậy thì mừng rỡ thưa rằng : - Nhờ Tiên ông chỉ dạy, tôi xin lạy để làm học trò. Xin thầy cho biết tôn hiệu. - Ta là đạo sĩ thời thượng cổ, nay đã thành Tiên, hiệu là Đông Huê. Nói rồi truyền cho Hớn Chung Ly phép tu luyện và dạy luôn cho Chung Ly phép chỉ đá hóa vàng, rồi tặng cho một cây gươm thanh long chém quỉ. Hôm sau, Hớn Chung Ly lạy thầy xin trở về nhà lo thu xếp việc nhà. Đông Huê Chơn Nhơn chỉ đường về nhà. Khi Chung Ly ngó lại thì thấy thầy và nhà cửa đều biến mất, suy nghĩ biết là Tiên ông biến hóa để độ mình. Chung Ly Quyền tự đặt hiệu cho mình là Vân Phòng, rồi cải trang đi riết về nhà đặng thăm gia quyến. Gia đình Chung Ly

 

Nguyên soái hay tin thất trận và mất tích, tin tưởng là đã chết nên cả nhà than khóc để tang. Nay lại thấy Chung Ly Nguyên soái cải trang trở về thì thất kinh mừng rỡ, hỏi thăm cớ sự. Chung Ly thuật lại đủ hết. Gia quyến mừng rỡ nói rằng : Khi mới sanh ra có điềm lành, chẳng lẽ lại thác về nghiệp dữ. Chung Ly Quyền không dám ở nhà lâu, sợ vua hay tin bắt tội, liền ăn mặc theo Đạo sĩ, từ giã gia quyến để đi tu, lại đến thăm anh ruột là Chung Ly Giảng, đang làm chức Lang Trung. Chung Ly Giảng ham mộ đạo đức đã lâu, nay nghe em nói, mừng rỡ bội phần, liền sắp xếp hành trang, cùng em trốn lên non tu luyện. Hai người nhắm núi Họa sơn đi tới. Dọc đường, thấy con cò trắng đang ngóng cổ, Vân Phòng nói với anh rằng : - Con cò cổ dài, le le cổ ngắn, không thể nào cắt bớt mà can bổ cho bằng. Việc đời cũng vậy, kẻ ưa danh lợi, người mến thanh nhàn. Nhờ có gươm phép của thầy trao tặng, Vân Phòng giết được cọp tinh đang phá hại dân làng, lại thấy dân quá nghèo khổ, nên dùng phép chỉ đá hóa vàng, lấy vàng phát cho dân.


Ngày kia, Đông Huê Chơn Nhơn tìm đến để dạy đạo thêm, truyền thêm phép tu luyện cho 2 người. Chung Ly Vân Phòng đi dạo chơi đến núi Tứ Hạo, thình lình một tiếng sấm nổ vang, núi nứt ra một cái khe. Vân Phòng thấy lạ, liền tiến vào khe, gặp một cái hộp đá có một cuốn kinh, liền lấy kinh đem ra ngoài xem thì khe núi biến mất, vách núi liền lại như cũ. Vân Phòng thầm biết là Thần Tiên đã ban kinh cho mình tu luyện, nên càng cố công. Chẳng bao lâu thì đạt đến mức cao siêu. Bỗng nghe tiếng nhạc vang Trời, nhìn lên thấy mây lành năm sắc, Tiên hạc bay xuống đáp trước mặt Vân Phòng, nói tiếng người rằng : "Thượng Đế sai tôi xuống rước Vân Phòng trở về phục chức cũ ở Thượng giới," Vân Phòng liền đưa sách lại cho anh, dặn dò và giã từ, cỡi hạc lên Trời. Chung Ly Giảng ở lại tu theo sách đó, lâu ngày cũng thành Tiên, được Vân Phòng cỡi hạc xuống rước.

 

Lam Thể Hòa :

 

Lam Thể Hòa là Xích Cước Đại Tiên đầu thai xuống trần, nên còn nhớ tánh cũ, thường mặc áo rộng xanh, buộc dây lưng đen, một chân đất, một chân mang giày, mùa hè mặc áo bông mà không biết nóng nực, mùa đông chỉ mặc áo chiếc mà không biết lạnh, thật lạ lùng. Thường ngày, Ông Lam Thể Hòa hay cầm cặp sanh dài 3 thước (thước Tàu), đi ra ngoài chợ, vừa ca vừa nhịp, để xin tiền bố thí. Những bài ca do Ông tự đặt ra đều có ý khuyên đời bỏ dữ theo lành. Tiền xin được, Ông cột vào dây lưng, vừa đi vừa ca, khi tiền rớt cũng không thèm ngó lại, khi lại dùng tiền nầy bố thí lại cho người nghèo khổ. Những trẻ nhỏ có dịp thấy Ông Lam Thể Hòa, đến chừng lớp trẻ nầy lớn lên rồi già (tức là 60 hay 70 năm sau) thì vẫn gặp ông Lam giống y như thuở trước, vẫn ăn mặc như trước, vừa đi vừa ca vừa nhịp, không già như người thường.


Về sau, Ông Lam Thể Hòa gặp Lý Thiết Quả, hai người đàm đạo trên lầu ở quận Hào Lương. Kế nghe tiếng nhạc vang Trời, đôi chim hạc từ trên không đáp xuống, rước 2 vị Tiên về Thượng giới.
Khi cỡi hạc, Ông Lam bỏ cặp sanh rơi xuống đất, hóa thành ngọc, giây phút biến mất. Trong Bát Tiên, Ông Lam Thể Hòa là thuần hậu nhứt.

 

Trương Quả Lão :

 

Trương Quả Lão gốc là một con dơi trắng hồi tạo Thiên lập Địa, tu luyện lâu năm, hóa hình người, sau đến núi Trung Điều ở Hàng Châu, học đạo với Huyễn Khưu Chơn Nhơn, làm bạn với Lý Thiết Quả.
Các ông già bà lão thuật chuyện về Trương Quả Lão : Khi các ông bà ấy còn con nít, thì đã biết và gặp Ông Trương, thường thấy Ông cỡi con lừa trắng đi dạo khắp nơi, đặc biệt Ông ngồi ngược chiều, quay mặt ra phía sau. Đến khi đi về tới nơi ở, Ông liền đè bẹp con lừa, biến ra lừa giấy, xếp cất vào khăn. Khi muốn đi chơi, Ông lấy lừa giấy ra, phun nước vào thì hiện ra con lừa trắng để Ông cỡi đi chơi. Khi các ông bà ấy già, vẫn gặp lại Ông Trương giống y như trước, không già hơn chút nào, thật là Ông đã đạt được phép trường sanh bất lão.

 

Đến đời vua Đường Thái Tông, vua cho triệu Ông vào triều, nhưng Ông không chịu đến. Qua đời Võ Hậu, Bà cũng biết tiếng Ông Trương, nên cũng cho sứ giả đến triệu vào triều. Ông Trương đi được nửa đường thì chết, giây lát thây thúi hóa vòi, sứ giả phải bỏ thây lại đó mà về triều tâu lại cho Võ Hậu rõ. Nhưng sau đó, người ta vẫn gặp Ông Trương cỡi lừa trắng đi dạo như thường. Đến đời Đường Minh Hoàng, vua sai quan là Bùi Ngộ đem chiếu đến rước Ông Trương, nhưng Ông Trương giả chết. Bùi Ngộ thắp nhang cầu khẩn, Ông Trương từ từ sống lại, nhưng không chịu đi. Bùi Ngộ không dám ép, đành trở về triều tâu lại. Đường Minh Hoàng lại sai 2 sứ giả nữa là Dự Thông và Lư Trang Huyền, đem sắc chỉ đến rước nữa.

 

Ông Trương thấy vua có lòng trọng vọng nên mới chịu tới, được nhà vua và bá quan kính trọng mười phần. Minh Hoàng hỏi Trương Quả Lão về chuyện Thần Tiên, Ông Trương ngồi làm thinh, nín hơi mấy bữa, không chịu nói. Ngày kia Minh Hoàng làm tiệc đãi Trương Quả Lão, Ông từ chối, nói rằng : "Tôi không biết uống rượu, duy có học trò tôi nó uống tới một đấu.". Vua Minh Hoàng xin vời tới. Giây phút có một đạo sĩ trẻ chừng 16 tuổi từ ngoài bay vào, ra mắt nhà vua. Trương Quả Lão nói : - Nó là đệ tử của tôi, xin đứng hầu Bệ hạ. Minh Hoàng thưởng cho nó một đấu rượu, nó liền uống hết. Minh Hoàng lại ép uống nữa. Trương Quả Lão nói :

- Chẳng nên cho nó uống nhiều, nếu quá chén, ắt sanh điều quái gở. Minh Hoàng cứ ép uống rượu để xem sự thể ra sao.
Giây phút, trên đầu đệ tử hiện ra một cái quả bằng vàng, rồi người đệ tử biến mất, quả bằng vàng ở dưới đất trơ trơ, giở nắp ra thấy rượu đầy quả. Coi lại, đó là quả vàng của vua. Ai nấy đều phục phép Tiên của Trương Quả Lão. Vua hỏi Ông Trương bao nhiêu tuổi. Ông Trương đáp :
- Tôi sanh năm Bính Tý đời vua Nghiêu.


Vua Đường lấy làm lạ, vì thấy Ông Trương tuổi lối 70 hay 80, liền truyền lịnh cho quan coi tướng là Hình Hòa Phát coi tuổi Trương Quả Lão, nhưng coi cũng không ra. Vua liền sai Sư Dạ Quang là người coi thấu việc quỉ thần, coi cũng không biết tướng tinh của Trương Quả Lão. Khi ấy có Đạo sĩ Diệp Pháp Thiện, học được phép Tiên, biết việc quỉ thần, rất được Minh Hoàng yêu mến, được Minh Hoàng vời đến hỏi tướng tinh của Trương Quả Lão. Diệp Pháp Thiện tâu rằng : - Nếu Bệ hạ chịu cất mão cổi giày mà xin tội cho tôi với Trương Quả Lão thì tôi mới dám nói. Vua Minh Hoàng vì tính hiếu kỳ nên ưng chịu. Diệp Pháp Thiện tâu rằng : - Trương Quả Lão cỡi lừa kỳ lắm, ngồi day ngược ngó ra sau, thiệt là con dơi trắng thời thượng cổ. Nói vừa dứt lời thì Diệp Pháp Thiện bị sặc máu tươi chết liền tại chỗ. Vua Minh Hoàng kinh hãi, liền cất mão cổi hài như đã hứa, đến gặp Trương Quả Lão xin tội cho Pháp Thiện. Trương Quả Lão nói : - Nó hay nhiều chuyện lắm, nếu không trị nó thì lậu cơ Trời. Minh Hoàng cứ đứng đó năn nỉ hoài, buộc lòng Trương Quả Lão phải tha cho Pháp Thiện, đến phun nước vào mặt thì Pháp Thiện sống lại như thường.


