THỜ ĐỨC TIN CỦA NHÂN LOẠI
Sự xuất hiện của Đạo Cao Đài đã được kinh sấm báo trước,
là một tôn giáo được Đức Chí Tôn mặc khải toàn diện. Đạo
sinh ra là để cứu đời "tận độ chúng sanh" thoát khỏi bể
trầm luân.
Đạo Cao Đài sinh ra và lớn lên trong cái nôi gò bó chật
hẹp dưới hai tầng áp bức : nửa thực dân, nửa phong kiến.
Thế mà, Đức Chí Tôn phán truyền : "Độ dẫn hoài sanh"
"Hòa bình dân chủ tự do" , "Luật thương yêu, quyền công
chánh",Nam nữ bình quyền (có bao nhiêu Chức sắc nam
thì có bao nhiêu nữ), phá bỏ hủ lậu (Không vì nguyệt huyết
kỵ anh linh) để "tạo đời cải dữ ra hiền" (1). Và
Đức Chí Tôn đã dùng huyền diệu qua cơ bút lập Đạo :
Đó là những chiếc gai nhọn thọc thẳng vào chế độ thực dân
và phong kiến, dù Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
bày tỏ với Thống Đốc Nam Kỳ lúc đó (1927) là Blanchard de
la Brosse là Đạo Cao Đài chỉ thờ kính Trời (Dieu) chớ
không làm chính trị (2). Nhưng mật thám Pháp vẫn đàn áp
nhiều tín đồ, dẹp Thánh Tượng (3).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~~~
(1)Những tiêu đề tóm lược này xin đọc lại
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển.
(2) và (3)Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông. TN 1973, tr.53-54.
Lalaurette, Thanh tra Chính trị sự vụ và Hành chánh Nam
kỳ, và Vilmont, Tỉnh trưởng Tây Ninh (Administrateur des
Services civils, Chef de la province de Tây Ninh) đã theo
dõi Đức Quyền Giáo Tông và Phạm Hộ Pháp rất gắt gao được
đúc kết trong tập phúc trình "Le Caodaisme" (4) gồm 2 phần
-Phần I : (tr1-24) do Lalaurette viết lược sử và giáo
điều CĐ
-Phần II : (25-91) do Vilmont viết gồm tài liệu về phái,
kinh tế, xã hội, sự phân lý tôn giáo và chính trị.
Còn triều Nguyễn ra dụ cấm đạo : "Bảo Đại tự niên cấm
truyền giáo Trung kỳ" vì Đạo Cao Đài hô hào "Tự do dân
chủ" làm lung lay chế độ quân chủ phong kiến.
Thật ra, đạo ở trong nước, không thể tách khỏi xã hội nên
Giáo lý Cao Đài dựa theo sinh hoạt của con người hầu biến
đổi cuộc sống ngày một tốt hơn. Bởi lẽ đó mà Giáo lý Đạo
Cao Đài phù hợp với ước vọng thầm kín từ lâu của nhân
sanh. Đạo đã trở thành cái phao, con thuyền cứu độ trong
lúc họ bị phong ba bão táp bủa vây. Họ đến với Đạo Cao Đài
vì Đạo Cao Đài tận độ họ, vỗ về an ủi họ và tương lai sẽ
giúp họ có một cuộc sống tốt đẹp hơn cuộc đời cực khổ hiện
hữu. "Thầy đến lập nền Chánh giáo tại cõi Đông Dương là
cốt làm cho kẻ bị hiếp đáp đặng mạnh mẽ, kẻ hiền lương làm
thầy kẻ hung bạo" (5).
Giáo lý Đạo Cao Đài là những nguyên tắc hành động "Phổ độ
chúng sanh" chớ không phải những giáo điều suông. Người
tín hữu nào cũng hiểu rằng tu là làm giảm bớt đau khổ cho
chính mình và cho những người xung quanh mình, chứ không
phải tu vì Thượng đế hay làm cho Giáo hội thêm uy quyền.
Với quan niệm như vậy, người tín hữu Cao Đài sẵn sàng đón
nhận giáo thuyết Tam giáo, Ngũ chi với thành tâm thiện ý.
Họ đã thực thi lời Đức Chí Tôn dạy : Thương yêu và Công
chánh (Amour et Justice) mà không vì bản ngã tôn giáo.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(4)Le Caodaisme, Sài gòn 1933, 91 trang.
(5)Đạo sử quyển II, TN 1957 tr.248.
Họ có một đạo tâm sinh động và một nội lực mạnh mẽ để chịu
đựng khảo đảo của cuộc đời. Dù đời nêu lên "Cái Án Cao
Đài", dù đời cho Đạo là những mảnh vỡ của nền văn hóa
truyền thống (6). Những việc đó là những thử thách trên
đường tu học. Họ không trả lời nhưng có những bạn hữu của
họ hồi đáp cho khách bàng quan bằng "Cái Án Cao Đài" và
người tín hữu các tôn giáo trước cũng đã đi vào đi cuộc
đời với những nỗi "nhọc nhằn" như vậy. "Khi Thích Ca
truyền đạo, dân Braman cho là Bàn môn. Khi Lão Tử truyền
đạo thì đời cho là phù phép mê hoặc. Khi Chúa Jésus truyền
đạo thì dân Israel gọi là Tả đạo". (7)
Người ta bảo không thể nào "Qui Tam Giáo, Hiệp Ngũ Chi"
được. Bởi lẽ họ đã thâm nhiễm triết học Tây phương. Theo
Louis Millot, những ai muốn hiểu được người Đông phương
thì hãy xếp lại quyển "Phương pháp luận" (Discours de la
Méthode) của Descartes vì lý luận Đông phương và Tây
phương không cùng bản chất. Đông phương không có triết học
mà chỉ có Đạo học. Tất cả các nền tôn giáo lớn đều xuất
phát từ phương Đông, Đạo học Đông phương không trong không
ngoài, vừa là A mà vừa không phải là A.
Thần học Cao đài cũng mang tính hư hư thực thực đó.
Guglielmo Ferreco khi so sánh giữa nền văn minh phẩm và
nền văn minh lượng của Tây phương có viết :
"Dường như cái lý tưởng tiến bộ càng mập mờ bao nhiêu thì
càng có sức mạnh được nhiều người tin tưởng bấy nhiêu".
Thêm vào đó, G.Monod Herzen nhận xét : "Sự tổng hợp Đông
phương và Tây phương, nền tảng của sự thuần nhất loài
người là một vấn đề sinh tử, có lẽ là vấn đề khẩn thiết
nhất của thời đại" (La Synthèse Orient, base de l'unite
humaine, est une nécessité vitale, probablement la plus
immédiatement nécessaire à notre époque). (8)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(6)Kim Định, Căn bản Triết lý trong văn
hóa VN. Saigon 1967, tr.70.
(7)Đạo sử II, sđd tr.243.
(8)Confluences Orient-Occident, France
Asie N0100
Có người cho rằng không thể nào làm như Tôn giáo Cao Đài,
để chung Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử cùng trên một thiên
bàn được. Thật ra, "Tam giáo tuy có khác nhau ở chỗ lập
giáo và hành đạo nhưng đến chỗ cùng tột tuyệt đối thì cũng
gặp nhau ở chỗ lý tưởng, cho nên vẫn dung nạp được nhau.
Đó là cái đặc sắc của Tôn giáo Á Đông." (Trần Trọng Kim,
Phật giáo, Saigon 1958). Đức Khổng Tử đã nói : "Thiên
hạ đồng qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lợi" (Thiên
hạ tuy có nhiều đường khác nhau nhưng về một chỗ;
dẫu có trăm lo cũng gom về một mối). Cái moat
ấy là Thái cực, là tuyệt đối, còn vạn tượng chỉ là sự biến
hóa của cái một đó, mà cái một ấy là Thiên
Nhãn, tượng trưng cho Đấng Duy Nhứt.
Trong "La Fin d'un Mythe", Carlo Suarès nhận định một cách
sáng suốt như vầy : "Chân lý là sự tổng quát của hai
đối cực, chớ không phải sự đề cao cái này mà phủ nhận cái
kia. Đạo học Đông phương và Khoa học Tây phương đều cùng
sống trong một ảo tưởng như nhau". (La vérité est ;a
synthèse des deux pôles, mais non pas l'affirmation de
l'un au détriment de l'autre. L'Orient métaphysique est
dans la même illusion que lOccident scientifique).
Đông phương và Tây phương đều sống trong ảo tưởng nên đều
sai lầm như nhau. Nhân loại ngày nay đã xích lại gần nhau
vì "càn khôn dĩ tận thức" và "Đồng qui nhi thù đồ", cùng
gom về một mối Đại Đạo mà mỗi bên đi theo con đường riêng
của mình : Thống nhứt mà không đồng nhứt.
Theo Hubert Benoit : "cả vạn vật trong vũ trụ đều do sự
tổng hợp của Tam nguyên (ngôi Trung hòa), có hai nguyên
mâu thuẫn, một cái thuộc Dương (Thiện), một cái thuộc Âm
(Ác) cả hai cùng đứng trên một bình diện và có giá trị
bằng nhau, được một nguyên lý tối cao (Trời) điều hòa lại,
hòa giải hoặc chỉnh lại, bằng không, chúng sẽ tự hủy diệt
lẫn nhau". (Tout l'univers est ainsi créé par la synthèse
trinitaire, deux principes opposés, l'un positif, l'autre
négatif, situés sur la même plan et ayant la même valeur,
sont harmonisés, concillíes arbitré par un principe
suprême, sans lequel, ils s'annuleraient) (H.Benoit,
metaphysi que ét Paychanalyse, Paris 1945, trang 40).
Thánh Mahatma Gandhi đồng quan điểm với tôn giáo Cao Đài,
đã nói : "Tất cả những chân lý khác biệt nhau, khác nào
số lá trên cây, tuy mỗi lá có sắc thái riêng nhưng chung
qui ở trên một thân cây, cùng một gốc sống chung với
nhau". Chẳng khác chi ý bài Khai Kinh "Một cội sanh
ba nhánh in nhau". Nếu những ai phê phán Thần học Cao
Đài bằng cách chia ra từng phần mà không xem là một toàn
thể bất khả phân, tất cả đều do một Đấng Duy Nhứt, tùy
trình độ cao thấp của nhân sanh qua các thời kỳ mà Ngài
lập Đạo, là chưa hiểu được chủ trương tổng hợp của nền Đạo
mới này.
Đức Lão Tử dạy : "Người rành đạo thì không thích biện
lý, kẻ ưa biện lý là kẻ không rõ lẽ Đạo" (Biện giả bất
thiện, thiện giả bất biện). Chân lý Đại học không thể
chứng minh như khoa học mà chỉ khêu gợi, giác ngộ :
"Nói là không biết, mà biết thì không nói". (Ngôn giả
bất tri, tri giả bất ngôn). Đó mớilà Đạo tâm sâu kín.
Biểu tượng tổng hợp và thống nhất của tôn giáo hoàn cầu đó
là "Con Mắt trái mở rộng". Đó là đức tin chung đúc
ngàn đời không những của dân tộc khác trên thế giới tôn
sùng.
Thờ duy nhất một Con Mắt là thờ Chân lý tuyệt đối :
"Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể.
Quang thi Thần,
Thần thi Thiên.
Thiên giả Ngã giả"
"Tượng Thầy chẳng giống chi hết. Thầy vốn vô hình vô
ảnh. Thầy tốt đẹp chưa ngọn bút phàm nào vẽ đặng, nhưng vẽ
như Tượng thường tốt hơn là Tượng Ngũ chi" (Đạo sử II,
tr.229). Trên thế giới, nhiều tôn giáo, nhiều dân tộc sùng
kính Con Mắt. Trong Thánh Kinh Tân ước của Kitô
giáo có nhiều đoạn nói về Con Mắt. Thánh Mathieu, nơi
chương 6, điều 22,23 và Thánh Luc, nơi chương 11, điều 34,
35 đều viết : "Con Mắt là ngọn đèn rọi sáng thể xác.
Nếu con mắt lành thì cả thể xác được minh mẫn. Nếu Con Mắt
xấu thì cả thể xác sẽ ở trong U Minh (bóng tối)".
(L'Oeil est la lampe du corps. Si ton oeil est en bon
état, tout ton corps sera éclairé. Mais si ton oeil est en
mauvais état, tout ton corps sera đans les ténèbres).
Ở Hoa Kỳ, vào năm 1776, Ủy ban soạn thảo triện gồm 3 nhà
lãnh đạo Mỹ quốc là Thomas Jefferson, Benjamin Franklin và
John Adams với hình Kim Tự Tháp mà trên chót có "Con Mắt"
trong hình tam giác như các khung hình quanh Tòa Thánh
hiện nay. Họ giải thích rằng tiền nhân người Hoa Kỳ có
nguồn gốc từ Thượng Đế nên sự tiến bộ của nước Hoa Kỳ luôn
cần được sự phù hộ của Đức Thượng Đế.
Vì thế, người tín hữu Cao Đài theo chủ thuyết Đại Đồng
nhân loại, không hành động cái gì riêng cho mình mà
"quên mình làm nên cho người, giúp người nên Đạo"
(Theo Tứ đại điều qui).
Thật ra cái nguyên lý tối cao nhất điều hòa những mâu
thuẫn là Đạo, là Đấng Tuyệt Đối (Một Con Mắt), là Đấng
vĩnh cửu … vô ảnh giúp c nhân loại khỏi rã rời và chia rẽ.
(9)
Thiên Nhãn cũng chỉ là một tượng trưng mà thôi, tùy nước
tùy nơi mà con mắt khác nhau về hình thể nhưng thống nhất
về giáo lý : Tin Đấng Duy Nhất.
Đức Chí Tôn đã dạy : Đạo Thầy là vô hình, vô dạng, nhưng
cái lý vô vi ấy cần phải nương với hữu hình. Chẳng nên lấy
cái Có mà bỏ cái Không, mà cũng chẳng nên giữ gìn cái
Không mà quên cái Có. Bổn nguyên của Đạo Cao Đài là duy
nhất Thần với biểu tượng Thiên Nhãn. Còn những cách thể
bày biện ngoài Thiên Nhãn chỉ là sự biểu lộ lòng tôn kính
đối với hàng giáo lãnh của các tôn giáo đã có trước, cũng
nhằm để phổ độ chúng sanh bằng hình tượng siêu thoát.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(9)G.Gobron, Histoire et Phylosophie du
Caodaisme, Paris Dervy 1949, tr.196.
Thật sự có Trời (Dieu) không ? Trời ở đâu ?
Ta hãy nghe ông Trời phán truyền :
"Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền"
Hay: "Cùng nhau một (Đại) Đạo tức một Cha (Trời)"
(1)
Đó là tuyên ngôn của nền Đại Đạo gồm tất cả các mối Đạo để
tiến tới Đại Đồng Nhân loại vì con một nhà, anh em một
cha.
