Đạo Lý Thuyết Minh
Sư
tiến hóa của loài người
Theo tín-ngưỡng căn-bản của Cao-Đài-giáo, thì con người
cũng như vạn-hữu chúng-sanh,
đều do Thượng-Đế tạo-dựng và ban cho một điểm Linh-quang
luôn hướng thượng, nên bản-chất của Thượng-Đế đều có
trong mỗi chúng-sanh, còn gọi là Thiên-tánh. Vì phải
phát-triển co Thiên-tánh nay để tiến-hóa, mà chúng-sanh
mới có mặt nơi cõi trần. Sự phát-triển này nhanh hay
chậm còn tùy thuộc nơi căn-cơ và cố-gắng của mỗi cá-thể,
nên chúng ta thấy trên trường tiến-hóa của chúng-sanh có
nhiều trình-độ chênh-lệch khác nhau, sự phát-triển này
không có thể trong một kiếp-sanh ngắn-ngủi của một đời
người mà đoạt được sự hoàn-thiện, mà phải trải qua nhiều
kiếp mới có được. Khi đã viên-mãn thì chúng-sanh sẽ được
hội-nhập với càn-khôn vũ-trụ, về với nguồn-gốc của mình
là Thượng-Đế ở cõi Niết-bàn. Vòng xây-chuyển này làm
thành sự tiến-hóa của chúng-sanh trong đó có con người,
đó là chân-lý tối-thượng trong nhân-sinh-quan của Cao-Đài-giáo.
Bản-chất sự sống tiến-hóa
và luôn hướng-thượng này của chúng-sanh, trong đó có
loài người, nó như là một bánh xe luôn lăn tới, theo Đạo-học
gọi nó là bánh xe Pháp luân thường chuyển, nó có nhịp độ
điều-hòa. Nên nó sẽ không tha-thứ bất cứ ai muốn ngăn-chặn
hay trì-hoãn. Tất-cả chúng-sanh dù muốn hay không muốn
cũng phải nằm trong quỹ-đạo của nó, nếu không chịu
thích-nghi thì sẽ bị đào-thải. Nên Nho-giáo nói
rằng:
“ Trời sanh ra vạn-vật,
tùy theo tài-năng của nó mà đôn-đốc
thêm lên, cho nên loại nào có tài-cán thì được bồi đắp
thêm, còn loại nào nghiêng-lệch thì sẽ làm cho đổ nát đi
(Thiên sanh ư vạn vật, nhân kỳ tài nhi đốc yên cố tài
giả bồi chi, khuynh giả phúc chi / Trung-dung)”.
Vậy muốn hiểu rõ tường-tận
sự tiến-hóa và
nguyên-nhân lạc-hậu sa-đọa của con người do đâu mà có,
chúng ta thử tìm hiểu qua phần sưu-khảo sau đây.
SỰ TIẾN HÓA CỦA LOÀI NGƯỜI
Vòng xây chuyển linh-hồn tấn-hóa.
Nương xác thân hiệp ngã Càn-khôn.
(Kinh Giải-oan).
Trong học-thuyết linh-hồn tấn-hóa của Cao-Đài-giáo nói
rằng: Khi Đức Chí-Tôn (Ngọc-Hoàng Thượng-Đế) và Đức Phật-Mẫu
(Diêu-Trì Kim-Mẫu) tạo-lập nên vũ-trụ, vạn-hữu, ngoài phần
hinh-thể, Thượng-Đế còn chiếc chơn-linh của Ngài tạo ra
tám loại chúng-sanh, gọi là Bát phẩm Chơn hồn đó là :
- Vật-chất hồn.- Thảo-mộc hồn.-
Thú-cầm hồn.- Nhơn-loại hồn.- Thần hồn.-
Thánh hồn.- Tiên hồn.- Phật hồn.
tức là Đức Chí-Tôn và
Phật-Mẫu đã ban cho chúng sanh một sự sống vẹn-toàn có
đầy đủ cả thể-xác lẫn tâm- hồn. Nên trong Phật-Mẫu chơn-kinh
có câu:
Càn khôn sản-xuất hữu hình,
Bát hồn vận-chuyển hóa
thành chúng-sanh.
(Phật-Mẫu chơn-kinh / dòng
7 và 8)
Mỗi loại chơn hồn nầy
đầu kiếp đến thế-gian mang xác thân tương - ứng, để tiến
- hóa hướng-thượng chung-qui sẽ trở về hội-nhập với Ngài,
Sự-kiện nầy dã tạo nên sự sinh-hoạt của chúng-sanh tại
cõi trần. Nên
Thánh-giáo Đức-Chí-Tôn dạy rằng:
Thầy phân tánh Thầy
sinh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc côn trùng gọi là
chúng sanh. (TNHT/Q2/tr.62).
Bởi vậy một chơn-thần
Thầy mà sanh hóa chư Phật, chư
Tiên, chư Thánh, chư Thần và cả nhơn loại... (TNHT /Q1
/tr. 48).
Do đó mà mỗi
chúng-sanh đều có Thiên-tánh do Trời ban cho mình, nên
Phật-giáo cũng có câu:
Nhứt thiết
chúng-sanh giai hữu Phật-
tánh.(Mỗi chúng-sanh đều có tánh Phật).
Các chơn-hồn phải đầu-kiếp
xuống tận đáy của phàm-trần là vật-chất, đó là bậc thang
đầu-tiên, rồi kể từ trong tinh-hoa của vật-chất, tiến
lên đến kim-thạch, thảo-mộc, thú-cầm, nhơn-loại, cho đến
thần, thánh, tiên, phật là bậc thang cuối cùng của sự tiến-hóa,
nên Đức Phật cũng đã nói rằng: “ Ta là Phật đã
thành, còn chúng-sanh là những vị Phật sẽ thành”.
Đối với nhơn-phẩm, con
người cũng còn phải chuyển kiếp nhiều lần, mới đạt đến
quả vị thần thánh tiên phật. Quả vị đến nhanh hay chậm,
còn tùy nơi sự quyết-tâm phấn-đấu
của mỗi chơn-hồn. Nên Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dã
dạy rằng:
Nếu các con hiểu rõ
cơ huyền-diệu của kiếp luân- hồi con người... Thì các
con cũng không buồn và cũng không oán trách Thầy...
Cái phẩm-vị của các
con buộc tái sanh nhiều kiếp, mới đến địa-vị tối thượng
của mình là nơi Niết-bàn. (TNHT / Q1 / tr.57)
Sự thăng-tiến của mỗi
chơn-hồn có đoạt được hay không, nhanh hay chậm, đều tùy
thuộc vào nơi công-đức và đạo-hạnh của mình lập được tại
cõi trần này. Nên Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng:
Người dưới trần thế
này muốn giàu có phải kiếm phương-thế làm ra của, ấy là
phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc
Đạo phải có công quả.
Thầy đến độ rỗi các
con là lập thành một trường công đức cho các con nên
Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng là tại các con muốn cùng
không muốn. Thầy nói cho các con nghe: Nếu chẳng đi đến
trường Thầy lập mà đoạt-thủ địa-vị mình, thì chẳng nơi
nào khác mà đắc Đạo bao giờ. (TNHT /Q1/tr26).