Minh Hoàng sắc phong cho cho Trương Quả Lão là Thông Huyền Tiên Sinh, lại sai vẽ chơn dung của Ông Trương treo ở lầu Tập Hiền. Ngày kia, vua Đường Minh Hoàng đi săn, bắt được con nai tại đất Hàm Dương, truyền làm thịt đãi yến. Trương Quả Lão can rằng :  - Nó là Tiên lộc ngàn năm, chẳng nên giết. Nguyên trước đây, vua Hớn Võ Đế săn đặng con nai nầy, vua cho đóng đính bài trên gạt bên tả rồi thả cho đi. Vua Minh Hoàng truyền coi lại thì trên gạt con nai nầy có đính bài đúng như Trương Quả Lão đã nói, nhưng chữ trên đính bài đã mòn.


Minh Hoàng hỏi : - Từ đó đến nay bao nhiêu năm ? Trương Quả Lão đáp : - Năm Quí Hợi, Hớn Võ Đế đào ao Côn Minh, đến nay là năm Giáp Tuất, cộng lại là 852 năm. Vua truyền quan Thái Sử coi lại y số. Sau Trương Quả Lão xin về dưỡng già. Minh Hoàng cầm không được, liền ban tặng cho một chiếc xe, một cây lụa, 2 người lính hầu, đưa Trương Quả Lão về Hàng Châu. Ông Trương cho một tên lính hầu về trào, chỉ giữ lại một tên, rồi hai thầy trò đi vào núi Thiên Bửu.
Ít lâu sau, Minh Hoàng lại cho triệu Trương Quả Lão. Ông bèn giả chết, tên lính hầu lo chôn cất tử tế rồi báo về triều. Mấy hôm sau đó, người ta lại thấy Trương Quả Lão cỡi lừa ngược đi dạo. Tên lính ấy lấy làm lạ, đào mộ của Ông Trương lên xem, chỉ thấy cái hòm không.
Vua Minh Hoàng hay tin, cho lập một cái miểu tại núi Thiên Bửu để thờ Trương Quả Lão.

 

Hà Tiên Cô :

 

Hà Tiên Cô, tên thật là Hà Tố Nữ, quê ở Quảng Châu, huyện Tăng Thành. Khi còn bé, Hà Tố Nữ có 6 cái xoáy trên đầu, ai cũng cho là kỳ. Hà Tố Nữ ở với mẹ tại khe Vân Mẫu. Nhằm đời Đường Võ Hậu, Hà Tố Nữ nằm chiêm bao được Thánh nhơn mách bảo nên ăn bột Vân Mẫu thì nhẹ mình chẳng thác. Hà Tố Nữ thức dậy, nhớ lại làm y lời. Bà mẹ thấy Hà Tố Nữ đã đến tuổi trưởng thành nên có ý kén rễ. Hà Tố Nữ khóc lóc nhứt định không chịu lấy chồng, chỉ muốn ở vậy nuôi cha mẹ. Ngày kia, Tố Nữ đi kiếm bột Vân Mẫu thì gặp 2 Tiên Lý Thiết Quả và Lam Thể Hòa đang mang giỏ Hoa Lam đi hái bông. Hai vị thấy Hà Tố Nữ gần thành Tiên, liền gọi đến, truyền cho phép tu luyện, và kêu tặng là Hà Tiên Cô. Võ Hậu nghe đồn, cho người đến rước Hà Tiên Cô, nhưng dọc đường đi về trào, Hà Tiên Cô biến mất. Sau quan Thứ Sử họ Cao gặp Hà Tiên Cô ở trên lầu Quảng Châu. Thứ Sử về trào tâu cho Võ Hậu rõ. Lý Thiết Quả đến độ cả 2 mẹ con Hà Tiên Cô về cảnh Bồng Lai.

 

Lữ Đồng Tân :

 

Lữ Đồng Tân, con của quan Thứ Sử Hải Châu, sanh ngày 14 tháng 4. Khi bà mẹ mới sanh ra Ông thì trong phòng mùi hương thơm phức, có hạc trắng bay vào phòng rồi biến mất. Ấy là Huê Dương Chơn Nhơn đầu thai xuống trần làm Lữ Đồng Tân.

 

Lữ Đồng Tân lớn lên, mắt phụng mày ngài, tay dài, cổ cao, mũi thẳng, xương gò má cao, chơn mày bên tả có nốt ruồi, dưới bàn chơn có chỉ như lưng qui, mình cao 8 thước 2, tánh ưa bịt khăn huê dương (bao đảnh xanh), mặc áo đạo sĩ. Khi ấy có thầy coi tướng Mãn Tổ đến coi đoán rằng : Người trẻ nầy tướng khác phàm tục, sau gặp chữ Lư thì đắc thời, gặp chữ Chung thì thành đạo. Mọi người trong nhà đều nghe nhưng không hiểu gì. Năm 20 tuổi, Lữ Đồng Tân xưng hiệu là Thuần Dương, đi thi đỗ khoa Tú Tài, tiếp theo đỗ luôn khoa Cử Nhân, nhưng khi thi Tiến Sĩ thì rớt. Khi đến núi Lư sơn, gặp Huỳnh Long Chơn Nhơn dạy cho phép tu luyện và tặng cho một thanh gươm chém được yêu quái. Ngày kia, Lữ Đồng Tân đến chợ Trường An, huyện Hàng Đang, vào quán rượu, gặp một đạo sĩ mặc áo trắng đang đề thơ trên vách 3 bài thi như sau:

Ngồi đứng hằng mang rượu một bầu, Chẳng cho cặp mắt thấy Hoàng Châu.

Dạo chơi ít kẻ tường tên họ,
Trên thế thanh nhàn muốn được đâu ?

Thần Tiên tìm bạn khó không nài,
Có phước theo ta dễ mấy ai ?
Đông Hải rõ ràng nhiều động đá,
Ít người được thấy núi Bồng Lai.

Dạo chơi theo thuở, ở theo thời,
Danh lợi làm chi mắc nợ đời.
Nằm nghĩ co tay hằng đếm mãi,
Mấy ai ao ước được như lời.

Lữ Đồng Tân thấy đạo sĩ cốt cách Thần Tiên, đề thơ thanh thoát thì cảm phục lắm, liền đến làm quen, chắp tay chào hỏi và xin Đạo sĩ cho biết họ tên. Đạo sĩ mời ngồi, rồi nói rằng : - Ông hãy làm một bài thơ cho ta biết ý trước đã. Lữ Đồng Tân liền đọc :

Cân đai ràng buôc ý không màng,

Áo vải coi ra rất nhẹï nhàng.
Danh lợi cuộc đời chưa phỉ nguyện,
Làm tôi Thượng Đế mới nên trang.

Đạo sĩ nói : - Ta là Chung Ly Vân Phòng, tu ở núi Triều Hạc, Ông có muốn đi chơi với ta không ? Lữ Đồng Tân có vẻ lưỡng lự. Vân Phòng biết Lữ Đồng Tân còn muốn đi thi Tiến Sĩ để trổ danh với đời, nên ý còn dùng dằng. Vân Phòng muốn độ Lữ Đồng Tân nên ngồi nấu một nồi huỳnh lương, tức là nồi bắp vàng. Trong lúc chờ cho nồi bắp chín, Vân Phòng đưa cho Lữ Đồng Tân một cái gối, bảo nằm xuống nghỉ, còn mình thì tiếp tục chụm củi đun nồi bắp. Lữ Đồng Tân nằm xuống, kê đầu lên gối, giây lát chiêm bao thấy mình vác lều chõng đi thi, ngang qua nhà giàu nọ, gặp một người con gái rất đẹp, thì ướm lời. Nàng nọ nói rằng : Nếu chàng thi đậu Trạng Nguyên thì thiếp nguyện nâng khăn sửa trấp. Lữ Đồng Tân vào khoa thi đỗ Trạng, về cưới nàng ấy, sau lại cưới thêm hầu thiếp, được vua bổ làm quan. chức Gián Nghị, lần lần thăng lên. Sau 40 năm được vua phong tới chức Thừa Tướng, con cái đầy đàn, sui gia cũng bực quan lớn, lại có cháu nội cháu ngoại. Thật là vinh sang phú quí tột bực. Chẳng may, sau đó bị gian thần hãm hại, vu oan giá họa, vua tin lời, bắt tội, truyền tịch thâu gia sản, đày qua núi Lãnh Biển, cực khổ vô cùng. Kế giựt mình thức dậy. Vân Phòng ngồi kế bên cười lớn, ngâm câu thơ : Nồi bắp hãy còn ngòi, Chiêm bao đà thấy cháu.

 

Lữ Đồng Tân lấy làm lạ hỏi rằng :
- Thầy biết sự chiêm bao của tôi ?
- Chiêm bao 50 năm, công việc cả muôn, thiệt không đầy một lát, đặng chẳng khá mừng, mất không nên thảm, hết vinh tới nhục là lẽ thường. (Do sự tích nầy mà người ta nói : Giấc Huỳnh lương, Giấc kê vàng, Giấc Hàng Đang, là để chỉ giấc mộng của Lữ Đồng Tân, xem vinh hoa phú quí là phù du mộng ảo). Lữ Đồng Tân nghe Chung Ly Vân Phòng nói vậy, liền tỉnh ngộ, ngẫm nghĩ thấy chán ngán cuộc đời, cầu xin Vân Phòng truyền đạo. Vân Phòng nói : - Việc nhà hãy chưa an, đời sau tu cũng không muộn. Nói rồi liền bỏ đi. Lữ Đồng Tân trở về nhà, bỏ việc công danh, lo tu tâm dưỡng tánh. Trong thời gian đó, Chung Ly Vân Phòng lần lượt bày ra 10 điều để thử tâm chí của Lữ Đồng Tân. Vân Phòng rất hài lòng về người đệ tử nầy, nói : - Ta đã thử 10 điều, khen ngươi bền chí, đáng được truyền đạo trường sanh. Song ngươi chưa có công quả bao nhiêu, nên ta rước gấp chưa được. Nay ta dạy ngươi phép chỉ đá hóa vàng, ngươi cứu đời cho có công, rồi ta sẽ rước ngươi về Thượng giới. Lữ Đồng Tân thưa rằng : - Vàng ấy chừng bao lâu mới phai ? - Cách 3000 năm mới trổ. Lữ Đồng Tân châu mày thưa rằng : - Như vậy thì cứu người nghèo bây giờ mà lại làm hại những kẻ 3000 năm sau nhiều lắm, thiệt tôi chẳng nỡ lòng. Vân Phòng khen : - Lòng ngươi nhơn đức 10 phần, truyền đạo bây giờ cũng đặng. Nói rồi dắt Lữ Đồng Tân về núi Triều Hạc, và sau đó truyền hết các phép tu luyện cho Lữ.


Một ngày nọ, Vân Phòng gọi Lữ Đồng Tân nói : - Ta gần về chầu Thượng Đế. Ta sẽ tâu xin đem tên ngươi vào sổ Tiên. Cách 10 năm nữa, đến gặp ta tại Động Đình Hồ. Xảy có một vị Tiên cỡi hạc bay đến nói : - Có chiếu chỉ của Đức Thượng Đế phong Vân Phòng làm chức Kim Khuyết Thượng Tiên. Hãy mau lên lãnh sắc.
Vân Phòng liền từ giã Lữ Đồng Tân rồi bay lên mây. Lữ Đồng Tân vẫn ở núi Triều Hạc để lập thêm công quả.


