Ðại - đạo  Tam -  Kỳ  phổ - độ

Tòa - Thánh  Tây - Ninh

 

BÍ-PHÁP

Lời Thuyết Đạo của ĐỨC-HỘ-PHÁP

Tài liệu do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo

***

 

ĐỨC HỘ PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 22 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu (1949)

Đêm nay Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp của Thế-Đạo, vì kỳ trước Bần-Đạo đã thuyết Thể-Pháp của Thế-Đạo.

Nay Bần-Đạo phải thuyết Bí-Pháp đặng cho toàn thể con cái Đức-Chí-Tôn biết định phận chơn với giả. Người ta tưởng Thế-Đạo không có Bí-Pháp; có chớ, tại Đời không đem ra để cho toàn thể nhơn-sanh hiểu biết.

Có Bí-Pháp chớ; bởi những hạng vĩ-nhân tạo thời cải thế, đã lập công-trạng đối với nhơn-loại, nơi mặt địa-cầu này. Chủ hướng của họ tùy theo khuôn luật, khuôn pháp nào đặng họ tạo nên cơ nghiệp vĩ-đại nơi mặt địa-cầu này ?

Thể-Pháp của họ chúng ta thấy họ mơ-ước một điều: trước khi quá vãng (chết) được nêu danh ư hậu thế hay là để lại một trang sử tốt đẹp cho đoàn hậu tấn của nhơn-loại.

Xem ấy mà định-hướng chủ-tâm của mình hay định tương-lai của mình, tức nhiên thế-gian người ta thường gọi "Lưu-danh ư-hậu-thế" để danh lụng-lại cho kẻ sau đó vậy.

Lưu-danh ư-hậu-thế, họ đã dùng phương thế nào ; họ đã dùng chánh thuyết nào đặng họ phụng-sự cho thiên-hạ trong một nước, nếu họ không phụng-sự cho Tổ-Quốc ?

Đối với Quốc-dân họ phụng-sự cho Quốc-dân, đối với toàn nhơn sanh nơi mặt địa-cầu này, họ có đủ chủ-hướng phụng-sự cho nhơn-loại. Đã định tâm phụng-sự tức nhiên nơi này là nơi bí-yếu hơn hết. Xin để ý.

Hể quyết tâm phụng-sự tức-nhiên họ phải lấy chánh tâm làm căn bản, do chánh tâm ấy họ bước vô khuôn-khổ của Đạo, tương-liên với Đạo, chánh-tâm ấy để giá trị cho Quốc-dân. Thiên-hạ bước vô đường chánh tâm rồi tức-nhiên có liên-hệ với Đạo, họ phụng sự cho thiên hạ là chỗ liên hệ sự Đạo-Đức tinh-thần của toàn nhơn sanh đó vậy. Chúng ta đã thấy rằng lời của Đức-Chí-Tôn đã nói: "Đạo không Đời không sức mà Đời không Đạo không quyền", cả hai tinh thần ấy phải tương-liên mật-thiết cùng nhau không thể gì rời-rã với nhau đặng. Chúng ta đã thấy nhiều lý thuyết họ đã tiềm-tàng họ muốn thế nào Đời thoát-ly với Đạo mà như thể chúng ta ngó thấy các nền Tôn-Giáo như bên Thiên-Chúa-Giáo như Care Litaire muốn thoát ly ra khỏi Công-Giáo Gia-Tô mà họ chẳng hề thoát ly đặng.

Họ muốn thoát-ly Công-Giáo, thoát-ly Công-Giáo tức nhiên họ tiềm tàng đáo để họ kiếm phương-thế giải-thoát ra khỏi Đạo nhưng cũng không đặng.

Giờ phút này chúng ta ngó thấy Nga-sô Viết lấy thuyết Cộng-Sản làm căn-bản, thuyết Cộng-Sản tức-nhiên thuyết Duy-Vật lấy vật-chất làm căn-bản, mà chối bỏ linh-hồn. Về thuyết vật hình, tức nhiên nghịch hẳn với tinh thần Đạo-Đức. Vật-chất họ phải đề xướng: " Tam vô" là vô thần đứng đầu hơn hết, nó phải đánh đổ tinh-thần Đạo-Đức đặng nó đi trọn con đường vật-chất. Phải chiến-đấu để vật-chật thắng tinh-thần.

Giờ phút này nước Nga cũng chưa hề thoát-ly Đạo-Đức được phải đem Đạo-Đức làm căn-bản mà thôi.

Tại Nga-Sô lúc Cộng-Sản chiến thắng đánh-đổ chánh-quyền rồi, tức-nhiên "Staline" không còn nhìn Đạo-Giáo nữa, không còn nhìn quyền Hội-Thánh La-Mã nữa.

Ngày đánh đổ chánh-quyền khám-phá quyền-lực của nhà thờ, chỉ trích quyền-lực của Nhà Thờ, nhưng rốt cuộc ngày nay phải đem Đạo-Giáo đem Công-Giáo, tái lập các Đền-Thờ trở lại.

Tuy dân không tùng quyền Ông Giáo-Hoàng La-Mã mà nó vẫn tùng quyền Ông " Got Oann" như Ông Giáo-Hoàng của nhà Thờ mà thôi.

Còn nhiều nữa, nếu chúng ta quan sát từ thượng-cổ, bao giờ Đời cũng kiếm phương-thế thoát-lý Đạo, chiến-đấu để thoát-ly Đạo.

Họ biết không tùng theo nó thì họ không quyền mà hể tùng theo nó thì mất tự-do tự-chủ của họ, nó mất thì nó chẳng khi nào mà trị thiên hạ được. ?

Từ thượng-cổ đến giờ không một Quốc-Gia Xã-Hội nào nơi mặt địa hoàn này vô Đạo mà cầm quyền thiên-hạ được, không thể có.

Vì cớ cho nên cổ nhơn tức-nhiên Tổ-Phụ nòi giống Việt Nam trị dân vi đạo " Dĩ-đạo Vi-tiên" tức-nhiên trị Đạo chớ không phải trị dân đó vậy.

Có một điều Bần-Đạo chỉ chỗ chính giữa, muốn phụng-sự Quốc-dân hay Quốc-Gia cho đắc lực, phải có thành ý, rồi Chánh tâm; muốn có chánh tâm thì mình phải Tề-gia Trị-Quốc rồi mới đến Bình Thiên-hạ nghĩa là: tu thân, tức-nhiên nhơn-đạo đó vậy. Chính thiên-hạ có liên-quan mật thiết với Đạo mà lưu lại thanh- sử, nhưng cũng chưa đủ.