Lúc nào Đức Chí Tôn cũng có mặt dưới những hình thức lập
giáo khác nhau, Ngài cho biết '
"Thầy là Đức Jévovah của dân Hébreux, vì Chúa tể của quân
dân Israel, vị Thánh Vô danh của dân Do Thái, Đức Chúa Cha
của Chúa Jésus. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với danh hiệu
Cao Đài thì sẽ có cảm ứng ngay". (3)
Như vậy, đặt vấn đề có Trời, có Thượng Đế, có Chúa Cha hay
không thì nên quay lại tìm hiểu các tôn giáo mà Đạo Cao
Đài tổng hợp. Sự hiện diện của Đạo Cao Đài là tiếp nối đạo
Giatô và đạo Phật sắp mạt pháp vào năm 2000. Mạt pháp theo
Đức Hộ Pháp dạy không phải Tận thế mà đúng một giáp tới
một nền văn minh tôn giáo mới, một chu kỳ Đạo (*) . lúc
đó, Đức Di Lạc ra đời cứu rỗi con người. Ngài là biểu
tượng của nền văn hóa tổng hợp hoàn cầu. Ngài đầy đủ nhận
định về xã hội và kiến thức về con người để dẫn dắt nhân
loại đi trên con đường Đạo tâm Thánh Đức. Sự xuất hiện của
Đức Di Lạc như cuộc vận động mới làm sống lại những gì Đức
Cao Đài đã phán truyền : Nhân loại hiệp đồng, văn hóa khoa
học chỉ là một.
Trở lại vấn đề có Trời hay không? Vào thế kỷ II, nhà thiên
văn Ptolémé đã viết : "Có một sức mạnh nào đó phóng ra
từ ête vĩnh cữu của vũ trụ và truyền tới hết thảy những gì
bao quanh trái đất và có cái gì hoàn toàn phụ thuộc vào sự
thay đổi. Đó là những điều mà mọi người thấy rõ. Mặt trời
cùng với môi trường bao quanh nó, bằng cách nào đó, luôn
luôn truyền cái trật tự của mình tới tất cả những gì ở
trên mặt đất". (4)
Thầy Trang Tử cũng viết : "Ta thấy Trời xoay vòng, còn
đất thì duy trì mãi. Mặt trời, mặt trăng cứ xoay vòng liên
tiếp. Ta tự hỏi cái gì thống quản vũ trụ? Cái gì nối liền
vũ trụ? Cái gì tồn tại vô cùng và giữ cho các hành tinh
chuyển động mãi mãi như vậy?" Nhứt định phải có một
Đấng thống ngự vạn vật."Khi chưa có chi trong Càn Khôn
Vũ Trụ thì khí Hư Vô sanh có một mình Thầy". (5)
Vậy Đức Chí Tôn là Đấng Nguyên Thủy.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1)TNHT.I.TN1964 tr.5 (2) TNHT.I.
tr.13
(3) TNHT.I. tr.124
(*)Bài thuyết Đạo (Quyển I), tr.132
(4)Những bí mật của sự tiên đoán. Hà Nội 1977, tr.144
(5)TNHT.II.TN 1963, tr.62.
Vũ trụ không ngẫu nhiên mà có. Trái đất tự quay mà không
có điểm tựa, lại phân bốn mùa tám tiết, không ngừng nghỉ,
không sai một ly. Những hiện tượng đó buộc ta phải nghĩ
rằng có một vị Chúa tể thiêng liêng là Vô vi Thái cực, cái
"Vô danh thiên Địa chi thỉ", cái không tên mà là nguồn gốc
của Trời Đất. Cái Chân Hư ấy qui tụ điểm Chân nhứt (Jésus)
và ánh sáng nguyên thủy (A Di Đà Phật) mà nay gọi là Đức
Chí Tôn (Le Très-Haut).
Đứng trước vũ trụ huyền bí bao la, không ai mất đức tin
hoàn toàn. Hãy để cho tiếng lương tâm vang lên, thì đức
tin sẽ ló dạng. Sự hiện hữu của Trời là nhờ kinh nghiệm
trong cuộc sống, chớ không phải nhờ từ bên ngoài hay nhớ
lý luận. Rõ ràng nhất là khi công lý loài người vắng bóng
thì động lòng Trời, ta sẽ thấy sự diệu hữu của Ngài. "Có
lắm người tưởng rằng ta phải thấy Trời y như Trời đứng bên
này, còn ta đứng bên kia, đâu phải vậy. Trời với tôi chỉ
là một động tác thấy Trời của tôi" (Eckhart).
Đức Chí Tôn đã dạy : "Tuy con không thấy Thầy nhưng
nghe Thầy dạy thì con nên tin đó là sự thật". Vả lại
cơ thể của Tiên Phật là tinh tế, mắt thường đâu thể nhìn
thấy dễ dàng được.
Lắm người ngoài miệng nói không có Trời, nhưng gặp khó
khăn bất hạnh lại "kêu Trời" vì Trời là một Đấng Công
bình, toàn thiện toàn năng. Do đó, "nơi lòng Thầy ngự
động Thầy hay" (6). Thế nên, muốn tin có Trời, phải
sống phù hợp với Đạo lý để tâm ta có đủ tri giác nhận thức
một điều gì đó. Miễn sự tư duy đó là vô ngã biết thương
yêu kẻ khác vì cùng một cha chung, rồi lần lần ta sẽ thấy
có Trời ngự trong lòng ta.
"Ta chuẩn nhận Đức Thượng Đế như một anh linh tuyệt
đối, vô thỉ vô chung, toàn thiện toàn hảo, vô hình mà hiện
thực, như một thực thể toàn tri, vô sở bất tại. trong đời
tôi, hơn một lần, mỗi khi cõi lòng đau khổ, cái anh linh
toàn năng, cái LÝ tuyệt vời, cái hình ảnh Từ bi ấy đã phát
lộ đến với tôi đầy xót thương, an ủi, dường như để cho tôi
thấy là có Trời. TÔI CHO LÀ CÓ TRỜI, không phải như trường
hợp một thầy tu có đức tin vì có học Đạo, mà đây là trường
hợp của kẻ vô tín ngưỡng buộc lòng phải tin có Trời như
người bại trận."(7) Theo Théologia Germanica : "Trời
là một và phải là một. Trời là tất cả và phải là tất cả.
Vậy cái gì có nhưng không phải là Một không phải là Trời
và cái gì có nhưng không phải là Tất cả không phải là
Trời. Bởi vì Trời là Một và trên Một, là Tất cả và trên
Tất cả. Người nào mà vạn hữu không phải là Một đối với
mình, kẻ đó không thể tìm thấy sự thỏa mãn nơi Trời"
(trang 184).
Tóm lại, Trời không cao, không xa, không lạ với bất cứ ai.
Trời ở ngay trong lòng người "trong lòng Thầy ngự"
hay "Nhãn thị chủ tâm" cũng vậy. Thượng đến hằng
hữu ở khắp mọi nơi, nhất là nhữngnơi trầm luân khổ hải,
mất công lý. Nhờ thế người đa nghi mấy cũng phải tin,
người ác mấy cũng phải hiền, người yếu mấy cũng thấy mạnh.
Trong Thánh ý : "Các con nhỏ noi mà các con to lớn, các
con nhịn nhục mà các con hình phạt". (8) Nhờ tin có
Trời, sợ Trời, con người mới làm lành lánh dữ để khỏi bị
Trời hình phạt.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(6)TNHT.I.tr.87
(7)Dieu existe-t-il?Saigon 1972, tr.88 và 174.
(8)TNHT.I.tr 36
Tôn giáo Cao Đài phản ánh phong hóa xã hội Việt Nam. Tín
đồ đa số thuộc giới bình dân. Vậy ta tìm hiểu nơi mà Đạo
Cao Đài xuất hiện và trưởng thành xem dân chúng ấy có ý
niệm như thế nào về Đấng Toàn năng.
Sau khi khảo sát tục ngữ, phong dao Việt Nam, Thanh Lãng
đã lược ghi như sau :
1/- Ông Trời tự có, không ai dựng nên, nhưng tất cả vũ trụ
đều là tạo phẩm của ông Trời.
2/- Ông Trời điều động guồng máy vũ trụ, không việc gì xảy
ra trên đời này, dù việc thầm kín trong lòng người, mà
không do ông Trời.
3/- Ông Trời không cay ác độc địa, trái lại rất nhân từ,
nhất là đối với người lương thiện. (1)
Trong ngôn ngữ dân gian không thiếu những từ ngữ : Lạy
Trời, Ơn Trời, nhờ Trời, Trời giúp … Thế nên, họ rất
thương, rất mến ông Trời. Vì đó mới có danh từ: Đại Từ
Phụ, Cha, Thầy … rất gần gũi thân thương cảm hóa được tấm
lòng quần chúng. Nhờ đó, họ cảm ứng nồng nhiệt Đạo Mới mà
không có mãnh lực nào ngăn cản nổi.
Theo Lê Văn Siêu, "quan niệm siêu hình về Thượng Đế thời
xưa chỉ chất phác là có một Đấng Vạn năng ngồi trên chín
từng mây mà dưới này ai nói gì cũng nghe, ai nghĩ gì cũng
biết cả (2) rất phù hợp với giáo lý Cao Đài.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(1)Thanh vãng, Văn chương bình dân, Saigon
1957, tr.227
(2)Lê Văn Siêu, Nguồn gốc Văn học VN, Saigon 1956, tr.76
Léopold Cadìere có quan niệm gần giống như vậy : "Ý nghĩa
về một Đấng Toàn năng đã được phát triển với ảnh hưởng của
các tư tưởng Trung Hoa, nhưng ngay từ khởi thỉ, trong ý
thức VN đã có sẵn mầm móng của ý niệm đó rồi" (3)
Có lẽ Hoàng Trọng Miên viết rõ về ông Trời :
"Ngày xưa, trước tất cả mọi sự, đã có ông Trời. Trời là
một bậc quyền phép vô song, ở trên cao, làm ra tất cả :
Trái đất, núi non, sông biển, mưa nắng; sinh ra tất cả :
Loài người, muôn vật, cỏ cây … Từ mặt trời, mặt trăng, các
ngôi sao trên Trời cho đến vạn vật ở mặt đất, tất cả đều
do Trời tạo nên.
Trời có Con Mắt, thấy tất cả, biết hết mọi sự xảy ra ở thế
gian. Trời là cha đẻ của muôn loài, xét đến muôn việc,
thưởng phạt không bỏ ai. Do đó mà con người tin có đạo
Trời, nhờ Trời, cho là Trời sinh, Trời dưỡng và đến khi
chết thì về chầu Trời …
Giang sơn của Trời từ mặt đất lên đến trên cao có Chín
Tầng Trời và chỗ giáp với đất, ấy là chân Trời. Trời vô
hình, không nói, nhưng người ta tin là ở đâu đâu cũng có
mặt của Trời, không một ai tránh khỏi lưới Trời, mọi việc
đều do Trời định.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(3)Nguyễn Đăng Thục, Tư tưởng VN (dẫn
lại), Saigon 1964, tr.258
Ông Trời của Việt Nam thời cổ cũng gọi là Ngọc Hoàng
Thượng Đế. Ngọc Hoàng ở trong Cung điện giống như Cung
điện nhà vua dưới trần đã bắt chước làm theo. Ở cửa điện
có một vị Thần mặc áo giáp cầm côn giữ cửa. Ngọc Hoàng hợp
triều tại đây, triều đình cũng không khác gì hạ giới, chư
Thần Thiên cung, đạo quân nhà Trời để trừng phạt những
Thần linh ngỗ nghịch.
Vợ Ngọc Hoàng là Tây Vương Mẫu ở núi Côn Lôn, cùng một đàn
Tiên nữ. Tây Vương Mẫu có một vườn Đào, cứ 3000 năm trái
chín một lần, ăn vào thì được trường sanh bất tử.
Cõi trời chia ra 9 tầng, các vị Thần tùy chức tước mà ở
theo thứ tự mỗi tầng. Ngọc Hoàng là bậc tối cao, ở tầng
thứ nhất" (4)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(4)Hoàng Trọng Miên, VN Văn học toàn thư
(Q.I) Saigon 1959, tr.61
Đó là ông Trời theo quan niệm của dân gian.
Đọc kinh điển Cao Đài giáo, ta thường thấy câu này:
"Tùy theo trình độ tiến hóa của nhân sanh mà thay đổi cho
phù hợp". Thế nên, Đức Chí Tôn của Đạo Cao Đài không
da vàng mũi tẹt hay da trắng mũi cao mà vô hình vô ảnh
"Vô vi nhi dịch sử quần linh" (5) không hình mà điều
khiển cả nhân sanh. Đức Chí Tôn không hề có vợ hay con
như quan niệm thấp thỏi của dân gian.
Dưới tay của Đức Chí Tôn có cả một triều nghi tức là Thiên
triều, còn gọi là Ngọc Hư Cung, cầm quyền cai trị toàn cả
thế giới vô hình và hữu hình, chẳng có mảy lông nào lọt
qua lưới Trời. Đó là về mặt "Công", về mặt "Tư", Thượng Đế
là Đại Từ Phụ, Đấng Cha Lành của mọi chúng sanh. Lúc nào
Ngài cũng Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả, thương toàn nhân
loại và "Thầy cấm từ đây các con nếu không đủ sức
THƯƠNG YÊU nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau"
(TNHT.II, tr.69). Thượng Đế là Thiên Thượng, còn nhân loại
là thiên hạ. Hai khối ấy luôn luôn tương hiệp, tương sanh
để thế giới vĩnh hằng. Tuy hai mà một, tuy một mà hai,
trong ý niệm "Thầy là các con mà các con là Thầy". Nói
cách khác, Thượng Đế là Đại Linh Quang, con người là Tiểu
Linh Quang do Ngài phân tánh cho ta. Nói rộng hơn, Thượng
Đế là khối Đại Lương Tri (Conscience universelle) gồm tất
cả Lương tri của nhân loại.
Thượng Đế là Thái Dương, chủ Dương quang. Phật Mẫu là Thái
Âm, chủ Âm quang. Phật Mẫu chuyển hóa Âm Dương tạo thành
chúng sanh :
"Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh,
Càn khôn sản xuất hữu hình
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh". (6)
Trên đây là ý niệm về Trời của người bình dân Việt Nam.
Còn đối với các tôn giáo mà Đạo Cao Đài tổng hợp có quan
niệm thế nào về Thượng Đế ?
Kitô giáo cho Đức Chúa Trời chỉ là một cá nhân siêu phàm,
có xác thịt nhưng toàn năng. Ai ai cũng phải chịu phán
đoán tối hậu của Đức Chúa Trời, làm lành thì được hưởng
phước, làm dữ sẽ bị hình phạt đời đời.