Cõi
trần tuy là cõi tạm, mỗi chơn-hồn đến rồi đi, như một
quán trọ, nhưng nó là một trường tiến-hóa, con người
không cố-gắng tự lập nơi nầy, thì cũng không còn nơi nào
khác. Nên Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
Thầy đã nói cho các
con hay trước rằng: Nếu các con không tự lập ở cõi
thế này, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không
bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy cái vấn-đề tự
lập là vấn-đề các con phải lo đó. (TNHT/Q1 / tr 98).
Cõi
đời là một trường học rộng lớn, mỗi chơn-hồn là một
học-sinh. Nên trường đời cũng chia thành nhiều
lớp. Điển-hình nhất ta thấy ở con người có hai loại
tiêu-biểu, đó là những người chưa tấn-hóa,
mới cởi lớp thú để làm người, bản-chất còn dã-man, và
lớp cao hơn hết là hạng người đã đạt sự tiến-hóa
viên-mãn, tức là các bậc đạo-đức cao-thâm, các vị
giáo-chủ dìu-dắt nhơn loại, những vị thần thánh tiên
phật độ-đời cứu thế. Ngoài hai lớp người nầy thì phần đông
là ở bậc trung, họ chậm-chạp bước từng bước một, trên
nấc thang tiến-hóa, mỗi nấc thang là một chương-trình
học mới, có thể là một hay nhiều kiếp đầu thai, con người
mới học hết. Nếu chúng ta không tin có sự luân-hồi,
không có từng trình-độ tiến-hóa, thì tỷ như bắt người ở
trình-độ tiểu-học, học chung khoa ông tiến-sĩ, bắt một
kẻ dã-man học chung với bậc thánh-đức.
Nấc thang tiến-hóa
này Thượng- Đế muốn để cho con người được tư-do và
tự-nguyện, con người có thể tiến nhanh hay chậm, là do
kết-quả ở sự tinh-tấn của mình. Cái phẩm-giá
thiêng-liêng nó cũng giống như phẩm-giá phàm trần vậy.
Nên Thánh-giáo Chí-Tôn dạy về phẩm-giá ở cõi
phàm-trần và thiêng-liêng như sau.
Con người phải chịu
chuyển kiếp ngàn năm, muôn muôn lần mới đến địa-vị nhơn
phẩm. Nhơn phẩm tại thế này lại còn chia ra phẩm giá mỗi
hạng. Đúng bậc Đế vương địa cầu 68 nầy, chưa đặng vào
bậc chót của địa cầu 67, trong địa cầu 67, nhân-loại
cũng chia ra đẳng cấp dường ấy. Cái quý trọng của mỗi địa
cầu cũng tăng thêm hoài, cho tới đệ nhất cầu, tam thiên
thế giới, qua khỏi tam thiên thế giới thì mới đến tứ đại
bộ châu, mới vào đặng tam thập lục thiên, vào tam thập
lục thiên rồi mới chuyển kiếp tu hành nửa mới vào đến Bạch
Ngọc Kinh, nơi đạo Phật gọi là Niết bàn đó vậy. Các con
coi đó đủ hiểu, các phẩm-trật của các con nó nhiều chừng
nào... (TNHT/Q1/ tr68).
Tuy là sự tiến-hóa
của phẩm-vị của con người, có thứ lớp như vậy, nhưng
trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ, Đức Chí-Tôn đã ban cho con người
một ân-huệ, nếu biết tinh-tấn chỉ một kiếp-sanh cũng có
thể đắc thành chánh-quả. Thánh-giáo Chí Tôn đã
nói rằng:
Thầy dặn các con:
nếu kẻ không tu, làm đủ phận sự người công-bình,
chính-trực, khi xuất hồn ra khỏi thể xác thì cứ theo đẳng-cấp
gần trên mà luân hồi lại nửa, thì biết chừng nào đặng
hội hiệp cùng Thầy, nên Thầy cho một quyền rộng rãi, cho
cả nhân-loại càn khôn thế-giới, nếu ngộ một đời tu đủ
trở về cùng Thầy đặng.. (TNHT/Q1/tr 70).
Đây là một đặc-ân mà Đức
Chí-Tôn đã dành cho con người thời nay, không những Đức
Chí-Tôn dành cho con người chỉ ngộ một đời tu là đắc
thành quả vị, nhưng nếu con người phấn- đấu, tinh-tấn
thì có thể đồng phẩm-vị với Thượng-Đế. Đức Chí-Tôn đã
cho biết như sau:
Thầy đã nói, đạo-đức
cũng như một cái thang vô ngần bắt cho các con leo lên
đến phẩm vị tối cao, tối trọng là ngang bậc cùng Thầy,
hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nửa.. (TNHT/Q1/
tr 70).
Như vậy mục-đích chính
của đời người đến trần-gian là tiến-hóa
để trở thành siêu nhân. Trong hành-trình vào trần-thế
con người đã sẵn có tất-cả sự thiêng-liêng mầu-nhiệm, ẩn-tàng
nơi mình, tức là có sẵn lương-tâm, thiên-tánh, hay là chơn-tâm,
phật-tánh, luôn hướng-thượng, đó là vốn liếng làm
hành-trang, nếu mà con người biết cố-gắng khổ công
tu-luyện, làm cho vốn-liếng ấy tăng-trưởng thì chắc-chắn
sẽ đạt kết-quả.
HỌC -THUYẾT LINH-HỒN TIẾN-HÓA
CỦA CAO-ĐÀI-GIÁO ĐỐI-CHIẾU VỚI QUAN-NIỆM TIẾN-HÓA
CỦA KHOA-HỌC
Thầy đến độ rỗi các
con là lập thành một trường công-đức cho các con nên
Đạo. Vậy đắc Đạo cùng chăng là tại các con muốn cùng chẳng
muốn. TNHT/Q!/Tr 26
Về sự tiến-hóa
của loài người theo khoa- học, thì từ xưa đến nay đã có
nhiều nhà khoa-học tự-nhiên đưa ra nhiều thuyết, tùy
theo niên-đại mà có phân ra thuyết tiến-hóa cổ-điển,
thuyết tiến-hóa hiện-đại, và các thuyết tiến-hóa
tổng-hợp...Nhưng trong phạm -vi khảo-luân nầy
chúng ta chỉ đối-chiếu với quan-niệm tiến-hóa
tiêu-biểu đó là thuyết tiến-hóa của Darwin để làm sáng
tỏ thêm học-thuyết linh-hồn tấn-hóa của Cao-Đài-giáo mà
thôi.
