Đức Lão Tử là chơn linh của Đức Thái Thượng Đạo Tổ
giáng trần vào thời nhà Thương bên Tàu.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ, còn gọi là Đức Thái Thượng
Đạo Quân, là Đấng do Khí Tiên Thiên hóa sanh thuở chưa
tạo Thiên lập Địa.
Tiên Thiên khí hóa
Thái Thượng Đạo Quân
(Kinh
Tiên giáo)
Đức Thái Thượng Đạo Tổ là Ông Thủy Tổ của Đạo
Tiên. Ngài có pháp lực vô biên, biến hóa vô cùng, khi
hiện xuống cõi trần để độ những người có duyên phần, khi
trở về cõi Thượng Thiên.
Theo sách Tam Hoàng Thiên Kinh, Đức Thái Thượng
hiện xuống cõi trần rất nhiều lần, kể ra sau đây :
Vào thời Thái Cổ nước Tàu :
- Đời Thiên Hoàng Thị, Ngài là Bàn Cổ.
- Đời Địa Hoàng Thị, Ngài là Vạn Pháp Thiên Sư.
- Đời Nhơn Hoàng Thị, Ngài là Đại Thanh Tử.
Vào thời Thượng Cổ, cũng ở nước Tàu :
- Đời vua Phục Hy, Ngài là Huất Hoa Tử.
- Đời vua Thần Nông, Ngài là Xích Tùng Tử.
- Đời vua Huỳnh Đế, Ngài là Quảng Thành Tử.
- Đời vua Thiếu Hạo, Ngài là Tùy Ưng Tử.
- Đời vua Chuyên Húc, Ngài là Xích Tinh Tử.
- Đời vua Nghiêu, Ngài là Vụ Thành Tử.
- Đời vua Thuấn, Ngài là Y Thọ Tử.
- Đời vua Hạ Võ, Ngài là Chân Hành Tử.
- Đời vua Thành Thang, Ngài là Tích Tắc Tử.
Đến đời vua Võ Đinh nhà Thương (1324 trước Tây lịch),
Đức Thái Thượng Đạo Tổ mới giáng sanh xuống trần là Lão
Tử. Việc giáng sanh của Ngài rất huyền diệu phi thường.
Theo truyền thuyết kể lại, vào đời vua Bàn Canh
nhà Thương (1461 trước Tây lịch), có một nàng con gái
gọi là Ngọc Nữ vừa được 8 tuổi, con của một gia đình đạo
đức, ra chơi sau vườn, thấy trên cây lý có một trái chín
thật ngon, cô liền hái ăn. Ăn xong, cô cảm thấy mỏi mệt
và có thai.
Cha của Ngọc Nữ thấy sự lạ kỳ, liền toán quẻ Âm
Dương, đoán biết có một vị Đại Tiên giáng trần trong
bụng con gái của mình, nên mừng rỡ và nuôi con gái rất
kỹ.
Nàng Ngọc Nữ chịu mang thai như vậy mãi cho đến
già mà không đẻ. Đến năm Ngọc Nữ 80 tuổi, tức là đã mang
thai ngót 72 năm, lúc đó đã qua 3 đời vua nhà Thương là
: Vua Bàn Canh, vua Tiểu Tân, vua Tiểu Ất, và bắt đầu
đời vua Võ Đinh (1324 trước Tây lịch), Bà Ngọc Nữ thấy
trăng tỏ bèn đi dạo chơi nơi vườn. Khi đi ngang cội cây
lý ngày xưa thì đứa con từ trong bụng theo nách mẹ nhảy
ra ngoài. Bà Ngọc Nữ giựt mình kinh hãi, coi lại nách
mình liền lại như thường. Đứa con nhảy ra, đã ở trong
bụng mẹ 72 năm nên đầu tóc bạc trắng, nên mới gọi là Lão
Tử (Con già). Lúc đó là giờ Sửu ngày 15 tháng 2 âm lịch
năm Canh Thìn.