Đạo Phật cho Phật là chân lý siêu việt. Thật ra học thuyết
Đại Thừa có ý niệm về Trời. Về hình thức suy cứu với căn
bản triết lý và dưới hình thức bình dân theo thuyết đa
Thần giáo, cho Phật chỉ là một khuôn mặt của Thượng Đế.
Đại Thừa cũng cho rằng Bồ Tát ngự ở vị trí cao nhất nên Bồ
Tát vốn là một ngôi với Thượng Đế. Trong câu niệm : Nam
mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát", xác nhận
Đại Bồ Tát là Đức Thượng Đế.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(5)Kinh Lễ. Paris Gasnier 1052, tr.18
(6) Kinh Lễ. Paris Gasnier 1052, tr.101
A Di Đà Phật (Adi Boudha) là vị Phật tối sơ, còn gọi là
Tối Thắng Phật, đã lấy cái trí hóa ra 5 vị Phật khác gọi
là Dhyani Boudha. Năm vị này tự tính luân thân hóa ra 5 vị
Bồ Tát, đó là Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Quan
Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapâni
Bodhisattva).
Giáo lý của bà La Môn giáo (tức Aán Độ giáo) không giống
giáo lý Kitô giáo và Phật giáo. Bà La Môn giáo không phủ
nhận có một Đấng điều khiển vũ trụ. Mọi người được tự do
muốn tin Đức Chí Tôn là Brahma, Siva hay Christna (Hiện
thân của Vishnou) cũng được.
Phái cổ Phệ Đà tin có Đấng Tối Cao, chẳng tùy thuộc không
gian, thời gian và nhân quả. Phái nhứt nguyên (advaita)
dạy : Nhờ có Đức Brahma mà người Bà La Môn mới biết mọi
việc. Không có Trời ban hơi thờ cho ta thì ta không sống
thêm một giây nào. Ta sống là nhờ Trời. Trời là tinh túy
của vạn vật trong hoàn vũ, là nguồn suối phát xuất linh
hồn. Không một ai ở thế gian tự hào là mình biết Trời.
Chuyển sang Trung Hoa, dân tộc này tin có ngôi Thượng Đế
thống ngự vạn vật. Đấng ấy ngự tại sao Bắc Đẩu điều khiển
cả thế gian, không tùy thuộc vào ngôi nào, có đầy đủ quyền
uy.
-Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vọng. (Theo ý
Trời thì còn, trái ý Trời thì mất).
-Mưu sự tại nhân, hành sự tại Thiên. (Tính việc ở người,
thành việc do nơi Trời).
-Tác thiện, Thiên giáng chi bá phúc, tác bất thiện,
Thiên giáng chi bá ương. (Làm lành, Trời ban trăm điều
phước, làm ác, Trời cho trăm tai ương).
-Tri mạng chi nhân kiến lợi bất động tâm, tử bất oán.
(Biết mạng Trời, thấy lợi không động lòng, thấy chết
không oán hờn).
Xem thế, các dân tộc trên thế giới như các tôn giáo đã ra
đời đều tin có một Lý Tuyệt đối, tối cao, siêu nhiên mà
loài người không ý niệm nổi. Dù hoài nghi thế nào, vũ trụ
và con người đều bị một định luật khắc khe thống quản.
Đấng điều khiển ấy là Đức Chí Tôn, là Thế Tôn, là Ông
Trời, là Đức Chúa Trời … tùy theo quan niệm của mỗi dân
tộc.
Tôn giáo Cao Đài bám chặt cội rễ vào đất nước, nơi mà Đạo
xuất hiện và đơm hoa kết trái. Đạo cực lực phát huy và
triển khai các thành ngữ "Trời cao có Mắt. Ý dân là ý
Trời"
"Ý dân là ý Trời" nghĩa là sao ? Theo Kinh Cảm Ứng, cầu
tất linh, cảm tất ứng. Nghĩa là trong một đàn cúng lễ
chẳng hạn, mọi người đều nguyện cầu "Thiên hạ thái bình".
Những ý tưởng đó bay lên cao động lòng Trời và Trời theo ý
muốn của nhân sanh mà ban ơn lành cho "Thiên hạ thái
bình".
Người Đạo Cao Đài phát triển "Ý dân là ý Trời" thành "Trời
người hiệp nhứt". Khi bước vào cửa chánh Đền Thánh, ta
thấy hình Tam Thánh, đại biểu cho cả ba nước "gần gũi"
Việt Nam nhất, đứng ký Thiên Nhơn hòa ước, còn gọi là Đệ
Tam Hòa Ước.
Tiêu đề là :Thiên Nhơn hiệp nhứt (hai chữ Hán viết là
Thiên thượng Thiên hạ và hai chữ Pháp là Dieu et
Humanité).
Nội dung là : Thương yêu và công chánh (mà nguyên ngữ bằng
chữ Pháp là : Amour et Justice).
Vậy muốn Trời Người hiệp nhứt phải làm sao ? Phải nhờ đồng
tử làm trung gian mà trong Đạo gọi là Thập nhị Thời quân.
Giáo lý Cao Đài xác nhận con người có linh hồn vì nếu
không có linh hồn thì cũng không có Đạo Cao Đài. Nói cách
khác, linh hồn là một Tiểu Linh quang của Đức Chí Tôn
(Ngài là Đại Linh quang) phân tánh ban cho (TNHT.I.tr.95)
nên khi tâm ta động hay ước nguyện điều gì thì Đại Linh
quang của Ngài sẽ cảm ứng ngay vì cùng một tầng số vi ba,
một nguồn gốc hóa thành. Chẳng khác gì trung tâm điện
toán, một tế bào quang điện nhiễu động thì trung tâm có
phản ứng ngay. Chính nhờ đó mà Đạo Cao Đài mới thông linh
được các Đấng vô hình qua cơ bút.
"Khoa học cũng làm sáng tỏ việc não bộ của con người phát
ra các làn sóng điện từ có cùng đặc tính của những sóng đã
ghi được trong bầu trời". (1)
Kinh Dịch có viết "Dịch giả ? Thiên Nhơn tương hợp nhi dĩ
hỉ" (Dịch là gì? Cái lẽ Trời Người cùng hiệp đó mà).
"Khởi nguyên của sự sống là sinh lực (bióenergie) và là
năng lượng khí (énergie). Chung quanh khoảng không vũ trụ
còn có trường hấp dẫn, trường điện tử, trường sinh học,
trên khoảng chân không còn có một dạng thứ tư của vật chất
là Plasma của vũ trụ và Bioplasma của sinh vật. Chính
những dòng Plasma vận hành trong cơ thể con người giao
lưu cùng vũ trụ" (VS-Tinh Khí Thần của tư tưởng Đông
phương).
Việc phù cơ thỉnh Tiên đã có từ thời đại Lý Trần và có lâu
đời ở Trung Hoa. Trước khi Đạo Cao Đài xuất hiện, phái
Minh Sư ở Trung Hoa do cơ bút đã truyền bá câu :
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1)Những bí mật của sự tiên đoán, Hà Nội
1977, tr.150
Đến thời Pháp thuộc, báo chí chữ Pháp phổ biến phương pháp
xây bàn (la table tournante), các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm
Công Tắc theo đó mà làm và vô hình trung bắt điển thiêng
liêng truyền Đạo.
Ta có thể nói, Đạo Cao Đài phát sinh dựa trên hai nền tảng
:
1/- Xã hội tính Việt Nam chung đúc trên 4000 năm văn hiến.
Đó là văn hóa Phật, Khổng, Lão, sau cùng là Kitô giáo. Đạo
Cao Đài cố gắng làm sáng tỏ phong hóa VN : Nam phong thử
nhựt biến nhơn phong.
2/- Khoa học tâm linh như Thần Linh học, Thông Thiên học,
nhất là phong trào xây bàn ở Châu Aâu tràn vào nước ta vào
đầu thế 20. Như thế, đức tin người Cao Đài có cơ sở, đâu
phải huyễn hoặc mê tín. Đạo Cao Đài là một tôn giáo tiến
bộ có đủ năng lực giải thoát con người tiến đến cõi Thiêng
liêng hằng sống.
Việc cầu cơ thỉnh Tiên hiện nay trên thế giới, ngoài nước
Trung Hoa lâu đời, còn có Pháp, Anh … nhất là Mỹ. Theo báo
Nation (1991) người ta cầu cơ nơi trống thuộc nhà thờ Đạo
Do Thái ở New York nhân ngày giỗ của cô đào Marilyn Monroe
(tự tử ngày 5-8-1962), hồn cô về cho biết "cô uất hận vì
đã bị dòng họ Kenedy ám sát".
Việc xây bàn bắt đầu từ năm 1847 ở nông trại Hydesville
thuộc tiểu bang New York, Mỹ quốc, tại gia đình họ Fox.
Theo lời bà Fox, một hôm bà nghe tiếng đập cửa. Bà liền
nói "Hãy đếm đến 20" thì tiếng đập đủ số 20. Bà liền nói
nếu hồn linh thì đập 2 tiếng, được đáp y như lời. Sau đó
hồn linh cho biết mình tên là Charles Haynes, làm phu
khuân vác bị chủ nhà giết chết và chôn trong hầm trại. Ông
Fox đào lên thấy xương tóc của người chết.
Tiếng đồn người sống nói chuyện với hồn linh vang khắp
nước Mỹ.
Năm 1852, Hội nghị Thông linh học (Congrès spirite) mở ra
lần đầu tại Cleverland. Số người theo Thông linh học lên
đến 3 triệu người vào năm 1854, trong đó có hơn 1 vạn đồng
tử. Phái đoàn đồng tử Mỹ sang Anh, Đức, Pháp gây phong
trào Thông linh rộng lớn tại những nước đó.
Ở Pháp, bà Girardin phổ độ cho văn hào Victor Hugo (Sau
đắc phong Chưởng Đạo Hội Thánh Ngoại giáo Cao Đài) về việc
xây bàn khi ông ra đảo Jersey. Sau đó Allan Kardec hệ
thống hóa Thông linh học phù hợp khoa học chân xác ngày
nay.
Non một thế kỷ, việc xây bàn từ Pháp mới truyền sang nước
ta, được các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài
Sang tiếp nhận, học tập xây bàn. Vô hình trung họ đã làm
trung gian cho Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế khai Đạo ở Việt
Nam.
Quay sang nước Nhật, từ thời vua Minh Trị Thiên Hoàng Đạo
OMOTO (Đại Bản) cũng được sáng lập bằng huyền diệu cơ bút.
Năm 1935, Hội Thánh Đạo OMOTO có phái giáo sĩ sang VN liên
lạc với ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh năm 1955, phái đoàn Cao
Đài sang dự hội nghị tôn giáo quốc tế tại Nhật, được ông
Sao Deguchi, Giáo chủ Đạo OMOTO tiếp đón. Ông nói cơ
bút của Hội Thánh OMOTO cho biết Đạo Cao Đài sẽ xuất hiện
tại VN (2)
Bên Ý, vào năm 1984, Luật sư Sados Albertini, một tín hữu
Kitô giáo, có đứa con trai tên Andrea bị chết oan. Hồn hắn
về thông tin cha và bà đồng tử Anitac. Luật sư tổng kết
những điều kỳ diệu mà ông giao tiếp với con viết thành
quyển "Thế giới bên kia tồn tại". cuốn sách bán hết trong
10 ngày và phải in lại đến lần thứ 24. Sách được dịch ra
nhiều thứ tiếng : Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển,
Pháp. Ông đã nhận được 5000 là thơ chứng tỏ họ bị thuyết
phục về huyền diệu của Thế giới vô hình.
Luật sư Sardos Albertini viết "Tôi tin ở Chúa. Tôi tin
ở Giáo hội. Các thông báo của Andrea (linh hồn người chết)
đều hoàn toàn thích hợp với những điều Giáo hội răn dạy,
chính vì vậy, tôi tin vào Andrea".
Về Andrea cho biết "Bãi chăn thả lớn các linh hồn đi
theo ánh sáng vô tận của Thần Thánh … Một linh hồn chỉ
biết những gì mà Thượng Đế thông đạt". (3)
Những điều vừa trình bày trên chứng tỏ rằng thế giới vô
hình và sẵn sàng liên lạc với người còn sống. Ngay từ buổi
đầu lập giáo, Đạo Cao Đài luôn luôn được Đức Thượng Đế phò
trợ. "Muốn đến với Thầy thì cầu nguyện. Thầy không bao
giờ không cảm ứng với những lời cầu nguyện chân thành"
(4) và "Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các
con chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa". (5)
Những lời phán truyền đó nói lên "Trời Người hiệp nhứt"
trong ý niệm lưu truyền lâu đời "Có Trời mà cũng có Ta"
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(2) Lịch sử Cơ bút Đạo Cao Đài, Sài gòn,
Hồn Quê 1967, tr.37
(3) Dẫn lại trong Đặc san "Mùa xuân thi ca". Nhà XB Hội
Nhà Văn VN năm 1992, tr.43-44
(4) TNHT.I.sđđ, tr.124
(5) TNHT.I.sđđ, tr.18
Đức Chí Tôn lại dạy : "Sự nào về Đạo mà vừa lòng trong
cả chư Chức sắc và tín đồ, ấy là hiệp Thiên ý. Còn điều
nào mà phần nhiều môn đệ của Thầy chẳng khứng chịu theo,
ấy là bất hiệp Thiên ý đó" (6). Câu ấy có khác gì câu
: Ý dân là ý Trời.
Nhờ đó, bao nhiêu khó khăn thử thách trong buổi đầu đều
được Đức Chí Tôn hiển linh qua cơ bút chỉ vẽ, giải quyết
mọi vấn đề. Chỉ một thời gian rất ngắn, cơ chế Đạo đã hình
thành : Pháp Chánh Truyền, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Cửu
Trùng Đài …
Những điều huyền diệu linh hiển của cơ bút thì vô ngần
không kể xiết. Từ việc dạy Ngũ chi Minh đạo về hiệp nhứt,
tới việc trị bịnh điên, bịnh thời khí, đều đạt kết quả
tốt. Nhờ đó, Đạo khai không bao lâu, số người theo Đạo lên
tới non triệu.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(6)TNHT, sđđ, tr.47
Trong Tòa Thánh, trên Cung Đạo, có Bát Quái Đài xây thành
12 bậc, tượng trưng cho Thập nhị Khai thiên. Từ lúc giáng
trần, Đức Chí Tôn ngự tại Tòa Thánh. Nếu có nơi nào nói là
Ngài giáng, đó chỉ là phân tánh của Ngài do lời cầu khẩn
của nhơn sanh mà thôi.
