ÐẠI
ÐẠO
GIÁO LÝ và
TRIẾT LÝ
HT TRẦN VĂN RẠNG
1974
* * *
Phần Thứ
Ba
ĐẠO CAO
ĐÀI
LÀ TÔN GIÁO ĐẠI ĐỒNG THẾ GIỚI
MỘT TÔN GIÁO BAO DUNG QUI HỢP
Những phần trình bày trước là phương tiện đưa đến phần
này, vì lý tưởng cao cả nhất của người tín đồ Cao Đài là
sự hình thành một thế giới đại đồng. Người tín đồ nào cũng
mơ ước một ngày nào đó, nhờ phép mầu của Đức Cao Đài
chuyển nhân loại sống chung một nhà, cộng đồng quyền lợi
và sinh hoạt, không còn phe phái này nọ kình chống nhau.
Đó là lời cầu nguyện mỗi ngày 4 lần "thiên hạ thái bình"
(KL, tr.24) của mỗi tín đồ Cao Đài.
Trong thế kỷ XIX, khoa học mang tính cách độc đoán đối lập
với tôn giáo, cả tin vào khối óc khám phá vũ trụ của con
người. Bởi lẽ, có những điều mầu nhiệm của tôn giáo mà
khoa học với phương tiện của nó không thể nào chứng minh
được. Song, đến nửa đầu thế kỷ XX theo André Maurois, Viện
sĩ Hàn Lâm Viện Pháp thì vật chất của nhà vật lý học không
còn có thể sờ được, cũng không còn có thể trông thấy được
nữa. Nó là chỗ giao điểm giữa hai làn sóng của hư không,
một cái chóp đỉnh của khoảng thời gian, một dự phóng của ý
thức người quan sát và cuối cùng, nó là phương trình số
học, tức là một ý tưởng. Như vậy, các nhà vật lý học đi
tới chỗ phải suy tưởng bằng dụng ngữ của tinh thần hơn là
của vật chất. Chúng ta lại trở về với Platông (Platon)
(1).
"Vốn từ trước Thầy đã lập ra ngũ chi Đại Đạo là Nhơn Đạo,
Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Tùy theo phong
hóa nhơn loại mà gầy thành chánh giáo, là vì khi trước càn
vô đắc khán, khôn vô đắc duyệt, nhơn loại đã hiệp đồng,
càn khôn dĩ tận thức, lại bị phần nhiều những đạo ấy mà
nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui
nguyên phục nhứt".
Lời mặc khải huyền nhiệm của Ngài cũng là triết thuyết mới
mẻ về tôn giáo , vì mặc khải không thể có bằng kinh
nghiệm, cũng không lý luận hay chứng minh gì được. Đó là
đặc điểm của tôn giáo khác với khoa học. Khoa học đã căn
cứ vào vật thể mà phát minh những phương tiện giao thông
cho con người sống gần nhau, nên cũng cần phải có tôn giáo
mới phù hợp với thời đại mới. Đạo Cao Đài có sứ mạng
thiêng liêng cao cả, làm trung gian hiệp đồng mọi luồng tư
tưởng Đông Tây nên giáo lý Cao Đài có tính cách bao dung
hòa hoãn.
Đức Phật Mẫu cũng dạy :
"Độ anh nhi Nam Bắc Đông Tây
Kỳ khai tao nhứt linh đài
Diệt hình tà pháp cường khai đại đồng
Hiệp vạn chủng nhứt môn đồng mạch" (KL, tr.103).
Đức Mẹ đã xác nhận, dù người ở Đông bán cầu hay Tây bán
cầu, ở Bắc bàn cầu hay Nam bán cầu, các chủng tộc ấy đều
có nguồn gốc chung từ Đức Chí Tôn mà ra, nên phải hiệp lại
mà tạo lập nên một thế giới đại đồng, giúp đỡ lẫn nhau như
con một nhà (TN2, tr.14). Mỗi một tín đồ Cao Đài đều phải
truyền cao lời dạy của các đấng và phải phổ độ nhơn loại
khắp năm châu (TN1, tr.32).
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ là mối đạo lớn chung cho tất cả, một
giải pháp tổng hợp vừa chừng cho tất cả (không nhằm phủ
nhận một tôn giáo nào), là danh hiệu chung cho tất cả tôn
giáo, mà từ trước các vị giáo chủ giáng trần giáo đạo. Tất
cả các Ngài đều là sứ giả của Đức Chí Tôn. Thế nên, Đại
Đạo không phải là hiệp hội các tôn giáo mà là con đường
lớn qui các tôn giáo vào một mối. Ngoài tam giáo ở Á Đông,
Đức Chí Tôn còn dạy : "Thầy là Đức Jéhovah của dân
Hébreux, vị chủ tể của dân Israel, vị Thánh vô danh của
dân Do Thái, Đức Đại Từ Phụ của Chúa Jésus cứu thế. Con
chỉ cầu nguyện Thầy với danh hiệu Cao Đài thì sẽ có sự cảm
ứng" (TN1, tr.124)
Còn tam kỳ là phổ độ lần thứ ba. Theo giáo lý Cao Đài,
trước kia có nhứt kỳ phổ độ vào thời đại thượng cổ và nhị
kỳ phổ độ vào thời Trung cổ (2). Sự phân chia này nói lên
sự huần hườn hết thịnh tới suy, hết suy tới thịnh. Khi
nhân loại suy đồi thì tôn giáo có nhiệm vụ phục hưng giáo
đạo vì sai lạc bản chất (TN1, tr.120). Đức Chí Tôn cũng
dạy : "Đạo Thánh của Chúa làm tăng dục vọng của kẻ mạnh
đối với người yếu và giúp cho bọn trên hiếp dưới. Phải có
một giáo lý mới đủ khả năng kiềm chế nhơn loại trong sự
thương sót chúng sanh" (TN1, tr.121). về Phật giáo
Ngài dạy : "Từ trước ta giáng sanh lập Phật giáo gần
6.000 năm thì Phật giáo chánh truyền thay đổi. Ta thường
nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn. Nay ta nhứt định lấy
huyền diệu mà giáo đạo, chớ không giáng sanh nữa, đặng
chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn" (TN1, tr.49)
Nhứt kỳ phổ độ tức là nhứt thiết Long Hoa Thiên khai Tý
hội thuộc vào thời Phục Hy bên Trung Quốc. Thời này có các
sứ giả Đức Chí Tôn ra đời cứu thế như Đức Nhiên Đăng, Thái
Thượng Lão Quân, Phục Hy (Trung Quốc), Đức Kristna (Ấn
Độ), Đức Moise (Ai Cập) …
Nhị kỳ phổ độ tức nhị thiết Long Hoa Thiên khai Sửu hội.
Thời này có Đức Lão tử, Khổng Tử (Trung Quốc), Đức Thích
Ca (Ấn Độ), Jésus Christ (Trung Đông) …
Tam kỳ phổ độ tức tam thiết Long Hoa Thiên khai Dần hội.
Chính Đức Chí Tôn giáng điển quang, qui Tam giáo, hiệp Ngũ
chi mà giáo đạo không giao chánh giáo cho tay phàm nữa.
Danh hiệu Tam Kỳ Phổ Độ được dịch là Troisìeme Amnistie
de Dieu en Orient : ân xá kỳ ba của Đức Chí Tôn ở
phương Đông. Từ ngữ phương Đông (Orient) nó lý giải cho từ
Tam giáo. Ở phương Đông có 2 nước lớn nhứt là Trung Quốc
và Ân Độ, cho nên đặt Lão Tử, Khổng Tử (Trung Quốc) gấp
đôi và ngang hàng với Đức Thích Ca (Ấn Độ) là lý đương
nhiên. Đây là giới hạn về không gian, nhưng ta nên hiểu là
tiếp ngang 3 lãnh tụ Tam giáo còn chấm lửng và muốn thêm
bao nhiêu vị khác nữa cũng được (vì cơ lập giáo Đức Cao
Thượng Phẩm sớm qua đời). Ba vị giáo lãnh ấy, cũng như các
vị giáo lãnh khác chỉ là sứ giả của Đức Cao Đài. Tất cả
chỉ là sự thay hình đổi dạng của một nguồn sống mênh mông
chảy dài trên dòng thời gian mà mỗi vị đều có phận sự phải
hoàn thành, là thể hiện sự sống một cách đầy đủ nhất,
trong những môi trường mà mình có mặt. (3)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(3)NGUYỄN LONG THÀNH, danh hiệu và tiêu
chuẩn lập pháp ĐDTKPĐ Tây Ninh 1974, tr.38.
