Trong Cao-đài giáo ngoài tôn thờ Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế ra, còn tôn thờ Đấng thứ hai là Thiên-hậu Chí-Tôn còn gọi là Diêu-Trì Kim-Mẫu hay là Phật-Mẫu đó là Đấng sinh-thành dưỡng dục vạn linh.
Loài người đã nhận biết Phật-Mẫu rất sớm, nhờ các vị Tiên-nương giáng trần chỉ giáo mà các dân-tộc nhất là phương Đông thờ phượng NGƯỜI từ lâu đời, ngày nay chúng ta còn thấy lưu lại hình tượng đồng cốt có đề-cập đến Phật Mẫu dưới danh hiệu Bà Chúa Tiên, Thánh Mẫu hay là Mẫu.
Phật-Mẫu được nhân loại tôn thờ dưới nhiều danh xưng khác nhau : Tây phương gọi là Đức Mẹ, Đông phương là Cửu-thiên Huyền-nữ, Thái-Dương Thần-nữ, Tiên-Thiên Thánh-Mẫu, Lão-giáo gọi là Lão Mẫu, Ấn-độ giáo xưng tụng là Devi Bhagava, Thông Thiên-học gọi là Đức Mẹ thế-gian. Việt Nam gọi là Bà Chúa Tiên hay là Mẫu Mẹ-Sanh... Đa số nữ phái Việt-nam đã tín-ngưỡng Phật-Mẫu từ lâu đời, hiện nay ở Cố-đô Huế có hội Tiên Thiên Thánh-Mẫu, thời phụng NGƯỜI tại Điện Hòn-chén, hằng năm có tổ-chức lễ hội rất là trọng thể.
Trong đạo Cao-đài có điện thờ Phật-Mẫu, tại Thánh-địa Tây-Ninh hằng năm có lễ hội lớn vào ngày rằm tháng tám. Ở mỗi địa phương có điện thờ Phật-Mẫu bên cạnh Thánh-thất hương khói sáng chiều. Như vậy tùy theo tín-ngưỡng mà mỗi nơi có sự thời phụng, chiêm bái khác nhau.
Sau đây chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về bổn nguyên, quyền năng và công đức của Đức Phật Mẫu đối với chúng sanh.
QUYỀN NĂNG PHẬT MẪU
Theo Di-lạc chơn kinh, thì nơi tầng Trời Tạo-hóa huyền-thiên có Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu
và dưới quyền Phật-Mẫu có các vị Phật : Quảng-Sanh, Dưỡng-dục, Chưỡng-Hậu, Thủ-luân cùng Cửu vị Nữ Phật (có tên từ Nhứt Nương đến Cửu Nương) và hằng hà sa số chư Phật tùng Lịnh NGƯỜI thường du ta bà thế-giới dưỡng-dục quần sanh quy-nguyên Phật vị.
Buổi ban sơ khai Đạo Cao-Đài, Phật-Mẫu và Cửu vị Nữ Phật, đã dùng thi văn qua cơ-bút để dìu-dắt các Vị tiền-bối, nhờ đó mà các Ngài hiểu lẽ huyền-vi, nhận lãnh sứ-mạng truyền giáo sáng lập ra Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ còn gọi là Cao-Đài giáo hiện nay.
Còn nói về Phật-Mẫu thì Đức Hộ-Pháp đã cho biết quyền-năng của NGƯỜI như sau :
“... nếu có Đức Chí-Tôn mà không có Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu thì trong vũ-trụ không có chi về mặt hửu vi... “
“Cả cơ-quan tạo đoan hửu tướng thảy đều do Phật-Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi Trần mang mảnh hình hài, cái chơn-linh khi đến, khi về cũng do tay Phật-Mẫu mà sản-xuất. Phật-Mẫu là mẹ linh hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì càng cảm mến cái công-đức hóa dục sản-xuất của Ngài vô cùng.
“Bây giờ nói về tại sao có Phật-Mẫu :
... Đức Chí-Tôn là nguồn cội cả bí pháp... trong bí pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật-Mẫu sản xuất cả cơ hửu vi của vũ-trụ. Bởi thế quyền năng của Phật-Mẫu là mẹ khí thể của ta. (Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-Ân-Từ ngày mồng một tháng 02 Đinh-Hợi/1947).
Theo Thánh giáo Đức Chí-Tôn nói rằng :
“... Khí Hư-vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái cực, Thầy phân Thái cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng nghi phân ra Tứ-tượng, Tứ-tượng biến Bát quái, Bát quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là : vật chất, thảo mộc, côn trùng gọi là chúng sanh... “ (Trích TNHT/QII/trang 62).
Trong kinh Xưng-tụng Công-đức Phật-Mẫu nói rằng:
“Lưỡng nghi phân khí Hư-vô
Diêu-Trì Kim-Mẫu nung lò hóa sanh.
Âm dương biến tạo chơn-thần,
Lo cho nhơn vật về phần hửu vi.”