Vào những năm 1859 nhà
khoa-học tự-nhiên Charles Darwin người Anh đã công-bố
công-trình nghiên-cứu của ông về nguồn gốc các loài, làm
cơ-sở cho học-thuyết tiến-hóa của loài người, đã được
giới khoa-học thừa-nhận. Ông cho sự tiến-hóa của loài người
cũng hầu hết các sinh-vật, gồm có ba vấn-đề chủ-yếu có
quan-hệ hữu-cơ với nhau đó là tính biến-dị di-truyền và
chọn-lọc. Ông giải-thích rằng đặc-điểm chung của mỗi
sinh-vật là giữ lại và truyền cho con cháu những đặc-điểm
cấu-tạo và phát-triển của tổ-tiên, như gà mẹ sẽ đẻ ra gà
con, chứ không thể sinh ra thứ khác được, nhưng đặc-tính
chung của mỗi sinh-vật là có thể mang những khác-biệt về
chi tiết so với bố mẹ chúng, và với các cá-thể khác cùng
loại. Sự biến-dị nầy lại có thể truyền lại cho con cháu
chúng, gọi là biến-dị di-truyền. Darwin cho rằng chính
những biến-dị di-truyền cá-thể này đóng vai trò
quan-trọng trong quá-trình tiến-hóa. Nguyên-nhân sự
biến-đổi này là những điều kiện sống, như môi trường,
thức ăn uống, sự hoạt động, đã làm cho sinh-vật biến đổi
dần từ thế-hệ này sang thế-hệ khác, ngoài ra còn một yếu
tố chi-phối nửa, là sự đấu-tranh để sinh-tồn và chọn-lọc
tự-nhiên, những loài nào thích-nghi với thiên-nhiên thì
tồn-tại, ngay trong cơ-thể mỗi sinh-vật, bộ-phận nào
hoạt-động thì càng tăng-trưởng, còn những bộ-phận ít
sử-dụng thì thoái-hóa đi. Đối với sự tiến-hóa về tinh-thần
học-thuyết này đã cho rằng do sự biến-đổi của vật-chất
mà có. Ở con người do sự biến-chuyển từ lối sống leo
trèo lên cây, sang lối sống di-chuyển trên mặt đất, từ
chỗ sử-dụng bốn chi, phân hóa thành hai chân đi đứng và
hai tay cầm nắm, sử-dụng công-cụ, thay cho miệng khỏi sự
đớp, ngoạm, tha mồi, làm cho não bộ tăng-trưởng. Rồi do
nhu-cầu của cuộc sống mà trí-khôn phát-triển, di-truyền
lại cho thế-hệ nối tiếp, làm thành sự tiến-hóa của nền
văn-minh nhân-loại.
Học-thuyết này vốn
xây-dựng trên sự quan-sát các hiện-tượng trong thực-tế
bằng giác-quan, rồi từ đó suy-diễn ra, nên chúng ta có
thể nói rằng thuyết tiến-hóa
này lấy vật-chất làm cơ-sở, và sự biến-đổi có tính-chất
ngẫu-nhiên, tự-phát do ngoại-cảnh tác-động, chứ con người
không chủ-tâm, không mưu-cầu. Học-thuyết nầy lại không đề-cập
đến công-trình sáng-tạo tuyệt-hảo của Thượng-Đế, và lại
không tin-tưởng bản-năng tiến-hóa hướng-thượng của Trời
ban cho mọi sinh-vật.
Nhận xét về thuyết tiến-hóa
của Darwin, Ông ta dựa trên vật-chất làm cơ-sở, xuất-hiện
đã hơn một thế-kỷ, dĩ-nhiên là nó có những giá-trị nhứt-đinh
của nó, nếu chúng ta dựa vào thuyết linh-hồn tấn-hóa của
Cao-đài-giáo, hoặc một học-thuyết tiến-hóa nào đó, lấy
tâm-linh làm cơ-sở, để chống-đối, thì theo quan-điểm nhất-nguyên
là một điều không thức thời, vì Thiền-sư Suzuki đã nói
rằng: Tất cả mâu-thuẫn, tất cả dị-biệt, đều đồng nhất, đều
dung-thông nhau trong cái toàn-thể thân-thiết và
nhịp-nhàng (theo Thiền-luận). Nhất-trí với quan-điểm đó,
nên trong phạm-vi khảo-luận nầy, chúng ta chỉ nêu lên
những điều khác biệt giữa hai thuyết tiến-hóa, để làm
sáng tỏ vấn-đề của đôi bên mà thôi. Đối với nhận-định
của Darwin cho rằng sự tiến-hóa về tinh-thần con người,
do sự biến đổi của vật-chất mà có, thì trong thực tế từ
xưa đến nay ta đã thấy, nhiều sinh-vật đã biết sử-dụng
bốn chi phân-hóa thành hai chân đi, và hai tay cầm nắm,
để thay cho miệng khỏi phải đớp ngoạm, tha mồi như loài
khỉ. vượn, đười-ươi...loài gậm-nhấm biết dụng hai
chân trước để đào hang thay cho miệng, nhưng muôn đời nó
cũng chỉ là loài dã-thú, đâu có thể có một nền văn-minh
tiến-hoá vượt bực như loài người. Nên ước-thuyết cho rằng
sư tiền-hóa về tinh-thần do
sự biến-đổi từ vật-chất mà có, là một điều có thể nói là
khá phiến-diện.Vì tinh-thần là một siêu thực-thể, nó có
một hướng tiến-hóa riêng biệt do Thượng-Đế ban cho, ở
con người, tuy sự biến-đổi của vật-chất và môi-trường
sống, có ảnh-hưởng tốt chút ít đến tinh-thần, nhưng
không phải là yếu-tố quyết-định cho sự tiền-hóa của nền
văn-minh nhân-loại, mà phải có sự đóng góp tích-cực của
tinh-thần con người. Chúng ta thấy tất cả những
phát-minh của nhân-loại từ xưa đến nay đều do những đóng
góp tích-cực của tinh-thần con người, chúng ta đơn-cử
một số trường hợp sau đây để chứng-minh cho sự-kiện này,
tỷ như :
- Archimedes khi tắm, mà nếu không quan-tâm đến
nước, thì làm sao tìm ra được đinh-luật về sức đẩy của
nước.
- Issac Newton khi nhìn thấy quả táo rơi, mà
không chịu động não, nghiền-ngẫm suy-tư, thì làm sao
khám-phá ra định luật vạn-vật hấp-dẫn
- A. Fleming, nếu Ông bỏ qua sự trục trặc không
quan-trọng từ các đĩa cấy vi-khuẩn bị lên meo, thì làm
gì tìm ra được khả-năng ức-chế vi-khuẩn của các loại
nấm, mà tìm ra được thuốc Pénicilin, mở đầu cho kỷ-nguyên
chữa trị các bệnh truyền-nhiễm bằng thuốc kháng-sinh
trên toàn thế-giới.
- Vua Phục-Hy khi nhìn thấy nét vằn trên lưng
con ngựa hoang xuất-hiện trên bờ sông Hoàng-hà, mà không
suy-tư thì làm gì tìm ra môn Hà-đồ Bát-quái và sự biến-hóa
của Dịch-lý, làm cơ-sở cho môn khoa-học nhân-văn của Á-đông.
Thậm-chí chính con người còn phải có một tinh-thần đại-hùng
đại-lực, chịu hy-sinh cả cuộc đời mình cho sự tiến-hóa
của nhân-loại thì mới có được, như:
- Đức
Thích-Ca nếu không bỏ ngôi thái-tử cao-sang, chịu đói
khát, ngồi suy-tư dưới cội bồ-đề,
thì làm sao tìm ra phương-thức giải-thoát tứ-khổ cho
chúng-sinh.
- Đức Chúa Jésus cùng các môn-đồ nếu không
hy-sinh cả mạng sống của chính mình, thì làm gì có được
con đường cứu rỗi cho nhân-loại.
Nói chung tất cả các nền văn-minh của nhân-loại dù là văn-minh
vật-chất hay văn-minh tinh-thần cũng đều do yếu-tố
tâm-linh và trí-tuệ của chính con người thúc-đẩy sự tiến-hóa,
còn hoàn-cảnh bên ngoài chỉ đóng vai trò trợ-duyên mà
thôi.
