PHẠM MÔN

(tiếp theo)

 

Họ và Tên

1 /. Ðinh văn Tiết
2/. Nguyễn tự Thế
3 /. Lại văn Sắc
4 /. Võ văn Ðợi tự Ðại
5 /. Võ văn Lẽo
6 /. Võ văn Dần
7 /. Nguyễn văn Linh
8/. Trần văn Như
9/. Bùi văn Nguyệt tự
10 /. Ðỗ văn Viện
11 /. Nguyễn văn Ráng
12/. Trịnh văn Phận
13 /. Nguyễn văn Sĩ tự Ðại
14 /. Lê văn Tri
15 /. Phan văn Ðức
16 /. Phạm công Ðằng
17 /. Trần văn Lợi
18/. Phạm văn Lê
19 /. Nguyễn văn Thông
20 /. Nguyễn văn Yên
21 /. Trịnh Phong Cương
22 /. Lê văn Gấm
23 /. Nguyễn văn Lư
24 /. Phạm văn Út
25 /. Trần văn Nhượng
26 /. Võ văn Chở
27 /. Ðặng văn Cận

Ðạo-Hiệu

Chí-Khiết
Xế-Thiền
Trường-Ðức
Linh-Ðoán
Trì-Hoán
Hậu-Hối
Huyền-Sinh
Tín-Thành
Nhựt-Diệu
Ðiền-Quân
Hiệp-Phố
Nhơn-Ái
Trạch-Thiện
Triết-Hóa
Thượng-Chiếu
Thượng-Ðạt
Chuyên-Ðại
Thừa-Hậu
n/a
Hướng-Nhàn
Trọng-Phương
Diệu-Âm
Quản-Lự
Lưu-Thiện
Tường-Thị
Trường-Tài
Viễn-Kiến

Phẩm-Tước

Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Giáo-Hữu Phái Thượng
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
n/a
n/a
Ðốc-Nhạc
Lễ-Sanh Giáo-Thiện

Trách-Nhiệm

Ðầu-Họ Phước-Thiện Gia-Ðịnh
Ðầu-Họ Phước-Thiện Châu-Ðốc
Ðầu-Họ Phước-Thiện Hà-Tiên
Ðầu-Họ Phước-Thiện Rạch-Giá
Ðầu-Họ Phước-Thiện Trà Vinh
Ðầu-Họ Phước-Thiện Sa-Ðéc
Ðầu-Họ Phước-Thiện Bến-Tre
Ðầu-Họ Phước-Thiện Long-Xuyên
Ðầu-Họ Phước-Thiện Tân-An
Ðầu-Họ Phước-Thiện Sóc-Trăng
Ðầu-Họ Phước-Thiện Thủ-Dầu-Một
Ðầu-Họ Phước-Thiện Tây-Ninh
Ðầu-Họ Phước-Thiện Biên-Hòa
Ðầu-Họ Phước-Thiện Mỹ-Tho
Ðầu-Họ Phước-Thiện Bà-Rịa
Ðầu-Họ Phước-Thiện Chợ- Lớn
Ðầu-Họ Phước-Thiện Vĩnh-Long
Ðầu-Họ Phước-Thiện Gò-Công
Ðầu-Họ Phước-Thiện Cần-Thơ
Ðầu-Họ Phước-Thiện Bạc-Liêu
Ðầu-Họ Hành-Chánh Bạc-Liêu
Sau thế Ô, Dần ở Sa-Ðéc
C.Q.T. Mc T.T. TòaThánh
Tài-Xế cho Ðức Thầy
Sau khi Cầu-Phong bệnh nặng
Chưởng-Quản Bộ-Nhạc
n/a

Nữ-Phái ( Ðầu-Họ Phước-Thiện Nữ )

Họ và Tên

1/. Trịnh thị Bền
2/. Lê thị Rổi
3 /. Võ thị Bông
4/. Võ thị Thoàn
5/. Ðinh thị Kiên
6 /. Lưu thị Sen
7 /. Trần thị Ơn
8 /. Ðinh thị Tiết
9 /. Nguyễn thị Gạo

Phẩm-Tước

Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện
Lễ-Sanh Giáo-Thiện

Trách-Nhiệm

Ðầu-Họ Phước-Thiện Nữ Bạc-Liêu
Ðầu-Họ Phước-Thiện Chợ-Lớn
Ðầu-Họ Phước-Thiện Rạch-Giá
Ðầu-Họ Phước-Thiện Mỹ-Tho
Ðầu-Họ Phước-Thiện Tân-An
Ðầu-Họ Phước-Thiện Tây-Ninh
Ðầu-Họ Phước-Thiện Vĩnh-Long
Ðầu-Họ Phước-Thiện Sa-Ðéc
Ðầu-Họ Phước-Thiện Gia-Ðịnh


Những Tỉnh không có Ðầu-Họ Nữ, thì Nam-Phái kiêm luôn.

Riêng phần Nữ-Phái, cũng có một số người kê dưới đây được Ðức Thầy cho mỗi người một Ðạo-Hiệu:

Họ và Tên

1/. Từ thị Kế
2/. Lê thị Lơi
3/. Ðinh thị Chén
4/. Phạm thị Hoành
5/. Lê thị Chín
6/. Trần thị Ơn
7/. Lưu thị Sen
8/. Lâm thị Nhiệp

Ðạo-Hiệu

Thừa-Thiện
Hồng-Huệ
Hàm-Ðức
Giáo-Thành
Thiền-Tín
Quang-Ái
Duy-Từ
Ngọc-Căn


Ðức Thầy mời Ngài Khai-Pháp Trần Duy Nghĩa trở về Hiệp-Thiên-Ðài lãnh trách-nhiệm Chưởng-Quản Phước-Thiện, vì Khai-Pháp đang làm Q. Ngọc Chánh Phối-Sư bên Cửu-Trùng-Ðài và đưa Ông Phối-Sư Ngọc-Trọng-Thanh làm Q. Ngọc Chánh Phối-Sư.

 

Khi cuộc bắt thăm, Anh Em Phạm-Môn mới Cầu-Phong mỗi người đi hành Ðạo một Tỉnh, trong Nam-Phần Việt-Nam. Ðức Thầy dạy những Anh nầy phải ở thường-trực tại Tòa-Thánh để học về cách-thức Hành-Chánh-Ðạo, nghi-lễ, ngoại-giao, đi lễ, nhứt là phải thuộc làu hết Kinh Thiên-Ðạo và Thế-Ðạo cùng giọng đọc kinh, mỗi đêm đều tụ đến Hộ-Pháp-Ðường để học, từ 6 giờ đến 10 giờ, bổn-thân Ðức Thầy chỉ dạy, Hộ-Pháp-Ðường thời nầy còn là nhà cột cây, lợp tranh, nền đất, ba căn y không có chái, nên không được rộng lắm, nên Anh Em tụ đến đông là có ý hơi chật.

 

Trước nhứt Ðức Thầy dạy các Anh đi lễ và học Kinh Thiên-Ðạo, Thế-Ðạo. Vì Tân-Kinh lúc đó các Ðấng mới cho nên chép lại bằng chữ viết, chớ chưa có in ra, và cũng chưa có máy đánh chữ. Mỗi người chép một bản Kinh để học thuộc lòng, khổ nhứt là những người không biết chữ, phải nhờ người khác đọc giùm, đặng đọc theo học thuộc lòng, người sáng dạ còn đở khổ, bằng tối dạ học tới ba hoặc bốn ngày cũng chưa thuộc bài nào. Hễ người nào không thuộc đương nhiên bị rầy.

 

Về đi lễ, mỗi hiệp đi 4 hoặc 6 người. Khởi đầu Ðức Thầy đi trước, các người nầy đi sau, đi lại đôi ba lần, thì Ðức Thầy đứng riêng ra ngoài xem hễ ai đi trật thì Ðức Thầy sửa lại, và tập mãi như vậy cho đến cả tuần-lễ mà có người vẫn còn trật, nhứt là lối đi lưỡng-nghi, tứ-tượng và bát-quái.