Theo các trích dẫn trên đây thì khi Đức Chí-Tôn phân Thái-cực thành ra Lưỡng nghi (Âm Dương), lúc có Âm dương rồi tức là đã có Trời Đất, khi đó Đức Chí-Tôn mới phân tánh giáng sanh ra vạn vật, tức là Chí-Tôn tạo-hóa phần linh-hồn là phần vô-vi, đồng thời Phật-Mẫu cũng biến tạo phần khí-chất hình-hài là phần hửu hình. Như vậy Phật-Mẫu cũng từ Hư-vô chi khí mà ra, Ngài cũng là Đấng tự-hửu và hằng hửu, vì khi Lưỡng-nghi được phân ra từ khí Hư-vô thì đã có Phật-Mẫu chưởng-quản cơ sanh hóa. Nên Đức Hộ-Pháp nói rằng : “Phật-Mẫu chủ âm-quang, Chí-Tôn chủ Dương-quang, âm dương tương hiệp mới có năng lực sanh hóa ra càn khôn thế-giới.” (theo thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp giải nghĩa Phật-Mẫu chơn kinh).
Nói về âm quang thì Bát-nương Diêu-trì cung giáng cơ giải thích như sau :
“Âm-quang là khí chất hổn độn sơ khai khi Chí-Tôn chưa tạo hóa, lằn âm-khí ấy là Diêu-Trì cung, chứa để tinh-vi vạn-vật, tỷ như cái âm quang của phụ-nữ có trứng cho loài người. Khi Chí-Tôn đem dương quang ấm áp làm cho sinh hóa, thì khoảnh âm-quang phải thối trầm làm tinh đẩu, là cơ-quan sinh hóa vạn linh. Song lằn âm-quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh dương quang của Chí-Tôn chưa chiếu giám thì phải còn tối tăm mờ-mịt, chẳng sanh hóa... “ (Trích TNHT/QII/trang 85).
Theo giải-thích trên đây thì khi còn hỗn-độn sơ-khai chưa phân ra Trời Đất tức là còn trong ngôi Thái-cực, âm dương hổn-tạp, nhưng trong đó đã sẵn có phần âm rồi, phần âm này chứa các yếu-tố phôi-thai của vạn-vật. Tỷ như một nụ hoa non trong đó đã có phần nhị cái, là nơi chứa chất-liệu để kết thành quả hạt sau này, đến khi hoa nở ra nhị đực và nhị cái riêng biệt là lúc âm dương đã phân chia, sau đó qua hiện-tượng thụ phấn kết-hợp giữa nhị đực và nhị cái, là lúc âm dương giao phối mà kết thành quả hạt. Cũng như khi Thái-cực đã phân ra âm dương, dương động thì khuyếch tán, âm tịnh thì ngưng kết, tức là khí kết thành chất, rồi qua hiện-tượng âm dương tác-động mà khí chất kết tụ thành ra các tinh-cầu, khi ánh dương quang rọi vào thì các tinh cầu là nơi sinh ra vạn vật.
Đó là bổn nguyên và quyền năng của Phật-Mẫu theo Cao-đài giáo. Còn các tôn-giáo đã nói về Phật-Mẫu như sau :
Theo Thông Thiên học thì Đức Mẹ Thế-gian là một trạng thái Ngôi hai của Thượng Đế, Ngài là chúa-tể của các vị Thiên-Thần. Tinh Thần Ngài đã ngự-trị ở trong thâm-tâm con cái của Ngài là nhân-loại, trong mỗi đẳng cấp của cỏi Trời và cỏi Phàm đều có Ngài hiện diện. Quyền năng của Ngài rất bao la, trí phàm không thể hiểu nỗi. Chẳng những Ngài là hiện thân của tình thương đậm đà và kỳ diệu nhất, mà cũng là Đấng cực kỳ uy nghiêm và quyền-lực vô song Ngài luôn luôn đầy ân-huệ, chứa chan niềm từ-bi bác-ái, sẵn-sàng đáp lại sự kêu vang cầu-cứu của nhân-loại. Dù quyền-năng của Đức Mẹ thế-gian là cứu giúp tất cả sinh-linh, nhưng Ngài chú-tâm đặc-biệt đến thiếu nhi và phụ-nữ, nhất là lúc sinh-sản, vì hai hạng này thường yếu đuối cần phải thương yêu bảo bọc nhiều hơn. Ngài luôn luôn ôm-ấp và ban cho họ sự chở-che, sự nương-nhờ khi cần kíp, để xua đuổi sự nguy-nan thống khổ ở quanh mình họ. (Theo Tạp-chí Tìm-hiểu Thông-thiên-học số II, 12 Xuân Ất-mùi 1955).
Theo Thiên Chúa giáo tôn vinh Ngài là Đức Mẹ hằng cứu giúp, là Nữ-vương Hòa bình.
SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA CHÍ-TÔN VÀ PHẬT MẪU
Chí-Tôn và Phật-Mẫu có từ trong Hư-vô chi khí, có thể nói Nguồn sống là một thực thể vẹn toàn, nhìn ở nguyên-lý siêu-nhiên là Chí-Tôn, nhìn ở khí chất hửu hình là Phật-Mẫu, cả hai là một, tuy một mà là hai. Cũng tỷ như trong sinh vật đơn-bào nguyên sinh có hàm lưỡng tính giống đực và giống cái. Ta có thể dùng thí dụ sau đây để cụ-thể hóa quyền năng của Chí-Tôn và Phật-Mẫu cho dễ hiểu : Tỷ như một nụ hoa non mới tượng; xem như là bầu Thái cực, trong nụ non có cả nhị đực và nhị cái còn lẫn lộn ở trong, tức là đã có hàm tính âm dương, khi hoa nở thì nhị đực và nhị cái lộ riêng biệt, cũng như Thái-cực phân Lưỡng nghi là hai yếu-tố âm dương được tách rời, đây là quyền năng của Chí-Tôn, Rồi nhị đực và nhị cái thụ phấn mà kết-quả, đó là lúc âm dương tác-động mà sanh hóa nên thể chất hửu-hình hoàn hảo cả xác lẫn hồn đây là quyền năng của Phật-Mẫu. Theo phương pháp suy-luận Đức Hộ-Pháp đã dạy : “Ta lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn... “ (Trích LTĐ của ĐHP/QI/132:31) do đó ban đầu tuy thấy một mà trong đó có hai, nếu độc dương thì bất sanh, cô âm thì bất trưởng. Nên Đức Hộ-Pháp đã nói : “Âm dương tương hiệp mới có năng lực sinh hóa”.