Darwin lại còn cho rằng
sự tồn-tại của mọi sinh-vật là do luật sinh-tồn cạnh-tranh,
tức là Ông ta cho rằng yếu-tố mạnh được yếu thua, khôn
còn dại mất, nó quyết-định sự sinh-tồn của vạn-vật, mà
không quan-tâm đến sự sinh-dưỡng và chở-che của Thương-đế.
Nếu như vậy thì loài cừu, loài nai hiền-hậu, không bao
giờ cạnh-tranh với loài nào, tại sao không bị tiêu diệt,
và như vậy thì loài người làm gì còn có kẻ hiền-lương,
yếu-đuối...Nên Đức Khổng-tử đã phát-biểu nguyên-lý cộng-đồng
sinh-tồn nầy như sau:
Muôn vật đều hóa-dục
mà không hại lẫn nhau, các Đạo đều lưu-hành mà không phản
bội lẫn nhau” (Vạn vật tịnh dục nhi bất tương hại, đạo-lý
tịnh hành nhi bất tương bội / Trung-dung)
Đó là nguyên-lý
chung của sự sinh-tồn vạn loại, còn sự cạnh-tranh giữa
một số loài với nhau, chỉ là những trường-hợp cá-biệt để
duy-trì sự phát-triển điều-hòa
của mỗi loài, để không có sự thái-quá lấn-át lẫn nhau, điều
nầy nằm trong quy-luật quân-bình âm-dương của Tạo-hóa.
Còn học-thuyết tiến-hóa
bát hồn vận chuyển, tuy không phủ-nhận phần thể-chất ảnh-hưởng
cho sự phát-triển tinh-thần, nhưng còn thừa-nhận rằng
tình-thần là phần siêu thực-thể độc-lập, luôn có ảnh-hưởng
quan-trọng đến sự tiến-hóa của thể-chất. Sự tiến-hóa này
không phải ngẫu-nhiên, tự-phát mà có sự chỉ-huy trực-tiếp
của tâm-linh, và có một mục-đích rõ-ràng.
Theo học-thuyết “Tâm
vật bình hành” của Cao Đài giáo, thì cho rằng tuy thể-chất
có ảnh-hưởng đến sự phát-triển của tinh-thần, nhưng tinh
- thần cũng có ảnh-hưởng quan trọng trực-tiếp đến sự
phát-triển của thể chất. Nên đứng về phương-diện tiến-hóa,
Cao-Đài-giáo chú trọng cả hai phần:
- Phần
thể xác:
Thân-xác nếu được
tinh-luyện và tạo ra những hoàn-cảnh vật-chất và môi-trường
sống thuận-lợi, thì sẽ làm phương-tiện tốt cho sự tiến-hóa
của tinh-thần, nên trong các phương tu-luyện rất chú-ý
rèn luyện thể-lực và tổ-chức đời sống, xếp-đặt sự ăn ở
cho ổn-định, để thể-lực thăng-hoa thành khí-lực, rèn
luyện khí-lực chuyển-hóa trở thành thần-lực, gọi là
luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần. Ngoài ra còn
tinh-luyện các yếu-tố vật-chất đã cấu tạo nên xác thân
đó là luyện ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Ở con
người còn có phương luyện năm yếu tố này, tức là luyện
các cơ-quan tổ-chức tạng-phủ như Tâm (hỏa), Can (mộc),
Tỳ (thổ), Phế (Kim), Thận (Thủy), bằng ẩm-thực tinh-khiết,
tinh-thần trong sạch, để nó được hoàn-hảo, vô bệnh, thì
thân-thể sẽ cường-tráng, ngũ-khí sẽ thăng-hoa, con người
sẽ không bị tật-bịnh, đau-khổ, phiền-não, nên Thánh-ngôn
của Chơn-linh Đoàn-thị-Điểm giáng cơ có câu:
Ngũ khí thanh diệt-trừ quả-kiếp,
Linh-quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần
linh-thiêng.
(Nữ Trung Tùng Phận).
Phương tu-luyện này
gọi là luyện Tam-bửu Ngũ-hành. Theo đó Cao-Đài giáo mặc-nhiên
xác-nhận sự tiến-hóa của
thân-xác là một yếu-tố trong sự tiến-hóa của linh-hồn.
Nhưng chủ-yếu là con người cũng phải có quyết-tâm, có
thiên-hướng, biết tổ-chức một cuộc sống ổn-định, biết
áp-dụng một phương-pháp dưỡng-sinh đặc-biệt, tức là cũng
đòi hỏi sự đóng góp tích-cực của tinh-thần là điều
quan-trọng, chứ không phải phó mặc cho hoàn cảnh
tự-nhiên đưa đẩy đến đâu hay đến đó, hoặc sống một cuộc
đời trác-táng, phóng-túng, buông-thả mà có được.
Điều nầy sẽ đề-cập chi-tiết hơn ở phần phương-pháp
tu-luyện xác-thân
- Phần tâm-linh:
Nếu tâm-linh được
tu-luyện để có một tinh-thần, một ý-chí tích-cực, cũng
sẽ ảnh-hưởng quan-trọng đến thể-chất, điều này rất
hiển-nhiên. Những người có một đời sống tinh-thần hiền-lương,
đạo-hạnh cao-khiết, luôn có mục-đích hướng thượng, thì
thân-thể luôn đạo-mạo, phương-phi, cường-tráng, còn
những kẻ dã-tâm, ác-độc, sống tùy-tiện,
buông thả, thì hình-thù cổ-quái, dị-hợm, thân-thể và
tinh-thần bệnh-hoạn. Như vậy tùy ở sự điêu-luyện tinh-thần
tốt đến bực nào, thì phần thể-chất cũng có ảnh-hưởng tương-ứng,
và cũng đồng quan-điểm với thuyết di-truyền của Mendel
và Darwin, là sự tốt lành này cũng sẽ truyền lại cho con
cháu.
Nên thế-gian mới có
câu:
“ Con nào chẳng giống mẹ cha,
Cháu nào lại chẳng giống bà giống ông”.
hoặc là:
“Mẹ hiền thì sinh con hiền.
Mấy đời mẹ cú con tiên bao giờ”
Hai câu nầy có nghĩa
là con cháu sẽ giống cha mẹ ông bà, và cha me hiền-lương
thì sinh con cái đạo-đức, còn cha mẹ dữ thì sẽ sinh con
độc-ác xấu-xí, chứ không thể đẻ ra con hiền-hậu tốt lành
như tiên được.
Theo quan-niệm tiến-hóa
của Cao-Đài-giáo thì con người có thể tự làm chủ chính
mình, hướng-dẫn sự tiến-hóa của chính mình, chứ không phải
phó mặc cho hoàn-cảnh tự-nhiên đưa đẩy, vì nếu phó-mặc
cho hoàn-cảnh, thì có thể có những biến-dị tốt, nhưng
cũng có thể có những biến-dị xấu, làm thoái-hóa đi,
khiến cho con người phải gây ra tội-lỗi sa-đọa cho chính
mình, mà còn di-hại đến nhiều thế-hệ con cháu mai sau
nữa.
