Ðại
- đạo Tam
- Kỳ
phổ - độ
Tòa - Thánh
Tây - Ninh
BÍ-PHÁP
Lời
Thuyết Đạo của ĐỨC-HỘ-PHÁP
Tài liệu do
Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo
***
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết
Đạo Tại Đền -Thánh, đêm 11 tháng 6 Năm Kỷ-Sửu
(1949)
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp sự liên quan Thể-Pháp
và Bí-Pháp của Đạo. Trước khi Bần-Đạo giảng
tại sao Đức-Chí-Tôn lập hình thể hữu-hình đặng
Ngài tạo Đạo.
Đêm
nay Bần-Đạo giảng đặng cho cả thảy đều hiểu
rõ Thánh-Thể là gì ? Tại sao lấy Tam Bửu ấy là
trong người của ta để làm Thánh thể, cả thảy
Tam bửu là có một, mà một do ba người hiệp nhứt,
cũng như Càn-Khôn Vũ-Trụ sản xuất ba quyền Phật,
Pháp, Tăng trong đó có ba người, nhưng trong ba người
chỉ có một là Đức Chí Tôn mà thôi.
-
Người thứ nhứt là ta hay là thể chất tức-nhiên
thân-thể của ta đây.
- Người thứ nhì là chơn-thần tức là trí-não
của ta hay là pháp thân; Pháp thân ấy do nơi Kim-Bàn
phát hiện, tức nhiên do nơi Phật-Mẫu sanh đẻ
ra đó vậy.
- Người thứ ba là chơn linh tức linh-hồn của
ta hay linh-thể của chúng ta do nơi Đức-Chí-Tôn
sản-xuất, ba món ấy hiệp lại mới thành người.
Linh thể của chúng ta từ trước Đạo-Giáo của
nhà Phật do Ấn-Độ sản-xuất, tức-nhiên Đức-Phật
Thích-Ca đã minh tỏa thể-chất có ba người, Ngài
gọi nguyên chất là ( Égo ) người thiệt của chúng
ta, tới chừng đem qua Bắc Tông rồi, tức-nhiên
họ qua Nho Giáo. Nho-Giáo không có tên mới đặt
linh-thể ấy là Tâm lấy tâm đặt tên chơn-thể,
chữ tâm ấy do tướng-hình Thiên Lương vi bổn.
Một
vật hễ sản-xuất tại mặt địa-cầu nầy đứng
trong khuôn-khổ Đạo-Giáo tức nhiên Thiên-Lương
của mình, Thiên Lương ấy không tướng hình nên
để chữ Tâm. Ấy vậy, chữ Tâm ở bên Bắc-Tông
Phật-Giáo tỏa hình Linh-Thể của chúng ta đó vậy,
tức nhiên tỏa hình chơn linh của chúng ta, do nơi
Đức-Chí-Tôn sản xuất. Ấy vậy ba người trong
thân thể chúng ta đang gánh chịu đó ; khi được
hình rồi, có hiện tượng tại mặt thế này rồi
thì chúng ta ngó thấy chúng ta có ba mối nợ.
Mối
nợ của cha mẹ thân sanh ra ta, sản xuất ra ta, là
mối nợ trước phải trả. Nếu khi ta đoạt kiếp
được, lập vị Thiêng-liêng của mình đặng vô
cửa Thiêng-liêng Hằng Sống mà đàng sau lưng của
mình có mang ba mối nợ thì vô cửa ai cho, phải trả
cho rồi mới vô đặng.
Vì
cớ cho nên Đức-Chí-Tôn biểu mình phụng-sự cho
Vạn-Linh, đặng trả nợ thi hài của mình, tức nhiên
trả nợ máu thịt của mình, nợ ấy ta nhận là
công chánh hay oan khúc cho ta ? Thì chúng ta ngó thấy
nó rất công-chánh, một giọt Máu, một điểm Tinh
của chúng ta thọ nơi phụ mẫu chúng ta, rồi cha
mẹ của ta đã thọ của người trên trước nữa,
cũng một giọt Máu, cũng một điểm Tinh mà tạo
nên thi hài. Cha mẹ đã thọ nơi Ông Bà Tổ Phụ
của chúng ta, rồi giọt Máu, điểm Tinh ấy truyền
thống cho chúng ta, ta phải chịu khi ấy phải trả,
mà trả thì phải khổ cho ta lắm, nếu chạy thì
cha mẹ chúng ta phải trả.
Rồi
khi cha mẹ sanh ra ta, ta phải nhờ ai mà sống, nhờ
ai mà nên người, nhờ ai mà có. Chúng ta sản xuất
tại mặt thế gian này tức nhiên nhờ xã-hội nhơn-quần,
nhờ ăn mới sống thi-hài thân-thể mới giữ đặng
giọt Máu, điểm Tinh, để truyền thống ? Trả đủ
nợ ấy cho xã-hội nhơn-quần mới về cảnh Thiêng-Liêng
Hằng Sống được. Quả nhiên chúng ta thiếu nợ
hay là Tổ Phụ Ông Bà chúng ta thiếu nợ nên chúng
ta phải trả; muốn trả phải phụng-sự cho xã-hội
nhơn-quần. Đức-Chí-Tôn coi trọng hệ nhứt, nên
Ngài mới lập trường công quả này đây. Chỉ có
làm công quả nơi của Đạo Cao-Đài nầy mới trả
hết số nợ đó mà thôi.
Tiếp
sau đây Bần-Đạo sẽ giảng tại sao có mở trường
công-quả trong thời buổi này ? Ấy là nơi để chúng
ta tạo công, rồi lấy công trả nợ máu thịt mà
trả nợ máu thịt tức trả cho xã-hội nhơn-quần
đó vậy.
Phụng
thờ Tổ-Tiên Ông Bà và Song Thân đó, do Đạo Nhơn
Luân Vi Bổn. Mang nợ máu thịt ấy phải trả tức-nhiên
làm công quả để lấy công quả trả nợ máu thịt
đó vậy.
