Ðại-đạo Tam-kỳ Phổ-độ

Tòa-Thánh  Tây-Ninh

 

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

BÍNH TUẤT- ĐINH HỢI (1946-1947)

 

QUYỂN-NHỨT

HỘI THÁNH  GIỬ BẢN QUYỀN

IN LẦN THỨ NHẤT

Năm Canh-tuất (1970)

 

Hiệp-Thiên-Đài

n-phòng THƯỢNG-SANH

Số:121/TS

Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ

Tứ thập ngũ niên

Toà-Thánh Tây-ninh

 

THƯỢNG-SANH

CHƯỞNG-QUẢN HIỆP-THIÊN-ĐÀI

Kính gởi Hiền-huynh Hiến-Pháp

Chưởng-quản Bộ Pháp-Chánh.

 

Tham-chiếu: Quý Thánh thơ số 16/DDS ngày 12/06/1970

Kính Hiền huynh,

Theo đề-nghị của Hiền-huynh tôi chấp-thuận cho Ban Đạo-sử xuất bản để phổ-biến những bài thuyết-đao Tại Toà-Thánh Tây-ninh của Đức Hộ-Pháp từ năm 1946 đến năm 1947.

Những bài giãng được chọn để ấn-hành phải có sự kiểm duyệt của Ban Kiểm-duyệt kinh sách.

Nay kính.                       

Toà-Thánh ngày 14 tháng 05 Canh-tuất.

(17-06-1970)

án ký

                

----o0o----

LỜI TỰA

Những bài Thuyết-Đạo trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ-Pháp, một vị Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một bậc vĩ-nhân của thế hệ, nên một Uỷ-Ban sưu-tầm và biên-tập thành-lập có Đức Thượng-Sanh chấp thuận, để xúc tiến việc sưu tầm biên tập và ấn tống các bài thuyết đạo ấy. Nay cuộc sưu tầm và biên tập đã có kết quả mỹ-mãn, nên Uỷ-ban đem ra ấn tống cho toàn Đạo được thưởng thức lời vàng tiếng ngọc nói trên.

Trong Ban Đạo-sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một Thư-viện tàng trử các loại Kinh sách cổ kim và Đông Tây cho các nhà khảo-cứu và toàn đạo có thêm tài liệu. Những quyển “Lời Thuyết Đạo” của Đức Hộ-Pháp cũng sẽ lưu trử vào Thư-viện  này  để chư đọc giả đến  xem.

Đức Hộ-Pháp là một trong các vị tiền-bối khai-sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực hiện trước hết chủ thuyết Tam-Lập: “Lập-đức, lập-công, lập-ngôn”.

Vềø lập-đức, thì Đức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng mà khai sáng mối Đạo cho toàn chúng sanh được chung hưởng hồng ân của Đức Chí-Tôn, Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.

Về lập-công, thì Đức Ngài vừa lập đức vừa lập công trong việc khai sáng. Từ  cái không mà làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại-nghiệp Đạo ở cõi thế nầy. Nếu Ngài không phải là một đại-đức thì làm sao thành-công được ?.

Về lập ngôn, thì Đức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài Thuyết-Đạo mà chúng ta đang thưởng-thức và còn nhiều lời giáo-huấn cao-siêu khác nữa mà chư quí đọc giả và toàn Đạo nên lưu ý.

Nhân-danh Hiến Pháp Hiệp Thiên-Đài kiêm Trưởng-Ban Đạo-Sử, tôi xin trân-trọng giới thiệu cùng đọc giả bốn phương quyển sách quí giá nầy đáng được lưu niệm mãi mãi.

Trân trọng kính chào.

Hiến-Pháp

TRƯƠNG-HỮU-ĐỨC

 

----o0o----

LỜI TRẦN-THUYẾT CỦA BAN TỐC-KÝ

 

Mỗi lần ly-loạn là mỗi lần thư-tịch bị làm mồi cho binh lửa.

Nhìn cào lịch-sử, những vụ “phần thư ”, những vụ chiếm-đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ luận trước những biến cố. Tình-trạng nầy đã kéo dài qua các thời-đại , ấy là biện-pháp của những kẻ mạnh  nhắm vào mục-đích thực hiện chính sách ngu-dân và đông-hoá triệt-để.

Những kinh-nghiệm đau thương là nguyên nhân thúc đẩy chúng tôi cố-gắng thực-hiện công việc sưu-tập những tài liệu nầy.