Tóm lại sự tiến-hóa
là con đường Thượng-Đế đã vạch sẵn cho chúng-sanh và ban
cho chúng-sanh một bản-chất hướng-thượng. Nên dù
muốn hay không chúng-sanh vẫn ở trong cái vòng
xoay-chuyển đó, và cái già cái chết luôn luôn đẩy con người
tiến về phía trước mặt. Trong quá-trình đưa con người từ
cõi giả đến cõi chơn, từ nơi
tối tăm đến nơi sáng suốt, từ trong cõi luân hồi sanh tử,
đến chỗ trường-sanh bất-tử, con người có hoàn-toàn tự-do
định-đoạt lấy số phận của mình, có quyền-tự chủ dìu-dắt
thiên-lương của mình. Nên kinh Thiên đạo có câu:
Dù cho phải mực Thiên điều,
Cũng quyền tự chủ dắt-dìu
thiên- lương.
(Kinh Giải-oan)
Do đó trên cõi
trần trình-độ tấn-hóa không đồng đều, là do kẻ thì
tích-cực nhanh chân, người thì lơ-là chậm bước. Sự tấn-hóa
trên đường đạo-hạnh đều do nơi mỗi người có muốn cùng
không muốn. Nên Thánh-giáo Chí-Tôn đã dạy rằng:
Thầy đến độ rỗi
các con là lập-thành một trường công-đức cho các con nên
đạo. Vậy đắc-đạo cùng chăng là tại các con muốn cùng chẳng
muốn.(TNHT/Q1/ tr.26).
Nếu con người cứ vững
tâm tiến bước theo đường Đạo, thì sự tiến-hóa
sẽ thành-đạt. Đức Chí-Tôn đã khẳng-định rằng:
Các con duy có
trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lên tới,
đừng gấp quá, mà cũng chớ thối lui, thì một ngày kia sẽ
đặng toại kỳ sở nguyện (TNHT/QI/tr.61).
NGUYÊN-NHÂN SỰ SA NGÃ VÀ CHẬM TIẾN CỦA CON NGƯỜI
Chịu ô-trược chơn-thần nặng trĩu,
Mãnh hình-hài biến-biểu lương tâm.
(Kinh Giải-oan).
Con người được Thượng-Đế tạo-dựng, Ngài đã ban cho cái
thiên-tánh vốn lành, và một thiên-hướng tiến-hóa,
nhưng khi nhập-thế, càng nặng mang phàm-thể, khiến cho
tư-tưởng, lý-trí và tình-cảm xu-hướng theo vật-chất, nặng-nề
ô-trượt, càng bị lục dục, thất tình sai khiến mà phải cưu-mang
tục-lụy, càng mất dần tánh trọn lành. Nên khiến con người
chậm tiến-hóa, mà phải luân-hồi triền-miên từ kiếp này
sang kiếp khác, dập-dồn trong luật nhân-quả trả vay, làm
cho sự phản-bổn hoàn-nguyên càng ngày càng xa dần, khó
mà trở về ngôi vị thiêng-liêng của mình, vì thế trong
kinh Thiên-Đạo có câu:
Bước đường sinh tử đã chồn
Oan oan nghiệt-nghiệt dập dồn trái căn
(Kinh giải oan)
hoặc
là:
Phong-trần vui thú cung âm,
Cảnh thăng ngơ-ngẩn lạc-lầm phong-đô
(Kinh Giải-oan)
Vì con người khi đã vào vòng sanh-tử, mang lấy mãnh
hình-hài, phải lo ăn mới sống, lo mặc mới lành, lại còn
chịu sự đòi hỏi của thân xác,
nên càng tạo thêm nhiều oan-nghiệt của chính mình gây
ra, đồng-thời còn gánh thêm món nợ tiền-khiên của tổ-phụ
lưu-truyền, nên làm cho kiếp người đắm-chìm vào tục- lũy,
khiến chơn-thần mỗi ngày càng thêm ô-trược nặng-nề, làm
cho đường về thiên-cung phải lỡ bước. Sự-kiện này
kinh Thiên-Đạo đã cho chúng ta thấy cái nguyên-nhân như
sau:
Dòng khổ hải hễ thường
chìm đắm,
Mùi đau thương đã thắm chơn-linh,
Dây oan xe chặt buộc mình
Nhớp-nhơ lục dục thất tình nhiễm
thân.
Chịu ô trược chơn thần nặng
trĩu.
Mảnh hình hài biến biểu lương tâm
(Kinh Giải-oan)
hoặc là:
Khối trái-chủ chẳng lo vay
trá,
Mới gầy nên nhân-quả nợ đời.
Rảnh mình đâu đặng thảnh thơi,
Thiên-cung lở lối chơi-vơi cõi
trần...
(Kinh Giải oan).
Tuy là trí-lự khôn-ngoan của con người cũng như
Thánh-tâm do quyền thiêng-liêng khai mở, nhưng Đại-Từ-Phụ
dù có thương xót bao nhiêu, cũng vì luật công-bình, nên
phải để cho con người có quyền tự-do, tự-giác, tự-nguyện
trở về với Ngài. Nên kinh Thiên-đạo nói rằng:
Dù cho phải mực Thiên-điều,
Cũng quyền tự-chủ dắt-dìu thiên-lương ï.
(Kinh giải oan).
Thượng-Đế tạo-dựng ra loài người, Ngài đã dành cho nhiều
đặc ân, nhưng tại con người mê-luyến hồng-trần mà phải
sa-đọa, lý-do sự sa-đọa này Đức-Chí-Tôn
đã cho biết như sau:
Ôi! Thầy sanh các
con thì phải yêu-trọng các con chẳng cùng, mà Thầy cho
các con đến Thế-giới này với một Thánh-thể thiêng-liêng,
y như hình ảnh của Thầy, không ăn mà sống, không mặc mà
lành, các con lại không chịu, nghe điều cám dỗ
mê-luyến hồng-trần, ăn cho phải đọa, dâm cho phải đày,
nên chịu nạn áo cơm, dục quyền, cầu lợi.
LỢI, Thầy cũng đã
dành cho các con chung hưởng cùng nhau, mà cũng vì tham,
đứa chứa nhiều, đứa nhịn đói.
QUYỀN, Thầy cũng đã
ban cho các con in như Thầy đã ban cho chư Thần, Thánh,Tiên,
Phật, hầu cho đủ thế kềm-thúc lấy nhau đặng giữ vẹn
thánh-chất yêu sanh của Thầy, mà quyền ấy trở nên một
cơ-chế buộc trói nhơn-sanh trong vòng tôi mọi. Ôi! Thảm
thay! Cái thất vọng của Thầy rất nên ghê gớm, các con có
hiểu vì sao mà cả nhơn-sanh gian-tham chăng? Thì cũng
muốn cho nhiều sanh-mạng chịu phục dưới quyền thế lợi
lộc đó, vậy sự yếu-trọng của con người là nạn cơm áo;
nắm chặt quyền phân phát cơm áo, thì chưa ai đã chịu
thọ-sanh nơi thế này lánh khỏi.
Muốn cho đặng
quyền-hành ấy phải làm thế nào?