Xã-hội
chúng ta vẫn thấy từ thử đến giờ, chúng sanh
vẫn chạy nợ, dầu muốn dầu không họ vẫn trốn
nợ bất kỳ là nợ gì ? Cho nên Đức-Chí-Tôn vi
chứng rằng: Bây phải trả nợ mà bây đã vay từ
trước. Ngài truyền tức nhiên Ngài truyền cho xã-hội
nhơn-quần, vì trong Thiên Tánh của Ngài định cho
chúng ta trả nợ, mà muốn cho ta dể trả nợ Ngài
bảo chúng ta phải làm thế nào ? Chúng ta duy có phụng
sự mà thôi. Vì cớ cho nên Ngài lập Đạo là vậy.
Trả
nợ nhơn-quần xã-hội rồi mới chỉ có một mối,
còn hai mối nợ nữa phải trả chớ, nợ của người
sản-xuất ra chơn-thần, là Mẹ đẻ pháp thân tức
nhiên Phật Mẫu đó vậy.
Bây
giờ Đức-Chí-Tôn Ngài đến đặng Ngài nhìn nhận
con cái của Ngài. Đức-Chí-Tôn bảo Đức Phật-Mẫu
bà là chủ nợ Bà phải đòi, kêu chúng nó đến
trước mặt Bà mà trả cho Bà. Bà đừng để cho
nó thiếu nợ mà nó giải thoát không đặng.
Ngài
đến mở Đạo nhìn chúng ta là con cái; con cái của
Ngài nhìn chủ nợ là Bà, thì chúng ta phải trả,
vì cớ cho nên chúng ta thờ phượng Phật-Mẫu là
vậy. Chúng ta đến bái lạy Ngài thì chúng ta cũng
nguyện dâng cả thi hài, chơn-thần và chơn-linh của
ta đặng làm môi giới cho Ngài tạo Đạo, cũng như
Đức-Chí-Tôn vậy. Chúng ta trả nợ Đức-Chí-Tôn
ra sao thì đối với Phật-Mẫu cũng như thế ấy.
Còn
nợ thứ ba nữa là: Nợ đối với Đức-Chí-Tôn.
Ngài đã ban cho ta một điểm Chơn Linh của Ngài,
tức nhiên chúng ta do nơi Ngài mà sản xuất. Linh
Tánh của chúng ta Linh hơn vạn-vật, vì có tánh Trời
ở trổng.
Bần-Đạo
thuyết minh rằng: Con thú này có Ông Trời ở trổng.
Ổng đồng sống với nó. Có Ông Trời đồng sống
trong Tánh Linh ấy, mà muốn trả nợ với Đức-Chí-Tôn
do nhứt điểm chơn-linh của Ngài sản-xuất thì chúng
ta phải làm như Ngài đã làm, đặng kế nghiệp cho
Ngài, mà làm như điều của Ngài đã làm. Ở chúng
ta không thể gì định được sự trả nợ của các
Ngài, sự làm của Ngài có ảnh hưởng thanh túy,
tức nhiên là hy-sinh Vạn-Linh mà phụng-sự Vạn-Linh.
Chúng ta phải học ở Ngài, cái tánh chất mà Ngài
đã làm để chúng ta phụng sự cho Vạn-Linh, như
Ngài đã phụng-sự chúng ta thấy trước mặt không
thể gì chối cải đặng. Chúng ta thiếu nợ Nhứt
Điểm Linh, chúng ta muốn trả nợ phải trả như
Ngài; mà muốn trả nợ Vạn linh Ngài phải làm tôi
tớ cho Vạn-Linh. Chúng ta vẫn ngó thấy, chúng ta
muốn trả nợ cho Ngài thì chúng ta phải làm tôi-tớ
cho Vạn-Linh như Ngài đã làm. Chúng ta phải làm Thầy
Vạn-Linh như Ngài đã làm Thầy của Vạn-Linh.
Chúng
ta trả ba món nợ ấy được rồi, tới ngày chúng
ta giải thể của chúng ta, trở về cảnh Thiêng-Liêng
Hằng Sống nhập vô Niết-Bàn-Cảnh, không còn ai
níu lưng nữa. Phải trả nợ ấy rồi mới vô bởi
vì chúng ta đã trả rồi.
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết
Đạo tại Đền-Thánh, đêm 18 tháng 06 Năm Kỷ-Sửu
(1949)
Trước khi Bần-Đạo thuyết về Bí-Pháp chơn truyền
của Đạo, Bần-Đạo đã kết luận cái phản khắc
Đạo-Pháp, Thể-Pháp, tức nhiên sự phản khắc của
Đời và Đạo. Sự phản khắc ấy do nơi Nguyên-khí
mà ra, không phải vì Nguyên-khí trong Vạn-Linh mà
thôi, Nguyên-khí của vạn loại nữa. Chính Nguyên-khí
ấy trong mình của chúng ta đã chuyển xuất ra vậy.
Bần-Đạo
cần thuyết cái thi-hài này lấy triết-lý chớ không
phải lấy bí-truyền mà luận, thì thi-hài chúng ta
đã có nơi mặt địa-cầu này, do nơi nguyên-căn
vật dục xuất hiện ra, tức nhiên trong Thất tình
nó đi đến cái tình chót hết là tình quyết-định,
tình duy chủ, cả mối tình kia thường phản-khắc
nhau còn cái tình Dục cốt-yếu duy-chủ định hướng
của nó mà thôi.
Chúng
ta ngó thấy trong Vạn-Linh nó chia ra hai phần chơn
hồn: Tiểu-Chơn-Hồn và Đại-Chơn-Hồn. Tiểu-Chơn-Hồn
chia ra làm ba thuyết, mà Tối-Tiểu là Vật-Chất-Hồn,
Thảo-Mộc-Hồn và Thú-Cầm-Hồn nó thuộc Tiểu-Hồn.
Nhơn-Hồn
thì có thứ Tiểu và có Đại tức-nhiên tình dục
định phận nó, muốn Tiểu thì Tiểu, muốn Đại
thì Đại.
Đại-Hồn
là Thần, Thánh, Tiên, Phật bốn cái Đại-Hồn định
Thiêng-Liêng vị cho cả Vạn-Linh. Chúng ta ngó thấy
trong mình chúng ta có Thần, có Thú; vì cớ cho nên
triết-lý Thất-Tình định duy-chủ, muốn làm Phật
thì làm, muốn làm Thú thì làm, bởi nó định theo
tình dục của nó. Bây giờ trong thân thể của chúng
ta, trong nguyên-bổn của chúng ta, vẫn thường chiến
đấu, Phật chiến đấu với thú, thú chiến đấu
với Phật.
