Lễ Kỷ niệm năm thứ 78

NGÀY HOẰNG-KHAI ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

14 tháng 10 Bính-Dần (18/11/1926) - 14 tháng 10 Nhâm-Ngọ (18/11/2002)

Dã Trung Tữ

 

Cách đây 77 năm, ngày 14 tháng 10 năm Bính-dần (18/11/1926), Lễ Khai-Đạo đã diễn ra tại Chùa Từ-lâm-tự Gò-kén Tây-ninh, tức là cũng vào ngày nầy Đạo Cao-Đài đã được chính-thức khai-sáng tại nước Việt-nam và cũng đã chính-thức ra mắt với nhơn-loại trên toàn thế-giới. Hôm nay từ Toà-Thánh Trung-ương Tây-ninh đến các Thánh-thất địa-phương trên toàn thế-giới đều tổ-chức lễ kỷ-niệm ngày trọng-đại đó, và cũng để đánh dấu ngày bước vào năm Đại-Đạo thứ 78 .

 

Mấy giòng sau đây, cốt ghi lại những nét tiến-triển khái-yếu của nền Đạo được Đức Chí-Tôn khai-sáng tai Việt-nam từ đó đến nay.

 

SƠ-LƯỢC ĐÔI NÉT VỀ SỰ HÌNH-THÀNH CAO-ĐÀI-GIÁO

 

Cách đây non một thế kỷ, vào khoản những năm 1920 đến năm 1925, Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đã giáng-linh tại Việt-nam, dùng huyền-diệu tiên-gia giáng-cơ giáo đạo, quy-tụ các Lương-sanh tiền-bối để khai-sáng mối Đạo Trời gọi là Cao-Đài giáo, còn có tên là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Trong thời-gian tiền-khai gầy-dựng nền-móng của nền Đại-Đạo gần 5 năm.

 

Vào ngày 01 tháng 09 Bính-dần 28 vị cầm-quyền Đạo đại diện cho 247 tín-đồ đầu tiên, đồng ký tên vào tờ Khai-đạo gởi lên Thống-đốc Nam-kỳ lúc đó là  Ông Le Fol, do Ngài Lê-Văn-Trung viết bằng Pháp văn, đây không phải là một đơn xin phép, mà là một Bản Tuyên-ngôn sáng-lập một Tôn-giáo, lấy tên là Phật-giáo chấn-hưng hay là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Sau đó Hội-Thánh cũng đã gởi tuyên-cáo đến các vị Hoàng-Đế, Tổng-thống, Nguyên-thủ quốc-gia, các hiệp-hội của các nước trên thế-giới, cùng các cơ-quan truyền-thông báo-chí thông-báo về sự khai-sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ trên đất nước Việt-nam, nhờ vậy mà Đạo Cao-Đài được tự-do truyền-bá cho đến ngày hôm nay.

 

Vào ngày 14 tháng 10 năm Bính-dần (18/11/1926) các vị Lãnh-đạo Hội-Thánh thiết lễ Khai-đạo tại chùa Từ-lâm-tự ở Gò-kén Tây-ninh. Đây là một ngôi chùa Phật-giáo thuộc phái Đạo Thiền, do Hoà-Thượng Như-Nhãn làm trụ trì, đứng ra lạc quyên xây cất chưa hoàn-thành, nhưng Ngài Như-Nhãn và một số tín-đồ của Ngài nhập-môn vào Cao-Đài, nên giao cho Đạo mượn và tiếp-tục xây-dựng  thêm cho hoàn-chỉnh, để làm cơ-sở đầu tiên của tôn-giáo Cao-Đài. Nên lễ khai Đạo được tổ-chức tại đây.

 

NHỮNG DỰ-NGÔN VÀ TIÊN-KHẢI  VỀ SỰ XUẤT-HIỆN CỦA CAO-ĐÀI

 

Trước khi Thượng-Đế khai-sáng Đạo Cao-Đài, đã có những dự-ngôn tiên-khải của các Vì Giáo chủ cách trước đây hàng mấy nghìn năm, nhất là tiên-tri của hai Vì Giáo-chủ Phậât Thích-Ca và Chúa Cứu-Thếâ :

- Trước khi viên-tịch Đức Thích-Ca đã dự ngôn rằng:

 

“Ta chẳng phải là Vị Phật đầu tiên hay cuối cùng, mà sau Ta vào thời kỳ mạc-pháp (thời cuối cùng của đạo-pháp), sẽ có một Đấng lớn hơn Ta xuấùt hiện, Đấng Chí Thánh Đại-giác độc nhất vô-song cực kỳ cao-thượng, Đấng chúa-tể cả thần thánh và nhân-loại. Đấng đó sẽ phổ-truyền một nền Đạo vinh-diệu lúc sơ-khai, vinh-diệu lúc thịnh-hành và vinh-diệu cả buổi chung cuộc”.