Ngày nọ, Lữ Đồng Tân đến sông Giang Hoài, được biết có một con giao thành tinh, phá hại dân chúng. Đã có nhiều đạo sĩ đến trị nó không nổi, Lữ Đồng Tân biết mình có gươm phép của Huỳnh Long Chơn Nhơn ban cho, chắc trừ nó đặng, nên nói với quan Phủ để mình lãnh cho. Nói rồi, rút gươm phép ra, miệng niệm Thần chú, phóng gươm xuống sông Giang Hoài, giây phút thấy nước sông nổi sóng, máu tươi vọt lên thắm đỏ dòng sông, con giao long bị chém đứt họng nổi lên. Gươm linh nầy chém xong lại trở vô vỏ. Quan Phủ rất mừng, tặng cho Lữ vàng bạc để đền ơn, nhưng họ Lữ đều không nhận.
*


Lữ Đồng Tân đi qua Châu Nhạc Dương, bố thí thuốc chữa bịnh, và tìm người lành độ dẫn tu hành. Kế tới ngày hẹn với Hớn Chung Ly, Lữ Đồng Tân sắp đặt để đi đến Động Đình Hồ đón Vân Phòng và sau đó cùng Vân Phòng đi độ Hàn Tương Tử.

 

Hàn Tương Tử :

 

Hàn Tương Tử sanh nhằm đời Đường, cháu ruột của Hàn Dũ, kêu Hàn Dũ bằng chú. Thuở nhỏ, Hàn Dũ ép cháu học Nho để tiến thân trên đường làm quan nhưng Hàn Tương Tử không chịu nên nói : - Chú mộ công danh phú quí, cháu mộ đạo Thần Tiên. Vì vậy, Hàn Tương Tử thường lo tu tâm dưỡng tánh. Ngày nọ, Hàn Tương Tử gặp được Chung Ly Vân Phòng và Lữ Đồng Tân. Ba người dắt lên non hái đào chín. Chung Ly biết Hàn Tương Tử sắp thành Tiên, liền kêu Hàn Tương Tử leo lên cây hái đào chín, nhánh đào gãy, Hàn Tương Tử té xuống bỏ xác thành Tiên, theo Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân về đảo Bồng Lai. Hàn Tương Tử có ý muốn độ chú mình là Hàn Dũ. Năm ấy, Trời hạn hán, Hàn Dũ vâng lịnh vua cầu mưa nhưng không linh. Bỗng nghe một đạo sĩ (do Hàn Tương Tử biến hóa ra) rao lên rằng : - Ai muốn mua mưa tuyết, ta bán cho. Hàn Dũ liền rước vào yêu cầu đạo sĩ đảo võ (cầu mưa), giây phút mưa xuống tràn ngập ngoài đồng, tuyết sa chất ngất. Hàn Dũ nói : - Không chắc ai đảo võ mà đặng mưa tuyết nầy. Ta cầu đã nửa ngày rồi, có khi kết quả chậm một chút. Đạo sĩ nói : - Mưa tuyết do tôi cầu cao 3 thước 3 tấc. Hàn Dũ đo lại, đúng y như lời đạo sĩ, mới tin đạo sĩ là Thần Tiên có phép mầu. Đến ngày Hàn Dũ ăn lễ sinh nhựt, Hàn Tương Tử đến chúc thọ chú. Hàn Dũ thấy vậy, nửa mừng nửa giận hỏi : - Bấy lâu nay ngươi theo học đạo Thần Tiên thế nào ? Làm một bài thơ nghe thử. Hàn Tương Tử ngâm rằng :

Đã quyết chí tu trì,

Thành Tiên chẳng khó chi,
Mây xanh hằng cỡi hạc,

Động đá cứ ngâm thi.
Đặt rượu trong giây phút,

Trồng hoa nở tức thì.
Lâu dài ngàn tuổi thọ,

Điều độ kẻ tương tri.

Hàn Dũ nói : - Ngươi cướp quyền Tạo Hóa đặng sao ? Hãy đặt rượu và trồng hoa xem thử. Hàn Tương Tử bảo đem một cái ché không, đặt giữa bàn, lấy mâm đậy lại, trong giây phút, rượu ngon đầy ché. Rồi Hàn Tương Tử ra trước sân, đào đất vun đống, tức thì mọc lên một cây hoa mẫu đơn nở bông rất lớn, giữa bông có hiện ra hàng chữ: Vân hoành Tần lãnh gia hà tại, Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền. Hàn Dũ đọc rồi ngẫm nghĩ mãi mà không hiểu ý gì, liền hỏi Hàn Tương Tử. Hàn Tương Tử đáp rằng : - Ngày sau chú sẽ biết, bây giờ không dám lậu Cơ Trời. Ai nấy trong bàn tiệc đều lấy làm lạ kỳ. Mãn tiệc, Hàn Tương Tử từ giã về núi. Lúc ấy nhằm đời vua Đường Hiến Tông, bên Tây Trúc đem dâng tượng Phật, vua muốn rước vào cung để thờ. Bá quan không ai dám can gián. Hàn Dũ thấy vậy liền dâng sớ can vua : - Từ Tam Hoàng Ngũ Đế đến vua Võ vua Thang, vua Văn Vương, chưa có Đạo Phật thì thiên hạ thái bình. Đến đời Hớn, vua Minh Đế đem Đạo Phật vào Trung Nguyên thì nhà Hớn chẳng lâu dài. Sau qua đời Lương Võ Đế, vua rước Phật về thờ phượng hết lòng, nhưng vua bị Hầu Kiển vây khổn, phải chết đói tại Đài Thành, sao Phật không cứu ? Như thế chẳng nên tin Phật. Xin Bệ hạ đãi bọn Tây Vức rồi truyền đem tượng Phật ném xuống sông hay quăng vào lửa mà hủy đi kẻo thiên hạ mê lầm.

 

Đường Hiến Tông xem sớ xong thì nổi giận, truyền lột chức Hàn Dũ và đày ra Triều Châu tức thì. Hàn Dũ bị dẫn đi đày, đến một nơi hoang vắng, chẳng có nhà cửa người ở, mây giăng chót núi mịt mù, tuyết rơi bít lối. Chợt thấy phía trước có một đạo sĩ đang quét tuyết dọn đường, nhìn kỹ lại là Hàn Tương Tử. Hàn Dũ mừng rỡ hỏi : - Xứ nầy là chốn nào ? Hàn Tương Tử đáp : - Đây là Ải Lam quan, núi nầy là Tần lãnh. Hàn Dũ nhớ lại 2 câu thơ trong hoa mẫu đơn thì than : - Như vậy, số Trời đã định, chạy sao cho khỏi. Từ đó, Hàn Dũ mới tin có Trời, trọng Đạo. Đêm ấy, chú cháu bàn chuyện đạo đức đến khuya. Rạng ngày, Hàn Tương Tử tặng cho chú một bầu thuốc, rồi dặn chú : - Chú uống một hoàn thuốc Tiên nầy thì khỏi sanh các bịnh. Không bao lâu, ở Triều Châu có sấu nổi lên phá hại, chú đặt văn tế đưa nó phải đi, kế đặng phục chức trở về triều. Sau đó, cháu sẽ về độ chú, truyền cho các phép tu luyện. Nói rồi, Hàn Tương Tử từ giã chú trở về cung Tiên.

 

Tào Quốc Cựu :

 

Tại núi Bồng Lai, trong lúc ăn tiệc, uống rượu quỳnh tương, Lý Thiết Quả nói :
- Tại Bồng Lai có 8 động đá, mà anh em ta có 7 người, phải rán độ thêm một vị nữa. Ta nhắm em ruột của Tào Thái Hậu là Tào Quốc Cựu có khí tượng Thần Tiên, cũng nên độ kẻo uổng. Hớn Chung Ly thưa rằng : - Để tôi xuống coi thử, nếu thực vậy thì tôi lo điều độ. Nói về Tào Quốc Cựu, tên thật là Tào Hữu, em ruột của Tào Thái Hậu, đời vua Tống. Tào Hữu có một người em ruột là Tào Nhị, ỷ thế của anh và chị, lập phe đảng hại dân, bắt hiếp gái lành, sang đoạt tài sản. Tào Hữu rất giận, thường la mắng Tào Nhị, nhưng Tào Nhị vẫn chứng nào tật nấy, lại đem lòng oán trách. Tào Hữu thường than rằng : Chứa lành có phước, chứa dữ mang họa. Em mình làm dữ mười phần, lẽ nào không bị hại, tuy qua đặng dương pháp, chớ chạy sao khỏi luật Trời. Nếu tai họa tới thì mình phải tội liên can, chi bằng nên lánh trước kẻo nhơ danh và mắc nạn.


Suy nghĩ rồi, liền bán hết tài sản, đem tất cả tiền thâu được bố thí cho dân nghèo, rồi mặc đồ đạo sĩ đi lên núi, tìm chỗ thanh vắng để tu hành. Qua được vài năm thì Hớn Chung Ly và Lữ Đồng Tân tìm đến gặp mặt, hỏi rằng : - Ông tu luyện ra sao ? - Lòng mộ đạo Thần Tiên thì lánh việc trần, chớ tôi không biết phép tu chi hết.
Hai Tiên liền hỏi tiếp : - Đạo ở đâu mà mộ ? Tào Quốc Cựu chỉ Trời. - Trời ở đâu ? Tào Quốc Cựu chỉ vào trái tim.
Hớn Chung Ly nói : - Tâm là Trời, Trời là đạo. Ông đã biết rõ cội rễ, tu chắc thành Tiên. Nói rồi, liền đưa Tào Quốc Cựu về núi Bồng Lai. Từ đây về sau, núi Bồng Lai có đủ Bát Tiên ở trong 8 động, tiêu diêu nhàn lạc vô cùng. Ngày kia, Hà Tiên Cô nói với 7 Tiên rằng : - Lẽ thường, Tiên Ông mới thành thì ra mắt Đông Vương Công, còn Tiên Nữ mới thành thì ra mắt Tây Vương Mẫu. Kỳ trước, sanh nhựt của Đông Vương Công, Tiên Nữ cũng đi chúc thọ. Nay gần đến sanh nhựt của Đức Tây Vương Mẫu, 7 Ông tính đi chúc thọ không ? Hớn Chung Ly và Lam Thể Hòa đồng nói : - Tây Vương Mẫu không cai trị chúng ta, song bà là vị làm đầu Tiên Nữ, các Thần Tiên đều phó hội, lẽ nào chúng ta không đi, ngặt chẳng có vật chi báu để dâng lễ Chúc thọ. Trương Quả Lão nói : - Tây Vương Mẫu ở Cung Diêu Trì thiếu chi vật báu, chúng ta đặt văn chúc thọ mà khánh hạ thì hay hơn. Lý Thiết Quả khen phải. Lữ Đồng Tân nói : - Văn của chúng ta cũng tầm thường, ước đặng văn của Lão Quân thì mới xứng đáng. Hà Tiên Cô nói : - Thái Thượng Lão Quân hậu đãi Lý Tiên Trưởng lắm, nếu Lý Tiên Trưởng cầu Ngài chắc đặng. Lý Thiết Quả nói : - Phải, song việc đông người mà đi một mình ta thì thất lễ. Vậy thì 8 anh em ta cùng đi đến mà cầu Lão Quân.