Trên mặt Bát Quái có vẽ các quẻ và tạo quẻ Càn Khôn tượng
trưng cho sự thống nhất các tôn giáo trên hoàn vũ (vạn thù
qui nhứt bổn) , ở giữa quả Càn Khôn vẽ Thiên Nhãn (con mắt
trái mở rộng).
Đức Chí Tôn dạy việc thờ Ngài như sau :
"Một quả Càn Khôn như trái đất tròn quay. Bề kính tâm
(đường kính) 3,33 mét, sơn màu xanh da trời. Cung Bắc Đẩu
và tinh tú vẽ lên quả Càn Khôn,. Thầy kể Tam thập lục
thiên, Tứ Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, còn
Thất thập nhị Địa, tam thiên Thế giới đều là tinh tú (hành
tinh). Tính lại 3072 ngôi sao, liệu vẽ trên đó cho đủ,
trên sao Bắc Đẩu vẽ con Mắt Thầy. Đáng lẽ quả Càn Khôn
phải bằng pha lê, đúc bên trong một ngọn đèn thường sáng.
Aáy là lời cầu nguyện rất quí báu cho cả nhơn loại".
(Đàn cơ đêm 17-6-1926)
Xem thế, quả Càn Khôn không chỉ là trái đất mà gồm cả
Thiên cầu (2). Các tinh tú nói trên xa gần khác nhau,
nhưng trong đêm mắt ta thấy như ghi trên một hình cầu màu
xanh rất lớn (3), đó là Thiên cầu, vì người ở nước VN (gần
địa xích đạo) nên thấy sao Bắc Đẩu nằm ngang trên đường
chân trời (tức ngang tầm mắt) chớ không phải Thiên Nhãn vẽ
trên địa xích đạo.
Còn ngọn đèn thường sáng, đó là giả mượn Tâm đăng, Phật
Tiên truyền Đạo cũng do đó, nhân loại thành Đạo cũng ở đó.
Ngọn đèn Thái Cực để ở ngay chính giữa Thiên cầu, không
lay động, không xao xuến, chiếu soi khắp cả Càn Khôn. Mặt
trời, Mặt trăng có lúc sáng lúc tối (đối với con người)
chớ đèn Thái Cực, nơi Thầy ngự thì giờ khắc nào cũng tỏ
rạng. Nhơn vật từ đó mà sanh, từ đó mà thành, nhờ đó mà an
vui. Vũ trụ nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập
Thánh. Đó há không phải là lời cầu nguyện rất quí báu cho
cả nhơ loại hay sao?
Mặt khác, ngọn đèn cũng biểu trưng nguồn sáng nuôi sống
nhơn loại. Đèn tắt là thời kỳ mạt kiếp tới. Khoa học nhận
vũ trụ hiện đang ở thời kỳ nở ra (période de dilatation).
Mọi vật đều dãn ra cùng một nhịp (4). Do đó, các tinh tú
ngày càng xa nhau, đến một lúc nào đó, điều kiện sống
không còn, vạn loại sẽ đến thời kỳ mạt kiếp. Cho nên người
tín đồ Cao Đài luôn luôn thắp sáng (sưởi ấm) trên Thiên
Bàn để cầu nguyện cho nhơn loại trường tồn.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(2)Quả Càn Khôn chỉ tạc thờ tại Tòa Thánh,
còn các Thánh Thất thờ Thiên Nhãn.
(3)Do hiệu quả của phép phối cảnh.
Tại sao Thiên Nhãn tượng trưng cho Thượng Đế ?
Đức Chí Tôn dạy như vầy : "Chưa phải hồi các con biết
đặng tại sao vẽ Thánh tượng con Mắt mà thờ Thầy, song Thầy
nói sơ lược :
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên
Thiên giả ngã giả"
Nghĩa là :
Mắt là chủ cái Tâm
Hai yếng sáng trong mắt là chủ tể,
Yếng sáng là Thần,
Thần là Trời
Trời là TA vậy.
Đức Chí Tôn lại dạy :
"Từ ngày Đạo bế, tu thì nhiều mà người đắc Đạo rất ít
vì Thần là cơ mầu nhiệm mà lại bị biếm. Nay Thầy đến hườn
nguyên Tam Bửu cho các con đắc đạo. Các con hiểu thần cư
tại nhãn, thì nên bố trí cho đạo hữu các con hiểu. Nguồn
Tiên Phật yếu nhiệm tại đó".
Cổ thư có nói : Mắt là nơi chứa Thần. Ngoài con Mắt ra
không thể chỉ Thần ở đâu cả, nếu không thì Thần người
không chỗ nào là không có Thần. Lông tóc không có Thần thì
xỉn nháp mà vàng, răng không Thần thì không sáng bóng,
tiếng nói không có Thần thì không thể hài hòa, móng tay
chân có Thần mới sáng sủa". (Hải Thượng tập Đạo Lưu Dư
Vận, Saigon, Khai Trí 1972).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(4)Đường dài nào trong vũ trụ cũng nở thêm
chừng 0,000.000.01% mỗi name
Như vậy, thờ Thiên Nhãn (tức thờ Thần) là cách diễn đạt bí
pháp muốn đắc đạo phải có Thần mới hườn nguyên với đệ nhị
xác thân mà nhập cảnh Thiêng liêng hằng sống. Đức Chí Tôn
đã dạy : "Con Mắt là gốc ở Tâm". Dân Pháp cũng nói "Con
Mắt là kiếng soi tâm" (L'oiel est miroir du coeur).
Như vậy, con Mắt tượng trưng cho lương tri, lương tâm
(conscience). Cả vạn vật hợp lại thành khối đại lương tri,
đại lương tâm (conscience universelle) tượng bằng Thiên
Nhãn, nên thờ Thiên Nhãn là thờ Đức tin của nhân loại.
Trong Tứ thời lễ bái, lúc nào người tìn hữu cũng nhìn
thẳng lên Thiên Nhãn để soi tâm mình mà kiềm chế tục tánh
tội lỗi vì "Hoàng Thiên hữu nhãn" (Trời cao có mắt). Trong
Tam giáo Thích, Lão, Nho đều lấy tâm tánh giáo hóa con
người. Tâm tánh có biết được là do "Lưỡng quang chủ tể"
tức cửa ngõ tâm hồn chủ đạo. Thế nên,
Phật giáo dạy : Minh tâm kiến tánh
Lão giáo dạy : Tu tâm luyện tánh
Nho giáo dạy : Tồn tâm dưỡng tánh
Trong Kinh Dịch cũng có câu : "Nhất nhơn chi tâm, tức
Thiên Địa chi tâm, nhân vật chi lý, tức vạn vật chi lý".
(Cái tâm của mỗi người là cái tâm của Trời Đất, cái lý của
mỗi người là cái lý của vạn vật).
Phải nhận rằng Đạo Cao Đài liên quan nhiều với các truyền
thuyết và tôn giáo Trung Hoa, nhưng không có tham vọng làm
y như người phương Bắc mà giản dị nó vừa tầm vóc với mọi
sắc dân. Người đệ tử Cao Đài có ước vọng tôn giáo mình sẽ
rộng hơn Di Hòa Viên và dài hơn Vạn Lý Trường Thành.
Dưới Bát Quái Đài có cái hầm gọi là Hầm Tàng Bửu Khánh,
tượng trưng nới chứa châu báu để cứu khổ nhơn sanh. Trên
nóc Bát Quái Đài thờ 3 ngôi Thần của Đạo Bà La Môn (Aán
giáo) là Brahma, Siva (Shiva). Christna (hay Vishnou)
tượng trưng cho Tam Thanh : Thái Thanh, Thượng Thanh và
Ngọc Thanh, ba phái trong Đạo Cao Đài. Ba Thần vâng lịnh
Đức Thượng Đế điều khiển ba ngươn, công thành quả mãn nên
đắc Phật vị.
-Phật Brahma, hướng mặt về phía Tây, điều khiển Thượng
ngươn tức ngươn Thánh Đức.
-Phật Siva hướng mặt về phía Bắc, điều khiển Trung ngươn
tức ngươn Tranh đấu, như lời cầu khẩn Đức Chí Tôn (vì
Thượng Đế ngự tại ngôi Bắc Đẩu) tế độ nhơn sanh thoát vòng
trầm luân.
-Phật Christna, hướng mặt về phía Nam, điều khiển Hạ ngươn
tức ngươn Bảo Tồn.
Đức Hộ Pháp có giảng về nhiệm vụ cao trọng của Phật
Chritna :
"Dầu cho những chơn linh nào chết nơi chân trời hay góc
bể đi nữa, nếu đầy đủ công nghiệp tâm đức thì được Phật
Christna (Vishnoun) lãnh lịnh Đức Chí Tôn mà rước chơn
linh ấy về ngay nơi Bạch Ngọc Kinh" Đức Hộ Pháp giảng thêm
: "Tòa Thánh là hình ảnh của Bạch Ngọc Kinh tại thế, tương
quan bí pháp nơi cõi thiêng liêng".
Tóm lại Cao Đài giáo chọn biểu tượng Thiên Nhãn để tôn thờ
vì lẽ Đấng Tối cao vô hình, vô ảnh. Nếu một vị Giáo chủ
bằng xương bằng thịt là người Tây phương sẽ làm người Đông
phương mặc cảm và ngược lại. Thế nên, hình ảnh thi phàm
mắt thịt là hàng rào ngăn cách khó có thể thực hiện một
tôn giáo đại đồng nhơn loại.
Lẽ đương nhiên, Cao Đài giáo nhất Thần tượng trưng bằng
CON MẮT TRÁI MỞ RỘNG. Còn những thể thức bày biện bên
ngoài Thiên Nhãn chỉ là sự biểu lộ lòng tôn kính đối với
hàng giáo lãnh của các tôn giáo, đồng thời giúp việc
truyền đạo được mau chóng.
Bình tâm mà nhận rằng, không tôn giáo nào chỉ duy nhất một
vị Thần mà phải nói là các tôn giáo có một vị Thần độc tôn
mà còn không biết bao nhiêu vị Thần khác bao quanh.
Hãy bình tâm nhìn cách thờ phượng chính thống tại Tòa
Thánh Tây Ninh. Ta thấy có hai phần rõ rệt : cái nhìn
ngang thấy được và cái ngẩng đầu lên mới thấy được.
1/- Cái ngẩng đầu lên là nơi thờ Thần Thánh Tiên
Phật trong Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ độ. Những Thần linh đã có
sẵn trong nhân dân các nước. Tam Kỳ Phổ độ tạc tượng thờ
là để kính trọng (Kính nhi viễn chi) để xác nhận các tôn
giáo đều có chung nguồn gốc. Các thức giả chắc thấy được
mỹ ý đó.
2/- Cái nhìn ngang đều thấy được là ngôi thờ các
Thần linh của Đạo Cao Đài. Từ Tam Thánh, Tam vị thiên sứ,
Bảy ngai : 1) Giáo Tông, 2) Chưởng Pháp, 3) Đầu Sư tới
Thiên bàn thờ quả Càn Khôn trên có Thiên Nhãn đều là thần
linh của Tam Kỳ Phổ độ.
Thánh thi, Thánh ngôn dạy hợp với trào lưu tiến hóa sau
thời Khai Đạo Cao Đài mới được chấp nhận. Lời của các bậc
Giáo lãnh phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Đạo Cao Đài
được trân trọng.
Thế thì, Đạo Cao Đài là Đạo Cao Đài, có bản sắc riêng của
mình. Khi làm lễ, Đức Chí Tôn dạy các đệ tử nhìn ngay vào
Thiên Nhãn mà không nhìn nơi nào khác. Lời dạy ấy có ai
còn dám bảo Đạo Cao Đài đa thần không?
"Không ai chối cãi rằng Đạo Cao Đài đã làm sống lại cái
quyền hạn tối thiêng liêng của con người với những tư
tưởng quảng đại và nhân từ. Họ đã đem đến cho dân chúng
Đông Dương một sự hấp dẫn mãnh liệt, nên đến năm 1931, họ
đã tập hợp trên một triệu tín đồ" (6).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(6) Báo Progrès Civique ngày 19-12-1931
1/- Càn Khôn là gì ?
QUẢ CÀN KHÔN không phải chỉ là Trái đất (Khôn) mà gồm cả
Thiên Cầu (Càn) trùm lên nhau, biểu tượng âm dương hợp
nhứt chi vị đạo". Vậy Đạo bao gồm cả Âm Dương, mà Âm Dương
là Thái Cực, mà Thái Cực là ngôi Đức Cao Đài. Chung qui
thờ Quả Càn Khôn là thờ Đức Chí Tôn. Thờ Âm Dương là thờ
sự biến dịch của vạn loài. Đó là triết lý cao khiết về mặt
tôn giáo và cả khoa học nữa. Bởi lẽ đời người ngắn ngủi,
con người chỉ là hiện tượng nhất thời phát sinh do tác
động giữa âm dương mà sinh thành. Nguyên tử cũng chỉ do sự
hóa hợp điện tử âm và điện tử dương mà sinh thành. Tất cả
mọi việc trong vũ trụ đều lấy Càn (Dương), Khôn (Âm) làm
điều kiện cơ bản. Vậy Càn Khôn là gì ? Càn Khôn là Đạo, là
Thái Cực, mà "Đạo sinh nhứt, nhứt vi Thái Cực" (Thiệu Tử,
Văn Ngữ Lục). Lí giải đơn giản :
- CÀN là Trời, là Vua, là Cha, là Chồng, là đầu, là cứng,
là lãnh đạo, là vàng, là băng, là thiên thể …
- KHÔN là Đất, là nhân dân, là vợ, là mẹ, là thuận tòng,
là mềm, là sắc vàng, là văn, là bụng …
Càn Khôn là âm dương trong Trời Đất. "Một âm một dương
quanh đi quẩn lại cái vòng tròn không đầu mối. Nói rằng âm
dương là Một (Thái Cực) cũng được, mà bảo là âm dương
thiên biến vạn hóa vô cùng tận cũng được" (Nhất âm nhất
dương nhi hoàn vô đoan. Vị âm dương khước thị thiên biến
vạn hóa nhi vô cùng diệc khả) (7).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(7) Hồ Cư Nhân, Dịch Tương Sao, quyển II,
tr.8
Chu Hy trong "Chu Dịch Bản Nghĩa" giải thích cụ thể hơn
"Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn rũ áo xiêm mà thiên hạ trị; đó là
lấy tượng ở quẻ Càn, quẻ Khôn" (Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn
thùy y thường nhi thiên hạ trị, cái thủ như Càn Khôn).