 

Thỉnh-thoảng Ðức Thầy dạy về tư-cách khi đến Quan-Viên, Nhân-Sĩ, các Tôn-Giáo bạn, nhà thờ chùa, miếu phải như thế nào ? Thậm chí đến cách lạy. Lạy theo mỗi Tôn-Giáo, lạy Ông Bà, Ðức Thầy đều dạy đủ chi-tiết mỗi cách lạy, Ðức Thầy cũng lạy trước, Anh Em tập lạy theo sau. Cách lạy thường sự, mà lạy khó nhứt là lạy Ông Bà theo cổ-lệ của Việt-Nam, có người lạy cả chục lần cũng chưa đúng như Ðức Thầy lạy để Anh Em xem mà tập theo.

 

Ðức Thầy nói : Qua vẫn biết mấy em, mấy con từ trước đến giờ chỉ lo về rung-rẫy nên nay phải học những việc nầy là lựng-khựng, nhưng nay mấy em đã lãnh trọng-trách trong cơ cứu-khổ là đi khai mở Cơ-Quan Phước-Thiện, làm đàn Anh của nhơn-sanh, dìu-dẫn nhơn-sanh trên con đường tạo công lập-vị nơi cãnh Thiêng-Liêng mà không học sao được, dầu có khó-khăn bao nhiêu cũng phải ráng học.

Ðặc-biệt về văn-kiện nhờ Ngài Khai-Pháp Hiệp-Thiên-Ðài Chưởng-Quản Phước-Thiện tận-tâm nghiên-cứu, lập thành hai mươi bốn (24) kiểu công-văn rồi in hệt ra cho mỗi vị Ðầu-Họ Phước-Thiện một bản. Về việc học-tập đã tạm xong, nên mấy Anh đã lãnh nhiệm-vụ đi hành Ðạo địa-phương xin phép đi làm mướn hoặc ai có thể mua bán chi tùy ý để kiếm tiền sắm áo mão Lễ-Sanh một b Ðại-Phục và một b Tiểu-Phục cùng quần áo thường dùng để đem theo, nhứt là áo Tiểu-Phục hai b mới được. Vì hồi đó, hễ ra khỏi nhà là mặc áo Tiểu-Phục, hơn nữa là tiền xe đi đến Tỉnh nhiệm của mình.

 

Ðến tháng 8 năm Ất-Hợi (1935), Ðức Thầy cho Ông Nguyễn văn Gia Thủ-Bổn Phạm-Môn hay đến ngày 18 tháng 8 Ất-Hợi ( 15/9/1935 ) sẽ làm Lễ Hồng-Thệ cho những vị Phạm-Môn chưa Hồng-thệ kỳ trước, Ông Thủ-Bổn Phạm-Môn liền gởi thơ các Sở hay, và đúng ngày đã định Anh Chị Em đều tựu về nhà sau tại Hộ-Pháp-Ðường ( chỗ Tịch-Tâm-Hiên ), chỗ Bà Phối-Sư Hương-Tranh ở hiện nay, nhưng hồi đó nhà cột cây lợp tranh.

 

Việc Hồng-Thệ ( Ðào-Viên-Pháp ) kỳ nầy cũng thi-hành y như kỳ mồng 3 tháng Giêng Nhâm-Thân ( 1932 ) và kỳ nầy kết-quả được 52 Nam và 27 Nữ.

Những người Hồng-Thệ ngày 18 tháng 8 Ất-Hợi ( 15/9/1935 ) danh-sách như dưới đây:

 

Họ và Tên

1- Võ văn Sáng
2 - Nguyễn văn Hưng
3 - Trần văn Ðịnh
4 - Văn Tấn Bảo
5 - Lê Phước Ðặng
6 - Lê văn Khả
7 - Trịnh văn Tiết
8- Võ văn Ðành
9 - Lê văn Quốc
10 - Trịnh văn Hưu
11 - Lê văn Tuấn tự Tân
12 - Trần văn Rỡ
13 - Trịnh văn Bân
14 - Nguyễn văn Bồng
15 - Lê văn Gàn
16 - Huỳnh văn Ngữ
17 - Trần văn Ân
18 - Ðặng văn Khê
19 - Trần văn Thạnh
20 - Cao văn Thành
21 - Nguyễn văn Niên
22 - Huỳnh văn Hiếu
23 - Lâm văn Nhân
24 - Lâm văn Ðứa
25 - Nguyễn văn Gia
26- Hà Minh Lý
27 - Cao văn Thọ
28 - Trương Công Thắng
29 - Phạm văn Hường
30 - Nguyễn văn Thìn
31 - Võ văn Chí
32 - Nguyễn văn Quận
33 - Trần văn Dậu
34 - Dương văn Thai
35 - Ðào văn Mê
36 - Trà văn Phiên
37 - Lê văn Hay
38 - Nguyễn văn Biếu
39 - Nguyễn văn Tư
40 - Cao văn Giai
41 - Lê văn Lưu
42 - Nguyễn văn Mòi
43 - Lê văn Giáp
44 - Võ văn Dần
45 - Phan văn Ðức
46 - Phạm văn Liềng
47 - Phạm văn Sậy
48 - Trần Duy Nghĩa - Khai-Pháp HTÐ
49 - Trần Quang Thế - Tiếp-Lễ NhạcQuân
50 - Thượng-Trí-Thanh - Phối-Sư
51 - Thái-Gấm-Thanh - Giáo-Sư
52 - Trang văn Giáo - Tả-Phan-Quân


Nữ-Phái - Họ và Tên

1 - Ngô thị Giềng
2 - Lê thị Hàm
3 - Lê thị Hơn
4 - Phan thị Tư
5 - Nguyễn thị Ninh
6 - Ðinh thị Chén
7 - Từ thị Kế
8 - Lý thị Yếu
9 - Lê thị Ngơi
10 - Ðỗ thị Chắc
11 - Huỳnh thị Khoa
12 - Võ thị Thoàn
13 - Lâm thị Mèn
14 - Tô thị Bằng
15 - Võ thị Thêu
16 - Lê thị Lơi
17 - Phạm thị Hoảnh
18 - Lê thị Nừng
19 - Lê thị Chinh
20 - Trần thị Ơn
21 - Lưu thị Sen
22 - Trịnh thị Giống
23 - Văn kim Giai
24 - Trần thị Nữ
25 - Lý thị Gần
26 - Lâm thị Nhiệp

Cẩm-Giang
Gia-Lộc
Long-Cang
Lương-Hòa- Lạc
Long-Cang
Gia-Lộc
Gia-Bình
Thạnh-Phước
Thái-Mỹ
Gia-Bình
Gia-Bình
Thái-Mỹ
Gia-Bình
Gia-Bình
Gia-Lộc
Gia-Bình
Long-Hiệp
Gia-Lộc
Long-Hiệp
Hiệp-Ninh
Long-Cang
Gia-Lộc
Thạnh-Phước
Thạnh-Phước
Long-Cang
Long-Thành
Hiệp-Ninh
Bình-Chánh
Bình-Nhựt
Thạnh-Ðức
n/a
Bình-Chánh
Tân-Bữu
Gia-Bình
Tân-Lập
Thạnh-Ðức
Mỹ-Lạc-Thanh
Gia-Lộc
Thạnh-Phước
Hưng-Mỹ
Gia-Bình
n/a
Long-Thành
Thanh-Mỹ
n/a
Thạnh-Phú
Thạnh-Phú
n/a
n/a
n/a
n/a
n/a


Gia-Lộc
Long-Thành
Long-Thành
Trường-Hòa
n/a
Gia-Bình
Gia-Lộc
Long-Thành
Gia-Lộc
Long-Thành
Bình-Nhựt
Gia-Lộc
Gia-Lộc
Lộc-Hưng
Lộc-Hưng
Gia-Lộc
Gia-Lộc
n/a
Bình-Nhựt
Trường-Hòa
Bình-Nhựt
Gia-Lộc
Trường-Hòa
Long-Thành
Long-Thành
Long-Thành

Quận

Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
n/a
Châu-Thành
n/a
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Hốc-Môn
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Hốc-Môn
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
n/a
Trảng-Bàng
n/a
Châu-Thành
n/a
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
n/a
Châu-Thành
Châu-Thành
n/a
n/a
Trảng-Bàng
n/a
n/a
n/a
Trảng-Bàng
n/a
Trảng-Bàng
n/a
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Châu-Thành
Trảng-Bàng
Mộc Hóa
Châu-Thành
n/a
n/a
Cai-Lậy
Cai-Lậy
Tòa-Thánh
Tòa-Thánh
Tòa-Thánh
Tòa-Thánh
Tòa-Thánh