Hai
hình-trạng của Đời và Đạo, Đạo xu-hướng theo
Phật, Đời xu hướng theo Thú. Hai tương-quan phản-khắc
ngang nhau, vì cớ cho nên thuyết Duy-Tâm và Duy-Vật
nó hay tương-đối với nhau. Tình-dục duy-bổn thì
thấy trong mình nếu chúng ta muốn thành Phật thì
chúng ta làm đặng, muốn đi theo Phật lập-vị mình
thì trong Đại-Hồn giúp ta làm đặng. Hay là tình
dục ấy muốn đi theo đám Tiểu-Hồn, vì ảnh hưởng
trong cá nhân ta mà ảnh hưởng ấy chẳng phải của
chúng ta mà thôi. ! Chúng ta ngó thấy trong Vạn-Linh
nó có hai con đường đi đặc biệt, không thế gì
chối cãi được, thành thử cái phản-khắc tương
liên của Đời và Đạo nó đi từ trong cá-nhân của
chúng ta mà ra cho tới xã-hội nhơn-quần. Nhân-loại
phản-khắc ấy không thể gì tưởng được. Từ
thử tới giờ lập-vị Phật như Đức-Phật Thích-Ca
cũng chưa giải quyết được; Đức-Chí-Tôn đến
kỳ này chúng ta thử hỏi giải quyết hay không ?
Cũng phải giải quyết chớ, Ổng đến vạch ra lẽ
Phật với Thú ấy để chán chường trước mắt.
Con cái của Ổng, Ổng biểu lấy trí khôn-ngoan, lấy
huệ khiếu của mình làm môi giới, tùng theo Nguơn
Linh làm căn-bản.
Định
Phật, muốn Phật, sẵn được Phật; muốn thú được
thú, Ông chỉ hai con đường rõ rệt để cho con cái
của Ổng quyết-định cho mình. Sự tương-tranh tương-đấu
bây giờ trong các xã-hội nhơn-quần trong mặt địa-cầu
này, đương nhiên bây giờ cũng tấn tuồng ấy làm
hình trạng của nó ra lớn vĩ-đại, chúng ta không
để ý mà thôi. Muốn tìm tàng chơn-lý thì rõ-rệt
không có gì lạ lùng hết.
May
sao, giờ phút này nhơn-loại đương bị trong thảm
cảnh khốn-khổ không biết chừng nào; thảm cảnh
ấy xô đến cảnh diệt vong của họ nữa mà chưa
giải quyết được, vì cả tinh thần bên Phật yếu
ớt bên Thú đương tráng kiện, hùng hổ dữ tợn,
mà bên Phật thì yếu ớt quá.
Đạo
Phật truyền tại mặt địa-cầu này đương nhiên
bây giờ vô giá trị; mà hể Đạo hết quyền tức
nhiên con vật kia không có kỷ cương muốn chạy đâu
thì chạy, muốn làm gì thì làm; muốn làm ngần nào
thì đặng ngần ấy; nếu không duy chủ đặng nó,
tánh đức không mực thước, không chuẩn thằng,
không biết định phận mình thì sẽ xô đẩy đến
cảnh diệt vong chớ không có gì lạ hết.
Bởi
vậy cho nên Đức-Chí-Tôn đến kêu gọi cả toàn
nhơn-loại chỉ con đường diệt vong trước mắt,
khôn thì dừng bước lại để biết lấy phận mình
đứng mực nào, rồi mình mới phân định được.
Bí-Pháp
chơn-truyền Bần-Đạo thuyết không gì khác hơn là
chỉ đường, biết giá trị mỗi cá nhân, mình biết
mình. Nếu vị Hoàng Tử con của Ông Vua kia lên ngôi
Cửu-ngũ trị vì thiên hạ mà không biết giá trị
tương lai làm Chúa thì tưởng lại họ như kẻ thường
dân hèn-hạ, họ tập thành theo tánh đĩ thõa, điếm-đàng
buông lung, thì chẳng khi nào làm Vị Đế Vương xứng
đáng đặng. Mình phải biết địa vị mình thế
nào, rồi mới thi-hành theo khuôn-luật định của
mình, Bí-Pháp chơn truyền là vậy.
Ngày
giờ nào cả con cái Đức-Chí-Tôn biết đoạt Pháp,
biết mình, biết định phận cho mình, biết ngôi
vị của mình, biết giá trị của mình là giờ ấy
trật tự an ninh trong cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống
Đức-Chí-Tôn để tại mặt thế này, tức nhiên
trong cửa Đạo đây mới thiệt giá trị.
Giờ
phút này ngó thấy tấn tuồng hỗn độn, con người
họ tưởng Đạo Cao-Đài như Thầy Chùa, Thầy Pháp,
Bóng-Chàng, nói cái nào cũng được, vì cớ mới
có Đảng-Phái dám cả gan bày ra Tả-Đạo Bàn-Môn.....
Nếu biết đâu dám làm, vì họ lầm tướng diện
của họ cho nên ngày nay mới có cái cảnh tương
tàn đánh sát họ kia kìa, bằng đi tới nữa thì
không còn chơn tướng nào tồn-tại được.
Ấy
vậy, Bần-Đạo đã nói rõ, bây giờ có một điều
trọng yếu không lẽ trong cái Bí-Pháp chơn-truyền
nói cho mấy người nghe mà thôi, mấy người được
đặc ân gì mà hưởng riêng như vậy.
Kể
từ đây đến sau, họa may Bần-Đạo có thuyết,
là thuyết trong ngày Sóc-Vọng mà thôi, hễ đi cúng
nhiều thì nói, bằng không thì thôi. Còn nữa, nếu
con cái Đức-Chí-Tôn còn làm biếng đi cúng nữa
thì vô nhà tịnh rồi sẽ hay chớ không thuyết nữa.
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết
tại Đền-Thánh, đêm 29 tháng 07 Năm Kỷ-Sửu
(1949)
Đêm hôm nay Bần-Đạo khởi giảng tiếp Bí-Pháp
chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn.
Trước
khi chúng ta muốn hiểu, cái huyền vi của Bí-Pháp
ấy thì chúng ta phải tìm coi con người của ta đây
có chịu ảnh hưởng với Thể-Pháp ấy thế nào,
và ta là gì trước đã.
