THIÊN BÀN THỜ TẠI TƯ GIA

Thiên Bàn thờ tại tư gia (Giáo Hữu THƯỢNG LÝ THANH)

 

 

(tiếp theo)

 

Cúng tứ thời.

 

Tân Luật: Điều thứ hai mươi qui định Chức sắc giữ Thánh Thất mỗi ngày phải làm Tiểu Lễ bốn lần theo Tứ Thời: Tý, Mẹo, Ngọ, Dậu. Mỗi thời phải cúng đúng 12 giờ khuya, 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ chiều. Ở tư gia, dầu cúng một thời nào trong Tứ Thời cũng phải giữ đúng theo những giờ đã qui định trên đây mà hành lễ.

Kinh Phật Mẫu có câu:

Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn.

Mười Thiên Can là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý hiệp với mười hai Địa Chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi mà biến hóa ra hình tượng bao la Càn Khôn Thế Giái, làm cho Thế Giái rộng lớn thêm lên.

 

Đức Chí Tôn dạy:

"Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy". Nên lạy Đức Chí Tôn 12 lạy là vậy.

Một ngày có 24 giờ, chia cho 12 tức là Thập Nhị Thời Thần, mỗi một thời có 2 tiếng đồng hồ.

Thời Tý: từ 11 giờ (đêm) đến 1giờ khuya.
Thời Mẹo: từ 5 giờ (sáng) đến 7 giờ sáng.
Thời Ngọ: từ 11 giờ (trưa) đến 1 giờ trưa.
Thời Dậu: từ 5 giờ (chiều) đến 7 giờ tối.

Thời Tý cúng đúng 12 giờ (khuya) là chính giữa của thời, là trung hòa chi Đạo. Thánh Nho có câu: "Trung giã giả, thiên hạ chi đại bản giã, hòa giã giả, thiên hạ chi đạt Đạo giã. Chí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên". Trung là cái gốc lớn của thiên hạ, hòa là cái đạt Đạo của thiên hạ. Cùng cực cả trung và hòa, thì Trời Đất định vị, vạn vật hóa dục. Lại là cái giờ giáp giới, ngày cũ hết, ngày mới bắt đầu, nên 12 giờ đêm 30 tháng 12 gọi là giờ giao thừa. Còn lại ba thời: Mẹo, Ngọ, Dậu cũng cúng đúng chính giữa thời như vậy, tức là 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ chiều.

 

Đức Chí Tôn phân định thời Tý, Ngọ cúng rượu. Mẹo, Dậu cúng trà là một ý nghĩa huyền bí cao siêu để cho con cái của Ngài được hưởng bí pháp vô vi là cái đặc ân vô giá của Ngài ban cho đó vậy.

 

Thời Tý: Là thời cực Âm sanh Dương, là thời Ngươn Khí của Đức Chí Tôn phát khởi, do nhứt điểm Dương sanh chi thủy, vận chuyển Càn Khôn hóa sanh vạn loại, nên dạy hiến rượu. Chúng ta hiến lễ Đức Chí Tôn giờ nầy, chúng ta hưởng khí sanh quang của Đức Chí Tôn làm cho khí phách của chúng ta được mạnh mẽ, trí não sáng suốt.

 

Thời Mẹo: Là thời Ngươn Thần của Đức Chí Tôn sau những giờ định tịnh mà phát khởi biến hóa, sanh trưởng muôn loài, do Âm Dương vãng lai giao thời, gọi rằng Thủy Hỏa ký tế, vạn loại hữu sanh, nên dạy hiến trà dùng Âm Dương thủy. Chúng ta hiến lễ Đức Chí Tôn giờ nầy, chúng ta hưởng được Thần lực của Đức Chí Tôn mà làm cho Chơn Thần của chúng ta được tráng kiện.

 

Theo như lời của Đức Hộ Pháp có nói: "Con người ban ngày ăn uống vật thực để nuôi lấy xác thân, ban đêm ngủ là tịnh dưỡng, nuôi nấng Chơn Thần. Dầu người có ăn cao lương mỹ vị, sau ba đêm không ngủ, thì người ấy mất Thần, sẽ chết đi mà chớ!".