Quận

Trảng-Bàng
Châu-Thành
Châu-Thành
Trảng-Bàng
Mộc Hóa
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Châu-Thành
Trảng-Bàng
Châu-Thành
Thủ-Thừa
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
n/a
Thủ-Thừa
Trảng-Bàng
Thủ-Thừa
Trảng-Bàng
Trảng-Bàng
Châu-Thành
Châu-Thành
Châu-Thành

Tỉnh

Tây-Ninh
Tây-Ninh
Chợ-Lớn
Mỹ-Tho
Chợ-Lớn
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Gia-Ðịnh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Gia-Ðịnh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Chợ-Lớn
Tây-Ninh
Chợ-Lớn
Tây-Ninh
Chợ-Lớn
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Chợ-Lớn
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tân-An
Tân-An
Tây-Ninh
Gia-Ðịnh
Tân-An
Chợ-Lớn
Tây-Ninh
Chợ-Lớn
Tây-Ninh
Tân-An
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Trà-Vinh
Tây-Ninh
Tân-An
Tây-Ninh
Trà-Vinh
n/a
Mỹ-Tho
Mỹ-Tho
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh


Tỉnh

Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tân-An
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tân-An
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Nam-Vang
Tân-An
Tây-Ninh
Tân-An
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh
Tây-Ninh


Bước qua đầu tháng 9 Ất-Hợi ( 1935 ) Ðức Thầy cho hay, người nào có lãnh-lịnh đi hành Ðạo hãy sắp đặt đặng sáng 12-9-Ất-Hợi là đi.

 

Ðến ngày 11-9-Ất-Hợi ( 1935 ), mấy Anh Em được lịnh bổ đi hành Ðạo đều tựu đến Hiệp-Thiên-Ðài đặng sáng ngày 12 lên xe đi. Hơn nữa, một số đông Anh Chị Em Phạm-Môn mặc dầu không có lịnh bổ đi hành-Ðạo trong kỳ nầy, cũng tựu về đây để đưa thân-hữu của mình đi tha-phương hành Ðạo. Vì thế nên cuộc tiễn đưa nầy rất đông.

 

Lối 4 giờ sáng ngày 12-9-Ất-Hợi ( 9-10-1935 ), mấy Chị dọn cơm lên xong hết vì đã nấu sẵn từ khuya, cả Anh Em ăn cơm xong rồi, vào 6 giờ sáng Anh Em đồng kéo nhau vô Hộ-Pháp-Ðường làm lễ từ-giả Ðức Thầy, rồi đến Ðền Thánh cầu nguyện và căn-dặn lần chót. Ðức Thầy nói: Nay mấy Em đi hành Ðạo, Thầy không có món gì để tặng, vậy Thầy tặng chung cho mấy Em một bài thi để hằng tâm kỷ-niệm.

      " Buồn chưa đạt được phép thần-thông,
      Dụng thế phân thân hiệp đại-đồng.
      Ước tóm địa-cầu làm một cửa,
      Mong gom thiên-hạ lại đồng tông.
      Ðưa gương diệu-lý dìu Âu-chủng,
      Cầm kiếng Thiêng-Liêng chiếu Á-đông.
      Bước tục từng quen nơi cửa Ðạo,
      Ðường văn gặp bạn cũng vui lòng.

Khi tiễn ra xe, vì xe đã dặn trước nên đến đậu tại cửa số 1 Nội-Ô Tòa-Thánh ( Cửa Hòa-Viện ), Ðức Thầy dặn thêm : " Mấy Em khi tới địa-phương hễ gặp chùa Phật, nhà Thờ, hoặc Ðình Thần nơi các Xã, thì xin phép người ở đó vào làm Lễ ra mắt với các Ðấng ấy, và vừa rồi có lịnh của Hội-Thánh mới ban cho các địa-phương, hễ có Chức-Sắc đến, khi vào đãnh Lễ Ðức Chí-Tôn thì phải tiếp rước có chuông trống tùy theo phẩm-tước, nhưng mấy Em bên Phước-Thiện nên khước-từ điều ấy.

 

Lúc từ-giả lên xe, Ðức Thầy và cả Anh Em Phạm-Môn lớn nhỏ đều đổ lẽ bịn-rịn với nhau, nên mãi đến 8 giở xe mới bắt đầu lăn bánh. Khi xe xuống tới Gò-Dầu thuộc xã Thanh-Phước là quê-hương của Ông Phạm-Công-Ðằng, Anh Em nơi đó đón xe ngừng lại để tiển đưa một lần nữa. Vì sự tiển đưa và bịn-rịn như vậy, gần 12 giờ trưa xe mới tới Chợ-Lớn. Anh Em đều vào Thánh-Thất Chợ-Lớn nghỉ và dùng cơm trưa tại đây, vì Hội-Thánh đã cho hay trước nên vụ cơm nước đã chuẩn-bị sẳn sàng. Dùng cơm xong liền kéo nhau ra bến xe Lục Tỉnh kiếm xe đi về Tỉnh của mình đắc-lịnh bổ-nhiệm.. Ðặc-biệt là Ðạo Nghị-Ðịnh Thuyên-Bổ Ðầu-Họ Phước-Thiện kỳ nầy do Ngọc Chánh Phối-Sư và Ngài Khai-Pháp Hiệp-Thiên-Ðài Chưởng-Quản Phước-Thiện đồng ký tên và Ðức Hộ-Pháp phê-chuẩn.

Những vị Ðầu-Họ Phước-Thiện buổi đầu tiên khi đến địa-phương đều ở tại các Thánh-Thất chung với Ðầu-Họ Hành-Chánh-Ðạo, nhưng việc ai nấy lo, nếu gặp việc cần đều chung lo giúp-đỡ lẫn nhau.

- Ðầu-Họ-Ðạo Hành-Chánh lo phổ-độ nhơn sanh.
- Ðầu-Họ Phước-Thiện lo cho người Hiến-Thân vào Phước-Thiện khai mở Cơ-Sở Lương-Ðiền, Công-Nghệ và Thương-Mãi.

Về việc Ðạo-sự lúc nầy tiến-triển rất khả quan, nhứt là việc người Hiến-Thân vào Phước-Thiện và vụ khai mở Sở Lương-Ðiền.

Ðến ngày 27 tháng Chạp Ất-Hợi (1935), các vị Ðầu-Họ Phước-Thiện tiếp được điện-tín của Ngài Khai-Pháp Chưởng-Quản Phước-Thiện cho phép về ăn Tết, mỗi người được về thăm gia-đình đến ngày 8 tháng Giêng Bính-Tý (1936), phải có mặt tại Tòa-Thánh để cúng Vía Ðức Chí-Tôn và đãi-lịnh Hội-Thánh.

Qua ngày mùng 9, Ðức Thầy cho kêu hết những vị Ðầu-Họ Phước-Thiện họp đủ mặt tại Hộ-Pháp Ðường, Ðức Thầy ban cho mỗi vị bốn phép Bí-Tích là :

    1/. Phép Giải-Oan
    2/. Phép Tắm-Thánh
    3/. Phép Ðoạn-Căn ( Hành-Pháp xác )
    4/. Phép Hôn-Phối

Ðức Thầy trục Thần, khai khiếu, truyền Ðạo, cách thức hành-pháp cho từ người, Ðức Thầy lại ban cho mỗi vị một cây bạch-đăng ( đèn cầy trắng ) và dặn khi nào gặp việc khó-khăn không giải-quyết được, đợi lúc 12 giờ khuya để lên đốt cây đèn cầy nầy, và thành tâm cầu-nguyện thì Thầy sẽ giúp cho.

 

Khi các việc xong, Ðức Thầy dặn, cúng Lễ Rằm tháng Giêng rồi trở xuống Ðịa-phương lo phận-sự của mình. Còn về bảng chỉ-dẫn Hành-Pháp, Thầy sẽ gởi xuống sau. Việc Hành-Pháp nầy phải ráng tập luyện, khi nhận thấy được, sẽ thực-hành, và khi Hành-Pháp, sự kết-quả như thế nào, nhớ Phúc-Trình về cho Thầy biết .