Chúng ta ngó thấy họ muốn thoát-ly Đạo-Giáo, nói gần hơn nữa, ở cõi Á-Đông chúng ta thấy gì ? Như nhà Vua các công-thần " Vị-quốc vong-thân" nhà Nam ta có phong-thần nên buộc các Làng các Tổng, các Huyện, các Phủ, phải lập Đền Thờ, thờ các Đấng ấy, là Đình của chúng ta đó vậy.

Thoát-ly, họ muốn thoát-ly Đạo, đặng họ lập khuôn-khổ riêng tư của họ, họ càng lập càng đội Đạo-Giáo trên đầu thêm nặng nữa.

Bên Âu-châu chúng ta thấy gì ? họ muốn thoát ly Đạo-Giáo mà những công-thần ấy họ dựng hình để chỗ nào đông dân chúng, tùy theo công-nghiệp của mỗi người họ định chỗ dựng hình ảnh của họ để lưu lại cho hậu thế, dựng hình-ảnh ấy là gì ? Ấy là Bí-Pháp của họ đó vậy.

Họ tưởng thoát-ly Đạo-Giáo là dễ nhưng mà hình cốt dựng lên họ để cả bài học cho hậu tấn; những cái hình ảnh còn tồn-tại đây, xác-thịt xương-máu của những kẻ ấy được lưu hình-ảnh tại mặt thế này là những Đấng để cả tâm-đức phụng sự cho Quốc-Gia và nhơn-loại đó vậy.

Làm cho đặng họ ham lắm.

Giờ phút này các Vị cầm quyền trị-thế trong một xã-hội nhơn-quần nào, cũng mơ-ước một điều là phải lưu danh hậu-thế mà thôi, lưu cả hình ảnh tôn-nghiêm của họ để hậu thế nữa.

Vì cớ cho nên nhiều người nhiều khi khổ hạnh phải cực-khổ trong trường tranh-đấu vì Quốc-Gia Xã-Hội nhơn-quần khổ-não về tinh-thần nhọc-nhằn biết mấy. Có nhiều người thối chí mà nhờ cái năng lực và quyền-lực lưu danh ư-hậu-thế ấy buộc họ phải làm nữa, trong con đường phụng sự Quốc-Gia cho đến cùng. Vì thế phải có một tấm lòng chơn thật mới quyết-định được.

Ấy vậy, Bần-Đạo lập lại một lần nữa, để lại một trang lịch sử tốt đẹp cho hậu-thế, để hình-ảnh tôn-nghiêm cho hậu-thế ấy là Bí-Pháp của Thế-Đạo.

Còn nữa, ngoài ra nữa, còn có cái này; cái này không hình trạng mà đáng sợ hơn hết là miệng lưỡi của thế-gian. Có nhiều việc không để nơi trang lịch sử được, nhiều khi bất công của nhà Vua hay của nhơn-quần họ không để nơi trang sử được, họ chỉ để nơi miệng lưỡi thế gian mà thôi, đáng sợ hay chăng là chỗ đó. Hoặc là vì sự bất chánh yểm cả công-nghiệp công-thần của mình; nhưng công nghiệp ấy họ để nơi miệng lưỡi của dân, của thiên-hạ. Bí-Pháp ấy mới cao thượng, mới bền bỉ, Bí-Pháp mà Đức-Chí-Tôn dành để đặng ban thưởng cho những kẻ vì Đạo nhơn-luân của con người biết quên mình vì Đạo. Vì Đạo mà tạo tinh-thần cho quần chúng đó, Bí-Pháp ấy cao-thượng hơn hết ./.

 

ĐỨC HỘ PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 26 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu (1949)

Kể từ hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thiên-Đạo.

Trước khi Bần-Đạo giảng một cái triết-lý trọng-yếu ấy Bần-Đạo muốn cho cả thảy chúng ta mỗi người đều để tinh-thần trí não của mình tự xét lại coi đương nhiên chúng ta đang sống trong hoàn cảnh nào.... ? Chúng ta làm gì nơi cõi thế này ? Cái lập trương của kiếp sống ta đối với vạn-vật hữu-hình mà Đức-Chí-Tôn gọi là Vạn-linh ấy thế nào ?

Mỗi người tự soát, tự soát đặng mới có thể hiểu đặng huyền vi bí-mật của Thể-Pháp và Bí-Pháp của Thiên-Đạo ấy là cái chìa khóa của chúng ta mỗi đứa mở lấy cái nguyên-linh của chúng ta vậy.

Bần-Đạo rủ cả thảy con cái Đức-Chí-Tôn cầm chìa khóa nơi tay, đặng mở cả huyền vi bí-mật ấy cho thấu đáo; thấu đáo cho đặng rồi mới có thể biết được cơ-quan giải-thoát của mình.

Bần-Đạo lấy của Bần-Đạo trước đã, Bần-Đạo tự mình, quan-sát của Bần-Đạo coi cái sống của Đời và cái Linh của Đạo tức-nhiên trí hóa khôn ngoan vô-đối của chúng ta thuộc về Đạo, như thế nào ?

Linh ấy sống với phương pháp nào cho còn tồn-tại ? Tại sao chúng ta vào cửa Đạo, chúng ta vào đây chúng ta ngồi, tại sao chúng ta chung hiệp với nhau vô Đền-Thánh này mỗi đêm phải cầu-nguyện kinh-kệ với Đấng mà chúng ta gọi là Đấng Tạo-Đoan cả Vạn Linh tức-nhiên Đấng-Chí-Linh đó vậy? Chúng ta tôn sùng Đấng ấy để làm gì ? Đấng ấy có hữu ích gì cho chúng ta hay chăng mà chúng ta phải phụng sự những điều chí thiết ấy ?

Nên tìm tàng cái nguyên-lý của nó cho thấu đáo mới gọi rằng tu mà muốn tu phải biết huyền vi bí-mật ấy mới tu, còn không biết bất quá vô Đền-Thánh hát chơi vậy thôi.

Hễ khi nào làm biếng không đi cúng rồi đổ thừa có chuyện này chuyện kia, tại mình không biết giá-trị của sự đi cúng, phải biết trong đó cái đã.

Bần-Đạo biểu tự soát mình coi, tại sao vô Đạo Cao-Đài, Đấng đã chung hiệp với con cái của Ngài là Đấng Chí-Linh tức-nhiên là Đức-Chí-Tôn chúng ta đang chiêm-ngưỡng tại Đền-Thánh này. Phải biết giá trị đó mới dám can-đảm thí thân cho Đạo mới có thể cương-quyết đặng chung sống với con cái của Ngài. Chớ không lẽ ngồi đó tu theo họ mà không biết chơn-lý ở đâu.