Dùng hết mưu chước
quỷ quyệt, thâu đoạt cho đặng lợi lộc quyền thế cho
nhiều, vì vậy mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh-tranh,
đấu-đấu, giựt-giựt, rành-rành,
gây nên mối loạn, nhân loại nghịch lẫn nhau, giúp cho
phép tà quyền mạnh hơn yếu thiệt, mất phép công- bình,
thiêng liêng tạo-hóa; cái trường thảm-khổ của thế gian
do nơi đó mà ra.
( Thánh ngôn hiệp
tuyển/ Quyển 2/ trang 63)
Còn một nguyên-nhân
nữa làm cho con người sa-đọa
là không kể đến luân-hồi, nhân-quả, cho đời người chỉ ngắn
gọn trong một kiếp sanh, từ chiếc nôi đến nấm mồ, khi chết
là mất, nên hung-hăng, tàn-bạo. Đức Chí-Tôn cũng
nói về số người này như sau:
Thầy, các con!
Cái tình cảm-hóa của con người
là tình thường ứng hiệp với trời đất, cho nên khi tâm
tịnh thường cảm hoài, hằng tìm nơi u huyền mà nghĩ-nghị
trong trí khôn; ấy là kẻ có sẵn tình ý thiên-nhiên tạo-hóa;
còn có một hạng người cũng có tánh thiêng-liêng ấy, nhưng
lại không để trí khôn vào lối cao thượng, mà cứ quen
thói hung hăng, nghĩ những việc bạo-tàn, làm những điều
tội lỗi; ấy là những kẻ nghịch thiên, không biết luân
hồi là chi cả. Chúng nó lại tưởng rằng kiếp người là kiếp
sống chỉ có bây giờ rồi tiêu mất, nên tởm những chước
sâu, kế độc cho đặng của nhiều, no lòng sướng dạ, trối
kệ luân-hồi.
Thầy hỏi: Vậy chớ
cái trí khôn cứa con người biết thương, ghét, vui, buồn
ma ẵ toàn trong nhơn loại đều có, khi rốt cuộc thì trí
khôn ấy đi đâu?- Thầy hỏi như vậy đặng cho các con mỗi đứa
về suy nghĩ mà trả lời cho mình.
Hễ trả lời phù hợp
thì dễ biết Đạo, còn ngu xuẩn thì cũng hườn ngu xuẩn...(TNHT/QI/trang
94).
Trên đây là tất-cả
những nguyên-nhân làm cho con người sa-ngã, không thể tiến
thân trên con đường tấn-hóa
mà Thượng-Đế đã vạch sẵn.
Theo Đức Phật Thích-ca
nói về nguyên-nhân làm cho con người sa-đọa,
tiếp-tục trong vòng luân-hồi sanh-tử, gồm có mười hai
nguyên-nhân còn gọi là thập nhị nhơn duyên, xoay vần tiếp
nối lẫn nhau, như sợi dây móc xích có mười hai khoen,
làm thành vòng tròn khép kín, liên tục trong ba đời;
quá-khứ hiện-tại và vị lai, làm con người không lối
thoát. Mười hai nguyên-nhân đó kể ra theo thứ tự
sau :
1)-Vô minh :
chúng sanh vì đời trước mê lầm thiếu sáng-suốt.
2)- Hành : Vì
căn bản vô minh, không phân biệt thiện ác, nên hành-động
sai trái, tạo ra nghiệp chướng.
Hai món vô-mình và
hành làm nhơn quá-khư tạo thành quả-nghiệp lưu lại trong
thần-thức,
3)- Thức : Tức
là thần-thức, sau khi chết nghiệp lực dẫn dắt thần thức
là phần tinh-thần trong con người đi đầu thai gọi là thọ
thân, tức là có danh sắc.
4)- Danh sắc :
Danh chỉ cho tâm, về phần tinh-thần,chỉ có cái tên; có
sắc là xác-thân về phần vật-chất. Danh sắc là chỉ cho
trạng-thái khi mới đầu kiếp, tinh -thần và vật-chất mới
vừa phối-hợp..
5)- Lục nhập :
Sáu chỗ vào. Khi thân thể đã đủ lục căn đó là: nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý ; là chỗ của sáu trần cảnh,
gọi là lục trần đó là: sắc: cảnh mắt thấy,
thanh: tiếng nghe vào tai, hương: mùi thơm
vào mũi, Vị: vị nếm của lưỡi, Xúc: các ngoại
cảnh tiếp xúc với thân, Pháp: phần hiểu biết của
ý thức, (nó không biểu hiện ra ngoài, nhưng đối với nội
tâm, như ý thức ham muốn chẳng hạn, chúng ta có thể tự
thấy rõ ràng)
6)- Xúc : Khi
có sáu căn ( tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý) thì phải tiếp
xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp)
7)- Thoï : Khi
sáu căn tiếp xúc với sáu trần, thì sinh ra sự nhận lãnh
các sự vui hay khổ gọi là thọ.
Năm món: thức, danh-sắc,
lục- nhập, xúc, và thọ là quả hiện tại.
8)- Ái : Khi
thọ quả hiện tại, thì trở lại tạo ra nhân nữa là ưa
thích, gọi là Ái.
9)-Thủ : Khi ưa
thích thì muốn tìm cầu giữ lấy cho có gọi là Thủ.
10)- Hữu : Khi
ưa thích thì tìm cầu giữ lấy cho có gọi là Hữu.
Ba món Ái, Thủ, Hữu
làm nhơn hiện tại, là cuối cùng của vô-minh.Từ đó tạo
nghiệp cho thân sau là đời vị lai.
11)- Sanh : Khi
ưa thích (ái) tìm cầu (thủ) để cho có (hữu) nên tạo ra
nghiệp, cho thân sau, kiếp vị-lai, tức là sanh.
12)- Lão, tử :
Khi có thân tức phải có thức, danh-sắc, lục-nhập, xúc,
thọ, rồi già phải chết.
Sanh, lão và tử là quả
vị-lai, rồi tạo nhơn nữa ( ái, thủ, hữu),
để thọ quả vị lai lần nữa, cứ thế nối tiếp cho đến vô
cùng tận.
Nguồn gốc của sanh tử
luân hồi là do mười hai nhơn-duyên nêu trên, nhưng
trọng-tâm là vô-minh. Con người muốn dứt sanh-tử
luân-hồi, tức là Phải diệt trừ vô - minh, thì hành cũng
diệt; tức là đạt đến nấc thang cuối cùng của sự tiến-
hóa, là đạt Đạo, xa lìa sanh
tử.
Bởi do vô minh mà con
người chấp giả làm chơn, nên bị trái-oan ràng-buộc:
Thiệt thì bỏ, giả vây nên nợ,
Mãn căn sanh chưa mở dây oan.
(Trích Nữ Trung Tùng Phận).
Vì sự sinh tử dập-dồn,
mỗi kiếp sanh cứ tạo ra thêm nghiệp chướng, rồi chìm đắm
nơi dòng khổ-hải, sự đau thương sẽ thấm sâu vào chơn-tánh,
dây oan nghiệt cứ ràng buộc thân xác, nên không thể tiến
xa trên con đường Thánh đức. Đó là lý do sự sa ngã chậm
tiến của con người.