 

Tiên-khải nầy được chép trong Phật-tông nguyên-lý, đến khi khai Đạo Cao-Đài Đức Thích-Ca đã giáng-cơ nhắc lại với các môn-đồ Phật-tử câu nầy.

 

- Chúa Jésus cũng đã dự-ngôn trong hai nghìn năm Chúa sẽ tái-lâm và khuyên dân-sự của Ngài hãy nhận biết những điềm báo trước :

 

“Chừng đó sẽ có những điềm trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Các quyền-lực trên trời bị lay chuyển. Dưới đất muôn dân sẽ lo-lắng hoang-mang trước cảnh biển gào sóng thét, hải-hùng đón nhận những tai-ương giáng xuống địa-cầu. Bấy-giờ thiên-hạ sẽ thấy con người đầy quyền-năng và vinh-quang ngự trong đám mây mà đến (Luca 281: 25-27).”

 

- Đạo Minh-sư ở Trung-hoa trong khoản năm 1650 vào cuối nhà Minh đầu nhà Thanh có câu sấm-truyền có đề-cập đến Cao-Đài như câu :

“ CAO như Bắc-khuyết nhân chiêm-ngưỡng,

  ĐÀI tại Nam phương Đạo thống truyền”.

Câu nầy đã tiên-báo việc khai-sáng Đạo Cao-Đài ở phương nam Trung-hoa.

-Trong Minh Thánh-kinh Linh-sám có câu:

“Mạng hửu Cao-Đài minh nguyệt chiếu” (uy-danh của Đức Cao-Đài sáng tỏ như trăng soi).

- Trong Thanh-tịnh kinh của Lão-giáo cũng có câu :

 “Công viên quả mãn thọ đơn-thơ,

 Thiên-mạng phương khả truyền Đại-Đao Tam-Kỳ Phổ-Độ”.

 (Công-quả đầy đủ sẽ được thọ lãnh Đơn-thơ.

Người có thiên-mạng khá nên truyền-bá Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ).

- Trong tác-phẩm “Đạo Cao-Đài : một tôn-giáo mới” (The Caodai : A new Religious Movement), của Giáo-sư Tiến-sĩ Sergei Blagov người Nga, cũng đã sưu-tập được những câu nói về dự-ngôn của Cao-Đài như :

 

“Những đặc-tính Cao-Đài được tìm thấy trong bản tiếâng Trung-quốc của Hội Thánh-kinh Anh-quốc và nước ngoài” (The characters Caodai could be British and Foreign Biblical Society).

 

SỰ MỞ ĐƯỜNG CHUẨN-BỊ CỦA THƯỢNG-ĐẾ CHO SỰ KHAI-SÁNG ĐẠO CAO-ĐÀI

 

Trứớc khi khai-đạo tại Việt-nam hàng trăm năm, Thượng-Đế đã cho chư Thần Thánh Tiên Phật giáng-trần khắp năm châu, để thức-tỉnh loài người, chuẩn-bị một tinh-thần quy-nhứt cho nhân-loại. Nên khi khai-đạo Thượng-Đế có giáng cơ dạy rằng:

 

“Thầy chưa giáng-cơ lập Đạo tại nước Nam, chớ chư Thần Thánh Tiên Phật dùng huyền-diệu nầy mà truyền-đạo cùng vạn quốc” (TNHT/Q1/trang51 / Ấn-bản năm Nhâm-tý).

 

Nên khi học-thuyết Cao-Đài ra đời, đã được các nhà hiền-triết trên thế-giới hưởng-ứng tiếp-thu một cách nhanh chóng, xin đơn-cử một vài trường-hợp tiêu-biểu sau đây :

- Vào ngày 13 tháng11 năm 1931, sau ngày khai đạo 6 năm, Đức Thánh Cha Godwin Trưởng-lão Tổng Giáo-hội Eglise Gnostique Đức-quốc, đã gởi văn-thư cho Hội-Thánh Cao-Đài Tây-ninh, cho biết rằêng họ đã quyết-định chuẩn-bị liên-hợp với Cao-Đài-giáo để tổ-chức các Giáo-hội Cao-Đài tại các quốc-gia phương Tây.

- Vào khoản năm 1936-1937 Hội Thần-bí Triết-học tại Đức đã liên-lạc với Hội-Thánh Cao-Đài Tây-ninh yêu-cầu cung-cấp giáo-lý Cao-Đài để họ tìm hiểu.