 

Nhờ Ðức Thầy truyền Thần, khai khiếu và truyền Pháp, nên việc Hành-Pháp rất kết-quả khả-quan nhứt là Phép Giải-Oan và Giải Bệnh. Sự hiệu-lực thấy hiển-hiện trước mắt, nên mỗi kỳ Ðàn, Bổn-Ðạo tụ đến cúng rất đông để được Giải-Oan luôn thể.

 

Về việc huyền-diệu hiển-hiện trong sự Giải-Oan, Giải Bịnh, xin đơn cử đôi việc như sau:

Hồi năm Bính-Tý (1936), Ông Lễ-Sanh Võ văn Dần, Ðạo-Hiệu là Hậu-Hối, được lịnh đổi về trách nhiệm Ðầu-Họ Phước-Thiện Tỉnh Hà-Tiên, nơi đây có người Ðạo Cao-Ðài rất ít, nên người Hiến-Thân vào Phước-Thiện lại càng ít hơn các Tỉnh khác, chỉ tạo đc nhứt một nhà Sở Phước-Thiện, còn Ðạo-Sờ nơi nhà Sở Phước-Thiện nầy chỉ có 2 người mà cả hai người đều quá nghèo, hàng ngày phải đi làm củi mướn để mua gạo cho vợ con sống qua ngày. Chính Ông Ðầu-Họ buổi đầu cũng phải đi làm mướn để kiếm tiền mua gạo, tự sống chớ không ai cung-cấp hết.

 

Một hôm nọ, Sở làm củi cho hay bắt đầu từ ngày mai ngưng hoạt-đông. Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện Giáo-Thiện Võ văn Dần kiểm-điểm lại số gạo chỉ còn dùng đôi ba ngày, nên Ông mượn chiếc ghe nhỏ của người Bổn-Ðạo ở gần nhà Sở Phước-Thiện, rồi tự chèo đi xuống Quận Giồng Riềng thuộc Tỉnh Rạch-Giá, trước là thăm Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện tại đây là Ông Giáo-Thiện Võ văn Ðại. Khi ghe đến Thánh-Thất Giồng Riềng, là chỗ Ông Ðầu-Tộc-Ðạo Hành-Chánh Lễ-Sanh Thượng Vinh Thanh, đồng Văn-phòng. Vừa bước lên bờ, chưa kịp vô nhà thì có tiếng la ồn lên rằng: " Nó đến đó, nó xách cái phảng rượt chém người ta đó ". Ông Giáo-Thiện Dần nghe tiếng la, liền ngó lên phía trước thấy một người đàn ông độ 30-35 tuổi, tay xách cái phảng đang rượt theo một người. Ông Ðầu-Tộc-Ðạo tại đây- Lễ-Sanh Thượng-Vinh-Thanh - trong nhà hậu Thánh-Thất chạy ra, vừa thấy Ông Giáo-Thiện Dần thì mừng liền nói lớn : " May quá, có Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện đây. Vậy nhờ Anh lớn giải-bịnh giùm cho thằng nầy, nó điên dữ quá! Tôi có giải-bịnh cho nó mà không biết, bị nó giựt đứt vải áo của tôi ".

 

Ông Dần nói : " Hết gạo mấy bửa nay, nhịn đói muốn chết, nên đến mấy Anh xin ít gạo lúa, chớ ai biết giải-bịnh gì đâu ?"

Ông Ðầu-Tộc Vinh: " Anh giúp giùm vụ nầy đi, rồi muốn mấy gịa cũng có ", và kéo tay Ông Ðầu-Họ Dần đi. Kế người điên chạy tới.

Ông Dần đứng ngay thẳng lại, tay chỉ ngay mặt người điên hô lớn : " Ðứng lại !".
Người điên liền đứng khựng, mặt có vẽ sợ hải.
Ông Dần:
- Bỏ cái phảng xuống đất.
Người bịnh điên buông nhẹ cái phảng xuống đất.
Ông Dần đưa tay ngoắt và nói:
- Ði lại đây.
Người bịnh điên vẩn đứng yên, và ngó qua phía khác, như có ý muốn chạy.
Ông Dần: -Sau không lại đây? Còn muốn chạy trở lại hả? Chư Thần trói nó lại giùm tôi.
Người điên tự tréo tay qua, như người bị trói.
Ông Dần:
- Chư Thần lôi nó lại đây cho tôi.
Người bịnh điên tự đi ngay lại chỗ Ông Dần.
Ông Ðầu-Họ Dần:
- Ông Ðầu-Tộc vô Thánh-Thất biểu Lễ-Vụ sắp đặt nhang đèn đặng tôi giải-bịnh cho người nầy.
Rồi day lại ngó ngay người bịnh điên và nói:
- Chư Thần dắt nó theo tôi vô Thánh-Thất.

Khi vô đến Thánh-Thất, Ông Ðầu-Họ Dần lấy áo mão Lễ-Sanh mặc vào và lấy 9 cây nhang bó lại đốt cháy, rồi đem trước Thiên-Bàn làm Lễ và thỉnh Pháp xong, day lại biểu người bịnh quỳ xuống, khi Ông Ðầu-Họ vừa họa-phù xong là người bịnh té nằm dài bất tỉnh, không còn cựa quậy chi hết, những người hiện-diện tại đây đều kinh sợ, e rằng rủi chết luôn sẽ bị ở tù cả đám.

Ông Ðầu-Họ nói:
-Không sao đâu, tôi truyền Thần là nó tỉnh lại.
Qua một lúc, Ông Ðầu-Họ liền đến truyền Thần cho người bịnh.
Người bịnh lần-lần tỉnh lại và ngồi dậy ngó dớn-dác có vẻ hoảng-hốt.
Ông Ðầu-Họ:
-Ai nhập vào xác đây?
Người bịnh:
- Tôi là............................( Quên tên )
Ông Ðầu-Họ:
- Tại sao thời kỳ Ðức Chí-Tôn ân-xá khai Ðạo để độ các bậc Chơn-Hồn tu-hành lập-công bồi-đức, hầu được siêu-thoát mà nhà ngươi không lo tu-hành lại đi phá thiên-hạ vậy?
Người bịnh:
- Tôi cũng muốn tu mà không làm sao tu được.
Ông Ðầu-Họ:
- Bây giờ người chịu nhập-mơn vào Ðạo làm Môn-đệ của Ðức Chí-Tôn không?
Người bịnh tỏ vẽ hân-hoan nói:
- Nếu Ông cho tôi nhập-môn, tôi đi ơn Ông lắm!
Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện liền kêu Ông Chành-Trị-Sự đến đặng cho người nầy
Nhập-Môn, cũng may là Ông Chánh-Trị-Sự ở gần đây nên đến liền và cho vị nầy Nhập-Môn. Khi biên Sớ Cầu-Ðạo, xong rồi đọc cho nghe.
Ông Ðầu-Họ:
-Tôi có ý-kiến là Ông Chánh-Trị-Sự nên cử vị Ðạo-Hữu mới nầy làm chức Tuần-Ðạo để có phận-sự lập công với Ðạo. Ông Chánh-Trị-Sự và Ông Ðầu-Tộc đều đồng-ý, nên viết Tờ-Cử liền, ký tên đóng dấu xong, liền đọc cho Ông Ðạo mới nghe, và hỏi Ðạo-Hữu bằng lòng hay không ? Vị nầy tỏ vẽ rất mừng và cám-ơn các Ông nầy đồng thời xin phép kiếu lui. Từ nay người nầy hết bịnh luôn.

 

Luôn dịp xin kể tiếp một chuyện huyền-diệu nữa là vụ xãy ra tại .........Vĩnh-Long.
Nguyên Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện đầu tiên tại Vĩnh-Long là Ông Lễ-Sanh Giáo-Thiện Trần văn Lợi, năm Bính-Tý (1936), được một số anh em Hiến-Thân vào Phước-Thiện, nhưng không có cây để tạo nhà Sở Phước-Thiện. Có người hướng-dẫn đến Ông Chủ Ðiền để xin cây vườn của Ông.

Ông Chủ Ðiền nói:

- Cây trong vườn của tôi hết cây lớn. Hiện còn một cây rất to và suông tốt lắm ở dựa mé sông. Nếu Ông đốn được thì tôi cho.
Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện Vĩnh-Long:
- Nếu Ông Chủ Ðiền vui lòng cho thì tôi đốn được.