Lão Tử chỉ cây Lý bảo rằng đó là họ của Ngài. Ngài
xưng hiệu là Lão Đam, tự là bá Dương, lại mỗi bên tai có
3 lỗ nên còn gọi là Lý Nhĩ.
Ngài có miệng rộng, răng thưa, thiên đình cao, râu
tốt, mắt vắn, tai dài, sóng mũi cao lớn như chẻ hai,
trên trán có đường nhăn như 3 chữ Tam Thiên.
Cội cây Lý, nơi giáng sanh của Đức Lão Tử, ở tại
xóm Khúc Nhơn, làng Lại, huyện Khổ, nước Sở, ngày nay
thuộc tỉnh An Huy, tỉnh Hồ Nam.
Do đó, trong Kinh Tiên giáo có câu :
Nhị ngoạt thập ngũ,
Phân tánh giáng sanh.
Nghĩa là : Ngày 15 tháng 2
Chiết chơn linh giáng sanh xuống trần.
Đức Lão Tử có giáng cơ cho biết năm giáng sanh của
Ngài trong 4 câu thơ khoán thủ sau đây:
LÝ đào mầm tược tượng long lân.
LÃO luyện đơn thành nhị xác thân.
TỬ phủ ngồi tu lo nấu thuốc,
GIÁNG sanh Thương đợi Võ Đinh quân.
Khoán thủ 4 chữ : Lý Lão Tử giáng, và câu thơ
chót có nghĩa là : Giáng sanh vào thời nhà Thương, đợi
đến vua Võ Đinh mới chào đời.
Hết thời nhà Thương, qua đến thời nhà Châu, đời
vua Thành Vương (1115 trước Tây lịch), Lão Tử có ra làm
quan Trụ Hạ Sữ tại Tàng Thư Viện nhà Châu để có cơ hội
nghiên cứu Thái Cực Đồ. Ngài độ đượ Từ Giáp là người giữ
Tàng Thư Viện, và sau đó, hai thầy trò từ chức để đi dạo
các nước Tây phương. Đến đời Châu Khương Vương, nối tiếp
vua Thành Vương, Lão Tử trở về, đặng 3 năm thì Ngài lại
đi giáo đạo miền Tây vức. Ngài ngồi xe trắng trâu xanh
do Từ Giáp đánh xe, khi đến ải Hàm Cốc, quan Doãn giữ ải
tên là Hỷ (nên thường gọi là Doãn Hỷ) coi Thiên văn biết
có một vị Đại Thánh sắp đi qua ải, nên chuẩn bị mặc
triều phục nghinh tiếp. Khi thấy Đức Lão Tử tới, biết
Ngài là Thánh nhân nên tôn Lão Tử làm thầy, xin theo học
đạo.
Nguyên Ông quan Doãn Hỷ nầy là chơn linh của Nguơn
Thủy Thiên Tôn giáng trần. Khi bà mẹ có nghén Ông thì
chiêm bao thấy một đoạn lụa đỏ từ Trời sa xuống vấn
quanh mình, sau sanh ra Doãn Hỷ thì thấy sen mọc quanh
nhà trổ bông. Ngài lớn lên, con mắt sáng như sao, râu
dài, tướng tốt, có tài xem Thiên văn. Khi làm quan Doãn
giữ ải Hàm Cốc, Doãn Hỷ nhìn lên bầu Trời thấy một vầng
mây tím bay ngang từ hướng Đông qua hướng Tây, Ngài biết
đó là điềm có Thánh nhân sắp qua ải để đi về hướng Tây,
nên chuẩn bị chu đáo nghinh tiếp.
Do đó, trong Kinh Tiên giáo có câu :
Tử khí đông lai,
Quảng truyền Đạo đức
Nghĩa là : Vầng khí mây màu tím từ
hướng Đông bay tới,
Rộng quyền truyền Kinh Đạo Đức.
Nhắc lại, khi Lão Tử đến ải Hàm Cốc, thấy Doãn Hỷ
có lòng thành nên bằng lòng ở lại ải ngót 3 tháng để dạy
đạo cho Doãn Hỷ.
