Ðại - đạo  Tam -  Kỳ  phổ - độ

Tòa - Thánh  Tây - Ninh

 

 

GIÁO LÝ LƯỢT KHẢO

Tác gỉả : Tiếp Pháp Trương Văn Tràng

 

Chương thứ năm

 

Vỏ trụ quan

ĐẠO

Muốn bàn giải cái quan-niệm Võ-Trụ, lẽ tất-nhiên, chúng ta phải nói đến chữ Đạo ; bởi vì Trời-Đất vạn-vật đều do Đạo mà sanh sống và cũng do Đạo mà tấn-hóa đến chỗ Chí-thiện, Chí-mỹ, Chí-nhơn.

Thế mà Đạo ra sao ?

Đức CHÍ-TÔN có dạy rằng :

Khi chưa có Trời-Đất thì khí Hư-vô sanh có một Thầy, và ngôi của Thầy là Thái-cực ; Thầy phân Thái-cực ra Lư ng-nghi ; Lư ng-nghi sanh Tứ-Tượng ; Tứ-Tượng biến ra Bát-quái ; Bát-quái biến hóa vô cùng mà lập thành Càn-khôn Thế-giái, rồi Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm và Người, gọi là Chúng-sanh (Xem hình Bát-quái nơi trương 49)

Bài Thánh-ngôn trên đủ khái-niệm cái Đạo xây-dựng Võ-Trụ và sanh hóa muôn loài ; nhưng, rất vắn tắt thành ra khó hiểu cho người ít đọc Đạo-thơ. Thừa dịp nầy, chúng tôi xin phân tách và thuyết-minh cho rõ thêm hơn như sau :

a)- Khí Hư-vô mà Đức CHÍ-TÔN nói trên đây vốn vô-danh, vô-sắc. Đức LÃO-TỬ tạm gọi là Đạo, rồi ngài giảng rằng :

Hữu nhứt vật hổn thành, Tiên Thiên địa sanh, tịch hề liêu hề, độc lập nhi bất cải, châu hành nhi bất đải, khả dĩ vi Thiên-địa mẫu, Ngô bất tri kỳ danh, tự chi vi Đạo . Có một Đấng tự sanh, chớ chẳng phải giống chi sanh được, có trước Trời Đất, lặng yên một mình ở trong cõi Thái-hư mà không nghiêng đổ, lưu-hành khắp nơi mà không mệt mỏi ; Đấng ấy khá gọi là nguồn sanh hóa Trời Đất ; Ta chẳng biết tên chi, song mượn chữ gọi là Đạo.

Vậy Đức Lão-Tử quan niệm Đạo là Đấng Tạo Hóa, rồi Ngài mô tả chữ Đạo đại lược như vầy : Ta suy diễn thì thấy Đạo lúc nào cũng có một, không biết đâu là đầu đuôi, manh mối ; thế mà nơi nào cũng có Đạo. Ta trông lên phía trên thì không thấy phản-chiếu ánh-sáng, xem xuống phía dưới thì không thấy ẩn-khuất bóng tối, lâng lâng trong sạch, hồn nhiên giản-dị mà chính Đạo là bản thể của Võ-Trụ, Chúa-Tể của muôn loài.

Cái Bản-thể của Võ-Trụ nói đây, kinh Phật gọi là Chơn như và nói rằng : Chơn-như giã Võ-Trụ chi bổn thể ; nải bất sanh, bất diệt, bất tăng, bất giảm, vô thỉ, vô chung. Võ-Trụ chi hiện tượng, hữu sanh-diệt, hữu tăng-giảm, hữu thỉ chung, vị chi vạn pháp. Vạn-pháp tức Chơn-như, Chơn-như tức Vạn-pháp . Nghĩa là Chơn-như là bổn-thể của Võ-Trụ, không sanh, không diệt, không tăng , không giảm, không thỉ, không chung. Còn Võ-Trụ là hiện tượng của Chơn-như ; Võ-Trụ có sanh tử, có tăng giảm, có thỉ chung, nên kêu là Vạn-pháp. Vậy Vạn-pháp là Chơn-như ; Chơn-như là Vạn-pháp.

