ÐẠI ÐẠO

GIÁO LÝ và TRIẾT LÝ

 
HT TRẦN VĂN RẠNG
1974

 

* * *

 

Phần Thứ Tư

ĐỨC THƯỢNG ĐẾ =ĐỨC CAO ĐÀI

MỤC B :
BỔN NGUYÊN LỜI DẠY CỦA ĐỨC CHÍ TÔN

 

THÁNH THI, THÁNH NGÔN

 

Bất cứ một tôn giáo nào, muốn việc truyền giáo thành công đều phải tạo được đức tin và cảm hứng trong nhơn sanh. Chư Chức sắc biết đồng lao cộng khổ với các tín hữu, biết khinh thường địa vị và quyền lợi để làm gương sáng cho những ai muốn làm công quả để đổi lấy cái quả tốt đẹp hơn cuộc đời hiện tại. Nếu được những Chức sắc hành đạo có đức độ như vậy, cơ đạo sẽ sớm phổ truyền khắp năm châu.

 

Tuy nhiên, người đệ tử Cao Đài phải biết nhẫn nại chờ đợi Đức Chí Tôn đến dạy Đạo. Ba vị Thiên sứ phải trãi qua nhiều đêm học hỏi với Thất Nương, với các chơn linh khuất mặt, với ông AĂÂ rồi mới biết ông Trời là ai ! Chữ Nhẫn đối với người tín đồ rất quan trọng, vì biết nhẫn mới học được nghĩa lý sâu xa, mà Đạo vốn hư hư thực thực, cần trì chí bền lòng.

 

Mặt khác, Thánh ngôn, kinh điển của Đạo Cao Đài rất khác biệt nhiều tôn giáo, với lới hành văn nôm na, vắn tắt, không lý luận, không chứng minh dài dòng. Những chữ chỉ cốt để khiêu gợi cho một lý lẽ cao thâm, để người đạo nghe tiếng vọng trong lòng của mình mà giác ngộ.

 

Sự lưng chừng, sự tối tăm của lời văn và cách lập lập nửa vời kích thích óc tò mò để tìm hiểu cái bí nhiệm của thiêng liêng. Nhờ đó mà gợi mở được những ý tưởng thâm sâu tiềm tàng trong mỗi người ưa suy luận.

 

Văn trong Thánh ngôn và Kinh điển tràn đầy "Văn dĩ tải Đạo" (Văn để chở Đạo), và "Thi dĩ ngôn chí" (Thơ chứa lời giới thiệu), lẫn lộn giữa Thánh dạy và thi ca giông giống như Nam Hoa Kinh của Trang Tử hay Đạo Đức Kinh của Lão Tử.

Do cái tri và hành đi đôi như vậy nên có người đã nhận định rằng "Đông Phương không có triết gia mà chỉ có hiền giả và thi nhân" (1). Trong Thánh giáo ta thấy nhan nhản thi ca với lời lẽ của bậc hiền triết.

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *~~~
(1)Triết học Đông Phương, Saigon 1971, tr.135

 

1/- Về Thánh Thi :

Đạo Cao Đài chọn Đường thi làm Thánh Thi chuyển tải Đạo lý. Bởi vì đời Đường (618-907) là thời đại hoàn kim của thơ ca, lấy nguồn cảm hứng từ "Tam giáo đồng nguyên", nên nảy sanh Thi Tiên Lý Thái Bạch, Thi Phật Vương Duy (tức thơ thiền) và Thi Thánh Đỗ Phủ vì người đời coi thơ ông như chân lý cuộc sống. Nội dung Đường Thi phù hợp với mục đích của Tôn giáo Cao Đài, trong ý niệm đồng văn hóa. Tuy nhiên, ta vẫn thấy có nhiều thể thơ đặc biệt Việt Nam như song thất lục bát chẳng hạn

.

Trong Đạo Cao Đài, về Thánh Thi các Đấng giáng cho đa dạng. Đứng đầu là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, viết theo thể song thất lục bát gồm 350 vế 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu : "Đời đời danh chói Cao Đài"

Mục đích của tác phẩm là "Giục tài nữ sĩ sánh bì cùng Nam".

 

Tác phẩm bị hạn chế về thời phong kiến. Bà dạy phận con gái, làm vợ, công việc trong nhà ngoài ngõ, bổn phận dạy trẻ, thờ kính cha mẹ, kính thầy cô …

Khi tác phẩm ra đời, nước ta còn lệ thuộc nên Bà dạy :

Nào quốc thể người khi kẻ thị,
Nấu sôi cái máu anh phong,
Nào dân đen phép quỉ hớp hồn.
An bang tế thế một lòng lo âu.

Ngoài tác phẩm tràng thi đó, còn những tác phẩm vừa như GIÁC MÊ KHẢI NGỘ, NGỰ ĐỜI của Đức Lý Thái Bạch, DÒNG BÍCH LẶNG của Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, TÌNH ÁI của Thất Nương …

 

Trên đây chỉ sơ lược về thi ca trong Đạo vì mục đích chính của bài nghiên cứu này là viết về những lời dạy của Đức Chí Tôn.

 

Ngay từ những ngày đầu dạy Đạo, có người hỏi hình dạng của Ngài như thế nào, Ngài trả lời không những tự vịnh phong cách của mình mà Ngài còn tiên tri việc Đạo như sau :

Tròi trọi một mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố hóa người đời gây mối Đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật Thánh Tiên xuống ở trần. (2)

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
2)TNHT 1, tr.79

 

Có người lại hỏi Bạch Ngọc Kinh như thế nào ? Ngài liền "Tân tả Bạch Ngọc Kinh" :

Một tòa Thiên các ngọc làu làu
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

Sau cùng, các đệ tử biết đó là Ngọc Hoàng Thượng Đế Giáo Đạo Nam phương.

NGỌC ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
HOÀNG Thiên bất phụ chí anh hào.
THƯỢNG ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
ĐẾ tạo lương phương thế cộng giao.
GIÁO hóa nhơn sanh cầu triết lý
ĐẠO truyền thiên hạ ái đồng bào.
NAM nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
PHƯƠNG tiện tu tâm kế diệt lao.

Đức Ngọc Đế đã thật sự giáng trần dạy Đạo ở Nam bang thì ách dân nạn nước sắp mãn.

Hảo Nam bang ! Hảo Nam bang !
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận.
Nhược thiệt nhược hư vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế trí cao ban.
(TN1, tr.80)

Bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn nằm trọn trong Thánh Ngôn. Như thế, những điều gì không có trong Thánh Ngôn thì phải không có trên Thiên Bàn và không có trong Giáo lý Đại Đạo. Thánh Ngôn lại hư hư thực thực, có thật mà cũng có giả, nên Đức Chí Tôn dạy : "Điều gì hợp với lòng chư môn đệ là Thánh ý, điều gì không hợp là của tà quái". Nếu hiểu được như vậy, độc giả sẽ thấy rõ Đạo Cao Đài là một tôn giáo thuận khoa học tiến bộ, khi đã loại bỏ những điều trái với đời thường.