Chúng tôi nghĩ : “Nếu tài-liệu kinh sách chỉ được tập-trung tàng-trử vào một chỗ tránh sao cho khỏi bị huỷ diệt khi kẻ cường quyền đến cướp phá “ Do đó chúng tôi quyết-định quây ra làm nhiều bản để gởi đến và ký thác vào những bậc có tâm-hồn trung-kiên với Đạo, những người dám chết để bảo-tồn những tiếng nói của Đấng thay Trời dạy Đạo.

Nếu một mai thời cuộc lai biến-thiên, có thể các cuộc “phần thư ” lại tái diễn thì thiết-tưởng trong số tài-liệu nầy vẫn còn có nhiều người nhiệt tâm ginf-giữ được vẹn toàn.

Đây không phải là việc làm của một cá-nhân hay một đoàn-thể , nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô-danh , nguyện đem hết năng-lực của mình để phụng-sự cho ly-tưởng bảo tồn truyền-thống giáo-lý của Đạo. Trong khi quyển tài-liệu này đến tay quí vị thì cũng đã có người vì quá hăng-say trong công-việc thực hiện ly-tưởng mà phải lao-tâm kiệt-sức hoá ra người thiên-cổ.

Việc làm của chúng tôi không phải là một ý-nghĩ nông-nổi của một sớm một chiều , nhưng là một hoài bảo trong suốt thời gian ly-loạn . Chúng tôi hằng cầu-nguyện Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu ban-bố phước lành cho chúng tôi sơm gặp dịp may để thực-hiện hoài-bảo ấy.

Ngày nay chân trời đã rạng-tỏ, ý-nguyện đã đắc thành.

Chúng tôi xin hiến dâng trọn vẹn cho Hội-Thánh tất cả những tài-liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp nhặc sau bao nhiêu năm theo đuổi mục-đích bảo-tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ-Pháp.

Từ đây, bản-quyền nầy sẽ tuỳ thuộc hoàn toàn của Hội-Thánh. Kính xin Hội-Thánh cho kiểm-duyệt ấn-hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu-ái của Đức Hộ-Pháp, đã dành cho toàn-thể chúng sanh trong thời-gian Đức Ngài còn tại thế.                                  

Toà-Thánh ngày 28 tháng 08 năm Bính-ngọ (12-10-1966)

BAN TỐC-KÝ

ĐỨC HỘ- PHÁP

 

----o0o----

 

Thuyết đạo tại Báo-Ân-Từ đêm rằm tháng 9 năm Bính –tuất (1946).

LỜI TIÊN-TRI CỦA ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG

 

Trong năm Bính-dần (1926) Đức Chí-Tôn giáng-trần khai Đạo phôû-hoá chúng-sanh làm lành, lành dữ, tức là Cơ-quan cứu thế. Khi mà Đạo truyền bá khắp các Tỉnh rồi, qua đến ngày rằm tháng sáu Đinh-mão (1927) Đức Lý Giáo-Tông cấm cơ bút, thì chư vị Chức Sắc: Đại Thiên-Phong không rõ tại sao, nhứt là Đức Quyền Giáo-Tông có lòng sở mộ về cơ bút đã trãi qua một thời gian lắng nghe lời Thánh-giáo, nên Đức Quyền Giáo-Tông định cầu Diêu-Trì Kim-Mẫu và Cửu-Vị Tiên-Nương đặng học hỏi về Đạo-Đức.

Đến ngày14 tháng11 năm Đinh-Mão, Đức Lý Giáo-Tông mới giáng cơ thì xem hình như Ngài có đại nộ, mà chẳng hiểu Ngài giận việc chi, Ngài mới cho một bài Thánh-Giáo như vầy:

“ Hỉ chư Đạo-Hữu chư  Đạo-Muội, chư chúng sanh, hảo hội-hiệp. Thảm cho nhơn loại, khổ cho nhơn-loại ! Đời quá dữ, tội tình ấy, hình phạt kia cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhơn-sanh hội 10 ngày nơi Bạch-Ngọc-Kinh cải cho qua nạn nhơn-loại, nhưng luật Thiên-Đình chẳng dễ chi sữa đặng. Nạn tiêu-diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, đến buổi bịnh chướng sát hại. Lão thấy hình phạt phải châu mày, nhưng ôm lòng rán chịu, lạy lục khẩn cầu; chư Đạo-hửu đâu rõ thấu, ngơ-ngơ ngáo-ngáo như kẻ không hồn, thấy càng thảm thiết !!!

