Ðại
- đạo Tam
- Kỳ
phổ - độ
Tòa - Thánh
Tây - Ninh
BÍ-PHÁP
Lời
Thuyết Đạo của ĐỨC-HỘ-PHÁP
Tài liệu do
Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo
***
ĐỨC HỘ PHÁP
Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 22 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu
(1949)
Đêm nay Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp của Thế-Đạo,
vì kỳ trước Bần-Đạo đã thuyết Thể-Pháp của
Thế-Đạo.
Nay
Bần-Đạo phải thuyết Bí-Pháp đặng cho toàn thể
con cái Đức-Chí-Tôn biết định phận chơn với
giả. Người ta tưởng Thế-Đạo không có Bí-Pháp;
có chớ, tại Đời không đem ra để cho toàn thể
nhơn-sanh hiểu biết.
Có
Bí-Pháp chớ; bởi những hạng vĩ-nhân tạo thời
cải thế, đã lập công-trạng đối với nhơn-loại,
nơi mặt địa-cầu này. Chủ hướng của họ tùy
theo khuôn luật, khuôn pháp nào đặng họ tạo nên
cơ nghiệp vĩ-đại nơi mặt địa-cầu này ?
Thể-Pháp
của họ chúng ta thấy họ mơ-ước một điều: trước
khi quá vãng (chết) được nêu danh ư hậu thế hay
là để lại một trang sử tốt đẹp cho đoàn hậu
tấn của nhơn-loại.
Xem
ấy mà định-hướng chủ-tâm của mình hay định
tương-lai của mình, tức nhiên thế-gian người ta
thường gọi "Lưu-danh ư-hậu-thế" để danh
lụng-lại cho kẻ sau đó vậy.
Lưu-danh
ư-hậu-thế, họ đã dùng phương thế nào ; họ đã
dùng chánh thuyết nào đặng họ phụng-sự cho thiên-hạ
trong một nước, nếu họ không phụng-sự cho Tổ-Quốc
?
Đối
với Quốc-dân họ phụng-sự cho Quốc-dân, đối
với toàn nhơn sanh nơi mặt địa-cầu này, họ có
đủ chủ-hướng phụng-sự cho nhơn-loại. Đã định
tâm phụng-sự tức nhiên nơi này là nơi bí-yếu
hơn hết. Xin để ý.
Hể
quyết tâm phụng-sự tức-nhiên họ phải lấy chánh
tâm làm căn bản, do chánh tâm ấy họ bước vô khuôn-khổ
của Đạo, tương-liên với Đạo, chánh-tâm ấy để
giá trị cho Quốc-dân. Thiên-hạ bước vô đường
chánh tâm rồi tức-nhiên có liên-hệ với Đạo,
họ phụng sự cho thiên hạ là chỗ liên hệ sự
Đạo-Đức tinh-thần của toàn nhơn sanh đó vậy.
Chúng ta đã thấy rằng lời của Đức-Chí-Tôn đã
nói: "Đạo không Đời không sức mà Đời không
Đạo không quyền", cả hai tinh thần ấy phải
tương-liên mật-thiết cùng nhau không thể gì rời-rã
với nhau đặng. Chúng ta đã thấy nhiều lý thuyết
họ đã tiềm-tàng họ muốn thế nào Đời thoát-ly
với Đạo mà như thể chúng ta ngó thấy các nền
Tôn-Giáo như bên Thiên-Chúa-Giáo như Care Litaire muốn
thoát ly ra khỏi Công-Giáo Gia-Tô mà họ chẳng hề
thoát ly đặng.
Họ
muốn thoát-ly Công-Giáo, thoát-ly Công-Giáo tức nhiên
họ tiềm tàng đáo để họ kiếm phương-thế giải-thoát
ra khỏi Đạo nhưng cũng không đặng.
Giờ
phút này chúng ta ngó thấy Nga-sô Viết lấy thuyết
Cộng-Sản làm căn-bản, thuyết Cộng-Sản tức-nhiên
thuyết Duy-Vật lấy vật-chất làm căn-bản, mà chối
bỏ linh-hồn. Về thuyết vật hình, tức nhiên nghịch
hẳn với tinh thần Đạo-Đức. Vật-chất họ phải
đề xướng: " Tam vô" là vô thần đứng
đầu hơn hết, nó phải đánh đổ tinh-thần Đạo-Đức
đặng nó đi trọn con đường vật-chất. Phải chiến-đấu
để vật-chật thắng tinh-thần.
Giờ
phút này nước Nga cũng chưa hề thoát-ly Đạo-Đức
được phải đem Đạo-Đức làm căn-bản mà thôi.
Tại
Nga-Sô lúc Cộng-Sản chiến thắng đánh-đổ chánh-quyền
rồi, tức-nhiên "Staline" không còn nhìn Đạo-Giáo
nữa, không còn nhìn quyền Hội-Thánh La-Mã nữa.
Ngày
đánh đổ chánh-quyền khám-phá quyền-lực của nhà
thờ, chỉ trích quyền-lực của Nhà Thờ, nhưng rốt
cuộc ngày nay phải đem Đạo-Giáo đem Công-Giáo,
tái lập các Đền-Thờ trở lại.
Tuy
dân không tùng quyền Ông Giáo-Hoàng La-Mã mà nó vẫn
tùng quyền Ông " Got Oann" như Ông Giáo-Hoàng
của nhà Thờ mà thôi.
Còn
nhiều nữa, nếu chúng ta quan sát từ thượng-cổ,
bao giờ Đời cũng kiếm phương-thế thoát-lý Đạo,
chiến-đấu để thoát-ly Đạo.
Họ
biết không tùng theo nó thì họ không quyền mà hể
tùng theo nó thì mất tự-do tự-chủ của họ, nó
mất thì nó chẳng khi nào mà trị thiên hạ được.
?
Từ
thượng-cổ đến giờ không một Quốc-Gia Xã-Hội
nào nơi mặt địa hoàn này vô Đạo mà cầm quyền
thiên-hạ được, không thể có.
Vì
cớ cho nên cổ nhơn tức-nhiên Tổ-Phụ nòi giống
Việt Nam trị dân vi đạo " Dĩ-đạo Vi-tiên"
tức-nhiên trị Đạo chớ không phải trị dân đó
vậy.
Có
một điều Bần-Đạo chỉ chỗ chính giữa, muốn
phụng-sự Quốc-dân hay Quốc-Gia cho đắc lực, phải
có thành ý, rồi Chánh tâm; muốn có chánh tâm thì
mình phải Tề-gia Trị-Quốc rồi mới đến Bình
Thiên-hạ nghĩa là: tu thân, tức-nhiên nhơn-đạo
đó vậy. Chính thiên-hạ có liên-quan mật thiết
với Đạo mà lưu lại thanh- sử, nhưng cũng chưa
đủ.
Chúng
ta ngó thấy họ muốn thoát-ly Đạo-Giáo, nói gần
hơn nữa, ở cõi Á-Đông chúng ta thấy gì ? Như nhà
Vua các công-thần " Vị-quốc vong-thân" nhà
Nam ta có phong-thần nên buộc các Làng các Tổng,
các Huyện, các Phủ, phải lập Đền Thờ, thờ các
Đấng ấy, là Đình của chúng ta đó vậy.
