PHƯỚC  THIỆN  &  KINH TẾ

TRONG TÔN GIÁO CAO ĐÀI

G.H. Thượng Màng Thanh

 

      Một người ăn mày đi đến trước cửa một ngôi nhà chìa tay van xin, một người trong nhà bước ra bỏ vào tay ông một vật gì đó, ông xá lia lịa rồi bước đi. Ông đến trước nhà bên cạnh cũng một giọng khàn khàn thảm thiết ông kêu gọi lòng nhân từ của kẻ khác, cũng có một người trong nhà bước ra bỏ vào tay ông một vật gì đó, rồi ông lại ra đi...

 

      Hai động tác giống y hệt như nhau là cho người ăn mày một món quà, nhưng chưa chắc đã là hai hành động phước thiện. Có kẻ ban cho kẻ van xin kia một đồng tiền hay bát gạo là cách xua đuổi vẹn toàn danh dự nhứt của người trong nhà, vừa được tiếng đời khen tặng là kẻ có lòng nhân, vừa tránh khỏi phải nghe những tiếng kêu than thống khổ của kẻ hành khất, làm quấy rầy cái cảm giác hả hê về điều gọi là người đang sống trong nhà.

 

      Ban cho kẻ khác tiền của chưa phải là làm phước thiện, làm việc chỉ vì động cơ muốn được người khác tặng cho mình cái danh làm phước cũng chưa phải là Phước Thiện, mặc dầu kẻ thật sự làm phước thiện thường ban cho người đời tiền của và cũng thường được người đời gọi tên như vậy.  Chính yếu tố tâm linh ngộ được chơn lý hay không, mới quyết định bên ngoài là phước thiện hay cái bóng của phước thiện.

 

      Vắng yếu tố bên trong ấy, hoạt động bên ngoài chỉ là sự bắt chước, dẫu rằng đôi lúc sự bắt chước như vậy cũng rất cần thiết cho cuộc sống xã hội. Phước Thiện không phải là sự bắt chước, làm ra vẻ, mà phải bắt nguồn từ nội tâm rọi sáng vì ánh Đạo tâm. Ngộ được Đạo thì tức khắc có hành động biểu lộ tinh thần phước thiện, cách biểu lộ của mỗi người trong mỗi hoàn cảnh có thể không giống nhau.

 

      Trong hoàn cảnh xã hội hiện tại, phước thiện không có nghĩa là bố thí, một tay bên nây giành giựt chèn ép sự sống của nhơn sanh, tóm thâu tiền của vào nhà, mà tay bên kia bố thí, thu mười cho một vẫn được tiếng là người hay bố thí của, nhưng hành động đó không phải là phước thiện, vẫn là sự tính toán nhiều lời ít lỗ., vẫn là cách thương yêu của cái trí so đo, chưa phải tình thương vô lượng mà Đức CHÍ TÔN và Đức PHẬT MẪU đã đặt vào tâm của mỗi người.

 

      Trong Đàn cơ tại Thảo Xá Hiền Cung ngày 30/10- Kỷ Tỵ (dl 30/11/1929), Đức DIỆU TRÌ KIM MẪU đã dạy về PHƯỚC THIỆN như sau : “... Từ đây, Thiếp dùng hiệu QUI THIỆN cho pháp hiệu DIÊU TRÌ. Thiếp lại dặn hãy lựa chọn kẻ nào đặng từ  bi, bác ái, đạo đức khiêm cung mới đặng nhập. Hương Hiếu, con khá nhớ nghe !

 

      Như vậy, vì cái tình thương vô lượng ấy khiến chúng ta không thể nào rời bỏ cuộc đời được, chúng ta phải nhập thế, giải quyết những nhu cầu cấp thiết của đời sống thi phàm, tức phải quáng xuyến vấn đề kinh tế. Dĩ nhiên Phước Thiện không phải là kinh tế, nhưng Phước Thiện bao gồm kinh tế.

 

      Đời sống con người càng chật vật vì chén cơm manh áo, nơi ăn chốn ở. Trên khắp hoàn cầu đâu đâu nạn nhân mãn cũng chực chờ đe dọa nhân loại. Nếu Phước Thiện là một lối bố thí hời hợt thì nó chẳng giải quyết cái khổ trước mắt về nạn áo cơm của nhơn sanh, hóa ra tôn giáo chỉ là ảo tưởng siêu hình, hứa hẹn mà không giúp đở được gì.

 

      Phước Thiện là một lối giá trị của tôn giáo vào những vấn đề của đời sống thể xác, nhưng chính hành động đó lại là lối nâng cao giá trị tôn giáo đến tuyệt vời, mô tả bằng những nấc thang THẬP NHỊ ĐẲNG CẤP THIÊNG LIÊNG, mà cái đỉnh cuối cùng của nó đồng thể cùng CHÍ TÔN vậy.