 

Thấy đó, việc tịnh dưỡng Chơn Thần là một điều quan hệ vô cùng. Như chúng ta đã biết, một đêm dài nghỉ ngơi, sáng thức dậy trong người khoẻ khoắn tươi tỉnh. Học sinh học bài giờ nầy mau thuộc lòng, lại nhớ dai.

 

Người tu hành nhờ tịnh dưỡng khí thần thì mới trong sáng, xác thân khoẻ mạnh, mới có thể đi đến chỗ thành công đắc quả, tạo Tiên tác Phật được.

 

Thời Ngọ: Là thời Ngươn Khí của Đức Chí Tôn đến buổi cực thạnh, đầy đủ ánh sáng Dương quang, soi thấu cả nguồn sanh khí của toàn thể vạn loại, tức là cực Dương sanh Âm, là nguồn tịnh dưỡng Ngươn Khí, nên dạy hiến rượu. Chúng ta hiến lễ Đức Chí Tôn giờ nầy, chúng ta được hưởng khí sanh quang của Đức Chí Tôn, hàm dưỡng khí phách của chúng ta được an tịnh.

 

Thời Dậu: Là thời Ngươn Thần của Đức Chí Tôn giáng hạ và tịnh dưỡng, cũng do Âm Dương giao thời, Thủy Hỏa ký tế, vạn loại toại yên, nên dạy hiến trà. Chúng ta hiến lễ Đức Chí Tôn giờ nầy, chúng ta được hàm dưỡng Chơn Thần an tịnh.

 

Việc dâng Tam Bửu lên Đức Chí Tôn là một điều hết sức quan trọng. Chỉ cúng lễ Đại Đàn và Tiểu Đàn mới được trọn dâng Tam Bửu mà thôi.

 

Cúng Đại Đàn, thì chỉ có nơi Tòa Thánh mới được cúng, còn các Thánh Thất, thì cúng Tiểu Đàn. Ở tư gia cúng thường mà thôi.

 

Vậy chúng ta phải năng đến Tòa Thánh hoặc các Thánh Thất cúng Đàn để được dâng Tam Bửu lên Đức Chí Tôn.

 

Theo Tân Luật qui định, người Đạo mỗi tháng phải đến Thánh Thất hiến lễ trong hai ngày Sóc Vọng. Điều nầy, chúng ta cũng không còn chối cãi gì mà không làm cho hết bổn phận, vì một tháng chỉ có hai ngày mà thôi.

 

Cầu nguyện dâng tam bửu.

 

Khi dâng bông: Con nguyện dâng hiến thể xác nầy cho Thầy tùy phương xử dụng. Xin Thầy ban ân lành cho thể xác con được mạnh khỏe, và tươi tắn như hoa kia vậy.

 

Khi dâng rượu: Con nguyện dâng hiến trí não của con cho Thầy tùy phương xử dụng. Xin Thầy ban ân lành cho trí não con được sáng suốt, và mạnh mẽ như chất rượu kia vậy.

 

Khi dâng trà: Con nguyện dâng hiến Chơn Thần cho Thầy tùy phương xử dụng. Xin Thầy ban ân lành cho Chơn Thần con được tráng kiện, và thơm tho như mùi trà kia vậy.

 

Đọc luôn câu kết: Con nguyện dâng hiến cả thân thể, trí lực, Chơn Thần nầy lên cho Thầy dùng làm con tế vật hy sinh để cứu khổ nhơn loại.

 

Chúng tôi xin trích đọan lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp về việc dâng TAM BỬU:
Thuyết Đạo Đức Hộ Pháp,  Q.1 ngày 01-12-1948

Bần Đạo xin nhắc lại một phen nữa khi vào hành lễ lúc dâng Tam Bửu. Hễ dâng bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta tức là tượng hình xác thịt của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí Tôn: "Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng"

 

Khi dâng rượu cầu nguyện: "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".

 

Khi dâng trà cầu nguyện: "Con xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".

 

Câu chót nếu chúng ta khôn ngoan nguyện như vầy: "Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài con Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định". Đó, ta cầu nguyện như vậy với Chí Tôn.

Phải năng cúng kiến, cúng phải nghiêm trang.