Thoát-ly,
họ muốn thoát-ly Đạo, đặng họ lập khuôn-khổ
riêng tư của họ, họ càng lập càng đội Đạo-Giáo
trên đầu thêm nặng nữa.
Bên
Âu-châu chúng ta thấy gì ? họ muốn thoát ly Đạo-Giáo
mà những công-thần ấy họ dựng hình để chỗ
nào đông dân chúng, tùy theo công-nghiệp của mỗi
người họ định chỗ dựng hình ảnh của họ để
lưu lại cho hậu thế, dựng hình-ảnh ấy là gì
? Ấy là Bí-Pháp của họ đó vậy.
Họ
tưởng thoát-ly Đạo-Giáo là dễ nhưng mà hình cốt
dựng lên họ để cả bài học cho hậu tấn; những
cái hình ảnh còn tồn-tại đây, xác-thịt xương-máu
của những kẻ ấy được lưu hình-ảnh tại mặt
thế này là những Đấng để cả tâm-đức phụng
sự cho Quốc-Gia và nhơn-loại đó vậy.
Làm
cho đặng họ ham lắm.
Giờ
phút này các Vị cầm quyền trị-thế trong một xã-hội
nhơn-quần nào, cũng mơ-ước một điều là phải
lưu danh hậu-thế mà thôi, lưu cả hình ảnh tôn-nghiêm
của họ để hậu thế nữa.
Vì
cớ cho nên nhiều người nhiều khi khổ hạnh phải
cực-khổ trong trường tranh-đấu vì Quốc-Gia Xã-Hội
nhơn-quần khổ-não về tinh-thần nhọc-nhằn biết
mấy. Có nhiều người thối chí mà nhờ cái năng
lực và quyền-lực lưu danh ư-hậu-thế ấy buộc
họ phải làm nữa, trong con đường phụng sự Quốc-Gia
cho đến cùng. Vì thế phải có một tấm lòng chơn
thật mới quyết-định được.
Ấy
vậy, Bần-Đạo lập lại một lần nữa, để lại
một trang lịch sử tốt đẹp cho hậu-thế, để
hình-ảnh tôn-nghiêm cho hậu-thế ấy là Bí-Pháp
của Thế-Đạo.
Còn
nữa, ngoài ra nữa, còn có cái này; cái này không
hình trạng mà đáng sợ hơn hết là miệng lưỡi
của thế-gian. Có nhiều việc không để nơi trang
lịch sử được, nhiều khi bất công của nhà Vua
hay của nhơn-quần họ không để nơi trang sử được,
họ chỉ để nơi miệng lưỡi thế gian mà thôi,
đáng sợ hay chăng là chỗ đó. Hoặc là vì sự bất
chánh yểm cả công-nghiệp công-thần của mình; nhưng
công nghiệp ấy họ để nơi miệng lưỡi của dân,
của thiên-hạ. Bí-Pháp ấy mới cao thượng, mới
bền bỉ, Bí-Pháp mà Đức-Chí-Tôn dành để đặng
ban thưởng cho những kẻ vì Đạo nhơn-luân của
con người biết quên mình vì Đạo. Vì Đạo mà tạo
tinh-thần cho quần chúng đó, Bí-Pháp ấy cao-thượng
hơn hết ./.
ĐỨC HỘ PHÁP
Thuyết
Đạo tại Đền-Thánh, đêm 26 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu
(1949)
Kể từ hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp Thể-Pháp và
Bí-Pháp của Thiên-Đạo.
Trước
khi Bần-Đạo giảng một cái triết-lý trọng-yếu
ấy Bần-Đạo muốn cho cả thảy chúng ta mỗi người
đều để tinh-thần trí não của mình tự xét lại
coi đương nhiên chúng ta đang sống trong hoàn cảnh
nào.... ? Chúng ta làm gì nơi cõi thế này ? Cái lập
trương của kiếp sống ta đối với vạn-vật hữu-hình
mà Đức-Chí-Tôn gọi là Vạn-linh ấy thế nào ?
Mỗi
người tự soát, tự soát đặng mới có thể hiểu
đặng huyền vi bí-mật của Thể-Pháp và Bí-Pháp
của Thiên-Đạo ấy là cái chìa khóa của chúng ta
mỗi đứa mở lấy cái nguyên-linh của chúng ta vậy.
Bần-Đạo
rủ cả thảy con cái Đức-Chí-Tôn cầm chìa khóa
nơi tay, đặng mở cả huyền vi bí-mật ấy cho thấu
đáo; thấu đáo cho đặng rồi mới có thể biết
được cơ-quan giải-thoát của mình.
Bần-Đạo
lấy của Bần-Đạo trước đã, Bần-Đạo tự mình,
quan-sát của Bần-Đạo coi cái sống của Đời và
cái Linh của Đạo tức-nhiên trí hóa khôn ngoan vô-đối
của chúng ta thuộc về Đạo, như thế nào ?
Linh
ấy sống với phương pháp nào cho còn tồn-tại ?
Tại sao chúng ta vào cửa Đạo, chúng ta vào đây
chúng ta ngồi, tại sao chúng ta chung hiệp với nhau
vô Đền-Thánh này mỗi đêm phải cầu-nguyện kinh-kệ
với Đấng mà chúng ta gọi là Đấng Tạo-Đoan cả
Vạn Linh tức-nhiên Đấng-Chí-Linh đó vậy? Chúng
ta tôn sùng Đấng ấy để làm gì ? Đấng ấy có
hữu ích gì cho chúng ta hay chăng mà chúng ta phải
phụng sự những điều chí thiết ấy ?
Nên
tìm tàng cái nguyên-lý của nó cho thấu đáo mới
gọi rằng tu mà muốn tu phải biết huyền vi bí-mật
ấy mới tu, còn không biết bất quá vô Đền-Thánh
hát chơi vậy thôi.
Hễ
khi nào làm biếng không đi cúng rồi đổ thừa có
chuyện này chuyện kia, tại mình không biết giá-trị
của sự đi cúng, phải biết trong đó cái đã.
Bần-Đạo
biểu tự soát mình coi, tại sao vô Đạo Cao-Đài,
Đấng đã chung hiệp với con cái của Ngài là Đấng
Chí-Linh tức-nhiên là Đức-Chí-Tôn chúng ta đang
chiêm-ngưỡng tại Đền-Thánh này. Phải biết giá
trị đó mới dám can-đảm thí thân cho Đạo mới
có thể cương-quyết đặng chung sống với con cái
của Ngài. Chớ không lẽ ngồi đó tu theo họ mà
không biết chơn-lý ở đâu.
Các
nền Tôn-Giáo, chúng ta đã thấy chán-chường trước
mắt vì lẽ đó mà vong phế.
Bần-Đạo
thuyết, bây giờ Bần-Đạo khai rõ cả tâm-lý của
Bần-Đạo rồi cả thảy con cái Đức-Chí-Tôn cũng
vậy tự mình cung chiêu của mình đi.