Các nền Tôn-Giáo, chúng ta đã thấy chán-chường trước mắt vì lẽ đó mà vong phế.

Bần-Đạo thuyết, bây giờ Bần-Đạo khai rõ cả tâm-lý của Bần-Đạo rồi cả thảy con cái Đức-Chí-Tôn cũng vậy tự mình cung chiêu của mình đi.

Bần-Đạo theo Đạo Cao-Đài do lẽ này: kiếp sống của Bần-Đạo không có biết tin gì hết nhứt là đầu óc chỉ lấy triết lý học-thức làm căn-bản, không ai nhồi sọ đặng, nhứt định không để chủ quyền tinh-thần mình không bị ai lừa gạt, dầu cho Bần-Đạo đã theo Đạo Thiên-Chúa.

Hồi thuở nhỏ nghe ra bị khó nuôi rồi Ông già Bà già sanh ra mấy người đều chết hết, đến nóng lạnh cũng chết, đến đổi thiên hạ sợ, tới phiên tôi Ông già Bà già bồng đem tôi đến Nhà Thờ Thiên-Chúa cho Ộng Cha làm con nuôi ông ấy.

Tôi lớn lên đi học trường mà cũng đi theo làm đồng nhi bên Thiên-Chúa-Giáo cũng như ai kia vậy; nhưng trước khi đi học Bà già cho vô trường học Nho trước, học chừng một năm ruỡi rồi cho vô trường Pháp nên không biết thêm gì hết, xét mình tự nhỏ đến lớn kỳ khôi hơn ai hết.

Cái gì cũng muốn biết mà thôi, cho đến lúc khôn-ngoan trí-thức cũng vậy, cả cơ-quan của Đời tìm-tàng cho thấu đáo mọi điều, tìm cho hiểu, mỗi sự chi cũng tìm cho biết mà không biết được thì không ăn không ngủ.

Khó lòng lắm, khó lòng quá, khó-khăn lắm, vậy phải tìm qua cho đặng hay biết cho đặng mọi việc ở Đời.

Suốt một thời-gian, vẫn giục thúc tới chỗ bí- mật huyền vi của Càn-Khôn Vũ-Trụ, giục thúc Bần-Đạo một điều làm cho tinh-thần Bần-Đạo xốn-xang biết bao.

Bần-Đạo thấy chung quanh các bạn đồng-sanh của Bần-Đạo dầu cho chí thân hay ngoại-tộc cũng vậy họ đương dung-rủi trên con đường quanh co khúc-khuỷu của Đời. Bần-Đạo cũng sống theo với họ trong con đường dục tấn, con đường ấy tức-nhiên chạy theo quan chức mỗi bước, mỗi ngày tình trạng khổ não, khó-khăn lắm, không biết họ làm cho tinh-thần đặng hạnh-phúc hay đau-khổ ! Không thấy hạnh-phúc gì hết; qua mỗi khoảng đường day lụng lại kẻ thương yêu của mình dầu lớn dầu nhỏ họ đã té quị theo dọc đường ấy nghĩa là họ chết.

Những kẻ thương yêu Bần-Đạo, Bần-Đạo dòm lại một lần nữa họ đều chết hết dầu chí thân hay ngoại thân cũng vậy. Tức tối thay cho quyền-năng vô-đối của vô hình kia tại sao phải từ bỏ ? Không sanh sống cho vẹn toàn con người già hay trẻ đều lần lượt chết hết biết bao nhiêu giọt lệ của Bần-Đạo đã khóc với thân già và biết bao nhiêu giọt thảm của Bần-Đạo đã rưới trên thân trẻ. Tình trạng đau-khổ giục-thúc Bần-Đạo tìm hiểu coi cái phương pháp giải-kiết, phương-pháp giải-nạn coi có nơi nào hay chăng. Thử tự soát mình, tự xét nghĩ mình cũng một mạng sống cũng như mấy ngàn triệu mạng sống nơi mặt địa-cầu này, không kể các Vạn-Linh bao phủ, chung quanh họ, thấy họ khổ trong con đường sống ấy lắm.

Có nhiều khi muốn bảo thủ mạng-sống họ mà họ phải tận diệt mạng sống khác. Các mạng sống bị tận-diệt thì họ phải chịu đau-khổ thống thiết vô ngần vô-đối; trường đau khổ ấy trải trước mặt Bần-Đạo.

Đối với vạn-vật thấy tình-trạng mạnh hiếp yếu, dữ ăn hiền, đối với loài người thì ngó thấy họ không kính nể mạng-sống đồng loại đồng chủng với nhau. Một tấn tuồng bất công trải trước mặt, muốn kiếm phương an ủi thấy mình cũng một kiếp sống như các người kia vậy.

Mỗi chúng ta kiếm con đường hữu ích, cái hữu ích cho bạn đồng sanh của mình, hễ thấy mình ăn thì bạn mình mất ăn; mình mặc thì bạn mình mất mặc, tức-nhiên chính mình, mình cũng giành sống với họ. Xét đoán mình không có hữu ích chi đối với họ cả, mà trái ngược lại mình làm tội ác, mình làm khổ-não cho họ mà thôi. Bởi vì mình giành giựt cái sống họ để bảo thủ cái sống của mình, mình phải dành cái sống của họ kia kìa thành ra mình không hữu ích gì hết.

Kiếm thế an ủi, có thể nào làm nô-lệ cho họ tôi không ăn mà tôi sống không, nói đến cái đó thì rất khó muốn làm cho đặng trọn trong con đường sống tức-nhiên tôi không thể làm được. Muốn kiếm giải-pháp ấy cho được thì tôi gởi cả tâm-hồn tôi vào tay một Đấng vô-hình, nương theo cái quyền-năng vô-hình làm Chúa của các mạng sống ấy đặng kiếm thế bảo-thủ mạng-sống của thiên-hạ.

Triết lý ấy kiếm coi ở đâu, như bên Phật-Giáo biểu vô chùa mà tu, tụng kinh gõ mõ đặng ăn mà sống, sống riêng cho cá-nhân, như vậy thì còn tội ác hơn hết thảy bởi vì biểu họ bố thí cho mình ăn để mình sống, còn họ thì thiếu sống. Các nơi khác nữa, ngồi đó duy chủ cái quyền sống như các nền Tôn-Giáo khác họ giành cái sống ấy còn mạnh-mẽ hơn các thứ quyền giành sống khác nữa. Nếu tới một vài cửa khác họ lại giành sống xảo-trá còn tồi-tệ hơn nữa. Kiếm phương thế giúp sống cho đồng sanh mà kiếm không ra.