Muốn rõ thêm, chúng ta hãy xem lời của ông Chu-Liêm-Khê là một Danh-nho đời Tống bên Tàu nói rằng : Vô-Cự nhi Thái-Cực ; nghĩa là Vô-Cực là Thái-Cực. Tại sao ? Bởi vì Vô-Cực là Tịnh-thể ; Thái-Cực là Động-thể. Cái động-thể vốn do nơi tịnh-thể mà ra, cho nên nói Vô-Cực với Thái-Cực là một. Ông lại nói rằng Vô-Cực, nguồn gốc của Võ-Trụ ; nó là không không và ở ngoài những cái mà loài ý hội được. Nhưng, tuy nói là Không mà chẳng phải là Không hẳn, vì Vô-Cực vốn tự tại, bất sanh, bất diệt. Cái tự tại ấy chưa phát động thì gọi là Vô-Cực ; còn khi đã phát động rồi thì gọi là Thái-Cực. Vậy Vô-Cực với Thái-Cực là một gốc ; nhưng Vô-Cực thì yên lặng mà Thái-Cực thì phát động và Hóa-sanh ra Thế-giái vạn-hữu.

Tóm lại Tam-giáo đều quan niệm cái lẽ Đạo như nhau, nhưng cách lập ngôn và dùng danh từ để giảng-giải thì bất đồng. Đại để như nói Vô-Cực hay khí Hư-vô vốn một thể với Thái-cực. Nhưng, Vô-Cực hay khí Hư-vô thì siêu-việt quá người ta không thể khái-niệm được mà chỉ khảo-sát được Thái-Cực là cơ biến dịch hóa sanh Trời Đất vạn-vật mà thôi. Lẽ nầy chẳng khác nào Kinh Phật nói : Chơn-như là Vạn-pháp ; Vạn-pháp là Chơn-như. Nhờ tham khảo cơ biến hóa ấy mà người ta hiểu được Đạo là khí Hư-vô, Vô-cực hay Chơn-như.

b)- Câu thứ hai trong bài Thánh-nhôn trên kia nói rằng : Thầy phân Thái-cực ra Lư ng-nghi, Lư ng-nghi sanh Tứ-Tượng, Tứ-tượng biến ra Bát-quái, Bát-Quát biến hóa vô cùng mà lập thành Càn-Khôn Thế-giái ; rồi Thầy phân tánh Thầy ra mà sanh ra vạn-vật là : Vật-chất, Thảo-mộc, Côn-trùng, Thú-cầm và Người gọi là Chúng-sanh.

Chỗ nầy, Ông Chu-Liêm-Khê nói rằng : Thái-cực có hai thể : Động và Tịnh. Động thì sanh Dương ; Tịnh thì sanh Âm. Thái-cực chỉ có một Động một Tịnh mà phân ra Lư ng-nghi, tức Thái-cực sanh Âm-Dương nhị khí.

Âm-dương có tánh tương-khắc mà lại tương-hòa. Bởi tương-khác cho nên Âm-Dương gặp nhau thì xô-xát ; chính sự xô-xác ấy thành cơ biến hóa. Mà xô-xác cùng cực rồi lại điều-hòa ; chính sự điều-hòa ấy là cơ định vị Trời Đất. Thử hỏi Âm-Dương nhị khí xô-xát, điều-hòa, cách nào mà định vị Trời Đất ? Thì sách chép rằng : Trong lúc Âm-Dương hỗn-độn, khí nhẹ bay lên thành Trời ; khí nặng chìm xuống thành Đất. Khi Trời Đất định vị cao thấp rồi trong khoảng không gian ở giữa Trời Đất, khí Âm khí Dương lại xô-xát điều hòa nữa mà sanh hóa muôn loài. Vạn-vật đến lượt chúng nó, khi đã trưởng thành thì giống đực, giống cái giao-cấu mà sản xuất thêm mãi ; chỗ nầy, Kinh Dịch nói : Thiên-Địa nhơn huân vạn-vật hóa thuần ; Nam Nữ cầu tinh vạn-vật hóa sanh .