 

Phải năng cúng kiến:

Thánh Giáo của Đức Quan Âm Bồ Tác dạy:

"... Các em phải lo cúng kiến thường:

Một là lập cho Chơn Thần được gần gũi các Đấng Thiêng Liêng cho đặng xán lạn.

Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.

Ba là có tế lễ thì tâm mới có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.

Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri, lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ. Các em nhớ à! ..."

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 08--05-1933).

 

Cúng phải nghiêm trang:

 

Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy:

"Thầy hằng nói với các con rằng: "Thà là các con lỗi với Thầy, thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng động đến oai linh chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, vì họ chẳng tha thứ bao giờ."

Thầy lại cũng đã nói: "Mỗi khi Chơn linh Thầy giáng Đàn, thì cả vàn vàn muôn muôn Thần, Thánh, Tiên, Phật theo hầu hạ. Các con nếu mắt phàm thấy đặng, phải khủng khiếp kinh sợ vô cùng! Nhưng thấy chẳng đặng, nên tội cũng giảm nhẹ đó chút.

 

Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng Chơn linh ấy! Thầy phải thăng cho các con khỏi hành phạt. Thầy chẳng buổi nào chấp trách các con, bởi lòng thương yêu hơn chấp trách rất nhiều. Sợ là sợ cho các con mất đức với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

 

Xem đó, thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm! Vì Thầy là bậc Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh hễ các con có lỗi, thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con nghe à!"  

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 15-10-1926)

 

Nếu hiến lễ Đức Chí Tôn mà không nghiêm là một điều bất phước cho chúng ta đó vậy. Chúng ta sẽ bị Thần, Thánh, Tiên, Phật quở trách mà chúng ta không hề hay biết, đến khi chúng ta biết được thì chừng đó ăn năn đã muộn. Nên chúng ta phải hết sức cẩn thận, và cúng lễ Đức Chí Tôn phải thật nghiêm trang, thì mới khỏi phạm vào cái lỗi ấy.

 

Ngày xưa, chỉ có Thiên Tử mới tế Trời, còn từ quan dĩ chí thứ dân chỉ được tế Tổ Tiên mà thôi.

Nay gặp Đại Ân Xá kỳ ba, Đức Chí Tôn cho mỗi người dân, tức là mỗi Tín đồ được tế Trời, thì không còn vinh diệu nào bằng. Như thế, chúng ta phải năng săn sóc Thiên Bàn cho được tinh khiết, phải năng cúng kiến để giúp ích cho chúng ta, và khỏi phụ lòng từ bi của Đức Chí Tôn giáng dạy chúng ta trong kỳ Ân Xá nầy, để khỏi thất lễ trong việc thờ phượng.

 

Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát

 

Chung

 

* * * 

Phụ lục: Thánh ngôn Đức Chí Tôn.

Phần nầy tôi xin ghi lại Thánh Ngôn Đức Chí Tôn cách lạy trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ, cũng như lời giảng huấn của Đức Quyền Giáo Tông và của Hội Thánh, để quí vị lãnh hội và thực hành cho đúng với phương thức lễ nghi của Đạo.

Thánh Ngôn Đức Chí Tôn:

Lạy là gì?
-Là tỏ ra bề ngoài, lễ kỉnh trong lòng.

Chấp hai tay lạy là tại sao?
-Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm Dương. Âm Dương hiệp nhứt, phát khởi Càn Khôn, sanh sanh hóa hóa, tức là Đạo.

Lạy kẻ sống hai lạy, là tại sao?
-Là nguồn cội của nhơn sanh, lưỡng hiệp Âm Dương mà ra. Ấy là Đạo.

Vong phàm lạy bốn lạy là tại sao?
-Là vì hai lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Địa.

Lạy Thần, lạy Thánh thì ba lạy là tại sao?
-Là lạy Đấng vào hàng thứ ba của Trời, và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là Đạo.

Lạy Tiên, lạy Phật thì chín lạy là tại sao?
-Là lạy chín Đấng Cửu Thiên Khai Hóa.

Còn lạy Thầy mười hai lạy là tại sao?
-Các con không biết đâu. Thập Nhị Khai Thiên là Thầy, Chúa cả Càn Khôn Thế Giới, nắm trọn Thập Nhị Thời Thần vào tay. Số mười hai là số riêng của Thầy.