Lão tưởng chẳng cần nói chi một nước nhỏ nhen đã đặng danh Thánh-địa là Nước Nam nầy, mà lão xin không đặng tội cho Thành Sài-Gòn, Chợ-Lớn, Gia-Định, Huế, Hải-Phòng, Hà-nội.. thảm ! Thảm ! Thảm !”.

Đây là lời tiên-tri đã trải qua 20 năm trường đến ngày nay kết quả vẹn toàn trước mắt nhơn sanh đều thấy rõ.

Đức Lý Giáo-Tông, Ngài định phạt Đức Quyền Giáo-Tông 10 hương, Hộ-Pháp 5 hương, Ông Phối-Sư Binh 5 hương, xét kỷ ra là Đức Lý Ngài giận ai chớ chẳng phải giận anh em tôi đâu. Tiếc thay cho nhơn-sanh, chớ chi trong thời-kỳ Đại-Đạo Hoằng-khai, mà lại để tâm tín-ngưởng chung thờ một Tôn-giáo, tròn giữ theo luật pháp của Đạo, lo trau-dồi đức-hạnh, làm phải làm lành liên lạc thương-yêu, thuận-hoà cùng chung, thì ngày nay đâu có lâm tai nạn đao binh như thế.

Trái lại, Chức-sắc Thiên-Phong là người cầm phướng chiêu-hồn diù-dắt chúng-sanh thoát khổ, mà đi đến đâu đều bị họ chê-bai, biếm-nhẻ, kích-bác, hất hủi đủ thứ, Chức-Sắc Hội-Thánh đem hồng-ân của Đức Chí-Tôn rải khắp các nơi cho nhơn-sanh chung-hưởng, mà họ coi như vật thường, không có giá trị gì, họ đã mài miệt chạy theo khoa-học, chú trọng về văn-minh vật chất, chớ không hấp-thụ được đạo-đức tinh-thần, họ đeo đuôûi theo nguồn  tranh đấu là cơ tự-diệt, chớ nào rõ biết cơ bảo-tồn qui cỗ là gì, mãi đến ngày nay mà  họ cũng chưa tỉnh.

Còn nói về phần chư Môn-đệ của Đức Chí-Tôn, từ buổi đem thân vào cửa Đạo trong lúc nhập môn đã quì trước Bửu-Điện có bàn Ngũ-Lôi, mà lập minh-thệ rằng:

“Từ đây tôi biết một Đạo Cao-Đài Ngọc-Đế, chẳng đổi-dạ đổi-lòng hiệp vòng chư môn-đệ, giữ gìn luật-lệ Cao-Đài, như sau có lòng hại thì thiên tru địa-lục”.

Than ôi! Cho những người thề như vậy, mà cũng không để trọn đức-tin nơi Chí-Tôn lại thối bước ngã lòng, cởi áo Đạo, dẹp khăn tu, mong mải xu hướng theo con đường tục-luỵ, cho nên gây tạo ra con đường làn súng mủi đạn ngày nay.

Vậy, ai là người thất thệ với Chí-Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm-hồn, ăn-năn sám-hối, cầu xin Đại Từ-Phụ cùng các Đấng Thiêng-Liêng, từ-bi ân-xả tội-lỗi tiền-khiên, hoạ may đặng chung hưởng ân-huệ của Đức Chí-Tôn ban cho sau này.

Ngày nào toàn-thể nhơn-sanh đều biết hồi đầu hướng thiện, nhìn Đạo Trời là một Cơ-Quan cứu-thế, thật hành chủ-nghĩa thương yêu cho ra  thiệt tướng thì ngày ấy mới đặng hưởng hoà-bình đại-đồng thế-giới.

Báo- Aân-Từ  Giờ Tý đêm 30 tháng 9 năm Bính-Tuất (1946)

 

VẤN-ĐỀ NHO-GIÁO

Nhắc lại Thầy Mạnh-Tử khi qua yết-kiến Vua nước Lương, ông Huệ-Vương hỏi Đức Mạnh-Tử :

- “ Lão già chẳng nệ đường xa muôn dặm sang đến nước Quả-nhân có chỉ giáo điều chi hửu lợi chăng? .