Khi thấy Đức Lão Tử chuẩn bị ra đi thì Doãn Hỷ
bạch thầy xin cho biết danh tánh và tình nguyện đi theo
thầy.
Đức Lão Tử đáp :
- Ta sanh ra đã nhiều đời, tên họ có biết bao
nhiêu mà kể. Hiện thời, người đời gọi Ta là Lão Tử.
Ngươi có lòng muốn theo Ta, song ngươi mới tu luyện còn
non, chưa từng biến hóa thần thông, thì theo Ta sao đặng.
Ngươi cứ tu hành theo phép đã dạy cho lâu thì sau nầy
cũng được như Ta, đi đâu cũng đặng.
Nói rồi, Đức Lão Tử truyền cho Doãn Hỷ quyển sách
Đạo Đức Kinh gồm 5363 chữ, dặn rằng :
- Ngươi cứ theo sách nầy mà học, tu đúng phép 1000
ngày, rồi đi qua nước Thục, tìm Ta tại chợ Thanh Dương.
Nói xong, Đức Lão Tử lên xe trắng trâu xanh, Từ
Giáp đánh xe, hiện hào quang đi về hướng Tây mất dạng.
Doãn Hỷ ngó theo thầy, lạy tạ.
Sau đó Doản Hỷ cứ học theo Đạo Đức Kinh mà tu, lâu
ngày trở nên thông huệ, tự viết ra được một cuốn sách,
gồm 36 bài gọi là Kinh Tây Thăng.
Gần đến kỳ ước hẹn với thầy, Doãn Hỷ sửa soạn đi
qua nước Thục để tìm thầy y như lời thầy đã dặn. Khi đến
nước Thục, Doãn Hỷ hỏi thăm chợ Thanh Dương ở đâu thì
không một ai biết cả.
Lúc ấy, Đức Lão Tử đã trở lại Thiên Cung, rồi lại
xuống trần đầu kiếp vào nhà họ Lý ở nước Thục, là nhà
đạo đức hiền lương. Khi vợ họ Lý sanh được bé trai ít
tháng thì có một con dê xanh (Thanh dương) chạy đến chơi
giỡn với bé. Đó là Đức Lão Tử dặn con Thanh dương ở
Thiên cung hiện xuống.
Ngày kia con dê xanh chạy đâu mất, cậu bé khóc
hoài. Họ Lý phải sai đầy tớ đi khắp nơi tìm kiếm, bắt
gặp dê xanh dẫn về, đi ngang qua một cái chợ.
Doãn Hỷ đang lúc hỏi thăm tìm chợ Thanh dương,
bỗng thấy có người dắt con dê xanh đi qua chợ, liền chợt
nghĩ rằng chắc thầy mình đang ở chỗ nầy. Nghĩ vậy, Doãn
Hỷ liền chạy theo người dắt dê xanh hỏi :
- Chú dắt con dê nầy đi đâu vậy ?
Người ấy đáp :
Chủ tôi có sanh một cậu trai, cách ít tháng có con
dê nầy tới chơi với cậu nhỏ. Bữa kia nó đi mất, cậu nhỏ
cứ khóc hoài. Chủ tôi sai tôi đi tìm kiếm mà dắt về.
Doãn Hỷ đi theo người đầy tớ ấy đến nhà thì bảo
người đầy tớ :
-Chú vào thưa với cậu nhỏ là có Doãn Hỷ đến tìm.
Anh đầy tớ cười thầm : Cậu nhỏ chưa giáp thôi nôi,
biết chi mà thưa với gởi, nhưng anh ta cũng vào nói :
Có Doãn Hỷ đến tìm cậu.
Cậu bé nghe nói thế liền ngồi dậy đáp :
- Doãn Hỷ y lời, không đến trễ.
Kế đó Doãn Hỷ bước vào. Bỗng thấy cậu bé vùng lớn
lên như người thường, ngồi trên tòa sen, hào quang sáng
lòa. Cả nhà đều kinh hãi. Người ấy nói :
- Khi trước, Ta chẳng dắt ngươi theo vì sợ ngươi tu
hành không bền chí. Nay ngươi tu luyện kỹ lưỡng, hào
quang ẩn ẩn muốn lòa.