(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1, ngày 25.2.1926)

 

* * *

Phụ lục: Lời giảng dạy của Đức Quyền Giáo Tông.

 

1. Cách lạy thường cúng tứ thời

Trước khi phải đánh ba tiếng chuông rồi, thì sửa soạn khăn áo đèn nhang cho đủ. Như có nhiều vị cúng Đấng Từ Bi, thì phải vào Điện Thờ mà sắp bài ban, đứng cho ngay hàng hai bên.

 

Nghe ba tiếng chuông lần thứ nhì, thì hai bên chắp tay kiết quả, đưa chí trán mình, xá xuống chí gối (1), rồi hai bên đều khởi chơn phía trong điện mà bước vào chỗ quì, mỗi hàng ba vị. Rồi ngước lên điện, mới đưa tay kiết quả đến trán mình, xá đến gối ba xá, phổ Thiên áp Địa gọi là Tam Tài, mới khởi chơn trái bước tới một chút, quì chơn mặt xuống trước, chơn trái quì theo cho ngay thẳng cái mình, mắt thì ngó ngay Thiên Nhãn, mới đưa tay kiết quả lên trán chánh giữa mà lấy dấu, niệm Nam Mô Phật, đưa qua bên tả gần lổ tai niệm Nam Mô Pháp, đưa qua bên hữu gần lổ tai niệm Nam Mô Tăng, mới để tay kiết quả nơi ngực mình chỗ trái tim, chớ rời ra.

 

Cúi đầu lần thứ nhứt niệm Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Cúi đầu lần thứ nhì niệm Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Cúi đầu lần thứ ba niệm Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Cúi đầu lần thứ tư niệm Nam Mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
Cúi đầu lần thứ năm niệm Nam Mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần. Dứt rồi, đọc bài Niệm Hương.
Dứt lạy ba lạy. (Mỗi lạy 4 gật là 12 lạy)

 

Cách lạy

 

Đưa tay kiết quả lên trán, rồi để xuống ngực mới xá, xoè bàn tay ra mà úp xuống đất. Khi lạy rồi, ngước dậy thì đưa tay kiết quả lên trán rồi mới chắp xuống ngực. Khi mãn lễ cúng đứng dậy, cũng đứng chơn trái trước, cũng xá ba xá như trước, mới day ra bàn Hộ Pháp xá một xá, rồi rút từ hàng đi thứ tự mà ra.

 

2. Giải nghĩa lạy chắp tay.

Lạy chắp tay theo ba kỳ mở Đạo Tam Giáo:

 

Kỳ nhứt, Đức Lão Tử giáng thế dạy Đạo Tiên, phải chắp hai tay kiết nhị, như bông sen búp. Khi lạy thì xuè hai tay úp xuống đất, cúi đầu xuống ba lạy kêu là khể thủ.

Kỳ nhì, Đức Thích Ca giáng sanh dạy Đạo Phật, thì chắp tay hiệp chưởng hoa khai. Khi lạy thì ngửa hai bàn tay để xuống đất mà cuối đầu xuống, kêu là hòa nam.

Khi Đức Khổng Tử giáng sanh dạy Đạo Thánh, cung tay đến mày mà lạy kêu là phủ phục.

Nay Đấng Chí Tôn giáng cơ tiếp điển mở Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Hiệp đủ Phật, Thánh, Tiên là kỳ kiết quả độ đủ chín mươi hai ức nguyên nhân về nơi nguyên thủy. Có câu: " Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ". Tam Giáo qui nguyên, chắp tay hoa sen đã thành trái (quả). Bên tay trái thuộc Dương, ngón cái là mẫu chỉ, ngón trỏ là thực chỉ, ngón giữa là trung chỉ, ngón út là tiểu chỉ, còn một ngón không tên kêu là vô danh chỉ. Sách có câu:"Vô danh Thiên Địa chi thủy", là trước khi Trời Đất chưa khai, thì một khí không không, sau định hội Tý mới mở Trời, nên chữ Tý ở tại góc ngón tay vô danh. Khi mở Trời Đất rồi mới có hữu danh vạn vật chi mẫu. Muôn vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh.