Thầy Mạnh-Tử đáp rằng:

- “ Tôi chỉ biết nói đến nhơn-nghĩa mà thôi, chớ không nói về lợi. Nếu trong  nước mà có dục-vọng về sở lợi, thì đình-thần có trăm hộc lại muốn có  thêm ngàn hộc, thượng-hạ đại-phu có ngàn hộc lại muốn có thêm triệu hộc. Nếu trong nước mà cầu lợi như thế, thì bá tánh phải chiụ lao-lung, muôn dân đồ-thán, trong nước thế nào bình-trị được ? Còn như trong nước hết lòng chú trọng đạo nhơn-nghĩa, thì toàn thể quốc-dân đặng chung hướng mọi điều hạnh-phúc, lạc-nghiệp âu-ca”.

Thầy Mạnh-Tử thuyết-minh đủ mọi điều lợi hại rồi, thì Vua Huệ-Vương chiụ nạp dụng. Hiện nay là buổi kim tiền, ưu thắng liệt bại, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, con người trên mặt thế đều bôn xu theo quyền lợi chẳng kể gì nhơn nghĩa đạo-đức tinh-thần, nên mới có nạn chiến tranh tương-tàn, đồng chủng giết hại lẩn nhau hằng-ngày diễn ra nhiều tấn tuồng thảm-thương, bi kịch, xem thôi mỏi mắt, nghe đã nhàm tai, khiến cho giọt luỵ thương tâm của khách ưu thời mẫn thế không thể nào ngưng được.

Chức-Sắc trong Đạo đem hột giống nhơn-nghĩa gieo khắp các nơi, mà nhơn-sanh không ưng nạp, bởi họ không biết cái năng-lực của họ mạnh mẻ  thế nào, không cần để ý đến, chớ chỉ họ trọng dụng đạo nhơn nghĩa thử một thời-gian coi có hiệu quả gì chăng ? Nhắc lại Thánh-giáo của Đức Chí-Tôn có dạy về chữ nhơn..

Nhơn là đầu hết các hành-tàng

Cũng bởi vì nhơn dân hoá quan,

Dân trí có nhơn nhà nước trị,

Nước nhà nhơn thiệt một cơ-quan.

Ngày nào toàn thể quốc dân mà biết thực-hành hai chữ nhơn-nghĩa cho ra chơn tướng, thì chẳng luận là xã-hội nào cũng được hưởng mọi điều hạnh-phúc, đời chiến-tranh sẽ trở nên thái-bình an-cư lạc-nghiệp.

 

Báo-Ân-Từ ngày rằm Tháng 10 năm bính tuất (1946)

VẤN-ĐỀ BÁC-ÁI TỪ-BI

Từ xưa đến nay các nhà Tôn-giáo đem chữ từ-bi bác-ái phổ-hoá nhơn-sanh là để bảo-tồn sanh mạng của quần-chúng, gầy lại sự hạnh-phúc cho đời chung hưởng. Chữ từ-bi bác-ái chẳng lạ gì.

Bần-Đạo nói ra thì chư  Chức sắc nam, nữ Chức-việc Đạo-hữu cũng điều hiểu rõ.

Cái nghĩa-lý của bốn chữ từ-bi bác-ái cũng không phải là mắc mỏ gì, từ  lớn chí nhỏ làm được tất-cả mà tiết thay cho nhơn-sanh không chiụ thực-hành.

Từ-bi là gì? Bác-ái là gì? Bần-Đạo xin được giãi chữ Từ-bi ai ai cũng đều có sẵn trong tâm, trẻ con nên năm bảy tuổi thì nó đã biết thương yêu cha mẹ, thương-yêu anh em là người thân tộc gần gủi của nó, khi nó đã trưởng thành có vợ con, bậu-bạn thì nó lại thương yêu rộng ra hơn nữa, một khi đã thấy sự đau khổ hoạn-nạn, tai-ương của quần-chúng thì nó cảm-hoá xúc-động đến tâm thương-yêu lan tràn ra, không biết  đâu là giới hạn, ấy là tánh từ-bi đó.

Còn bác-ái là thể theo lòng Trời Phật thương yêu toàn cả chúng sanh không biết đâu là bờ bến, thấy chúng-sanh làm được việc gì có đạo-đức nhơn-nghĩa, thì Trời Phật vui mừng thương yêu chẳng xiết, ấy là Bác-ái.

Hiện nay nhơn-loại thiếu sự từ-bi bác-ái cho nên tạo ra trường tranh-đấu, quyết chiến với nhau, sát hại đồng bào tương-tàn cốt nhục, Đức Chí-Tôn giáng-trần hoằng-khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là cốt yếu đem chủ-nghĩa từ-bi bác-ái làm tôn-chỉ, để cho nhơn-sanh theo đó mà làm một cơ-quan bảo-tồn tánh-mạng và bảo-an Quốc-thể được hoà-bình.