 

      Nơi mạng sống của mỗi người, Chơn Thần chỉ có nương náu được trong xác thân. Lo cho đời sống của xác thân chính là lo cho Chơn Thần vậy. Một thân thể yếu đuối không thể là cái nhà tốt cho một Tinh Thần linh hoạt. Đời sống người tín đồ nghèo đói thì khối Tinh Thần của người trong tôn giáo vì đó mà liên lụy. Phước Thiện vì vậy là lối giúp cho khối Tinh Thần của tín đồ thêm vững mạnh.

 

      Trọng vô, bỏ hữu, thì chẳng thể huờn nguyên tam bửu. Tôn giáo không giải quyết được vấn đề kinh tế thì khó làm cho Tinh Thần nhơn sanh hiệp cùng Thiên Lý.

 

      Người làm Phước Thiện là người tổ chức đời sống kinh tế cho nhơn sanh với tinh thần bất vụ lợi cho bản thân mình. Buổi ra đi hai tay trắng, lúc trở về cũng trắng tay, nhưng nhìn lại quảng hành trình, thấy có những kẻ no cơm ấm áo cùng với những nụ cười thoải mái của nhơn sanh, ấy là công nghiệp của người tu Phước Thiện.

 

      Dĩ nhiên Phước Thiện chẳng phải vỏn vẹn có bao nhiêu đó mà còn nhiều nữa, kể cả những hoạt động thuộc phạm vi thần quyền.

 

      Triết lý Phước Thiện nằm trong “Tứ Diệu Đềcủa nhà Phật. Bốn cái khổ hình của con người là sanh, lão, bịnh, tử. Phước Thiện giải quyết từng vấn đề một, trong chủ trương lập nhiều cơ quan thiết dụng cho xã hội, như : nhà bảo sanh, dưỡng lão đường, y viện, học đường, hay tổ chức khách đình,“nhà thuyền” để lo việc tang tế, hay các cơ sở kinh tế, công nghệ, lương điền . v.v...

 

      Chủ trương ấy Hội Thánh đã ghi thành Luật hẳn hòi, nhưng một bộ Luật không, cũng như triết lý suông, chẳng giải quyết được điều gì cả, mà chỉ là nền tảng của công cuộc cải tạo xã hội.

 

      Một kế hoạch dầu hay cách mấy, nhưng nếu không có đủ người điều hành đúng mức cũng chưa bảo đảm kết quả. Thành quả của Phước Thiện, vì vậy phần nào tùy thuộc vào Cửu Trùng Đài là cơ quan giáo hóa nhơn sanh, phải tạo ra được những lớp người có tinh thầân Phước Thiện thì mới có kẻ xông pha vào đời, quán xuyến các dịch vụ kinh tế và xã hội, trong tinh thần bất vụ lợi.

 

      Cổng trước là Cửu Trùng Đài, cổng sau là Phước Thiện, rồi đến một chân trời bao la có đủ điều kiện cho một đời hằng sống.

 

      Phước Thiện vì vậy không phải chỉ là những hoạt động bố thí của cá nhân, như người đời xưa nay thường nghĩ mà nó còn là một đường lối tổ chức đời sống hữu hình của xã hội, lấy tâm linh làm căn bản, đặt đúng vai tuồng của kinh tế trong đời sống con người, nó khác chủ nghĩa của các nhà duy vật lấy kinh tế làm căn bản. Đó là một đường lối lấy Đạo làm gốc, nhằm cải tạo xã hội bằng tinh thần đạo đức. thể hiện trong những hành động nhập thế vào các lãnh vực xã hội và kinh tế. Đường lối ấy kêu gọi tinh thần bố thí của cá nhân và tổ chức cho công cuộc bố thí có hiệu năng hơn.

 

      Không có tinh thần Phước Thiện đã lập ra sau Hiệp Thiên và Cửu Trùng Đài. Không có được tâm linh giác ngộ thì sự vầy đoàn xung quanh những lợi lộc về kinh tế, chưa hẳn sẽ bảo đảm  nổi sự bình an cho những người trong cuộc, vì chính những mâu thuẫn nội tại của các vấn đề kinh tế trong luật cạnh tranh và tham vọng của những phần tử con người trần tục trong cộng đồng, sẽ xô đẩy cả một công trình kiến tạo xã hội vào sự rối loạn và tê liệt. Những cuộc khủng hoảng về kinh tế quy mô trong những tổ chức tôn giáo sẽ đưa đến những hậu quả tàn hại khôn lường về đức tin của tín đồ và quyền uy của Giáo Hội. 

 

      Yếu tố keo sơn mầu nhiệm thực hiện nổi công cuộc cải tạo xã hội nầy, chính là đức tin và sự khôn ngoan của tín đồ. Tài nguyên của tổ chức Phước Thiện chính là tài nguyên của cá nhân nằm lẻ tẻ khắp đó đây, đức tin và sự khôn ngoan vầy đoàn họ lại, kéo theo sự tập trung tài nguyên và nhân lực vào một cuộc chung sống quy mô. Khối tài nguyên được tập trung ấy có thể phân tán vào phương diện tồn trử, nhưng về phương diện vầy đoàn nó là một khối của cộng đồng, tuy rằng cá nhân có quyền hưởng thụ trên đó.