May thay trong buổi khuẩn-bách tinh-thần ấy, có Đấng Huyền-Linh đem lại với một phương-pháp vô-hình, không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà làm cho chúng ta nghe là Đức Cao-Đài Thượng-Đế, nhờ đó mà Bần-Đạo khỏi đi đâu hết. Nếu không có Đấng ấy thì có lẽ Bần-Đạo điên đi mà chớ; điên vì cái khổ não của Đời, điên vì gớm ghiết cái cơ-quan tranh sống của nó.

Ban sơ Bần-Đạo chưa biết Ổng mà Ổng cho Bần-Đạo làm Hộ-Pháp. Bần-Đạo không biết gì hết, Bần-Đạo nhắm mắt Bần-Đạo theo.

Tại sao Đấng ấy làm thiên-hạ nghe, thiên-hạ theo, chính mình cũng vậy. Lý lẽ của Ổng , Ổng đem đến cho thấy rằng: giúp sống chớ không phải giành sống. Các bạn của mình họ đùa họ theo; em út của mính dĩ-chí cho đến bạn đồng niên mình họ đùa họ theo họ nghĩ rằng tôi gơỉ tâm-hồn tôi cho Ổng, một mình tôi, tôi thấy rằng không đủ Đấng tạo Đạo không phải gọi một mình tôi mà chính gom-góp đại đa số tâm-hồn như tôi và có thể đem gởi cả đôi triệu tâm-hồn khác nữa vì vậy tôi có thể theo Đấng này được. Đấng đó tôi nên theo, theo có hai lẽ.

1.- Về phần Đời tôi khỏi cái bệnh đau thảm của tôi.
2.- Về phần Đạo tôi khỏi côi cút lẻ loi.

Tôi có một đám người biết tình ái vô hạn của tôi, có một đám người cùng tôi gánh khổ của đời tức-nhiên họ chịu nhiều khổ đặng họ giải khổ cho thiên hạ.

Nói đó là nói của tôi, để tâm hồn theo Ổng về mặt Đời và về mặt Đạo mà thôi, tôi chỉ nghĩ có bao nhiêu ngoài ra tôi không biết gì nữa.

Bây giờ Đạo Cao-Đài không biết chánh hay là tà, tôi chỉ biết Đấng ấy có thể gom-góp đôi triệu tâm-hồn vào tay Đấng ấy là Đấng Chí-Linh.

Bây giờ tôi không tin Đấng ấy nữa mà tôi chỉ tin một điều là ngày giờ nào cái linh hồn tôi thoát xác ra đi bỏ cái địa hoàn này, tôi sẽ gặp các bạn chí thân từ trước của tôi, Tổ-Phụ Ông Bà của tôi. Tôi không biết cảnh hư linh như thế nào mà nếu tôi gặp được họ thì tôi mới chắc.

Ngày giờ nào tôi về cảnh Thiêng-Liêng kia, quả nhiên linh-hồn tôi còn tồn tại chớ không phải tiêu-diệt như nhiều triết-lý vô-thần, nhiều nhà Duy-vật đã thuyết nơi mặt địa-cầu này.

Giờ phút nào tôi thoát xác tôi về vơi hư-linh mà tôi được một vài triệu linh hồn về cảnh Thiêng-Liêng Hằng-sống thì tôi không còn hạnh phúc nào hơn chỗ đó nữa. Tôi không biết giá-trị, không biết quyền-năng ra sao, nhưng tôi ngó thấy Ổng có thể làm cho tôi làm bạn với cả trăm, cả triệu chơn linh trên cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống, vì cớ cho nên tôi phải vào Đạo Cao-Đài đặng tôi phụng sự cho Ổng tức nhiên tôi phụng-sự cho con cái của Ổng. Tôi nghĩ có bao nhiêu đó mà tôi theo cho đến ngày nay. Tôi đứng giữa tòa-giảng này để ngửa cái triết-lý ấy đặng cho toàn thể con cái của Đức-Chí-Tôn rõ biết đặng suy xét.

Đó tôi lấy chìa khóa mở tinh-thần của tôi rồi đó còn mấy bạn lấy chìa khóa mở tinh-thần mấy bạn đi rồi tôi tiếp tục giảng Thể-Pháp và Bí-Pháp của Đạo Cao-Đài.

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 29 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu (1949)

Đêm nay Bần-Đạo thuyết Thể-Pháp Thiên -Đạo Cao-Đài. Kỳ trước Bần-Đạo và toàn con cái Đức-Chí-Tôn đã rủ nhau tự-soát cái kiếp sống của mình đặng thấu đáo hành- tàng cả chơn tướng của mình, phải thế nào đối với Càn-Khôn Vũ-Trụ, đối vơi kiếp sống.

Tưởng cả mỗi người chúng ta đều có trí định cái nguyên do căn-bản của sự sống mình, cũng như Bần-Đạo đã tự soát nơi giảng đài này bữa hôm trước đó vậy.

Chúng ta đã thấu đáo cả chơn truyền của Đức-Chí-Tôn các huyền vi bí-mật cơ tạo-đoan càn-khôn vũ trụ, nó có ba điều trọng yếu là:

1.- Cái kiếp sanh của ta theo như chơn truyền Đức-Chí-Tôn các chơn linh đến tại mặt thế này hay là các địa giới trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, cốt để trả quả kiếp của mình, hoặc mình đã tạo căn quả, vì trong con đường tấn hóa chơn-linh của mình không đủ mực thước để điều khiển khối nguơn-linh yếu ớt, không đủ quyền duy chủ mà phải phạm thêm tội tình oan-nghiệt.

2.- Đến đặng tìm tàng cái học lực của mình, học lực của mình là điều mình muốn biết cả kiếp căn của mình, nếu không biết cũng đeo đuổi theo tìm tàng theo cho biết cả cơ quan bí mật tạo đoan.

3.- Là nên lập vị cao thăng hơn nữa tức-nhiên theo cơ Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ về hữu-hình cốt yếu để giúp cho các chơn linh tấn-triển trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.

Bần-Đạo có cho toàn thể chúng ta thấy căn sống của mình chẳng phải nơi trái địa-cầu 68 này mà thôi, mà các mặt địa cầu khác trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng đều một khuôn-luật ấy.

Có nhiều trái địa-cầu tấn triển cao hơn khuôn -khổ kiếp sống của con người, có thể giảm bớt tội nhưng khuôn-luật vẫn một mà thôi không có chi sửa đổi.