Nói rồi, Bát Tiên đồng đằng vân qua Cung Đâu Suất. Đức Lão Quân tiếp Bát Tiên, mời vào Cung, nói : - Thuở nay, nhà Nho hay học sách của ta như sách Đạo Đức Kinh, Kinh Cảm Ứng, song dùng cho thông ý tứ mà làm văn, chớ chẳng hề bắt chước theo lời dạy bảo. Lại có kẻ kiêu ngạo, chê Phật, chê Lão, nên ta chẳng hề đặt sách chi thêm nữa mà dạy đời. Lý Thiết Quả thấy Lão Quân có sắc buồn, nhưng cũng rán cầu xin việc đặt bài chúc thọ Tây Vương Mẫu. Lão Quân cười nói : - Ta ít ưa việc ấy, vì có nhiều người làm không đặng mà lại hay chê. Song 8 vị có lòng cầu ta, ta đặt giúp cho một bài từ cũng đủ. Lão Quân nói xong, liền viết ra một bài, đưa cho Bát Tiên xem thử. Ai nấy đều khen ngợi vô cùng. Bát Tiên từ tạ lui ra, đến cậy Chức Nữ làm trục bằng gấm, dán chữ sáng như sao, rồi đem đi chúc thọ. Bát Tiên đi đến Hội Bàn Đào, để chúc thọ Tây Vương Mẫu, thấy các Thần Tiên đến đông lắm. Bát Tiên dâng bức trướng chúc thọ. Tây Vương Mẫu khen văn đặt rất hay. Sau khi mãn tiệc, các Thần Tiên đều về hết, Bát Tiên còn lưu lại. Tây Vương Mẫu gọi 4 nàng thị nữ đến bảo rằng : - Đổng Song Thành, Vương Tử Phá, Hứa Phi Yến, An Phát Trinh 4 người từ khi ca múa tại Hoa Điện của vua Hớn Võ Đế đến nay cũng đã khá lâu, bây giờ hãy thổi sáo và đờn ca cho Bát Tiên uống rượu. Bốn nàng vâng lời. Lam Thể Hòa khen hay, rót rượu dâng lên Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu nói : - Ta nghe tiếng Lam Tiên ca hay, vậy nên trình nghề vui chung trong hội. Lam Thể Hòa vâng lời, lấy cặp sanh ra, vừa nhịp vừa ca. Ai nấy đều khen và cười ngất. Tây Vương Mẫu thưởng cho rượu và đào. Lam Thể Hòa nói : - Hàn Tương Tử thổi sáo hay lắm. Tây Vương Mẫu bảo thử. Hàn Tương Tử vâng lời. Tây Vương Mẫu nghe xong, khen hay, bảo : - Bản ấy rất hay, An Phát Trinh phải nhớ mà tập. Tiệc xong, Bát Tiên từ tạ. Tây Vương Mẫu truyền đưa Bát Tiên đến chơn mây. Bát Tiên ngó thấy sóng biển Đông cao lắm. Lữ Đồng Tân nói : - Thuở nay nghe đồn Đông hải mà chưa đến xem phong cảnh thế nào. Sẵn dịp nầy, chúng ta cũng nên xem qua một chuyến. Lý Thiết Quả nói phải. Trương Quả Lão can rằng : - Bữa nay chúng ta uống nhiều rượu say rồi, để khi khác sẽ đi dạo. Hớn Chung Ly nói :
- Sẵn dịp nầy chẳng đi dạo, còn đợi dịp nào ? Bát Tiên đồng đi đến mé biển. Lữ Đồng Tân nói : - Nay đằng vân quá hải, không lấy làm tài, chi bằng mỗi người thả một phép xuống biển, cỡi qua tới mé bên kia mới thiệt thần thông. Lý Thiết Quả quăng gậy xuống nổi lên mặt nước, rồi nhảy xuống đứng một chân trên gậy. Hớn Chung Ly ném cây Phất chủ xuống và cũng làm như vậy. Trương Quả Lão thả lừa giấy, Lữ Đồng Tân thả Ống tiêu, Lam Thể Hòa thả Ngọc bản, Hàn Tương Tử thả giỏ Hoa lam, Tào Quốc Cựu thả Thủ quyển bằng ngọc, Hà Tiên Cô thả bông sen. Tất cả 8 Tiên đều đứng trên bửu pháp của mình, đồng vượt qua Đông hải.

 

Theo Đạo Sử của Đạo Cao Đài, trong thời kỳ đầu tiên còn xây bàn mời các vong linh đến xướng họa thi văn, Bát Tiên có giáng bàn cho thi và khuyến tu. Sau đây xin chép lại các bài của Bát Tiên giáng cho.

 

1.      Lý Thiết Quả (Lý Ngưng Dương) :

Đại Hỷ chư Đạo hữu,

Trời Đất riêng tay giữ một bầu,
Ngàn mây dặm gió gót chơn thâu.
Rừng tòng thong thả nhàn ra dạo,
Đền ngọc thung dung rảnh đến chầu.
Thoát tục sớm dìu nên bảy bạn,
Dẫn phàm nay rảo khắp năm châu.
Thế trần mừng gặp Tam Kỳ độ,
Biển khổ thuyền đưa khách lánh sầu.

Chư Đạo hữu may mắn thay gặp đường Chánh giáo, chớ dần dà trễ thiếu công quả, mà chẳng đến thang thiêng liêng kịp hồi cựu vị. Lão mong ngày Đạo khải hoàn. Chư Đạo hữu nên gắng sức. Đường cũng chẳng còn bao xa, miễn hiệp đồng nhứt tâm vì sanh chúng, sau còn ngày gặp gỡ. THĂNG.

 

2. Hớn Chung Ly :

Rảo khắp non sông dặm trải qua,
Bì gương nhựt nguyệt, tác không già.
Biển trần nay gặp kỳ dìu chúng,
Muôn dặm đèn soi đã có ta.

Chư Đạo hữu, Đức Chí Tôn dìu bước, cả Tiên Phật dẫn đàng, há chẳng sớm lánh phồn hoa, đặng giồi trau gương đôï chúng. Huống chi chư Đạo hữu đã có quả nơi mình, lại chẳng vì mạng lịnh Đức Từ Bi mà chịu ít lâu khổ hạnh, hầu mong buổi đạt phẩm vị thiêng liêng sao ? Ước mong ngày hội ngộ, trông mong buổi tạc thù, rượu Thánh ra non dòm thế, cờ Thần dựa đảnh luận đời. May thay ! Vui thay ! Chư Đạo hữu nên gắng sức. THĂNG.

 

3. Lữ Đồng Tân :

Riêng vui nguyệt chiếu sắc trong ao,
Đền ngọc từng khi để bước vào.
Rảnh hứng trăm hoa khoe đảnh ngự,
Nhàn vầy mấy bạn dự Bàn Đào.
Độ đời rảo gót non sông lướt,
Cứu thế dìu nhân đạo đức trau.
Chờ buổi tuần huờn Thiên lý trở,
Nương gươm Thần huệ một vừng cao.

Lữ Đồng Tân,

Hỷ chư Đạo hữu, Đạo gặp kỳ Phổ độ, khá biết cải thế thì. Đạo khả trọng, đức năng trau, đời dời đổi, Đạo chờ người. Khách tục nương thuyền độ, non Tiên tiếng khánh đưa. Gắng nhọc thế lọc lừa, tìm đường ngay thẳng rẳng. Nguồn rửa bợn, nhiều đường cay đắng, bước nâu sồng dặm lắm gay go, liệu sao khỏi trễ con đò, mới thoát vòng khổ hải. Gắng sức vì sanh mạng, lao tâm chớ sợ bởi căn xưa, đường quanh co, bước khá ngừa, nẻo hiểm trở, chơn nên lánh. Hậu tái ngộ. THĂNG.

 

4. Lam Thể Hòa :

Từng vào non Thánh lại Đền vàng,
Mãn quả sớm nhờ sắc ngọc ban.
Lần hạt tu tâm thìn nét Đạo,
Biển trần độ chúng vững con thoàn. Cuộc cờ chung hứng nơi rừng thẩm,
Bầu rượu riêng vui dưới cội tàng.
Gặp lúc dìu đời qua bến tục,
Để công phải nhọc đến phàm gian

Lam Thể Hòa,

Hỷ chư Đạo hữu, Đạo gặp lối quanh co, khá biết ngừa vực thẩm. Gắng sức cho tròn trách nhậm lớn lao do Đấng Chí Tôn phú thác. Chư Đạo hữu khá biết. THĂNG.

 

5. Trương Quả Lão :

TRƯƠNG kỳ Bạch động mộ Tiên gia,
QUẢ diệu thâu trì tác trí kha.
LÃO dược độ sanh tiên tự khởi,
Hiến trần tu thức trực ninh tà.

Ách nước nạn dân, số Trời đọa thế, vòng vay trả, mối buộc ràng, nếu có tai mắt rộng xa, tự hỏi, vì đâu nên nỗi ? Đạo Trời gỡ nạn, chuông Thánh truy hồn, bến khổ vớt khách chìm, non Thần chờ kẻ lạt, mà cũng còn khư khư nắm chắc miếng đỉnh chung, cấp củm giữ đầy lằn nhơ bợn. Đạo đời đều chẳng trọn, phương chi tìm chốn thoát lao lung. Ngảnh lại cuộc giả của trò đời mà thương đau cho trẻ dại. Lần lần lựa lựa, ngẩn ngẩn ngơ ngơ, đứa trí gạt phường ngu, lũ khôn ăn đám dại. Cười . . . THĂNG.

(Năm bài Thánh giáo từ 1 đến 5 đều chép trong quyển sách Đại Đạo Truy Nguyên của Cao Huệ Chương).

 

6. Tào Quốc Cựu :

 

Đàn tại Miếu Nổi, Bến Cát, Gò Vấp, Gia Định, đêm 17-6-Quí Hợi (dl 30-7-1923), Đại Tiên Tào Quốc Cựu giáng dạy như vầy : " Khá ráng luyện cho nên Đạo, kẻo uổng, người sanh trong đời khó gặp đặng, vì Đạo là rất báu trong đời, không chi bì kịp, nên mới gặp Đạo mở kỳ nầy là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. " Hữu duyên đắc ngộ Tam Kỳ độ. " Tiên Thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân, chư nhu là kẻ nguyên nhân, hễ thành tâm hành Đạo thì tự nhiên đặng."

 

7. Hàn Tương Tử :

 

Đêm 17 tháng 12 năm Tân Mùi (1931).

HÀN mặc sẵn dành Đạo để thông,
TƯƠNG giang rõ ngọn phải nhiều công.
TỬ tôn noi dấu nền tu niệm,
Đắc thất nên hư cũng tại lòng.
Chỉ dạy người phàm trau tánh sáng,
Giáng khuyên kẻ tục sửa mình trong.
Đàn qua Khứu lãnh bao nhiêu dặm,
Khuyên thế tu hành học chữ không.