Về ngũ chi phục nhứt (ngoài những điều
trình bày ở trước), trong bài thuyết đạo Đức Phạm Hộ Pháp
có giải thích : Phật Đạo là lối sống và hành đạo theo Đức
Thích Ca (Ấn Độ) Pi-ta-go-lơ (Pythagore ở Hy Lạp) … Tiên
đạo là lối sống theo Lão Tử, Dương Châu, Mặc Địch … Thánh
đạo là lối sống theo Jésus Christ (Trung Đông), Mahommed
(Á Rập) … Thần đạo là lối sống theo Khương thượng, các
nhân vật trong Hy Lạp phong thần, Ai Cập phong thần … Nhơn
đạo là lối sống theo Socrate, Platon, Eùsope …
Tam giáo và ngũ chi mà giáo lý Cao Đài qui nhất nhằm mục
đích nói lên các tôn giáo đều có cùng một nguồn gốc. Thật
ra, đa số các giáo chủ của các tôn giáo đều ở trong
trạng thái tĩnh, nói một cách khác, dạy đạo, phong
Thánh đều do chính Đức Cao Đài đảm nhận, các vị giáo lãnh
thỉnh thoảng mới xuất hiện, thêm vào đó Lý Thái Bạch, Giáo
Tông phần hồn cho các tín đồ là 1 sắc thái riêng biệt.
Việc phong tặng đạo hiệu cho tín đồ là nhiệm vụ của Bạch
vận Động mà Thanh sơn đạo sĩ (tức Nguyễn Bỉnh Khiêm, người
Việt Nam) chủ trì. Những điều ấy nói lên giáo lý Cao Đài
tuy tổng hợp hòa đồng, nhưng có sáng tạo và nắm phần chủ
động.
Tóm lại, các Đấng giữ vai trò tích cực trong Đạo Cao
Đài không phải là Tiên, Phật cũ mà là những khuôn
(chon?) linh mới : Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu với 9 cô,
Đức Lý Giáo Tông, Thanh Sơn Đạo Sĩ (nội giáo), Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn tức Victor Hugo (ngoại giáo) và những Thánh,
tiên mới đoạt chánh quả trong kỳ ba phổ độ. Thật vậy, giáo
lý Cao Đài là do các vị Tiên giáng dạy. Nếu các vị giáo
chủ xưa giáng cho cũng phải dạy trong kỳ ba này mới có
quan điểm phù hợp với nền tân tôn giáo. Các kinh điển xưa
thì Đạo Cao Đài được xem là cựu ước, cựu luật không phù
hợp với sự tiến hóa của nhân loại trong thời đại nguyên tử
này. Nếu những ai sao chép luật lệ, kinh điển các tôn giáo
xưa "nguyên bản" mà cho là giáo lý Cao Đài ở đó, là chưa
cân nhắc và chưa quán triệt thần học Cao Đài.
Nếu nói Đạo Cao Đài không đem gì mới mẻ cho nhân loại, sao
lại có sự tranh luận. Việc qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi,
dùng cơ bút để thông linh với cõi vô hình, quan niệm mọi
sắc dân trong hoàn vũ là anh em … những chủ đề ấy quả đã
làm bận tâm cho nhiều người. Vả lại, những thành tựu khoa
hoc, văn hóa ngày nay người ta coi là của chung nhân loại,
James Watt, người Anh phát minh ra máy hơi nước,
Stéphenson, người Mỹ áp dụng vào xe lửa cho chạy được. Có
ai bảo là Stéphenson không sáng tạo. Việc Thiên Chúa giáo
lập ra dương lịch và trong tuần lễ có ngày chúa nhật, có
dân tộc nào trên thế giới không theo mà có ai nghĩ là mình
đã theo đạo Thiên Chúa đâu. Thuyết luân hồi của Phật giáo
hay của Bà la môn giáo ? Chủ nghĩa hiện sinh của Jean Paul
Sartre hay đã có từ thời Socrate, Saint Bernard ? Trong
thế giới hiện nay, có cái gì hoàn toàn mới mà không thừa
kế ? Xét cho cùng, thuyết luân hồi của Phật giáo rất khác
với thuyết luân hồi của Đạo Cao Đài. Thuyết luân hồi của
Phật giáo có địa ngục, có quỉ dữ hành hạ tội nhơn. Thuyết
chuyển luân của Cao Đài giáo không có địa ngục, cũng không
có quỉ dữ hành hạ "vô địa ngục, vô quỉ quan" mà chỉ có
Trường Đình, nơi tự xét tội phước của mình.
Việc lấy dấu 3 ngôi của Thiên Chúa giáo là Đức Chúa cha (ở
giữa) Đức Chúa con và Thánh Thần. Ba ngôi của Đấng A-Ă-Â
dạy là Phật (ở giữa), tức Đức Chí Tôn (Phật trên các Phật)
rồi đến Pháp (tức Pháp thiên) và Tăng là chúng sanh (TN1,
tr.48) hàm ý lấy phép trời nối liền giữa Thiên và nhơn.
Thật ra, Đạo Cao Đài có tên 3 ngôi riêng là A-Ă-Â nhưng 3
ngôi này quá mới mẻ, xa lạ, gần giống như mang một ký hiệu
khoa học. A là ngôi trung hòa, Ă là ngôi âm, Â là ngôi
dương tượng trưng cho cả càn khôn vũ trụ, cho bản chất
Thượng Đế đại Thiên địa và cho cả mỗi con ngưởi tiểu Thiên
địa. Như thế, 3 ngôi của Đạo Cao Đài thể hiện được tính
khoa học và tính nhân bản, hợp với "Thiên nhơn hòa ước"
(Hòa ước ký giữa người và Trời tại Tịnh Tâm Điện Tòa
Thánh) trong kỳ ba đại ân xá này. Trời Người hiệp nhứt :
"Thầy là các con, các con là Thầy". Khi ta niệm "Nam
mô Cao Đài Tiên ông Đại Bồ Tát ma ha tát" là ta hàm ý niệm
cả 3 tôn giáo lớn, niệm cả càn khôn vũ trụ, cả Phật Tiên
Thánh chẳng sợ thiếu chi, niệm nhiều vị là chưa hiểu bản
chất của Đức Chí Tôn. Khi niệm tên Thầy, tâm thức của ta
hòa với tâm thức Càn Khôn, rung động một nhịp, 1 tần số
với đại hồn vũ trụ, đó là chánh niệm đưa đến cơ bút, niệm
danh thầy tức là niệm danh của hồn ta, ta đảnh lễ ta, ta
kích động nhắc nhở, thức tỉnh ta để nắm quyền chủ động
tiểu càn khôn của ta, nhờ đó mà thần trí ta mở mang phát
triển giác ngộ đạo, đạt chánh quả.
CHÍNH SÁCH CỘNG HÒA YÊN TĨNH
Nhằm thiết lập một thế giới đại đồng, ngoài VIỆC TU THEO
CON ĐƯỜNG Đại Đạo để trở về cõi thiêng liêng hằng sống,
nơi mà mọi sắc dân thế giới đều đồng đẳng cộng lạc hòa ái
vì đã thông suốt nhân loại đều có chung nguồn cội, đều có
cùng một đấng cha chung, Cao Đài còn tạo lập ở thế gian
này một cuộc sống dựa trên CHÍNH SÁCH CỘNG HÒA YÊN TĨNH,
thể hiện bằng lòng từ bi bác ái và lòng chí thành của mỗi
người làm cơ bản (TN2, tr.36.61).
Ta thấy Đức Chí Tôn nhấn mạnh chánh sách cộng hòa yên tĩnh
này nhiều lần trong Thánh ngôn (TN2, tr.36.61) nhằm tạo
lập một thế giới HÒA BÌNH, DÂN CHỦ, TỰ DO, bằng con đường
đạo đức, vì xã hội loài người hình thành do ý chí và đức
hóa sanh Cao Đài cứ vào trình độ tiến hóa về đạo đức của
vạn vật chớ không phải được xây dựng lên từ vũ khí bạo
lực. Đạo Cao Đài thực thi chính sách cộng hòa yên tĩnh
bằng 3 tuyên ngữ : bảo sanh, nhơn nghĩa, đại đồng.