Ông Chủ Ðiền bằng lòng và dắt Ông Ðầu-Họ ra chỉ cây. Người Ðạo-Sở cùng đi với Ông Ðầu-Họ thừa dịp Ông Chủ Ðiền cách xa liền nói nhỏ với Ông Ðầu-Họ rằng: " Cây nầy có Ông Bà khuất mặt ở đây linh lắm, không ai dám đến đây chặt cây quơ củi chi hết. Nếu ai đng đến đây thì nhứt đầu, đau bụng hoặc ói mữa, hay nóng sảng chẳng hạn; phải cúng gà, vịt, có người phải cúng tới heo mới mạnh ".
Ông Ðầu-Họ nói: " Mình làm nhà Sở Phước-Thiện, tức là của Ðạo, chớ phải làm riêng cho mình đâu mà sợ. Hễ Ông Chủ Ðiền cho thì tôi đốn được chớ không sao đâu" . Ðồng thời Ông Ðầu-Họ đến bên cây mà Ông Chủ Ðiền vừa chỉ cho, đứng thẳng người ngó ngay vô thân cây và ngọn cây và nói rằng: " Tôi xin thưa cho Ông Bà vị nào ở nơi cây Ðại-Thọ nầy hay, xin quí Ông Bà dời đến nơi khác ở, vì Ông Bà kiếm nơi khác rất dễ. Còn tôi đang cần tạo nhà Sở Lương-Ðiền Phước-Thiện để cho nhơn-sanh có phương lập công bồi đức, và cũng để làm ra lúa gạo đem về Tòa-Thánh Tây-Ninh cho nhơn công tạo-tác Tổ-Ðình dùng. Vì Phước-Thiện mới phôi thai, nên không có tiền mua cây, nay nhờ Ông Chủ Ðiền hứa cho tôi cây nầy để làm nhà Sở Phước-Thiện và tôi định ngày mai tôi đến đốn cây nầy, xin Ông Bà nào ở nơi cây nầy linh-thiêng chứng-giám chấp-thuận cho ". Khấn xong Ông Ðầu-Họ cho Ông Chủ Ðiền hay, ngày mai lên đốn cây và kiếu ra về.

 

Qua ngày sau, Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện mượn một chiếc ghe với 4 người Ðạo-Sở Phước- Thiện đem theo rìu búa, cưa, đòn gát. Khi đến, Ông Ðầu-Họ vô nhà cho Ông Chủ Ðiền hay, rồi trở ra tại gốc cây sắp đốn, ngó ngay lên ngọn cây cũng nói y như hôm qua, rồi bổn-thân Ông Ðầu-Họ cầm rìu đốn một hơi, rồi trao lại cho Anh Em tiếp-tục đốn cho đến ngã, rồi dứt ra làm hai, tùy theo việc cần dùng và lăn xuống xong, khiêng vô ghe, khi làm xong mặt trời cũng vừa lặn khuất. Anh Em bắt đầu chống ghe ra vừa đến giữa sông, bỗng có một ánh lửa sáng như đèn pin lớn xẹt tới rồi cứ đão qua quanh lại vòng theo chiếc ghe đang chở cây, khiến Anh Em trên chiếc ghe rất hoảng-kinh lo ngại nên nói: " Thưa Ông Ðầu-Họ, chắc Ông Bà không cho mình đi nên giáng-hạ theo mình đó."


Ông Ðầu-Họ nói: " Mấy Anh Em cứ việc chèo ghe đi, có tôi đây không sao. Nói rồi Ông Ðầu-Họ ngước mặt ngó lên ánh lửa sáng và nói: " Ông Bà nào giáng xuống đó, xin nghe tôi nói đây: Tôi là Giáo-Thiện Trần văn Lợi, vâng-lệnh Thầy tôi là Ðức Hộ-Pháp, và Hội-Thánh Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ Tòa-Thánh Tây-Ninh thuyên-bổ tôi xuống đây làm trách-nhiệm Ðầu-Họ Phước-Thiện tỉnh Vĩnh-Long để khai mở Cơ-Sở Phuớc-Thiện, nhưng vì mới phôi-thai, Ðạo quá nghèo không có tiền mua cây cất nhà Sở, nên phải xin cây nầy của Ông Chủ Ðiền đem về dùng làm nhà Sở, và tôi cũng đã thưa với Ông Bà ngày hôm qua rồi, sao Ông Bà hôm nay lại còn theo hoài như vậy. Nói rồi hối Anh Em dưới ghe chèo đi mặc dầu ánh lửa sáng không còn bay đến trước đầu ghe và cập sát hai bên ghe, nhưng vẫn bay theo ghe, ánh lửa sáng không lúc nào dứt, có lúc lại sáng rực lên như đèn, rọi sáng cả hai bên mé sông, làm cho những người có nhà dọc theo bờ sông cả thảy đều kinh ngạc, sợ không hiểu là ứng-hiệu gì ?

Những hiện-tượng ánh sáng nầy vẫn theo ghe mãi như vậy, đến lối trên hai ngàn thước mới thôi.

Cách lối tuần-lễ sau ngày đốn cây hôm nọ, có người ở gần nhà Ông Chủ Ðiền đến cho Ông Ðầu-Họ hay, là từ ngày Ông đốn cây đó đến nay, những người đến đó chặt mót nhánh đem về làm củi đều bị Ông Bà quở, đều bị bịnh hết, đã nguyện vái lạy xin hết sức mà cũng không hết, nên nhờ Ông Ðầu-Họ có phương chi giúp giùm kẽo họ chết vì bị hành dữ lắm !

 

Ông Ðầu-Họ nói: Ngày mai tôi lên và liền ngày sau Ông Ðầu-Họ Vĩnh-Long cùng đi với một vị Ðạo-sở đến tận nhà Ông Chủ Ðiền cho cây hôm trước, và nhờ Ông Chủ Ðiền cho người nhà của mấy người bịnh hay giùm, nói với họ đến đây, như người nào bịnh nhiều đi không được, thì người thân trong nhà đi thế. Khi tụ đến đầy-đủ, Ông Ðầu-Họ nói tại Anh Em lấy củi mà không có xin và tôi cũng chưa hứa cho nên Ông Bà mới quở. Vậy hãy đem hết số củi đã lấy tại hôm nọ đến đây rồi tôi giúp cho là yên chớ không sao đâu.

 

Khi Anh Chị Em đã đem đủ số củi lấy nơi đây hôm nọ, của ai nấy để riêng đó. Ông Ðầu-Họ bước ra sân ngó ngay về phía ci cây đốn hôm trước nói rằng : Thưa Ông Bà ở chỗ cây đaị-thọ, vừa rồi Ông Chủ điền đã cho tôi trọn cây nầy, và Ông Bà đã cho tôi đem về làm nhà Sở Phước-Thiện, còn cái tàng cây, luôn cả nhánh lớn nhỏ. xin Ông Bà cũng cho luôn Anh Em lối xóm đây đem về nấu cơm ăn chớ Ông Bà để lại cũng không dùng việc chi được. Tiếp theo mỗi người có phần củi bước đến hỏi xin và Ông Ðầu-Họ đồng-ý cho, thế là những người bịnh vì tại lấy củi nơi đây đều hết bịnh.

 

Vì những huyền-diệu các Ðấng Thiêng-Liêng ban-bố hộ trì nên Bổn-Ðạo hiến-thân vào Phước-Thiện tấp-nập, và đồng thời các tỉnh khác trong miền Nam Việt-Nam cũng tương -tợ như vậy, nghĩa là cũng nhờ huyền-diệu việc Giải-Oan, Giải-Bịnh của các Ông Ðầu-Họ Phước-Thiện mà người Hiến-Thân vào Phước-Thiện như lượn sóng tràn bờ.

 

Cũng trong năm Bính-Tý (1936), có lịnh của Ngài Khai-Pháp Chưởng-Quản Phước-Thiện dạy các vị Ðầu-Họ Phước-Thiện chọn người đã hiến-thân trọn đời vào Phước-Thiện đưa vào Tòa-Thánh đặng nhập vào công thợ tạo-tác Tổ-Ðình lối bốn trăm (400) người, kể cả Nam lẫn Nữ. Ðức Thầy dạy, nếu ai bằng lòng hy-sinh làm Tổ-Ðình phải Minh-Thệ thủ-trinh trong thời gian tạo-tác Tòa-Thánh, khi làm xong mới lập gia-đình, dầu Nam hay Nữ cũng phải như vậy.