Bần-Đạo
theo Đạo Cao-Đài do lẽ này: kiếp sống của Bần-Đạo
không có biết tin gì hết nhứt là đầu óc chỉ
lấy triết lý học-thức làm căn-bản, không ai nhồi
sọ đặng, nhứt định không để chủ quyền tinh-thần
mình không bị ai lừa gạt, dầu cho Bần-Đạo đã
theo Đạo Thiên-Chúa.
Hồi
thuở nhỏ nghe ra bị khó nuôi rồi Ông già Bà già
sanh ra mấy người đều chết hết, đến nóng lạnh
cũng chết, đến đổi thiên hạ sợ, tới phiên tôi
Ông già Bà già bồng đem tôi đến Nhà Thờ Thiên-Chúa
cho Ộng Cha làm con nuôi ông ấy.
Tôi
lớn lên đi học trường mà cũng đi theo làm đồng
nhi bên Thiên-Chúa-Giáo cũng như ai kia vậy; nhưng
trước khi đi học Bà già cho vô trường học Nho
trước, học chừng một năm ruỡi rồi cho vô trường
Pháp nên không biết thêm gì hết, xét mình tự nhỏ
đến lớn kỳ khôi hơn ai hết.
Cái
gì cũng muốn biết mà thôi, cho đến lúc khôn-ngoan
trí-thức cũng vậy, cả cơ-quan của Đời tìm-tàng
cho thấu đáo mọi điều, tìm cho hiểu, mỗi sự
chi cũng tìm cho biết mà không biết được thì không
ăn không ngủ.
Khó
lòng lắm, khó lòng quá, khó-khăn lắm, vậy phải
tìm qua cho đặng hay biết cho đặng mọi việc ở
Đời.
Suốt
một thời-gian, vẫn giục thúc tới chỗ bí- mật
huyền vi của Càn-Khôn Vũ-Trụ, giục thúc Bần-Đạo
một điều làm cho tinh-thần Bần-Đạo xốn-xang biết
bao.
Bần-Đạo
thấy chung quanh các bạn đồng-sanh của Bần-Đạo
dầu cho chí thân hay ngoại-tộc cũng vậy họ đương
dung-rủi trên con đường quanh co khúc-khuỷu của
Đời. Bần-Đạo cũng sống theo với họ trong con
đường dục tấn, con đường ấy tức-nhiên chạy
theo quan chức mỗi bước, mỗi ngày tình trạng khổ
não, khó-khăn lắm, không biết họ làm cho tinh-thần
đặng hạnh-phúc hay đau-khổ ! Không thấy hạnh-phúc
gì hết; qua mỗi khoảng đường day lụng lại kẻ
thương yêu của mình dầu lớn dầu nhỏ họ đã
té quị theo dọc đường ấy nghĩa là họ chết.
Những
kẻ thương yêu Bần-Đạo, Bần-Đạo dòm lại một
lần nữa họ đều chết hết dầu chí thân hay ngoại
thân cũng vậy. Tức tối thay cho quyền-năng vô-đối
của vô hình kia tại sao phải từ bỏ ? Không sanh
sống cho vẹn toàn con người già hay trẻ đều lần
lượt chết hết biết bao nhiêu giọt lệ của Bần-Đạo
đã khóc với thân già và biết bao nhiêu giọt thảm
của Bần-Đạo đã rưới trên thân trẻ. Tình trạng
đau-khổ giục-thúc Bần-Đạo tìm hiểu coi cái phương
pháp giải-kiết, phương-pháp giải-nạn coi có nơi
nào hay chăng. Thử tự soát mình, tự xét nghĩ mình
cũng một mạng sống cũng như mấy ngàn triệu mạng
sống nơi mặt địa-cầu này, không kể các Vạn-Linh
bao phủ, chung quanh họ, thấy họ khổ trong con đường
sống ấy lắm.
Có
nhiều khi muốn bảo thủ mạng-sống họ mà họ phải
tận diệt mạng sống khác. Các mạng sống bị tận-diệt
thì họ phải chịu đau-khổ thống thiết vô ngần
vô-đối; trường đau khổ ấy trải trước mặt
Bần-Đạo.
Đối
với vạn-vật thấy tình-trạng mạnh hiếp yếu,
dữ ăn hiền, đối với loài người thì ngó thấy
họ không kính nể mạng-sống đồng loại đồng
chủng với nhau. Một tấn tuồng bất công trải trước
mặt, muốn kiếm phương an ủi thấy mình cũng một
kiếp sống như các người kia vậy.
Mỗi
chúng ta kiếm con đường hữu ích, cái hữu ích cho
bạn đồng sanh của mình, hễ thấy mình ăn thì bạn
mình mất ăn; mình mặc thì bạn mình mất mặc, tức-nhiên
chính mình, mình cũng giành sống với họ. Xét đoán
mình không có hữu ích chi đối với họ cả, mà
trái ngược lại mình làm tội ác, mình làm khổ-não
cho họ mà thôi. Bởi vì mình giành giựt cái sống
họ để bảo thủ cái sống của mình, mình phải
dành cái sống của họ kia kìa thành ra mình không
hữu ích gì hết.
Kiếm
thế an ủi, có thể nào làm nô-lệ cho họ tôi không
ăn mà tôi sống không, nói đến cái đó thì rất
khó muốn làm cho đặng trọn trong con đường sống
tức-nhiên tôi không thể làm được. Muốn kiếm
giải-pháp ấy cho được thì tôi gởi cả tâm-hồn
tôi vào tay một Đấng vô-hình, nương theo cái quyền-năng
vô-hình làm Chúa của các mạng sống ấy đặng kiếm
thế bảo-thủ mạng-sống của thiên-hạ.
Triết
lý ấy kiếm coi ở đâu, như bên Phật-Giáo biểu
vô chùa mà tu, tụng kinh gõ mõ đặng ăn mà sống,
sống riêng cho cá-nhân, như vậy thì còn tội ác
hơn hết thảy bởi vì biểu họ bố thí cho mình
ăn để mình sống, còn họ thì thiếu sống. Các
nơi khác nữa, ngồi đó duy chủ cái quyền sống
như các nền Tôn-Giáo khác họ giành cái sống ấy
còn mạnh-mẽ hơn các thứ quyền giành sống khác
nữa. Nếu tới một vài cửa khác họ lại giành
sống xảo-trá còn tồi-tệ hơn nữa. Kiếm phương
thế giúp sống cho đồng sanh mà kiếm không ra.
May
thay trong buổi khuẩn-bách tinh-thần ấy, có Đấng
Huyền-Linh đem lại với một phương-pháp vô-hình,
không hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà
làm cho chúng ta nghe là Đức Cao-Đài Thượng-Đế,
nhờ đó mà Bần-Đạo khỏi đi đâu hết. Nếu không
có Đấng ấy thì có lẽ Bần-Đạo điên đi mà chớ;
điên vì cái khổ não của Đời, điên vì gớm ghiết
cái cơ-quan tranh sống của nó.
Ban
sơ Bần-Đạo chưa biết Ổng mà Ổng cho Bần-Đạo
làm Hộ-Pháp. Bần-Đạo không biết gì hết, Bần-Đạo
nhắm mắt Bần-Đạo theo.