1/- Dân sanh : Tuyên ngữ bảo sanh có hai mặt : một
mặt do lối sống cơm no, áo ấm, mặt khác là bảo vệ tính
mạng không để người khác xâm phạm.
Thời kỳ này là đời mạt kiếp, nhân sanh bị vô vàn khổ. Thế
nên, các đấng dạy Hội Thánh phải tìm phương mở rộng các
ngành kinh tế để nuôi dưỡng dân sinh. Bảo Sanh Quân là
người đứng đầu để tìm mọi phương kế nâng cao mức sống nhân
sanh, cộng tác với ông có Bảo Công Quân lo về công nghiệp,
Bảo Nông Quân lo về canh nông, Bảo Thương Quân lo về đặt
định giá cả vừa mức tiêu thụ của người dân và quân bình
cán cân xuất nhập cảng. Những hoạt động đó nhằm biến đổi
bộ mặt xã hội, giúp cho xã hội hoàn toàn có nếp sinh hoạt
mới mẻ. Ngoài ra, còn có Bảo Cô Quân lo về xã hội (1) mở
mang dưỡng lão viện, Aáu trĩ viện … Con người có ăn, có
mặc rồi mới dạy lễ nghĩa được "phú quý sinh lễ nghi". Bởi
lẽ, đạo không chỉ lo cho con người, ở kiếp sống trần gian
mà phải độ cả kiếp sống trong cõi vô hình, như thế mới gọi
là tận độ chúng sanh.
Mặt khác, giáo lý Cao Đài dạy phải bảo trọng tính mạng,
nghĩa là cấp tự tử : "Sự sống là Thầy mà giết Thầy đâu
phải dễ" (TN2, tr.63). Đạo lý cũng lên án sự chém giết lẫn
nhau: "Vì vạn vật do Đức Từ bi mà sanh hóa trong cả thế
giới nên đồng nhất thể. Tính hóa sanh của Đức Đại từ bi
cũng nhân đó mà vô biên vô giới … Hễ giết một mạng sống
thì đau lòng Đức Đại từ bi" (TN2, tr.88). Lòng thương yêu
của Đức Chí Tôn vô tận dù trong đạo hay ngoài đạo và ngay
cả kẻ thù nữa, nếu họ nguy tại thì cũng phải ra tay cứu
vớt (TN2, tr.93) vì "sự thương yêu là chìa khóa mở cửa
Bạch Ngọc Kinh" (TN2, tr.43).
2/- Dân Đức : Người theo đạo thì dạy đạo, người
theo đạo thì lấy cái Đức của người đạo để cảm hóa chúng
sanh. Đức Chí Tôn dạy : "Các con thương mến nhau, chia
vui sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy sự vui vẻ
đó" (TN1, tr.90), còn "bác ái là lòng thương xót
sanh linh hơn thân mình, cho nên kẻ có lòng bác ái coi
mình nhẹ hơn mảy lông, mà coi thiên hạ trong bằng trời đất
… Còn chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đãi
nhau" (TN2, tr.45)
Do đó, con người cần phải tránh những điều tổn Đức, tàn
ác. Đạo Cao Đài coi đạo đức, nếu có tài mà thiếu đức thì
chỉ dùng bạo tàn để đàn áp nhân sanh, đó là mầm móng tạo
loạn.
Lấy Thánh Đức dìu đời giác ngộ
Dụng bạo tàn đấu phải chỗ an bang
Hoặc : Đức lập quyền dân đặng chu toàn
Đời xua đức nhân gian thống khổ.
Lấy chí nhân thay cường bạo, lấy đạo nghĩa thắng hung tàn
(2) trong lịch sử Việt Nam, đã dẫn tới nhiều thành công
tốt đẹp. Hai chữ nhân nghĩa (trước mặt tiền Tòa Thánh) có
ý nghĩa hết sức rộng lớn. Cả bộ sách 7 quyển của Thầy Mạnh
Tử cũng chỉ có 2 chữ nhân nghĩa. Tấm lòng con người đối
với người là lòng nhân ái. Tấm lòng con người đối với hết
thảy mọi chúng sinh là lòng bác ái, dẫn tới tính từ bi, hỉ
xả. Chữ nhân thể hiện bằng tình thương thì chữ nghĩa thể
hiện bằng cách cư xử, nghĩa đồng bào, nghĩa nhân loại. Chữ
nghĩa dẫn con người đến lòng hiếu để đối với mẹ cha, anh
em. Con người đối với nhau thiếu lễ nghĩa thì xã hội đó
sắp loạn lạc, sắp suy tàn. Lễ nghĩa làm cho con người gắn
bó với nhau, thương mến nhau, thiện cảm nhau, từ đó mới
linh thông dẫn tới đại đồng nhân loại.
Tóm lại, nhân nghĩa là mục tiêu của chính sách hòa bình
yên tĩnh, thực hiện trọn vẹn sẽ góp một phần lớn vào giáo
thuyết đại đồng nhân loại.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~~~
(2) NGUYỄN TRÃI, Bình Ngô đại cáo, in
trong VN sử lược.
3/- Dân hòa : Khi cuộc sống được đảm bảo, con người
mới lo trau dồi nhân phẩm đạo đức mình. Tuy nhiên, dân
nhân chưa được hòa hẳn, cần phải sinh hoạt về mặt chính
trị đất nước. Như thế, đạo đời mới tương đắc.
Theo Nguyễn Đăng Thục, đạo đời tương đắc ngày xưa là trong
cái đình, ngày nay là trong Thánh Thất Cao Đài, chớ không
phải cái chùa (Đạo Phật), cái miếu Văn Thánh (Đạo Nho),
cái am (đạo lão), cái nhà thờ (Thiên Chúa Giáo) (3)
Ta xác định rõ là tại hậu diện các Thánh thất là nơi bàn
việc đạo, và quốc kế dân sinh, chính trị hiểu theo nghĩa
hẹp, chớ không phải chính trị Đảng phái, mục đích là để
dìu đời :
Đức Hộ Pháp đã ví đạo như nước, đời như thuyền. Nếu nước
trong sạch, không nhiều cặn bã thì thuyền đi nhanh, khi
nước dâng lên thì thuyền lên, khi nước nổi ba đào có thể
nhận chìm thuyền, chớ thuyền không thể làm nước cạn được.
Nói một cách khác, khi đạo chinh nghiêng thì con người xa
đạo. Đó là hiện tượng ai tai cho nhân loại.
Như thế, muốn nhân loại đại đồng, người Cao Đài phải nhập
thế, xả thân giúp đời, không đóng kín cửa tu riêng. Mỗi
tín đồ phải tác động, cảm hóa được ít nhất 12 người theo
lẽ phải đạo đức. Khi con người có cuộc sống được đảm bảo,
nhân nghĩa đạo đức đầy đủ thì xã hội an cư lạc nghiệp. Nếu
mỗi nước đều được như vậy thì thế giới hòa bình, nhân loại
sẽ tiến tới nước đại đồng.
Muốn đạt đến thế giới đại đồng, theo giáo lý Cao Đài, phải
đủ 3 điều kiện : hòa bình, dân chủ, tự do như câu liểng ở
các cửa Thánh Thất.
Cao thượng Chí Tôn Đại Đạo HÒA BÌNH, DÂN CHỦ mục,
Đài tiền sùng bái Tam kỳ cộng hưởng TỰ DO quyền.