 

Một ít nhà nghiên cứu cho rằng Giáo lý Cao Đài có nhiều mâu thuẫn là do họ đọc cơ bút của nhiều chi phái hay nhiều đồng tử khác nhau, nhưng những mâu thuẫn đó làm nổi bật cái bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn, chớ không làm lu mờ Thánh chất. Vả lại, Đạo Cao Đài chỉ truyền bá hơn một giáp nên Giáo lý còn trong tình trạng hồng mông, chưa được hệ thống hóa. Đức Chí Tôn đã ban cho loài người một tôn giáo Đại đồng huynh đệ, một nền văn hóa tổng hợp thì nhân loại có bổn phận phải làm cho nó trở thành cao thượng tốt đẹp vì : "Đại Đạo truyền thế giả. Thiên hạ vi công quả" "Nhân năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhân" (Con người mở rộng Đạo chớ không phải Đạo mở rộng được người) (2), chớ Đức Chí Tôn không làm thay cho loài người. Nếu Thầy làm thay thì loài người còn gì để trao dồi mình trở thành Thánh thiện.

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(2)Vệ Linh Công XV, Luận Ngữ

 

Xét lại quá trình tiến triển Phật giáo trong Tam Tạng Kinh thì Kinh Tạng và Luật Tạng có trước giống như Cao Đài giáo. Còn luật Tạng vào khoảng 400 năm sau Đức Thích Ca tịch diệt mới xuất hiện và tư tưởng hình nhi thượng học nghiên cứu về "Không luật" mới phát sinh, đưa đến sự ra đời của Phật giáo Đại Thừa.

 

Như thế, bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn chưa được triển khai và hệ thống hóa đúng mức là chuyện bình thường. Ai thắc mắc thì chính người đó sẽ làm cho Giáo lý Cao Đài sáng chói trên hoàn vũ, chẳng hạn như nhà văn Pháp Gabriel Gobron, ông cũng mới nghiên cứu chừng mực nào đó thôi, chưa kể những chỗ còn sơ lầm.

 

Những người nghiên cứu về Đạo Cao Đài đương đại thấy những điều chưa vừa lòng là tại người viết thiểu trí chớ không phải giáo lý không siêu việt. Đạo Cao Đài rất tự do về mặt tư tưởng (phải trái đôi đường tùy ý chọn), những bài nghiên cứu về Đạo Cao Đài của các học giả trong và ngoài nước đều được trân trọng. Bởi lẽ Đạo Cao Đài chủ lấy trí tuệ hiểu biết làm nền tảng chớ không cầu lấy sự mê hoặc chúng sanh làm lợi khí.

 

Vì chính Thầy đã dạy : "Thầy đến lập cho các con một nền chơn Đạo, tức là mọi sự chi dối trá đều chẳng phải của Thầy" ((3)TNHT, QI, tr.77)
 

2/- Về Thánh Ngôn :

Bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có thể chia làm 9 phương diện :

 

I/- Quyền lực Đức Chí Tôn :

1/- Khí hư vô sanh có một Thầy …
Nếu không có Thầy thì không có chi torng Càn Khôn thế giới này, mà nếu không có hư vô chi khí thì không có Thầy. (Tr.31-Q,1)

2/- Một chơn thần của Thầy mà hóa sanh thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn bộ nhơn loại trong càn khôn thế giới nên chi các con là Thầy, Thầy là các con. (Tr.30-Q,1)

3/- Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy, Thầy đã nói một chơn thần mà biến càn khôn thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy, các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. (Tr.48-Q,1)

4/- Thầy khai Bát Quái mà tác thành càn khôn thế giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra càn khôn vạn vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật chủ cả Pháp, Tăng, lập thành các D(ạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy. (Tr.48-Q.1)

5/- Thầy là Đức Jéhovah của dân Hébreux, vị chủ tể của quân lực dân Israel, vị Thánh vô danh của dân Do Thái, Đức Đại Từ Phụ của Chúa Jésus cứu thế. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với danh hiệu Cao Đài thì sẽ có sự cảm ứng chấp thuận. (Tr.124-Q.1.dịch)

6/- Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng hóa sanh của Thầy vô cùng tận. (Tr.62-Q.2)

7/- Cái mạng sống là Thầy. Mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy." (Tr.62-Q.2)

8/- Thầy các con là ông Thầy Trời, nên biết một ổng mà thôi, thì đủ, nghe à! (Tr.45-Q.1)

9/- Nơi Bạch Ngọc Kinh cả thảy đều là con cái Thầy tức là anh em với nhau. (Tr.57-Q.1)

10/- Chẳng một ai dưới thế này còn đặng phép nói rằng thế quyền Thầy mà trị phần hồn cho nhân loại" (Tr.3-Q.1)


II/- Trời Người hiệp nhứt

1/- Lập "Tam kỳ phổ độ" này duy Thầy cho "Thần" hiệp "Tinh Khí" đặng hiệp đủ Tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. (Tr.12-Q.1)

2/- Thầy đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con đắc Đạo. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. (Tr.12-Q.1)
Cái chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy. (Tr.6-Q.1)

3/- Cái chơn thần buộc phải tinh tấn trong sạch mới nhẹ hơn không khí ra ngoài càn khôn được. Nó phải có bổn nguyên chí Thánh chí Tiên chí Phật mới xuất Thánh Tiên Phật đặng. (Tr.29-Q.1)

4/- Phải có một chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải đặng trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh Tiên Phật mới phò cơ dạy Đạo cả chúng sanh. (Tr.7-Q.1)

5/- Các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên hoài. Ấy là Đạo. (Tr.30-Q.1)

6/- Đạo cũng do nơi phàm mà phát ra và tiếp lấy cái thiêng liêng của Thầy mà hiệp đồng mới sanh sanh hóa hóa thấu đắc càn khôn. (Tr.79-Q.1)
Lành dữ nơi mình chiêu phước họa
Thành tâm ắt thấy hết thần minh. (Tr.114-Q.1)
Người dưới thế này muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt, còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo phải có công quả. (Tr.26-Q.1)

7/- Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện. Thầy không bao giờ không cảm ứng với những lời cầu nguyện chơn thành. (Tr.124-Q.1) (dịch)

8/- Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại càn khôn thế giới nếu biết ngộ một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng. (Tr.70-Q.1)

9/- Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức, làm một việc phải tức là do ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật. (Tr.73-Q.1)

10/- Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh, kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi. (Tr.43-Q.2)

11/- Sự hành tàng nào về Đạo mà vừa lòng trong cả chư Chức sắc và chư tín đồ, ấy là hiệp Thiên ý. Còn điều nào mà phần nhiều môn đệ của Thầy chẳng khứng chịu theo, ấy là bất hiệp Thiên ý đó. (Tr.47-Q.2)

12/- Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa ăn cơm, chẳng có đũa, kẻ có đủa bốc tay ăn cũng đặng. (Tr.5-Q.2)


III/- Quan niệm về vũ trụ và con người :

1/- Đạo tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần dò theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm dò theo mà lánh khỏi luân hồi. (Tr.8-Q.1)

3/- Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới thì khí hư vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới.
Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm gọi là chúng sanh. (Tr.62-Q.2)

4/- Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật (Tr.48-Q.1)

5/- Nên chi các con là Thầy, Thầy là các con. (Tr.30-Q.1)