Ông Chu-Chu-Liêm giải một cách khác hơn nữa rằng : Dương độn thì biến hóa ra, Âm tịnh thì tập hợp lại ; bởi sự biến-hóa ra và sự tập-hợp lại mà Âm-Dương sanh ra Ngũ-hành là : Thủy, Hỏa, Kim, Mộc và Thổ. Cái chơn của Vô-cực là Lý, cái Tánh của Âm-dương Ngũ-hành là khí.

Lý Khí diệu hợp mà quẻ Kiền sanh con trai, quẻ Khôn sanh con gái. Rồi Âm-Dương giao cảm (Khí hòa) mà hóa sanh vạn-vật ; Nam Nữ giao cảm (hình hòa) mà sanh sản vô cùng tậm. Cơ tạo hóa vạn vật giảng giải như thế cũng khá rõ rồi. Bây giờ thử so sánh Đạo-học với Khoa-học.

Khoa-học ngày nay cũng nhìn nhận cái thuyết Âm-Dương do Đạo-học phát minh là đúng sự thật ; song, Khoa-học dùng danh từ khác. Đại-để như nói rằng : Trong Võ-Trụ bao-la, có những điện-tử vận hành mãi mãi, không lúc nào ngừng, mà sự vận-hành của điện-tử luôn luôn điều-khiển bởi một Sức mạnh phi thường (tức ám chỉ về Thượng-Đế). Trong điện-tử, Khoa-học lại nhận thấy có hai thứ khác nhau là : Điện-tử Âm và điện-tử Dương. Hai thứ điện-tử nầy dung hiệp làm một Nguyên-tử (1) (Điện-tử-hệ). Nhiều Nguyên-tử dung hiệp thành một Tế-bào là nguyên-liệu sanh thành vạn-vật. So sánh hai thuyết nầy thì chúng ta thấy Khoa-học nói : Điện-Tử Âm và Điện-tử Dương hiệp thành nguyên-tử, còn Đạo-học lại nói : Khí Âm và khí Dương diệu hiệp thành một Khí-cơ . Hai danh-từ tuy khác mà tựu-trung chỉ là một vật thôi.

Thật khoa-học tiến một bước rất dài. Ước gì một ngày kia Khoa-học và Đạo-học hiệp nhau thành một Học-thuật vừa tinh-thần, vừa vật-chất, để đưa nhơn-loại tiến lên đường tiến hóa.

(1) Nguyên-tử.- Chất hơi, chất đặc, chất lỏng, vân vân... đều là Vi-tế-bào (cellule) cấu thành. Trong mỗi Vi-tế-bào co& nhiều Nguyên-tử (Atomes). Người ta phân tách nguyên-tử ra thì có Điện-tử Âm và Điện-tử Dương.

Một hột Điện-tử Dương có nhiều hột Điện-tử Âm chạy chung quanh, cũng như nhiều quả địa-cầu xoay chung quanh mặt Nhựt vậy.

c)- Đó là bàn chung Võ-Trụ Vạn-vật. Bây giờ, chúng ta xét trở lại người ta đối với Đạo là thế nào?