 

Ðến ngày mùng 1 tháng 11 năm Bính-Tý (14/12/1936), khởi công tạo-tác Tòa-Thánh. Các Họ-Ðạo Phước-Thiện trong miền Nam Việt-Nam đều tổ-chức Sở Lương-Ðiền để sản-xuất lương-thực cần dùng nơi Cơ-Sở và giúp-đở cho những người bịnh tật, khốn-khổ tai nàn và dành ra một phần đặc-biệt đem về Tòa-Thánh, cho công thợ tạo-tác Tổ-Ðình dùng hằng ngày nơi Trại-Ðường, kể cả thợ hồ, thợ mc, thợ cưa, thợ sắt, Sở đắp vẽ, Sở lò gạch, Sở đào đá v.v...

 

Về ngân-quỷ tạo-tác do Hộ-Viện là Ông Giáo-Sư Thượng-Chất-Thanh giữ, Chức-Sắc các địa-phương dầu Hành-Chánh hay Phước-Thiện cũng đăng nơi Hộ-Viện nầy. Nhưng về các Ðầu-Họ Phước-Thiện, sau khi Ngài Khai-Pháp Chưởng-Quản Phưóc-Thiện duyệt chứng xong mới đem qua đăng cho Hộ-Viện. Còn về Lương-Thực thì đầu Hành-Chánh hay Phước-Thiện đều đăng cho Thủ-Bổn Phạm-Môn và Phước-Thiện do Ông Lễ-Sanh Giáo-Thiện Nguyễn văn Gia đảm-trách.

 

Phước-Thiện chịu trách-nhiệm gồm luôn cả về hành-lý cho Chức-Sắc các Ðịa-phương và Quan, Hôn, Tang, Tế. Dầu cho Chức-Sắc, Chức-Việc và Ðạo-Hữu Hành-Chánh hay Phước-Thiện thì Phước-Thiện cũng phải đài-thọ tất cả, hơn nữa, về Chức-Sắc hay Bổn-Ðạo có bịnh hoạn tổn phí về thuốc men thì Phước-Thiện phải hoàn-toàn chịu hết. Vì thế nên từ đó tại Tỉnh thành Tây-Ninh có Thầy Chín Khai ( Ðỗ Tâm Khai ) là Ðông-Y-Sĩ nổi tiếng giỏi nhứt, nên đa số bịnh nhân đều uống thuốc nơi đây, lúc trước, phần Chức-Sắc và công thợ có bịnh hốt thuốc tại đây đều do Ông Thủ-Bổn Giáo-Thiện Nguyễn văn Gia trả tiền. Ðến sau thấy bận-rộn quá mất thì giờ, nên Ông Thủ-Bổn nói với Thầy Chín Khai rằng: Hễ những người ở trong Tòa-Thánh ra hốt thuốc mà có thơ giới-thiệu của tôi thì Thầy biểu mấy em ghi Sổ để đó, cứ cuối tháng tôi ra tính tiền trả một lần.

 

Về việc tạo-tác Ðền-Thánh, vá cả mọi việc về Ðạo-sự mãi tiến như vậy cho đến năm Mậu-Dần (1938) có cuộc Ðại-Hội Nhơn-Sanh Phước-Thiện mới được chính-thức khai-sanh, do Ðạo Nghị-Ðịnh số 48 ngày 19 tháng 10 năm Mậu-Dần ( Dl. 10/12/1938 ), tức là Quyền Vạn-Linh công-nhận, Ðạo Nghị-Ðịnh nầy do Ðức Hộ-Pháp và Ðức Giáo-Tông Lý Thái Bạch đồng ký tên.

Nguyên văn Ðạo Nghị-Ðịnh như sau:


Văn-Phòng Hộ-Pháp
Số: 48/PT

Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ
( Thập Tam Niên )
Tòa-Thánh Tây-Ninh

 

Ðạo Nghị - Ðịnh

Chiếu y Pháp-Chánh-Truyền ban quyền-hành cho Giáo-Tông và Hộ-Pháp.
Chiếu theo Ðạo Nghị-Ðịnh số: 4/60 phân-định quyền cho Cửu-Trùng-Ðài và Hiệp-Thiên-Ðài ngày 4 tháng 11 Ất-Hợi (29/11/1935).

Nghỉ vì Hội-Thánh duy có một mà quyền Ðạo có bốn phương là:

      - Hành-Chánh.
      - Tòa-Ðạo.
      - Phước-Thiện.
      - Phổ-Tế.

Nghỉ vì Cơ-Quan Phước-Thiện cốt để mở đường Thánh-Ðức cho toàn sanh-chúng có đủ phương-thế nhập vào Thánh-Thể, người Ngoại-Giáo có thể nhờ nơi cửa Phước-Thiện mà hiệp cùng Hội-Thánh.

 

Nên:

Nghị-Ðịnh

Ðiều Thứ Nhứt: Hội-Thánh sẽ tuyển chọn trong hàng Chức-Sắc Thiên-Phong đủ hạnh-đức, đủ công-nghiệp đặng chiết ra khai-hóa, giáo-hóa cả Cơ-Quan Phước-Thiện, đặng cứu thế độ đời.

Ðiều Thứ Hai: Chức-Sắc Phước-Thiện chú trọng nhập vào Thập-Nhị Ðẵng Cấp Thiêng-Liêng kê 12 sau đây:

      1/. Minh-Ðức
      2/. Tân-Dân
      3/. Thính-Thiện
      4/. Hành-Thiện
      5/. Giáo-Thiện
      6/. Chí-Thiện
      7/. Ðạo-Nhơn
      8/. Chơn-Nhơn
      9/. Hiền-Nhơn
      10/. Thánh-Nhơn
      11/. Tiên-Tử
      12/. Phật-Tử

Ðiều Thứ Ba: Những người Ngoại-Giáo hay Chư-vị Ðạo-Nhơn các nền Tôn-Giáo khác muốn nhập vào cửa Ðạo thì Hội-Thánh do nơi công-nghiệp Phước-Thiện của họ mà định vị, tùy theo công-nghiệp nhỏ lớn đặng định-phẩm từ bậc Minh-Ðức tới Chơn-Nhơn mà thôi. Còn bậc Hiền-Nhơn đổ lên thì giúp Hội-Thánh giữ-gìn Chơn-pháp, nên phẩm-vị nầy phải có cơ-bút giáng phong mới đặng.

Ðiều Thứ Tư: Cả Cơ-Quan Phước-Thiện đều giao cho Hiệp-Thiên-Ðài chưởng-quản.

Ðiều Thứ Năm: Chức-Sắc Phước-Thiện không có Ðạo-phục riêng, duy đặng Hội-Thánh ân-tứ lịnh-bài, và sắc-lịnh kể ra sau đây:

- Minh-Ðức và Tân-Dân duy có lãnh cấp-bằng, mặc áo Ðại-phục trắng trong mà thôi, không có dấu hiệu chi ngoại-thể.
- Bậc Chức-Sắc Thiên-Phong hay là Chức-Việc thì mặc đồ Ðại-phục của mình, những người Ngoại-Giáo thì phải mặc khăn đen, áo dài theo Quốc- phục.
- Thính-Thiện, Hành-Thiện và Giáo-Thiện thì lãnh sắc-lịnh có lịnh-bài của mỗi phẩm-vị ấy, gắn giữa dây sắc-lịnh ngay ngực.
- Chí-Thiện, Ðạo-Nhơn và Chơn-Nhơn mang dây sắc-lịnh phái Thượng có gắn lịnh-bài mỗi phẩm-vị của họ ngay ngực.
- Phẩm Phật-Tử thì do cơ-bút nơi Chí-Tôn định và mặc sắc-phục chi thì tự Người định-đoạt.

Ðiều Thứ Sáu: Sắc-lịnh và lịnh-bài của Phước-Thiện duy mặc nơi các Thánh-Thất và Tòa Thánh để chầu Lễ Ðức Chí-Tôn mà thôi, không đặng dùng theo đồ thường thế.

Ðiều Thứ Bảy: Cả Hội-Thánh Cữu-Trùng-Ðài và Hiệp-Thiên-Ðài tùy phận-sự của mình thi-hành Ðạo Nghị-Ðịnh nầy ./.