6/- Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần. (Tr.3-Q.2)

7/- Đài Nghiệt cảnh sẽ là nơi rọi sáng các việc lỗi lầm. (Tr.83-Q.1)


IV/- Huyền Diệu Thiêng Liêng :

1/- Thầy chưa giáng cơ lậo Đạo tại nước Nam chứ chư Thần, Thánh, Tiên, Phật dùng huyền diệu này mà truyền Đạo cùng vạn quốc. (Tr.57-Q.1)

2/- Đạo mới khai lập, tuy xuất hiện chưa đầy một năm chứ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả năm châu. (Tr.57-Q.1)

3/- Thầy chẳng dùng sự chi mà thế giới gọi là tà quái, dị đoan mà nếu xảy ra một ít dị đoan trong Đạo đã dùng lỡ thì ấy là tại nơi tên của một vài môn đệ đó, nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành Đạo và bày biện nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau đây sẽ trở nên một mối Tả Đạo mà các con đã từng thấy. (Tr.42-Q.2)


V/- Huyền Cơ Lập Giáo :

1/- Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con chẳng chịu giáo chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà phải buộc lập chánh thể có lớn có nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau anh trước em sau mà đến nơi Bồng-Đảo. (Tr.18-Q.1)

 

Il faut que je me serve moi-même maintenent d'un moyen plus spirituel pourvous convainere. Vous ne pourres pas nien devant le grand Judgenment-Général que je ne sauve pas I'humanité partous moyens plausibles. (Tr.50-Q.1)

 

Dịch : Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi nữa được trước Tòa Phán xét cho rằng Thầy không cứu vớt nhơn loại bằng những phương pháp công hiệu. (Tr.122-Q.1)

 

Ta vì lòng đại từ, đại bi vẫn lấy đức hiếu sinh (?) mở dựng nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó nơi trần thế này. (Tr.64-Q.1)

 

Nơi xứ này dân tình rất thuần hậu ôn hòa nên Thầy đến cũng như Chúa cứu thế đã đến với chúng con để bài trừ tà thuyết và truyền bá chơn Đạo trên toàn cầu. (Tr.123-Q.1)

2/- Thầy lại đến lập trong nước các con một nền chánh Đạo đủ tư cách độ rỗi chúng sanh. (Tr.77-Q.1)

3/- La nouvelle doctrine que j'enseigne a pour but de vous nettre dans une communauté d'intérêt et de vie. Soyez done unis par ma volonté et préchez su monde la paix et la concorde. (Tr.51-Q.1)

 

Dịch : Giáo lý của thầy có mục đích dạy dỗ các con hòa hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt. Vậy các con hãy chung hiệp nhau mãi mãi theo ý muốn của Thầy và hãy truyền bá khắp hoàn cầu thuyết hòa bình tương thân tương ái. (Tr.122-Q.1)

4/- Hãy đọc Thánh Ngôn của Thầy. Giáo lý của Thầy sẽ là đại đồng. Nếu nhân loại tu hành thì đó sẽ là nền hòa bình hứa hẹn chung cho tất cả các dân tộc. (Tr.122-Q.1)

5/- Chánh sách cộng hòa yên tịnh là chánh sách của các con đặng dụng lập Đạo mà thôi. (Tr.61-Q.2)

6/- Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy. (Tr.53-Q.1)

7/- Khi Ngọc Hư định cho Hiệp Thiên Đài cầm số mạng nhân sanh, lập thành chánh giáo thì Đại Từ Phụ lại trở giáp giao quyền ấy cho Cửu Trùng Đài. (Tr.86-Q.2)

8/- Từ đây trong nước Nam duy nhất có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con gọi là "Quốc Đạo" (Tr.43-Q.1)


VI/- Đối Với Các Tôn Giáo :

1/- Vốn từ trước Thầy đã lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là :

    Nhơn Đạo
    Thần Đạo
    Thánh Đạo
    Tiên Đạo
    Phật Đạo (Tr.17-Q.1)

2/- Từ trước ta giáng sanh lập Phật giáo gần 6000 năm thì Phật giáo chánh truyền gần thay đổi. Ta thường nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn. Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo Đạo, chớ không giáng sanh nữa đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn. (Tr.19-Q.1)

3/- Chúa cứu thế đã đến với các con. Người đã phải chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người. Trong 2000 năm vắng mặt người các con làm gì hữu ích ? Các con truyền bá Đạo Người nhưng chính các con cũng không hiểu chi cả. Các con lại làm sai lạc bản chất tôn chỉ của nền Thánh giáo, nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh tông đồ. (Tr.120-Q.1)

4/- La Sainte doctrine du Christiannisme ne sert qu'à envenimer l'ambition des fort contre les derniers.
Il faut une nouvelle doctrine capable de maintenir l'humanité dans l'amour des créetures. (Tr.46-Q.1)

Dịch : Thánh Đạo của Chúa cứu thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối với người yếu thế và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới.
Phải có một giáo lý mới mẻ đủ khả năng kiềm chế nhơn loại trong sự thương xót chúng sanh. (Tr.121-Q.1)

5/- Cette doctrine eu lieu d'apporter à l'humanité la paixet la concorde, lui apporte la dissension et la guerre. Voi là pourquoi je viensvous apporter moi-même la paix tant promise. (Tr.23-Q.1)

Dịch : Giáo lý ấy đáng lẽ phải đem lại hòa bình và tương ái cho loài người, nhưng trái lại nó gây mầm chia rẽ và chiến tranh. Bởi thế nên nay chính thầy phải đến để đem lại cho các con nền hòa bình đã từng hứa hẹn. (Tr.120-Q.1)

6/- Người sống trên thế gian này dầu thuộc giống dân nào cũng chỉ có một cha chung mà thôi. Ấy là Trời, đang chế ngự số mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Đạo lý mà chính các con đều phải chung chịu đau khổ rửa tộ của các con ở cõi thế gian này. (Tr.123-Q.1)


VII/- Thờ Tự Và Tế Lễ :

1/- Lạy là gì ?
Là tỏ ra bề ngoài lễ kính trong lòng. (Tr.11-Q.1)

2/- Khi bái lễ, hai tay co chắp lại, song phải để tay trái ấn tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.
Chắp hai tay lạy là tại sao ?
Tả là Nhựt, Hữu là Nguyệt, vị chi Âm Dương, Âm Dương hiệp nhứt, phát khởi càn khôn. Sanh sanh hóa hóa tức là Đạo. (Tr.11-Q.1)

3/- Thầy lập Phật giáo vừa khi khai Thiên lập Địa nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo rồi mới tới Nho giáo. Nay là hạ ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu nên phải phản tiền vi hậu.