Nói rồi, Đức Lão Tử niệm chú, truyền cho Thần Tiên
xuống hầu, phong Doãn Hỷ phục chức Nguơn Thủy Chưởng
giáo, cai trị 8 vạn Thần Tiên, lại truyền phép cho cả
nhà họ Lý tu thành Tiên hết thảy.
Về sau, đến đời vua Châu Kinh Vương, Đức Khổng Tử
qua kinh đô nhà Châu học Lễ, nghe nói có Đức Lão Tử tại
đó, liền đến xin ra mắt và hỏi Đức Lão Tử về Lễ. (Chuyện
gặp gỡ nầy có chép trong sách Sử Ký Tư Mã Thiên).
Đức Khổng Tử chủ trương theo các nghi lễ của các
vua đời trước, nhưng Đức Lão Tử bác bỏ ý kiến đó, nói
rằng :
- Những người mà Ông nói đó đều tan xương nát thịt
cả rồi, chỉ còn lời nói của họ mà thôi. Vả lại, người
quân tử gặp thời thì xe ngựa nghinh ngang, không gặp
thời thì tay vịn nón lá mà đi chơn không. Tôi nghe nói :
Người buôn giỏi thì biết giấu của báu, khiến người ta
thấy dường như không có hàng ; người quân tử có đức tốt
thì diện mạo thường như ngu si. Ông nên bỏ cái khí kiêu
ngạo cùng cái lòng ham muốn nhiều, cái vẽ hăm hở cùng
cái khí tham lam đi, những thứ ấy đều không ích chi cho
Ông. Tôi chỉ nói với Ông có thế thôi.
Đến khi Đức Khổng Tử cáo từ, Đức Lão Tử tiễn Đức
Khổng Tử ra cửa và nói :
- Tôi nghe nói : người giàu sang lấy tiền bạc để
tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn nhau. Tôi
không thể làm người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là
người nhân đức, xin có lời nầy tiễn Ông : Kẻ thông minh
và sâu sắc là gần với cái chết vì họ khen chê người ta
một cách đúng đắn; kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng
làm nguy hiểm đến thân mình vì họ nêu lên cái xấu của
người khác. Kẻ làm con không có cách nào để giữ mình, kẻ
làm tôi cũng không có cách gì để giữ mình.
Ý của Đức Lão Tử, khi nói ra các lời trên với Đức
Khổng Tử, là Ngài chống lại sự thông minh, sự Trung và
sự Hiếu, là những nguyên lý mà Đức Khổng Tử đang chủ
trương, bởi vì : Có trí khôn thì dễ nguy, nếu cứ theo
Trung và Hiếu thì cứ hoàn toàn lệ thuộc vào vua và vào
cha mẹ, khó lòng được sống tự do tự tại, ung dung thơ
thới.
Đức Khổng Tử ra về, nói với các học trò :
- Con chim, ta biết nó bay; con cá ta biết nó lội,
con thú ta biết nó chạy. Đối với loài chạy thì ta có thể
dùng lưới để săn, đối với loài lội thì ta có thể dùng
câu để bắt, đối với loài bay thì ta có thể dùng cung tên
mà bắn, đến như con rồng cỡi mây cỡi gió lên Trời, ta
không sao biết được. Hôm nay, gặp được Lão Tử, Ông ta có
lẽ là con rồng chăng ?
Kể từ đó về sau, Đức Lão Tử không đầu thai xuống
trần nữa. Khi biết người nào có duyên phần thì Ngài dùng
thần thông hiện xuống cõi trần để dạy đạo cho người ấy
tu luyện, rồi Ngài trở lại Cung Tiên.
Đến đời nhà Tấn, Đức Lão Tử có hiện xuống, xưng là
Hà Thượng Công dạy An Kỳ học đạo.