Mặc dầu chúng ta nhờ Cha Mẹ (hình hòa) mà sanh ra Nhục-thể ; song phần Hồn (Lý) và Khí cũng vẫn còn liên đới với Đạo, rất chặt-chẽ. Đó là chỗ mà Đơn-kinh nói rằng : Người là Tiểu-Thiên-Địa, tức người có đủ Âm-Dương và Ngũ-Hành, y như Võ-Trụ là Đại-Thiên-Địa vậy. Thế đủ hiểu người ta nhờ Cha Mẹ mà có Nhục-thân, nhờ Võ-Trụ mà có phần Khí và nhờ CHÍ-TÔN ban cho một điểm Tánh-linh để làm Hồn ; gọi tóm tắt là Tinh-Khí-Thần (Tam-bửu).

Thì đây, sự phản bổn hườn nguyên của người đời cũng chỉ có theo Đạo mà trở về với Cội-Sanh mình là Trời mà thôi ; chớ chẳng có con đường nào khác. Hoặc nói trắng ra là một Chơn-linh đã đến cõi Trần rồi ; nay muốn trở về với Thái-cực thì phải nương theo sự vận-hành của cái máy Âm-Dương mà trở về, chớ không có phép nào khác nữa. Đạo thơ nói đó là phép Luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần hườn Hư vậy.

Đại để như thế ; nhưng muốn công-phu có kết-quả mỹ-mãn thì phải dày công khó nhọc lắm. Trước nhứt phải có đức tin chơn chánh, để làm đuốc dẫn đường và Trời Phật dìu dắt, rồi còn phải tạo dựng Phước-đức và Trí-huệ viên-mãn thì mới mong siêu-thoát được.

Quan niệm về Thiên-Triều

Chúng ta trông thấy Võ-Trụ bao-la ; trên có Trời, dưới có Đất, ở giữa có Sơn-hà, Thảo-mộc, Thú-cầm và Người ta. Nếu suy-diễn ra nữa thì trong cái Thế-giới Vạn-hữu nầy, còn có một Thế-giới Tinh-thần nữa.

Phần Thiêng-Liêng ấy do đức CHÍ-TÔN vi chủ và Thần, Thánh, Tiên, Phật, hộ trì. Cái cơ-quan nầy chúng tôi tạm gọi là Thiên-Triều, tức Triều-Thượng-Đế. Bà Bát-Nương Diêu-Trì-Cung giáng cơ dạy về Thiên-Triều như vầy :

Trong Võ-Trụ bao-la, Không-gian ở trên là Thượng-từng Bí-pháp của mọi quyền năng Thiêng-liêng, Đấng CHÍ-TÔN vi chủ. Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ trì. Thời gian ở dưới có đủ Khí-chất, để tạo dựng Võ-trụ hữu-vi và vật-chất hữu-hình. Phép nhiệm mầu vô biên ấy do quyền năng tuyệt-đối của Đức CHÍ-TÔN vận chuyển, trụ lập Thiên-thơ, định thần Thiên-Điều, khiến cho Không-gian phối hợp với Thời-gian mà xây dựng Thế-giới vạn-hữu. Đó gọi là Thiên-Triều thống-trị cơ sanh hóa và đoạt vị của Bát-hồn. Chúng tôi thể theo Thánh-ngôn trên đây mà kể sơ lược như sau :

a)- Cửu-Thiên.

1- Hư-Vô Cao-Thiên là từng Trời phán ngự Càn-Khôn, do Đức CHÍ-TÔN vi chủ.

2- Hạo-Nhiên Huyền-Thiên là nơi định pháp, do Đức Thái-Thượng Đạo-Tổ vi chủ.

3- Phổ-Hóa Huyền-Thiên hay Phi-Tưởng Diệu-Thiên là nơi hóa độ quần linh, do Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật vi chủ.

4- Tạo-Định Cao-Thiên hay Thượng-Thiên Hổn-Ngươn là nơi phân định Càn-Khôn, do Đức Hồng-Quân Lão-Tổ vi chủ.

5- Tạo-Hóa Huyền-Thiên là nơi sanh hóa Bát-Hồn, do Đức Phật-Mẫu vi chủ.