Phàm làm người tại thế gian là chốn đua tranh danh lợi, hễ có danh có lợi thì có buồn, có vui, làm quan tổn đức, làøm giàu bất nhơn, ít ai đặng thanh liêm chưởng đức. Hễ đắm vào 2 đường ấy thì buộc sự oan gia trái chủ. Khi giàu thiếu chi thê thiếp, thân bằng cố hữu; khi sang chẳng dứt kẻ hầu người hạ; khi nghèo thê thiếp vắng hoe, bà con biếng ngó; buổi công danh lỡ vận, hầu hạ lánh xa, xe tàn biếng chực.
Xét lại cuộc giàu sang ở thế như huỳnh lương chi mộng, khuyên thế xét cho kỹ càng, lo tu cho sớm mà hưởng phước thanh nhàn, khỏi lo luân hồi vay trả.

THI rằng :

Giàu sang danh lợi có ra chi,
Khuyên thế lo tu mới kịp thì.
Gặp lúc mưa thu vui ngã ngớn,
Nhằm hồi nắng hạ não sầu bi.
Tiền muôn lúa lẫm nhiều thê thiếp,
Ruộng mất vườn hư hết thị tỳ.
Mê chốn phồn ba chưa tỉnh giấc,
Ăn năn nào kịp buổi chung qui.
(Trích trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, trang 73)

8. Hà Tiên Cô :

(Trích trong Kinh Tam Nguơn Giác Thế, trang 28) Đêm 17 tháng 10 năm Tân Mùi (1931).

Ỷ thế tri cơ diệt lục trần,

Xuất kỳ chi bán nhập nhơn thân.
Nô nhơn hựu khứ tùng lai cổ,
Đắc lịnh hạ phàm độ thiện nhân.

Giải rõ thi chiết tự : - Trên đời muốn biết Thiên cơ phải diệt Lục trần là chữ Ỷ, bỏ chữ Lục là chữ Hà, - Chữ Xuất bỏ bớt một nửa còn chữ Sơn , đem chữ Nhơn đứng vào mình chữ Sơn gọi là chữ Tiên. - Bỏ phận nô tỳ, lại theo người xưa là chữ Nô bỏ chữ Hựu, còn chữ Nữ, đem chữ Cổ hiệp lại là chữ Cô, - Vâng lịnh Bề trên xuống phàm trần mà độ người lương thiện.

 

Sự tích : Ta khi đến tuần cặp kê, 16 tuổi, chí mộ tu hành, không ham vui cuộc thế. Hồi đời Trung cổ thái bình, nhiều bực hiền lương thiện sĩ và muôn dân lạc nghiệp, chiến tranh ít có, nhà an nước trị, ở thế rất vui, làm quan khỏi lo dân kiện, làm giàu khỏi lo đạo tặc, nhưng ta xét lại người đời trăm tuổi chẳng bao xa, đặng làm Tiên Thánh thì muôn đời thong thả, nên ta lập chí tu hành, rủi bị cha mẹ ép việc hôn nhân, bởi chưa rõ lòng ta, suy xét cưỡng ép không đặng, cho đến phạt hình. May có Hớn Chung Ly Đại Tiên cùng Lữ Tổ cứu khổ huờn sanh và độ ta đặng thành Chánh quả. Đến khi ta đắc đạo, 3 năm sau hạ phàm độ cha mẹ cùng đồng đắc đạo, sự đền ơn trả thảo cù lao dưỡng dục chi nghĩa là là phải tu như vậy, tu cho đắc đạo, phản bổn huờn nguyên, thời độ Cửu huyền Thất Tổ theo lên, chớ chẳng phải phụng cúng đồ cao lương mỹ vị.


Thế gian khi thác thì nhựt sát tam sanh, tế tông tự tổ, ấy là gia tăng đại tội cho tiên thân, chẳng phải là hiếu. Ta khuyên các trò, gặp cuộc Tam Kỳ Phổ Độ, Trời ân xá cho chúng sanh, thừa dịp may, khuyên các trò khá giữ trường trai giới sát mà tu hành, chớ nên ham vui theo cuộc phù ba, vợ vợ chồng chồng, mà gây thêm mối nợ oan gia thời tử sanh không dứt. . . . . . . THĂNG.

 

22. Thất Thánh

 

Thất Thánh là 7 vị Thánh vào thời Phong Thần ở Trung Hoa. Theo Truyện Phong Thần, 7 vị Thánh nầy vâng lịnh thầy xuống núi giúp Khương Thượng Tử Nha phò nhà Châu, đánh dẹp các Tiên Triệt giáo đang giúp vua Trụ, để diệt Trụ hưng Châu.
Bảy vị nầy có đủ công đức vượt Bảng Phong Thần, vào trường Phong Thánh. Thất Thánh gồm :

1. Lôi Chấn Tử.
2. Lý Tịnh.
2. Kim Tra.
4. Mộc Tra.
5. Na Tra.
6. Dương Tiễn.
7. Vi Hộ.

Trên tấm diềm ở Bát Quái Đài phía Nam phái, có đắp tượng Thất Thánh trên những cụm mây lành 5 sắc. Sau đây là sự tích của Thất Thánh viết theo Truyện Phong Thần.

 

Lôi Chấn Tử :

 

Tây Bá Hầu (sau là vua Châu Văn Vương) được lịnh của vua Trụ gọi về triều. Trên đường đến triều ca, khi qua núi Yên sơn thì gặp Trời đổ mưa tầm tã, lại nổ ra một tiếng sấm thật lớn dường như lở non rúng đất, ai nấy đều thất kinh. Khi hết mưa, Tây Bá Hầu nói với các tướng hầu cận rằng : - Sấm lớn quá, chắc có tướng tinh ra đời. Các ngươi hãy đi tìm kiếm quanh đây xem sao. Các tướng không dám cải, cứ đi quanh quẩn mà tìm. Xảy nghe tiếng con nít khóc, quân lính tìm tới thấy một đứa bé mới sanh, chắc đây là tướng tinh, nên bồng đứa bé đem trình Tây Bá. Tây Bá mừng rỡ, hỏi kỹ trước au, thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, thì mừng lắm, nói : - Số ta có một trăm đứa con, mà đã sanh được 99 đứa rồi. Nay nuôi thêm thằng nhỏ nầy nữa thì đủ số 100. Tướng mạng của thằng nhỏ nầy ngày sau quí lắm, bây hãy bồng nó đi vô xóm đặng mướn vú nuôi dưỡng, đợi 7 năm nữa ta về ngang đây, ta sẽ rước nó. Tây Bá Hầu chưa đi tới xóm, thình lình gặp một Đạo sĩ đến bái Tây Bá Hầu nói rằng : - Chào Chúa Công. Tây Bá lật đật xuống ngựa đáp lễ, rồi hỏi : - Thầy ở động nào, núi nào, đến đây có việc chi ? Đạo sĩ đáp : - Tôi ở động Ngọc Trụ, núi Chung Nam, hiệu là Vân Trung Tử, bởi nghe sấm nổ lớn, biết có vị tướng ra đời, nên đến đây tìm kiếm. Tây Bá truyền đem đứa bé lại cho Đạo sĩ xem. Vân Trung Tử bồng nó rồi nói rằng : - Tướng tinh đợi chừng nầy mới ra đời ! Để cho tôi đem về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa Công trở về đây, tôi sẽ trả lại cho. - Tôi cám ơn thầy, song lâu mới gặp, nên phải đặt tên cho nó để nhớ mà nhìn. - Trong sấm sanh ra, thì cứ theo đó mà đặt tên là Lôi Chấn Tử. Tây Bá khen phải, rồi để cho Vân Trung Tử bồng Lôi Chấn Tử đem về động. Bảy năm sau, Vân Trung Tử biết Tây Bá Hầu đã mãn hạn ngồi tù ở Dũ Lý, nhưng còn bị tai ương một chút, nay đã đúng kỳ giao ước, nên phải cho Lôi Chấn Tử xuống núi cứu cha, liền sai Kim Hà Đồng Tử gọi Lôi Chấn Tử vào và bảo : - Nay cha ngươi đương mắc nạn, phải đi cứu cho mau. Lôi Chấn Tử hỏi : - Thưa thầy, chẳng hay cha của con là ai ? Vân Trung Tử thuật hết các việc đã xảy ra và nói : - Cha nuôi của ngươi là Tây Bá Hầu đang mắc nạn ở ải Lâm Đồng. Ngươi đi ra núi Hổ Nhi kiếm đồ binh khí đặng thầy dạy võ nghệ cho mà xuống núi cứu cha. Lôi Chấn Tử vâng lời thầy, đi đến núi Hổ Nhi tìm binh khí, chẳng thấy chi hết, mà lại thấy một cây hạnh có 2 trái chín đỏ rất ngon, liền leo lên hái, ăn thử một trái cảm thấy rất ngon, liền ăn hết 2 trái. Ăn vừa xong thì 2 bên sườn bắt ngứa ngáy, thấy mọc ra 2 cánh lớn như cánh chim đại bàng. Lôi Chấn Tử thấy vậy rụng rời, ngã lăn bất tỉnh. Một hồi, tỉnh dậy, rờ sóng mũi quá cao, nanh ló ra khỏi môi, mắt lồi khỏi khoé, mặt xanh tóc đỏ, mình cao 2 trượng, lưng lớn 10 vừng. Lôi Chấn Tử không biết vì sao mà mình lại biến hình quái lạ như vậy. Vân Trung Tử xem thấy, vỗ tay cười lớn, chỉ Lôi Chấn Tử rồi ngâm bài thi:

Ăn hai hạnh đỏ sanh đôi cánh,
Cầm một gậy vàng giúp đế vương.
Bay khắp Đất Trời làm sấm gió,
Biết bao phép tắc định Âm Dương.
Mắt lồi sáng giới đôi tròng bạc,
Tóc dửng phất phơ một sắc hường.
Tướng tợ Lôi Công, oai tợ sét,
Phò cha dựng nước, dẹp nhà Thương.

Vân Trung Tử dắt Lôi Chấn Tử vào vườn đào, ban cho một cây gậy vàng, dạy cho võ nghệ tinh thông, phép tắc mầu nhiệm, rồi lấy son viết chữ PHONG bên cánh trái, và chữ LÔI bên cánh phải. Vân Trung Tử bảo : - Ngươi mau qua ải Lâm Đồng cứu cha là Tây Bá Hầu, song chẳng đặng giết tướng của nhà Trụ, cũng không đặng phép theo cha, phải trở lại núi Chung Nam đặng học thêm cho xong phép tắc. Lôi Chấn Tử tạ ơn thầy, đi ra khỏi động, vỗ 2 cánh PHONG LÔI, tức thì bay tới ải Lâm Đồng trong giây lát, thấy một người cỡi ngựa đang chạy trốn, nghĩ chắc là cha mình đang mắc nạn, nên gọi lớn : " Ông có phải là Tây Bá Hầu đó chăng ? " Tây Bá nghe tiếng, ngó lên núi, thấy một người như quỉ sứ, thì quá sợ hãi, nghĩ sao người nầy lại biết mình là Tây Bá, lại nghĩ mình đang lúc cùng đường thì còn sợ gì nữa, liền cho ngựa chạy lên núi, đến chỗ Lôi Chấn Tử đứng, hỏi :  - Tướng quân là ai mà lại biết tôi là Tây Bá Hầu ?