Chúng ta đã thấy mình sống, kiếp sống của mình như thế; Bần-Đạo đã cho toàn thể con cái của Đức-Chí-Tôn tự-soát mình lại không có hạnh-phúc chút nào hết. Thật sự ra đề mục chúng ta phải đi trong khóa học này của Đức-Chí-Tôn, đến đặng mở khoa mục cho nhơn loại buổi này. Hay là mỗi lần các Đấng chơn linh cao-siêu hơn nữa đến tạo Đạo, cốt yếu đến mở khoa mục cho các chơn linh thì khi chúng ta đã ngó thấy khóa này là khóa đầu tiên hết thảy trong đề mục.

Khóa ấy riêng từ mức, mới khởi mức số một, chơn linh kia trong vật-loại dĩ-chí đến Phật vị; đề mục ấy chưa có vị Phật nào đoạt vị dầu cao siêu đi nữa cũng chưa giải-quyết được. Chính mình các vị trong các vị Chí-Linh Hằng Sống chỉ có một Đấng giải quyết đặng đề mục " khổ sanh" của chúng ta tấn-triển là duy có Đức-Chí-Tôn mà thôi. Ngoài ra nữa không có vị Phật nào giải quyết đặng.

Đức Phật Thích-Ca lập vị cầm quyền chưởng giáo nơi Cực-Lạc Thế-Giái, chính mình Ngài đem thuyết Tứ-Khổ mà thôi, chính mình Ngài cũng không giải quyết được, chính mình Ngài không duy chủ cái khổ ấy đặng.

Ấy vậy, đề mục khổ là khổ Sanh, trước là khổ Sanh, rồi tới Lão, Bịnh, Tử. Sanh trước là sanh sống, sống là khổ, hễ cái pháp luật nào làm giảm khổ của chúng sanh nó là chơn; cái pháp luật nào nó làm cho thống khổ chúng sanh là giả.

Pháp-Luật Đạo-Giáo nào mà không hữu-ích gì cho cái khổ sanh của chúng ta thì không có giá trị gì hết.

Chúng ta quan sát coi các nền Tôn-Giáo đã có phương giải-khổ cho chúng sanh hay chăng ?

Tại sao chơn, tại sao giả, chính mình Đức-Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng cũng như chúng ta thấy các cơ-quan trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt yếu là phải phụng sự cho nhơn-loại, cho Vạn Linh.

Trái lại họ không phụng-sự cho Vạn Vạn-Linh mà lợi dụng Vạn-Linh chớ không phải làm tôi tớ cho Vạn-Linh. Hễ lợi dụng là không phải phương-pháp giải-khổ tức nhiên là giả pháp.

Quan sát lụng lại các nền Tôn-Giáo hết, chúng ta thấy không có phương-pháp để giải-khổ chúng sanh, bất quá là một lý -thuyết mơ -mộng mà thôi.

Giải-khổ cái sống cái đã.

Chúng ta thấy các nền Tôn-Giáo đương-nhiên bây giờ có nền Tôn-Giáo nào phụng-sự cho chúng sanh không ? Có nền Tôn-Giáo nào làm tôi-tớ cho chúng sanh đặng giải khổ cho chúng sanh hay chăng ? Quan sát coi. Chưa có !

Chúng ta ngó thấy, chúng ta có một điều tức cười hơn hết là họ ngồi gõ mõ đánh chuông mà họ nói giải-khổ cho chúng sanh.

Sanh trước cái đã, là mực thước đi từ khuôn-khổ của nó nếu nói phi lý không quan sát được, không thể công nhận được, nhưng đương nhiên chúng ta đã thấy gì ?

Bần-Đạo đã thuyết kỳ rồi cái pháp-luật của Thiên-hạ là họ đã xu hướng theo " Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích Ca; họ dong-rủi theo Tứ-Diệu-Đề để giải khổ cho chúng sanh là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Họ thi hành trong khuôn-khổ quyền pháp của họ mà thôi.

1/- Sanh, họ lập nhà Bảo-Sanh đặng giải khổ cho sự sống.
2/- Lão, họ lập ra cơ-quan Dưỡng-Lão để nuôi kẻ già, kẻ yếu.
3/- Bịnh, họ lập ra nhà thương khắp nơi cả thảy trên mặt địa-cầu này biết bao nhiêu nhà thương để chữa bịnh cho đời.
4/- Tử, họ cũng làm Âm-công, cũng bố-thí, cũng làm phước vậy, nhưng có một điều là họ bố thí chớ không phải phụng-sự. Họ lấy của người này đem cho người kia chớ không phải phụng sự cho nhơn-loại.

Còn Đạo Cao-Đài Đức-Chí-Tôn đến biểu chúng ta làm gì ? Biểu chúng ta dùng cả xác thịt, trí-não, tâm-hồn, làm Thánh-Thể cho Ổng , làm đầy tớ cho cả con cái của Ổng, đó mới là thuyết giải khổ vậy.

Chính mình Bần-Đạo cầm quyền Hội-Thánh đem vào khuôn-khổ luật-pháp ấy thế nào ?

Buổi ban sơ Bần-Đạo lấy cả pháp-luật làm chuẩn thằng, chỉnh đốn cả cơ-quan chính-trị của đời là: Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Bần-Đạo lập nhà thương, nhà dưỡng lão, nhà bảo sanh là cốt yếu chỉnh đốn thân sống trong khuôn-khổ mực thước, tức nhiên họ giúp cho nhau trong khuôn-khổ Đạo-Đức. Tức nhiên họ có cả cơ quan làm cho buổi thống khổ loạn-lạc phải tiêu hủy.

Cơ-quan Đạo Cao-Đài cốt-yếu chỉnh đốn nhơn-quần xã-hội tăng-tiến trong khuôn-khổ nhơn-luân, nhơn đạo để trong tâm não họ đặng họ tương-trợ nhau họ xúm nhau trong một nhà để giúp nhau về mặt tinh thần.

Bây giờ Bịnh, Tử cũng thế, về mặt xác thịt chuyển cả cơ-quan Thế-Đạo, cốt yếu để giải-khổ chúng sanh về sự sống đối với Sanh, Lão thì chúng ta đã lập thành đại gia-đình; như thân nầy khi già rồi còn em, còn bạn, còn con, còn cháu, một đại gia đình càng ngày càng lớn hơn nữa.

Giờ phút này có hai triệu người chứ không phải như trong buổi tạo Đạo; chúng ta dầu sống đi nữa cũng không phải cô độc mà khi chúng ta phụng sự trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tức nhiên phụng sự cho Ngài, tuổi già chớ tinh-thần không già, không buổi nào chúng ta già hơn Đức-Chí-Tôn, nhỏ làm tôi mọi cho nhỏ, lớn làm tôi mọi cho lớn, già làm tôi mọi cho già.