Ngày nào toàn cả quần chúng, đồng-bào biết giác ngộ, tu-tâm hiệp nhứt thật hành chủ-nghĩa từ-bi bác-ái cho ra chơn tường, thì nhơn-sanh sẽ đặng chung hưởng mọi điều hạnh phúc, chẳng luận quốc dân nào, xã-hội nào mà toàn cầu thế-giới cũng được thọ hưởng cái hạnh-phúc ấy.

 

Báo-Ân-Từ đêm 10 tháng 11 năm Bính-tuất (1946)

TỰ-TÍN THA-TÍN THIÊN-TÍN

Đức-tin chia ra làm ba phương-diện :

 1.- Tự-Tín

 2.- Tha-Tín 

 3.- Thiên -Tín.

1.- Tự-Tín là gì?

 Tự-tín là mình tin nơi sở sanh của mình có thể bảo đảm được sanh mạng cho mình. Con người từ buổi ấu- thơ đã biết ăn, biết nói thì biết thương cha mẹ anh em. Đến lúc trưởng-thành cha mẹ dạy bảo công việc làm ăn, cho đến sự ở đời, giao thiệp cùng xã hội nhơn-quần, việc nào lợi, điều nào hại, cha mẹ đã chỉ vẻ phân-minh cũng như có một quyển sách lập thành để làm căn bản. Ngoài ra hằng ngày ta đã nghe và thấy cả tấn tuồng của đời diễn ra từ lớp, hay dở tốt xấu, lành dử, hư nên, ta mới lấy đó mà kinh nghiệm kỹ càng rồi mới lọc lược cái hay, cái khéo ở trong đó mới lập lại làm với một quyển sách của cha mẹ dạy ta từ thử, rồi ta mới đem lên trên Linh-Đài, ta sẽ do theo đó mà làm mực thước cho sự hành-vi của ta và ta đủ đức-tin nơi đó, là cơ bảo-tồn lấy thân ấy gọi là tự-túc nơi đó tự tin nghĩa là tu thân.

2.- Còn Tha-tín nghĩa là gì?

Tha tín là ta biết quan tiền dũ-hậu, ta tin nơi ông Thầy dạy ta học cái bài vở để lập thân cho nên người cao quí, lại có nhiều người trong xã-hội chẳng phải họ cố ý dạy ta học, nhưng cái sở-hành của họ, mọi điều phải trái lành dữ tội phước, thì nó thường hiện ra trước mắt ta, đó là một bài học, nên chú ý rồi ta mới gồm tất cả mọi hình-vi của người đời, ta sẽ lập-lại làm quyển-sách thứ nhì nữa, ta mới cân phân, lừa lọc, tuyển chọn điều hay lẽ phải, ta đem để tên Linh-Đài ( tức là khối óc của ta) đặng làm phương pháp bảo vệ trường-tồn tánh-mạng của ta ấy là Tha-tín.

3.- Thiên-tín :

Tự-Tín và Tha-Tín chưa đủ hoàn-toàn phải Thiên-Tín là trọn đức-tin nơi Chí-Tôn có đủ quyền bảo-hộ sanh-mạng của ta và toàn thể chúng-sanh nơi mặt thếâ. Nếu để trọn đức-tin nơi Chí-Tôn và tuân theo bài học của Đức Chí-Tôn dạy từ-bi bác-ái, nhơn-nghĩa thuận-hoà, và tất-cả đem vào hai quyển sách nói trên hiệp lại thành một khối đức-tin đặc-sắc, ta mới dựng lên để tên Cao-Đài rồi ta do đó mà thi-hành cho chu đáo, ấy là cơ bảo tồn trường cưủ của ta và tất cả nhơn-loại.

Nếu có cái Tự-Tin và Tha-Tin là cái năng lực hữu hình, mà không có Thiên-Tin là Quyền-pháp vô-vi, thì cái năng-lực ấy nó sẽ cuốn lôi theo cơ tự diệt, vì vậy nên ta phải có đủ đức tin nơi Chí-Tôn, phải trọng mạng sống của con người, bởi Đức Chí-Tôn hoá sanh một người là một vật báu của Ngài. Nếu ai tàn sát cho tiêu loài vật báu ấy thì phạm Thiên-điều tức là đại tội. Ngày nào toàn thể nhơn-loại trên mặt thế giới nầy, mà có đủ đức-tin nơi Chí-Tôn và thật-hành y theo chủ-nghĩa “Từ-bi, Bác-ái, Nhơn-nghĩa” cho được hoàn-toàn thì mới mong chung hưởng đời thái-bình hạnh-phúc, ấy là gầy lại đời Minh-Đức, Tân-lập thế giới.