Lôi Chấn Tử nghe rõ liền quì xuống lạy vua cha và thuật rõ mọi việc. Tây Bá Hầu mới biết đó là Lôi Chấn Tử biến thân, bây giờ là học trò Tiên, thì rất vui mừng.
Liền đó, Lôi Chấn Tử bảo cha leo lên lưng mình, nhắm mắt lại, để Lôi Chấn Tử bay đưa cha qua khỏi 5 ải, trở về Tây Kỳ, rồi từ biệt cha mà trở về núi Chung Nam theo đúng lời Thầy đã dặn. Thời gian sau, một hôm, Vân Trung Tử đang ngồi trên giường Bích Vân trong động Ngọc Trụ núi Chung Nam, bỗng nhớ đến việc Thái Sư Văn Trọng đem binh đánh Tây Kỳ, nên gọi Lôi Chấn Tử đến bảo : - Ngươi hãy xuống Tây Kỳ, ra mắt Võ Vương, và Sư thúc Tử Nha, đặng phò Châu đánh Trụ mà lập công danh. Lôi Chấn Tử lạy thầy rồi bay xuống Tây Kỳ, xảy thấy binh Trụ đang thua chạy, liền bay xuống đánh tiếp, bị tướng Trụ là Tần Huờn, cũng có đôi cánh biết bay, nên bay lên nghinh chiến. Tần Huờn đánh không lại Lôi Chấn Tử, nên phải bay đi trốn.  Lôi Chấn Tử trở qua dinh Châu, ra mắt Võ Vương Cơ Phát và Sư thúc Tử Nha. Trước khi khởi sự đánh vào 5 ải chinh phạt vua Trụ, Lôi Chấn Tử hỏi thầy về việc chinh chiến sắp tới thế nào, Vân Trung Tử ngâm rằng : Rõ ràng trái hạnh sanh đôi cánh,  Bảo hộ nhà Châu đặng tám trăm.

 

Lý Tịnh, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra :

 

-         Giới thiệu tổng quát : Lý Tịnh vốn là học trò của Độ Ách Thiên Tôn, ở núi Côn Lôn. Khi còn nhỏ, Lý Tịnh đi tu, sau bị đuổi về, ra phò vua Trụ, làm chức Tổng Binh, trấn ải Trần Đường. Vợ Lý Tịnh là Ân Phu nhân, sanh đặng 2 trai vạm vỡ là Kim Tra và Mộc Ta. Nay có nghén lần thứ 3, lạ lắm, 3 năm rưỡi mà chưa khai hoa. Đêm kia nhằm giờ Tý, Ân Phu nhân chiêm bao, thấy một Đạo sĩ râu dài đi thẳng vào phòng, cầm một trái châu sáng, liệng vào bụng bà và nói : Phu nhân mau lãnh con báu. Phu nhân giựt mình thức dậy, thì chuyển bụng, sanh ra một cái bọc điều lớn lắm. Lý Tịnh cả kinh, dùng gươm rạch bọc ra, liền có một đứa con nít trong bọc nhảy ra, mình chiếu hào quang, mặt như giồi phấn, tay cầm Càn Khôn quyện, lưng buộc dây Hỗn Thiên lăng. Ấy là Linh Châu Tử đầu thai xuống đó. Hôm sau, Thái Ất Thiên Tôn là vị Tiên ở động Kim Quang, núi Càn Nguơn, đến nói với Lý Tịnh : - Nghe tướng quân mới sanh con quí, tôi đến mừng, xin cho tôi xem thử. Lý Tịnh truyền thể nữ ẵm công tử ra ngoài. Thái Ất bồng thằng bé và hỏi Lý Tịnh : - Sanh vào giờ nào vậy ? - Vào giờ Sửu. - Không tốt, vì sanh vào giờ ấy thì phạm sát giới 1700 mạng. Tướng quân có đặt tên cho nó chưa ? - Chưa. - Để tôi đặt tên cho nó, sau nó sẽ là đệ tử của tôi. Tướng quân có đặng mấy công tử ? - Tôi có 3 trai : Thằng lớn tên là Kim Tra, theo học với Văn Thù ở núi Ngũ Long động Vân Tiêu; thằng thứ nhì tên là Mộc Tra, theo học với Phổ Hiền ở núi Cửu Cung động Bạch hạc; còn thằng thứ ba là nó đó. Thầy muốn thâu nhận nó làm đệ tử thì thầy tự ý đặt tên. - Tôi đặt tên cho nó là Na Tra. Sau đó, Thái Ất kiếu ra về.

 

-         Na Tra giết Lý Lương, Ngao Bính, Thể Vân

 

Một hôm, Na Tra ra bờ sông tắm chơi, ngồi trên bực thạch, giặt dây lụa đỏ (Hỗn Thiên lăng) làm nước hóa màu hồng, cả sông nổi sóng, làm lâu đài của Long Vương rung rinh. Long Vương Ngao Quảng sai tướng Dạ Xoa Lý Lương lên mé sông xem có việc chi. Lý Lương vâng lịnh đi lên, thấy Na Tra đang giặt dây lụa đỏ, hào quang sáng ngời, hỏi : - Thằng nhỏ kia, mày giặt thứ gì mà làm cho nước sông đỏ tươi, lâu đài rung chuyển ? Na Tra thấy dưới nước trồi lên một tướng mặt xanh tóc đỏ, nanh bạc mắt vàng, tay xách búa đồng, tướng như quỉ sứ, ăn nói lỗ mãng thì đáp rằng : - Mầy là thằng nào ? Lâu đài của bây như đồ thợ mã, mà nói với ai ? Lý Lương tức giận, nhảy đến chém Na Tra. Na Tra lấy Càn Khôn quyện liệng đùa, đánh bể đầu Lý Lương chết tốt. Na Tra nói : - Báo hại dơ Càn Khôn quyện của ta. Nói rồi lấy Càn Khôn quyện chao qua chao lại trong nước để rửa cho sạch, hào quang của nó làm cho lâu đài của Long Vương đổ sập nghiêng ngửa. Ngao Quảng thất kinh, xảy có quân vào báo : - Lý Lương bị một thằng nhỏ đánh bể đầu chết rồi. Thái Tử Ngao Bính vội bước ra xin đi lên bắt thằng nhỏ đó đem về Long Cung trị tội. Ngao Bính nai nịt, cầm khí giới nhảy vọt lên khỏi mặt nước, thấy Na Tra đang ngồi đó thì nạt lớn : - Ai đánh chết tướng Dạ Xoa của ta ? - Tao đây chớ ai. Tao là Na Tra, con của Tổng Binh Lý Tịnh. Tao đang tắm chơi, can cớ chi thằng chết đó, nó tưởng tao là củi nên vác búa lại bửa. Tao đánh chết nó đáng đời. Ngao Bính tức quá, tiến tới lấy kích đâm liền. Na Tra đỡ vẹt kích ra rồi nói rằng : - Mầy là ai ? Xưng tên họ ra cho tao biết. - Tao là Thái Tử Ngao Bính, con của Đông Hải Long Vương Ngao Quảng đây. - Hèn chi mà mầy làm phách. Tao nói thiệt, nếu chọc tao, thì tao lột da đến cha mầy nữa. Ngao Bính quá tức giận, cầm kích đâm tới. Na Tra lẹ tay ném Hỗn Thiên lăng trói Ngao Bính lại, rồi đưa Càn Khôn quyện đập một cái, Ngao Bính chết liền, hiện nguyên hình là một con rồng nhỏ. Na Tra nói : - Để tao rút gân mầy đem về cha tao buộc giáp chơi.


Nói rồi làm liền, xong mặc lại quần áo quay trở về ải. Gia đinh thấy các việc vừa qua, vô cùng hoảng sợ, bò lết theo sau Na Tra, cùng nhau về ải. Một ngày khác, Na Tra ra hoa viên chơi, thấy một cái lầu tại ải rất cao, bèn leo lên đó chơi và hóng mát, thấy trên đó có đặt một cây cung lớn với 3 mũi tên. Na Tra nghĩ bụng, thầy mình bảo sau nầy mình làm chức Tiên Phuông, phò nhà Châu diệt Trụ, nay thử tập bắn cung tên. Nói rồi liền lắp tên vào, giương cung bắn ra một mũi tên về phía Tây Nam. Ngờ đâu, nó là một cây cung Thần của vua Huỳnh Đế thuở xưa đánh Xi Vưu, còn dư 3 mũi tên Thần, gọi là Chấn Thiên Tiễn, khi bắn, phát ra tiếng sấm vang Trời, lâu nay không ai giương cung nầy nổi, nên để tại lầu cao làm báu vật trấn ải. Na Tra bắn xong, nghe sấm nổ thì hoảng kinh, buông cung ra, không dám bắn tiếp, và lật đật leo xuống lầu. Ngờ đâu, mũi tên bay tới núi Khô Lâu, động Bạch Cốt, giết chết Thể Vân Đồng tử, học trò của Bà Thạch Cơ, một vị Tiên Triệt giáo. Thạch Cơ ra xem, thấy đề là Chấn Thiên Tiễn, là biết của Lý Tịnh ở ải Trần Đường, liền cỡi chim loan xanh xuống ải bắt Lý Tịnh về động tra xét. Lý Tịnh xem thấy Chấn Thiên Tiễn bắn chết Thể Vân thì thất kinh, van nài Thạch Cơ : - Cung Càn Khôn và Chấn Thiên Tiễn là vật linh, lâu nay không ai bắn nổi, chẳng qua tôi mắc vận suy, tai rơi họa gởi, xin cho tôi về ải tra xét xem ai bắn thì chịu chết cũng cam lòng. Thạch Cơ nói : - Cho ngươi trở về tra xét, kẻo kêu nài oan ức. Nếu truy xét không ra đứa bắn thì ta kiện đến thầy ngươi. Lý Tịnh từ ta,ï độn thổ trở về ải, điều tra biết rõ Na Tra có bắn, kinh hãi vô cùng, đòi Na Tra ra nói : - Mầy đã lấy cung Càn Khôn bắn chết Thể Vân là học trò của Bà Thạch Cơ, Bà bắt tội tao, mầy phải đến Thạch Cơ mà chịu tội.


Lý Tịnh dẫn Na Tra lên cung Bạch Cốt, gặp Thạch Cơ. Thạch Cơ tha cho Lý Tịnh trở về ải, còn Bà bắt Na Tra, nhưng Na Tra đâu dễ cho bắt, lấy Càn Khôn quyện và Hỗn Thiên lăng đánh với Thạch Cơ, bị Thạch Cơ thâu hết phép báu. Na Tra liền bỏ chạy về động Kim Quang cầu thầy cứu viện. Thái Ất ra gặp Thạch Cơ, bảo rằng : - Nếu Bà muốn bắt Na Tra thì hãy lên Cung Ngọc Hư yết kiến Giáo Chủ Nguơn Thỉ là thầy ta, nếu thầy ta dạy ta phải giao nó cho Bà thì ta mới dám giao, vì Na Tra vâng lịnh Ngọc Hư ra đời phò chúa Thánh. Thạch Cơ thấy không xong, liền ra tay đánh Thái Ất, bị Thái Ất dùng Cửu Long Thần Trảo đốt chết, hiện nguyên hình là một cục đá xanh.