Trong cửa đạo Cao Đài, Đức Hộ-Pháp đã thuyết-giảng về sự tương-quan giữa Chí-Tôn và Phật-Mẫu như sau :
“... Buổi mới mở Đạo, Bần Đạo biết công-nghiệp của Phật-Mẫu thế nào, Ngài và Cửu vị Nữ Phật dìu-dắt con cái của Đức Chí-Tôn từ ban sơ đến ngày đem giao lại cho Thầy. Ngày mở Đạo, vì cái tình-cảm ấy, mà các vị Đại Thiên-phong buổi nọ xin thờ Phật-Mẫu ở Đền-Thánh, thì Phật-Mẫu cho biết rằng quyền Chí-Tôn là Chúa, còn Phật mẫu là Tôi, mà tôi thì làm sao ngang hàng với Chúa. Chúng ta thấy Phật-Mẫu cung kính Chí-Tôn đến dường ấy không gì lường được. (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-Ân-Từ ngày mồng một tháng hai Đinh Hợi/L947).
Đề cập đến sự tương quan giữa Chí-Tôn và Phật-Mẫu cùng vũ trụ vạn-hửu Đức Hộ-Pháp đã thuyết giảng như sau :
“Cả vật loại hửu tướng này có hai quyền năng sản-xuất :
1- Chí Tôn
2- Đức Mẹ
“Cả quyền-năng của ông cha chúng ta đào tạo thế nào ngày nay, quyền-năng của Chí-Tôn cũng đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền năng vô tận của Phật-Mẫu dùng đặng đào tạo càn khôn thế giới, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.
Chí-Tôn là Phật, Phật-Mẫu là Pháp, Càn-khôn là Tăng, mặt địa-cầu nầy, đến ba nghìn thế giới cũng là Tăng. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh đêm 01 tháng chạp năm Đinh Hợi/1947).
Để hiểu rõ về sự tương quan giữa Chí-Tôn và Phật-Mẫu, Đức Hộ-Pháp giảng giải thêm rằng:
“Chúng ta đã có một bà Mẹ là Phật-Mẫu cầm quyền năng tạo đoan xác thịt hình hài của ta, Chí-Tôn là Cha cho nhứt điểm Tinh, Phật-Mẫu là mẹ của xác, cho nhứt điểm Khí, cha mẹ hửu hình, vàng lịnh Phật-Mẫu tạo xác thịt hiện hửu đây, còn quyền-năng thi-hài Đấng ấy làm chủ. Phật-Mẫu có tính-chất của Bà Mẹ, Bần Đạo xin làm chứng rằng : tính-chất bà mẹ hửu-hình thế nào thì tính chất của bà mẹ Phật-Mẫu cũng hiện y nhiên như vậy, nhưng có phần yêu-ái hơn, bảo trọng hơn, binh vực hơn. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp đêm mồng 01 tháng Mười năm Đinh Hợi/1947).
Như vậy là Đức Chí-Tôn ban cho chúng ta điểm linh-quang là phần tinh-thần, còn Phật-Mẫu ban cho chúng ta phần khí chất là phần sinh lực. Cũng do yếu nhiệm đó mà Đạo Cao-Đài thờ Đức Chí-Tôn bằng Thiên nhãn mà không thờ hình tượng, còn thờ Phật-Mẫu thì thờ hình tượng, về đẳng cấp của nhân loại thì trước Chí-Tôn có phẩm trật, sắc phục khác nhau, còn trước Phật-Mẫu thì con người không phân biệt đẳng cấp, sắc phục như nhau, vì ở đây không còn phân biệt thượng hạ mà chỉ còn cốt nhục tương thân, đồng sanh đồng tử mà thôi. Điều này Đức Hộ-Pháp còn dẫn-giải thêm rằng :
“Trong cửa Đạo Cao-Đài có hai đền thờ : Một đền thờ ta ngó thấy trật-tự hàng ngũ, bởi vì nguyên-căn tâm-hồn của chơn-linh chúng ta đều có trong hàng phẩm Cửu-Thiên Khai-hóa cả. Quý-phái như thế; Còn một đền thờ nữa thờ Phật-Mẫu tức là Mẹ của chúng ta, thì cái quí-phái của chúng ta không còn giá-trị gì nữa... (Trích thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp đêm 15/08 Mậu Tý/1948).