 

Tại Khách-Thiện-Từ Trước bữa tiệc đãi công thợ

Ngày rằm tháng 11 năm Bính-Tuất (1946).

LẬP VỊ THEO CON ĐƯỜNG THỨ BA

Muốn đi con đường thứ ba phải tập mình đừng ham muốn chi cho mình nữa, hành tàng của Chí-Tôn là phận sự của mình, phải yêu ái hiếu hạnh cùng Chí-Tôn và Phật-Mẫu. Cái yêu ái và hiếu-hạnh ấy phải là phi-thường do tâm-linh điều khiển, phải thương-yêu nhơn sanh và vật-loại hơn mình và coi đồng-thể, đồng sanh với mình. Phải tạo dựng cố thủ Thánh-Tâm cho nên Chí- Thánh, và đạt cho đủ ba ngàn công-quả thì sẽ đi đến, lướt đặng và vững vàng thắng muôn điều trở ngại.

                       

Huấn-từ nhân lễ bãi trường và phát thưởng cho học-s inh   

Trường LÊ-VĂN-TRUNG

TU THÂN

Về nhiệm-vụ của người con dân lúc quốc gia hữu sự, một điều quan-trọng mà tất cả các thanh-niên học-sinh cần phải biết, đó là quốc-thể của một nước, tức là sự tập-hợp của một khối cá thể của những cá nhân nước ấy. Vậy thì, mỗi công dân một nước phải có một cá-thể đã. Cá- thể của một người tức là nhân cách và nhân phẩm của người đó vậy. Mà muốn cho cá-thể xứng đáng thì ông cha chúng ta đã để lại cho hai chử vô-cùng quí báy ấy là tu-thân vậy.

                                   

Huấn từ của Đức Hộ-Pháp

KHAI MẠC ĐẠI-HỘI NHƠN-SANH

Ngày 1 tháng chạp năm Bính-Tuất (1946)

Thưa cùng chư Nghị-viên và Hội-viên lưỡng Phái,

Đã trót 5 năm dư, Bần-Đạo bị đồ lưu nơi hải-ngoại, thì đã từng chiụ biết bao nhiêu là sự đau khổ tâm-hồn, nỗi lo cho tương lai của Đạo, nỗi sợ cho vận nước tránh không khỏi nạn chiến-tranh ly-loạn, nặng nơi lòng một tình thương nhớ cả con cái của Chí-Tôn trót triệu chơn linh của Người giao gìn-giữ.

Bần-Đạo chẳng cần minh tả thì chư Hiền-Hữu, Hiền-Muội cũng rõ từ trước ta đã chán thấy nhãn tiền rằng chỉ có thương một người mà năng-lực tình-ái ấy cũng đủ làm cho phải huỷ mình mà tùng mạng lịnh của nó. Ôâi cái mãnh-lực tuy vô hình mà nó oai quyền rất dữ, Bần-Đạo nếu chẳng đủ tinh-thần cường-liệt nương lấy đức-tin thì e nó đã giết hẳn mạng sanh của Bần-Đạo một triệu lần mới phải.

 Hể cùng chung chia đau thảm nghèo khổ, hèn tiện có bao nhiêu thì cường lực tình ái càng tăng nhiệt độ thêm cao hơn nữa. Bần-Đạo đã quyết thắng, thắng đặng sống, sống vì Thầy vì Đạo vì yêu con cái của Ngài. Bần-Đạo thật là người đã phục-sanh với quyền Chí-Thánh đó vậy.

Về Tổ-Quốc sau khi đã chiụ đủ vị thảm sầu, tưởng là đủ cớ phô bày cho cả chúng-sanh thấy đặng rõ ràng chơn tướng của Đạo, đã nung chuốt với sự thảm khổ vô hạn của mình đặng vẽ-vời giọt huyết lệ, hai chữ chơn nghĩa cho đời; nào dè trái lại thấy chan chán trước mặt một tấn tuồng bi thảm, nước mất nhà tan, xương chồng máu đổ. Một trường sát khí bao trùm toàn quốc, gươm tử thần vùn vụt khắp nơi, làm cho con cái không cha, tớ không Thầy, vợ không chồng, cốt-nhục tương-tàn, nhân dân đồ-thán.