Tại
sao Đấng ấy làm thiên-hạ nghe, thiên-hạ theo, chính
mình cũng vậy. Lý lẽ của Ổng , Ổng đem đến
cho thấy rằng: giúp sống chớ không phải giành sống.
Các bạn của mình họ đùa họ theo; em út của mính
dĩ-chí cho đến bạn đồng niên mình họ đùa họ
theo họ nghĩ rằng tôi gơỉ tâm-hồn tôi cho Ổng,
một mình tôi, tôi thấy rằng không đủ Đấng tạo
Đạo không phải gọi một mình tôi mà chính gom-góp
đại đa số tâm-hồn như tôi và có thể đem gởi
cả đôi triệu tâm-hồn khác nữa vì vậy tôi có
thể theo Đấng này được. Đấng đó tôi nên theo,
theo có hai lẽ.
1.-
Về phần Đời tôi khỏi cái bệnh đau thảm của
tôi.
2.- Về phần Đạo tôi khỏi côi cút lẻ loi.
Tôi
có một đám người biết tình ái vô hạn của tôi,
có một đám người cùng tôi gánh khổ của đời
tức-nhiên họ chịu nhiều khổ đặng họ giải khổ
cho thiên hạ.
Nói
đó là nói của tôi, để tâm hồn theo Ổng về mặt
Đời và về mặt Đạo mà thôi, tôi chỉ nghĩ có
bao nhiêu ngoài ra tôi không biết gì nữa.
Bây
giờ Đạo Cao-Đài không biết chánh hay là tà, tôi
chỉ biết Đấng ấy có thể gom-góp đôi triệu tâm-hồn
vào tay Đấng ấy là Đấng Chí-Linh.
Bây
giờ tôi không tin Đấng ấy nữa mà tôi chỉ tin
một điều là ngày giờ nào cái linh hồn tôi thoát
xác ra đi bỏ cái địa hoàn này, tôi sẽ gặp các
bạn chí thân từ trước của tôi, Tổ-Phụ Ông Bà
của tôi. Tôi không biết cảnh hư linh như thế nào
mà nếu tôi gặp được họ thì tôi mới chắc.
Ngày
giờ nào tôi về cảnh Thiêng-Liêng kia, quả nhiên
linh-hồn tôi còn tồn tại chớ không phải tiêu-diệt
như nhiều triết-lý vô-thần, nhiều nhà Duy-vật
đã thuyết nơi mặt địa-cầu này.
Giờ
phút nào tôi thoát xác tôi về vơi hư-linh mà tôi
được một vài triệu linh hồn về cảnh Thiêng-Liêng
Hằng-sống thì tôi không còn hạnh phúc nào hơn chỗ
đó nữa. Tôi không biết giá-trị, không biết quyền-năng
ra sao, nhưng tôi ngó thấy Ổng có thể làm cho tôi
làm bạn với cả trăm, cả triệu chơn linh trên cõi
Thiêng-Liêng Hằng-Sống, vì cớ cho nên tôi phải
vào Đạo Cao-Đài đặng tôi phụng sự cho Ổng tức
nhiên tôi phụng-sự cho con cái của Ổng. Tôi nghĩ
có bao nhiêu đó mà tôi theo cho đến ngày nay. Tôi
đứng giữa tòa-giảng này để ngửa cái triết-lý
ấy đặng cho toàn thể con cái của Đức-Chí-Tôn
rõ biết đặng suy xét.
Đó
tôi lấy chìa khóa mở tinh-thần của tôi rồi đó
còn mấy bạn lấy chìa khóa mở tinh-thần mấy bạn
đi rồi tôi tiếp tục giảng Thể-Pháp và Bí-Pháp
của Đạo Cao-Đài.
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 29 tháng 05 Năm Kỷ-Sửu
(1949)
Đêm nay Bần-Đạo thuyết Thể-Pháp Thiên -Đạo Cao-Đài.
Kỳ trước Bần-Đạo và toàn con cái Đức-Chí-Tôn
đã rủ nhau tự-soát cái kiếp sống của mình đặng
thấu đáo hành- tàng cả chơn tướng của mình, phải
thế nào đối với Càn-Khôn Vũ-Trụ, đối vơi kiếp
sống.
Tưởng
cả mỗi người chúng ta đều có trí định cái nguyên
do căn-bản của sự sống mình, cũng như Bần-Đạo
đã tự soát nơi giảng đài này bữa hôm trước
đó vậy.
Chúng
ta đã thấu đáo cả chơn truyền của Đức-Chí-Tôn
các huyền vi bí-mật cơ tạo-đoan càn-khôn vũ trụ,
nó có ba điều trọng yếu là:
1.-
Cái kiếp sanh của ta theo như chơn truyền Đức-Chí-Tôn
các chơn linh đến tại mặt thế này hay là các
địa giới trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, cốt để trả
quả kiếp của mình, hoặc mình đã tạo căn quả,
vì trong con đường tấn hóa chơn-linh của mình
không đủ mực thước để điều khiển khối nguơn-linh
yếu ớt, không đủ quyền duy chủ mà phải phạm
thêm tội tình oan-nghiệt.
2.-
Đến đặng tìm tàng cái học lực của mình, học
lực của mình là điều mình muốn biết cả kiếp
căn của mình, nếu không biết cũng đeo đuổi theo
tìm tàng theo cho biết cả cơ quan bí mật tạo đoan.
3.-
Là nên lập vị cao thăng hơn nữa tức-nhiên theo
cơ Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ về hữu-hình cốt
yếu để giúp cho các chơn linh tấn-triển trên
con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bần-Đạo
có cho toàn thể chúng ta thấy căn sống của mình
chẳng phải nơi trái địa-cầu 68 này mà thôi, mà
các mặt địa cầu khác trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng
đều một khuôn-luật ấy.
Có
nhiều trái địa-cầu tấn triển cao hơn khuôn -khổ
kiếp sống của con người, có thể giảm bớt tội
nhưng khuôn-luật vẫn một mà thôi không có chi sửa
đổi.
Chúng
ta đã thấy mình sống, kiếp sống của mình như
thế; Bần-Đạo đã cho toàn thể con cái của Đức-Chí-Tôn
tự-soát mình lại không có hạnh-phúc chút nào hết.
Thật sự ra đề mục chúng ta phải đi trong khóa
học này của Đức-Chí-Tôn, đến đặng mở khoa
mục cho nhơn loại buổi này. Hay là mỗi lần các
Đấng chơn linh cao-siêu hơn nữa đến tạo Đạo,
cốt yếu đến mở khoa mục cho các chơn linh thì
khi chúng ta đã ngó thấy khóa này là khóa đầu tiên
hết thảy trong đề mục.
Khóa
ấy riêng từ mức, mới khởi mức số một, chơn
linh kia trong vật-loại dĩ-chí đến Phật vị; đề
mục ấy chưa có vị Phật nào đoạt vị dầu cao
siêu đi nữa cũng chưa giải-quyết được. Chính
mình các vị trong các vị Chí-Linh Hằng Sống chỉ
có một Đấng giải quyết đặng đề mục "
khổ sanh" của chúng ta tấn-triển là duy có Đức-Chí-Tôn
mà thôi. Ngoài ra nữa không có vị Phật nào giải
quyết đặng.