- Giáo-chủ Đạo Đại-Bản (Oomoto), tại Nhật là Ngài Isao Deguchi đã đến viếng Toà-Thánh Tây-ninh và nhiều tín-đồ của Đạo nầy cũng đã nhiều lần đến Toà-Thánh Tây-ninh để tìm hiểu giáo-lý Cao-Đài.

- Vào khoản năm 1862 Bà Blavastky (Nga) và Đại-tá Olcott (Mỹ) đã thành-lập hội Thông-thiên-học (Theosophy) một cơ-quan quốâc-tế Nghiên-cứu Tôn-giáo với ba mục-đích:

a)- Gây tình huynh-đệ đại-đồng giữa nhân-loại không phân-biệt nòi-giống giai-cấp, tín-ngưỡng tôn-giáo.

b)- Khuyến-khích nghiên-cứu các tôn-giáo, triết-lý và  khoa-học.

c)- Nghiên-cứu những định-luật thiên-nhiên chưa giải-thích được và những quyền-năng ẩn-tàng trong con người chưa khám-phá ra.

Tiêu-ngữ của Thông-thiên-học là :

 

“Không tôn-giáo nào qua chân-lý”.

 

Với phương-châm đề-cao tinh-thần quy-nhứt, và coi các tôn-giáo là đứa con có cùng một nguồn-gốc, mục-đích tạo một thế-giới đại-đồng.

 

Vì chủ-thuyết quy-nhứt và sự phát-triển tình thương-yêu là một chân-lý tối-thượng để đem lại hoà-bình, đó là một nhu-cầu cấp-thiết của nhân-loại hiện nay.

 

SƠ-LƯỢC VỀ GIÁO-LÝ CAO-ĐÀI

 

Theo chơn-truyền của nhiều tôn-giáo cũng như Cao-Đài, đã tin-tưởng rằng đã có một Đấng tự-hửu và hằêng-hửu tạo-dựng nên vũ-trụ và vạn-hửu chúng-sanh trong đó có con người, tuỳ theo địa-phương và tín-ngưỡng mà loài người tôn-xưng Đấng ấy bằng nhiều danh-hiệu khác nhau, đó là Thượng-Đế, là Đức Chúa Trời, là Jê-hô-va, là Bhrama, là Allah, là Tạo-Hoá hay Hoá-Công, là Chân-Như, là Đạo, là Thái-Cực … các tín-ngưỡng nầy đã đóng vai-trò quan-trọng trong suốt chiều dài hình-thành lịch-sử và sinh-hoạt văn-hoá của nhiều dân-tộc, ngày nay các nhà khoa-học xã-hội trong thời-đại chúng ta, cũng đã thừa-nhận rằêng tín-ngưỡng là một phần quan-trọng trong sinh-hoạt văn-hoá của con người không thể thiếu được.

 

Nhân-sinh-quan của Cao-Đài cho rằng: Con người được sinh ra từ Thượng-Đế vốn lành, Ngài cho con người đến thế-gian đặng học-hỏi để tiến-hoá, nhưng khi nhập-thế vì nặng mang phàm-thể nên đã gây ra nhiều tội-lỗi, mà lảng quên điều lương-thiện, và đã xa rời Ngài. Vì Thượng-Đế đã tạo-dựng nên chúng sanh, đã dành trọn sự thương-yêu và luôn cưu-mang nhân-loại, nên từ khi có loài người đến nay Thượng-Đế luôn cho các Vì Giáo-chủ giáng-trần để giáo-hoá loài người, và mong-mỏi cứu-vớt họ trở về hội-nhập với Ngài, đó là lý-do các Tôn-giáo xuất-hiện trên thế-gian. Theo chơn-truyền thì từ khi có loài người đến nay Thượng-Đế đã ba lần cứu vớt chúng-sanh nên ngày nay mới có tên là Tam-kỳ Phổ-Độ.

Những thời-ky đó có thể phân ra một cách ước-lệ như sau :

 

- Thời-kỳøPhổ-Độ lần thứ nhút: thuộc vào thời tiền-sử, nhơn-loại còn thuần-phát thiên-lương, nhưng nếp sống còn lạc-hậu, Thượng-Đế cho các vì Giáo-chủ giáng-trần chủ-yếu để khai-hoá chúng-sanh, nên đã có các Đấng giáng-trần đó là Môise ở Trung-đông, Nhiên-Đăng Cổ Phật ở Ấn-độ, Hồng-Quân Lão-tổ, Phục-Hy ở Trung-hoa để dìu-dắt sự tiến-hoá của loài người.