Ta
là gì ? Và có trọng hệ trong cơ-quan bí-mật, Tạo-Đoan
Càn-Khôn Vũ-Trụ, và tạo hình thể chúng ta có tại
mặt thế này, nguyên do đâu sản-xuất ? Chúng ta
đã ngó thấy Đức-Chí-Tôn đến Ngài để trước
mặt chúng ta một cái huyền-bí tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Bần-Đạo
thuyết về " Tam-Bửu" tức nhiên là:
1/-
Thi-Hài
2/- Chơn-Thần
3/- Chơn- Linh.
Đức-Chí-Tôn
gọi chung là xác thân. Chơn-thần và chơn-linh, Bần-Đạo
xin nói quả-quyết rằng: không có một vật-loại
nào trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này mà không do quyền năng
vô-tận của Đức-Chí-Tôn sản-xuất. Cái nguyên
do thế nào chúng ta đã ngó thấy; vạn-vật trong
Càn-khôn Vũ-Trụ này phải hoạt động mãi thôi không
ngừng, nó nhờ hoạt động chuyển luân mà tấn hóa
mãi mãi.
Vạn-vật
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ dù trái địa-cầu thấy trước
mắt hay địa cầu chúng ta đương cư ngụ đây, phải
vận hành luôn; ngưng là chết mà cả vạn-vật loài
người cũng phải vậy. Nó có lưu động là nhờ
khí nổ Thái-Cực buổi nọ, Thái-Cực nổ thành khối
lửa; khối lửa nổ trong Càn-Khôn Vũ-Trụ hiện ra
muôn muôn triệu triệu ức quả địa-cầu trong Càn-khôn
Vũ-Trụ. Quả cầu ấy nguội lại thành địa-cầu
chúng ta đương ở đây, là quả địa-cầu 68. Quả
cầu ấy là vậy.
Bần-Đạo
nói thật không có vật loại nào, chúng ta nam nữ
cũng vậy, cũng đồng trong khối chất ấy mà biến
ra; Bần-Đạo đứng giữa tòa giảng này, nói tất
cả đều chịu ảnh-hưởng Thái-Cực đó định mà
có. Ngày giờ chúng ta chết, chúng ta trở về Nguơn
khí vô cùng vô-biên ấy, cũng do nơi quyền-năng vận-chuyển
của Thái Cực. Cái Nguơn-Linh của chúng ta cũng do
quyền năng Thái-Cực mà nó nắm cả Nguơn-linh tạo
nghiệp ấy trong Càn-Khôn Vũ-Trụ. Cả cơ-quan hữu-hình,
nó tạo Bí-Pháp vô-biên là chuyển luân trong Càn-Khôn
Vũ-Trụ hoặc là chuyển luân hình thể, hoặc là
chuyển luân Ngươn khí, hay chuyển luân Bí-Pháp Thiêng-Liêng
của Ngài.
Ấy
vậy, Bần-Đạo khởi giảng trong ba món bửu-bối
chúng ta là gì ? Thi-hài chúng ta đồng mạng như sống
theo vạn-vật hữu-hình là vật thú; thật sự nó
vậy chớ không gì khác hết; nếu chúng ta kiếm theo
cái phương pháp " Cách vật Trí-tri " chúng
ta đã ngó thấy quả quyết rằng: con người chúng
ta không có gì khác hơn con Khỉ, con Chó, con Bò, con
Trâu, thật sự nó vậy.
Duy
có một điều trọng hệ hơn hết là do nơi quyền
năng Tạo-Đoan của Đức-Phật-Mẫu đã tạo chơn-thần
chúng ta và hình thể chúng ta khi con người mới thai-bào.
Cái tinh trùng ở trong Nguơn khí Cha nhập vô nguồn
khí của Mẹ, khi vào lâm bồn của Mẹ thì gặp con
âm-trùng Mẹ, con dương trùng của cha nhập vô ôm
khích lại với âm-trùng của Mẹ; dương trùng của
cha tạo biến thành hình hài xương cốt chúng ta,
còn âm-trùng của Mẹ chúng ta biến ra máu thịt của
chúng ta đó vậy; hai con vi trùng ấy ôm khít lại
với nhau thành tượng biến hình hài.
Hai
cái tinh trùng hiệp lại khác hẳn với cái hình tướng
tinh-trùng đơn-sơ, khi nhập vào hai con làm một. Cái
buổi tượng hình của chúng ta thì chơn-thần của
chúng ta còn ở ngoài thân, ngoài cốt hài của hài
chúng ta; nó vơ-vẩn hoặc là quanh theo bà Mẹ chúng
ta ở dựa bên, nhứt là bà Mẹ đi nơi nào nó đều
theo nơi đó. Chơn-thần đến theo người Mẹ có chửa,
nếu người Mẹ có Đạo-Đức dám chắc đi đâu
chưa có sự gì rủi ro đến đổi thiệt-hại, bởi
cớ cho nên đứa con theo mãi, theo cho đến khi tượng
hình chúng ta ra khỏi lòng bà Mẹ, chơn-thần ấy
mới nhập vô ảnh-hài đó làm khuôn-viên cho ảnh-hài
đó.
Tượng
hình khuôn-khổ chơn-thần Đức Phật-Mẫu đã tạo
cho nó đi bực Tiểu-Hồi nó đi trong thú chất không
có chơn-thần nào tạo nhứt phẩm liên-hoa mình cho
trọn vẹn.
Họ
có can-đảm dám đầu kiếp từ vật-loại đi lên,
tạo đến Phật-Vị đặng tạo nhứt phẩm liên-hoa.
Phật-Mẫu tạo ra họ buộc họ phải quên cả kiếp
trước, bỏ cái cũ nhập vô cái mới đi từ Tiểu-Hồi
Vật-hồi đến Nhơn-Loại. Chơn-Linh ấy biết làm
người rồi đó, làm cũng như khuôn-khổ chúng ta
biết vậy.
Ngộ-nghĩnh
thay nếu chúng ta ngó thấy tinh-thần chúng ta đầy-đủ
Đạo-Đức chừng nào thì chơn-thần ảnh-hài càng
ngày càng đẹp càng tăng tiến.