Đức
Phật Thích-Ca lập vị cầm quyền chưởng giáo nơi
Cực-Lạc Thế-Giái, chính mình Ngài đem thuyết Tứ-Khổ
mà thôi, chính mình Ngài cũng không giải quyết được,
chính mình Ngài không duy chủ cái khổ ấy đặng.
Ấy
vậy, đề mục khổ là khổ Sanh, trước là khổ
Sanh, rồi tới Lão, Bịnh, Tử. Sanh trước là sanh
sống, sống là khổ, hễ cái pháp luật nào làm giảm
khổ của chúng sanh nó là chơn; cái pháp luật nào
nó làm cho thống khổ chúng sanh là giả.
Pháp-Luật
Đạo-Giáo nào mà không hữu-ích gì cho cái khổ sanh
của chúng ta thì không có giá trị gì hết.
Chúng
ta quan sát coi các nền Tôn-Giáo đã có phương giải-khổ
cho chúng sanh hay chăng ?
Tại
sao chơn, tại sao giả, chính mình Đức-Chí-Tôn và
các Đấng Thiêng-Liêng cũng như chúng ta thấy các
cơ-quan trong Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt yếu là phải phụng
sự cho nhơn-loại, cho Vạn Linh.
Trái
lại họ không phụng-sự cho Vạn Vạn-Linh mà lợi
dụng Vạn-Linh chớ không phải làm tôi tớ cho Vạn-Linh.
Hễ lợi dụng là không phải phương-pháp giải-khổ
tức nhiên là giả pháp.
Quan
sát lụng lại các nền Tôn-Giáo hết, chúng ta thấy
không có phương-pháp để giải-khổ chúng sanh, bất
quá là một lý -thuyết mơ -mộng mà thôi.
Giải-khổ
cái sống cái đã.
Chúng
ta thấy các nền Tôn-Giáo đương-nhiên bây giờ có
nền Tôn-Giáo nào phụng-sự cho chúng sanh không ?
Có nền Tôn-Giáo nào làm tôi-tớ cho chúng sanh đặng
giải khổ cho chúng sanh hay chăng ? Quan sát coi. Chưa có !
Chúng
ta ngó thấy, chúng ta có một điều tức cười hơn
hết là họ ngồi gõ mõ đánh chuông mà họ nói giải-khổ
cho chúng sanh.
Sanh
trước cái đã, là mực thước đi từ khuôn-khổ
của nó nếu nói phi lý không quan sát được, không
thể công nhận được, nhưng đương nhiên chúng ta
đã thấy gì ?
Bần-Đạo
đã thuyết kỳ rồi cái pháp-luật của Thiên-hạ
là họ đã xu hướng theo " Tứ-diệu-đề"
của Đức Phật Thích Ca; họ dong-rủi theo Tứ-Diệu-Đề
để giải khổ cho chúng sanh là: Sanh, Lão, Bịnh,
Tử. Họ thi hành trong khuôn-khổ quyền pháp của
họ mà thôi.
1/-
Sanh, họ lập nhà Bảo-Sanh đặng giải khổ cho
sự sống.
2/- Lão, họ lập ra cơ-quan Dưỡng-Lão để nuôi
kẻ già, kẻ yếu.
3/- Bịnh, họ lập ra nhà thương khắp nơi cả thảy
trên mặt địa-cầu này biết bao nhiêu nhà thương
để chữa bịnh cho đời.
4/- Tử, họ cũng làm Âm-công, cũng bố-thí, cũng
làm phước vậy, nhưng có một điều là họ bố
thí chớ không phải phụng-sự. Họ lấy của người
này đem cho người kia chớ không phải phụng sự
cho nhơn-loại.
Còn
Đạo Cao-Đài Đức-Chí-Tôn đến biểu chúng ta làm
gì ? Biểu chúng ta dùng cả xác thịt, trí-não, tâm-hồn,
làm Thánh-Thể cho Ổng , làm đầy tớ cho cả con
cái của Ổng, đó mới là thuyết giải khổ vậy.
Chính
mình Bần-Đạo cầm quyền Hội-Thánh đem vào khuôn-khổ
luật-pháp ấy thế nào ?
Buổi
ban sơ Bần-Đạo lấy cả pháp-luật làm chuẩn thằng,
chỉnh đốn cả cơ-quan chính-trị của đời là:
Sanh, Lão, Bịnh, Tử. Bần-Đạo lập nhà thương,
nhà dưỡng lão, nhà bảo sanh là cốt yếu chỉnh
đốn thân sống trong khuôn-khổ mực thước, tức
nhiên họ giúp cho nhau trong khuôn-khổ Đạo-Đức.
Tức nhiên họ có cả cơ quan làm cho buổi thống
khổ loạn-lạc phải tiêu hủy.
Cơ-quan
Đạo Cao-Đài cốt-yếu chỉnh đốn nhơn-quần xã-hội
tăng-tiến trong khuôn-khổ nhơn-luân, nhơn đạo để
trong tâm não họ đặng họ tương-trợ nhau họ xúm
nhau trong một nhà để giúp nhau về mặt tinh thần.
Bây
giờ Bịnh, Tử cũng thế, về mặt xác thịt chuyển
cả cơ-quan Thế-Đạo, cốt yếu để giải-khổ chúng
sanh về sự sống đối với Sanh, Lão thì chúng ta
đã lập thành đại gia-đình; như thân nầy khi già
rồi còn em, còn bạn, còn con, còn cháu, một đại
gia đình càng ngày càng lớn hơn nữa.
Giờ
phút này có hai triệu người chứ không phải như
trong buổi tạo Đạo; chúng ta dầu sống đi nữa
cũng không phải cô độc mà khi chúng ta phụng sự
trong Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn tức nhiên phụng sự
cho Ngài, tuổi già chớ tinh-thần không già, không
buổi nào chúng ta già hơn Đức-Chí-Tôn, nhỏ làm
tôi mọi cho nhỏ, lớn làm tôi mọi cho lớn, già
làm tôi mọi cho già.
Không
buổi nào thấy cái già cái khổ cho chúng ta tức-nhiên
giải-khổ rồi đó vậy.
Sanh,
Lão không phải khổ chúng ta, mà nó là một cơ-quan
giúp cho đời được lịch duyệt. Bịnh, Tử không
phải khổ của chúng ta, mà nó là cơ-quan giúp ta
đoạt Thiêng-Liêng vị. Bịnh-Tử , bịnh chúng ta
làm gì chúng ta bịnh, tại số chết của chúng ta,
tại khối sanh quang của ta hết lực mà thôi.
Kiếp
sanh này làm tôi cho người, dầu cho có bỏ xác hay
chết là cùng. Mạng sống kiếp sanh của mình do quyền
Đức-Chí-Tôn định liệu, thì sợ gì cái chết;
trái ngược lại thiên hạ sợ chết là khổ mới
chết, còn chúng ta không sợ chết vì chết là cơ-quan
giải-thoát đó vậy.