 

Lập tại Tòa-Thánh, ngày 19 tháng 10 năm Mậu-Dần. ( Dl. 10-12-1938 )

Giáo-Tông ( Ký tên ) Lý-Thái-Bạch
Hộ-Pháp, Chưởng-Quản Nhị Hữu-Ðài, Hiệp-Thiên và Cữu-Trùng, ( Ấn ký ) - Phạm công Tắc


Vâng-lịnh Ban-Hành cho toàn Phước-Thiện.
Khai-Pháp Hiệp-Thiên-Ðài Chưởng-Quản S. PT.
Trần Duy Nghĩa

Từ ngày Phước-Thiện được chính-thức là một trong bốn cơ-quan của nền Chánh-Trị-Ðạo và phân định rõ phẩm-tước, hơn nữa Ðạo-Luật năm Mậu-Dần (1938) lại định rõ về nhiệm-vụ, quyền hạn phân minh thì lại càng tiến-triển khả-quan hơn trước, nhứt là về tạo-tác Tổ-Ðình, phần công-thợ hầu hết là người Phước-Thiện, còn về lương-thực công thợ dùng hằng ngày là do toàn Ðạo, các địa-phương hợp-sức chung lo, nhưng phần lớn là nhờ các Sở Lương-Ðiền Phước-Thiện ở các tỉnh Miền Tây, có tỉnh đem về Tòa-Thánh một năm tới gần hai ngàn (2.000) giạ lúa, điển-hình như tại Sở Lương-Ðiền Phước-Thiện Hồng-Ngự ( Châu-Ðốc ), năm Kỹ-Mão (1939) đem về Tòa-Thánh tới hai ngàn giạ lúa (2.000 ), khoai lang và bí rợ chở bằng ghe đem về tới bến Tạo-Tác ( ngang ngã ba Mít-Một đi xuống ) rồi xe bò chở về kho Lương-Thực Tòa-Thánh.

 

Cũng trong năm Kỹ-Mão (1939), cơ Ðạo đang tiến-triển thì bỗng nhiên đùng một cái Chính-Quyền Pháp ra lịnh đóng cửa các Thánh-Thất và Cơ-Sở Phước-Thiện trong toàn-quốc, nhưng những vị Ðầu-Họ và Ðầu-Quận Phưóc-Thiện đã len-lõi ở lại lo trách-nhiệm của mình để tiếp-tục việc kiến-thiết Tòa-Thánh.

 

Tới kỳ Lễ Hạ-Ngươn rằm tháng 10 Canh-Thìn (1940), các vị Ðầu-Họ và Ðầu-Quận Phước-Thiện về Tòa-Thánh chầu Lễ Ðức Chí-Tôn, sáng ngày 16, Ðức Thầy kêu hết qua Hộ-Pháp-Ðường rồi Ðức Thầy dạy Anh Em đến thưa cho Ngài Khai-Pháp Chưởng-Quản Phước-Thiện hay là: Thầy tôi dạy đến thưa cho Sư-Thúc hay rằng Thầy tôi không cho chúng tôi đi hành-nhiệm Ðầu-Họ, Ðầu Quận Phước-Thiện nữa. Lúc đó Tòa-Thánh mới làm vừa kín chớ chưa được hoàn-tất. Rồi Ðức Thầy cho Anh Em Phạm-Môn phân ra kẽ lo tạo Sở mới, người trở về Sở cũ, lo tìm phương sinh-sống hầu bảo-bọc lẫn nhau trong cơn khốn-khổ.

 

Bỗng dưng sét đánh ngang mày, khiến toàn Ðạo như gà mất mẹ, là ngày 4 tháng 6 nhuần Tân-Tỵ ( Dl. 27/7/1941), mật-thám Pháp ở Sài-Gòn đến tại Tòa-Thánh bắt Ðức Thầy ( Ðức Hộ-Pháp )đem về Sài-Gòn, cách ít ngày sau đó tiếp-tục bắt thêm Ông Khai-Pháp và nhiều Ông khác nữa, kể chung như dưói đây:

    1/. Ðức Hộ-Pháp Phạm công Tắc.
    2/. Khai-Pháp Trần Duy Nghĩa.
    3/. Ngọc Chánh Phối-Sư Ngọc Trọng Thanh.
    4/. Q. Thái Chánh Phối-Sư Thái Phấn Thanh.
    5/. Giáo-Sư ( Công-Viện ) Thái Gấm Thanh.
    6/. Sĩ-Tải Ðỗ Quang Hiển.

Cả sáu vị Ðại-Thiên-Phong nay đều bị lưu đày sang hải-đảo Madagascar thuộc Phi-Châu, cả toàn Ðạo đều chịu cảnh như con mất cha, trò mất Thầy nhốn-nhau lố-nhố. Tòa-Thánh thì quân-đi Pháp chiếm lấy làm ( Thành Mới ). Riêng về Anh Em Phạm-Môn còn ở nơi đây người thì về gia-đình lo bề nhơn-đạo, nhưng lòng trung-nghĩa đối với Ðạo, với Thầy và với cả Anh Em không bao giờ phai lợt. Anh Em thường tới lui thăm viếng và bàn-bạc nhắc nhở nhau về Ðạo, về Thầy và về Anh Em để đợi ngày Ðức Thầy trở về cố-quốc hầu tiếp nối bước đường lập-công bồi-đức.

Sau khi Pháp bắt Ðức Hộ-Pháp và Chức-Sắc Ðại-Thiên-Phong đày sang Madagascar, lại thỉnh-thoàng bắt thêm một số Chức-Sắc và Chức-Việc đày đi nhiều chỗ khác nhau đại-lược như:

- Ông Giáo-Sư Thượng-Sáng-Thanh ( sau là Ðầu-Sư ) bị đày ra Côn-Ðảo.
- Ông Giáo-Sư Thượng-Ðứa-Thanh đày ra Bà-Rá.
- Ông Luật-Sư Phan-Hữu-Phước ( sau là Thừa-Sử ) bị đày ra Sơn-La.
- Chánh-Trị-Sự Lê văn Ngà ở xã Gia-Lc, quận Trảng-Bàng Tây-Ninh bị đày ra Côn-Ðảo.
- Ông Chánh-Tri-Sự Gạo ( Hương-Cả Gạo ở xã Vĩnh-Kim quận Châu-Thành Mỹ-Tho bị đày ra Côn-Ðảo.

Còn một số Chức-Sắc Cữu-Trùng-Ðài thì hợp-tác với Nhựt-Bồn và kêu gọi một số Bổn-Ðạo đến hảng tàu Michinan kế cầu chữ Y Sài-Gòn núp dưới danh-nghĩa thợ đóng tàu để được sự che-chở của quân-đi Nhựt-Bổn, kỳ thật là liên-hợp với Nhựt để mưu đồ bàn-định kế-hoạch lật đổ chính-quyền Pháp tại Việt-Nam, giành lại chủ-quyền của dân-tộc.

Việc hợp-tác giữa Chức-Sắc Cao-Ðài và quân-đi Nhựt mỗi ngày thêm thắt-chặt và Tín-Hữu Cao-Ðài gia-nhập vào đây cũng mỗi ngày càng đông thêm. Khi cấp lảnh-đạo nhận thấy lòng yêu nước và thương Thầy đã thật sự nồng-nàn liền tổ-chức thành đi-ngủ như quân-đi rồi luyện-tập thể-thức như quân-đi và bàn định kế-hoạch.

 

Ðến đêm 24 rạng mặt 25 tháng Giêng năm Ất-Dậu nhằm ngày 9-3-1945, Tín-Hữu Cao-Ðài tổ-chức thành " Nội ứng Nghĩa-Binh " hợp với quân-đi Nhựt lật-đổ chính-quyền Pháp tại Miền Nam Việt-Nam. Chưa kịp tổ-chức nền hành-chánh và quân-đi được vững chắc, kế Nhựt bị Ðồng-Minh đánh bại, và Ðồng-Minh lại giúp Pháp giành lại chủ-quyền tại Miền Nam, người Pháp lại cố đặt nền Hành-Chánh như trước để cai-trị Miền Nam nhưng vì lòng yêu nước của dân-tc Việt-Nam quá bồng-bột, nên Mặt-Trận du-kích chống Pháp nổi dậy tứ-tung, nhứt là khối Cao-Ðài, một là quyết cởi ách nô-lệ giành lại quyền tự-chủ, hai là dốc chí chống lại kẽ thù đã bắt mất người thân yêu tôn-kính của họ là Ðức Phạm Hộ-Pháp.