Bởi
thế Tiên-Nho chúng ta có nói: rủi sanh chỗ bất phước:
Tiên-Nho ta cho rằng: kiếp tu không có dễ dàng, ít
có người tu thiệt tâm-tu, nếu tinh-thần đầy đủ
là kiếp sanh mình tạo đầy đủ Đạo-Đức, mỗi
kiếp tu của chúng ta mỹ-miều đẹp-đẽ lắm.
Hại
thay !!! Chúng ta đã ngó thấy trong nhà Phật, chúng
ta quả quyết rằng: những chơn-thần nào bị tội
đọa xuống phong-đô trong Kim-Bồn Phật-Mẫu xuất
hiện thế nào mà bị đọa xuống cửa Địa-ngục
rồi hại thay! Quả kiếp ấy Quỉ-quái thì thành
Quỉ-quái không thoát.
Cả
tinh thần ấy biến tướng do Nguơn-linh mà ra, vì
Nguơn-linh không đủ quyền năng tạo dựng. Tạo dựng
Nguơn-linh ấy phát động thế nào, thì Nguơn-linh
biến động ra thế ấy. Loài người ở tới chừng
nào đoạt-được Đạo nơi mặt đia-cầu này mới
thôi.
Kể
từ ngày có nhơn-loại nơi mặt địa-cầu - này đến
nay chừng một ngàn năm trăm triệu năm nếu đoạt
được phẩm vị, đó là nhơn-phẩm chớ không phải
là giả-nhơn; chịu trong phẩm giả-nhơn ít nữa một
trăm triệu năm, xác thịt họ mới có phương thế
dung-nạp nguơn linh Đức-Chí-Tôn.
Chơn-Thần
Phật-Mẫu đến theo loài người từ buổi mới tạo
ra loài người, còn Nguơn-Linh Đức-Chí-Tôn đến
loài người chừng năm chục triệu năm Nguơn linh
có trong thân thể của loài người. Đức-Chí-Tôn
đến sau chớ không đến trước như Đức Phật-Mẫu.
Khi mẹ chúng ta sanh ta ra, nuôi gần năm sáu tuổi
cũng chưa biết cha là gì; chưa biết theo cha, nghe
hiểu nhìn cha là gì; bảy, tám, chín, mười tuổi
mới biết. Buổi ban sơ loài người cũng thế đó.
Phật-Mẫu
sanh ra chỉ biết nuôi nấng theo bực Tiểu-Hồi, chớ
Đại-Hồi chưa có. Ngày giờ có Đại-Hồi là Đức-Chí-Tôn
giáng linh trong thân-thể loài người.
Thánh-Giáo
Gia-Tô nói: hình-hài người là đất, Ngài nắn Ngài
thổi ra mới biến người. Không phải vậy đâu;
nếu nói thân-thể con người thú chất là đúng,
duy có Đức-Chí-Tôn đến ở cùng nó mới là Thánh
thôi.
Đức-Chí-Tôn
ở cùng nó thì là Đại-Hồi (Ego) chớ không phải
Tiểu-Hồi (Monad).
Bây
giờ ta sống với cái Nguơn-linh mà cái Nguơn-linh
xác thịt ấy là Phật và thú; chơn-thần chúng ta
làm trung-gian cho thi hài, làm trung gian cơ cũng như
làm thông ngôn cho Chơn-linh và xác thịt chúng ta vậy.
Bần-Đạo
lấy cái thí-dụ trắng như: cái máy bay, cánh đuôi
và mình là xác thịt, cái chong-chóng quây đi được
đó là chơn-thần. Người cầm lái điều khiển cho
vận hành là cái linh-tánh định cái sống đặc biệt
nó là Ngươn-linh.
Bần-Đạo
nói lại nữa: cái máy bay, mình, đuôi nó chẳng khác
chi như xác chúng ta, chong-chóng quây chạy đó là
chơn-thần; người cầm máy làm cho máy bay vận hành
theo ý người muốn là Nguơn-linh đó vậy.
Muốn
hiểu Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn thì xem cái xác thịt
của chúng ta và chơn-thần của chúng ta phải chịu
ảnh-hưởng thế nào thì cái Bí-Pháp thế ấy. Linh-hồn
trúng là chơn-pháp, trật là giả-pháp.
Kỳ
tới Bần-Đạo kết vô Bí-Pháp Đức-Chí-Tôn.
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết
Đạo tại Đền-Thánh, đệm 15 tháng 08 Năm Kỷ-Sửu (1949)
LỄ HỘI YẾN DIÊU TRÌ KIM MẪU.
Hôm
nay là ngày Lễ kỷ-niệm Bí-Pháp, Bí-Pháp Hội-Yến
Diêu-Trì. Đức-Chí-Tôn đã lập trong nền chơn-giáo
của Ngài, Bần-Đạo thừa dịp nên thuyết minh cho
toàn cả con cái Đức-Chí-Tôn hiểu rõ cái huyền-vi
bí-mật ấy, bởi có ảnh hưởng với cơ-quan đoạt
Đạo chúng ta tại mặt thế-gian này.
Hơn
nữa Bần-Đạo có phương-tiện tỏ ra một đức-tin
dị thường của một Đấng yêu-ái, một Đấng tạo
Càn-khôn Vũ-Trụ, Đấng Tự-Hữu Hằng-Hữu , Đấng
quyền-năng Vô-tận vô-biên, cốt để cho con cái
của Ngài thấu đáo cái tâm tình của Ngài đối
với ta và ta đối với Ngài dường nào.
Đoạt-đặng
đức-tin phi-thường ấy, năm Ất-Sửu tức-nhiên
năm một ngàn chín trăm hai mươi lăm (1925), Đức-Chí-Tôn
đến với chúng ta, nhưng Ngài đến với một tình
bạn mà thôi, đến với một danh hiệu, giờ phút
này Bần-Đạo không dám nói. Ngài đến cũng làm
bạn Thượng-Phẫm và Hộ-Pháp. Tháng 2 năm ấy Ngài
dùng cơ bút huyền-diệu của Ngài, Ngài dạy vọng
Thiên-Bàn Cầu Đạo (điều mà chúng ta không thể
tưởng tượng đây là một cử chỉ ) ai cũng lấy
làm lạ, nhiều người muốn tầm Đạo phải để
một dấu hỏi; hỏi tại sao buổi ấy Thượng-Phẩm
và Hộ-Pháp có một đức-tin vững-vàng nghe theo lời
Ngài vọng Thiên-Bàn Cầu-Đạo. Điều mà chúng ta
không thể tưởng-tượng, đây là một cử-chỉ chung
chớ không phải cá-nhân Thượng-Phẩm hay Hộ-Pháp
mà lời huấn-giáo của Ngài cốt-yếu để cho toàn
thể nhân-loại nơi mặt địa-cầu này nhứt hơn
hết là nòi giống Việt-Nam chúng ta.