Giờ
phút này người tu là đem thân làm nô lệ cho nhơn-loại,
rồi có vui sướng gì với kiếp sanh mà cần sống,
giá trị cái sống của ta khác hẳn hơn thiên hạ
tưởng-tượng, mà tưởng tượng cái chết của ta
là buổi nghỉ-ngơi, buổi hết cực; cái chết ấy
chẳng phải do mình mà do nơi Đức-Chí-Tôn định
là tới buổi Đức-Chí-Tôn nói các con đã làm xong
phận sự, Thầy cho con về.
Giờ
phút này chúng ta đương ở Đền-Thánh của Ngài
đây, đương phụng sự cho Ngài đây, thì cái sống
chết của chúng ta không còn giá trị gì đối với
chúng ta nữa, và trong Tứ-Khổ không còn giá trị
gì đối với chúng ta nữa: Ấy vậy, " Tứ-diệu-đề"
tức nhiên bài học, bài thi, của đề mục khổ duy
có Đạo Cao-Đài giải quyết nó, đánh mất nó, làm
cho nó không còn giá trị chi nữa, tức-nhiên chính
mình và toàn cả con cái của Đức-Chí-Tôn hay tương
lai tôi nữa cũng vậy.
Chúng
ta trọn hiến thân làm Thánh-Thể cho Ngài mà ta sống
cho mình chớ không phải sống cho Ngài là không đúng;
sống không phải sống cho mình mà chính là sống
cho Ngài vì chính mình đem trọn cái sống ấy dưng
nạp cho Ngài, mà tưởng tượng ta khổ thì tức nhiên
Đức-Chí-Tôn khổ còn gì. Ổng không có khổ, mà
lại sống vinh diệu quá, ta lại gặp thời kỳ này
may duyên gặp được một cảnh sống lạ thường,
sống về Thánh-chất, sống về Thiêng-Liêng, sống
về Càn-Khôn Vũ-Trụ, sống về Trời Đất, sống
dường ấy mà gọi là khổ sao đặng.
Ấy
vậy, Chơn-Pháp thuộc về Thể-Pháp của Thiên-Đạo
Cao-Đài ngày nay có lẽ phù hợp với tinh-thần nhơn-loại
hơn các nền Tôn-Giáo khác; có lẽ, nhưng chúng ta
đừng ỷ mình.
Mỗi
ngày thường tự hỏi mình coi làm vừa sức của
ta chưa ? Làm vừa sức của Đức-Chí-Tôn biểu mình
làm hay chưa ? Sống của mình có vừa với cái sống
của Đức-Chí-Tôn hay chưa ? Nếu chúng ta đủ tinh-thần,
đủ trí não và đủ năng lực để thay thế cái
sống của Đức-Chí-Tôn thì " Tứ-diệu-đề"
của Đức Phật Thích-Ca để tại mặt thế-gian này
không có nghĩa-lý gì và giá trị gì đối với chúng
ta hết.
Thể-Pháp
của Đạo Cao-Đài chủ về sống mà đánh tiêu cả
sự khổ tức-nhiên đánh tiêu cả Thể-Pháp. Thể-Pháp
đánh tiêu được thì sẽ đánh tiêu Bí-Pháp được.
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết
Đạo tại Đền-Thánh, đêm 4 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu (1949)
Đêm nay Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp có liên quan đến
Thể-Pháp, nói rõ là cái luật Đạo có liên quan
đến luật Đời đó vậy.
Vả
chăng chúng ta đã ngó thấy cái cơ-quan Tạo-Đoan
Càn-Khôn Vũ-Trụ là cơ-quan Đức-Chí-Tôn để phụng-sựỳ
cho Vạn-Linh, cái chơn-pháp nó vẫn vậy.
Bần-Đạo
có thuyết về thuyết ấy, Bần-Đạo nói đất phải
hy-sinh đặng phụng sự cho cây, tức-nhiên là thảo-mộc.
Cây phải hy sinh đặng phụng sự cho thú, tức nhiên
nó phải hy sinh đặng nuôi thú, mà loài người đứng
đầu trong loài thú chớ không có chi khác nữa.
Vì
cớ cho nên cổ-luật lại buộc thú phải hy-sinh phụng
sự cho người, phụng sự không đi quá sức, hy sinh
đặng nuôi loài người. Bởi vì lẽ lầm hiểu về
chơn-pháp ấy mà nhơn-sanh đã thực nhục (ăn thịt
).
Giờ
tới một mức nữa người phải hy sinh đặng phụng
sự cho Trời. Chắc là cả thảy đều nhớ cổ-luật
của Thượng-Cổ khi tế Trời họ đem người ra họ
giết, rồi họ thiêu như con thú kia vậy. Con người
có luật ấy một thời hạn cũng khá lâu. Khi dùng
người làm tế-vật đặng hiến cho Đức-Chí-Tôn
nếu Bần-Đạo hiểu theo các Đạo-Sử thì đã có
gần 40.000 năm về pháp-luật ấy; thử nghĩ coi các
nhơn mạng buổi nọ đã đem làm con vật hiến cho
Đức-Chí-Tôn nhiều lắm rồi vậy. Mới đây chừng
lối 6.000 năm đời của Jacob trước 6.000 năm, theo
Đạo-Luật của Hébreu tức nhiên luật của Do-Thái
phải giết vật để tế Đức Chúa Trời, luật đó
tới nay có lẽ vẫn còn đó vậy.
Đức-Chí-Tôn
có đòi hỏi chăng ? Không, tôi dám chắc không, vì
chính mình Ngài tạo cho Vạn-Linh, chính mình Ngài
làm tôi tớ cho Vạn-Linh và phụng sự cho Vạn-Linh,
có lẽ đâu Ngài đòi nhơn-loại phải làm con Tế-vật
tế cho Ngài.
Bao
giờ chúng ta cũng thấy luật phụng-sự cho Vạn-linh
đi từ vật-loại đến nhơn-loại.
Chúng
ta thấy việc của con Ong, con Mối, con Ong chúa thật
sự ra phụng sự đầy dẫy hơn hết, đứng đầu
hơn hết, vì làm chúa nên phải có nhiều phụng-sự,
nó phải chịu sanh sản, làm giống nòi nó sanh sản
mãi mà thôi cũng như thượng-cổ trước lối 150
ngàn năm và trước nữa thì loài người cũng vậy.
Đạo-Pháp trong Phật-Giáo để lụng lại các Đấng
duy-chủ của các sắc dân, chủng-tộc do tiếng Phạn
gọi là "Ma-Nu" cũng một kiểu vở con Ong,
con Mối. Con Mối chúa phụng-sự cho cả một ổ Mối
hơn ai hết, bởi vì chính mình con Mối Chúa đã sản-xuất
chủng tộc của loài Mối.