Na Tra nhờ thầy cứu, nhập xác bông sen. Na Tra độn thổ về ải Trần Đường, thấy cha và mẹ đang bị Long Vương 4 biển : Ngao Quảng, Ngao Khâm, Ngao Thuận, Ngao Nhuận, bắt trói làm tội. Na Tra hét lớn : - Ta đã đánh chết Lý Lương và Ngao Bính, thì một mình ta thế mạng mà thôi, sao lại bắt cha mẹ ta ? Nói xong, Na Tra liền ngó ngay Ngao Quảng nói tiếp : - Mạng ta đây chẳng nhỏ, ta vốn là Linh Châu Tử vâng lịnh Ngọc Hư đầu thai xuống thế để giúp Thánh Quân, Nay ta mổ bụng, lóc thịt, chặt xương mà trả cho song thân ta, để khỏi di lụy đến cha mẹ ta, ngươi có bằng lòng không ? Nếu không chịu thì đồng lên Thiên Cung mà cáo với Ngọc Hoàng xem ai phải ai quấy cho biết. Ngao Quảng nghe ra liền nói : - Đạo làm con như vậy thiệt là có hiếu.


Nói rồi liền mở trói cho Lý Tịnh và Ân Phu nhân. Na Tra lấy gươm ra, tay mặt chặt cánh tay trái, mổ bụng lôi ruột ra, lóc thịt, máu ra lai láng, chết liền. Bốn vị Long Vương thấy Na Tra làm y theo lời, chịu chết nên lui hết. Ân Phu nhân khóc lóc, rồi liệm xác Na Tra.


Hồn Na Tra đêm ấy về báo mộng cho mẹ, yêu cầu mẹ lập cho một cái miểu ở núi Túy Bình, cách ải Trần Đường 40 dặm, để nhờ hương khói cho linh hồn mau cứng cát. Được như vậy nửa năm, một hôm Lý Tịnh dẫn quân đi qua núi ấy, thấy thiên hạ đến dâng hương ở một cái miểu rất đông, tiếng đồn nơi miểu có ông Thần linh hiển lắm, ai cầu gì được nấy. Lý Tịnh vào xem thấy đó là miếu thờ Na Tra, có hình cốt y như người thật. Lý Tịnh nổi giận nói : Khi sống báo hại cha mẹ đủ thứ, khi chết lại báo hại dân chúng nữa. Nói rồi, Lý Tịnh đập phá cốt tượng, sai lính đốt miếu, lửa cháy tiêu tan. Hồn Na Tra không nơi nương tựa, bay về động Kim Quang báo cáo tất cả các việc với thầy. Thái Ất toán biết Khương Thượng sắp sửa ra mặt giúp nhà Châu, mà Na Tra chưa hiện hình đặng thì làm sao nên việc. Nghĩ rồi, bèn sai Kim Hà đồng tử đi hái 2 cái bông sen lớn và 3 lá sen còn nguyên cọng. Thái Ất liền bẻ các cọng sen làm thành 360 khúc để làm xương, lấy các cánh sen đắp lên làm thịt, đắp phủ bên ngoài 3 lá sen làm da, để một hột linh đơn vào giữa, rồi họa phù niệm chú, bắt vía thâu hồn Na Tra xô nhập vào hình sen, hét lớn : " Na Tra chưa sống lại còn đợi chừng nào ?" . Xảy nghe một tiếng ư , có một người từ hình sen trổi dậy, mặt như dồi phấn, môi tợ thoa son, con mắt có ngời, bề cao 16 thước. Ấy là Na Tra nhập xác bông sen đó. Na Tra liền lạy thầy tạ ơn tái tạo. Sau đó, Thái Ất dạy thêm cho Na Tra các môn võ nghệ, phép tắc, rồi truyền cho Na Tra 2 bánh xe Phong Hỏa, đặng thế cho ngựa đỡ chơn, và các phép báu là : Càn Khôn quyện, Hỗn Thiên lăng, và một cục Kim Chuyên.

 

Na Tra xuống núi giúp Tử Nha :
Lúc ấy, tướng của vua Trụ là Trương Quế Phương đem binh chinh phạt Tây Kỳ, đánh thắng liên tiếp mấy trận, vì Quế Phương có tà thuật. Thái Ất đang ngồi trên giường Bích Du, động lòng chẳng an, bèn đánh tay biết rõ, liền gọi Na Tra tới bảo : - Nay ngươi phải xuống Tây Kỳ mà giúp Sư thúc của ngươi là Tử Nha đặng lập công danh. Nay lần lượt có 36 đạo binh đến đánh phá Tây Kỳ không hở, ngươi hãy rán hết lòng giúp Sư thúc và phò tá Minh Quân. Na Tra vui mừng khoái chí vì được đi đánh giặc, vội lạy thầy, rồi nổi xe Phong Hỏa đi xuống Tây Kỳ nhanh như chớp, vào Tướng phủ ra mắt Khương Thượng Tử Nha. Tử Nha rất mừng vì có tướng tài đến giúp, liền ra binh đánh lui được Trương Quế Phương.

 

-         Kim Tra xuống núi : Vương Ma và Dương Sum là 2 Tiên Triệt giáo đến giúp vua Trụ đánh Tử Nha. Vương Ma rượt Tử Nha và liệng Tử Nha một trái Khai Thiên Châu nhằm lưng mà thác. Con Tứ Bất Tướng cũng sa xuống đứng cạnh xác của Tử Nha để giữ thây. Vương Ma giục thú bay đến định cắt lấy thủ cấp của Tử Nha, xảy thấy có Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn ở động Vân Tiêu dẫn theo Kim Tra chờ sẵn ở đó. Văn Thù nói : - Vương Đạo hữu không nên giết chết Tử Nha. Bần đạo vâng lịnh Ngọc Hư Cung đợi ở đây lâu lắm, bởi có 5 việc như vầy : - Một là khí số Thành Thang đã hết. Hai là Chơn Chúa Tây Kỳ đã ra đời. Ba là đạo Xiển giáo của ta phải phạm sát giới. Bốn là Tử Nha đặng hưởng phước giàu sang dưới thế. Năm là Tử Nha thế Ngọc Hư Cung mà Phong Thần.

Đạo hữu lâu năm tu theo Triệt giáo, há không nhớ đôi liễn trên Cung Bích Du của Thông Thiên Giáo Chủ hay sao ?

 

Đóng cửa tụng Huỳnh Đình, thiệt có số thành ngôi Chánh quả, Tách mình qua Tây thổ, là có tên đứng Bảng Phong Thần. Tuy Đạo hữu đánh chết Tử Nha, nhưng còn có thể cứu sống được. Nếu Đạo hữu nghe lời ta khuyên mà trở về Cửu Long Đảo thì rất tốt, bằng cải lời ta, sau chớ ăn năn. Vương Ma nổi giận hét lớn : - Văn Thù chớ có khoe tài. Ngươi với ta cùng đồng một thể. Ngươi có Giáo chủ, ta không có Giáo chủ sao ? Dứt lời, Vương Ma liền chém tới. Kim Tra đứng sau lướt lên đỡ vẹt đường kiếm của Vương Ma, đồng thời Văn Thù dùng Độn Long Thung, vật báu của Phật, kêu là Thất bảo Kim liên, bắt lấy Vương Ma. Kim Tra chém Vương Ma một nhát, hồn Vương Ma bay lên đài Phong Thần, có Bá Dám cầm Phướn Bá Linh ra rước vào. Văn Thù thâu Độn Long Thung, lạy về núi Côn Lôn mà vái rằng : Đệ tử phạm sát sanh, xin cam thọ tội. Lạy rồi truyền Kim Tra cõng Tử Nha lên núi đặng đổ thuốc kim đơn cứu sống. Tử Nha tỉnh dậy, cảm tạ Văn Thù. Khi ấy Văn Thù trao Độn Long Thung cho Kim Tra và dặn rằng : "Ngươi hãy theo sư thúc Tử Nha mà xuống Tây Kỳ hết lòng trợ chiến." Kim Tra từ tạ thầy rồi đỡ Tử Nha lên lưng Tứ Bất Tướng, đồng trở lại Tây Kỳ.

 

-         Mộc Tra xuống núi :

 

Lý Hưng Bá là Tiên Triệt giáo ở Cửu Long Đảo, đến trợ giúp Trương Quế Phương đánh Tử Nha, bị thất trận, chạy đi báo với Thái Sư Văn Trọng. Giữa đường, Lý Hưng Bá gặp một Đạo đồng đón lại nói rằng : - Ta là Mộc Tra, học trò của Phổ Hiền Chơn Nhơn ở núi Cửu Cung, động Bạch Hạc. Nay ta vâng lịnh thầy ta đón bắt Lý Hưng Bá nạp cho Tử Nha lãnh thưởng. Lý Hưng Bá cười rằng : - Con nít khi ta tới nước ! Nói rồi lấy giản đánh liền. Mộc Tra lấy cặp gươm Ngô Câu, một cây trống, một cây mái, đón đánh, giết được Lý Hưng Bá, chặt đầu rồi đem chôn xác, xong độn thổ qua Tây Kỳ, vào ra mắt Tử Nha, thuật rõ các việc. Tử Nha vui mừng, kêu 3 anh em : Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra đến khen rằng : - Ba anh em học trò Tiên tài giỏi phi thường, đồng phò Chúa Thánh, nêu danh 4 biển, để tiếng muôn đời.

 

-         Lý Tịnh xuống Tây Kỳ phò Châu :


Công Chúa Long Kiết giúp Tử Nha thâu hết các phép của La Tuyên và đánh La Tuyên chạy dài. La Tuyên chạy đến một ngọn núi kia thì nghe một người ca rằng : Lánh chốn hồng trần khỏi thị phi,

Xưa từng áo mão ở thành trì.
Kích dài trượng tám, người kiêng sức,
Tháp nặng ngàn hai, cọp khiếp uy.
Ẩn mặt trước còn nương thạch động,
Trổ tài nay mới xuống Tây Kỳ.
Biết thời Trụ mạt, Châu đương phát,
Cái mạng La Tuyên cũng hiểm nguy.

La Tuyên nghe ca, ngó lại thấy một người đội mão kim khôi, mặc đạo phục, tay cầm kích dài, liền hỏi rằng: - Ngươi là ai mà dám nói phách như vậy ? Người ấy đáp :
- Ta là Lý Tịnh, nay xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha lấy 5 ải. Ta không có lễ chi ra mắt, nên mượn cái đầu của ngươi. La Tuyên nổi giận, cầm gươm chém liền. Lý Tịnh quăng Huỳnh Kim Bửu Tháp lên kêu lớn. - Bớ La Tuyên, ngày nay ngươi khó trốn. La Tuyên đỡ không kịp, bị tháp sa xuống bể đầu. Lý Tịnh giết La Tuyên xong, liền độn thổ đi qua Tây Kỳ ra mắt Tử Nha. Bốn Cha con đồng phò Châu diệt Trụ.

8. Khởi đánh 5 ải : Trong Lễ đăng đàn bái tướng, Đức Nguơn Thủy Thiên Tôn an ủi Tử Nha, các vị Đại Tiên rót rượu tiễn hành, còn các học trò hỏi thầy mình tiến trình chinh chiến lành dữ thế nào ?
- Kim Tra lạy Văn Thù hỏi. Văn Thù ngâm rằng : Đã sẵn có công về tám cõi, Lo chi không kế đánh năm thành.