Trong Dịch Hệ thượng (Chương IV), Chu Tử chú giải về Càn
Khôn như vầy : "Đạo dịch chỉ là Âm (Khôn) với Dương (Càn)
mà thôi. U uẩn hay rõ ràng, sống hay chết, quỉ cũng như
Thần, tất cả đều là biến tướng của âm dương, là cái Đạo
của Trời Đất". Và ông quả quyết : "Cái Khí (mà khoa học
gọi là ÉTHER) bàn bạc khắp trong trời đất để biến hóa tạo
lập ra muôn loài, thực ra chỉ là hai khí âm dương trước
sau, suy thịnh mà thôi" (Doanh Thiên Địa chi giab, sở dĩ
vi tạo hóa giả, âm dương nhị khí chi thủy chung thịnh suy
nhi dĩ). Đức Chí Tôn cũng dạy : "Đạo Thầy không chi lạ,
không ngoài hai lẽ âm (Khôn) dương (Càn)"
Như vậy, hai động lực căn bản tạo thành vũ trụ là âm
dương. Nếu dương cực thì âm sinh, âm cực thì dương sinh.
Khoa vật lý cũng chứng minh rằng : một nguyên tử có hai
yếu tố căn bản là âm điện tử (électron) và dương điện tử
(proton) hoạt động nhộn nhịp chứ không im lìm. Nếu nguyên
tử chỉ có thuần một âm tử hay dương tử thì nguyên tử ấy
chẳng thể nào phóng xạ sinh hóa được. Giả dụ, nếu mạch
điện bị cắt một dây dương thì không thể nào tạo ra điện
năng được. Như thế, âm dương không thể tách rời. Âm dương
chỉ là hai trạng thái tịnh động của Lý Thái Cực, chu hành
trong vũ tụ cùng tác động với nhau để biến hóa vạn vật.
Chung qui "đạo vốn chỉ một âm một dương mà thôi. Trước
sau, đầu cuối, động tịnh, tối sáng, trên dưới,tiếnlui,qua
lại,đóng mở, đấy vơi, tiêu tưởng, tôn ti, quí tiện,biểu
lý, ẩn hiện, hướng bội, thuận nghịch, tồn vong, đắc thất,
xuất nhập, hành tàng; có cai gì thích hợp mà chẳng phải
một âm một dương?"(8) Vậy "Vật có gốc ngọn, việc có trước
sau" và có "Biết được trước sau mới gần được đạo"(9)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(8)Trần Thúc Lượng và Lý Tâm Trang, Tống
nguyên học án, quyển III, tr.643
(9)Tiền Mục, Tứ Thư thích nghĩa, tập II, tr.2
2/- Kinh Dịch giải về Càn Khôn ra sao ?
Trong Kinh Dịch phần Thoán truyện do Đức Khổng Tử viết có
đoạn : "Đức nguyên, Càn lớn, vạn vật bắt đầu từ Càn (nảy
nở) thống cả Thiên Đạo, Càn làm mây mưa khiến cho vạn vật
hình thành sinh trưởng. Bậc Thánh Nhân thấy cả trước sau,
cả 6 hào của quẻ thuần Càn, mỗi hào có một vị nên thuận
thời mà hành Đạo như cưỡi 6 rồng (ám chỉ 6 hào dương của
quẻ thuần Càn) mà thống ngự cả vùng Trời. Đạo Càn biến hóa
khiến cho Bậc Thánh Nhơn đứng đầu muôn vật, theo Đạo Càn
thì muôn nước đều bình an" (Đại tai càn nguyên, vạn vật tư
thủy, nãi thống thiên, vận hành vũ chí phẩm vật lưu hình.
Đại minh chung thủy, lục vị thời thành, thời thừa lục long
dĩ ngự thiên. Càn Đạo biến hóa, các chánh tính mệnh, bảo
hợp thái hòa nãi lợi trinh, thủ xuất thử vật, vạn quốc hàm
ninh)
Trong Hệ từ truyện, Thiên Thượng, chương 1 có viết "Đạo
Càn tạo thành người Nam, Đạo Khôn tạo thành người Nữ" (Càn
Đạo thành Nam, Khôn Đạo thành Nữ).
Câu : "Thời thừa lục long dĩ ngự thiên" như câu : "Thời
thừa lục long du hành bất tức" trong bài "Ngọc Hoàng
Kinh" , lại nữa Càn Khôn còn tạo ra con người. Vậy ta xét
Đạo Càn Khôn theo Kinh
Dịch như sau :
Theo quẻ Thuần Càn thì Càn có 4 đức tính : nguyên (đầu
tiên), hanh (thông), lợi (thích đáng), trinh (chính bền).
Trời có đức nguyên vì là nguồn gốc của vạn vật, có đức
hanh vì làm ra mây mưa để cho vạn vật sinh trưởng, có đức
lợi và trinh vì biến hóa làm cho mọi vật giữ được bẩm tính
và nguyên khí đặng thái hòa. Càn còn tượng trưng cho người
quân tử với 4 đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí.
Chu Công giải ngĩa 6 hàm của quẻ Thuần Càn thành 6 rồng,
con vật ngự của Đấng Chí Tôn như sau :
HÀO ĐẦU : Rồng còn ẩn náo chưa (đem tài) dùng được (tiềm
long vật dụng), tức rồng còn dưới vực sâu chưa lên mây nên
chưa biến hóa được. Ý nói : người chưa gặp thời thì nên
trau dồi hạnh đức, luyện thêm tài trí, ở ẩn không cần
danh, không ai biết mình thì cũng chẳng buồn.
HÀO HAI : Rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì
lợi (hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân). Người giúp
đời mà không khoe công lao, giữ được lòng thành tín và
được trung chánh gặp đại nhân thì lợi.
HÀO BA : Người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến
tối vẫn còn thận trọng, dù nguy hiểm nhưng không tôi lỗi
(quân tử chung nhật, càn càn tịch tịch nhược. Lệ vô cửu)
Người quân tử giữ lòng trung tín mà tiến đức lập ngôn, lấy
lòng thành lập nên sự nghiệp. Ở địa vị cao mà không tự
kiêu, ở địa vị thấp mà không lo lắng.
HÀO BỐN : Như rồng có khi bay lượn, có khi nằm vực, tùy
thời mà không lầm lỗi (hoặc được, tại uyên vô cửu)
Thận trọng tùy thời cơ, nên tiến thì tiến (như rồng bay)
nếu không thì chờ đợi (rồng nằm vực) chuẩn bị cho kịp lúc
ra giúp đời.
HÀO NĂM : Rồng bay trên ttrời ra mắt đại nhân thì lợi (Phi
long tại thiên lợi tiến đại nhân). mây bay theo rồng, gió
bay theo cọp. Ý nói Thánh nhân ra đời người người trông
theo.
HÀO CUỐI : Rồng lên cao quá có hối hận (kháng lạng hữu
hối). Rồng bay cao quá khó xuống, nếu hành động sẽ xảy ra
điều đáng tiếc vì cực thịnh tắc suy nên lui bước để giữ
đạo người quân tử.
Trên đây, quẻ Thuần Càn dạy người Nam, dưới đây quẻ Thuần
Khôn dạy người Nữ. Thật ra hai quẻ Càn Khôn đều dạy chung
con người.
Đạo Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng,
đức chính và bền của con người cái (nguyên hanh lợi, tấn
mã chi trinh) vì Văn Vương cho con ngựa cái có tính thuận
theo đực, như Khôn thuận theo Càn.
Càn tạo ra vạn vật ở cõi vô hình thuộc Khí, mà phải nhờ
Khôn, vạn vật mới tượng hữu hình rồi sinh trưởng. Cho nên
công của Khôn (Mẹ) cũng lớn như công của Càn (Cha), chỉ
khác là Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn.
Thế nên, các đức nguyên, hanh lợi, Khôn có đủ như Càn.
Riêng về đức trinh thì Khôn hơi khác : tuy chính và bền mà
phải thuận.
Chính vì Khôn có đức thuận mà mọi việc khởi xưởng đều là
Càn. Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người đời nếu ở
địa vị Khôn thì phải tùy thuộc theo người trên mà làm,
không nên khởi xướng mà lầm lỡ. Như thế, Đức Mẹ chở được
vạn vật cũng lớn sánh bằng Đức Cha.
Cái lý của 6 hào Thuần Khôn gần ý như vậy nên không bàn
thêm.
Thế thì, người xưa "Thấy Trời cao, Đất thấp mà lập ra quả
Càn Khôn động và tĩnh nhất định nhờ đó mà phân biệt được
cương nhu" (Thiên tôn, Địa ti, Càn Khôn định hỉ, động tĩnh
hữu thường, cương nhu đoán hỉ, Hệ Từ Thượng Truyện).
Tóm lại, "Đạo Càn lúc tĩnh thì chuyên nhất, lúc động thì
tiến thẳng, cho nên sức sinh của nó lớn. Đạo Khôn lúc tĩnh
thì nhu lại, lúc động thì mở ra, cho nên sức sinh của nó
rộng" (Phù Càn kỳ tĩnh dã chuyên, kỳ động dã trực, thi dĩ
đại sinh yên. Phù Khôn kỳ tĩnh dã hấp, kỳ động dã tịnh thị
dĩ quãng sinh yên. Hệ Từ Thượng Truyện, chương 6).
Nói cách khác "Đạo Càn mạnh nhất trong thiên hạ, đức hạnh
của Càn là làm việc gì cũng dễ dàng, bình dị mà vẫn biết
được chỗ nguy nan. Đạo Khôn nhu thuận nhất trong thiên hạ,
đức của nó đơn giản mà vẫn biết được được nơi trắc trở"
(Phù Càn thiên hạ chi chí kiện dã, đức hạnh bằng di, dĩ
tri hiểm. Phù Khôn, thiên hạ chi khí thuận dã, đức hạnh
bằng giản, dĩ tri trở. Hệ Từ Thượng Truyện, chương 12).
Qua lý giải trên ta nhận rằng : Đức Chí Tôn chọn quả Càn
Khôn tạo Thiên Nhãn làm ngôi thờ thiêng liêng cho toàn Đạo
đã nói lên ý tưởng cao xa huyền nhiệm vô biên. Càn Khôn
biến đổi vô thường như Dịch lý không ngừng tạo ra vạn loài
và "thống ngự vạn vật", hữu thỉ vô chung.
Xem thế, "Sự biến dịch của Càn Khôn uẩn ảo quá : Khi Càn
Khôn hình thành thì đã có dịch ở trong. Nếu Càn Khôn bị
hủy thì không thể có dịch, nếu dịch không thể phát hiện
thì Càn Khôn tắc nghỉ" (Càn Khôn hủy tắc vô dĩ hiện dịch.
Dịch bất khả hiện, tắc Càn Khôn hoặc, cơ hồ hỉ) (10).
Muốn Càn Khôn (âm dương) không xung khắc phải theo học
thuyết Trung Dung của Đức Khổng Tử mà Albert Einstein gọi
là "Thuyết Tương Đối" là đại biểu cho tính sáng tạo của
khoa học hiện đại và cả tính thống nhất (11). Trong Hệ Từ
Thượng, Khổng Tử viết "Thiên hạ cùng qui về tuy khác
đường, một mối mà trăm lo" và trong Hệ Từ Hạ, Ngài viết :
"Đạo cùng đi mà chẳng chống đối nhau, muôn vật nuôi nhau
mà chẳng hại nhau" (Đạo tịnh hành nhi bất tương bội, vạn
vật tịnh dục nhi bất tương hại) (12)
"Đạt được trung hòa thì trời đất định vị, muôn vật đều hóa
dục … Trung là gì? Trung là cái gốc lớn của thiên hạ. Hòa
là gì ? Hòa là sự đạt Đạo của thiên hạ" (Trí trung hòa,
thiên địa vị yên, vạn vật dục yên … Trung dã giả, thiên hạ
chi đại bản dã. Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt Đạo dã). Đạo
đó là Đạo Trung Dung mà Đức Khổng Tử cho là không thể phút
giây nào rời xa được (Đạo dã giả, bất khả tu du ly dã)
(13). Đạo Trung Dung quan trọng như vậy nên vua Thuấn phải
dặn dò ông Vũ: "Lòng người dễ khuynh nguy, lòng mến Đạo
lại yếu cho nên phải xét cho tinh một mực mà quyết giữ cho
bằng được Trung Dung" (Nhân tâm duy nguy, Đạo tâm duy vi,
duy tinh duy nhất, doãn chấp quyết trung) (14).
Tóm lại, Đạo Cao Đài mục đích là Qui Tam giáo, mà đời Lý
Trần gọi là Tam Giáo Đồng Nguyên là Quốc Đạo, đã bắt nguồn
từ hai luồng tư tưởng lớn trên bán đảo Aán Trung : Phật
giáo, Lão giáo, Khổng giao, mà "nhiều người tin tưởng
trong tương lai những luồng tư tưởng này có thể dung hợp
thành một ý thức hệ kiêm đủ chân thiện mỹ, khả dĩ đem lại
được cho Đông phương và toàn thể nhân loại một cuộc sống
tinh thần cũng như vật chất đầy đủ, tốt đẹp, luôn luôn
khai phóng và hướng thượng.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(10)Chu Hy, Chu Dịch Bản Nghĩa, Hệ Từ
Thượng, chương XII
(11)Trương Kỳ Quân, Trung Hoa Ngũ Thiên Niên Sử, quyển II,
chương XII, tr.25
(12)Chu Hy, sđđ, Hệ Từ Hạ
(13)Tiền Mục, Tứ Thư thích nghĩa, tập II, tr.31-36
(14)Couvreur Seraphin, les Annalesde la Chine, Paris 1950,
tr.39
Sự tin tưởng cũng là một liều thuốc linh nghiệm để đối phó
với bệnh tình cấp bách hiện tại của Tây phương. Thức giả
Tây phương đã nhân thấy sự kém cỏi của mình, hơn một lần
tự hạ mong học hỏi và cầu xin Đông phương giải cứu cho họ.