Chúng
ta thấy lụng lại một triều chính của xã-hội
nhơn-quần đã lập quốc, tức-nhiên lập một nền
chính trị tương-liên, một quốc-gia vô trong một
khuôn-khổ của một quốc thể, một văn-hiến đều
chịu một luật pháp ấy, mà luật-pháp ấy muốn
thi hành thì phải có triều-chính. Thật sự ra triều-chính
nhà Vua phải phụng-sự cho quần-linh, tức-nhiên phụng-sự
cho lê-dân. Một mình Ổng phụng-sự cho toàn thể
lê-dân không thể được nên phải lập triều chính,
từ Tể-Tướng, dĩ-chí cho tới bực hạ-quan. Chánh-trị
một quốc-gia là thay thế hình ảnh cho Vua đặng
phụng-sự cho lê-dân mà thôi.
Chúng
ta ngó thấy trong vật loại như con Mối Chúa, con
Ong Chúa cũng làm chúa, cũng phụng sự, trong phụng
sự kia cũng lập một triều-chính đặng có phương-pháp
phụng-sự cho nó. Nhà Vua cũng vậy, lập triều chính
đặng biến thân cho muôn ngàn triệu, đặng phụng-sự
cho toàn thể lê dân. Mối Chúa cũng vậy.
Bây
giờ Đức-Chí-Tôn Ngài phụng-sự cho Vạn-Linh toàn
cả trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, Ngài đã dùng cái gì ?
Ngài dùng phương-pháp phụng-sự Vạn-Linh là lấy
Đời, lấy Vạn-Linh phụng-sự cho Vạn-Linh. Chúng
ta ngó thấy Đức-Chí-Tôn nuôi cây, nuôi thú; thú
để phụng-sự cho người. Ngài dùng căn-bản đó
để phụng-sự cho Đời, cũng như Nhà Vua dùng lê-dân
lập triều-chính đặng phụng-sự cho lê-dân.
Đức-Chí-Tôn
ngày giờ này đến lập Đạo muốn phụng-sự cho
cả toàn nhơn-sanh mặt địa-cầu 68 này, Ngài phải
làm thế nào ? Ngài cũng phải mượn loài người
phụng-sự cho Ngài. Ngài phải dùng loài người đặng
làm Thánh-Thể cho Ngài là lập triều-chính của Ngài.
Chúng
ta ngó thấy Đức-Chí-Tôn đến lập Đạo; lập Đạo
phải lập Hội-Thánh đặng phụng-sự cho Vạn-Linh
trên mặt địa-cầu 68 này. Chúng ta ngó thấy cái
quyền rồi, ban cho cái quyền luật định phụng-sự,
vì phụng-sự ấy mới làm Chúa như con Ong kia, con
Mối kia vì phụng-sự mới làm Chúa. Ông Vua cũng
vì phụng-sự cho dân mới làm Vua; Bây giờ Đức-Chí-Tôn
vì phụng-sự cho Vạn-Linh mới làm Trời.
Ngài
phải lập Hội-Thánh tức-nhiên Ngài lập Thánh-Thể
của Ngài. Triều-chính tức-nhiên Thánh-Thể của
Ngài chớ không có gì lạ. Muốn cho Hội-Thánh cầm
quyền thống-trị đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, Ngài
phải lập triều-chính, triều chính là ngôi Thần,
Tiên, Thánh,Phật đó vậy. Ngài lập Thánh-Thể cũng
như thế ấy; vì cớ cho nên chúng ta ngó thấy Thánh-Thể
Đức-Chí-Tôn tức-nhiên Hội-Thánh có đủ các phẩm
Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế này.
Không
có cái chi mà chúng ta cầu muốn hay là dùng công-
nghiệp mà người không trả không bồi thường, vì
Ngài đã mượn chúng ta làm Thánh-Thể cho Ngài đặng
Ngài phụng-sự cho Vạn-Linh thì Ngài phải trả, phải
bồi thường; nếu muốn cho người ta theo thì phải
lập vị cho họ, thì họ mới theo.
Đức-Chí-Tôn
Ngài đến ký hòa ước với loài người nhứt là
dân-tộc Việt-Nam trước cái đã; mấy người làm
Thánh-Thể cho tôi, đặng tôi phụng sự cho Vạn-Linh,
thì tôi sẽ lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật lại
cho mấy người. Nếu các người chịu thì ký hòa-ước
với tôi, kế các người làm tôi cho con cái của
tôi cho vừa sức của tôi muốn, hay vừa ý của tôi
định thì tôi sẽ trả lụng lại là lập ngôi vị
cho mấy người trong Thánh-Thể ấy, tôi đã định
phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, tôi đã lập vị
sẵn cho mấy người, mà mấy người đoạt được
tại mặt thế này, tới chừng về cõi vô-hình tôi
không chối cãi gì hết, trái lại còn trả hơn khi
chúng ta phụng-sự cho Vạn-Linh tại mặt thế này
nữa là khác.
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết
tại Đền-Thánh đêm 8 tháng 06 Năm Kỹ-Sửu (1949)
Đêm nay trước khi Bần-Đạo thuyết Bí-Pháp chơn-truyền
của Đạo, tương-liên Thể-Pháp của Đạo thế nào,
trước khi thuyết Bần-Đạo nhắc lại nữa, nhắc
một điều cần yếu cho cả thảy đều nhớ, nhớ
để đi theo.
Trước
khi trong tinh-thần Đạo-Đức kia chỉ dẫn chơn-pháp
Càn-Khôn Vũ-Trụ cốt định cho loài người có hiện-diện
tại nơi thế này đặng phụng-sự cho Vạn-Linh, mà
cũng là dẫn đạo cho Vạn-Linh.
Phụng-sự
đặng dẫn đạo cho Vạn-Linh, ấy vậy chơn-pháp
có ảnh-hưởng là quyết-định thiệt phận của
loài người là phải phụng-sự mà thôi. Hễ không
phụng sự tức-nhiên là vô Đạo, mà vô Đạo thì
không thể gì đoạt được cơ giải-thoát hết.
Bần-Đạo
đã chỉ rõ tương quan của luật-pháp Đời cốt
yếu nương theo" Tứ-diệu-đề" tức nhiên
Tứ-Khổ, đặng rồi thiên-hạ dầu Quốc-Gia xã-hội
nào cũng kiếm phương bợ đở tinh-thần loài người
hay là toàn dân trong nước đặng lập vị của mình.
Thật
sự ra, nói rằng: Họ đã tạo dựng Đạo-Giáo đặng
phụng-sự cho dân, nhưng thật sự đi trong đường
nào ? Lấy tinh-thần cứu khổ của Đạo-Giáo mà
kỳ trung họ không phụng-sự Quốc dân, chỉ tạo
quyền cho họ mà thôi, tức nhiên họ không phải
vì sở định cứu khổ mà đến để lập quyền
cho vững chắc. Nhưng Đạo-Giáo chúng ta thì khác.
Đạo-Giáo
chúng ta buộc phải định phận mình là giải-khổ
tức-nhiên phải làm thế nào cứu vớt quần linh
cho khỏi " Tứ-diệu-đề" tức nhiên Tứ-Khổ
của kiếp sanh đó vậy. Hai cái tinh thần ấy dầu
trong hành tàng cũng vậy, vẫn khác hẳn với nhau
vì cớ cho nên Đạo với Đời không có bao giờ tương
đắc với nhau đặng. Bần-Đạo nói Đạo không phải
giành quyền, mà chỉ tạo Đạo đặng định phận
mà thôi.