Tỉ như lập Tam giáo qui nhứt thì :

      Nho là trước
      Lão là giữa
      Thích là chót

Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy. (Tr.48-Q.1)
Thầy dặn các con như đàn nội chẳng nghiêm, Thầy không giáng. (Tr.51-Q.1)

5/- Thiên phong là là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật lìa trần phải lắm dày công cùng chúng sanh mới trông mong hồi cựu phẩm đặng. (Tr.40-Q.2)


VIII/- Hạnh Người Tu :

1/- Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện Đạo. (Tr.30-Q.1)

2/- Một giọt máu là một khối chơn linh. Như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác thì nó đến tại Nghiệt-Đài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội cho đặng.
Vậy phải giữ gìn giới cấm ấy cho lắm. (Tr.33-Q.1)
Hạnh ngay thật là nét yêu dấu của Thầy. (Tr.10-Q.2)

3/- Các con phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con dối mà phải trọng hình đồng thể. (Tr.66-Q.2)

    Nho nhã con tua tập tánh tình,
    Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
    Một câu thất đức thiên niên đọa,
    Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
    (Tr.112-Q.1)

4/- Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy. (Tr.41-Q.1)

5/- Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà các con mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà là hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên Phật đó.

6/- Các con phải giữ gìn đức hạnh đối với kẻ trên bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung. (Tr.95-Q.1)

7/- Chẳng những phải cứu trợ kẻ ngoại đạo mà lại cứu kẻ nghịch cùng mình trong cơn nguy nữa. (Tr.93-Q.2)

8/- Phải dồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu sự giúp đỡ nhau ấy sẽ dìu các con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng để tránh khỏi nơi cùng khổ tiều tụy. (Tr.14-Q.2)

    Quyền biến dầu dùng khi buổi ngặt
    Dằn lòng nhớ tránh kế mưu gian.
    (Tr.15-Q.1)

9/- Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Có thương yêu nhơn loại mới hòa bình, càn khôn mới an tịnh.

10/- Các con thường để mắt dòm lên thấy kẻ cao sang thì các con cho rằng các con vô phúc, còn nhìn xuống thấy đồng chủng thấp hèn thì các con lại đem lòng khinh bạc. Ấy là một điều vô Đạo. (Tr.94-Q.1)

11/- Các con đã rõ Đạo thì phải biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian này. Những sự lãng phí se sua ở đời này Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy. (Tr.48-Q.1)

    Mình Thánh mình Hiền mình biết lấy
    Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai.
    (Tr.111-Q.1)

12/- Các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, chia vui sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui vẻ đó. (Tr.90-Q.1)

13/- Đạo tại lòng bác ái và chí thành.
Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ bằng Trời Đất.
Còn chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà đối đãi trong đời và trong Đạo dù kẻ phú quý đến bậc nào đi nữa mà không có lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc. (Tr.45-Q.2)

14/- Tham gian nhập vào nhà thì nhà không chánh giáo, tham gian nhập vào nước thì nước hết chơn trị, tham gian đã lộng toàn thế giới thì thế giới hết Thánh Thần. (Tr.63-Q.2)

15/- Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy. (Tr.98-Q.1)


IX/- Luật Phản Diện :

1/- Quỉ Vương là tay diệt hóa. (Tr.69-Q.2)

2/- Ngày nay, Đạo đã khai tức là tà khởi. (Tr.34-Q.1)

3/- Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp "Tam kỳ phổ độ", Quỉ Vương đã khởi phá khuấy chơn Đạo, đến danh Ta nó còn mượn,duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rằng Ta đến với huyền diệu này, mượn cơ mầu nhiệm, hiệp Tam Thập Lục Động đổi gọi Tam Thập Lục Thiên. Các bên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên Tả Đạo. (Tr.38-Q.1)
Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình, chung quanh các con dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lẫn lộn với các con. (Tr.13-Q.1)

4/- Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại hằng ngày xúi biếu nó cắn xé các con, song Thầy cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức các con. (Tr.69-Q.1)

5/- Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con trần lỗ còn bỏ Đạo thì các con ở dưới phép Tà Thần. (Tr.34-Q.1)

6/- Những sự phàm tục đều là mưu kế của tà mị yêu quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh Đạo của các con. Những mưu quỉ quyệt ấy do lịnh của Thầy dùng để thử các con. (Tr.34-Q.1)

7/- Các con không Đạo thì là tôi tớ ủy mị. (Tr.70-Q.1)

8/- Thầy đến lập cho các con một nền chơn Đạo, tức là mỗi sự chi dối trá là chẳng phải của Thầy. (Tr.77-Q.1)

9/- Thầy đến là chủ ý để dạy cả nhơn sanh đặng hòa bình chớ chẳng phải đến đặng giục thêm nghịch lẫn nhau. (Tr.77-Q.1)
Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị người chê rồi còn biếm nhẻ nữa phải nghịch chánh lý chăng ?
Trong phần đông các con có nhiều kẻ ấy. (Tr.45-Q.1)

 

 

Thời khoa học điện tử đã đưa nhân loại đến chỗ hợp đồng, trộn lẫn nhiều văn hóa đa dạng. Đạo Cao Đài chủ trương đại đồng tiểu dị,thống nhất mà không đồng nhất trong nền văn hóa các dân tộc.

 

Việc "Qui tam giáo,hợp ngũ chi", đó là du nhập văn hóa bên ngoài để biến thành của mình. Thánh chỉ của Đức Cao Đài nhằm mục đích nối tiếp truyền thống của nền văn hóa Việt Nam. Thật vây, thử hỏi các nhà ngôn ngữ có bao nhiêu tiếngViệt có gốc từ chữ Hán, Pháp…Các nhà dân tộc học hãy trả lời cho ta rõ có bao nhiêu nghi lễ Trung Hoa thành nghi lễ Việt Nam. Đạo Cao Đài theo truyền thống tổ tiên, du nhập, gạn lọc "biến của người thành của ta"và phát triển lên tầm cao mới. Đó không phải là lắp ghép tạm bợ "hổ lốn" các Thần Thánh thế giới lên trên một Thiên bàn Cao Đài mà là cả quá trình công phu công quả của hằng triệu tín đồ qua mặc khải của Đấng Toàn Năng. Việc phượng thờ nơi Tòa Thánh Tây Ninh xác nhận điều đó.

 

Chuyện du nhập văn hóa không riêng nơi người Việt Nam nói chung, đệ tử Cao Đài nói riêng mà các nước trên thế giới, không nền văn hóa lớn nào mà không trải qua quá trình chế biến văn hóa. Nền văn hóa Pháp chẳng hạn : Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng (Renaissance) ảnh hưởng sâu đậm văn hóa La Mã, chủ nghĩa cổ điển thì in dấu thời cổ Hy Lạp, còn "thế kỷ ánh sáng" lấy nguồn từ văn hóa Anglo-Saxon và chủ nghĩa lãng mạn Pháp rút từ nền văn hóa Germanie.

 

Vậy quá trình "qui tam giáo,hiệp ngũ chi" của Đạo Cao Đài không những nằm trong truyền thống dân tộc Việt Nam mà cũng nằm trong thông lệ của nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới.

 

Đạo Cao Đài chủ trương qui hợp các tôn giáo trên thế giới đưa đến thống hợp văn hóa. Muốn đạt được một nền văn hóa nhân loại, người tín hữu Cao Đài phải biết quên mình là người VN, quên cả mình là người Đạo Cao Đài nữa : "Quên tất cả để được tất cả". Hãy thực hiện Thương yêu và Công Chánh, bác ái và công bằng của Đức Chí Tôn dạy. Hãy "từ bi hỉ xả" quên mình mà làm nên cho người, giúp người nên Đạo" làm cho cuộc đời an lạc, thiên đàng tại thế.