Bần-Đạo
nói đây: Còn có Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương-Hiếu
là người bạn Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo buổi
ban sơ thấu hiểu điều ấy, Ngài đến với một
tình cảm đáo để, một đức-tin vững-vàng làm
sao đâu ? Không thể sợ đặng; không còn biết vị-kỷ
nhục-nhã chi hết; giữa khoảng đường nơi Châu
Thành Sài-gòn thiên-hạ tấp-nập mà Đức-Chí-Tôn
buộc phải quỳ ngoài đường dựa bên lề ấy, quỳ
đặng cầu-nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp
thay !!! Ngài thử thách cho đến nước thoảng như
mình quỳ đó mà thiên hạ không hiểu mình quỳ làm
gì thì cũng ít mắc cở chút mà cũng có thể quỳ,
còn làm mà người biết thì nhột-nhạt khó chịu
lắm, nhưng sợ Đức-Chí-Tôn phải rán mà làm.
Ngoài
ra có Ông bạn ai cũng đều biết danh của người
là nhà thi sĩ danh tiếng; Bần-Đạo dám chắc nội
trong Nam-Bộ chúng ta đây chưa có ai bằng, nổi danh
thi sĩ đứng đầu hết thảy là người ấy, không
biết chứng cớ gì mà người mê thi-phú của Đức-Chí-Tôn
quá chừng quá đổi, đến nước người thuộc lòng
thi-phú của Đức-Chí-Tôn rồi người họa lại với
Đức Chí Tôn, người làm như mê-man vậy. Bần-Đạo
thì nhột-nhạt, duy có sợ mà vâng mạng lịnh thi-hành,
quyền giáo-hóa của Đức-Chí-Tôn, còn người "
Thi sĩ Bồng-Dinh" họa theo đó mà ngâm, thiên-hạ
thấy tấn-tuồng dị-hộm tụ lại xem đông lắm.
Trước để một cái bàn vọng thiên cầu Đạo, ngay
chính giữa coi bộ dị-hộm lắm, Bần-Đạo mới
gát hai tay lên cho đở mắc cỡ, vừa gát tay lên
thì cái bàn quây gõ nói chuyện.
Các
Đấng Thiêng-Liêng đến không biết bao nhiêu, đến
các Vị Giáo-Chủ cũng xuống giảng dạy chúng ta
và làm nhiều kiểu lạ lắm: cũng lúc này Đức-Chí-Tôn
đã giáo hóa khá lâu, các Đấng Thiêng-Liêng cũng
đến cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp, tuy mới mà
đủ đầu óc có một đức-tin vững-vàng, đức tin
ấy có thể nói rằng: tuy buổi ban sơ mà dường
như khối óc đã thâm hiểu nhiều rồi; nên Đức-Chí-Tôn
mới ra lệnh biểu làm một cái tiệc. Ngài dạy sắp
đặt cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình; đãi
10 người: Đức Phật-Mẫu và Cửu-Vị Tiên-Nương.
Phần hữu-hình có 3 người Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm
và Hộ-Pháp. Sắp tiệc ấy do tay Bà Nữ Chánh-Phối-Sư
Hương-Hiếu vâng mạng lịnh tạo thành một tiệc,
trên bàn thờ Phật-Mẫu, ở dưới sắp 9 cái ghế
cũng như có người ngồi vậy. Chén, đũa, muỗng,
dĩa, bất kỳ cái gì cũng giống như đải người
hữu-hình vậy; duy có 3 người có xác thịt là Thượng-Sanh,
Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp. Bần-Đạo mới hỏi tiệc
này là tiệc gì ? Ngài nói là Hội-yến Diêu-Trì,
Bần-Đạo nghe nói vậy thì hay vậy chớ không biết
giá trị Hội-Yến là gì cả. Nghĩ chắc cũng có
ảnh-hưởng gì cần-yếu đến tương-lai của Đạo
mà vâng lịnh thôi. Chớ không hiểu nghĩa lý cho cùng
cạn gì hết. Ba người sống đồng ngồi ăn, còn
Bà Phối-Sư Hương-Hiếu gắp đồ ăn để vào chén
cho 9 vị và trên bàn thờ cho Đức-Phật-Mẫu cũng
như người sống kia vậy.
Bần-Đạo
còn nhớ một chuyện lạ-lùng, lúc đó lấy làm kỳ
quái không hiểu gì hết, giờ biết Đạo mới hiểu
Đức-Chí-Tôn buổi nọ lấy một tên riêng đối
với Bần-Đạo; bây giờ Bần-Đạo không dám nói
lại, Ngài đến làm bạn cùng Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp.
Chừng
Hội-Yến Diêu-Trì rồi các Đấng Thiêng-Liêng và
các Vị Giáo-Chủ ra từ giã (thăng) kế Đức-Chí-Tôn
đến nhập cơ. Thượng-Phẩm và Bần-Đạo tọc-mạch
hỏi:
-
Khi nãy Diêu-Trì-Cung đến có Ngài đến ở đó
không?
Đức-Chí-Tôn trả lời:
- Có chớ, ta ở đây từ khi ban-sơ đến giờ.
-Ngài có thấy Diêu-Trì đến không ?
- Có chớ, chính mình ta tiếp đãi !
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Diêu-Trì-Cung ngó thấy Ngài không ?
-Không ngó thấy.
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
- Sao vậy ?
Ngài trả lời: -Ngài dùng phép ẩn thân.
Bần-Đạo tọc mạch hỏi tiếp:
- Như đứa em của tôi là Thất-Nương Diêu-Trì
có thể đoạt đặng chăng ?
- Đoạt đặng chớ;
Cao Thượng-Phẩm hỏi:
-Phải làm sao ?
Ngài nói:
-Phải tu, bằng không tu thì chẳng đoạt đặng.