Không buổi nào thấy cái già cái khổ cho chúng ta tức-nhiên giải-khổ rồi đó vậy.

Sanh, Lão không phải khổ chúng ta, mà nó là một cơ-quan giúp cho đời được lịch duyệt. Bịnh, Tử không phải khổ của chúng ta, mà nó là cơ-quan giúp ta đoạt Thiêng-Liêng vị. Bịnh-Tử , bịnh chúng ta làm gì chúng ta bịnh, tại số chết của chúng ta, tại khối sanh quang của ta hết lực mà thôi.

Kiếp sanh này làm tôi cho người, dầu cho có bỏ xác hay chết là cùng. Mạng sống kiếp sanh của mình do quyền Đức-Chí-Tôn định liệu, thì sợ gì cái chết; trái ngược lại thiên hạ sợ chết là khổ mới chết, còn chúng ta không sợ chết vì chết là cơ-quan giải-thoát đó vậy.

Giờ phút này người tu là đem thân làm nô lệ cho nhơn-loại, rồi có vui sướng gì với kiếp sanh mà cần sống, giá trị cái sống của ta khác hẳn hơn thiên hạ tưởng-tượng, mà tưởng tượng cái chết của ta là buổi nghỉ-ngơi, buổi hết cực; cái chết ấy chẳng phải do mình mà do nơi Đức-Chí-Tôn định là tới buổi Đức-Chí-Tôn nói các con đã làm xong phận sự, Thầy cho con về.

Giờ phút này chúng ta đương ở Đền-Thánh của Ngài đây, đương phụng sự cho Ngài đây, thì cái sống chết của chúng ta không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa, và trong Tứ-Khổ không còn giá trị gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy, " Tứ-diệu-đề" tức nhiên bài học, bài thi, của đề mục khổ duy có Đạo Cao-Đài giải quyết nó, đánh mất nó, làm cho nó không còn giá trị chi nữa, tức-nhiên chính mình và toàn cả con cái của Đức-Chí-Tôn hay tương lai tôi nữa cũng vậy.

Chúng ta trọn hiến thân làm Thánh-Thể cho Ngài mà ta sống cho mình chớ không phải sống cho Ngài là không đúng; sống không phải sống cho mình mà chính là sống cho Ngài vì chính mình đem trọn cái sống ấy dưng nạp cho Ngài, mà tưởng tượng ta khổ thì tức nhiên Đức-Chí-Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà lại sống vinh diệu quá, ta lại gặp thời kỳ này may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường, sống về Thánh-chất, sống về Thiêng-Liêng, sống về Càn-Khôn Vũ-Trụ, sống về Trời Đất, sống dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.

Ấy vậy, Chơn-Pháp thuộc về Thể-Pháp của Thiên-Đạo Cao-Đài ngày nay có lẽ phù hợp với tinh-thần nhơn-loại hơn các nền Tôn-Giáo khác; có lẽ, nhưng chúng ta đừng ỷ mình.

Mỗi ngày thường tự hỏi mình coi làm vừa sức của ta chưa ? Làm vừa sức của Đức-Chí-Tôn biểu mình làm hay chưa ? Sống của mình có vừa với cái sống của Đức-Chí-Tôn hay chưa ? Nếu chúng ta đủ tinh-thần, đủ trí não và đủ năng lực để thay thế cái sống của Đức-Chí-Tôn thì " Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca để tại mặt thế-gian này không có nghĩa-lý gì và giá trị gì đối với chúng ta hết.

Thể-Pháp của Đạo Cao-Đài chủ về sống mà đánh tiêu cả sự khổ tức-nhiên đánh tiêu cả Thể-Pháp. Thể-Pháp đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí-Pháp được.

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 4 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu (1949)

Đêm nay Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp có liên quan đến Thể-Pháp, nói rõ là cái luật Đạo có liên quan đến luật Đời đó vậy.

Vả chăng chúng ta đã ngó thấy cái cơ-quan Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ là cơ-quan Đức-Chí-Tôn để phụng-sựỳ cho Vạn-Linh, cái chơn-pháp nó vẫn vậy.

Bần-Đạo có thuyết về thuyết ấy, Bần-Đạo nói đất phải hy-sinh đặng phụng sự cho cây, tức-nhiên là thảo-mộc. Cây phải hy sinh đặng phụng sự cho thú, tức nhiên nó phải hy sinh đặng nuôi thú, mà loài người đứng đầu trong loài thú chớ không có chi khác nữa.

Vì cớ cho nên cổ-luật lại buộc thú phải hy-sinh phụng sự cho người, phụng sự không đi quá sức, hy sinh đặng nuôi loài người. Bởi vì lẽ lầm hiểu về chơn-pháp ấy mà nhơn-sanh đã thực nhục (ăn thịt ).

Giờ tới một mức nữa người phải hy sinh đặng phụng sự cho Trời. Chắc là cả thảy đều nhớ cổ-luật của Thượng-Cổ khi tế Trời họ đem người ra họ giết, rồi họ thiêu như con thú kia vậy. Con người có luật ấy một thời hạn cũng khá lâu. Khi dùng người làm tế-vật đặng hiến cho Đức-Chí-Tôn nếu Bần-Đạo hiểu theo các Đạo-Sử thì đã có gần 40.000 năm về pháp-luật ấy; thử nghĩ coi các nhơn mạng buổi nọ đã đem làm con vật hiến cho Đức-Chí-Tôn nhiều lắm rồi vậy. Mới đây chừng lối 6.000 năm đời của Jacob trước 6.000 năm, theo Đạo-Luật của Hébreu tức nhiên luật của Do-Thái phải giết vật để tế Đức Chúa Trời, luật đó tới nay có lẽ vẫn còn đó vậy.

Đức-Chí-Tôn có đòi hỏi chăng ? Không, tôi dám chắc không, vì chính mình Ngài tạo cho Vạn-Linh, chính mình Ngài làm tôi tớ cho Vạn-Linh và phụng sự cho Vạn-Linh, có lẽ đâu Ngài đòi nhơn-loại phải làm con Tế-vật tế cho Ngài.

Bao giờ chúng ta cũng thấy luật phụng-sự cho Vạn-linh đi từ vật-loại đến nhơn-loại.