 

Thực tế, "không có những vấn đề triết học nào để giải quyết cả,chỉ có cuộc sống mà thôi". (Il n'y a pas de problèmes philosophiques à résoudre, il n'y a que la vie à vivre.), một nhà Đạo học Ấn đã nói như vậy. Giai đoạn này không cần bàn đến việc qui hợp nữa. Bản thân mỗi người tín hữu hãy giang rộng tay ra tiếp thu mọi văn hóa nhân loại, tháo tung ranh gới văn hóa.

 

"Ngày nay mối tương quan giữa Đông Phương và Tây Phương không còn là một vấn đề đưa ra thảo luận ở đại học nữa" (Jean Herbert, Ce que l' occident peut apprendre de l'orient)

Trong quyển La Fin d'un Mythe, Carlos Suarès cũng viết : "Chân lý là sự tổng quát của hai đối cực, chớ không phải là sự đề cao cái này, phủ nhận cái kia".

Henri Regnault, Phó Chủ Tịch Ủy ban quốc tế của Đại Hội Thần Linh học thế giới đã phát biểu: "Cao Đài giáo xây dựng trên căn bản Thần linh học có thể giúp ta thống hợp tôn giáo, triết lý,khoa học, tâm lý học và nghệ thuật.Cao Đài có thái độ khoan dung rộng rãi đối với những tôn giáo khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người cũng như tôn trọng chơn lý, nguồn cội của Đấng Chí Tôn vô biên, vô thường, vô danh, vố đối. Nếu ta phải tổng hợp tôn giáo, khoa học, triết học, tâm lý học, nghệ thuật để tìm hiểu Thần linh thì tôi cho Cao Đài giáo có thể rất có ích cho chúng ta để đạt tới mục đích ấy.

Người có đức tin như người không có đức tin đều có thể vào trong Thánh Thất Cao Đài để trầm tư mặc tưởng và cầu nguyện theo sở vọng. Đó chẳng phải là một lý thuyết tâm lý sâu xa hay sao? Cai đó chẳng có gì lạ.Vì Cao Đài giáo nguồn gốc là ở chỗ siêu trần mà lại là sự nghiệp của thế nhân"(1) Đức Chí Tôn giáng dạy :

"Quốc Đạo kim triều thành Đại Đạo ,
Nam phong thử nhật biến nhơn phong".
(2)

Câu đầu hàm ý tổng hợp các nền văn hóa như đã bàn giải ở trên. Câu dưới được Đức Phạm Hộ Pháp giảng như thế này :

 

"Phong đây là phong tục Chí Tôn muốn nói phong hóa nước nhà sẽ trở nên phong hóa của loài người . Chúng ta suy gẫm coi phải Đức Chí Tôn mà quá lời không ? (trang 7)

Chúng ta thử coi nền Quốc Đạo sẽ trở nên nền tôn giáo của toàn cầu chăng? Và phong hóa chúng ta có thể thay thế cho cả nhân loại trên mặt địa cầu này chăng ?

 

Chí Tôn đã nói "Từ thử cho sắc dân ấy (VN) chỉ biết nô lệ, chưa biết vi chủ, vì vậy mà ta đến bồi thường sự bất công ấy."Đạo đã dạy chúng ta chí thiện, chí nhơn, đại từ, đại bi. (trang 8)

 

May thay, tổ phụ chúng ta để lại món thuốc cứu cả tinh thần nhơn loại… Phong hóa nhà Nam không lúc nào sơ thất sự phụng tự, từ phong hóa trong nhà, phong hóa trong làng, phong hóa trong nước, phong hóa chung xã hội nhơn quần (tr 9). Nền tôn giáo chơn thật buộc vạn quốc phải nhìn nhận là một tôn giáo đặc sắc của các sắc dân chơn thật hơn hết (tr.42)

 

Tổ chức xã hội của chúng ta khéo léo làm sao đâu ! Bần đạo dám chắc rằng cao thượng hơn hết. Hại thay, quốc dân ta ôm của báu mà không biết quí trọng, lại liệng đi rồi chạy theo ăn mót đồ bỏ của thiên hạ lấy làm của mình. Thế nên, Đức Chí Tôn thức tỉnh nhơn sanh với câu : "Nam phong thử nhựt biến nhơn phong", ý rằng phong hóa của chúng ta nó sẽ biến thành phong hóa của toàn nhơn loại".(2)

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1)Comment réaliser l'universalisme religieux, Le Caodaisme et réincarna (2) Quốc Đạo Nam Phong,Kiến phong 1971.

 

Cái Nam phong đó,Thanh Sơn Đạo Sĩ là người tiêu biểu. Nhân cách Nam phong biểu hiện qua Tam giáo đồng nguyên trong máu huyết người. Người không màng danh lợi, từ quan, ảnh hưởng Lão Giáo, yêu dân, đau nỗi đau của dân, ảnh hưởng thuyết từ bi bác ái của Phật giáo; sâu đậm nhất của Khổng giáo. Đạo nhân len lõi vào tận thớ thịt buồng tim của Thanh Sơn Đạo Sĩ.

 

Học thuyết tôn quân trong Kinh Xuân Thu không phù hợp với ngày nay, nhưng "Chánh sách của Đạo Cao Đài giúp quân chủ tạo dân quyền".(3)

 

Nhưng chủ trương Đức trị trong Luận ngữ còn có giá trị : tu thân, trị quốc, bình thiên hạ. Khổng tử lấy đạo nhân làm căn bản. Nhờ có Nhân mà con người khác con vật. Lý tưởng chính trị cao nhất của khổng giáo là chính sách "Vô vi nhi trị" tương đồng với chủ trương "trị bình" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

 

"Cư kính nhi hành giản" (ăn ở chơn chánh hành động giản đơn). "Người có nhân hễ muốn tự lập thì lo lập cho người, còn muốn thông đạt thì cũng lo cho người thông đạt ; hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người như thế".(Nhân giả kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân, nhân cận thủ thị; khả vị nhân chi phương dã dĩ( (luận ngữ),

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(3)Lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp , Q.1 tr.41

 

Chủ trương "Quyền Công Chánh" là nhằm thức tỉnh Chánh Quyền Pháp hãy giáo dục quần chúng sao cho có ý thức trách nhiệm hơn là kềm kẹp, bắt buộc họ. "Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế và hình phạt để trị dân thì dân sợ mà không phạm pháp đó thôi, chớ thật lòng họ đâu biết xấu hổ". (Luận ngữ), nghĩa là lấy đức độ mà trị, tự nhiên dân sẽ trở nên hiền tốt.

 

Tóm lại, Nguyễn Bỉnh Khiêm thấm nhuần học thuyết Tam giáo mà Nho giáo là nền tảng. Nhân cách của Thanh Sơn Đạo Sĩ tiêu biểu cho Nam Phong .Cái phong hóa mà Đạo Cao Đài đề cao để đạt tới mức Thượng Đức thi đua và Trấn áp Thượng Lực, Thượng Mưu (4)

 

Thượng Lực mà thời đại dùng sức mạnh để xâm chiếm nước ngoài, buộc người làm nô lệ. Thượng mưu là dùng trí xảo của mình để bắt kẻ khác lệ thuộc .