Bần-Đạo hỏi:
- Tu chừng bao lâu mới đoạt đặng ?
Cái
đó Ngài làm thinh. Bần-Đạo hỏi một năm, năm năm,
một ngàn năm, mười ngàn năm, một trăm ngàn năm,......
Ngài cũng làm thinh, rồi thôi không hơi sức nào hỏi
nữa, không biết chừng nào mới đoạt đặng, nghe
vậy hay vậy. Các Vị Nữ Phái rán nhớ Diêu-Trì-Cung,
Bần-Đạo có giải nghĩa Hội-Yến Diêu-Trì là gì
rồi đó.
Toàn
Thánh-Thể Đức-Chí-Tôn và con cái của Ngài rán
để ý cho lắm: Từ khi Đạo bị bế Ngọc-Hư-Cung
bác Luật, Cực-Lạc Thế-Giái thì đóng cửa nên
chúng sanh toàn cả Càn-Khôn Vũ-Trụ có tu mà thành
thì rất ít, bởi phương-pháp khó-khăn lắm, muốn
đoạt Pháp không phải dễ.
Cổ-Pháp
định cho các chơn-hồn về nơi Diêu-Trì-Cung hưởng
được Hội-Yến Bàn-Đào tức nhiên hưởng được
Hội-Yến Diêu-Trì, ăn được quả Đào-Tiên, uống
được Tiên-Tửu mới nhập vô cảnh Thiêng-Liêng
Hằng-Sống gọi là nhập tịch. Ôi thôi ! Từ thử
đến giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng hưởng
cũng một phần rất ít.
Giờ
phút này Đức-Chí-Tôn quyết-định tận độ con
cái của Ngài thay vì Bí-Pháp ấy độ con cái của
Ngài về nơi Kim-Bàn Phật-Mẫu đặng hưởng đặc
ân Thiêng-Liêng của Đức-Chí-Tôn.
Đức-Chí-Tôn
buộc Phật-Mẫu phải đến tại mặt thế gian này
để Bí-Pháp Hội-Yến Diêu Trì tại cửa Đạo này
cho con cái của Ngài giải-thoát, ấy là một Bí-Pháp
Thiêng-Liêng duy có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.
Hôm
nay là ngày Phật-Mẫu đem Bí-pháp đặng giải thoát
chúng sanh, tận độ toàn Vạn-linh sanh chúng; Ngài
để tại mặt thế này trong cửa Đạo này mà thôi.
Hôm
nay ngày Lễ của Ngài mà cũng là ngày trọng hệ
trong cửa Đạo; xin toàn cả con cái của Ngài nhớ
và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào Bần-Đạo
cũng để ý đến Lễ của Ngài hơn hết; từ tạo
thiên lập địa đến giờ chưa có ai hưởng được
thời kỳ này, Ngài đến tại mặt địa-cầu 68 này
đặng tận-độ con cái của Ngài.
Chúng
ta phải chiêm-ngưỡng ơn vô-biên vô-tận của Ngài.
Chúng ta phải chiêm-nghiệm Lễ này để làm mật-niệm
cám ơn Đức-Chí-Tôn và Phật-Mẫu ấy là Bí-Pháp
của chúng ta đó vậy./.
ĐỨC-HỘ-PHÁP
Thuyết Đạo tại Đền-Thánh, đêm 1 tháng 09 Năm Kỷ-Sửu (1949)
Bần-Đạo hứa mỗi kỳ Sóc-Vọng thì thuyết Bí-Pháp.
Hôm nay Bần-Đạo khởi thuyết về Bí-Pháp. Có nhiều
yếu tố Bần-Đạo phải minh bạch ra cho toàn con
cái của Đức-Chí-Tôn hiểu cái sơ-yếu của Bí-Pháp
đối với ta và đối với Đức-Chí-Tôn.
Bần-Đạo
khởi giảng cho hiểu tại sao Đức-Chí-Tôn mở Tam-Kỳ
Phổ-Độ gọi là mở Cơ-quan tận độ chúng sanh
? Đức-Chí-Tôn sai Hộ-Pháp giáng thế; tại sao Ngài
không dùng cơ bút để truyền Bí-Pháp cho con cái
của Ngài; Ngài chỉ giáng bút truyền cho Hộ-Pháp
mà thôi. Vì cớ cho nên bạn của Bần-Đạo nơi Hiệp-Thiên-Đài
có lắm người thắc mắc về vụ đó. Không có lạ
chi; mở cơ-quan tận độ chúng-sanh tức nhiên là
lập một khoa thi sang Tam Chuyển tái phục Thiêng-Liêng
vị nơi cảnh vô hình; mỗi chuyển tức nhiên mỗi
khoa-mục của các Đẳng Chơn-hồn cần phải thi đặng
đoạt vị: Thăng hoặc Đọa.
Bởi
cớ cho nên Đức-Chí-Tôn gọi là trường thi công-quả
là vậy. Đức-Chí-Tôn cho Hộ-Pháp và Thập-Nhị
Thời-Quân đến cốt yếu để mở cửa Bí-Pháp ấy
đặng cho Vạn-Linh đoạt vị. Cả thảy đều hiểu
rằng Đức-Chí-Tôn buổi mới sơ khai chưa tạo thiên
lập địa, Ngài muốn cho Vạn-linh đặng hiệp cùng
Nhứt-Linh của Ngài do quyền-năng sở-hữu của quyền
hạn Thần-Linh.
Ngài
vừa khởi trong mình quyết-định thi-hành điều ấy
thì Ngài nắm cái Pháp. Trước Ngài chỉ là Pháp,
vì cớ cho nên ta để Phật tức nhiên là Ngài; kế
thứ nhì là Pháp hễ nắm Pháp rồi Ngài phán-đoán
vạn-vật thành hình; Ngài muốn vạn-vật thành hình
tức nhiên Tăng, cả Vạn-Linh đều đứng trong Tăng.