Chúng ta thấy việc của con Ong, con Mối, con Ong chúa thật sự ra phụng sự đầy dẫy hơn hết, đứng đầu hơn hết, vì làm chúa nên phải có nhiều phụng-sự, nó phải chịu sanh sản, làm giống nòi nó sanh sản mãi mà thôi cũng như thượng-cổ trước lối 150 ngàn năm và trước nữa thì loài người cũng vậy. Đạo-Pháp trong Phật-Giáo để lụng lại các Đấng duy-chủ của các sắc dân, chủng-tộc do tiếng Phạn gọi là "Ma-Nu" cũng một kiểu vở con Ong, con Mối. Con Mối chúa phụng-sự cho cả một ổ Mối hơn ai hết, bởi vì chính mình con Mối Chúa đã sản-xuất chủng tộc của loài Mối.

Chúng ta thấy lụng lại một triều chính của xã-hội nhơn-quần đã lập quốc, tức-nhiên lập một nền chính trị tương-liên, một quốc-gia vô trong một khuôn-khổ của một quốc thể, một văn-hiến đều chịu một luật pháp ấy, mà luật-pháp ấy muốn thi hành thì phải có triều-chính. Thật sự ra triều-chính nhà Vua phải phụng-sự cho quần-linh, tức-nhiên phụng-sự cho lê-dân. Một mình Ổng phụng-sự cho toàn thể lê-dân không thể được nên phải lập triều chính, từ Tể-Tướng, dĩ-chí cho tới bực hạ-quan. Chánh-trị một quốc-gia là thay thế hình ảnh cho Vua đặng phụng-sự cho lê-dân mà thôi.

Chúng ta ngó thấy trong vật loại như con Mối Chúa, con Ong Chúa cũng làm chúa, cũng phụng sự, trong phụng sự kia cũng lập một triều-chính đặng có phương-pháp phụng-sự cho nó. Nhà Vua cũng vậy, lập triều chính đặng biến thân cho muôn ngàn triệu, đặng phụng-sự cho toàn thể lê dân. Mối Chúa cũng vậy.

Bây giờ Đức-Chí-Tôn Ngài phụng-sự cho Vạn-Linh toàn cả trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, Ngài đã dùng cái gì ? Ngài dùng phương-pháp phụng-sự Vạn-Linh là lấy Đời, lấy Vạn-Linh phụng-sự cho Vạn-Linh. Chúng ta ngó thấy Đức-Chí-Tôn nuôi cây, nuôi thú; thú để phụng-sự cho người. Ngài dùng căn-bản đó để phụng-sự cho Đời, cũng như Nhà Vua dùng lê-dân lập triều-chính đặng phụng-sự cho lê-dân.

Đức-Chí-Tôn ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng-sự cho cả toàn nhơn-sanh mặt địa-cầu 68 này, Ngài phải làm thế nào ? Ngài cũng phải mượn loài người phụng-sự cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng làm Thánh-Thể cho Ngài là lập triều-chính của Ngài.

Chúng ta ngó thấy Đức-Chí-Tôn đến lập Đạo; lập Đạo phải lập Hội-Thánh đặng phụng-sự cho Vạn-Linh trên mặt địa-cầu 68 này. Chúng ta ngó thấy cái quyền rồi, ban cho cái quyền luật định phụng-sự, vì phụng-sự ấy mới làm Chúa như con Ong kia, con Mối kia vì phụng-sự mới làm Chúa. Ông Vua cũng vì phụng-sự cho dân mới làm Vua; Bây giờ Đức-Chí-Tôn vì phụng-sự cho Vạn-Linh mới làm Trời.

Ngài phải lập Hội-Thánh tức-nhiên Ngài lập Thánh-Thể của Ngài. Triều-chính tức-nhiên Thánh-Thể của Ngài chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội-Thánh cầm quyền thống-trị đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, Ngài phải lập triều-chính, triều chính là ngôi Thần, Tiên, Thánh,Phật đó vậy. Ngài lập Thánh-Thể cũng như thế ấy; vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tức-nhiên Hội-Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế này.

Không có cái chi mà chúng ta cầu muốn hay là dùng công- nghiệp mà người không trả không bồi thường, vì Ngài đã mượn chúng ta làm Thánh-Thể cho Ngài đặng Ngài phụng-sự cho Vạn-Linh thì Ngài phải trả, phải bồi thường; nếu muốn cho người ta theo thì phải lập vị cho họ, thì họ mới theo.

Đức-Chí-Tôn Ngài đến ký hòa ước với loài người nhứt là dân-tộc Việt-Nam trước cái đã; mấy người làm Thánh-Thể cho tôi, đặng tôi phụng sự cho Vạn-Linh, thì tôi sẽ lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật lại cho mấy người. Nếu các người chịu thì ký hòa-ước với tôi, kế các người làm tôi cho con cái của tôi cho vừa sức của tôi muốn, hay vừa ý của tôi định thì tôi sẽ trả lụng lại là lập ngôi vị cho mấy người trong Thánh-Thể ấy, tôi đã định phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập vị sẵn cho mấy người, mà mấy người đoạt được tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô-hình tôi không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi chúng ta phụng-sự cho Vạn-Linh tại mặt thế này nữa là khác.

 

ĐỨC-HỘ-PHÁP

Thuyết tại Đền-Thánh đêm 8 tháng 06 Năm Kỹ-Sửu (1949)

Đêm nay trước khi Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp chơn-truyền của Đạo, tương-liên Thể-Pháp của Đạo thế nào, trước khi thuyết Bần-Đạo nhắc lại nữa, nhắc một điều cần yếu cho cả thảy đều nhớ, nhớ để đi theo.

Trước khi trong tinh-thần Đạo-Đức kia chỉ dẫn chơn-pháp Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt định cho loài người có hiện-diện tại nơi thế này đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, mà cũng là dẫn đạo cho Vạn-Linh.

Phụng-sự đặng dẫn đạo cho Vạn-Linh, ấy vậy chơn-pháp có ảnh-hưởng là quyết-định thiệt phận của loài người là phải phụng-sự mà thôi. Hễ không phụng sự tức-nhiên là vô Đạo, mà vô Đạo thì không thể gì đoạt được cơ giải-thoát hết.

Bần-Đạo đã chỉ rõ tương quan của luật-pháp Đời cốt yếu nương theo" Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ, đặng rồi thiên-hạ dầu Quốc-Gia xã-hội nào cũng kiếm phương bợ đở tinh-thần loài người hay là toàn dân trong nước đặng lập vị của mình.

Thật sự ra, nói rằng: Họ đã tạo dựng Đạo-Giáo đặng phụng-sự cho dân, nhưng thật sự đi trong đường nào ? Lấy tinh-thần cứu khổ của Đạo-Giáo mà kỳ trung họ không phụng-sự Quốc dân, chỉ tạo quyền cho họ mà thôi, tức nhiên họ không phải vì sở định cứu khổ mà đến để lập quyền cho vững chắc. Nhưng Đạo-Giáo chúng ta thì khác.