Đây coi như bản tuyên ngôn về mặt đời, câu liễng hướng ra
mặt ngoài Thánh Thất của Đạo Cao Đài, xác định rõ là trong
kỳ ba phổ độ này, Đức Chí Tôn tuy lập đạo ở nước thuộc địa
Pháp, nhưng Ngài sẽ chuyển cho nước ấy được hòa bình, dân
chủ. Ngài mở đạo nơi nào ách nước nơi ấy hầu mãn, (TN2,
tr.14), bằng cách gieo những tư tưởng tiến bộ mà ta đã
liệu dẫn trước, hoặc tác động đến nhà cầm quyền buộc họ
phải thay đổi chánh sách cai trị, hoặc thức tỉnh dân nước
đứng lên cởi ách nô lệ. Nói một cách khác, Đạo Cao Đài là
trung tâm cải cách kinh tế văn hóa xã hội tiến bộ, không
có tham vọng phục quốc hay tranh lấy chính quyền. Câu liễn
trên có tác dụng như một hải đăng đi đường, một tiên
tri mặc khải, chớ không tiêu biểu cho một tham vọng
chính trị nào. Sở dĩ chúng ta tôn trọng câu liễn đó vì lời
tiên tri của Đức Cao Đài quá chính xác, quá đúng nên người
tín đồ Cao Đài qua đó cũng mong mỏi được quyền tự do dân
chủ, để truyền bá tôn giáo mình.
(1) NGUYỄN ĐĂNG THỤC, "Đi tìm luật căn bản
triết học Cao Đài" Sài gòn nhân sinh số 7, tr.6, 1964.
Người nào cũng hiểu rằng hòa bình dân chủ không phải tự nó
đến mà phải có tác động của con người. Thế nên, năm 1956,
Đức Phạm Hộ Pháp đưa ra chính sách hòa bình chung sống gửi
cho hầu hết các nước trên thế giới. Cương lĩnh nêu rõ hòa
bình rồi mới chung sống đồng đẳng. Dù nhược tiểu hay cường
quốc, không ai được xâm lấn ai vì ai cũng cần sống và đều
là con cái Đức Chí Tôn.
Có người nghi ngờ xã hội Cao Đài không phải là một xã hội
dân chủ vì trọng kinh Xuân Thu của Khổng Giáo Tôn quân.
Thật ra Đạo Cao Đài không chủ trương một xã hội phóng
khoáng kiểu phương Tây mà một xã hội dân chủ huyền nhiệm:
"Ý dân là ý trời" hay dân chủ tập trung tức là trọng trí
thức toàn thể nhân sanh. Đức tin chung của nhân sanh trụ
thành khối nguyện vọng chung đó. Thế nên, mới gọi ý dân là
ý trời, nghĩa là Đức Chí Tôn là người phán quyết cuối
cùng, nhưng phán quyết ấy không bao giờ ngược lại lòng
dân. Đó không phải hình thức dân chủ huyền nhiệm cao độ
sao ?
Vả lại, Đạo Cao Đài dù chọn Kinh Xuân thu làm bửu pháp,
thế cũng chỉ chọn cái triết lý tiêu biểu : "chính danh,
định phận". Hơn nữa, Khổng giáo lấy dân chúng làm căn bản,
xem dân chúng là nguồn trí tuệ cao cả nhất. Chính trị
Khổng giáo quan niệm kẻ cùng đinh và người cai trị trên
nguyên tắc đều bình đẳng. Điều này đã được chứng minh
trong thời đại hoàng kim của Khổng giáo : Thời vua Nghiêu,
vua Thuấn. Một chính phủ lý tưởng, theo Nho giáo, phải là
chính phủ vì dân, mặc dù hình thức quân chủ hay dân chủ
(4). Nói một cách khác, chính thể không quan trọng bằng
người lãnh đạo. Anh quốc và Nhật Bản chẳng hạn, tuy chế độ
quân chủ nhưng người dân được hưởng nhiều quyền tự do dân
chủ.
Sau khi chuẩn bị đầy đủ về tinh thần (đạo đức), vật chất
(bảo sanh), đạo đời tương đắc (dân hòa) và lý tưởng thế
giới đại đồng, người tín đồ Cao Đài có điều kiện nhập thế
để truyền bá tư tưởng của tôn giáo mình. Giáo lý Cao Đài
không chủ trương giành chính quyền mà nhiệm vụ chính yếu
là nâng cao sự an sinh xã hội, gây ý thức cho mọi ngưởi có
tư tưởng hòa bình, dân chủ, tự do hầu giúp cho đất nước mà
họ đang sống có một bộ mặt mới tiến bộ. chủ thuyết đạo đời
tương đắc là đạo ở trong lòng đời, đời phải nương nhờ đạo.
Nói một cách khác, đạo có nhiệm vụ giúp đời đạt những mục
đích hòa bình, dân chủ, tự do mà không nhằm nắm lấy chính
quyền.
Nợ nước hai vai nặng gánh gồng,
Thần dân nhiệm vụ phải lo xong. (KL, tr.136)
Như thế, chính sách cộng hòa yên tĩnh là phương tiện để
xây dựng một thế giới đại đồng. Nó có tác dụng như những
lời khuyên đạo đức, những lời Thánh dạy. Nó có thành tựu
hay không là tuỳ thuộc vào sự giác ngộ của nhân loại và sự
truyền bá Đạo Cao Đài trên thế giới.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(4)TRẦN QUANG THUẬN, tư tưởng chính trị
trong triết học Khổng giáo, Sài gòn, Thư lâm ấn quán 1961,
tr.174
ĐẠO CAO ĐÀI, MỘT TÔN GIÁO HOÀN CẦU
Ngay từ những buổi đầu khai Đạo, không những người Pháp ở
Sài gòn hoặc ở Pnompênh theo Đạo Cao Đài mà ngay cả trí
thức tại nước Pháp và nhiều nơi khác cũng xin theo Đạo,
hoặc xin tìm hiểu giáo lý của nền tân tôn giáo. Ông Henri
Regnault đại diện Cao Đài giáo tại Pháp quốc, Phó chủ tịch
ủy ban quốc tế của hội nghị thần linh học thế giới (M.
Henri Regnault, Vice - Président de Union Spirite
Francaise, Président du Comité Fracais du Conseil spiritel
mondial, trésorier-adjoint du conseil supême du C.S.M,
délégue Caodaisme) là một trong những người trí thức Pháp
nhiệt tình nhất có nhận xét tinh tế khách quan về Đạo Cao
Đài. Trong Hội nghị thần linh học thế giới năm 1952, trong
bản phúc trình ông đã xác nhận rằng Đạo Cao Đài là một tôn
giáo hoàn cầu, phù hợp với khoa học và triết học. Sau đây,
chúng tôi xin dịch nguyên bản phúc trình đó.
1/- Đạo Cao Đài, tôn giáo hoàn cầu : năm vừa qua
tôi (tức H.Regnault) đã có dịp điều trần ở hội nghị
Bruxelles (Bỉ, 1951) (1) rằng Cao Đài giáo có thể có một
trách vụ quan trọng trong công việc thực hiện một nền tôn
giáo hoàn cầu.
Tôi căn cứ vào những đề mục mà những người tổ chức hội
nghị Luân đôn (1936) đã nêu ra để khảo cứu xem một tôn
giáo như Cao Đài giáo xây dựng căn bản Thần linh học, có
thể giúp ta hiểu ra thêm việc thống hợp tôn giáo, triết
lý, khoa học, tâm lý học và nghệ thuật hay không ?
Từ cuộc Hội nghị Lausane (Thụy Sĩ 1948) đến nay, năm nào
tôi cũng có cơ hội để làm cho quí vị hội viên phải lưu tâm
đến Đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài có một thái độ rộng rãi đối
với những tôn giáo khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi
người cũng như chơn lý nguồn cội ở Đức Chí Tôn vô biên, vô
tận, vô thường, vô danh, vô đối.
Nếu ta phải tổng hợp tôn giáo khoa học, triết học, tâm lý
học nghệ thuật để tìm hiểu Thần linh thì tôi cho Cao Đài
giáo có thể rất có ích cho chúng ta để đạt tới mụch đích
ấy.
2/- Đạo Cao Đài với tôn giáo khác : Là một tôn
giáo, Đạo Cao Đài liên hợp hết thảy các tôn giáo sau đây.
Trong Hội nghị Thần linh thế giới, các chi ngành thần linh
học đều có cử đại biểu. Tuy không có người Cao Đài nào dự
để thấy rằng chỉ có Cao Đài giáo khả dĩ thực hiện được
việc tổng hợp mà đại hội thường niên 1952 theo đuổi. Nhưng
người tín đồ Cao Đài nào cũng biết rằng Đạo Cao Đài chung
góp một phần quan trọng vào việc thực hiện mục đích đó.