 

Chỉ có Thượng Đức , cái mà Đức Hộ Pháp nói "phong hóa tổ tiên để lại ", và Thanh Sơn Đạo Sĩ tiêu biểu : rất thương người , hợp lòng người, chỉ dùng đạo tâm , đức độ của mình để cảm hóa người.

Nếu cả thế giới biết hồi đầu hướng thiện, chính là lúc "Nam phong thử nhựt biến nhơn phong:, lấy văn hóa người Việt Nam làm văn hóa nhân loại.

 

Ngày đó là ngày "thiên hạ thái bình" và đại đồng thế giới vậy . Bởi lẽ,thầy đã phán truyền : "Giáo Lý của Thầy là ĐẠI ĐỒNG. Nến nhơn loại biết tu thì đó là nền hòa bình hứa hẹn chung cho tất cả các dân tộc". (TNHT.I tr.122)

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(4) Xem "Đại Đạo Giáo Lý " cùng người viết

 

 

Đạo Cao Đài có một giáo lý bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều có một Đấng cha chung trong một đại gia đình với thuyết đại đồng,lấy tình thương xóa bỏ hận thù ."Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ sức THƯƠNG YÊU nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à !" (TN 2, tr.69)

 

Giáo lý cao thượng, tiến bộ, diệt mê tín dị đoan, coi cõi Hằng sống (Thiên đàng) và thế gian (Địa đàng) chỉ là một. "CẢNH NHÀN chẳng phải đâu xa, chỉ ở nơi ĐỊA ĐÀNG đây."(Đàn đêm 21-2 -1927) hoặc "Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa". (Đàn 28-1-1926).Thầy chỉ rõ : "Hễ cái tâm sáng suốt thiện từ đạo đức là thiên đàng, còn tâm mê muội vạy tà hung bạo là Địa ngục cũng chỉ tại cái tâm". Chính cái tâm của một số môn đệ thấp kém mà Thầy răn dạy : "Đạo Thầy không mê tín dị đoan , một số môn đệ bài biện vô lối, chẳng bao lâu thành ra mối bàn môn Tả Đạo". Một số người đã đưa lên bàn thờ những Thánh Tiên thần thoại lý tưởng có từ lâu trong dân gian, nhằm lấy biểu tượng siêu thoát đạt đạo của các Đấng ấy mà tế độ chúng sanh,chớ các Đấng ấy không phải là chủ tể và chủ động trong việc giáo hóa nhơn sanh trong kỳ Ba phổ độ này. Dù vây, điều đó không phù hợp với nền Tân Tôn giáo nên Đức Chí Tôn cho là "Bày biện vô lối"

 

"Không có nhà thờ nào có ma thuật cả, vì ma thuật luôn giấu diếm, còn nghệ thuật, tôn giáo mở toang cửa mời gọi mọi người"

"Cái đẹp tự thân tôn giáo không đồng nghĩa với bất kỳ cái đẹp lý tưởng nào, nhưng nó thể hiện một cách đặc thù của một nghệ thuật chân tính về nó".

"Thế nên, nghệ thuật và tôn giáo đều mang chức năng phục vụ xã hội hay một cộng đồng. Điều đó, khiến cả hai không thể bị phân hóa hay chia cắt thành những bộ phận rời" (E.Durkheim).

 

Người tín hữu Cao Đài nào cũng thông suốt lời dạy sau đây của Đức Chí Tôn: "Thầy đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con đắc đạo". (TNHT .I, tr.12) Nói thế không phải ai nhập môn vào đạo đều đắc đạo dễ cả mà phải dày công tu luyện. Một đằng khác, Đức Chí Tôn nói rõ hơn ; "Than ôi ! Đã bước vào đường đạo hạnh mà chẳng để công tìm kiếm,học hỏi cho rõ ngọn nguồn thì làm phận sự môn đệ như thế có ích chi cho nền thánh giáo đâu? Đạo trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần,sanh đứng vào thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ đến kết quả hồn qui Thiên ngoại : Lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi hành. Phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức để cho có ích chung nữa đặng.

Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thây ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng để hành việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do theo ý Trời, phạm một nét vạy tà là phạm nơi Thiên luật. Phải quấy Thần Thánh chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc, khá biết vậy!"

 

Theo Thánh ý, dù có quyền thiêng liêng giúp đỡ, nhưng con người phải tự cứu lấy mình : "Tận nhơn luật tri Thiên mạng" hay "có Trời mà cũng có Ta", chớ không phải mọi việc đều buông xuôi phó thác cho số mạng.

"Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Nếu đời không tội lỗi, đâu phải nhọc đến công Thầy". (TNHT.I, tr.33)

'Thầy khuyên các con hãy mỡ rộng trí ra mà thương nhơn loại,thì mới hạp ý thầy.Các con phải giữ gìn đức hạn, đối với kẻ trên bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung". (TNHT.I tr.71)

 

Đức Chí Tôn dạy ta xử ngược lại thế đời: " Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà mạnh, các con nhỏ nhoi mà quyền thế, các con nhịn nhục mà hành phạt. Cử chỉ của các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì gần ngôi Tiên Phật đó".(TNHT. I tr.46)

      Nho nhã con tua tập tánh tình,
      Dưới đòi đừng tưởng một mình lanh.
      Một câu thất đức thiên niên đọa,
      Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành
      (TNHT.I, tr.122)

Đó là hành trang tối thiểu để người đạo đi vào cuộc đời (nhập thế). Cuộc sống trong xã hội luôn luôn thay đổi và biến động. Cách tu, lối tu vì thế cũng phải tiến bộ cho phù hợp với đời. Thời còn ăn lông ở lỗ, núi hang là nơi ở thiên nhiên nên con người chọn lối tu núi tức là tu Tiên. Khi con người biết quần tụ cất nhà để ở thì con người nảy ra lối tu chùa tức tu theo phật.

 

Trong luật cạnh tranh sinh tồn, người đẻ mà đất không đẻ nên thức ăn thiếu thốn, người ta giành giật nhau từng miếng ăn manh áo. Đức Khổng Tử ra đời kêu gọi con người phải biết phải học nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và tu thân, tề gia,trị quốc, bình thiên ha. Từ đó nảy sinh lối tu tề của Nho giáo.

 

Xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ, nếp sống sinh hoạt cũ không còn thích hợp nữa. Thành thị hay nông thôn, chỗ nào cũng có người, cũng có chợ. Người ta sống giữa chợ đời, trò đời thì cũng phải có lối tu chợ tức tu tâm. Đó là lối tu của người tín hữu Cao Đài hiện nay, mỗi người đều tự giác tha, và điều rõ câu : "Ngô thân bất độ hà thân (?nhân) độ". Đạo ẩn trong lòng mọi người, nó sẳn sàng trấn áp mọi "nộ, ố, bi, ai". Họ có một nội tâm sinh động và một nội lực thâm hậu để chống trả mọi cơn khảo đảo từ ngoài đưa vào. Thế mới gọi là "đại ẩn ẩn thành thị" tức tu giữa thành thị mới gọi là đại ẩn. Lại có câu : "Nhất tu thị, nhị tu sơn".