Con hạc lạc hồi quê, nhìn không nhớ Tổ, xem nước non đổi vẻ thay màu, thảm thiết nơi lòng tuôn châu đổ ngọc, sắp muốn kêu cùng cuối một tiếng nỉ-non  gieo kẻ tri-âm hồi dập.

Oââi !  Dưới bức thê-lương nầy ai là tri kỷ, tri âm cùng Bần-Đạo ngoài ra Chư Hiền-Hữu Hiền-Muội thì Bần-Đạo đã kiếm đặng ai. Tưởng khi các bạn cũng có lẽ tội nghiệp cho con Hạc bịnh nầy, mà để tai lóng tiếng.

Oâi ! Cái khối sanh của Chí-Tôn đã xiêu lạc nơi nào mà để hai sắc con yêu-ái của Người phải chiụ nạn tương tàn như thế !…

Bần-Đạo ngày nay hiển nhiên đứng trước mắt các bạn mà còn ngỡ là giấc chiêm-bao. Vậy Bần-Đạo cúi mình cậy các bạn một điều rất nên yếu thiết là: hoà giọng đau thương cùng con Hạc lạc nầy đặng giục lòng bác-ái một cảnh an-nhàn thiêng-liêng cho toàn sanh chúng. Bần-Đạo đã nhiều lo ngại cho căn số con cái của Chí-Tôn trong buổi phiêu-lưu nơi hãi ngoai e ra vì nhẹ dạ của đôi phần tử Thánh-Thể của Thầy, nên vừa để gót về Tổ-Đình thì dâng hẳn mảnh thân tiều tuỵ hao mòn, vội cầm quyền của Đạo đặng sửa đương cho đẹp vẻ chơn-truyền. Rồi lại tìm phương hiểu lần những điều khuyến điểm, hư hại hầu giồi mài thêm nửa, nên tức cấp mở Hội Nhơn-sanh đặng phục-vu quyền Vạn Linh như trước.

Bần-Đạo để trọn tín-nhiệm nơi các bạn, Bần Đạo xin mở Hội.  

 

HUẤN-TỪ

KHAI MẠC ĐẠI-HỘI PHƯỚC-THIỆN

Ngày rằm tháng chạp năm Bính-Tuất (1940)

Ngày nay, nhóm Đại-Hội Phước-Thiện cũng là một Hội trong quyền Vạn-Linh, Bần-Đạo cần giải rõ cái nhiệm vụ rất trọng yếu của Phước-Thiện cho Chức-Sắc, chư Phái-Viên và Nghị-Viên được hiểu.

Từ thử Thiên-Phong nam, nữ Phước-Thiện chỉ hiểu mảy may cái trách nhiệm tối cao tối trọng của mình chớ chưa hiểu cùng tột. Bởi cớ cho nên nhiều người không hiểu phận–sự, hành đạo không đúng theo Chơn-Truyền, sái hẳn giá-trị của Cơ-Quan Phước-Thiện, việc làm của các vị không ra gì hết, thành thử Cơ-Quan Phước-Thiện chưa có kết-quả chi; lại còn theo lối giành giựt nhau.

Hội-Thánh có hai Cơ-quan; Hành-Chánh và Phước-Thiện thường tương-khắc nhau, song chưa tìm chơn-lý để hoà nhau, ngày nào chưa hoà nhau là còn thất sách, bất lực thì không thi thố phận sự trọng yếu cho ra thiệt-tướng được.

Mấy em cũng dư biết Đạo Cao-Đài sản xuất có một chơn-lý tối cao, tối trọng nên đời buổi nầy khao khát đợi chờ như hạn trông mưa, những kẻ tội tình trong bể khổ khát-khao đợi giọt Cam-Lồ của Đức Chí-Tôn chan rưới cho bớt sự đau thảm. Đức Chí-Tôn đến tạo Đạo giãi khổ tâm hồn cả con-cái của Ngài, Đức Chí-Tôn lại tạo ra hình ảnh Thánh Thể của Ngài, mượn tay các em và các bạn làm hình thể của Ngài, giải khổ cho Đời về phần xác.