3/- Đạo Cao Đài với khoa học và triết học : Đạo Cao
Đài căn cứ vào Thần linh học (2) mà thần linh học là một
khoa học và một triết lý. Năm 1950, trong một buổi họp của
Hội nghị Haywards Henth, tôi đã có dịp định nghĩa rõ ràng
thế nào là thần linh học, một khoa học không nên lầm lẫn
với mê tín quàng xiêng.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) Những chữ trong dấu ngoặc trong bản
phúc trình này là chú thích của người viết.
(2) Ở đây tác giả muốn nói Đạo Cao Đài công nhận có linh
hồn mà tiếp điển bằng cách thông linh (Théophile) chớ
không phải Đạo Cao Đài từ TTL mà ra.
Thần linh học làm cho ta thấy chắc chắn rằng linh hồn có
thực, tuy xác chết mà hồn vẫn còn và giữa người sống và
người chết vẫn còn giao cảm được.
4/- Đạo Cao Đài và tâm lý học : Đạo Cao Đài có
những liên quan mật thiết với tâm lý học. Đức Thượng Đế đã
giáng trần khai đạo, nhưng Ngài không đụng chạm đến cái
tôn giáo hiện hữu.
Người tín đồ Cao Đài cung kính cầu nguyện những vị Thần
Thánh, Tiên Phật đã giáng trần để cứu vớt nhơn sanh. Họ
không quên một vị nào mà họ thờ tất cả từ Phật Thích Ca,
Chúa Jésus, Đức Khổng Tử đến các vị Tiên Phật thời thượng
cổ, Thần Thánh, Châu Âu, Châu Á…
Người có đức tin như người không đức tin đều có thể vào
trong Thánh Thất Cao Đài để trầm tư mặc cảm và cầu nguyện
theo sở vọng. Đó chẳng phải là một lý thuyết tâm lý sâu xa
hay sao ? Cái đó chẳng có gì lạ. Vì Đạo Cao Đài nguồn gốc
là ở chỗ siêu trần mà lại là sự nghiệp của nhân sanh.
Căn nguyên của Đạo Cao Đài là ở đó, là ở chỗ truyền đạt
nghĩa hòa bình, lòng nhân đức, tình tương thân, tương ái
và lý Đại đồng.
5/- Đạo Cao Đài và nghệ thuật : Những vị hội viên
có mặt tại Hội nghị Bruxelles (Bỉ 1951) đã nhận được cuốn
sách nhỏ trong đó có in bản phúc trình của tôi
(H.Regnault). trong sách đó có nhiều hình vẽ, những vị nào
có dự hội nghị Assise, Haywards Henth, Bruxelles thì đã
nhận được cuốn di bút của ông G.Gobron nói về lịch sử và
giáo lý Đạo Cao Đài. Cuốn sách đó có nhiều tranh ảnh. Cái
đó tất đã thấy rằng trong nền tân tôn giáo này, nghệ thuật
đã có một địa vị rất quan trọng.
Kiến trúc trong ngoài Tòa Thánh là một mỹ thuật đáng được
chú ý đặc biệt : Khi trông ngắm Tòa Thánh Tây Ninh, mặt
trước đền, mặt bên và trong đền những tượng Phật Thích Ca,
Jésus, Lão Tử và thiên bàn thờ Đức Chí Tôn, toát lên một
nghệ thuật độc đáo.
Như thế, dưới sự nghiên cứu và lối nhìn một cách khoa học,
nhà học giả H.Regnault từ lâu đã xác nhận Đạo Cao Đài là
một tôn giáo toàn cầu.
HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO
Để phổ thông nền chơn đạo ra nước ngoài, một số trí thức
Cao Đài nghĩ đến phương tiện báo chí. Trong giai đoạn đầu
chỉ xem một ít bài vào báo hàng ngày như tờ Echo Annamite
(1920-1940) của Nguyễn Phan Long (đắc phong Giáo sư). Năm
1928 Nguyễn Thế Phương chủ trương tờ L'Action Indochine ở
Sài gòn, cơ quan ngôn luận chuyên biệt phổ biến giáo lý và
nghi thức tu học theo Đạo Cao Đài, khuyên răn mọi tín đồ
phải sống liêm khiết, đơn giản, giữ thể xác, tinh thần và
đạo đức cho trong sạch.
Tháng 7-1930 ông Nguyễn Văn Ca (đắc phong Phối Sư) sáng
lập tờ Revue Caodaiste do Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu làm
chủ bút, báo quán đặt tại Thánh Thất Cầu Kho (nay ở đường
Nguyễn Cư Trinh, Sài Gòn). Tạp chí này xuất bản mỗi tháng
một lần toàn bằng Pháp ngữ để phổ thông nền chơn giáo.
Việc truyền đạo bằng báo chí có kết quả nhất định, nếu
lồng vào báo thương mại thì bị chìm trong bể tin tức, nếu
làm báo chuyên nghiệp thì bị thiếu tài chánh để sinh tồn.
Trong lời phi lộ, tờ số 1, xuất bản tháng 7-1930 có viết :
"từ lâu Đạo Cao Đài dự định cho một tờ báo hoặc bằng Tiếng
Việt hoặc bằng tiếng Pháp để trình bày tôn chỉ của mình và
bênh vực quyền tự do tín ngưỡng. Vì thiếu cơ quan ngôn
luận như thế mà 1 số người lưu ý đến vấn đề tôn giáo không
khỏi thắc mắc, có thể gây những điều xuyên tạc bịa đặt,
khăn khăn phán cho Đạo Cao Đài một mục đích khác, không
phải của Đạo".
Tờ tạp chí mà chúng tôi cấp hiến cho các độc giả phương
Tây cũng như Việt Nam sẽ trả lời cho hai nhu cầu thiết yếu
:
1/- Chỉ rõ Đạo Cao Đài dưới nét thực của nó.
2/- Phá tan được chừng nào hay chừng nấy bầu không khí
khinh khi và ngờ vực bao trùm Đạo Cao Đài từ trước tới nay
(Depuis longtemps, le Caodaisme devait publier un organe
rédigé soit en Annamite, soit en francais pour I'exposé de
la doctrine et la défense de sa foi. Résulte de l'absence
de tolérant … questions religieuses et d'expose de ce fait
à d'unification, voire à des accusations qu'ils obstinent
à lui prêter un autre but que celui quil poursuit
véritablement.
La Revue que nous présentons aujoud'hui, tant au public
enropéen qu'aux Annamites de culture francaise répond donc
à un double besoin :
1/- Montrer le Caodaisme sous son vrai jour
2/- Dissiper autant que faire se pente, l'atmosphère de
méfiance et de suspicion don't il est jusqu'ici développé.
Căn cứ theo địa chỉ gửi báo thì tờ báo này được lưu hành
hầu hết trên thế giới như Châu Âu (Pháp, Đức, Ý, Anh, Thụy
Sĩ …) Châu Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Châu Phi. Nhờ đó, mà ở
Đức lúc bấy giờ có đạo Eglise Gnostique d'Allemagne đã
viết thư qua Việt Nam xin hiệp nhứt với Đạo Cao Đài.
Nhiều báo bằng tiếng Pháp trích đăng bài của tờ La Revue
Caodaisme như Saigon Dimanche, xuất bản ngày 16/10/1932 đã
viết : "Trong những bài báo những buổi diễn thuyết các nhà
lãnh đạo Cao Đài dự định thiết lập Thánh Thất Cao Đài để
hoạt động với một số tín hữu, Châu Âu … các nhà truyền
giáo Đạo Cao Đài sẽ mở rộng hoạt động của mình ra khắp thế
giới.
Báo La Presse Indochinoise ra ngày 23/10/1932 viết về Đạo
Cao Đài như sau: "Đạo Cao Đài có thể đảm bảo sự thành
công của mình trong các vùng Germanie và những vùng Hồi
giáo …. Và Đạo Cao Đài đã chậm rãi đi tới. Rồi đây, họ sẽ
đi đến thủ đô Paris dựng lên Thánh Thất Cao Đài".
Không những báo chí ở Đông Dương cổ vũ cho Đạo Cao Đài mà
ngay cả trên đất Pháp cũng rất sôi nổi. Tờ La libre
Opinion ra ngày 8/11/1931 viết : "Trong lúc toàn thế giới
đang lan tràn một làn sóng thù hằn, thì ở phương Đông xa
xăm, ai biết Đạo Cao Đài lại ra đời đúng lúc".