Ấy vậy, Pháp là chủ của Vạn-Linh. Bởi do nơi
Pháp, Vạn-Linh mới chủ tướng biến hình do nơi
Pháp, mới sản xuất Vạn-Linh; Cả huyền-vi hữu-hình
Đức-Chí-Tôn tạo Đạo do nơi Pháp. Chúng ta biết
Pháp thuộc về hình-thể của Vạn-Linh, vì cớ cho
nên Đạo-Giáo minh tỏa rõ-rệt Tam Châu Bát-Bộ thuộc
về quyền Hộ-Pháp. (Tam-Châu Bát-Bộ Hộ-Pháp Thiên-Tôn
)
Tại
sao gọi Tam-Châu Bát-Bộ là: Đông Thắng Thần-Châu,
Tây-Ngưu Hóa-Châu, Nam Thiện Bộ-Châu, đều thuộc
quyền hạn của Hộ-Pháp, còn Bắc-cù Lưu-Châu để
cho các phẩm chơn hồn Quỷ vị nó định phận tại
nơi đó, định nơi cư trú tại đó. Nó có một quyền
năng vô định chẳng cần chỉ giáo; để đặc biệt
một Châu cho Quỷ vị ăn năn tu học đặng đoạt
vị; ba Bộ-Châu kia thuộc quyền hạn Hộ-Pháp giáo-hóa,
duy có Bắc-Châu Ngài không thường ngó tới lắm,
để cho nó tự-do làm gì thì làm, khôn nhờ dại
chịu.
Bát-Bộ
là gì ? là nơi Bát Phẩm chơn-hồn chớ có chi đâu;
Tám hồn là gì: là Vật-Chất hồn, Thảo-Mộc hồn,
Thú-Cầm hồn, Nhơn-hồn dĩ chí cho đến Thần, Thánh,
Tiên, Phật. Tám bộ ấy thuộc về quyền hạn Hộ-Pháp
thiên vị nơi Đức-Chí-Tôn gọi đến tạo cơ-quan
tận độ chúng-sanh không còn ai khác hơn Hộ-Pháp,
chính Hộ-Pháp trách-nhiệm ấy.
Hạnh-phúc
thay cho nhơn-loại! Hạnh phúc thay cho Vạn-Linh! Đức-Chí-Tôn
đã đem một hồng-ân tối đại để nơi mặt địa-cầu
68 này. Tại sao Đức-Chí-Tôn giao cho Hộ-Pháp ? Bần-Đạo
nói thật giờ phút nào Bí-Pháp duy-chủ quyền Đạo
là giả tướng mà thôi, không có chơn thật gì hết.
Nếu chúng ta tu mà không đoạt Pháp được tức nhiên
chúng ta không giải thoát đặng, thì kiếp tu chúng
ta không hữu-ích chi hết.
Đức-Hộ-Pháp
đến cốt yếu đem Bát-Phẩm chơn-hồn Thăng vị:
nhiều hoặc ít, có thể một đẳng cấp từ Vật-Chất
Hộ-Pháp đem lên Thảo-Mộc, Thảo-mộc đem lên Thú-Cầm,
Thú cầm đem lên Nhơn-loại dĩ chí Phật vị, Hộ-Pháp
có thể chỉ định cho họ đặng. Bởi trong quyền
ấy Đức-Chí-Tôn nói trọng quyền thì trọng phạt.
Quyền hành nắm chẳng phải nơi mặt thế gian này
mà thôi, Hộ-Pháp và Thập-Nhị Thời-Quân, không
phải quyền tại thế gian này, quyền nơi cửa Đạo
Cao-Đài này, cũng không phải tại đây nữa. Bần-Đạo
nói đây là quyền Đạo Cao-Đài cả Thiêng-Liêng
Hằng Sống.
Cao-Đài
Đại-Đạo cảnh vô hình kia y như lời Tiên-tri của
Công-Giáo tức nhiên Thiên-Chúa-Giáo nói: Trên nước
Thiêng-Liêng Hằng Sống kia Đức-Chí-Tôn gần đến
và đã đến, đến thời buổi này; ấy vậy, bây
giờ chúng ta tìm coi cái tương-liên chúng ta đối
với Đức-Chí-Tôn, Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta làm
gì, và chúng ta đã làm gì ?
Đức-Chí-Tôn
muốn ta làm Thi-Hài Hữu-Hình của Ngài, tức-nhiên
Ngài đến lập Thánh-Thể của Ngài là Hội-Thánh.
Hội-Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài. Muốn
thay hình ảnh cho Ngài thì phải đổi cho Ngài cái
gì ? Ông đem cơ giải thoát, đem phẩm vị Thiêng-Liêng
cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng chúng
ta định vị; rồi Ổng đòi chúng ta đổi chọn cái
gì ? Ổng đòi chúng ta đem đổi ba món Báu là "
Tam-Bửu" là Tinh, Khí, Thần. Cái liên-quan mật
thiết Tinh, Khí, Thần là gì ? Đối với thi-hài chúng
ta nó bảo-trọng thế nào mà Đức-Chí-Tôn đòi đó
mà thôi ? Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức-Chí-Tôn
tạo thành Thánh-Thể của Ngài đặng. Ngài lấy ba
cái vật tỷ như: ba món báu trong mình chúng ta; Hoa,
Ngài tỷ như thân-thể chúng ta; Rượu, Ngài tỷ như
trí-thức tinh-thần khôn-ngoan của chúng ta; Trà, Ngài
tỷ như linh-hồn của chúng ta, mà thật ra trong mình
của chúng ta có ba món ấy là báu mà thôi.
Ngộ-nghĩnh
thay chúng ta nên để ý điều này. Đức-Chí-Tôn
biểu chúng ta mỗi ngày phải dâng ba món ấy: ba món
trọng hệ hơn hết là Tinh, Khí, Thần. Thường ngày
chúng ta chỉ lấy Khí, Thần dâng mà thôi, còn Tinh
thì Tiểu-Đàn hay Đại-Đàn mới có. Ngài chán biết
thi-hài của chúng ta chẳng phải chúng ta làm chủ
nếu đòi quả-quyết nó thì nó đi đặng phụng-sự
cho Vạn-Linh thì không có làm gì được, nên Ổng
không buộc mà để cho nó có quyền tự-do định-phận
của nó. Nội bao nhiêu đó chúng ta cũng ngó thấy
cái lòng Đại-Từ Đại-Bi của Ngài đến thế nào.
Thể-chất kia mà Ngài không ràng buộc không ép bức
để cho nó định phận, tưởng coi ai có nhân từ
đến mức đó không ?.
Kỳ
tới Bần-Đạo sẽ giảng tiếp về trí-não và tâm-hồn
như thế nào./.
|