Vậy con người muốn
thoát ra khỏi chìm đắm sa ngã, thì phải nương vào cửa
Đạo, lấy ánh sáng đạo mầu soi rọi, mới phá tan được màn
vô minh, dù cho Tiên Phật bị đọa-trần cũng phải bước
theo con đường này mà thôi. Nên Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
Đạo tức là con đường
để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo đó mà hồi
cựu-vị Đạo là con đường của các nhơn-phẩm do theo mà
lánh khỏi luân hồi... Lấy Đạo trau Đời, mượn Đời giồi
Đạo, Đạo nên Đời rạng, giũ áo
phồn hoa, nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc, tự thanh cao,
nếm mùi tự tại, dưỡng chí thanh nhàn có gì hơn.
(TNHT/Q2/tr.03).
Con người phải quyết
tâm đi trên đường Đạo thì mới tránh được sự đọa đày đời
đời, kiếp kiếp. Đức Chí Tôn đã dạy rằng:
Đạo Trời khai ba lượt,
khách tục lỗi muôn phần, khách trần ai vẫn lấy sự vui vẻ
vô vị chốn sông mê nầy mà quên trọn các điều đạo đức của
các đấng Thánh trước Hiền xưa. Chung đỉnh mãn tranh
giành, lợi- danh thường chác buộc, kiếp phù sanh không
mấy lúc, đời giả-dối chẳng là bao. Sanh đứng làm người,
trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc-biệt, đã chẳng
lo bước hành trình cho xong mà đắp - bồi nợ mãnh hình
hài, ngọn rau tấc đất, lại chác lấy điều phiền não ưu
-sầu, lấy Thánh - đức gọi là chơi, mượn hành - tàng vô
nghĩa mà làm cho vừa lòng ái-mộ bất-lương. Cái xuân kia
chẳng đợi người, mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ
lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt-thúc, con đường hy-vọng
chẳng biết đâu là tột cùng, mà bước đời xem đã mòm mỏi,
sự thác vô tình sẽ đến mà vẻ cuộc sanh-ly, pha màu
tử-biệt, làm cho sự vui-vẻ giàu-sang danh-vọng, đều
thành ra một giấc huỳnh-lương, rồi đây vĩnh-biệt ngàn
năm tội tình muôn kiếp. Đài nghiệt cảnh là nơi
rọi sáng các việc lỗi-lầm, bước luân-hồi sẽ dẫn vào nơi
u-khổ, cùng sầu, mà đọa-đày đời-đời, kiếp-kiếp, ấy là
buổi chung quy của khách trần đó. Nguồn Tiên, Đạo Thánh
dìu bước nhân sanh, tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường
ngay, mà lần vào nơi cực-lạc an-nhàn, rừng tòng suối lặng,
động thẳm non xanh, để mình vào bực thanh cao, thoát
khỏi chốn luân-hồi ràng buộc, ai mau bước đặng nhờ thân,
ai luyến trần cam chịu khổn. Đạo Trời mầu nhiệm, khá
biết xét mình sau khỏi điều tự hối. Chúng sanh khá biết
cho. (TNHT/Q1/ tr84).
Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu
đã tạo dựng ra con người, cưu-mang chúng ta hàng vô số
kiếp, nhất là đối với những linh hồn sa đọa, Đại Từ-phu
giống như các bậc cha mẹ thế gian, có những đứa con ăn
chơi sa đọa, ra đi biệt tích không trở lại quê hương. Sự
việc của thế gian nó cũng giống như cõi
thiêng-liêng, đứa con phàm cũng giống như đứa con Trời,
cha mẹ nào lại không muốn con mình công thành danh toại,
nhưng với điều-kiện là chính nó phải tự ý, tự tạo tương-lai
cho chính mình nó thi mới được.
Theo chơn-truyền của
Cao-Đài giáo thì Thượng-Đế là cha của cả chúng sanh,
Ngài đã cho con cái xuống trần để học hỏi ở tại trường đời,
hầu mở mang thiên tánh Ngài đã ban, nhưng vì nhập thế
chi mê, nên quên mất căn-nguyên bổn-tánh và cội nguồn
của mình, lại còn mang mãnh hình hài phải chịu muôn ngàn
cay đắng, bao nhiêu thử thách nhọc nhằn, bao nhiêu
nghịch cảnh xót xa, trăm nghìn sầu khổ. Trước cảnh khổ
của trần gian đối với những linh hồn mạnh mẽ
thì đó là một dịp rèn luyện. một cơ hội tiến thân,
còn đối với những linh hồn yếu đuối thì đó là một bể khổ
mênh mông, làm họ chìm đắm. Nên Honoré de Balzac đã nói
rằng:
“Cảnh khổ là một
nấc thang cho bậc thiên tài, một kho tàng cho người hiểu
biết, một vực thẳm cho kẻ yếu hèn”.
Bởi thế nếu người
biết lợi dụng cảnh khổ, thì thiên tánh sẽ phát triển,
trí huệ sẽ mở mang, còn kẻ yếu hèn thì sẽ hứng chịu hết
đau khổ này đến đau khổ khác, rồi lương-tâm thui-chột,
trí-huệ mê-mờ. Nên chúng ta có thể nói rằng. Sự đau khổ
là kết quả của vô-minh và sự cố-gắng là mầm giải thoát.
Nhờ đau-khổ và cố gắng mà con người bước tới lần lần
trên con đường tiến-hóa. Chính con người dệt ra số mệnh
của mình,và tùy hành-tàng của
mình ở đời mà được giải thoát hay là bị đọa-đày.
Do đó từ nghìn xưa
các bậc độ-đời cứu-thế, đã tùy trình-độ của chúng sanh
mà đề ra nhiều phương pháp xử trí với cảnh khổ khác nhau,
mục đích giúp cho con người biết sử
dụng nó để làm nấc thang thăng tiến. Theo Đức Hộ-Pháp
thì tôn-chỉ của các tôn-giáo xưa nay chỉ dùng chữ Khổ
làm đề-mục trong môn học ở trường đời. Đức Ngài
tóm-lược như sau:
-
Phật vì thương đời mà
tìm cơ giải khổ
-
Tiên vì thương đời mà
bày cơ thoát khổ
-
Thánh vì thương đời mà
dạy cơ thọ khổ
-
Thần vì thương đời mà
lập cơ thắng khổ
-
Hiền vì thương đời mà
đạt cơ tùng khổ
(Trích bài diễn văn
của Đức Hộ Pháp đăng trong quyển Tân-Luật /Pháp Chánh
Truyền/ trang 66 )
Tùy thứ bực tiến hóa
của chúng sanh, mà có mỗi loại chơn-hồn có phương xử-trí
với cảnh khổ khác nhau; như bậc hiền-nhân quân tử thì phải
biết tùy theo sự khổ để luyện mình, rồi phẩm-vị càng cao,
thì mới có thể chiến thắng nó, chịu đựng dễ
dàng với nó, rồi thoát khỏi nó, sau mới tìm ra phương-pháp
giải-khổ cho tất-cả chúng-sanh thoát khỏi vòng luân-hồi
sanh-tử. Phương-pháp này Đức Thích Ca đã giải rõ trong
tứ diệu-đề là:
-
Khổ đề : Trình bày
cho chúng sanh thấy rõ tất cả
sự khổ trên thế gian mà họ phải nhận lãnh.
-
Tập đề : Tập là
nhóm chứa, Tập đề chỉ ra nguyên nhân tất cả sự khổ do đâu
mà có.