6- Kim-Thiên là nơi phát sanh bổn chất của Chơn-thần, dưới sự điều-khiển của Tạo-Hóa Huyền-Thiên.

7- Huỳnh-Thiên.

8- Xích-Thiên.

9- Thanh-Thiên là ba từng Trời lập định thứ bậc Tấn-Hóa của các Nguyên-Nhân, do Hiệp-Thiên-Cung vô-vi hành-hóa.

b)- Thiên-Cung.

Ngọc-Hư-Cung là ngôi của Đấng Chủ-tể Càn-Khôn Võ-trụ, có sẵnThiên-Điều là luật thưởng phạt Bát-Hồn. Ngôi hành pháp là Linh-Tiêu-Điện có đủ oai-linh của Thái-cực Thánh-Hoàng ban bố, để giữ máy hành-tàng hư thiệt.

Cực-Lạc Thế-Giái là ngôi chấp-chưởng luật Nhơn-quả, Luân-hồi, định-vị cho Bát-Hồn, tức định phẩm trật cho cả Vạn-linh trên đường lập vị Thiêng-Liêng.

Luật Tấn-Hóa của Bát-Hồn do quyền năng vô đối của Đức CHÍ-TÔN phán định. Chơn-pháp ấy vận hành từ vô-vi ra hữu tướng ; từ hữu-tướng trở lại vô-vi, mỗi mỗi đều căn cứ vào :

Hư-không là chuẩn-đích ;

Vận-chuyển là hành-tàng ;

Điều-hòa là phương-pháp ;

Chơn-chánh là phương-định.

c)- Thiên-Thơ và Thiên-Điều.

Thiên-thơ là hiến-pháp bất di, bất dịch, của cơ Tạo-đoan. Nguyên khi định thành Càn-khôn rồi, Đức CHÍ-TÔN vi chủ ; chư Thần, Thánh, Tiên, Phật ngự-trị thì cả quyền năng hiệp lập Thiên-thơ, là nền tảng cơ Tạo-thế.

Thiên-điều là luật Trời, do Thiên-thơ mà lập thành, để giữ vững giềng mối vận chuyển : Không ra Sắc, Sắc trở lại Không . Luật Công-bình và Bác-ái tại Thế-gian vốn là biến thể của Thiên-điều, nhứt là luật Luân-Hồi và Nhơn-Quả mà Tam-giáo đã phổ biến từ ngàn xưa.

d)- Luật Luân-hồi.

Luân-hồi nghĩa là xoay vần mãi, cũng như bánh xe lăn qua rồi lăn qua nữa, không lúc nào ngừng. (Về Đạo-pháp, bị thiếu trang 46,47).

Muốn lập đức-tin chơn-chánh, chúng ta chớ vội tin nh ng lời của người nói, mặc dầu người ấy là một vị truyền-giáo, mặc dầu lời ấy đã chép trong kinh sách của ai. Phải dùng lý-trí mà suy-nghĩ, với một cách vô-tư, cho biết rằng : Việc ấy có đem lại hạnh-phúc cho cá-nhơn, cho gia-đình, cho xã-hội và tất cả loài Người chăng ? Nếu quả như vậy, rồi chúng ta sẽ tin. Một khi đã có đức tin thì cứ giữ một lòng tinh-tấn làm theo cho đến kết-quả. Tâm thần chúng ta luôn luôn phải được lọc-lược thanh-khiết, cầu cho mình có đủ sáng suốt, phân-biệt, với một cách vô-tư, những lẽ chánh tà, phải quấy ; phải tránh nhứt là sự làm nô-lệ cho kiến-văn, thành-kiến, do tình cảm gây ra. Đức-tin phải có lý-trí xét đoán. Cái biết phải nhờ cái làm hoàn thành. Cả tri hành hiệp nhứt mới có thể đưa người ta đến cảnh Quang-minh chánh-đại.