“... Vào Đền thờ Phật-Mẫu đều bạch-y tất cả, dầu Giáo-tông hay Hộ-Pháp cũng phải cổi thiên-phục để ở ngoài. Hỏi tại sao như vậy? Lấy tánh đức thường tình của con và mẹ không có gì lạ, ta thấy trong gia đình kia dầu rân-rát, một người dầu quyền cao chức trọng, dầu làm quan tòa, tham-biện hay tể- tướng đi nữa mà bước vào nhà, nếu con làm tể-tướng mà cha mẹ không ưa thì lại thêm phiền lụy, làm quan với ai kia, chớ về làm quan với gia-đình à! Oai quyền với thiên-hạ ở ngoài chớ ở đây không thể làm oai-quyền với mẹ được, dầu bậc nào cũng vậy vẫn là con thôi... “ (trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp ngày mồng 01 tháng 10 Đinh Hợi).
TÌNH THƯƠNG CỦA CHÍ TÔN VÀ PHẬT-MẪU
Tình thương yêu của Chí-Tôn và Phật-Mẫu dành cho chúng-sanh rất bao la không bờ bến, chúng ta cứ nghiệm thấy bậc cha mẹ hửu hình sanh ra xác thân chúng ta đã thương yêu chúng ta thế nào, thì hai Đấng Cha Mẹ thiêng liêng sinh linh hồn của chúng ta càng thương yêu gấp bội, vì cha mẹ hửu hình chỉ sinh ra ta một kiếp chừng ba vạn sáu nghìn ngày, còn cha mẹ thiêng-liêng thương yêu cưu-mang ta vô số kiếp với thời gian vô-cùng. Để hiểu được tình thương của Chí-Tôn và Phật-Mẫu thể hiện với chúng ta như thế nào thì chúng ta cần tìm hiểu qua kinh điển và Thánh-giáo của các ngài như sau :”... Thầy thường nói với các con rằng : Thầy là cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu Thầy mới tạo thành càn-khôn thế-giới và sinh dưỡng các con... “
“... Ôi! Thầy sanh các con thì phải yêu trọng các con chằng cùng, mà Thầy cho các con đến thế gian nầy với một thánh thể thiêng-liêng, y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ, mê luyến hồng trần, ăn cho phải đọa, dâm cho phải bị đày, nên chịu nạn áo cơm dục quyền cầu lợi. (TNHT/Q2/trang 63).
Vì thương yêu chúng sanh nên Đức Chí-Tôn luôn lo lắng để làm thế nào cho chúng ta được chung hưởng phước lành :
“Các con phải biết trong Trời đất, nhơn sanh là con quý của Thầy, nên Thầy hằng để ý lo lường cho chúng con biết hối ngộ hầu chung hưởng phước lành.... “ (TNHT/Q2/trang 29).
Do bởi lòng thương yêu chúng sanh nên Đức Chí-Tôn đã nhiều phen cho các vì Giáo-chủ giáng trần lập Đạo dạy người bỏ dữ về lành để được hưởng phước đức, nhưng nhiều mối Đạo lâu ngày càng biến chất, sai lạc chân truyền, nên ngày nay chính Đức Chí-Tôn đến thế-gian bằng huyền diệu thiêng-liêng cơ bút lập nên Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có nghĩa là cứu rỗi lần thứ ba để quy tụ đám con cái lầm lạc trở về với Ngài.
“... Trước Thầy giao chánh-giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng cách xa Thánh-giáo mà lập ra cuộc phàm giáo, Thầy lấy làm đau-đớn, hàng thấy trót mười ngàn năm nhơn-loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn a-tỳ.
“Thầy nhứt-định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao chánh-giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập chánh-thể, có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi bồng đảo” (TNHT/Q1/trang 18).
Với tình thương bao la, từ một Đấng chúa-tể càn khôn thế-giới, Chí-Tôn đã hạ mình để làm một vị Thầy của nhơn-loại, với lời lẽ hiền hòa khuyên dạy chúng ta như một người Cha nhân-từ đối với con cái. Ngài coi tất cả nhân-loại là con chung, không phân-biệt người hiền kẻ dữ, đều ra tay cứu độ. Đối với kẻ căn-cơ tiến hóa cao thì thành Tiên tác Phật thoát đọa luân hồi, còn những người có chút thánh đức thì được an-nhàn tránh khỏi quả báo đọa đày, Đức Chí-Tôn đã cho biết điều này như sau :
“Ta vì lòng đại-từ, đại-bi, vẫn lấy đức háo-sanh mà dựng nên Tam-Kỳ Phổ-Độ tôn chỉ để cứu vớt những kẻ hửu phần vào nơi địa-vị cao thượng để khỏi số mạng luân hồi, và nâng đỡ kẻ thánh-đức bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó ở thế-gian này... “. (TNHT/QI/trang 64).
Ngay cả đối với kẻ vô lương-tâm Đức Chí-Tôn cũng ra tay tế-độ và sẵn-sàng chờ họ ăn-năn hối cải :
“Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết, nên thường thâu nhập nhiều đứa vô tâm cũng muốn cho chúng ăn-năn chừa lỗi, ngỏ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao rổi đặng. Đến buổi chung qui mới thấy thiên-đàng, địa-ngục thì đã muộn rồi, các con phải xét mình cho lắm nghe.” (TNHT/QI/trang 60).