(15)
ĐẠO DỊCH VÀ LÂN MÃ
Vào ngày 15/6/1997, Bảo tàng Vĩnh Long đã "Phát hiện lân
mã ở Vĩnh Long" trong báo cáo có ghi rõ :
"Theo một số bô lão bà con trong vùng cho rằng cách nay
trên dưới 80 năm, có cụ Đức Lợi là người chuyên về đúc
đồng, có thể cụ là người đúc ra con LÂN MÃ này, mà thực tế
cụ đã đúc ra nhiều con như vậy. Một số khác còn cho biết,
hiện nay trong Tòa Thánh Tây Ninh cũng có một con tương
tự, nhưng đã bị hỏng, sứt mẻ còn lại ở đâu đó trong Thánh
địa (?) … "Lại có một tin nữa, cho rằng trong thời kỳ Pháp
thuộc, trong tỉnh Vĩnh Long có bà Hương Thanh, người có
vai vế trong Hội Thánh Cao Đài, nên trong Thánh Thất (Vũng
Liêm) nơi bà ở có để con LÂN MÃ này, nên ngày nay có người
nhận là chính con LÂN MÃ hiện nay là con LÂN MÃ của bà"
(Báo cáo Bảo tàng Vĩnh Long, trang 23)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(15)Nguyễn Hữu Lương, sđđ, tr.27
Trong "Đại nam Quốc Âm Tự Vị" của Huỳnh Tịnh Của giải
thích về chữ Kỳ Lân như vầy : "Kỳ là thú có nhơn, chính là
con đực, lân là con cái … Lân con thú giống sư tử mà hiền
lành, người ta gọi là linh vật, đem vào tứ linh là long,
lân, qui, phụng. Vua chúa có nhơn đức mới thấy nó". (1)
Trong "Hán Việt Từ điển" của Đào Duy Anh giải thích thêm :
"Kỳ lân, con thú có tính lành giống con hươu mà lớn hơn,
đuôi trâu vút ngựa, không ăn sinh vật, nên người ta gọi là
nhân thú" (2). Về con Long Mã ông viêt : "Long Mã, ngựa
cao trên 8 thước, người Tàu gọi là Long Mã, con rồng hình
dáng ngựa ….. Hà Đô xưa truyền rằng, đời vua Phục Hy,
trong sông Hoàng Hà có con Long Mã xuất hiện, trên lưng nó
có vẽ nét từ số 1 đến 10, Phục Hy mới theo đó mà vạch ra
Bát Quái" (3)
Năm 1919, L.Cadière công bố về "mỹ thuật ở Huế" trong tạp
chí Bulletin des Amis du vieux Hue (những người bạn cố đô
Huế) giới thiệu về nhiều con Kỳ Lân, nếu đem đối chiếu với
lân đồng ở Vĩnh Long thì chính là lư Kỳ Lân dùng để đốt
trầm, Lân Mã này cao 1,36m dài 1,48m, cân nặng 323 kg. Đó
là vật cổ quý hiếm thuộc mỹ thuật thời Nguyễn có niên đại
vào khoảng đầu thế kỷ XX (4).
Số là năm 1936 Đức Phạm Hộ Pháp tái xây dựng Tòa Thánh có
đến Vũng Liêm xin bà Lâm Hương Thanh tài trợ vì bà rất
giàu có nhờ thừa kế của người chồng Pháp là Perrier gốc
Thụy Sĩ. Bà không đủ tiền mặt nên đưa châu báu cho Đức Hộ
Pháp, Ngài không nhận và nói : "Sau khi Tòa Thánh cất xong
phải có lư lân mã xông trầm". Vì thế mà bà Hương Thanh mới
làm con Lân Mã để tại Thánh Thất Vũng Liêm và một con Lân
Mã bằng đồng đen (?) nặng 3 kg để tại Đại Điện Tòa Thánh.
Năm 1941, Pháp chiếm đóng Tòa Thánh thì con Lân Mã bị thất
lạc. Ngày nay Hội Thánh làm con Ngọc Kỳ Lân thay thế (Ngọc
đây ám chỉ cái quí của đồng đen) để múa trong các dịp lễ.
Về bí pháp của Lân mã ta thấy :
-Cao : 1,36m à 1+3+6 = 10 chỉ Hà Đồ : con Rồng
-Dài : 1,48m à 1+4+8 = 13 giờ Ngọ chỉ con Ngựa
-Nặng : 323 kg à 3+2+3 = 8 chỉ Bát Quái Cao Đài
Nếu đem so BQ Cao Đài với hai BQ trước, ta thấy những nét
đặc thù sau :
Đệ I BQ Phục Hy - Hà Đồ - Long Mã 10 (cộng từ 1 đến 10) =
55
Đệ II BQ Văn Vương - Lạc Thư - Linh Qui 9 (1à9) = 45
Đệ III BQ Cao Đài - Thiên Thư - Lân Mã 8 (1à8) = 36
Số 36 là Tam Thập Lục Thiên với không gian bốn chiều 4 x 9
tầng bằng 36 tầng trời. Theo Dịch lý giảm dần từ 10,9,8
đến 1 (Thái Cực) biểu hiện con người xa dần vật chất tiến
tới tinh thần.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1)HUỲNH TỊNH CỦA, Đại nam Quốc Âm Tự vị
(Tập I) Sài gòn 1895, tr.510 và 538.
(2) và (3)ĐÀO DUY ANH, Hán Việt Từ điển, Hà nội 1992,
tr.435-436 và 334-513
(4)Tạp chí xưa và nay số 88 tháng 3 năm 2001, tr.37-38
3/- Phạm trù Càn Khôn :
Dịch Hệ Từ viết : "Cương nhu tương dịch, duy biến sở
thích". Trong Thái Cực, âm dương bên nhau đương nhiên có
sự trao đổi lẫn nhau. Âm hút Dương, Dương hút Âm để thể
hiện sự quân bình của vũ trụ. Trong Hậu Thiên Bát Quái
chẳng hạn, khí Dương của Càn hút khí Khôn âm để biến thành
các quẻ Khảm, Cấn, Chấn, còn khí âm Khôn đoạt khí dương
Càn để biến thành các quẻ Tốn, Ly, Đoài. Đó là luật nhị
khí giao cảm, hóa sinh vạn vật. Mọi việc trên đời đều có
cặp mâu thuẫn đối đãi mang tính tất nhiên và phổ biến như
âm dương.
Bàn về quan niệm vũ trụ, Dịch Hệ Thượng viết : "Dịch có
Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ
Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái". Thánh Ngôn của Đạo Cao Đài
cũng dạy : "Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng
Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái biến
hóa vô cùng" (TNHT quyển II, tr.62). Hai ý trên nhứt
định có cùng một gốc.
Trong Dịch Hệ Thượng, Đức Khổng Thánh lưu ý : từ chất co
giãn vô hình, Thái Cực chia ra hai Nghi là Âm Dương rồi
biến hóa ra Tứ Tượng thành Bát Quái. Bát quái biểu tượng
cho vạn vật. Thế thì, vũ trụ được hình thành từ vô thỉ đến
vô chung, từ vô hình qua hữu hình với quá trình biến hóa
đi lên của nó. Quả thật, "vũ trụ có những mãnh lực bí mật
lớn lao đã hợp nhất lại và vô số hình thể sống động của nó
đã đảm bảo sự liên tục cho chúng". (Les grands forces
mystérieuses de la Nature étaient désormais unifiées. Les
innombrables formes vivantes affirmaient leur
enchainement) (16)
Vì thế, Kinh Dịch mới nói : "Sinh rồi lại Sinh thì gọi là
Dịch". Cái gì sinh? Chu Hy lý giải : "Âm sinh Dương, Dương
sinh Âm, sự biến hóa của chúng vô cùng" (Âm sinh Dương,
Dương sinh Âm, biến hóa vô cùng) (17). Đức Chí Tôn cũng
dạy : "Đạo Thầy không chi lạ, không ngoài hai lẽ Âm
Dương". Tắt một lời, quan niệm vũ trụ theo phương
Đ6ng, trời đất, vạn vật chịu ảnh hưởng của hai yếu tố căn
bản là Âm Dương, biến hóa luôn luôn, chảy quanh khắp nơi,
khắp chốn một cách vô thường. Đó là Đạo, Đạo vốn không có
hình, nhưng ở đâu cũng có Đạo, thiếu Đạo thì không có sự
vật nào tồn tại được.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(16) RÉNE JUDRE, Les Nouveles Enigmes de
I'Univers, Paris 1951, tr.14
(17) CHU HY, Chủ Dịch Bản nghĩa, Hệ Từ Thượng, Chương V.
Theo Soothill : "Trong vũ trụ đều là Âm hay Dương. Trời,
ánh sáng, khí nóng, đàn ông, cha, sức mạnh, sự sống là
dương - Đất, bóng tối, hơi lạnh, đàn bà, mẹ, sức yếu, sự
chết là Âm" (Tout est Yin ou Yang dans la Nature. Le Ciel,
la lumière, la chaleur, l'homme, le père, la force, la vie
sont Yang. La Terre l'obscurté, le froid, la faiblesse, la
mort sont Yin).
Âm Dương là Thái Cực là Đạo vì "nhất âm nhất dương chi vị
Đạo". Trước Thái Cực còn có khảng trống không gọi là Vô
Cực. Thánh Ngôn dạy : "Khí Hư Vô sinh một Thầy, Thầy là
Thái Cực , Thái Cực phân cực Âm Dương, Âm Dương sinh Ngũ
Hành mà tạo thành vạn vật. Châu Liêm Khê viết trong Thái
Cực Đồ thuyết như sau :
"Vô Cực mà là Thái Cực. Thái Cực động thì sinh Dương, động
cực thì tĩnh, tĩnh thì sinh Âm, tĩnh cực lại động, một
động một tĩnh cùng làm căn bản cho nhau. Rồi khi đã phân
chia ra Âm Dương thì Lưỡng Nghi thành lập. Đến lúc Dương
biến, Âm hợp, thì Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ sinh ra. Năm
khí đó nếu được xếp đặt thuận lợi thì bốn mùa sẽ vận hảnh
đều đặn.
Ngũ hành nếu hợp nhất thì thành Âm Dương. Âm và Dương nếu
hợp nhất thì thành Thái Cực. Thái Cực có gốc Vô Cực. Ngũ
Hành sinh hóa đều có tính chất duy nhất. cái chân không
của Vô Cực, cái tính chất của Âm Dương và Ngũ Hành, tất cả
phối hợp một cách kỳ diệu và kết tụ lại với nhau. Thế rồi,
Đạo Càn làm thành trai, Đạo Khôn làm thành giá, hai khí
giao cảm mà sinh ra muôn vật, muôn vật sinh rồi lại sinh,
sinh sinh mãi mãi và biến hóa vô cùng." (19)
Thật vậy, "Trong lịch sử, có lẽ không có gì chính xác hơn
việc biến dịch. Vật đổi thay. Người đẩi thay. Đất đổi
thay. Phong tục, quan niệm đổi thay" và tôn giáo cũng đổi
thay cho phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. (Perhaps
nothing is more certain in history than change. Animals
change. Men change. The Earth changes. Customs, opinions
ideas change).
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~
(18) W.E.SOOTHILL, Les rois religions de
la Chine. Paris 1946, tr.161
(19) Trần Thúc Lượng, Lý Tâm Trang, Tống Nguyên học án,
Tập I, quyển 9, tr.131
Về nhân sinh quan, sự hình thành con người cũng do sự giao
thoa của âm dương mà hóa thành, nên trong mỗi con người
đều có gien âm dương. Chu Hy quả quyết rằng : "Người người
đều có một Thái Cực, vật vật đều có một Thái Cực" (Nhân
nhân các hữu nhất Thái Cực, vật vật các hữu nhất Thái Cực)
(21). Chu Hy còn viết thêm : "Thái Cực tự nó bao gồm cái
lý động tịnh, chứ không thể lấy trạng thái động tịnh mà
phân thể dụng. Bởi vì tịnh là thể của Thái Cực, còn động
là dụng của Thái Cực" (22). Nếu ta coi động tịnh là hai
trường hợp khác nhau của Thái Cực thì "Âm Dương chỉ là một
khí. Khí âm lưu hành tức là khí dương , khí dương ngưng tụ
tức là khí âm. Thực chẳng có chuyện hai vật chống đối nhau
bao giờ" (23)
Thật vậy, luật "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu"
của âm dương trong Kinh Dịch rất tâm đắc. Theo G.Lakhousky
trong thuyết "Dao động tế bào" (Oscillation cellulaire),
mỗi vật đều phát ra một luồng sóng đặc biệt : có cảm mới
có ứng, có tương đồng mới có thể giao cảm. Đó là nguồn gốc
cơ bút và cách trị bệnh bằng nhân điện trong Đạo Cao Đài
buổi đầu.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(20) Platt N. and Drummond M.J. Our world
through the ages, New York 1959, tr.6
(21) Chu Hy, Ngữ loại
(22) Trần Thúc Lượng, Lý Tâm Trang, Tống Nguyên học án,
tập II quyển 44, tr.505
Cặp Âm dương giống như cặp Ác Thiện, tuy thấy như mâu
thuẫn nhưng chẳng bao giờ rời nhau. Khi ta gọi là dương vì
phần dương lấn phần âm. Khi ta gọi là âm vì phần âm lấn
phần dương. Thế nên, ta khó tìm được thuần âm hay thuần
dương cũng như thuần thiện hay thuần ác. Không có người
tốt nào không mang trong mình một tật xấu. Thế nên, người
ta phải biết vượt lên trên Thiện Ác, Thị phi mới thanh
thoát. Nếu còn bị ràng buộc trong giả tướng của hiện tượng
giới thì chưa có thể giác ngộ vào cõi Phật. Nên nhớ,
"Những kẻ đại gian ác là những kẻ đại Thánh thiện" (Les
grands pécheurs seront de grands Saint). Madeleine trước
khi thành Thánh là người đàn bà sa đọa, Thánh Augustin
thuở nhỏ cũng là một kẻ nhiều lầm lỗi, còn Thập Bát La Hán
nguyên là những kẻ trộm cướp giết người. Trong "Con đường
Thiêng Liêng Hằng Sống", Đức Hộ Pháp xác nhận "Quỉ
Vương là phần trược của Thượng Đế" (Satan est la doublure
de Dieu)
Xem thế, Thần hay Quỉ ở tại bản thân của mỗi chúng ta. Hồ
Cư Nhân cũng nói : "Thần của mộc, hỏa sinh vật ở hướng
Đông Nam. Quỉ của kim , thủy diệt vật ở hướng Tây Bắc"
(24). Nói một cách khác "U uẩn hay rõ ràng, sống hay chết,
Quỉ cũng như Thần, tất cả đều là biến tướng của âm dương
(25). Như thế, quỉ thần không xa ta, Thiên đàng hay Địa
ngục đều nằm trong tâm của mọi người. Tránh hạng người
"Thân Công Báo", kẻ mở cửa Ma giới trần gian đó. Họ gây
xáo trộn trong mỗi con người : hữu vi (xác), vô vi (hồn)
lìa nhau, Đạo Đời không còn tương đắc, Âm (xác) Dương
(hồn) rời rã …
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(24)Hồ Cư Nhân, Dịch Tượng Sao, quyển I,
tr.2
(25)Chu Hy, Dịch Hệ Thượng, chương IV
Hãy nghe Pháp Chánh Truyền giải thích về ĐẠO ĐỜI TƯƠNG
ĐẮC. "Hội Thánh có hai phần tại thế. Phần hữu hình là
Cửu Trùng Đài tức là Đời, nghĩa là xác, một phần bán hữu
hình là Hiệp Thiên Đài, là chơn thần, nghĩa là nửa Đời nửa
Đạo, còn phần vô vi là Bát Quái Đài tức là hồn, ấy là Đạo".