 

- Thời kỳ thứ hai, loài người đã tiếân-hoá, thời-kỳ nầây con người đã khá tiến-bộ, đã có văn-tự, có lịch-sử, đời sống xã-hội đã được tổ-chức có quy-củ, nhưng con người chỉ biết nội tứ phương mình, chưa tiếp-xúc liên-hệ rộng-rãi với nhau. Lúc này loài người tuy đã tiến-hoá, nhưng con người vì cạnh-tranh để sinh-tồn, lại thiếu tình yêu-thương, nên tranh-đấu sát hại lẫn nhau, gây nhiều tội ác, không còn vâng lời các Vì Giáo-chủ và xa rời Thượng-Đế. Nên Thượng-Đế  đã cho các Vì Giáo-chủ giáng-trần một lần nữa để giáo-hoá con người bỏ dữ về lành, các Vị Giáo chủ đó là Đức Thích-ca mâu-ni ở Ấn-độ. Khổng-Tử, Lão-tử ở Trung hoa, Đức Jésus Christ, Mahommet ở Trung-đông để con người mỗi địa-phương tin-tưởng người đồng-chủng với mình mà vâng-phục, tín-ngưỡng vào các Ngài, để ăn ở hiền-lương đạo-đức, biết thương-yêu lẫn nhau. Lần này gọi là Nhị-kỳ Phổ-độ.

 

- Thời-kỳ thứ ba: Ngày nay nhân-loại đã hiệp-đồng, con người cũng đã tìm thấy một vài thiên-thể ngoài trái đất, trên thế-giới loài người đã liên-lạc với nhau như trong một làng mạc nhỏ bé, con người đã đạt được văn-minh tiến-bộ trong lãnh-vực vậât-chất, nhưng về văn-minh tinh-thần lại càng tụt hậu, họ đã xa rời đạo-đức, một số người đã đánh mất lương-tâm, nên trong khi tạo nên phương-tiện vật-chất, thay vì để phụng-sự cho đời sống con người, thì họ cũng tạo nên những vũ-khí tối-tân giết người hàng loạt, nhất là trong buổi hạ-nguơn nầy, họ đã tiêu-diệt lẫn nhau để dành quyền bá-chủ cho mình, gây thảm-hoạ tương-tàn tương-sát, hết tranh-giành thuộc-địa, lại đánh nhau vì chủ-nghĩa, vì tôn-giáo, vì sắc-tộc, thật nhân-loại đang lâm vào cảnh :

“Mạnh hiếp yếu lấy gan hung-bạo,

Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn.

Nhẫn lo chác oán cưu hờn,

Hại nhau nào biết nghĩa-nhơn thế nào”.

 (Nữ trung tùng phận/Chơn-linh Đoàn-thị-Điểm giáng cơ)

Sự-kiện nầy chính loài người đã nhận thấy, và có người đã phải than rằng :

“Science sans conscience  n’est que ruine de l’âme” (khoa-học mà không có lương-tâm là một sự huỷ-hoại tâm-hồn).

 

Do đó các Đấng Thiêng-liêng đã ví một số người như ác-thú :

“ Tỷ như ác thú nhốt hầm,

  Ăn nhau cho đả nào cần mệnh nhau”.

 (Nữ trung tùng phận/Chơn-linh Đoàn-thị-Điểm giáng cơ)

Lại nữa ngày nay nhờ phương-tiện giao-thông liên-lạc tiến-bộ, mà các Tôn-giáo đã truyền-bá song-song với nhau trên khắp thế-giới, nhưng về tín-ngưỡng nhân-loại lại được đóng khung trong Tôn-giáo mình đang phụng-thờ, vì những giáo-lý, giáo-luật và nghi-lễ khác nhau giữa các tôn-giáo, mà nhân-loại đã chống-đối lẫn nhau, thậm-chí những phần-tử cực-đoan của nhiều tôn-giáo còn tạo nên những cuộc Thánh-chiến ác-liệt.