Bên
kia họ cho rằng: Đạo giành quyền của họ, trái
hẳn chúng ta vẫn thường thấy, chính mình Đức-Phật
Thích-Ca đến khi Ngài có quyền, chính cha của Ngài
còn tranh giành cái quyền ấy. Về quyền hành có
điều khó giải quyết hơn hết là; cả tinh thần
chúng sanh, cả thảy đều biết rằng Đạo phải
phụng-sự cho nhơn-loại, vì đấy mà bên Đời dầu
thế nào đi nữa bất quá là lòe con mắt đặng cho
người ta theo, chớ không phải như bên Đạo phải
phụng sự.
Bởi
cớ cho nên mới dục ra tấn-tuồng giành quyền với
nhau là vì chỗ đó.
À,
bây giờ Bần-Đạo nói rõ phải ra phụng sự đặng
giải khổ tức-nhiên giải quyết "Tứ-diệu-đề"
của Đức Phật Thích-Ca đã để nơi mặt địa-cầu
này.
Bần-Đạo
thuyết cả Bí-Pháp Đạo-Giáo có liên-quan mật thiết
với Thể-Pháp rồi cả thảy đều nghĩ từ thử
đến giờ, Bần-Đạo buộc phải đi cúng, phải hành
Đạo là thế nào, không phải buộc mấy người mà
Bần-Đạo hưởng một quyền lợi gì riêng hết,
mấy người suy đoán chơn-pháp rồi mấy người mới
biết. Bần-Đạo vì phận sự muốn cho con cái của
Đức-Chí-Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt
gao như vậy thôi.
Vả
chăng trong chơn-pháp, con người nơi mặt thế này
có ba điều.
1.-
Hoặc là phải trả quả kiếp xuống tại mặt địa-cầu
này để trả.
2.- Hoặc muốn học hỏi thêm, muốn tấn hóa tới
nữa về phương lược địa vị tinh-thần của
mình còn thiếu kém, học thì đến mặt địa-cầu
này đặng học.
3.- Các vị đã được địa vị cao siêu nơi cảnh
Thiêng-Liêng Hằng-Sống đến mặt địa-cầu này
đặng lập vị mình thêm cho đặng cao trọng.
Ba
điều ấy muốn đoạt được thì phải phụng-sự
Vạn-Linh mới được. Bần-Đạo thuyết tới con cái
của Đức-Chí-Tôn sẽ ngó thấy Đức-Chí-Tôn không
dùng quyền Chí Tôn của Ngài. Ngài đến đặng lập
quyền cho con cái của Ngài mà thôi, không phải đến
lập quyền hành hoặc bảo-vệ con cái của Ngài,
Ngài không thế gì để cho con cái Đức-Chí-Tôn lạm
quyền đặng.
Cơ
quan giải- thoát là phụng sự, dầu cho quả kiếp
mà đến cũng vậy; dầu cho vì học hỏi mà đến
cũng vậy; dầu cho lập vị mà đến cũng vậy. Chúng
ta phải phụng sự cho Vạn-Linh mới được, trong
phụng sự ấy chúng ta không biết chúng ta bị quả
kiếp nơi nào, người nào, nhưng nhờ phụng sự ấy
mà mình gặp được người mình muốn trả nợ tiền
khiên, biết đâu nhờ hồng ân Đức-Chí-Tôn định
cho mình gặp đúng người để đặng trả. Tóm lại,
cũng phải phụng sự mới có.
Bây
giờ về học hỏi thì chúng ta muốn gì ? Muốn biết
mọi điều về huyền vi cơ-tạo, muốn biết cho đặng
thì phải phụng sự cho Vạn-Linh mà thôi; rồi trong
phụng-sự ấy nó sẽ chỉ điều cho chúng ta muốn
biết mà lập vị, và có gì hơn thay thế cho Đức-Chí-Tôn
mà phụng sự cho Vạn linh lập vị ấy không thế
gì ai chối cãi được.
Muốn
làm cho đặng như Đức-Chí-Tôn đã làm ta phải làm
gì ? Ngài biểu chúng ta hiến ba món báu trong mình
chúng ta là Tam-Bửu.
1.-
Xác thịt
2.- Trí não
3.- Linh hồn
Tức
nhiên thân thể và phàm thể của chúng ta, Đức-Chí-Tôn
biểu ta hiến cho Ngài đặng Ngài phụng sự cho Vạn-Linh.
Chúng
ta thấy gì ? Mỗi ngày ta kêu Đức-Chí-Tôn làm chứng,
kêu Tam-Giáo làm chứng, giờ phút này con nguyện dâng
cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy
đặng Thầy làm lợi khí mà phụng sự cho Vạn-linh.
Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có trả nợ
tiền khiên chớ không có tạo nữa; nếu có tạo
mà giờ phút này mình đến Đền-Thánh này đây,
ngồi trong lòng của Đức-Chí-Tôn đứng trong phần
tử Thánh-Thể của Ngài tình cờ mình bị quả kiếp
gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình
không biết duy chủ nữa mà chính Đức-Chí-Tôn duy
chủ, vì mình giao cả thân-thể mình nơi tay Đức-Chí-Tôn
thì mình không còn biết gì nữa.
Ngày
kia mình có thể nói mỗi hành tàng của con làm, con
đã tạo, con giao cả trong tay Đại-Từ-Phụ, quyền
hạn xử định do nơi tay Thầy chớ con không biết.
Mình
giao cả hình hài đó cho Ngài xử dụng, nếu sự
thật có gì không hay xảy tới cho mình, mình không
hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức-Chí-Tôn
đặng Đức-Chí-Tôn phụng sự cho vạn linh quyền
xử dụng ấy do Đức-Chí-Tôn quyết định, mình
đừng làm trái với mặt luật của Ngài định.
Ấy
vậy, mỗi ngày từ mơi tới trưa, đến chiều, từ
chiều đến khuya, từ khuya tới sáng, mình vô Đền-Thánh
kêu Đức-Chí-Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng-liêng
mà phân chứng trước. Thân tôi không còn của tôi
nữa, tôi đã hiến cho Đức-Chí-Tôn làm tôi tớ
cho Vạn-Linh thay thế cho Đức-Chí-Tôn, giờ phút
đó chúng ta không biết tội nào chúng ta đã làm
dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm
nữa thì quả kiếp ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát
chúng ta đoạt không thể gì định tội được. Đức-Chí-Tôn
biểu chúng ta không phải là chúng ta; mà chúng ta
không phải là chúng ta thì quả kiếp ấy không phải
là của chúng ta tức nhiên ta đã đoạt cơ giải
thoát, quyền ấy chính của ta chớ không phải của
Đức-Chí-Tôn. Lấy quyền của ta mà cho ta, mình đã
định quyền cho mình, chớ không phải Ngài định;
Ngài định cho có quyền giải thoát, quyền Thiêng-Liêng
không có tạo, chính ta tạo quyền giải thoát đó
do nơi ta mà thôi.
|