Đến đời vua Hán Văn Đế, Đức Lão Tử trần, xưng là
Quảng Thành Tử, Hán Văn Đế rất mộ đạo, sai sứ đến rước
về triều. Quảng Thành Tử nói :
- Lẽ nào không đích thân tới rước mà lại sai sứ đến
?
Sứ giả về tâu lại, Hán Văn Đế đến gặp Quảng Thành
Tử, nhà vua nói :
- Ở trong nước là bề tôi của vua, thầy tuy có đạo mặc
dầu, song cũng là dân của Trẫm, sao không chịu sụt lại
một chút mà làm kiêu như vậy ? Hay là Trẫm không làm
được họa phước cho thầy chăng?
Quảng Thành Tử nghe vua nói vậy, liền cất mình bay
lên cao độ 100 thước, ngồi trên thinh không, ngó xuống
nói với vua Hán Văn Đế rằng :
- Nay, trên chẳng tới Trời, dưới chẳng tới Đất, Bệ
Hạ làm họa phước cho ta sao đặng.
Vua Hán văn Đế biết lỗi, liền bước xuống xe làm lễ,
xin thọ giáo. Quảng Thành Tử đưa cho nhà vua một cuốn
kinh bảo cứ học theo đó mà tu luyện.
Qua đến đời vua Hán Thành Đế, Đức Lão Tử lại hiện
xuống tại suối Khúc Dương, truyền đạo cho Vu kiết.
Đời vua Hán An Đế, Đức Lão Tử truyền Kinh Tội
Phước Tân Khoa cho Lưu Tiên.
Đời vua Hán Trinh Đế, Đức Lão Tử hiện
xuống truyền kinh Bắc Đẩu cho Trương Thiên Sư.
Đời vua Hán Hoàn Đế, Đức lão Tử hiện xuống núi
Thiên thai truyền kinh Bác Động cho Vạn Niên Tiên sinh.
Đời vua Hán Linh Đế, Đức Lão Tử hiện xuống truyền
kinh cho Trương Thiên Sư một lần nữa.
Qua đời nhà Đường, Đức lão Tử hiện xuống tại núi
Dương Giác, truyền Đạo cho Đường Công.
Đời vua Đường Cao Tổ, có người ở Phổ Châu, tên là
Thiện Hành, đi ngang qua núi Dương Giác, gặp một Ông già
mặc áo trắng, gọi đến nói rằng :
- Ngươi về tâu lại với Đường Thiên tử : Thái Thượng
Lão Quân là Ông nội.
Đường Cao Tổ hay tin, liền lập miếu thờ tại núi
Dương Giác, và tôn Đức Lão Tử là :”Huyền Nguơn Hoàng Đế”.
Hồi thời nhà Châu, Đức Lão Tử có hiện xuống truyền
Đạo cho Ông Lý Ngưng Dương, tu hành đắc đạo thành Tiên,
hiệu là Lý Thiết Quày (thường gọi là Lý Thiết Quả), đứng
đầu Bát Tiên.
Đức Thái Thượng Đạo Tổ có một kiếp giáng sanh
xuống trần là Lão Tử, nên Ngài cũng được gọi là Thái
Thượng Lão Quân.
Tóm lại, từ thời tạo dựng Trời Đất và có nhơn loại
đến nay, không có thời nào mà Đức Thái Thượng Đạo Tổ
không giáng trần để độ những người có căn lành, tu hành
đắc đạo.
Ngài do Khí Tiên Thiên hóa sanh, nên Ngài có pháp
thuật vô biên, biến hóa vô cùng, khi hiện xuống cõi trần,
khi trở về Thượng Thiên, khi đầu thai xuống trần mang
xác phàm để dễ truyền đạo và giáo hóa nhơn sanh.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ,
Đức Thái Thượng Đạo Tổ không giáng sanh nữa, mà Ngài chỉ
dùng huyền diệu cơ bút để giáng cơ dạy đạo. Ngài giao
cho Đức Đại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch thay mặt Ngài cầm
quyền Tiên giáo./.