Báo Progrès Gvique ra ngày 19/12/1931 cũng viết : "Người
ta không thể chối cãi rằng Đạo Cao Đài làm sống lại cái
quyền hạn tối thiêng liêng của tất cả mọi người, những tư
tưởng của họ rất quãng đại, không những vô hạn mà rất nhân
từ". Những báo chí buổi đầu đã góp phần quan trọng trong
việc làm sáng tỏ tôn chỉ, mục đích của nền tân tôn giáo.
Ngay năm sau khi khai đạo ở Gò Kén (1926) vào trung tuần
tháng 5-1927, cơ quan truyền giáo ra nước ngoài tức Hội
Thánh Ngoại Giáo (Mission étrangère) đặt trụ sở tại đường
Lanlande Lalan (Phnom Pênh). Đây là phần chuyển pháp
thiêng liêng tích cực nhất trong việc truyền bá bằng báo
chí.
Hội Thánh ngoại giáo dưới sự chỉ đạo của Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn tức đại văn hào nước Pháp Victor Hugo và dưới sự
bảo hộ hữu hình của Đức Phạm Hộ Pháp. Vào đàn đêm
20/3/1932 tại Thánh Thất Kiêm Biên, Đức Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn dạy : "Bần đạo khi đắc lịnh làm chưởng đạo lập Hội
Thánh ngoại giáo , giáo đạo tha phương, thì tùy lòng bác
ái của Đức Chí Tôn, mở rộng cửa thế cho nhơn sanh dâng
công đổi vị. Bần đạo chẳng kể nguyên nhân, hóa nhân hay
quỉ nhân, hễ biết lập công thì thành Đạo". (1)
Hội Thánh ngoại giáo vừa tròn một năm, số tín đồ tăng lên
mười ngàn người. Trong đó, nhiều vị được thăng cấp chủ
trưởng Hội Thánh ngoại giáo như Giáo sư Thượng Bảy Thanh
(1927-1937), Cao Tiếp Đạo, Giáo sư Hương Phụng, Giáo sư
Thượng Chữ Thanh. về sau có hai vị được bổ từ Tòa Thánh
Tây Ninh. Tại Tòa Thánh Tây Ninh cũng có thiết lập một tòa
Hội Thánh ngoại giáo (còn gọi nhà Vạn Linh) đối diện với
Đầu Sư Đường.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) Xin xem Les messages Spirites (Thánh
giáo dạy đạo nước ngoài) Tây Ninh 1962
1/- Truyền Đạo tại Campuchia (2) :
Ngay từ ngày mới lập Đạo, người Khmer từ xứ Campuchia
không quản ngại xa xôi đã đến cầu đạo tại Tòa Thánh Tây
Ninh và ở lại làm công quả. Họ mang theo cả gạo, thức ăn,
khi nào hết lương thực mới trở về xứ.
Ngày 2/6/1927, sở tuần cảnh Pháp báo cáo với nhà đương
cuộc là có 5.000 người Khmer đến lễ bái trước chánh điện
Tòa Thánh Tây Ninh và trước pho tượng Đức Phật Thích Ca
cưỡi ngựa tầm đạo trước Đại đồng xã. Khi số người tăng lên
30 ngàn thì Bộ trưởng tôn giáo ra thông tư ngày 23/5/1927
trong có khoản như sau : "Giáo lý nhà Phật mà dân Khmer
đã thấm nhuần đang dẫn đến chơn thiện và liêm khiết. Ngoài
ra không một tôn giáo phái nào khác đến choán chỗ trên các
địa phương của ta".
Tháng sau, các sư sải Campuchia được chỉ thị rõ ràng là họ
có bổn phận đẩy lui giáo lý Cao Đài trái nghịch Hiến pháp
vương quốc, trái với những điều giới răn Phật Tổ và các
tác phong của hàng Phật tử.
Đến ngày 22-12-1927, sắc lịnh của vua Campuchia lên án Đạo
Cao Đài và định hình phạt đối với người Cao Miên nào nhập
môn theo Đạo Cao Đài. Việc lẽ rằng, theo điều 15 của Hòa
ước bảo hộ (11-8-1963) và những sắc lịnh của nhà vua (ngày
21-11-1903) ngày 6-8-1919 và 31-12-1925). Thêm vào các
điều 149, 213 và 214 của bộ luật Campuchia thì chỉ có Phật
giáo và Thiên Chúa giáo mới được hành lễ tự do tại xứ
Campuchia mà thôi.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(2) Xem thêm : P.BERNADINI, Le Caodaisme
au Cambodge (tiến sĩ đệ tam cấp). Đại học Paris VII, 1974,
451 tr.
Vì lẽ đó, người Khmer bớt theo Đạo. Các vị chức sắc bèn
chú trọng đến Việt kiều và Hoa kiều mà việc truyền Đạo
không bị gián đoạn. Để an lòng chính quyền bảo hộ Pháp,
các vị chức sắc và đạo hữu Cao Đài đã làm tờ cam kết như
sau:
"Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, chức sắc và thiện nam
tín nữ cư trú tại xứ Cao Miên đồng ý với nhau cam kết với
chính quyền Pháp và chính phủ Cao Miên rằng : Chúng tôi
nguyên sinh hoạt theo đời sống đạo đức thuần túy, trọn
tuân luật pháp chơn truyền Đại Đạo Cao Đài với tôn chỉ qui
nguyên Tam giáo, hiệp nhứt Ngũ chi, hầu đem nhơn loại đến
đại đồng đặng hưởng hòa bình hạnh phúc. Chúng tôi xin cam
kết với chính phủ là không bao giờ làm rối rắm cuộc trị
an. Nếu chúng tôi thất hứa thì cam chịu tội tử hình".
Dù vậy, vẫn bị công an theo dõi nên việc truyền giáo hết
sức thận trọng khéo léo, bằng cách thiết đàn tại tư gia và
truyền bá giáo lý đạo trong các dịp quan, hôn, tang, tế.
Về sau, Khâm sứ bảo hộ Vương quốc Campuchia thương lượng
với Thống đốc Nam Kỳ và nhà vua, cả ba đồng thỏa thuận
khoan hồng cho Đạo Cao Đài hành giáo nơi đất Campuchia
nhưng không được truyền đạo và không được cất thêm Thánh
Thất.
Đức Quyền Giáo Tông nhân cơ hội đó, ban bố sự tự do tín
ngưỡng cho các tín hữu và thông báo với các chánh tham
biện, chủ tỉnh các nơi để tường. Giáo sư Thượng Bảy Thanh
bắt đầu vận động cất một Thánh Thất lớn để làm cơ sở của
trung tâm truyền giáo tại xứ chùa tháp. Số người theo đạo
tăng lên, các hương chức giúp đỡ phương tiện. Vì thế,
chính phủ bảo hộ lại bãi bỏ chính sách khoan hồng, bắt
buộc phải thi hành những điều ngăn cấm của Vương quốc.
Ngày 4-7-1930, Khâm sứ bảo hộ Pháp chỉ thị cho các chủ
tỉnh là thủ tiêu cho đến khi có lệnh mới những biện pháp
khoan hồng mà chính phủ và hoàng gia Campuchia đã ban cho
Đạo Cao Đài từ trước. Như vậy, kể từ đó trở đi, bất luận
các tổ chức lễ bái dưới hình thức nào đều bị ngăn cấm. Ai
không tuân hành phải trục xuất ra khỏi xứ Campuchia.
Hậu quả của chỉ thị này là các vụ bắt bớ đạo hữu, đập phá
nơi thờ phượng. Các buổi hành lễ dù có xin phép vẫn bị đàn
áp. Giáo sư Thượng Bảy Thanh, chủ trưởng cơ quan truyền
giáo đệ đơn xin phép cúng rằm tại Thánh Thất (8-9-1930)
nhưng vẫn bị ngăn cấm và bị bắt câu lưu. Sau hai ngày bị
giam ông mới được giấy thông báo nhà cầm quyền bác đơn xin
phép.
Trải bao cơn sóng gió, chức sắc truyền giáo vẫn một lòng
kiên trì gieo truyền mối đạo. Vững lòng hơn nhờ nhiều
người Pháp như luật sư Jacob và Lascaux, nhất là các nhà
văn Gabriel Gobron giúp đỡ can thiệp với Hội nhân quyền và
các yếu nhân chính trị tại nước Pháp.