-  Na Tra cũng lạy Thái Ất cầu hỏi. Thái Ất cũng ngâm rằng : Khi vào Tỵ Thủy càng thêm phép, Mới biết liên hoa lại hóa hình.

- Mộc Tra lạy Phổ Hiền cầu hỏi. Phổ Hiền ngâm: Gươm báu Ngô Câu là phép mạnh, Đường trường quan ải dễ ai ngăn.

Lý Tịnh lạy thầy là Nhiên Đăng cầu hỏi. Nhiên Đăng nói : Ngươi lại khác hơn người ta nữa, rồi ngâm : Thành luôn vừa xác về Tiên cảnh, Chẳng những phần hồn đến Ngọc Kinh.

 

Dương Tiễn :

 

Lúc nầy Tử Nha và Võ Vương còn đang bị Ma Gia Tứ Tướng vây khổn nơi Tây Kỳ gần giáp một năm, chưa phân thắng bại. Xảy thấy quân vào báo với Tử Nha : - Có một ông Đạo đến xin vào ra mắt.
Tử Nha liền cho mời vào, thì thấy một Đạo sĩ đội mão Phiến Vân, mặc áo Bát Quái, đi giày cỏ, buộc giải tơ, đến làm lễ ra mắt Tử Nha và thưa rằng : - Đệ tử họ Dương tên Tiễn, học trò của Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, vâng lịnh thầy xuống núi đến hầu Sư thúc. Tử Nha vui mừng không xiết, vì biết Dương Tiễn rất tài giỏi, có nhiều mưu lạ, và có nhiều phép biến hóa không lường, kêu các tướng đến giới thiệu cho biết mặt, rồi dẫn Dương Tiễn đến ra mắt Võ Vương. Trước khi khởi sự Chinh Đông, đánh Ngũ quan, diệt vua Trụ, Dương Tiễn lạy thầy là Ngọc Đảnh Chơn Nhơn, hỏi việc chinh chiến sắp tới thế nào. Ngọc Đảnh Chơn Nhơn đáp : - Ngươi khác với người ta xa lắm. Nói rồi ngâm rằng :

Tập luyện huyền công, ai sánh kịp,
Tung hoành thế giới, bực nào hơn.

Dương Tiễn nhờ có Thất thập nhị Huyền công (72 phép biến hóa), nên đã giúp Tử Nha rất đắc lực, tạo được nhiều kỳ công.

 

Vi Hộ :

 

Lữ Nhạc là Tiên Triệt giáo, bị Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Dương Tiễn, đánh cho bại tẩu, cùng với học trò là Dương văn Huy chạy đến một ngọn núi, định ngồi xuống nghỉ mệt, thì gặp một người nửa Tiên nửa tục, mình mặc áo Đạo, đầu đội Kim khôi, tay cầm Giáng Ma Xử, vừa đi vừa ca. Lữ Nhạc đón lại hỏi : - Đạo sĩ là ai, đi đâu đó ? Người ấy đáp rằng :
- Ta họ Vi tên Hộ, học trò của Đạo Hạnh Thiên Tôn ở núi Kim Đỉnh, tại động Ngọc Ốc, vâng lịnh thầy ta xuống Tây Kỳ giúp Sư thúc Tử Nha đánh Ngũ quan phạt Trụ, nay thuận đường qua đây đặng bắt thầy trò Lữ Nhạc mà lập công. Dương văn Huy nghe nói thì nổi giận thét : - Khen mi cả gan dám lớn lối. Thét vừa dứt thì rút kiếm chém. Vi Hộ cười rằng : - Nói vậy thì may lắm, không dè lại gặp thầy trò Lữ Nhạc tại đây, thật tiện cho ta, khỏi mất công tìm kiếm. Đánh nhau được 5 hiệp, Vi Hộ quăng Giáng Ma Xử lên để đánh Dương văn Huy. Có bài thơ khen Vi Hộ : Trong lò Bát Quái luyện hèn lâu,
Chày Giáng Ma nầy rất nhiệm mầu.

Vi Hộ ngày sau thành Hộ Pháp, Văn Huy nay gặp nát tan đầu.

Cây Giáng Ma Xử như cái chày nện vải mà luyện pháp rất hay, cầm trên tay thì nhẹ như bông, đánh nhằm người thì nặng như núi. Giáng Ma Xử của Vi Hộ đánh Dương văn Huy bể đầu chết liền, linh hồn bay lên Đài Phong Thần. Lữ Nhạc thấy học trò đã chết, nổi giận hét lớn : - Ngươi dám khi ta. Nói rồi liền đưa gươm chém Vi Hộ. Đánh đặng 7 hiệp, Vi Hộ cũng quăng Giáng Ma Xử lên cao, Lữ Nhạc biết nguy, độn thổ trốn mất. Vi Hộ thâu Giáng Ma Xử, đi qua Tây Kỳ vào ra mắt Tử Nha, thuật lại các việc. Tử Nha rất mừng vì có thêm tướng tài giúp sức đánh Ngũ quan. Trước khi khởi hành đi đánh Ngũ quan, Vi Hộ lạy thầy là Đạo hạnh Thiên Tôn hỏi về bước đường chinh chiến sắp tới, Đạo Hạnh Thiên Tôn đáp : -Ngươi phò Sư thúc Tử Nha đi đánh Mạnh Tân không can chi mà ngại.


Nói rồi ngâm rằng : Dẫu bao nhiêu bạn tu hành kỹ, có một mình ngươi quả vị cao.

Quả thật về sau, Vi Hộ đắc quả Phật Hộ Pháp, gọi là Vi Hộ Pháp, hộ giá Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế. Thời Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Vi Hộ Pháp đầu kiếp xuống trần vào nhà họ Phạm, tên là Phạm công Tắc, để làm tướng soái cho Đức Chí Tôn khai đạo. (Xem bài Thánh giáo ở phía sau của Đức Thanh Sơn Đạo sĩ tiết lộ cho biết điều đó.)

 

Thất Thánh trở về núi tu luyện :

 

Bảy vị Thánh, sau khi giúp Tử Nha thành công, phò Võ Vương, diệt vua Trụ, bình định thiên hạ, và Tử Nha vâng sắc chỉ của Đức Chưởng giáo Nguơn Thủy phong Thần các tướng tử trận xong, Thất Thánh đồng vào tâu với Võ Vương : - Chúng tôi là người ở núi non, vâng lịnh thầy xuống giúp Bệ hạ. Nay nước nhà được thái bình, chúng tôi xin trở về núi tu hành, còn việc phú quí, chúng tôi không muốn. Võ Vương phán rằng : - Trẫm nhờ các khanh tài cao phép lạ, công khó trí dày, mới cứu được nước được dân. Nay thái bình, các khanh không chịu hưởng giàu sang, Trẫm nỡ nào để các khanh về núi. Bảy người đồng tâu : - Chúng tôi đội ơn Bệ hạ, nhưng không dám cải lời thầy, vả lại lòng tu còn nặng, không có ý hưởng tước quyền, xin Bệ hạ cho chúng tôi toại nguyện.


Võ Vương biết không thể nào lưu Thất Thánh lại được, nên buồn bã nói : - Trước khi khởi binh, những trung thần nghĩa sĩ như mây rợp đất, thế mà sau cuộc chiến chinh, nửa đường bỏ mạng rất nhiều, Trẫm lấy làm thảm thiết. Nay các khanh đòi rời Trẫm, Trẫm không thể ngăn được, vậy xin đợi Trẫm tổ chức một tiệc tiễn hành, các khanh lợi dụng lúc Trẫm thật say mà ra đi để Trẫm bớt đau lòng. Hôm sau, tiệc dọn tại Trường đình, 7 người đều đủ mặt. Võ Vương cùng các quan ra đón. Bảy người tiếp giá. Võ Vương nắm tay từng người, nói rằng : - Các vị nay về núi, tức là bực Thần Tiên, không còn ràng buộc đạo vua tôi nữa. Vậy chớ nên khiêm nhường, hãy cùng Trẫm đồng bàn uống thật say một bữa. Bảy người tạ ơn, đồng ngồi dự tiệc. Thiên hạ nghe đồn Thiên tử đưa Thần Tiên về núi, nên kéo đến xem rất đông. Mãn tiệc, 7 người từ giã. Võ Vương rưng rưng nước mắt. Tử Nha theo đưa một đổi nữa rồi mới chia tay. Bảy vị sau này đều tu thành Chánh quả. Có bài thơ rằng :

Từ giã về non lánh tục trần,
Thanh nhàn cảnh tịnh rất an thân.
Quyết thành Chánh quả nên Tiên, Thánh,
Khỏi đọa luân hồi trả oán ân.
Hai chữ thị phi đà chẳng bợn,
Một câu vinh nhục cũng không cần.
Vui chơi nào biết mùi dương thế,
Dâu bể màng chi đổi mấy lần.

Sau đây là bài giáng cơ của Đức Thanh Sơn Đạo sĩ tức là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm, nói về Thất Thánh và Vi Hộ:  

 

Phò loan : Hộ Pháp, Bảo Đạo  Báo Ân Đường Kim Biên, ngày 15-8-Bính Thân (dl 19-9-1956).

 

THANH SƠN ĐẠO SĨ

 

Bần tăng xin chào Thiên Tôn, Chơn Quân, Hiền đệ. Thưa Thiên Tôn, có Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đến, nhưng nhường cơ cho Bần tăng trước. Cười . . .  Nhiều điều Thiên Tôn hỏi, Bần tăng khó trả lời đặng. Duy Nguyệt Tâm đảm đương Thiên vụ, người hiểu biết rõ hơn Bần tăng. Vậy Thiên Tôn nên vấn nơi người. Chỉ có bài thi của Bần tăng có hơi huyền bí tiên tri, nên Bần tăng có thể giải đáp. Thiên Tôn nhớ lại, khi lập thành Phong Thần bảng, những người đứng vào hàng Thất Thánh là ai ?  Hộ Pháp bạch : Lý Thiên Vương, Kim Tra, Mộc Tra, Na Tra, Vi Hộ, Dương Tiễn, Lôi Chấn Tử.  - Phải ! Thì trước đầu kiếp vào nhà họ VI, còn nay vào nhà họ PHẠM. Điều đó có chi khó hiểu mà phỏng đoán. Tiên tri của Bần tăng đã nhiều và chỉ rõ Việt Nam xuất Thánh thì đã hẳn rồi, còn chi không rõ rệt. Hơn nữa lại còn một điều trọng hệ hơn là Di-Lạc giáng linh, thì Thiên Tôn đã thấy rằng, tiên tri vốn không sai sót. Còn lời thứ hai, Thiên Tôn hỏi Bần tăng, thì xin Ngài vấn đáp với Nguyệt Tâm, vì chính mình người đã truyền tin ấy. Vui mừng hơn nữa là từ đây thiên hạ sẽ hiểu rõ Thánh chất của Thiên Tôn và ngọn cờ cứu khổ sẽ cứu quốc cho giống nòi Việt nam, rồi loan ra cho toàn thế giới chung hưởng. Bảo Đạo ! Có phải ta tri âm với nhau về điều ấy chăng ? THĂNG.

 

 

CHUNG

 
về trang chủ