Đức tin chơn-chánh rất hữu-dụng cho người đời, như đối với gia-đình, nếu người ta tin có Trời soi xét việc làm của người, để thưởng phạt thì ắt có người con làm tròn đạo-hiếu, người anh em làm tròn nghĩa đệ huynh, còn đối với làng nước nếu người ta có đức tin chơn-chánh thì, ngoài sự kiêng phép nước, người ta còn sợ luật Trời nữa. Thiết tưởng mỗi người ăn ở như thế thì ắt Gia-đình, Xã-hội sẽ được thái-bình. Còn đối với hạng người Xuất-thế thì đức-tin chơn-chánh là ngọn đuốc rọi đường tu-tỉnh và đưa mình đến Chơn-Thiện-Mỹ.

TIÊN THIÊN BÁT-QUÁI

Càn

Đoài Tốn

Ly Khảm

Chấn Cấn

Khôn

HẬU THIÊN BÁT-QUÁI

Ly

Tốn Khôn

Chấn Đoài

Cấn Càn

Khảm

Trong trương 39 có bài Thánh-giáo nói về Bát-Quái, chúng tôi theo kinh Dịch kể sơ lược sự tích của Bát-Quái như sau, để cho độc-giả biết qua.

Vua Phục-Hi sanh về đời tối cổ bên Tàu, là thời kỳ Thần-linh-học phát triển đến cực-độ ở Á-Đông. Ngài là một ông vua Minh-quân : tài cao, đức trọng, tinh-thần minh-mẫn, hàm dưỡng được Trí-Huệ của Thượng-Đế ban cho ; thành thử, Ngài xem suốt cõi Vô-hình. Khi dạo chơi nơi bờ sông Hà (ngày nay gọi là sông Huỳnh-Hà , vì sông ấy có cát vàng). Ngài trông thấy một con vật mình ngựa, đầu Rồng, danh gọi là Long-Mã, trên lưng có 55 nút chấm. Vua Phục-Hi do đó mà lập ra Bát-Quái (Tám quẻ) gọi là Tiên-Thiên Bát-Quái, hay Phục-Hi Bát-Quái.

Long-Mã : Theo sách Nho thì Long-Mã có thân hình cao 8 thước, 5 tấc (thước Tàu), xương cổ dài, chưn Ngựa, đầu Rồng và trên mình có vảy như vảy Rồng.

Rồng là một vật trong số Tứ-Linh ; có đủ nơi mình những cái tinh túy của Võ-trụ. Ngựa là vật chở người, chở đồ vật, đi mau lẹ. Tóm lại, Long-Mã tượng trưng Thời gian trôi qua mau lẹvà mang theo tất cả sự vật của Võ-trụ , tức là chỉ vào Thời gian lúc nào cũng luân chuyển ; mang theo tất cả sự vật với một cách Thiêng-Liêng . Long-Mã gồm cả Thể đức của hai vật Rồng-Ngựa (Âm-Dương) là vật linh mang chở cả cái Thần-bí, tinh-túy của Trời đất để chan rưới khắp cõi đời sanh tồn.

Kinh Dịch nói : Long-Mã là vật linh kết hợp bởi 8 cái tinh-túy ở trong Thái-dương-hệ, hiển hiện dưới con mắt Thần của Vua Phục-Hi là một Thánh-Vương coi được các Vật trong cõi Vô-hình, thấy rõ vật linh của Trời Đất, mang chở những cái tinh-anh của Thái-dương-hệ.

Lạc-thơ - Là sách do sông Lạc mà lập thành. Nguyên vua Võ, Thỉ-tổ của nhà Hạ, khi nước lụt ra trấn nước ở sông Lạc. Khi nước cạn, Vua Võ thấy một con Linh-Qui đội cầu, trên lưng có số 9, Vua Võ theo đó mà sắp thứ tự thành ra Lạc-thơ hay Hậu-thiên Bát-Quái.

 

về trang chủ