Ngày 3-9-1931 tờ la Grippe số 36 và các số kế tiếp bêu xấu
thái độ của viên Khâm Sứ Campuchia là đe dọa ông Lê Văn
Bảy bằng câu "Không có vấn đề đối xử hòa bình với người
Đạo Cao Đài" và thẳng tay lên án các viên chức thuộc
địa. Tờ báo này còn đả kích việc thành lập tổ chức "Kiêm
Biên Phật Giáo Nghiên Cứu Viện" do nghị định ngày
25-1-1930 của toàn quyền Pierre Pasquier (3) có mục đích
phổ biến Phật giáo tiểu thừa trong khắp xứ Ai Lao và
Campuchia. Báo này tố ngay là P.Pasquier có tham vọng làm
giáo chủ Phật giáo để chống lại Giáo tông Lê Văn Trung
người đang cầm quyền Đạo Cao Đài.
(3) Toàn quyền P.Pasquier cấm đạo, xem
TRẦN VĂN RẠNG, Đại Đại Sử cương (quyển II). Tây Ninh 1971,
tr.44-45
Do sự can thiệp của toàn quyền P.Pasquier, người Campuchia
không nhập môn theo đạo nữa, chỉ còn Hoa kiều và Việt kiều
mà thôi. Đến năm 1951, Hội Thánh Ngoại Giáo lập bộ đạo thì
con số tín đồ là 73.167 người, chỉ có 8.210 người Khmer ,
còn lại là Hoa kiều và Việt Kiều. Đến năm 1956, Đức Hộ
Pháp lưu vong sang Campuchia việc truyền giáo được tiếp
tục.
2/- Truyền giáo tại Trung Hoa :
Năm 1937, ông Lê Văn Bảy được bổ đi truyền giáo tại Trung
Hoa. Ông đến tỉnh Vân Nam và lập văn phòng tại Vân Nam
phủ. Ông chỉ hành đạo ở đây có một năm rồi trở về Tòa
Thánh.
Năm 1948, Đức Phạm Hộ Pháp có sang Hương cảng và đặt một
số cơ sở ở đây. Cũng nên thêm rằng Hiền tài Mã Nguyên
Lương, người Trung Hoa, tướng của quân đội Quốc Dân Đảng
sống lưu vong sau khi Mao Trạch Đông nắm chính quyền ở Hoa
lục (1949). Ông ở tại ngoại ô Tòa Thánh, đã dịch xong Pháp
Truyền Chánh và có ý định sẽ trở lại Trung Quốc truyền
đạo. Chẳng may, tuổi già sức yếu, ông mất 1972.
3/- Truyền giáo tại nước Pháp :
Năm 1931, chính phủ bảo hộ tại Campuchia phái ông Trần
Hiển Trung sang Paris công tác. Nhân đó, ông có dịp tiếp
xúc và gây thiện cảm với nhiều chính khách như các tổng
trưởng Albert Sanaut, Marius Moutet, các tổng thư ký Henri
Guernut, Emile Kahn, Hội nhân quyền, nhất là vợ chồng nhà
văn Gabriel Gobron. Ông G.Gobron sau đắc vị Tiếp Dẫn Đạo
Nhơn. nhờ vậy, các vụ rắc rối ở Nam Kỳ và Vương Quốc
Campuchia được giải quyết ổn thỏa.
Năm 1954, Đức Phạm Hộ Pháp có sang Pháp (thuyết lượng về
chánh tỉnh VN ?) và viếng mộ phần đại văn hàn Victor Hugo
tức Đức Nguyệt Tâm chơn nhơn tại điện Panthéon. Năm trước,
Hội Thánh đã ban cho Lễ sanh Thượng Minh Thanh ở tại Balê
chức chủ trưởng "Hải ngoại Cao Đài truyền giáo hội".
Báo Pháp cũng ca ngợi Đạo Cao Đài có lý tưởng hợp nhất các
tôn giáo để đem lại hòa bình trên thế giới. Tiếp dẫn Đạo
chơn nhơn Gabriel Gobron đã đại diện Hội Thánh tham dự các
Hội nghị sau :
-Hội nghị quốc tế về thần học tại Barcelone (Tây Ban
Nha) năm 1934.
-Hội nghị quốc tế về Tân giáo tại Luân Đôn (Anh quốc)
năm 1936.
-Hội nghị quốc tế về Thần học tại Glasgour (Anh quốc)
năm 1937.
-Hội nghị quốc tế về tôn giáo tại Paris (Pháp) năm 1939.
Sau đó, ông qua đời, ông Henri Regnault đại diện Cao Đài
giáo tại Pháp quốc thay mặt Hội Thánh Cao Đài dự các hội
nghị sau :
-Hội nghị quốc tế về Thần học tại lausane (Thụy Sĩ) năm
1948.
-Hội nghị quốc tế về Thần học ở Haywards Henth năm 1950.
-Hội nghị quốc tế về tôn giáo ở Stockholm (Thụy Điển)
năm 1951.
-Hội nghị quốc tế tôn giáo ở Bruxelle (Bỉ) năm 1951.
Trong Hội nghị ở Bruxelle được báo chí ghi nhận : Đạo Cao
Đài có thái độ rất khoan hòa rộng rãi đối với các tôn giáo
khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người, cũng như tôn
trọng chơn lý mà nguồn gốc từ Đức Chí Tôn vô biên, vô tận,
tối cao tối thượng. Nếu ta tổng hợp tôn giáo với khoa học,
triết học, tâm lý học và nghệ thuật để tiêu biểu các thần
linh thì Đạo Cao Đài có khả năng giúp chúng ta đến mục
tiêu đó.
4/- Truyền giáo tại Nhật Bản :
Năm 1935 ông Isao Deguchi , giáo chủ Đạo Đại Bản Nhật có
liên lạc với Đầu sư Thái Thơ Thanh tìm hiểu về Đạo Cao
Đài.
Năm 1954, Đức Phạm Hộ Pháp sang Nhật rước tro Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để và truyền đạo, có phong cho ông Naga-Fuchi người
Nhật, Lễ Sanh phái Thái. Năm 1972, Đạo Đại Bản Nhật mời
Hội Thánh Cao Đài sang Nhật thuyết giáo về Đạo Cao Đài,
sau đó một phái đoàn Đạo Đại Bản có sang tìm hiểu đạo lý
tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Năm 1955, Hội nghị tôn giáo ở Atamis (Nhật), một giáo sĩ
Nhật phát biểu : "Tôn giáo từ xưa đến nay, mắc ba chứng
bịnh trầm kha là tự tôn tự đại, tự mãn tự túc và độc thiện
kỳ thân, không chịu tham gia các cuộc hội thảo chung. Nếu
không sớm sửa chữa, sẽ suy yếu và tự diệt. Thế giới đang
mắc phải đám cháy to lớn, nếu tôn giáo cứ tiếp tục hoạt
động riêng rẽ thì chỉ là 1 gáo nước, còn hợp lại sẽ trở
thành một khối nước khổng lồ để cứu nhơn sanh và chúng ta
khuyên Cao Đài giáo tiếp tục sứ mạng của họ."
5/- Truyền Đạo tại các nước khác :
Ở Thái Lan, Ai Lao, Ấn Độ và nhiều nơi khác đều có truyền
đạo nhưng thiếu nuôi dưỡng hoặc ảnh hưởng hoàn cảnh bên
ngoài nên không bành trướng được.
Chẳng hạ, vào những năm 1936, 1937, nhà thần bí triết học
Đức có liên lạc thư từ với Tòa Thánh Tây Ninh, xin tài
liệu về Đạo Cao Đài để tham khảo. Hậu quả của việc đó là
năm 1940-1941 Đạo Cao Đài bị nghi ngờ là có liên lạc với
Đức quốc xã nên các chức sắc đại Thiên phong bị bắt. (4).