 

      Lấy tiền của nhơn sanh mà lo cho nhơn sanh, công nghiệp của người làm Phước Thiện ở chổ lo lắng ấy. Sự tập trung tài lực nào cũng tạo nên một sức mạnh, khéo sử dụng thì bảo tồn vạn linh, không khéo sử dụng thì chính sức mạnh ấy lại làm khổ sở cho nhau.

 

      Đã mang lấy mảnh hình hài nầy, ai ai cũng phải có ăn mới sống, có mặc mới ấm, phải có nhà ở mới tránh được gió sương, cho nên kẻ nào nắm chặc quyền phân phát cơm áo trong tay, kẻ ấy có cơ hội bắt buộc thể xác nhơn sanh phải tùng phục quyền hành của mình, dù không bao giờ được toại ý trọn vẹn.

 

      Tổ chức Phước Thiện của Tôn giáo CAO ĐÀI là đường lối chính trị giải thoát khổ nạn của nhơn sanh bị của tiền vật chất ràng buộc vào quyền hành của tham vọng, nó là phương pháp phá vòng ràng buộc của cơ đời, chớ không nhằm thay đổi vai trò chủ nhân ông nắm quyền phân phát áo cơm của xã hội hiện nay.

 

      Nó nhắm đến sự điều hòa đời sống kinh tế của nhơn sanh, vì vậy can dự bằng chính sách và đường lối vào tổ chức kinh tế, nó không nhằm thỏa mãn tham vọng của tiền bạc vật chất tại thế gian của con người, nên không chấp nhận sự cạnh tranh sống chết giữa những con người và tổ chức mệnh danh là Phước Thiện.

 

      Nói rõ hơn : Phước Thiện không phải là đường lối tư bản, cũng không phải là lối kinh tế rập khuôn theo kiểu kinh tế của xã hội chủ nghĩa, mà nó là một cách thực hiện đường lối chánh trị của Đạo Cao Đài.

 

      Tại sao nó không tùng theo một khuôn mẫu nào của thế giới cả ?

     - Bởi tự căn bản Đạo CAO ĐÀI là con đường để cho các bậc THÁNH, TIÊN, PHẬT đọa trần do theo đó mà hồi cựu vị.

      - Để cho bậc nhơn phẩm do theo đó mà lánh khỏi luân hồi, nên đời sống kinh tế tuy cần ích cho sự sống thể hài, nhưng chính nó lại là sự ràng buộc con người với cõi tục.

 

      PHƯỚC THIỆN là một lối mở ra nên tinh thần hoạt động phải đặt trên căn bản siêu thoát, nghĩa là cứu cánh, không phải là vấn đề cơm áo, nhà cửa hay quyền hành điều khiển, mà là một sự vượt lên trên tất cả các thứ ấy để trở về cùng cảnh hư vô.

 

      Nó không được phép nhầm lẫn “cứu cánh với phương tiện”. Cái quyền có của trở thành vô nghĩa đối với người làm Phước Thiện, tuy rằng đường lối ấy không tước đoạt quyền tư hữu của người sống trong cộng đồng, không buộc họ phải hy sinh trọn vẹn cho một tương lai  ở thế hệ mai sau hay ở xứ Thiên Đàng, trái lại hễ làm thì có ăn, hợp quần trong tình thương, tức có sứ mạng và mức sản xuất sẽ gia tăng, nhu cầu vì vậy được thỏa mãn. Và sự thỏa mãn ấy chỉ là một vấn đề trong nhiều vấn đề khác của đời tu, cho nên đạt đến tình trạng sung mãn về kinh tế, Phước Thiện không phải là tự mãn mà nó chỉ là một tư thế giúp cho con người đừng bị vướng kẹt vào đời sống trần tục nầy.

 

      Con người vốn từ đời sống vĩnh cửu mà ra, chỉ hiện thực trên mặt địa cầu trong khoảng thời gian ngắn.

      Phước Thiện Cao Đài giải quyết nó đúng với tinh thần tạm bợ của một lần thác sinh, nên nó không nhằm đến sự chiếm đoạt của cải vật chất tại thế gian.

 

       Bởi nhiệt độ gia tăng nhân số trên toàn cả địa cầu, cùng với những đòi hỏi cho cuộc sống ngày càng tấn hóa của nhân loại, vấn đề kinh tế trở nên nghiêm trọng, nên người tu phải giải quyết nó, vì vậy cho nên cơ quan Phước Thiện Cao Đài được mệnh danh là cơ quan “bảo tồn”, vì thương đời mà chịu khổ cùng đời; chớ không hề trốn chạy, chối bỏ trách nhiệm.

 

      PHƯỚC THIỆN CAO ĐÀI ra đời là vì vậy, nó giải quyết toàn vấn đề, chớ không phải chỉ là những phản ứng lẻ tẻ, có tính cách “động lòng trắc ẩn” của một từ tâm trước cảnh ngộ éo le, chợt thấy trên đường đời.-

 
về trang chủ