Rõ ràng PCT phân giải Đạo là Bát Quái Đài, còn Cửu Trùng
Đài là Đời (nhân sanh của Đạo), chớ không phải Đời là chỉ
người ngoại Đạo. Chẳng hạn Thế Đạo là Đời của Đạo, chỉ
những người Đạo còn sống lẫn lộn với Đời. Đọc tiếp PCT ta
sẽ thấy rõ hơn : "Thầy là chúa tể của sự vô vi, ắt Bát
Quái Đài là của Hồn. Hồn hiệp với xác bởi chơn thần. Aáy
vậy, chơn thần là trung gian của Hồn và Xác. Xác nhờ Hồn
mà nên, thì Cửu Trùng Đài cũng nhờ Hiệp Thiên Đài mới mong
đạt Đạo", nói cách khác "nếu muốn cho sự vô vi (Đạo)
và sự hữu hình (Đời) đặng TƯƠNG ĐẮC thì cả hai ông chúa
(Đạo, Đời) phải liên hiệp với nhau". (26)
Xem thế, ĐẠO ĐỜI TƯƠNG ĐẮC rõ ràng là chỉ cách luyện Đạo.
Thế mà người sau xa rời kinh sách lại hiểu méo mó là người
Đạo và quyền Đời phải tương đắc ! Sự lầm lẫn đó phải trả
giá của nó khá cao !." Sự ngạc nhiên của chúng ta quả lớn
khi chúng ta thấy điều mê tín kém nhất lại là một điều phổ
biến rất lâu dài". (… la superstition la plus basse a été,
pendant si longtemps, un fait universel) (27)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(26)Tân Luật, Pháp Chánh Truyền,
Paris 1952, tr.37
(27)André Ruffaf, La superstition à travers les ages.
Paris 1952, tr.211
Chúng ta phải làm như thế nào như Lord Acton nói : "Tôn
giáo là cái chìa khóa của lịch sử". (La religion est la
clé de 1'histoire) (28). Bởi lẽ, nếu không có tôn giáo thì
lịch sử hẳn hoang lương tiêu điều, cuộc đời hẳn cũng giảm
sinh thú. Ngoài tính chất thẩm mỹ, tôn giáo còn có một ảnh
hưởng quan trọng đối với nền văn minh nhân loại" (29)
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(28) Christopher Dawson, La religion et la
formation de la civilisation Occidentale, Paris 1953, tr.9
(29) Nguyễn Hữu Lương, sđđ, tr.58. xem "Lý giải Quả Càn
Khôn" cùng người viết.
Tại sao chọn ngày mùng 9 tháng giêng làm lễ vía Đức Chí
Tôn?
Theo tục lệ, mùng 7 hạ nêu để chấm dứt Tết Nguyên Đán thì
nhân sanh mở ngay ngày Tết Khai hạ. Theo Dịch lý, ngày
mùng 7 ứng vào con ngựa trong Thập Nhị Chi, ngày mùng 8
ứng vào nhau (?), ngày mùng 9 ứng vào Trời. Cho nên lấy
ngày đó làm lễ Vía Đức Chí Tôn.
Mặt khác, số 9 là số thái dương, số 8 là số của
thiếu âm, số 7 là số của thiếu dương, và số 6
là số của thái âm. Theo thứ tự trong Tứ tượng thì
thái dương là ngôi số 1, lấy 1 trừ 10 còn 9 dùng làm số
đặc biệt của Thái dương, tức Trời vậy.
Thờ quả Càn Khôn là thờ CỬU THIÊN KHAI HÓA vì Càn 3 hào,
Khôn 6 hào cộng lại là 9. vả lại, quẻ Khôn chồng lên quẻ
Càn thành quẻ Thái có nghĩa là thông suốt. Quẻ Thái làm
chủ tháng giêng. Kết hợp lại, mùng 9 tháng giêng là Vía
Trời.
Thêm vào đó, trong Kinh Dịch gọi số 9 = 3 x 3 là SỐ Tham
Thiên hằng số. Nhà toán học Pythagore cũng nói : Chín là
số hoàn hảo, là bình phương của ba, tam hợp hài hòa trọn
vẹn". (Neuf est le nombre parfait en tant que carré le
trois qu'est le trinité de l'harmonie complète).
Vả lại, các ngày hội lễ trong năm nảy sanh từ nền văn minh
nông nghiệp. Mùa xuân, tháng giêng lễ Cha, tức Vía Đức Chí
Tôn, mùa thu, tháng 8 lễ Mẹ tức Vía Đức Phật Mẫu. Các ngày
lễ này, các Chức sắc phải về triều lễ tại Tòa Thánh.
Ngoài nghi lễ tôn nghiêm, Hội Thánh còn cho tổ chức các
cuộc vui như dưng cộ bông, lửa trại, thai đố, ngâm thơ …
vừa nâng cao đời sống tâm linh, vừa buông thả tình cảm để
thư giãn. Thế nên, lễ Vía xen lẫn cái huyền nhiệm và cái
thực tế, cái chính thống tôn giáo và cái buông thả của
nhân gian.
Trong ba ngày lễ Vía Đức Chí Tôn, trừ ngày mùng 9 chánh
lễ, còn các ngày khác là lễ tạ ơn tổ tiên hoặc tổ chức các
cuộc vui, trong đó Văn Minh điện thu hút nhiều người nhứt.
Trong nắng xuân ấm áp, Hội Thánh cho dựng một cái đài lục
giác giữa Đại đồng xã, gồm tầng trệt và tầng cao để mọi
người đứng xa đều thấy rõ người điều hành. Ban tổ chức gồm
một Trưởng ban cầm cái mõ (thường là Phối Sư Thái Đến
Thanh) Một ban cổ nhạc trần thiết ở tầng trên giữa căn nhà
lục giác. Phía trước Văn Minh điện có một cái cầu thang
duy nhứt lên và xuống, phía bên trên có đề 3 chữ : Văn
Minh Điện, tức nhà văn minh về đạo đức, văn học, mỹ thuật
…
Các cuộc vui gồm : Thai đố, thi thơ, hát vè, ngâm thơ. Ai
trúng thì được thưởng kinh sách có giá trị.
Văn Minh Điện bắt nguồn từ hai câu thơ giáng cho của bà
Đoàn Thị Điểm được sửa từ và rút ra trong truyện "Chinh
phụ ngâm" như sau :
Xuất nhứt nhơn (một người). Rõ ràng đây là câu đố.
Mãi đến cách mạng tháng tám năm 1945, Bảo Đại xuống ngôi,
người ta mới biết nhứt nhơn đó là Vĩnh Thụy. Từ đó,
thú chơi thai đố ngày càng thạnh hành. Cái vui của Văn
Minh Điện là những câu thai đố được lý, hò, ngâm, diễn,
đọc với điệu bộ dễ cười của các diễn viên nghiệp dư. Chính
nhờ điệu bộ đó, người xem đoán được phần nào nội dung câu
đố.
Xuất nhứt điểu (một con chim), âm điệu thơ Kiều mà
lại là câu đố hóc búa. Một tín hữu mặc áo dài trắng giơ
tay xin giải đáp. Trưởng ban cuộc thi mời anh lên thang
gác. Anh nọ đứng lựng chựng cầu thang đáp : Con chim cút.
Viên giám khảo giơ cao tay đánh vào mõ cái cốc. Mọi người
đều biết sai, cười ồ lên. Anh nọ bẽn lẽn xuống cầu thang.
Nếu ai đáp đúng mõ được đánh một hồi. Ban nhạc tiếp thanh
âm hòa tấu một bài để tuyên dương người đáp đúng. Một
thiếu nữ giơ tay trả lời là con quạ vàng. Ban giám khảo
yêu cầu giải thích. Cô gái đáp : "Lần đường theo bóng
trăng tà về Tây" thì chỉ có Mặt trời, mà Mặt trời là Kim
Ô. Ban ngày đôi khi có Mặt trăng nhưng do ánh sáng của Mặt
trời làm ta không thấy trăng. Một hồi mõ dài được gõ lên.
Ban nhạc hòa tấu khúc "Trạng nguyên hành lộ". Cô gái được
thưởng một chồng kinh sách với những tràng pháo tay vang
dậy.
Kế đến là cuộc thi ngâm thi, thí sinh có thể lấy thơ trong
"Thi văn Hiệp tuyển" hay tự biên tự diễn.
Một nhà thơ trẻ với giọng ngâm ngọt ngào truyền cảm hòa
lẫn tiếng đàn cò, tiếng tiêu, dìu dặt như bay bổng giữa
tầng không :
VỊNH TÒA THÁNH
Tòa Thánh vút cao đứng giữa trời
Aùnh vàng tỏa rộng khắp nơi nơi.
Hiệp Thiên vang tiếng Lôi Âm Cổ.
Bát Quái lặng thinh Bạch Ngọc ngời.
Cung đạo thiêng liêng miền thượng giới.
Cửu Trùng dung tục cõi người đời.
Thoáng nhìn trụ phướn, bồ đề cội.
Tòa Thánh vút cao đứng giữa trời.
Trên đây chỉ là những trích đoạn về thai đố, thi thơ để
người đọc hiểu phần nào thú vui tao nhã nhân ngày Vía Đức
Chí Tôn, vừa phù hợp với truyền thống lễ nghi huyền nhiệm,
vừa tác động cuộc vui chơi dân đạo, thích đáng với quan
niệm cổ truyền "Trời Người hiệp nhứt". Tiếc thay, Văn Minh
Điện không vĩnh tồn với thời gian.
Tắt một lời, ngày Vía Đức Chí Tôn là ngày hạnh phúc lớn
của đại gia đình nhà Đạo, không phân biệt sang hèn, màu
Đạo sắc tộc, mọi tín hữu khắp mọi nơi, trên mọi nẻo đường,
hướng về Tòa Thánh mừng lễ Đấng Cha Lành.
Người Đạo Cao Đài luôn luôn tâm niệm và thực hành lời Đức
Đại Từ Phụ dạy: Tất cả nhơn loại là con một cha. Tất cả
mọi tôn giáo có cùng một gốc. Thế nên, người tín hữu Cao
Đài không thấy ngại ngùng khi vào lễ trong một chùa Phật
hoặc nhà thờ Thiên Chúa, hoặc đền thờ Hồi giáo. Bởi lẽ,
người tín hữu Cao Đài biết rằng các Đấng Giáo chủ ấy đều
do Đức Chí Tôn phân tánh giáng sanh nên chịu dưới quyền
điều khiển của Ngài.
Người tín đồ nào cũng thuộc làu câu : "Cùng nhau một Đạo
tức một cha". Thế nên, họ không kỳ thị tôn giáo và không
kỳ thị chủng tộc, coi tất cả mọi sắc tộc trên thế giới dù
khác màu da sắc tóc, ngôn ngữ hoặc chánh kiến đều cùng
chung huyết mạch.
Khi nói Đức Cao Thượng Phẩm là ngươn linh Hớn Chung Ly hay
Thanh Sơn Đạo Sĩ là ngươn linh của Hồng Y Richelieu, là
xác nhận Đạo Cao Đài tin có Luật chuyển luân. Ngày trước
là người Trung Hoa, ngày nay đầu kiếp làm người VN hay
ngược lại. Điều ấy nói lên mọi sắc dân, trước mặt Đức Chí
Tôn đều là con cái, là đồng chủng. Nếu tiền kiếp là người
Aán Độ thì theo đạo Phật, hoặc người Tàu sao tránh khỏi
theo đạo Lão hay đạo Nho. Vậy ta đã từng là môn đệ của các
vị đó trước kia, nay tôn vinh các vị đó làm thầy là lý
đương nhiên.
Với tinh thần ấy, người tín hữu Cao Đài lúc nào cũng tôn
kính các tôn giáo khác và đặt các vị Giáo chủ ngang hàng
nhau, không có sự đặt biệt trọng khinh nào.
Thế thì tôn thờ Đức Chí tôn là tôn thờ đức tin của nhơn
loại.
Lễ Vía Đức Chí Tôn lúc 0 giờ ngày mùng 9
tháng Giêng âm lịch hàng năm (1). Đây là buổi lễ trang
nghiêm nhất, tất cả mọi sinh hoạt đều im lặng nhường cho
tiếng trống tiếng chuông và lời cầu kinh.
Sau khi Lôi Âm Cổ (trống) dứt hai hồi, vị Tả Phan Quân cầm
phướn Thượng sanh hướng dẫn các phẩm Lễ sanh, Giáo thiện
nam nữ lên lan can lầu Đền Thánh, nam tả nữ hữu (trong Bửu
điện nhìn ra), đồng thời cho 6 vị Lễ sanh và 6 vị Giáo
thiện nam nữ vào hầu Bát Quái Đài.
Khởi Bạch Ngọc Chung (chuông), vị Hộ Đàn Pháp Quân cầm cờ
Tam Thanh (cờ Đạo) và vị Hữu Phan Quân cầm phướn Thượng
Phẩm hướng dẫn chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước
Thiện vào Đền Thánh (Hoán đàn). Hai bên Chức việc, Đạo hữu
nam nữ cũng đi vào Hoán đàn. Đoạn phân ban nam nữ. Đồng
thời 3 vị Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư vào Nội Nghi.
Một vị Phối sư ở Ngoại Nghi.
Tiếp Lễ Nhạc Quân lên Giảng đài nữ cầm hiệu. Một vị Giáo
sư phái Ngọc lên Giảng đài nam xướng lễ.
Dứt chuông, Hộ Đàn Pháp Quân ra cờ lịnh nhập đàn.
Vị Giáo sư phái Ngọc xướng
1/- Nội Nghi, Ngoại Nghi tựu vị
2/- Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị.
a/- Xàng xê : nghĩa là đưa qua trộn lại, biểu tượng cho
thời kỳ hỗn độn sơ khai.
b/- Ngũ đối thượng : là năm từng trên Trời tức khí thanh
bay lên làm bầu Trời.
c/- Long ngâm : là rồng xuống, tượng trưng cho Âm. Nhứt
Âm nhứt Dương chi vị Đạo.
d/- Vạn giá : là muôn việc đã định an, muôn loài vạn vật
đều có tên.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1) Nghi thức thờ Đức Chí Tôn. Xin xem "Ý
nghĩa thờ Thiên Nhãn" của Hiền tài Nguyễn Kim Anh.
Tại sao thờ Đức Chí Tôn nơi Bát Quái Đài ?
Thánh Ngôn dạy rằng : "Khi chưa có Trời Đất thì khí Hư
Vô có sanh một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực. Thầy
phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ
Tượng biến ra Bát quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mà tạo
lập ra Càn Khôn Thế giới".
"Từ vô hình ra hữu hình là do khí hóa mà ra. Khí hóa
hình, hình hóa khí, từ đó có mọi vật hiện hữu".
Khoa học Vật lý nguyên tử ngày nay cũng xác nhận : "Vật
chất (la matière) là khí đọng lại mà thành, khí là vật
chất tan ra mà thành khí, hay nói cách khác : Khí lực
(énergie) và vật chất là một hoặc hai của một thực thể".