 

Thượng-Đế vì thương-yêu con cái của Ngài, nên ngày nay chính Ngài đã giáng-linh dùng huyền-diệu cơ-bút để quy-tụ Lương-sanh các chủng-tộc lập-thành Hội-Thánh, cùng với chúng-sanh của các sắc dân, để làm Thánh-thể của Ngài tại thế-gian, Hội-Thánh là đầu não, chúng-sanh là tay chân, máu thịt, để sự giáo-truyền không bị ngăn-ngại; và để giúp cho sự điều-hành và truyền-bá nền Đai-Đạo được trôi-chảy trường-cửu, chính Ngài đã ban cho Pháp-cánh-truyền, và truyền cho Hội-Thánh lập Tân-luật để hợp với trình-độ tiến-hoá của chúng-sanh ngày nay, vì Cựu-luật của các Tôn-giáo trước đây có nhiều điểm không còn thích-nghi với đời sống con người. Thượng-Đế còn ban cho con người có quyền tự-do sửa đổi luật-lệ cho phù-hợp với từng trào-lưu tiến-hoá của loài người, đây cũng là một Thiên-khải mới mẻ, nói lên sự tương-quan giữa Thượng-Đế và Con người nhất là trong lãnh-vực tôn-trong quyền tự-do. Bởi vậy nên Pháp-chánh-truyền và Tân-luật là hai bửu-bối mà người tín-đồ Cao-Đài lúc nào cũng tuyệt-đối tuân-thủ.

 

Mặc khác, tuy con người đã tiếp-xúc rộng-rãi với nhau, nhưng cũng vẫn còn mang tâm-trạng phân-biệt chủng-tộc, kỳ-thị tôn-giáo, nên nếu Thượng-Đế giáng-trần bằng hình-thể một con người của sắc dân nào đó, thì nhân-loại sẽ không nhìn nhận, mà còn có thể giết đi mà chớ !!! Nên ngay trong biểu-tượng thờ-phụng Thượng-Đế, Ngài cũng dạy dùng “con mắt” của chúng-sanh làm Thiên-nhãn, để tượng-trưng cho Ngài, việc thờ Thiên-nhãn hiện nay  được coi là huyền-bí, vì Thượng-Đế chưa thể cho loài người hiểu rõ hết được, nhưng theo thiển-ý của chúng tôi thì cũng có một phần ý-nghĩa là để tránh tình-trạng kỳ-thị của loài người, vì hình-ảnh của Thượng-Đế là cả Vũ-trụ và vạn-hửu chúng-sanh, nên không thể có một con người trần-thế nào đủ tượng-trưng cho Ngài.

 

Do đó Thượng-Đế đã chọn sắc dân nhỏ bé Việt-nam làm nòng-cốt và đất nước Việt-nam làm Thánh-địa để khai mở mối Đạo Trời. Vì Việât-nam là nơi địa-linh nhân-kiệt, đứng về phong-thuỷ địa-lý, thì đất Việt-nam là một long-mạch bắt nguồn từ Hy-mã-lạp-sơn trải dài ra sát biển đông, là một bân-công nhìn ra Thái-bình-dương bao-la, nên đã sản-sinh ra dân-tộc Việt-nam đạo-đức hiền-lương, nhưng cũng hào-hùng bất-khuất, tuy đã chịu hàng nghìn năm lệ-thuộc của phương Bắc và gần một trăm năm bị đô-hộ của phương Tây, nhưng đã anh-dũng đấu-tranh giải-phóng cho mình để tồn-tại, đồng-hoá các tà-thuyết ngoại-lai, giữ được cho mình một bản-sắc văn-hoá riêng, một phong-hoá riêng cho dân-tộc. Hơn nữa Việt-nam là nơi tiếp-cận giữa hai nền văn-hoá Đông Tây, là nơi hội-ngộ của hai ý-thức hệ duy-tâm và duy-vật, người Việât-nam lại sớm biết dung-hoà giữa khoa-học và huyền-linh, tức là đã biết tiếp-thu các nền văn-minh tinh-thần và văn-minh vật-chất để làm phong-phú cho đời sống của mình. Người Việt-nam lại sớm biết sùng-thượng Trời Phật, đã tín-ngưỡng hầu hết các nền chánh-giáo mà Thượng-Đế đã khai-sáng trên thế-gian, một dân-tộc như vậy, sản-sinh trên một đất nước như vậy, nên trong buổi Tam-kỳ Phổ-Độ nầy Thượng-Đế đã chọn sắc dân Việt-nam làm hạch-tâm khai-sáng nền tôn-giáo Cao-Đài, để hướng-dẫn văn-minh tinh-thần cho nhân-loại.

 

Khai-đạo kỳ ba nầy Thượng-Đế không phế bỏ các tôn-giáo củ, thiết-lập một tôn-giáo mới, có một giáo-lý khác lạ, mà lại quy Tam-giáo là Nho, Thích, Lão và hiệp Ngũ-chi là Nhơn-đạo, Thần-đạo, Thánh-đạo, Tiên-đạo và Phật-đạo, với tôn-chỉ là “Tam-giáo quy-nguyên, Ngũ chi phục-nhứt”, cốt làm cho mỗi tôn-giáo cùng nhìn nhau từ một nguồn-cội sinh ra. Để nhân-loại biết nhìn nhau là anh em cùng mộât cha, hầu chung sống với nhau một cách hoà-bình. Kiến-tạo cho thế-gian một Thiên-Đạo công-bình giải-thoát một Thế-Đạo nhơn-nghĩa đại-đồng.