 

Xét về quá trình các phương pháp tu, từ tu núi, tu chùa, tu tề, tu chợ, chắc chắn tu giữa chợ là lối tu khổ luyện nhất . Người tín hữu không bỏ nhà ẩn thân nơi non cao, không vào chùa để tham thiền nhập định mà tiếp xúc với mọi người, chung đụng với mọi người, gần gũi với mọi cám dỗ chực đưa bất cứ tín hữu nào vào đường tội lỗi, nếu chưa luyện đạo tâm vững vàng. 

 

Đạo lập ra để cứu đời, tận độ chúng sanh toát khỏi nguy nàn. "Mở một mối đạo chẳng phải thường tình,mà sanh nhằm đời gặp đặng mối đạo chẳng phải dễ". (TNHT .I,tr.53) "Đạo Trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn". (TNHT.II, tr.114)

"Các con vì Đạo là việc công lý, mà công lý đánh đổ cường quyền thì đạo mới phải đạo".(TNHT.I, tr.98)

Thế nên, ngay từ đầu, Đạo Cao Đài nêu rõ chủ trương của mình là vì hòa bình, dân chủ,tự do.

    "Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo hòa bình dân chủ mục,
    (1) Đài tiền sùng bái Tam Kỳ cộng hưởng tự do quyền."

Bởi lẽ, "Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành". (TNHT.I, tr.98)

Làm thế nào để khỏi thấy một điều bất bình? Đức Chí Tôn dạy phải thi hành "Luật Thương yêu, quyền công chánh"."Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn Khôn thế giới . Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn Khôn mới an tịnh".

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(1)Đúng là chữ CHÁNH , giáo sư Latapie (Phó quản lý nội viện) sợ pháp làm khó dễ nên xin đổi ra chữ MỤC .

 

Giáo lý Đạo Cao Đài đề cao gia đình một vợ một chồng. "Cấm người trong Đạo, từ ngày ban hành luật này về sau, không được cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối …Vợ chồng người Đạo không được để bỏ nhau.(Tân Luật, TN 1966, tr.12)

 

Tuy vậy, Đức Chí Tôn hằng nhắc nhở chư mộn đệ : Tà dâm là một trọng tội. "Phàm xác thân con người, tuy con người coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một khối chứa vàn vàn, muôn muôn sinh vật. Những sinh vật ấy cấu kết nhau mà thành khối. Vật chất ấy có tính linh…
Các vật thực nào tì vị, lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Nó có thể hườn ra nhân hình, mới có sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại. Vì vậy mà một giọt máu là một khối chơn linh.
Như các con dâm quá độ là sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác, nó đến tại Nghiệt Đài mà kiện các con. Vậy phải giữ gìn giới cấm ấy cho lắm".
(TNHT.I, tr. 26)

 

Vì nhận nơi con người điều có tính dục do cha mẹ truyền lại nên chấp nhận người Đạo phải có vợ chồng nhưng tuyệt đối cấm dâm dục. Khi trở thành chức sắc, Tân Luật "Cấm vợ chồng bỏ nhau" nên chức sắc Đạo Cao Đài có vợ có chồng là vậy. Không làm điều chi trái với thiên nhiên để rồi phải vụng trộm như các hàng giáo sĩ của các tôn giáo khác.

 

Vả lại, nếu đi tu mà bỏ nhà để (?) vợ, không làm điều gì có ích cho gia đình, tìm chỗ thanh vắng lo cho riêng mình thì có ích chi cho xã hội. Đó không phải là chủ trương của Đạo Tam Kỳ. Vào Đạo tu tâm sửa tánh để trở nên người hiền lành nhân đức, làm điều ích nước lợi dân mà phổ độ chúng sanh vào đuờng ngay nẻo phải.

 

Người tín đồ nào cũng hiểu lời nói của Mạnh Tử "Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại". Ngài than không có người hiền nối mối Đạo, đó là tội vô hậu lớn. Về sau, Châu Tử chú giải theo phong kiến "Tội không con là lớn hơn cả" để cưới hầu thiếp. Vả lại, cổ nhân có dạy : "Trong sử hay bút ký, mấy điều gian hại chẳng luận chữ hiếu có con hay không con".

 

Năm 1923, Đức Vân Trung Tử giáng đàn dạy : "Chẳng phải ông MạnhTử nói không con là bất hiếu. Nếu không con bất hiếu sao Lục Tổ trước còn thành Phật đặng?" (Hội Lý Xiển Chơn, TN 1959, tr.13)

Trong gia đình vợ chồng "Các con hòa hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt". (TNHT.I,tr.51) Nam Nữ bình đẳng : "Giục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam" (Nữ Trung Tùng Phận ). Trong một xã hội nữa phong kiến, nữa thuộc địa mà giáo lý  Đạo dạy Nam Nữ bình quyền, đó không phải là cuộc cách mạng đổi mới cho thân phận người phụ nữ ư? Trong khi đạo Kitô, phụ nữ không được làm Linh Mục.

 

Thêm vào đó, theo cổ tục, khi có kinh nguyệt, người phụ nữ tránh ra ngoài thì giáo lý Đạo dạy : "Không vì nguyệt huyết kỵ anh linh". Sự tiến bộ của khoa học ngày nay đã giải thích được điều đó. Vốn là một tôn giáo tiến bộ nên : " Việc tang không nên xa xí, không nên để lâu ngày, không dùng đồ âm công loè loẹt, chỉ dùng toàn đồ trắng. Trong việc tế vong linh, không nên dùng vật hy sinh, nên dùng toàn đồ chay thì được phước". Việc cầu siêu vong linh trong tuần cửu cửu (81 ngày), tiểu tường (200 ngày) đến Đại tường (300 ngày) là mãn tang". (Tân Luật, sđđ, tr.13)

 

Xem thế, thời gian mãn tang khó trong Đạo chỉ có 581 ngày trong khi phong tục cũ phải mất 3 năm (1095 ngày) gấp đôi thời gian trong Đạo, choán hết thời gian làm ăn, ngăn trở sinh hoạt.

 

Đạo cấm hẳn vọng ngữ (Ngũ giới cấm) : "Các con nói dối dù chưa dối người, các con đã dối lương tâm mà lương tâm tức là chơn linh". (Đạo Sử II,tr.273) Năm Mậu Thìn (1928), Đức Chí Tôn cấm tham lam: "Tham vào tâm, tâm hết Đạo, tham vào chùa, chùa hết chánh giáo, tham vào nước, nước hết chánh trị, tham lam lộng khắp thế giới, thế giới hết Thần Tiên. Lòng tham có thể giục lỗi Đạo cùng Thầy". (TNHT.II, tr.63)

Nhất là bói toán, đồng cốt, giết sinh vật để tế lễ,trong Đạo Cao Đài rất cấm kỵ. (TNHT.I,tr.86)

Những điều mê hoặc dị kỳ,
Các con nên phải xa đi đừng làm.
Kho tàng là chuyện bá xàm,
Nộm hình, tà khí, độn nham tà quyền.
Bỏ vòng vàng bạc, giấy tiền,
Thánh Thần đâu có quá điên lấy xài!