(Conquête de la Science, p.195, p.Rousseau). Lời Thánh
Ngôn cho ta thấy rõ : Khí Hư Vô ( Khí hư
Vô là khí khi vũ trụ chưa hình thành.) sanh có một
mình Đức Chí tôn. Ngài ngự trên ngôi Thái Cực mà sanh ra
Âm Dương thì sinh khí hóa mới tạo Thiên lập Địa muôn màu
muôn vẻ : Nhất bổn tán vạn thù là vậy.
Bà Bát Nương dạy thêm : "Trong vũ trụ bao la, không
gian ở trên là thượng tầng bí pháp của quyền năng
thiêng liêng. Đức Chí Tôn vi chủ Thần, Thánh, Tiên, Phật
hộ trì. Thời gian ở dưới có đủ khí chất, để tạo
dựng thế giới hữu vi và vật chất hữu hình. Phép mầu nhiệm
ấy do quyền năng tuyệt đối của Đức Chí Tôn vận chuyển,
khiến cho không gian phối hợp với thời gian thành cơ huyền
nhiệm mà tạo lập Càn Khôn, hóa sanh vạn vật, và Đức Chí
Tôn còn hiệp lập Thiên thơ định thành Thiên điều, là luật
pháp thống trị Càn Khôn vạn vật".
Không gian, thời gian đưa tới nhân quả. Ba hiện tượng đó
không mà có, có mà không. Nó lảng vảng theo ta như bóng
với hình mặc dù ta không hề thấy. Quan sát biển (không
gian) và sóng biển (tác nhân của thời gian) nổi cao khi có
gió rồi biến mất, rõ ràng ta thấy nhân và quả, hiện tượng
tuần hoàn của sóng. Thế mà giờ đây ta không thấy gì, ảo
ảnh chăng ?
Cái đó là Đạo, là sự chuyển luân. Đạo không có hình nhưng
ở đâu cũng có mặt. Thiếu Đạo thì không có sự chi trên đời
tồn tại.
Chữ Đạo gồm 2 phần : Chữ xước có nghĩa là đi, tượng trưng
nguyên lý động, tức nguyên lý Dương, chữ Thủ là đầu tương
đối bất động của thân thể, tượng trưng nguyên lý tịnh, tức
nguyên lý Âm. Cái đầu hình tròn, cái chân đi hình
vuông mà Trời thì tròn, Đất thì vuông, tượng trưng
cho Dương Âm, Trời Đất.
Thế thì Đạo bao gồm mọi mâu thuẫn trên đời : Động và Tịnh,
Thị và Phi, Thiện và Aùc, Sáng và Tối, Trong và Ngoài,
Vinh và Nhục, Trời và Đất … nên phải biết quân bình để
tường tồn trường sanh.
Khi Đạo Cao Đài chủ trương Qui Tam giáo : Phật giáo, Lão
giáo, Khổng giáo và hiệp Ngũ chi : Thần đạo, Thánh đạo,
Tiên đạo, Phật đạo. Thế thường, người ta cho giáo lý các
tôn giáo này mâu thuẫn nhau. Nhưng người ta quên rằng mâu
thuẫn để sinh tồn và tiến bộ. Sách cổ Hy Lạp Kybalion viết
gần giống Kinh Dịch :
"Tất cả đều có hai mặt, những chân lý nói ra chỉ là
những phân nửa chân lý mà thôi, tất cả mọi nghịch thuyết
đều có thể dung hòa" (Tout est double … Touts les
vérités ne sont que des demivérités, tous les paradoxes
peuvent être conciliés) (2)
Đạo học Đông phương có đồng quan điểm đó, về bên ngoài
thấy mâu thuẫn, nhưng bên trong không bao giờ có sự mâu
thuẫn.
Hai bên vách Đền Thánh tạc hình hoa sen, gương sen và ngó
sen trong khung hình chữ nhật đứng, ở giữa có khung tam
giác tạc Thiên Nhãn phản chiếu các tia rẽ quạt rất sinh
động. Thiên Nhãn là Thái Cực, bụi sen trên, bụi sen dưới
là Âm Dương tức Lưỡng Nghi, 4 trái sen hai bên là Tứ
Tượng, 8 lá sen là Bát quái, 12 ngó sen là Thập Nhị Khai
Thiên. Lấy hình ảnh sen để biểu tượng cho Dịch Lý của vạn
vật luân chuyển không ngừng.
Theo Lão tử : Tổng hợp những mâu thuẫn để biến thành một
thể mới phong phú hơn. Đó là mục đích của Cao Đài giáo.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(2) Le Kybalion. Traduction del'Anglais
par André Durville, 23 Saint Merri, Paris, tr.29.
Trình Di cho rằng : "Không có sự đi nào mà không trở
lại . dương xuống đất ắt trở lại mà lên trên. Âm trở lại
mà lên trên, Âm lên ở trên ắt trở lại mà xuống". Đó là
tư tưởng phản phục của Đông phương.
Hãy gác lại phương pháp luận của Descartes và đôi mắt phân
tích của Tây phương, ta sẽ thấy các tôn giáo ở Đông phương
thống nhất tuy không đồng nhất. Ta đừng bắt chước kiểu lý
luận Tây phương chỉ thấy cây mà không thấy rừng, thì ta
không thể thấy được triết lý siêu việt tổng hợop văn hóa
toàn cầu của Đạo Cao Đài.
Trong Đền Thánh có tất cả 28 cột rồng. Thượng Đế cưỡi rồng
tuần du. Rồng tượng trưng cho sự biến hóa, về sau người ta
lấy rồng làm biểu tượng cho Dịch lý.
Rồng màu xanh tượng trưng cho Thanh Dương Đại Hội trong
Nhứt kỳ phổ độ, do Đức Nhiên Đăng hành khiển.
Rồng màu đỏ tượng trưng cho Hồng Dương Đại Hội trong Nhị
kỳ phổ độ, do Đức Di Đà hành khiển.
Rồng màu trắng tượng trưng cho Bạch Dương Đại hội trong
Tam kỳ phổ độ, do Đức Di Lặc khai hội Long Hoa.
Đức Thượng Đế khi hành pháp cưỡi rồng :
"Thời thừa lục long,
Du hành bất tức.
Khí phân Tứ Tượng
Oát triền vô biên" (3)
Nghĩa là : Trời ngự xe sáu rồng hành pháp không ngừng
nghỉ, từ Thái Cực phân chia tới Tứ Tượng mà biến hóa vô
thường. Rồng còn là biểu tượng của cội nguồn dân tộc,
trong ý "Con Rồng cháu Tiên". Thế nên, Đạo Cao Đài bắt
nguồn từ lòng dân tộc.
Kinh Dịch lập ra 6 hào tương ứng với 6 Rồng trong quẻ
Thuần Càn thuộc Dương.
1/- Hào sơ cửu tiềm long (rồng nằm)
2/- Hào cửu nhị hiện long (rồng ruộng)
3/- Hào cửu tam tích tịch (rồng ruộng cố vùng lên)
4/- Hào cửu tứ tại huyền (rồng nhảy lên khỏi vực)
5/- Hào cửu ngũ Phi Long (rồng bay lên Trời)
6/- Hào thượng cửu Càn long (rồng mạnh bay xa)
Từ hào sơ cửu đến hào thượng cửu, Dịch lý biến hóa diệu
diệu huyền huyền. Đức Cao Đài nhờ đó mà nắm trọn Thập nhị
Khai Thiên mà tạo dựng chúng sanh.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(3) Kinh lễ, Paris, Gasnier 1952, tr.18
Sự chuyển dịch đó ta thấy ghi rõ trong Tân luật và kinh
điển "Tùy theo sự tiến triển của nhơn sanh mà sửa đổi".
Bởi vì vũ trụ luôn luôn biến động, xã hội luôn luôn thay
đổi thì đâu có giáo điều vĩnh hằng với thời gian. Chỉ có
một chân lý thực tại, mà thực tại thì sinh động và phong
phú mầu nhiệm vô cùng. Những lời Thánh dạy chỉ là ngôn ngữ
gợi mở giác ngộ, nếu định kiến hiểu một cách chật hẹp thì
chưa đáp ứng được nhu cầu con người đang biến đổi hằng
ngày. Chính Đức Chí Tôn dạy rõ : Sau tịch đạo Thanh Hương
là tịch Đạo Tâm, há không phải là một tiên triệu về biến
dịch của nhơn loại ư ?
"Nhâm tâm duy nguy, Đạo tâm, duy vi". Cái lòng
người (nhân tâm) thì đem đến nguy hại, còn Đạo tâm thì rất
yếu. Thiếu thời, con người vô tâm mang chất trọn lành của
Thiên tính. Lớn lên, sống chung với xã hội nảy ra óc tự
cao. Đến tuổi già (Ngũ thập tri Thiên mạng), cái tâm vô
sai biệt, cái tâm bình đẳng bát nhã. Vào tuổi đó, người
chưa hòa vào Đại hồn vũ trụ là việc giáo hóa của tôn giáo
coi như thất bại.
Tính đến nay, nền Đạo đã trên 60 năm, người tín hữu phải
đạt được vô ngã nhi hành để đáp ứng lại Thiên điều
vô vi nhi trị (cái tự nhiên không cần luật pháp).
Tấm lòng hỷ xả bỏ tất cả để được tất cả. Khi hành
Đạo, không còn cái Ta (vô ngã) không phân biệt thân thuộc
hay xa lạ, không phân cách nghèo khó hay giàu có. Mọi
người với Đạo tâm không không, được vậy đó chẳng phải là
Thiên đàng tại thế ư? Đức Hộ Pháp nói : "Thiên đàn tại
trần thế này chớ không nơi nào khác".
Toàn Đạo bước vào thời Đạo Tâm để sửa soạn đón Đức Di Lạc
mở Hội Long Hoa.
Chủ trương tổng hợp tôn giáo của Đạo đưa đến tổng hợp văn
hóa toàn cầu. Ngài là một bậc minh triết, chánh biến tri,
thông suốt văn hóa sử chúng sanh, thấu đạt mọi ước muốn
của loài người. Ta phải sửa soạn Đạo Tâm để đón rước Ngài.
Một tâm hồn hướng thượng, một tư tưởng tinh khiết trong
mỗi con người. Nếu không, Ngài xuất hiện mà ta không thấy
vì ta thiếu đạo tâm, mắt bị vật dục ám ảnh. Thầy đã dạy :
Cơ thể Phật Tiên trong lành phải có huệ nhãn mới trông
thấy được. Bình minh Thánh triết hay hoàng hôn u tối là
tùy thuộc vào Đạo tâm của mỗi chúng ta.
Tại sao ta phải thờ Đức Chí Tôn trên nền Bát Giác?
Xin nhắc lại, Thầy đã dạy : "Ngôi Thầy là Thái Cực,
Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, …. Tứ Tượng, …. Bát Quái".
"Âm Dương là cái pháp nhiệm màu sâu kín của Thiên cơ. Âm
Dương hiệp nhứt thì phát khởi Càn (Trời) Khôn (Đất). Khí
Âm cướp một phần chơn dương của ngôi Càn, Càn mới hóa ra
Ly (Ly là Thái Dương, mặt nhựt). Khôn đặng chơn dương biến
thành Khảm (Khảm là Thái âm, mặt nguyệt). Càn lìa ngôi mà
thất vị. Tiên Thiên mới biến ra Hậu Thiên, Hà Đồ phải hóa
Lạc Thư mà gọi rằng Tứ cá Âm Dương cộng thành Bát Quái. Âm
Dương lúc ấy giáng thăng, động tịnh mà dưỡng dục muôn
loài".
Người ta cho rằng vua Phục Hy đã tạo ra Tiên Thiên Bát
Quái. Theo "Từ Hải" thì Phục Hy có tên là Bào Hy, Thái
Hạo, 1 trong 3 vị vua thời thái cổ. Hai vị kia là Toại
Nhân và Thần Nông. Phục Hy sống vào thế kỷ 43 trước Tây
Lịch (có sách nói thế kỷ 34 TTl) . Ông làm vua được 115
năm, dạy dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc vật và đặt ra Bát
Quái.
Kinh Dịch nói về việc vua Phục Hy chế ra Bát Quái như sau
: "Ở sông Hà hiện ra bức đồ, ở sông Lạc hiện ra trang
chữ, Thánh nhân phỏng theo đó". (Hà xuất đồ, Lạc xuất
thư, Thánh nhân tắc chi). (Thiên Hệ Từ Thượng truyện),
chương 11. Như vậy, Phuc Hy phòng theo bức đồ hiện ra ở
sông Hà và vua Vũ thấy chữ hiện ra ở sông Lạc mà vạch ra
Bát Quái.
Thiên Hệ Từ Thượng truyện, chương 2 ghi rõ hơn : "Ngày
xưa, họ Bào Hy (tức Phục Hy) cai trị thiên hạ, ngửng lên
thì xem các hình tượng trên trời, cuối xuống thì xem các
phép tắc dưới đất, xem sắc của chim muông cùng những thích
nghi của từng miền, gần thì lấy ở thân mình, xa thì lấy ở
vật, rồi làm ra Bát Quái để thông suốt cái đức của Thần
minh và điều hòa cái tình của vạn vật".
Do đó, người ta mới nói quẻ của Phục Hy vạch ra là Tiên
Thiên Bát Quái.
Kinh dịch chép rằng : "Long Mã là vật linh kết hợp bởi 8
tinh anh của Trời Đất, xuất hiện dưới huệ nhãn của vua
Phục Hy là một bậc Chí Thánh, xem được các vật trong cõi
vô hình, thấy rõ linh vật của Trời Đất". Long Mã đội bản
Hà Đồ là sách Trời ban cho vua Phục Hy để trị thiên hạ.
Mãi tới thời Hán Võ Đế (140-86 TTL), Khổng An Quốc, cháu
thứ 12 của Đức Khổng Tử là đại thần của vua Hán Võ Đế lập
lại Hà Đồ, nhưng phải đến 12 thế kỷ sau, đời Tống Huy Tông
(1101-1125) hai hình đó mới được in trên sách. (4)
Còn về lạc Thư, tương truyền vua Võ sanh khoảng 2206 năm
trước Tây lịch, thủy tổ nhà Hạ. Mùa nước lụt, vua ra giữ
nước ở bờ sông Lạc, một chi nhánh của sông Hoàng Hà. Khi
nước rút, vua thấy một con rùa Thần hiển hiện, trên lưng
có 9 số, vua Võ theo đó mà vạch thành Cửu Trù Hồng Phạm.
Tóm lại, Tiên Thiên Bát Quái vẽ tượng Âm Dương tức Thái
Cực sanh lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng
biến ra Bát Quái.