 

Về Thiên-đạo, thì Đạo Cao-Đài xem mọi linh-hồn là chơn-linh phân-tánh từ Thượng-Đế, có cùng một nguồn-gốc, tuy về mặt hửu-hình có sự chênh-lệch trong trình-độ tiến-hoá, có phân-biệt giới-tính, đẳng-cấp, nhưng về mặt linh-hồn đều là anh em với nhau. Đạo Cao-Đài chấp-nhận sự khác-biệt trình-độ giữa con người và con người, nên sẵn-sàng thương-yêu nâng-đở để cho mỗi linh-hồn tự-do sốùng và tiến-hoá theo tánh-phận của mình một cách bình-đẳng, không chủ-trương áp-đặc, theo kiểu kéo cổ vịt cho dài và thâu giò hạt cho ngắn, làm đảo-điên huynh-đệ. Về công-bình, Thượng-Đế không chủ-trương sang bằng tài-sản, mà sang-bằng tham-vọng của con người bằng tình thương-yêu và đời sống đạo-đức. Vì nhân-loại có thương-yêu mới biết tôn-trọng lẫn nhau, chấp-nhận và dung-hoà sự bất đồng-đẳng giữa người và người, biết nhường cơm xẻ áo, chung vui sớt thảm với nhau, giúp-đở cho nhau được tự-do sống theo tánh-phận của mình .

 

Về phương-diện giải-thoát đạo Cao-Đài dẫn-dắt con người thoát khỏi sự ràng-buộc của lục-dục thất-tình, đã tạo nên sự khổ-đau của nhân-thế, bằng phương-pháp lập-công bồi-đức, thiền-định tịnh-luyện, để đạt được phẩm-vị hiền-nhơn và từ từ tiến lên Thần Thánh Tiên Phật, mà thoát ra ngoài vòng sinh-tử luân-hồi.

Về Thế-đạo, theo Tiên-Nho thì bác-ái thương người là nhơn, trung-dũng cứu người là nghĩa, nên về mặt  nhân-sinh Cao-Đài lấy nhơn-nghĩa làm giềng mối trong Đạo Làm Người. Vì con người có giữ tròn hai điều nầy, mới biết thương-yêu nhau, binh-vực lẫn nhau, coi nhau như anh em, xem xã-hội như một người, xem vũ-trụ như nhứt thể, để góp phần vào việc kiến-tạo một xã-hộâi an-lạc, thương-yêu lẫn nhau trong đức háo-sanh của Thượng-Đế, hợp với  lẽ Trời, thực-hiện một thế-giới đại-đồng cả tinh-thần lẫn vật chất.

 

SƠ-LƯỢC VỀ SỰ PHÁT-TRIỂN CỦA NỀN ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

 

Ngược giòng Đạo-sử, từ ngày mượn chùa Từ-lâm-tự Gò-kén Tây-ninh, là một ngôi chùa Phật-giáo mới xây cất còn dở-dang, khi mượn chùa này Hội-Thánh phải kiến-tạo thêm cho hoàn-chỉnh, để đặt cơ-sở nền Đạo tại đây, từ đó sự phát-triễn càng ngày càng đông, chỉ trong vòng sáu tháng đã có hơn 40 vạn tín đồ; thì Hoà-thượng Như-Nhãn đòi lại chùa một cách gấp rút, nhưng đây có lẽ cũng do Thiên-ý, muốn cho nền Đạo của Chí-Tôn có một địa-bàn quy-mô và rộâng-rãi hơn, hầu thích-nghi với nhu-cầu truyền-giáo trong tương-lai, nên Ơn Trên đã giáng cơ chỉ bảo Hộâi-Thánh đến mua một khu đất 96 mẫu tại làng Long-thành còn rừng rậâm hoang-vu của một Pháp kiều,  sau  đó đã khai-khẩn và mua thêm,  từ chỗ xây-dựng nơi thờ-tự và nhà cửa tạm ban đầu bằng tranh, tre, nứa, gổ… Sau đó Hội-Thánh vừa phổ-độ chúng-sanh, vừa phát-triển xây-dựng đền-đài dinh-thự tại nơi nầy, để làm cơ-sở Trung-ương của nền Đạo, cho đến ngày nay. Người tín-hửu Cao-Đài bao-giờ cũng nhớ đến công-lao của Đức Giáo-chủ Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc với sự hướng-dẫn của các Đấng Thiêng-liêng đã tạo nên một Toà-Thánh nguy-nga với một kiến-trúc vượt bậc, để ngày nay toàn thế-giới tìm đến để chiêm-ngưỡng.