Từ năm 1961, tạp chí National geographic số tháng 10, có
đăng bài biên khảo của Peter White phân tách về giáo lý
Đạo Cao Đài. Đồng thời bác sĩ Quinter Lyon thuộc đại học
đường Missisipi cũng viết bài "The great religion" để làm
tài liệu tham khảo cho trường.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(4 )Các Thánh Thất Cao Đài trên nóc có đắp
chữ vạn theo chiều đứng và tỉnh …………(ngược chiều kim đồng
hồ). Chữ vạn của quốc xã Đức nằm theo dấu nhơn và động
(cùng chiều kim đồng hồ). Pháp dựa vào chữ vạn để đàn áp
Đạo Cao Đài đó là một sự nhầm lẫn.
Năm 1962, ông Arthur Moor gửi thư đến Tòa Thánh Tây Ninh
xin tài liệu về Đạo, trong đó ghi nhận về việc cầu cơ đang
phổ phát. Cùng năm đó, bác sĩ H.B.Cyran ở Bollant cũng gởi
thơ xin tài liệu tham khảo về nền Tân tôn giáo.
Năm 1970, trong tập san nghiên cứu về Đông phương của
trường đại học Luân Đôn (Anh quốc), giáo sư R.B.Smith liên
tiếp trong 2 tập 2 và 3 (quyển 33) ông viết : Khai dẫn về
Đạo Cao Đài (phần I viết về nguồn gốc và lịch sử), phần 2
viết về tín ngưỡng và tổ chức giáo hội.
Ngoài ra, nhiều sinh viên Tiến sĩ, Cao học từ nhiều nước,
nhiều nơi trên thế giới như : Đức, Pháp, Mỹ … đều đến tận
Tòa Thánh Tây Ninh hoặc gởi thơ xin tài liệu giáo lý để
làm luận án tốt nghiệp. Nhìn chung, trong thời gian tương
đối ngắn, Đạo Cao Đài được phổ biến khắp năm châu, tuy nó
chưa phát triển đúng tầm vóc mong muốn của Hội Thánh, do
nhiều nguyên nhân bên trong như bên ngoài.
Song với niềm tin vô đối, người tín đồ Cao Đài nào cũng
thấy được Đạo mình sẽ thành theo ước vọng chung của nhân
loại.
Đọc qua các chương trên, độc giả nhận rõ mục đích tối cao
tối thượng của người tín đồ Cao Đài là MỘT TÔN GIÁO ĐẠI
ĐỒNG, phổ giáo mọi sắc dân. Nền Tân tôn giáo Cao Đài có
một quan niệm đúng đắn về vũ trụ.
Giáo lý Cao Đài nhìn nhận một Đấng tối cao, độc nhất, vô
nhị, tạo nên càn khôn vũ trụ và muôn loài vạn vật. Đấng ấy
là Đức Cao Đài hay Đức Chí Tôn mà Trung Quốc gọi là Ngọc
Hoàng Thượng Đế, Tây Phương gọi là Đức Chúa Trời …
Trong vũ trụ, chính Đức Cao Đài đã tạo ra vô số tinh cầu
và dùng quyền lực của riêng Ngài sinh ra vạn vật và con
người. Con người đó có điển linh quang Ngài ban cho nên có
tính thánh thiện và luôn luôn mong quay về ngôi vị cũ, nơi
cõi thiêng liêng hằng sống. Về thời gian, giáo lý Cao Đài
xác nhận có 3 nguơn : Thượng nguơn hay nguơn Thánh Đức,
Trung nguơn hay nguơn tranh đấu và Hạ nguơn hay nguơn Mạt
kiếp còn gọi là nguơn Tái tạo để trở lại nguơn Thánh Đức.
Thời gian trong mỗi tiểu thiên địa (con người) là một
kiếp. Kiếp ấy dài hay ngắn do quyết định của Bạch Ngọc
Kinh (công nhận con người có số mạng nhưng cũng cãi số
mạng được do công quả tu hành). Do quan niệm con người có
xác thân, chơn thần và linh hồn. Xác thân khi chết thì hư
hoại, chơn thần mới chuyển kiếp thăng vị, còn linh hồn vốn
là điển linh quang của Đức Chí Tôn nên trọn lành, trọn tốt
hướng dẫn chơn thần lên phẩm cao thăng. Đây là chỗ khác
với các tôn giáo cũ : cho rằng linh hồn chịu luật quả báo
luân hồi, đúng ra là chơn thần phần vô hình giống hình
tướng xác thân.
Thần học Cao Đài nhìn nhận có những tinh cầu tuyệt cao
trong không gian phù hợp với sự tiến bộ của các Đấng
thiêng liêng thượng đẳng ở cõi thiêng liêng hằng sống, nơi
sống chung cho nhân loại tu hành đắc quả. Cõi thiêng liêng
hằng sống còn có Ngọc Hư Cung nơi ngự của Đức Cao Đài và
Bạch Ngọc Kinh, Kinh đô hành giáo của chư Phật, Tiên … Đạo
Cao Đài cũng nhìn nhận có các tầng vô hình khác thấp hơn,
có thể chia làm 3 hạng :
- Thượng đẳng thiêng liêng : chư Phật, Tiên, Thánh.
- Trung đẳng thiêng liêng : chư Thần.
- Hạ đẳng thiêng liêng : chơn thần của bát hồn tập trung
nơi Trường Đình (sau khi chết) từ đó tùy theo tu nhơn
tích đức, cãi số mạng xấu ra tốt mà tiến lên Trung đẳng
hay Thượng đẳng thiêng liêng.
Về thế giới nhân loại (quan niệm nhơn sinh), Thần học Cao
Đài xác nhận là tùy theo sự tiến bộ và phong hóa của mỗi
nước mà canh cải cho phù hợp với sinh hoạt, tập quán địa
phương. Riêng về giáo lý thì phải y theo Pháp Chánh Truyền
và Thánh ngôn buổi đầu.
Như thế, bất cứ sắc dân nào, bất cứ chế độ nào, người tín
đồ Cao Đài cũng là người công dân lương thiện, giáo lý Cao
Đài cũng không hề phản khắc lại phong hóa truyền thống của
dân tộc nào.
Kinh điển tế tự buổi đầu của Đạo Cao Đài, nó chỉ phản ánh
địa phương Việt Nam, cúng lạy chỉ là hình thức bề ngoài,
quan trọng của tôn giáo là sự giác ngộ tâm linh, nên kinh
điển tế tự buổi đầu không phải là bức tường ngăn Đạo Cao
Đài truyền bá ra nước ngoài, Pháp Chánh Truyền, Thánh ngôn
đã được nhiều người dịch ra tiếng nước ngoài và đã được
nhiều giới trí thức Tây Phương hoan nghinh xin theo Đạo.
Việc tế lễ Đức Cao Đài và Phật, Tiên … theo luật không gì
trở ngại. Riêng Kinh Tứ Thời, ta giữ sắc thái địa phương
xuất phát với 2 giọng nam xuân (tức Majeur) và nam ai (tức
Mineur) nhưng phổ nhạc bằng Solfèze (tân nhạc). Lẽ đương
nhiên, kinh điển chỉ chú trọng tinh thần nội dung của
tiếng nước theo Đạo, chứ không theo tiếng Việt Nam. Phần
nghi lễ thuộc hình thức dễ dàng vượt qua. Lẽ khác, khi
theo Đạo người nước ngoài đâu chuộng hình thức mà họ
nghiên cứu tôn chỉ của tôn giáo ấy có phù hợp với tiến bộ
loài người không, giáo lý ấy có phản khoa học hay nó là
động lực thúc đẩy khoa học thăng tiến, Thần học của tôn
giáo ấy hợp lẽ với quan niệm nhân sinh không … Tôn giáo
nào cũng phải qua các màn lọc trên để vĩnh tồn. Đạo Cao
Đài đã vượt qua những thử thách đó (?)
Tóm lại, Đạo Cao Đài là một nền tân tôn giáo có tầm vóc to
lớn phát sinh trong thời đại nguyên tử phù hợp với ước
vọng của mọi sắc dân trên thế giới.
HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO - CHƯỞNG QUẢN VICTOR HUGO
- ÂU Á - LEO TOLSTOY
- CHÂU ÂU - LA FONTAINE
- CHÂU PHI - ARISTIDE BRIAND
- CHÂU MỸ - PEARL BUCK
- CHÂU Á - TÔN TRUNG SƠN
- LIÊN HIỆP ANH SHAKESPEARE
HỘI THÁNH NGOẠI GIÁO VÔ HÌNH
(Theo Les Messages Spirites) .
|