Đạo-Giáo chúng ta buộc phải định phận mình là giải-khổ tức-nhiên phải làm thế nào cứu vớt quần linh cho khỏi " Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ của kiếp sanh đó vậy. Hai cái tinh thần ấy dầu trong hành tàng cũng vậy, vẫn khác hẳn với nhau vì cớ cho nên Đạo với Đời không có bao giờ tương đắc với nhau đặng. Bần-Đạo nói Đạo không phải giành quyền, mà chỉ tạo Đạo đặng định phận mà thôi.

Bên kia họ cho rằng: Đạo giành quyền của họ, trái hẳn chúng ta vẫn thường thấy, chính mình Đức-Phật Thích-Ca đến khi Ngài có quyền, chính cha của Ngài còn tranh giành cái quyền ấy. Về quyền hành có điều khó giải quyết hơn hết là; cả tinh thần chúng sanh, cả thảy đều biết rằng Đạo phải phụng-sự cho nhơn-loại, vì đấy mà bên Đời dầu thế nào đi nữa bất quá là lòe con mắt đặng cho người ta theo, chớ không phải như bên Đạo phải phụng sự.

Bởi cớ cho nên mới dục ra tấn-tuồng giành quyền với nhau là vì chỗ đó.

À, bây giờ Bần-Đạo nói rõ phải ra phụng sự đặng giải khổ tức-nhiên giải quyết "Tứ-diệu-đề" của Đức Phật Thích-Ca đã để nơi mặt địa-cầu này.

Bần-Đạo thuyết cả Bí-Pháp Đạo-Giáo có liên-quan mật thiết với Thể-Pháp rồi cả thảy đều nghĩ từ thử đến giờ, Bần-Đạo buộc phải đi cúng, phải hành Đạo là thế nào, không phải buộc mấy người mà Bần-Đạo hưởng một quyền lợi gì riêng hết, mấy người suy đoán chơn-pháp rồi mấy người mới biết. Bần-Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức-Chí-Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi.

Vả chăng trong chơn-pháp, con người nơi mặt thế này có ba điều.

1.- Hoặc là phải trả quả kiếp xuống tại mặt địa-cầu này để trả.
2.- Hoặc muốn học hỏi thêm, muốn tấn hóa tới nữa về phương lược địa vị tinh-thần của mình còn thiếu kém, học thì đến mặt địa-cầu này đặng học.
3.- Các vị đã được địa vị cao siêu nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống đến mặt địa-cầu này đặng lập vị mình thêm cho đặng cao trọng.

Ba điều ấy muốn đoạt được thì phải phụng-sự Vạn-Linh mới được. Bần-Đạo thuyết tới con cái của Đức-Chí-Tôn sẽ ngó thấy Đức-Chí-Tôn không dùng quyền Chí Tôn của Ngài. Ngài đến đặng lập quyền cho con cái của Ngài mà thôi, không phải đến lập quyền hành hoặc bảo-vệ con cái của Ngài, Ngài không thế gì để cho con cái Đức-Chí-Tôn lạm quyền đặng.

Cơ quan giải- thoát là phụng sự, dầu cho quả kiếp mà đến cũng vậy; dầu cho vì học hỏi mà đến cũng vậy; dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng ta phải phụng sự cho Vạn-Linh mới được, trong phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả kiếp nơi nào, người nào, nhưng nhờ phụng sự ấy mà mình gặp được người mình muốn trả nợ tiền khiên, biết đâu nhờ hồng ân Đức-Chí-Tôn định cho mình gặp đúng người để đặng trả. Tóm lại, cũng phải phụng sự mới có.

Bây giờ về học hỏi thì chúng ta muốn gì ? Muốn biết mọi điều về huyền vi cơ-tạo, muốn biết cho đặng thì phải phụng sự cho Vạn-Linh mà thôi; rồi trong phụng-sự ấy nó sẽ chỉ điều cho chúng ta muốn biết mà lập vị, và có gì hơn thay thế cho Đức-Chí-Tôn mà phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thế gì ai chối cãi được.

Muốn làm cho đặng như Đức-Chí-Tôn đã làm ta phải làm gì ? Ngài biểu chúng ta hiến ba món báu trong mình chúng ta là Tam-Bửu.

1.- Xác thịt
2.- Trí não
3.- Linh hồn

Tức nhiên thân thể và phàm thể của chúng ta, Đức-Chí-Tôn biểu ta hiến cho Ngài đặng Ngài phụng sự cho Vạn-Linh.

Chúng ta thấy gì ? Mỗi ngày ta kêu Đức-Chí-Tôn làm chứng, kêu Tam-Giáo làm chứng, giờ phút này con nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy đặng Thầy làm lợi khí mà phụng sự cho Vạn-linh. Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có trả nợ tiền khiên chớ không có tạo nữa; nếu có tạo mà giờ phút này mình đến Đền-Thánh này đây, ngồi trong lòng của Đức-Chí-Tôn đứng trong phần tử Thánh-Thể của Ngài tình cờ mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình không biết duy chủ nữa mà chính Đức-Chí-Tôn duy chủ, vì mình giao cả thân-thể mình nơi tay Đức-Chí-Tôn thì mình không còn biết gì nữa.

Ngày kia mình có thể nói mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao cả trong tay Đại-Từ-Phụ, quyền hạn xử định do nơi tay Thầy chớ con không biết.

Mình giao cả hình hài đó cho Ngài xử dụng, nếu sự thật có gì không hay xảy tới cho mình, mình không hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức-Chí-Tôn đặng Đức-Chí-Tôn phụng sự cho vạn linh quyền xử dụng ấy do Đức-Chí-Tôn quyết định, mình đừng làm trái với mặt luật của Ngài định.

Ấy vậy, mỗi ngày từ mơi tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya tới sáng, mình vô Đền-Thánh kêu Đức-Chí-Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng-liêng mà phân chứng trước. Thân tôi không còn của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức-Chí-Tôn làm tôi tớ cho Vạn-Linh thay thế cho Đức-Chí-Tôn, giờ phút đó chúng ta không biết tội nào chúng ta đã làm dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt không thể gì định tội được. Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta; mà chúng ta không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta tức nhiên ta đã đoạt cơ giải thoát, quyền ấy chính của ta chớ không phải của Đức-Chí-Tôn. Lấy quyền của ta mà cho ta, mình đã định quyền cho mình, chớ không phải Ngài định; Ngài định cho có quyền giải thoát, quyền Thiêng-Liêng không có tạo, chính ta tạo quyền giải thoát đó do nơi ta mà thôi.

 

về trang chủ