Tình thương của Đức Chí-Tôn với nhân loại như vậy, nhưng con người vì mê luyến hồng trần đeo đuổi theo vật-chất lợi-danh trở nên xa lạ với Ngài, nên Đức Chí-Tôn đã buồn rầu than thở :
“Từ khai thiên lập địa, Thầy cũng vì yêu mến các con mà trải qua bao nhiêu điều khổ hạnh, mấy lần lao-lý, mấy lúc vang mày nuôi nấng các con, hầu lập nền Đạo, cũng tưởng các con lấy đó đuốc soi mình đặng cải tà qui chánh.
“Mấy lần vun đắp nền Đạo, Thầy cũng bị các con mà hư giềng Đạo cả.
“Thầy buồn đó các con.
“Thầy ban ơn các con. (TNHT/QI/Tr 62).
Bởi thương yêu chúng sanh, Đức Chí -Tôn đã hết lời khuyên nhủ nhưng loài người vẫn mãi mê trong vòng trần-tục, khiến Chí-Tôn rất đau lòng, nhưng vì luật Thiên-điều Ngài vẫn để cho con người tự quyết -định số-phận của mình, đây là một tình thương yêu công -bình, không thể coi kẻ có tội là vô tội, nên con người làm lành thì gặp phước đức, làm ác thì bị quả báo đọa đày. Đức Chí Tôn và Phật Mẫu dù có thương yêu bao nhiêu cũng không thể qua luật Thiên điều được, nên Thánh ngôn có câu :
“Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn vì bầy con dại, muốn ra tay tế-độ vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải, nhưng chúng nó đã nhiễm luyến mùi trần-thế, tâm-chí chẳng vững bền, thấy khó đã toan ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước, Thầy cũng phải đau lòng mà nắm máy huyền-vi để cơ trời xoay đổi, các con liệu lấy” (TNHT/QI/ trang 56).
Theo thánh ý của Đức- Chí-Tôn là muốn cho tất cả nhơn loại được siêu thoát. Điều này Đức Hộ-Pháp đã dẫn giải rằng :
“Xưa kia con người đi tìm Đạo, còn hôm nay trái lại Đạo lại đến tìm người. Ôi nếu ta tưởng-tượng cái ân-hậu vô-biên của Đức-Chí-Tôn đã thi-thố, thì chúng ta đã hạnh-phúc không có ngôn-ngữ nào mà tả đặng...” (Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp ngày 15/ 08 Nhâm-thìn/ 1952 tại Cửu -Long -Đài đền thờ Phật -Mẫu).
Còn tình thương của Phật -Mẫu đối với chúng ta y như một bà mẹ hiền từ luôn luôn khắc-khỏi lo lắng vì con:
“ Riêng thương Kim -Mẫu khóc thầm,
Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
Đời phen Mẹ luốn u sầu,
Cũng vì tà mị dẫn đường con thương.”
(Kinh xưng -tụng công -đức Phật -Mẫu)
Vì thương con cái bị mê luyến hồng trần, mến mùi chung đỉnh mà quên ngôi xưa vị củ của mình, nên chính Phật -Mẫu đã lãnh lịnh Chí -Tôn khai sáng Tam -Kỳ Phổ -Độ, để diệt tà pháp của thế gian tạo cho nhân loại một cảnh đại đồng, an lạc:
Chiếu nhũ lịnh Từ -Huyên thọ sắc,
Độ anh nhi nam bắc đông tây.
Kỳ khai tạo nhứt Linh -Đài,
Diệt hình tà pháp cường khai đại -đồng.
(Phật -Mẫu chơn kinh)
Dù cho chúng sanh mê -lầm để cho tà -mị dẫn đường, nhưng Phật -Mẫu vẫn luôn đặt kỳ -vọng vào con cái của Ngài, nên quyết đem chúng ta trở lại con đường hằng sống:
” Ngồi trông con đặng phi thường,
Mẹ đem con đến tận đường hằng sanh.
(Kinh Xưng tụng công -đức Phật -Mẫu)
Tình thương của Phật -Mẫu đối với nhân -loại thật vô -lượng vô -biên, không điều -kiện. NGƯỜI không phân biệt sang hèn, thiện ác, nhất là đối những người yếu -đuối thiệt -thòi lại được Phật -Mẫu thương xót che -chở nhiều hơn. Điều này Đức Hộ -Pháp đã khẳng -định rằng:
“ Bần Đạo dám cả-quyết nơi Đền thờ của Đại Từ-Mẫu chúng ta. Bà không kể con cái sang-trọng cao sang của Bà đâu, trái ngược lại Bà lại thương yêu bênh-vực những đứa nào thiệt-thà, hèn yếu hơn hết, ấy vậy Qua nói rằng : Trong cả mấy em đây, nếu có đứa em nào thiếu thốn cả tinh-thần và vật-chất, thiệt-thòi nghèo khổ, tật-nguyền, qua dám chắc, Bà Mẹ thiêng -liêng của chúng ta sẽ vui ở với kẻ ấy lắm vậy. Qua chẳng phải nói để an ủi mấy em, mà sự thật quả quyết vậy. Qua chỉ cho các em một bí-pháp, là khi nào mấy em quá thống-khổ, quá đau đớn tâm-hồn mấy em đừng vội sầu thảm, các em quỳ xuống giữa không trung các em nguyện với Bà Mẹ thiêng-liêng ấy một lời cầu-nguyện, Bần-Đạo quả-quyết rằng Bà chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Qua đã thử nghiệm rồi, cả toàn con cái của Đức Phật-Mẫu thí-nghiệm như Qua thử coi. (Trích thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp ngày rằm tháng 8 Nhâm-thìn (1952) tại Cửu-long-đài đền thờ Phật-Mẫu).