 

Để có được một sự phát-triển như ngày hôm nay, nền Đạo đã phải trải qua muôn nghìn sóng gió, vì thế-lực của thực-dân phong-kiến lúc bấy-giờ muốn huỷ-diệt nền Đạo từ lúc còn phôi-thai, ngay trong trứng nước, như Triều-đình Huế đã ra Chỉ-dụ Cấm Đạo Cao-Đài truyền-bá ở Trung-kỳ, nơi đây thuộc phạm-vi quyền-lực của Hoàng-triều lúc bấy giờ. Còn phần nhượng-địa Nam-kỳ thuộc thế-lực thực-dân Pháp, họ cũng  đã xua  quân  chiếm  đóng Toà-Thánh Tây-ninh, đóng cửa các Thánh-thất địa-phương, không cho hành-đạo lễ-bái … còn bắt đày Đức Giáo-Chủ Hộ-Pháp Phạm-công-Tắc và nhiều chức-sắc cao-cấp sang tận Đảo Madagascar, châu Phi, cùng giam-cầm đày-ải các chức-sắc, chức-việc và tín-đồ khắp trong nước, vào các nơi lao-tù ma-thiên nước độc trong đất liền và ngoài hải đảo, thậm-chí họ còn ngầm chôn địa lôi thuốc nổ dưới nền Đền-Thánh Tây-ninh để chờ ngày giật sập, sự-kiện này đã được một Thiếu-tá Pháp cho biết sau nầy, nhưng Đức Hộ-Pháp đã nói rằng : thuốc nổ mà chưa gắn ngòi thì nằm lâu dưới đất cũng trở thành đất khỏi cần phải lo.

 

Dù nền Đạo đã trải qua muôn nghìn gian-nan thử-thách, nhưng con thuyền Đạo của Đấng Chí-Tôn vẫn cập được nhiều bến đổ vinh-quang, cội Đạo của Thượng-Đế đã ăn sâu vào lòng thánh-địa Việt-nam mà còn toả bóng ra khắp năm châu bốn bể. Ngay tại Đền-Thánh Trung-ương, từ một khu rừng rậm hoang-vu 96 mẫu, theo đà phát-triển từ đó đến nay, nơi nầy đã trở thành một châu-thành Thánh-địa cả nội và ngoại-ô rộng hơn 20 nghìn mẫu, gồm một giáo-khu có cộâng-đoàn giáo-dân trên 200.000 người. Hiện nay Cao-Đài đã trở thành một tôn-giáo lớn có hơn 5 triệu tín-đồ đang hoạt-đọâng tích-cực tại Việt-nam, và trên thế-giới.

 

Hiện nay một số viện Đại-học trên thế-giới đang giảng dạy học-thuyết Cao-Đài, có một ít người đã bảo-vệ thành-công luận-án Cao-Đài và họ đã trở thành Tiến-sĩ giảng dạy ở Đại-học. Tiêu-biểu nhất là Giáo-sư Tiến-sĩ Sergei Blagov người Nga sinh sống tại tại Mốt-cu, ông nầy đã bảo-vệ thành-công luận-án Cao-Đài từ năm 1991. Giáo-sư Blagov đã từng đi thuyết-trình tại các đại-hội Tôn-giáo thế-giới về Cao-Đài giáo, Ôâng ta cũng đã giảng-dạy môn Cao-Đài cho một số sinh-viên Nga tại viện Đại-học Moscova. Còn có nhiều sinh-viên cao-học của các nước như Pháp, Úc … cũng đang nghiên-cứu học-thuyết Cao-Đài, gần đây có người đã sang tận đất nước Việt-nam xa xuôi nầy, thu-thập tư-liệu Cao-Đài để bảo-vệ luận-án của mình.

 

Về sự liên-hệ trên trường quốc-tế, thì từ khi khai Đạo đến nay, Cao-Đài giáo cũng đã được các tổ-chức và hiệp-hội Tôn-giáo mời tham-dự hầu hết các hội-nghị tôn-giáo thế-giới, và trên diễn-đàn của các hội-nghị này, đại-biểu Cao-Đài-giáo đã có dịp trình-bày tôn-chỉ, mục-đích cũng như giáo-lý của tôn-giáo mình và đã được cử-toạ nhiệt-liệt hoan-nghinh. Trong khi sinh-tiền của Đức Giáo-chủ Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc cũng đã chu-du các nước trên thế-giới như Pháp, Nhật, Hàn-quốc, Đài-loan và Cambodia … khi Đức Ngài đến nơi  nào, cũng được các Quốc-vương và Nguyên thủ Quốc-gia tôn-kính như quốc-khách  và tiếp đón nồng-hậu.