 

Nay đến hội Tam Kỳ kiết quả, là độ hết cả quần linh về cõi Niết Bàn, chẳng để một điểm Chơn linh ở miền Đông độ, nên ngón tay cái là mẫu, chỉ vào chữ Tý; còn tay hữu ngón cái chỉ vào chữ Dần tay tả, bốn ngón đều bao ngoài. Tay tả là nhơn vật quần linh, tận qui nguyên vị. Tay tả là Dương mà có ngón tay hữu Âm chỉ vào, còn tay hữu Âm mà có ngón tay tả Dương ở trong.

 

Vậy nên kinh Diệt nói: "Âm nội hữu chơn dương, dương nội hữu chơn âm. Âm dương lưỡng cá tứ, năng hữu kỷ nhơn tri". Như cách lạy nầy là thời kỳ dạy Đạo, còn người luyện Đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả, nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay ngửa mới cúi đầu. Cách lạy mầu nhiệm, nghĩa lý sâu xa, chưa đến kỳ Tịnh Thất nên không dám giải diệu mầu, e lậu Thiên cơ chẳng dễ.

(1) Khi nào có Nam Nữ sắp hàng hai bên thì mới xá Đàn, còn ngoài ra thì không xá Đàn.

Phụ luc: Phần giảng dạy của Hội Thánh Cữu Trùng Đài.

Châu tri số 61 đề ngày 18 tháng 8 năm Mậu Dần (Dl 10-10-1938).

Khoản chữ A.

  1.  Lạy Thầy ba lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

  1.  Lạy Phật, lạy Tiên, lạy Thánh 3 lạy, mỗi lạy 3 gật. Mỗi bài kinh đều có chỉ câu niệm đã rồi, không cần nhắc lại.

  2.  

    Còn xá bàn Hộ Pháp là tại Tòa Thánh và các Thánh Thất. Còn các nhà tư như có tuần tự, có vọng bàn Hộ Pháp mới xá. Còn nơi nào không có bàn Hộ Pháp thì không buộc phải xá. Có nhiều khi nhà tư, hoặc Lễ, Vía hiến các Đấng cũng xá, đó là sái phép.

  1. Từ Đầu Sư đổ lên có qui vị, hoặc tuần tự, thì lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, niệm danh hiệu và tước phẩm của vị ấy.(2)

  1. Chánh Phối Sư đổ xuống Lễ Sanh thì lạy 3 lạy, không có gật.

  1. Chánh Trị Sự đổ xuống Tín đồ, lạy 4 lạy, là vì có thêm 2 lạy kỉnh Thiên và kỉnh Địa, nên mới có sự phân biệt là:

    • Hai lạy đầu phải quì để chỉ rõ rằng: kỉnh Thiên Địa;

    • Hai lạy sau thì đứng để chỉ nghĩa lạy vong phàm cho phân biệt.

  1. Còn lạy người (sống) thì 2 lạy.

Nhớ lấy dấu Phật, Pháp, Tăng duy có một mình Đức Chí Tôn mà thôi. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật thì không có lấy dấu chi hết.(3)

(2) Như lạy Đức Quyền Giáo Tông, thì niệm Nam Mô Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Lạy Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thì niệm Nam Mô Đức Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh .v.v...
(3) Chỉ khi nào lạy hai Đấng Từ Bi: Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu mới bắt ấn Tý mà thôi. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật thì không có.

Tài liệu tham khảo.

Tân Luật.
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1 và 2.
Kinh Lễ (Thiên Đạo và Thế Đạo).
Tứ Thời Nhựt Tụng ( bản chú giải của Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt).
Thiên Đạo của Ngài Bảo Pháp Chơn Quân Nguyễn Trung Hậu.
Mạch Đạo của Ngài Cao Liêng Tử (Bảo Văn Pháp Quân).

 Kiểm duyệt, ngày 10 tháng 7 năm Canh Tuất (dl. 11-8-1970)
Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách
Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài
(Ấn Ký)
Trương Hữu Đức

 

In xong ngày 01 tháng 8 năm Canh Tuất (dl. 01-9-1970)
In tại nhà in Tứ Lập - Chợ Long Hoa

 
về trang chủ