Vì thương yêu, Phật Mẫu đã tạo dựng nên loài người và đã cưu-mang trong vô-số kiếp. Phật-Mẫu đã thị hiện xuống nhiều nơi trên thế-giới để cứu vớt an-ủi nhân-loại cả cộng-đồng hay từng cá nhân, Ngài không từ bỏ một ai, nhất là con cái bị ức-hiếp, khốn khổ của Ngài, nên bổn phận của chúng ta là lo tu-hành, lập công bồi đức, để được trở về bên ngài, nếu chưa về được thì cũng có được một kiếp tái sanh cao-trọng hơn. Đức Hộ-Pháp đã khuyên chúng ta rằng:
“Phải yêu ái hiếu hạnh với Chí-Tôn và Phật-Mẫu, cái yêu-ái ấy phải phi-thường do tâm linh điều khiển... (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp về con đường thứ ba tại Khách Thiện từ ngày 15/ 11/ Bính-tuất/ 1946)
Đức Ngài cũng cụ-thể hóa lòng hiếu-hạnh yêu ái đó bằng lời khuyên:
“ Tín-ngưỡng mạnh mẽ nơi Chí-Tôn và Phật-Mẫu. (Trích Phương Luyện Kỷ).
Như vậy chúng ta sẽ có được sự tương giao hai chiều, thiết lập được nhịp cầu “cảm-ứng” giữa Trời và người, chúng ta sẽ được bảo bọc bởi hào-quang của Chí-Tôn và Phật-Mẫu, vô hình chung chúng ta sẽ được nằm trọn vẹn trong quỷ đạo của thiên-cơ khiến cho mọi sinh hoạt của chúng ta trong trường đời được kịp thì trúng tiết, tránh được sự hoạn-họa tai-ương.
Sau đây chúng ta đọc thêm câu chuyện của một nhà làm khoa-học, Bác -sĩ Bandyo là cựu giám-đốc bệnh-viện Calcutta, một giáo-sư đại-học nổi tiếng về khoa giải-phẩu đã được đề-nghị trao giải-thưởng NOBEL, về y-học, đã tường thuật về việc ông chứng kiến trường hợp Đức Mẹ thế-gian thị hiện cứu-giúp một em bé là bệnh-nhân của ông như sau:
“ Tôi là một khoa học gia, trọn đời hiến dâng cho khoa-học, tôi không hề tin các sự-kiện vô hình, huyền-bí mà chỉ tin những gì khoa-học chứng minh một cách rõ-ràng thôi. Một hôm người ta đem đến bệnh-viện một cô bé mắc một chứng bệnh hết sức lạ-lùng, một hội-đồng y-khoa gồm các Bác-sĩ danh tiếng nghiên-cứu suốt mấy tháng liền nhưng đành bó tay tuyệt-vọng... Bỗng tôi thấy một điều lạ lùng, một người đàn bà hiện ra bên cạnh cô bé, thân thể Ngài sáng chói hào-quang... Tôi bỗng nhận-thức ra Ngài là Đức Mẹ thế-gian... Lòng tôi bỗng hoàn-toàn thay đổi. Tôi quỳ sụp xuống đất, mặc dù suốt đời tôi chưa biết cầu-nguyện là gì.
Tôi cầu xin với tất cả thành kính xin Đức Mẹ cứu chửa cho bệnh nhân. Tôi phát nguyện trọn đời tôn-vinh hoạt-động của Đức Mẹ và theo Ngài vĩnh-viễn...Cô bé được chửa lành. Ngày hôm sau cả bệnh-viện xôn-xao cho rằng tôi đã chửa lành cho cô bé... Trường y-khoa yêu-cầu tôi công-bố phương-pháp chửa trị và đòi đặt tên tôi vào căn-bệnh đó. Họ tin rằng với phát-minh này chắc-chắn giải Nobel sẽ về tay tôi... Dĩ-nhiên tôi không thể trả lời, và dù có nói cũng không ai tin. Hội đồng y-khoa cực-kỳ giận dữ cho rằng tôi dấu nghề... Tôi trả lời rằng chính Đức Mẹ hiện ra chửa cho bệnh nhân. Tất cả đều cho rằng tôi điên. Sau cùng giải Nobel năm đó được trao tặng cho một Bác-sĩ quốc-gia khác. Hội đồng Y-khoa Ấn-độ vô-cùng tức giận đòi trục xuất tôi, báo-chí xúm vào chỉ-trích tôi là “Thầy phù thủy”... Lúc đó tôi hiểu thế nào là vô thường. Tôi không biết phải làm gì hơn là cầu-nguyện Đức Mẹ giúp cho tôi đủ can-đảm chịu đựng sự bất hạnh này...
Trong thời-gian khủng-khoảng, tôi tin rằng sự-kiện này ắt phải có lý -do, nên hết lòng cầu-nguyện, câu trả lời đã đến với tôi qua một linh ảnh: trong một tiền kiếp xa-xuôi tôi là một y-sĩ rất có tài, nhưng tôi đã phủ-nhận các quyền-năng huyền-bí, và chê bai những kẻ có đức tin hay cầu-nguyện Đức Mẹ. Đó là hậu quả tôi gánh chịu ngày hôm nay...