 

Khi hiểu được mục-đích khối Cao-Ðài, nên Pháp muốn xoa dịu lòng căm hận, mới đưa Ðức Hộ-Pháp trở về Việt-Nam và trả lại quyền tự-do hành Ðạo. Ðức Thầy về tới Sài-Gòn ngày 26 tháng 7 Bính-Tuất ( Dl. 22-8-1946 ) và về đến Tòa-Thánh ngày 4 tháng 8 Bính-Tuất (Dl.-30-8-1946).

Vừa về dến Tòa-Thánh, Ðức Hộ-Pháp liền tái-thủ Ðạo-Quyền, chấn-chỉnh lại các cơ-cấu Hành Chánh-Ðạo. Ðến tháng 10 năm Bính-Tuất (1946), liền ra lịnh phục hồi Quyền Vạn-Linh tức là tổ-chức Ðại-Hội Nhơn-Sanh và Ðại-Hội Phước-Thiện, kỳ hội nầy là kỳ Hội Ân-Xá nên việc cầu-phong, cầu-thăng có phần châm-chế, nhờ vậy mà sự kết-quả về vụ cầu-phong được ân-phong vào phẩm Lễ-Sanh và Giáo-Thiện khá nhiều.

Ðến cuối năm Bính-Tuất (1946), khi Ðại-Hội bế-mạc xong, Ðức Thầy liền thành lập Hội-Thánh Phước-Thiện.

Ðầu tiên lập trước 4 viện là:

        1/. Lễ-Viện.
        2/. Lương-Viện.
        3/. Công-Viện.
        4/. Hộ-Viện.

Sau đó, lối trên nữa tháng mới tổ-chức công-cử thêm cho đủ Cữu-Viện. Những vị lãnh trách-nhiệm trong Hội-Thánh Phước-Thiện kỳ đầu tiên kể như dưới đây:

-Ngài Hiến-Ðạo Hiệp-Thiên-Ðài Phạm văn Tươi, Chưởng-Quản Phước-Thiện.

    1/. Thượng-Thống Hòa-Viện Phước-Thiện, Chí-Thiện Võ văn Lẽo.
    Phụ-Thống Hòa-Viện Phưóc-Thiện Giáo-Thiện Phạm văn Hương.

    2/. Thượng-Thống Lại-Viện Phưóc-Thiện Chí-Thiện Lê văn Tri
    Phụ-Thống ( chưa có )

    3/. Thượng-Thống Lễ-Viện Phuóc-Thiện Ðạo-Nhơn Trịnh Phong Cương
    - Quan-Sự: Chí-Thiện Huỳnh văn Phương
    - Hôn-Sự: Chí-Thiện Tần văn Lợi
    - Tang-Sự: Chí-Thiện Phạm công Ðằng
    - Tế-Sự: Chí-Thiện Phạm văn Lê

    4/. Thượng-Thống Học-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Nguyễn văn Gia
    - Phụ-Thống ( chưa có )

    5/. Qu. Thượng-Thống Y-Viện Phưóc-Thiện Giáo-Thiện Lê văn Thiệt
    - Phụ-Thống Y-Viện Phước-Thiện Giáo-Thiện Nguyễn văn Sáng

    6/. Thượng-Thống Nông-Viện Phưóc-Thiện Chí-Thiện Lê văn Gấm
    - Phụ-Thống Nông-Viện Phưóc-Thiện Chí-Thiện Phạm Duy Oai

    7/. Thượng-Thống Lương-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Trịnh văn Phận

    8/. Thượng-Thống Công-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Nguyễn văn Lư
    - Phụ-Thống Công-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Phạm văn Út

    9/. Thượng-Thống Hộ-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Ðỗ văn Viện
    - Phụ-Thống Hộ-Viện Phước-Thiện Chí-Thiện Lê văn Giờ

Kế đến Tết Nguyên-Ðán Ðinh-Hợi (1947), Ngài Hiến-Ðạo Phạm văn Tươi về quê nhà ở Cần-Giuộc ăn tết rồi bị kẹt luôn không trở lên Tòa-Thánh hành Ðạo nữa được nên Ðức Thầy chỉ định Ông Ðạo-Nhơn Nguyễn Tự Thế làm Chưởng-Quản Phước-Thiện và Phước-Thiện vẫn mạnh tiến trên bưóc đường hành Ðạo, cơ cứu-khổ lần-lần khai mở thêm như: Cô-Nhi-Viện Dưỡng-Ðường Phước-Thiện, Bảo-Sanh, Trại-Hàng Cấp-Tế, các Sở Hốt Thuốc Nam miễn-phí để giúp cho nhơn-sanh khi bịnh hoạn.

Ðến ngày 14 tháng Giêng năm Ðinh-Hợi (1947), Ðức Thầy ban ra Phương Luyện-Kỹ đặng vào con đường Thứ Ba Ðại-Ðạo.

 

Phương Luyện-Kỹ đặng vào Con Ðường Thứ Ba Ðại-Ðạo.

    - Phải biết thân-thích cùng cả nhơn vật tức là tìm nguyên do của Vạn-Linh cùng Chí-Linh.
    - Phải ân-hậu và khoan-hồng.
    - Phải thanh-nhàn đừng vị-kỷ.
    - Phải bình-tĩnh, nghĩa là đừng chịu ảnh-hưởng của họa-phước, buồn vui ( tập tánh không không đừng nhiểm, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn-tánh ).
    - Phải độ lượng khoan dung, tha-thứ.
    - Phải vui-vẻ, phải điều-hòa, tự-chủ và quyết đoán.
    - Giữ linh-tâm làm căn-bản, hiếu-hạnh với Chí-Tôn và Phật-Mẫu.

Phương-Pháp Trị Tâm

    Vì tâm là hình-ảnh thiên-lương.
    Ðức-tin và khôn ngoan là kho chí bữu, ngoài ra là của bỏ, là đồ vô giá.
    - Ai đã cố oán kẽ thù của mình thì khó giữ thanh tâm công-chánh cho đặng.
    - Ai chẳng oán-hận mới thắng đặng kẽ thù-nghịch của mình.
    - Sự cừu-hận là khối thảm khổ đệ nhứt của nhơn-sanh, nên người hiền thì không biết đến hay là từ bỏ cừu-hận oán ghét.
    Thắng đặng khí nộ mình thì không chọc ai giận dữ.
    - Lấy thiện mà trừ ác.
    - Lấy nhơn-nghĩa trừ bạo tàn.
    - Lấy lòng quảng-đại đặng mở tâm-lý hẹp hòi.
    - Lấy chánh trừ tà.
    Ấy là đường thương huệ kiếm.

Luyện thân, luyện trí.

    - Ẩm-thực tinh khiết.
    - Tư-tưởng tinh khiết.
    - Tín-ngưỡng mạnh-mẽ nơi Chí-Tôn, Phật-Mẫu.
    - Thương yêu vô-tận.
    Ấy là chìa khóa mở cửa Bát-Quái-Ðài tại thế nầy. ( 14 tháng Giêng Ðinh-Hợi 1947 ).

Từ ngày thành-lập Hội-Thánh Phước-Thiện thì việc tiến-triển từ Trung-Ương đến Ðịa- Phương đều rất khả-quan. Người Hiến-Thân vào Phước-Thiện mỗi ngày thêm đông, nhưng không may Phước-Thiện lại chịu lấy tang chung là Ông Chưởng-Quản Phước-Thiện Ðạo-Nhơn NguyễnTự Thế qui-vị vào ngày mùng 9 tháng 11 năm Ðinh-Hợi ( Dl. 20-12-1947 ). Cách lối tuần-lễ sau, Anh Em đệ tờ lên Ðức Thầy cầu xin định người kế-nhiệm Chưởng-Quản Phước-Thiện và được Ðức Thầy chỉ định Ông Ðạo-Nhơn Trịnh Phong Cương cầm quyền Chưởng-Quản Phước-Thiện và cứ noi theo luật-lệ của Ðạo từ trước mà tiếp nối ...

      Viết xong cuối thu năm Canh-Thân (1980).
      Nguyễn Ðức Hòa

      Tài liệu này do Huynh Ðỗ văn Thắng đánh máy lại

 
về trang chủ