-
Diệt đề : Phương-thức
hướng-dẫn con người tránh sự khổ.
-
Đạo đề : Là con đường
dẫn đến chỗ tận diệt khổ.
-
Trong giáo lý
Phật giáo có cả thảy tám con đường gọi là Bát chánh đạo
đó là:
-
Chánh kiến (thấy đúng
theo chân lý).
-
Chánh tư duy (tư-tưởng
chơn chánh).
-
Chánh ngữ (lời nói chơn
chánh).
-
Chánh nghiệp (việc làm
chơn chánh).
-
Chánh mạng (đời sống chơn
chánh).
-
Chánh tinh-tấn (sự cố-gắng
chơn-chánh).
-
Chánh niệm (tưởng-niệm
chơn-chánh).
-
Chánh định (định-tâm chơn
chánh).
Đó là tám con đường
diệt hết sự khổ.
Đức Samyutta Nikaya
còn khuyên con người nên chuyên chú vào Tứ-diệu-đề như
sau:
Đừng để tâm trí vào
những tư tưởng sau đây:
Thế giới là thường,
Thế giới là vô thường,
Thế giới là hữu
hạn,
Thế giới là vô biên.
Nhưng hãy
để tâm trí vào những tư tưởng sau đây:
Đây là đau khổ,
Đây là nguồn gốc
của đau khổ,
Đây là cái làm hết
đau khổ,
Đây là con đường
đưa đến diệt tận khổ.
(Phật-ngôn/Samyutta
Nikaya).
Chung quy các tôn-giáo
trên thế gian cũng chỉ có một mục đích là chỉ lối đưa đường
cho chơn sanh biết lánh dữ làm lành, để khỏi mắc nhiều
nghiệp-chướng mà đọa-lạc trầm-luân. Nên Đức Hộ-Pháp đã
tổng kết lại như sau:
Tư duy của cả Tôn
giáo đã lập thành nên Đạo. Chữ Đạo là Đường đặt ra bởi
đó, đặng dìu dắt nhơn sanh khỏi bước đời gay trở; cốt
yếu là lập mục đích, định chuẩn-thằng cho kẻ trước hiệp
người sau, kẻ kim hòa người cổ, tóm cả trí-lự của nhơn
loại, đặng làm ngọn huệ-quang soi rọi khắp nhơn gian, mượn
cả sự tội tình sầu-thảm của thế, mà tạo Bát nhã thuyền,
đặng vớt người qua khổ hải. (Diễn-văn Đức Hộ-Pháp đăng ở
Tân-luật Pháp Chánh-truyền/ tr 66).
Con đường tiến-hóa ở
thế gian nó không bằng-phẳng mà rất là chông gai, khổ hạnh,
dù cho căn Tiên cốt Phật hễ
đã vào vòng thế tục, cũng khó mà thoát khỏi cửa luân-hồi
chuyển-kiếp một cách dễ dàng. Nên Đức Hộ-Pháp đã
nói về cơ trả vay trong trường tấn-hóa của các đẳng chơn-hồn
như sau:
Hễ có vay thì có
trả, có thỉ ắt có chung, có gầy tự-nhiên có lập (toute
cause a son effet): trong trường hợp hỗn-độn nầy, đã
sanh biết bao oan-nghiệt tội-tình, làm cho các đẳng
linh-hồn, dầu cho còn giữ nguyên- linh, biết tự trọng,
tự bảo mình đi nữa, vì trược-nhiễm, cũng khó mong thoát
đặng dễ dàng khỏi cửa luân hồi chuyển-kiếp.
Đã có tấn ắt có
thối, đã dở phải tìm hay, đã tà thì tìm chánh, đã dử ắt
tìm lành (la loi des réparations), mỗi cuộc đua-tranh đã
gây biết bao oan-gia, trái chủ, buộc các Đấng
Thiêng-liêng, dầu cho đặng cao-thăng, biết dưỡng-chí,
tu-tâm đi nữa, cũng bởi lẫn-truất thương-sanh, mà phải
phế hủy kiếp-duyên, chịu đọa đày nơi trần tục.
Cái cơ tấn hóa
thiêng-liêng vẫn thế, chẳng khác nào như có một quyền
hành mạnh mẽ buộc các đẳng
linh-hồn phải thuận-tùng mà lập thành địa vị, đẳng cấp,
cho đến ngang bậc cùng Trời, dầu cho Cổ-Phật cũng khó
toan tránh khỏi.
Có hữu-hình
thì chắc có vô vi, công bình tạo-đoan đã định, tại thế
này thể nào thì trên cõi hư-linh cũng vậy, chẳng khác
nào đã có mặt luật nhiệm-mầu, giục cả chơn-sanh tự-tỉnh,
lấy trí thức mà lánh dữ tìm lành, theo gương chư Hiền,
Thần, Thánh, Tiên, Phật; dầu cho Đức Chí-Tôn cũng phải
chiều theo phép mà tạo-thời cải-thế.
Phép của Trời có
một, là thương khắp cả chúng sanh, nên định cho phẩm vị
hữu-hình và thiêng-liêng có
một, nghĩa là phải tương-đắc cùng nhau, đặng định-quyết
phép công bình lành thăng dữ đọa. (Trích diễn
văn Đức Hộ-Pháp đăng trong Tân luật/ Pháp chánh-truyền/
tr 66-67).
Tóm lại sự chậm tiến-hóa
và sa-ngã của loài người theo triết-học của Cao-đài-giáo
gồm có hai nhân-tố tạo-thành:
-
Nhân-tố chính-yếu là do
vô-minh, con người không hiểu rõ chân-lý mục-đích của
cuộc sống, nên không hướng-dẫn được thân xác, tình cảm
và lý trí; để nó tự phóng-túng, làm những điều tội lỗi.
-
Nhân-tố trợ-duyên là
danh-lợi buộc-ràng, trần-duyên xúi giục,
tạo ra oan-trái mà chịu trong vòng luân-hồi, nhân-quả
trả vay, làm cho lương-tâm mờ-ám, mà quên cả ngôi xưa vị
củ.
-
Do đó Đức
Chí-Tôn khai Đai-Đạo Tam-kỳ Phổ-độ là để cứu vớt
chúng-sanh khỏi sự trầm-luân sa-đọa,
nhưng nếu con người không chịu thức-tỉnh để tự giải-thoát
lấy minh, thì Đức Chí-Tôn cũng không thẻ bồng ẵm mà đỡ
lên cho đặng, nên Ngài đã khẳng-định như sau:
Lựa lèo lựa thế độ
nhơn-sanh,
Khó dễ Thầy cho hiểu
ngọn ngành.
Ám-muội thì nhiều
mưu trí ít,
Đường Tiên chẳng bước
đọa thì đành.
(TNHT/Q1/trang1)
Cho nên tất cả các phương-thức
khắc-phục các nguyên nhân sa-đọa nêu trên, cũng chỉ nhắm
vào sự tinh-tấn của chính con người, vì vô-minh là
cội-nguồn của đau-khổ, tinh-tấn mới là mầm giải-thoát,
đưa con người trở về với Đấng Cha Lành. Đó là tất-cả yếu-quyết
trong con đường tiến-hóa của
loài người theo nhân-sinh-quan Cao-Đài-giáo.
CHUNG
Dã Trung Tử sưu tập