Kể từ hôm nhìn thấy Đức Mẹ, một sự thay đổi lớn đã diễn ra trong tâm-hồn tôi. Từ nhỏ tôi không hề biết tôn-giáo, tôi hấp thụ một nền giáo-dục tây phương, nên tin tưởng tuyệt-đối ở khoa-học. Sự chứng kiến phép lạ, thay đổi tất cả, như người mù bỗng sáng mắt, tâm hồn tôi hoàn-toàn khác trước, tôi thanh thản vô-cùng, và đủ sức chịu đựng sự chế diễu của mọi người. Tôi dành trọn thì giờ để cầu-nguyện và phát-nguyện đời đời kiếp kiếp theo chân Đức Mẹ, cứu giúp tất-cả chúng-sanh. Một hôm trong lúc cầu nguyện Ngài bỗng hiện ra mỉm cười và từ đó tôi thấy mình ngụp lặn trong một thế-giới mới lạ. Tôi ý thức được các điều mà từ trước không bao giờ nghĩ đến, tôi chứng kiến rõ ràng các cỏi giới khác, cũng như sự hoạt-động tiến-hóa không ngừng của muôn loài. Nói một cách giản-dị hơn, khả-năng thần-nhãn của tôi bổng khai mở. Từ đó tôi quan-sát, học hỏi các cỏi giới của Thiên-thần...
Có lẽ các bạn không tin-tưởng lắm, điều này không quan-trọng. Tin hay không là quyền của bạn, tôi chỉ muốn chia sẻ với các bạn kinh-nghiệm tâm-linh này thôi...
Tôi phát-nguyện dành trọn đời để thực hiện thiên-ý, đó là lý-do tôi từ bỏ đời sống quay cuồng ở đô-thị để đến đây... Thì giờ còn lại tôi phục vụ Đức Mẹ qua các công việc Ngài giao-phó. Các bạn thân mến, trọn đời tôi chưa lúc nào sống thật trọn vẹn như bây giờ. (Theo Hành-trình về Phương Đông Nguyên-tác của Spalding - Bản dịch của Nguyên-Phong).
Theo tác giả thì sau biến cố này Bác sĩ Bandyo từ chức lui về ở ẩn tại một làng nhỏ gần Rishikesh (Ấn Độ) để săn-sóc sức-khỏe cho dân chúng tại đây.
Trong Đạo-sử của các Tôn-giáo, cũng như sự truyền tụng ngoài dân gian trên khắp thế-giới về hình-ảnh NGƯỜI ĐÀN BÀ hiện thân của một BÀ MẸ nhân-từ sẵn sàng đến cứu giúp những tai ương hoạn họa là có thật, nhưng được kể lại như một huyền-thoại không phải là ít. Trong cửa Đạo Cao-Đài Phật-Mẫu và Cửu-vị Nữ Phật đã giáng linh hội-yến với các bậc tiền-bối khi mới khai Đạo gọi là Hội yến Diêu-Trì-cung, điển lễ này hiện nay vẫn còn đang truyền tụng và hàng năm vào đêm tằm trung thu tháng tám tại Đền-thờ Phật-Mẫu ở Thánh-địa Tây-Ninh lễ kỷ niệm đêm Hội yến này được tổ chức rất là trọng thể. Trong một lần khác ở Kim-biên tông-đạo Cao-miên-quốc (nay là Cam-pu-chia) tại Báo-ân-đường Bát-nương Diêu-trì-cung giáng cơ cho bổn kinh Đức Diêu Trì Kim-Mẫu do Đức Hộ-Pháp Phò-loan nơi Đại điện, thì tứ phía Báo-Ân-đường đều có hào quang giáng hạ có nhiều người chứng kiến kể cả người không giữ Đạo (Theo thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp trên Cửu-long-đài hồi 4 giờ chiều ngày rằm tháng 8 Đinh Hợi đăng trong Kinh lễ trang 98 + LTĐ của ĐHP/QI/64).
Các sự-kiện nêu trên không những chứng tỏ Phật-Mẫu luôn luôn tiếp cận với chúng ta mà còn ngự trị ngay trong tâm-khảm của mỗi người, nên bất kỳ lúc nào ở đâu, chúng ta cầu xin đều có linh ứng.
Tóm tại bổn nguyên và quyền năng của Phật-Mẫu theo Đức Hộ-Pháp dẫn giải như sau:
“Từng Trời Tạo-hóa-Thiên có vị cầm quyền năng tạo-đoan gọi là Thiên-hậu. Nắm cả Kim bàn, tức là nắm đẳng cấp Thiêng-liêng, điều khiển các chơn-linh gọi là Phật-Mẫu Diêu-trì.
“Thời kỳ này NGƯỜI đã xuất nguyên-linh đến dạy dỗ chúng ta...
“Khi mở Đạo Cao-Đài Chí-Tôn định cho Phật-Mẫu đến giáo đạo cho chúng ta, bảo-trọng nuôi-nấng dạy-dỗ chúng ta thì không ơn-đức nào bằng, vì không ai biết thương con, muốn con nên người, bảo trọng binh-vực con hơn mẹ... (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Báo-ân từ ngày 15 tháng 8 Đinh Hợi).