 

Tóm lại sự lập-giáo của Cao-Đài có những yếu-quyết căn-bản quan-trọng sau đây:

 

Về Thượng-Đế : Cao-Đài giáo cũng như nhiều Tôn-giáo khác đã tin-tưởng rằêng: Thượng-Đế chỉ có Một, là Đấng tự-hửu và hằng-hửu đã sáng-tạo ra vũ-trụ, thế gian và vạn-hửu chúng-sanh.

 

Về con người cũng như vạn-hửu chúng-sanh : Cao-Đài giáo đã tin rằng do Thượng-Đế tạo-dựng theo hình-ảnh và khuôn-linh của Ngài, Ngài đã ban cho chúng-sanh nhất là con người có quyền độc-lập trước Thượng-Đế, Thượng-Đế đã tạo-dựng nên con người là một hửu-thể tự-do, có toàn-quyền định-đoạt số-phận của mình và dìu-dắt thiên-lương của mình  để tiến-hoá, nếu ăn ở hiền-lương thì được thăng-tiến, ăn ở hung-dữ thì bị đọa-đày.

 

Đạo Cao-Đài khai-sáng có tôn-chỉ mục-đích rõ-ràng : nhắm xây-dựng bản-thân con người để tiến tới một xã-hội hoà-bình, tự-do và dân-chủ, nội-dung nầy đã được các Đấng Thiêng-liêng để trong hai câu liễng ghi trước cửa chánh-môn vào Đền-Thánh là :

“Cao thượng Chí Tôn Đại-Đạo Hoà-bình Dân-chủ mục,

Đài tiền sùng bái Tam-kỳ cọng hưởng tự do quyền”.

Đạo Cao-Đài còn chủ-trương nâng-cao dân-trí, giúp cho con người biết làm tròn thiên-chức của mình, nên Thánh-ngôn Cao-Đài có dạy:

“Nâng niu cho dân-trí lẫy-lừng,

Dân thì đáùng phận làm dân,

Chúa cho đáng chúa, Triều thần đáng quan”.

 (Trích “Nữ trung tùng phận”/Chơn-linh Đoàn-thị-Điểm giáng-cơ).

Về bổn-phận người công dân. Đạo  Cao-Đài cũng khuyên rằng:

Chớ làm con giặc tôi loàn,

Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà”.

 (Trích “Kinh Sám-hối”).

Nên trải qua gần non một thế-kỷ, các thế-hệ Cao-Đài đã chăm lo tu-hành, làm lành lánh dữ, sản-sinh nhiều bậc trí-thức con nhà Đạo, đã giúp ích cho Đời, cũng như những tín-hửu bình-thường đã tích-cực xây-dựng bản-thân, xây-dựng gia-đình, còn đóng góp công-sức trong công-cuộc xây-dựng tổ-quốc.

 

KẾT-LUẬN

 

Để kết-luận mấy giòng nầy chúng tôi xin mượn câu nói của Chương-Thái-Viêm một học-giả Trung-hoa đã than rằng: “đề cập đến Tôn-giáo chẳng khác nào đi vẽ vết chân chim đang bay trong không trung” bởi vì chân chim thì có thật đấy, nhưng vẽ lại cho người ta thấy thì thật là khó-khăn. Vậy ở đây, với ngôn-ngữ hửu-hạn của con người mà trình-bày một đạo-lý bao-la, thì chắc-chắn có lắm điều thiếu sót và không được rõ-ràng, vậy kính xin Quý bậc cao-minh cảm-thông lượng-thứ.

 

Nhân kỷ-niệm lần thứ 78 ngày hoằng khai Đại-Đạo, chúng ta thành-tâm cầu-nguyện Thầy Mẹ Thiêng-liêng ban hồng-ân cho toàn thế-giới loài người biết thương-yêu lẫn nhau, để con người thoát khỏi nạn đao-binh khói lửa, sớm chung sống với nhau trong hoà-bình, và cầu xin Ơn-Trên từ-bi quan-phòng phù-hộ cho thế hệ con em chúng ta,  vững-tâm nối gót đàn anh, phụng-sự đạo-pháp và chúng-sanh để Đại-Đạo được hoằng-khai khắp năm châu bốn bể.

 

Dã Trung Tữ

 
về trang chủ