"Thầy dạy con đừng cúng chi hết, vì chơn nhơn chẳng hưởng của phàm bao giờ. Còn làm việc đãi, chẳng nên gọi là cúng". (Đạo Sử II, tr.123)

 

Tắt một lời, Đạo Cao Đài là một tôn giáo hướng thượng tiến bộ. "Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian gọi là tà quái dị đoan, nếu có xảy ra một ít dị đoan trong Đạo đã dùng lỡ, ấy là tại nơi tâm của một vài môn đệ, nếu chẳng giữ theo lẽ Chánh mà hành Đạo và bày biên nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau sẽ trở nên một mối Tả Đạo". (TNHT.II, tr.42)

 

Việc tế lễ Đức Chí tôn của Đạo Cao Đài hết sức tiến bộ. Xét quá trình các tôn giáo từ xưa tới nay, ta thấy rằng : Vào thời thượng cổ, quan niệm về Thượng Đế còn mơ hồ. Con người thờ Tô tem gần như rộng khắp mặt đất.

 

Trong Cựu ước, người ta hiến lễ lên thần linh bằng đồng nam đồng nữ làm vât hy sinh. Đạo giáo thì độc tôn, Thánh Moise là Đấng hằng hữu và phải tàn sát tất cả sắc dân nào có tín ngưỡng riêng.

 

Qua thời Trung Cổ, người ta quan niệm Thuợng Đế có quyền tác họa , ban phước. Kẻ nào làm lành được lên Thiên Đàng hay Cực Lạc, còn đứa dữ bị đày vào hỏa ngục hay Địa ngục. Tôn giáo nào cũng cho mình là Chánh là Phải . Do đó mới gây ra chiến tranh tôn giáo như ở Ấn Hồi hoặc kỳ thị tôn giáo ở Âu Châu .

 

Về tế lễ Trời Đất, thay đổi những con vật lớn bằng những con vật nhỏ gọi là Tam sanh mà không còn dùng con người làm vật hy sinh như trước nữa.

 

Thời kỳ hiện đại, ngoài những kinh sấm truyền báo trước Đạo Cao Đài xuất hiện (2), ở Châu Aâu có Hội thông thiên học , Hội Baha'i tuyên truyền thuyết tôn giáo Đại Đồng (La religion universelle) và báo tin cho toàn nhân loại sẽ có một nền tôn giáo chủ trương Đại Đồng thế giới ra đời . Đến năm 1926, Thượng Đế đã giáng trần lập Đạo Cao Đài và đã có Giáo hội, giáo pháp, kinh lễ chuẩn định.

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(2) Xem "Đại Đạo Sử Cương" ,quyển I

 

Đạo Cao Đài cũng quan niệm rằng : Việc hiến lễ lên Đức Chí Tôn không còn chi bằng sanh mạng của mình. Nhưng thay vì dùng đồng Nam, đồng Nữ hoặc dùng sinh vật để cầu phước , cầu danh lợi cho riêng mình, người tín hữu Cao Đài dùng Tam Bửu là ba món quí báo nhất của con người gồm tinh - khí - thần hay bằng Bông Rượu Trà dâng lên Đức Đại Từ Phụ.

    -Bông tượng trưng cho hình thể hữu vi(thể xác) tức là Tinh.
    -Rượu tượng trưng cho trí não khôn ngoan tức là Khí.
    -Trà tượng trưng cho linh hồn tức là Thần.

Việc hiến lễ của Tính hữu Cao Đài không cầu mong phước lộc cho riêng mình mà chỉ nguyện dâng cả thân này, từ thể xác, trí não đến linh hồn làm con vật hy sinh để phục vụ, thi hành lịnhcủa Đức Đại Từ Phụ đưa nhân loại đến cảnh huynh đệ đại đồng. Tắt một lời, xét việc hiến lễ từ xưa đến nay, cách hiến lễ của Đạo Cao Đài có ý nghĩa cao thượng và tiến bộ nhứt.

 

Khi bước vào làm lễ Đức Chí Tôn, ta gặp bức bích họa Tam Thánh (3) Chặn ngang đường. Chỉ một bức tượng này thôi đủ nói lên tôn chỉ, mục đích, tuyên ngôn, giáo lý của Đạo Cao Đài. Nội dung bản Thiên Nhơn Hòa Ước gồm có năm đề cương khiết lãnh như sau:

 

1/-Tôn chỉ :
Vạn giáo qui nhứt bổn. Trong đó Thanh Sơn Đạo Sĩ đại biểu Lão giáo, Nguyệt tâm chơn nhơn (Victor Hugo) đại biểu Thánh giáo, Tôn Trung Sơn đại biểu Phật giáo (Vì tiền kiếp là Nguyễn Trãi) (4). Tuy biểu tượng Tam giáo nhưng bao hàm vạn giáo vì ba tôn giáo trên Thiên bàn xếp hàng ngang nên còn chấm lửng đến vô tận dẫn đến Đại Đồng Tôn giáo.

 

2/-Mục đích :
Đại Đồng nhân loại, trong đó, TSĐS là người Việt Nam. NTCN là người pháp và TTS là ngưới Trung Hoa . Tuy ba sắc dân mà biểu trưng cả nhân loại.

 

* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
(3) Bức bính họa này do họa sĩ Lê Minh Tòng vẽ vào năm 1947 (thời kỳ trang trí Tòa Thánh) do ý của Đức Hộ pháp.
(4) Xem "Tam Thánh Bạch Vân Động" cùng người viết.

 

3/-Tuyên ngôn :
Nhân loại cùng Đấng cha chung. Hiện tượng hóa thân từ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người Việt Nam chuyển kiếp là người Pháp Richelieu… Hoặc trước ta ở Ấn Độ theo Aán giáo khi đầu thay sang Israel ta sẽ theo Do Thái giáo. Thế thì ta thay đổi, tôn giáo thay đổi, nhưng Đức Thượng Đế chỉ có MỘT mà thôi.

 

4/-Triết lý :
Trời còn hiệp nhứt. Trong bản hòa ước có 4 chữ Thiên Thượng Thiên Hạ (Dieu et Humanité) "Thiên Nhơn vốn hiệp nhứt rồi bất tất phải nói hợp" (Trình Hiệu). Trong Đạo Cao Đài, Trời người hợp nhất qua trung gian đồng tử tức phò cơ, chấp bút .

 

5/-Giáo lý :
Trong bản hòa ước ghi rõ: bác ái, công bình, thương yêu và công chánh. Loài người chỉ cần thực hiện hai chữ THƯƠNG YÊU là sẽ thấy ĐẠI ĐỒNG HUYNH ĐỆ.


Tóm lại, Đức Chí Tôn đã dạy, Thầy đến dạy sự thương yêu và diệt mê tín, chẳng dùng điều chi tà giáo dị đoan. Thật là một tôn giáo hướng thượng và tiến bộ. Đạo Cao Đài làm sáng lại truyền thống Nam Phong chớ không phục cổ. Xây dựng tương lai Nhơn phong với mô thức xã hội văn minh giản dị phác thực chớ không phải thứ văn minh mưu xảo phồn tạp.

 

 

về trang chủ