Như vậy quyền-năng của Phật-Mẫu rất bao la, trí phàm không thể hiểu nổi, bổn nguyên của Ngài lại quá linh-hiệu, ngôn-ngữ hửu hạn của thế-gian không có thể nào giải nổi. Nên trong sưu-tập này chỉ có thể nêu trong muôn một những quyền-năng quá ư kỳ diệu của Ngài mà thôi, nhưng chỉ có một điều quả-quyết rằng chúng ta đang có một bà mẹ Thiêng-Liêng quyền lực vô-song, chứa-chan niềm từ-bi bác-ái luôn ban ân sủng cho mọi người, chúng ta chỉ cần một tín-ngưỡng mạnh-mẽ, một thân tâm thanh-tịnh trong-sáng thì sẽ đón nhận được ân-huệ và lắng nghe được huyền-âm vi-diệu của NGƯỜI hướng-dẫn dìu-dắt chúng ta trong mọi sinh-hoạt hàng ngày.
Còn một điều trong chúng ta ít có người nghĩ đến là hằng ngày chúng ta đã sống bằng khí sanh-quang của Phật-Mẫu mà chúng ta không hề hay biết. Trong Phật-Mẫu chơn-kinh có câu : “Sanh quang dưỡng dục quần nhi”.
Đức Hộ-Pháp giải nghĩa câu nầy rằng : Phật-Mẫu lấy khí sanh-quang (fluide de vitalité) nuôi nấng con cái của NGƯỜI (theo giải nghĩa Phật-Mẫu chơn-kinh). Loại khí Sanh-quang này, Đức Chí-Tôn gọi là Khí-phách tiếp-dưỡng, hay Huyền-vi vật-thực còn đối với các tôn-giáo thì tùy theo tín-ngưỡng và quan-niệm về nó mà có tên gọi khác nhau, Yoga gọi là Prana, Phật gọi là Diệu-hửu, Tiên-giáo gọi là nguyên-khí, Nho-giáo gọi là Hạo-nhiên-khí, khoa-học gọi là năng-lượng, loại khí này không chỉ hòa tan trong không-khí như đường tan trong nước, mà còn hiện hửu khắp mọi nơi kể cả những chổ không khí không thể len lỏi đến được, nó hiện-diện trong vật-chất, cây cỏ, đồ ăn, thức uống, trong cơ-thể sinh-vật kể cả trong ánh sáng mặt trời. Nó hiện-diện trong không-khí không phải là Oxy hay Ni-tơ cũng chẳng phải là vi-ta-min, là nhiệt, hay tia cực tím, cũng chẳng phải là một thành phần hóa-học nào đó trong khí quyển, có thể gọi Khí Sanh-quang là một nguồn sống trong vũ-trụ, cũng có thể gọi là sinh-lực, nhưng nó không phải là lực điện-từ, cũng chẳng phải là lực hấp dẫn hay điện năng, mà các hiện tượng ấy là biểu-hiện của một nguồn sống đang phổ cập mọi nơi, khắp vũ-trụ nơi nào có sự sống là nơi đó có Sanh-quang khí, và biểu hiện ra bằng sinh-lực. Nên trong 12 bài luyện tập thân thể do Đức Hộ-Pháp chỉ giáo, phần luyện thở có nêu câu Thánh giáo của Đức Lý Giáo-Tông.
“Hỏi ăn chi đặng sống?
Rằng hớp khí thanh không”.
Bởi vì trong khí thanh không có hòa tan Sinh-quang-khí nên có thể nuôi sống được con người. Nên trong các tôn-giáo thường dạy phương-pháp luyện thở là dạy cách hấp-thụ tối đa lượng khí này để được sống lâu ít tật-bệnh. Thậm chí có nhiều môn phái còn luyện những phương pháp hít thở đặc-biệt để tiêu-trừ tật-bệnh, phục-hồi sức khỏe đã suy-khuyết. Trong Đạo-sử Cao-Đài-giáo, Đức Chí-Tôn có truyền cho môn-đồ phương pháp tuyệt-thực (nhịn ăn), chỉ hít thở để tiếp thu huyền-vi vật-thực còn gọi là khí-phách tiếp-dưỡng (sanh quang khí) trong không-khí để chữa bệnh. Nhiều vị chân tu đắc-đạo đã tịch cốc thời-gian dài, chỉ hít thở để tiếp thu huyền-vi vật-thực mà cơ thể không suy khuyết chút nào (Theo Đạo-sử của Bà Nữ Đầu Sư hương-Hiếu sưu-tập).
Căn cứ theo những sự-kiện nêu trên cho chúng ta thấy rằng trong từng giây, từng phút, từng hơi thở của sự sống, chúng ta đều được ân-huệ của Phật-Mẫu ban cho, nói một cách khác là chúng ta luôn luôn nằm trong sự nuôi-dưỡng đùm-bọc của NGƯỜI như thể là một hài-nhi, không thể nào rời được vú Mẹ, cho nên Thánh-giáo của Phật-Mẫu có câu :”Vú Mẹ chưa lìa đám trẻ con”. (TNHT/Q2/tr87). Như vậy ân-đức của Phật-Mẫu thật là vô-lượng vô-biên mà rất ít người trong chúng ta hay biết đến.
Dã Trung Tử sưu tập