Phước-Thiện lại có nhiệm vụ tối cao, tối trọng của Đức Chí-Tôn; giải khổ vừa xác vừa hồn, Ngài mượn mấy em nuôi-nấng con cái của Ngài, nuôi đói, nuôi khát, bảo trợ giúp đỡ cho kẻ nghèo-nàn cô-độc. Chừng nào cả cơ-quan khốc hại của loài người mình gánh vác hết thì mới đúng cái nhiệm vụ của Chí-Tôn phú thác, mấy em thử tự hỏi: Hồi nào đến giờ làm nên những gì chưa? Chỉ lo bảo bọc anh em trong Đạo mà thôi, có đâu ngó đến ngoài Đời. Các  vật loại đều là con cái Chí-Tôn, chớ không phải nội dung của Đạo mà thôi, như thế có đủ đâu ? Cơ-Quan Giải-khổ của Chí-Tôn cậy nhờ mấy em lo, nuôi mấy em còn chưa rồi. Từ ban sơ Qua chiụ nhọc-nhằn hẩm hút, ăn từ miếng tương rau hiệp cùng nhau gầy dựng lập Phạm-Môn, Qua chịu khó nhọc như mấy em cho đến ngày Cơ-Quan Phước-Thiện ra thiệt tướng, đã tạo đủ lực-lượng cho mấy em thi-hành nhiệm-vụ.

Tuy vân, lúc nọ mấy em có phương thế lắm mà mấy em chỉ có tâm vị kỷ, trót năm năm, Qua đi vắng đến khi Qua trở về, Qua còn thấy có kẻ đói không ai nuôi, rách rưới không ai bảo-dưỡng, thất lạc nơi nầy nơi khác, đoàn em Qua gởi gấm đã thất lạc, thủû phận đạo không được, nên phải tìm đôi bạn sống theo Đời, vì nếu ở thủ phận theo Đạo thì cũng chẳng ai nuôi.

Ngoài nữa, Qua còn nghe, trong lúc Qua đi đứa nào có thế thì tự vi-chủ, giành lấy cam một mình để toại hưởng vậy thôi. Hỏi vậy mấy em có nghĩa hay không? Nếu Qua cho Toà Đạo minh-tra thì không có một người nào có thể đứng trước mặt Qua mà xưng là đại công được, cái đói khó cùng khổ của các em nó tố cáo mấy em không còn chối cải được.

Qua nói thật, thể Đạo chưa rồi thì có mong gì tạo thành chơn tướng của Đạo. Phải chi mấy em biết nghe lời, Qua mở cửa Bát-Quái-Đài cho mấy em làm bạn với các Đấng Thiêng Liêng thì không đến nổi nầy.

Ngày nay cửa Đạo được mở rộng đây cũng nhờ các Thánh-Tử Đạo, nếu không thì vẫn còn đóng cửa. Nếu mấy em xem đáng, thì Qua mở cửa cho các Đấng Thiêng-Liêng diù đỡ mấy em.

Qua nói cho mấy em hay, Qua đang ngồi đây các Đấng ở Bát-Quái-Đài còn đợi mấy em và chính Qua sẽ dìu dắt, kêu cửa Bát-Quái-Đài cho mấy em về làm bạn thân yêu của các Đấng Thiêng-Liêng. Nếu mấy em làm phận sự không tròn và còn một mảy phàm tâm, thì cõi Hư-linh không đem mấy em vào bảng Công-nghiệp vĩ đại bao giờ. Các em có làm trọng trách đối với con cái Chí Tôn, thì Bát-Quái-Đài mới hiệp một cùng mấy em vậy.

Mấy em chưa nắm được hòn ngọc thì chưa đủ bảo toàn Vạn-Linh con cái của Chí-Tôn,

Qua nói Qua sẽ mở cửa Bát-Quái-Đài diù dắt mấy em mà mấy em có đến được cùng chăng là do tâm-lý của mấy em đó.

Ấy vậy mấy em phải rán sức, định tâm lấy tinh-thần vi chủ nêu gương cho mấy em sau nầy đi theo. Nếu khối phàm còn ở trong óc mấy em thì không bao giờ đoạt mục đích tối cao, tối thượng được, phải có khối óc thiêng-liêng mới mong thay hình Thánh-Thể Chí-Tôn đói với con cái Ngài là quần linh.

Đến đây Qua xin mở hội, để trọn quyền Hội thánh Phước-Thiện đủ sáng suốt làm việc và Bần-Đạo để trọn tín nhiệm về việc cầu phong, thăng thưởng một cách chánh-đáng và công bằng.

 

Báo-Ân-Từ đêm 24 tháng chạp năm Bính-Tuất (1946)

SỰ CẦU NGUYỆN

Sự cầu nguyện có cảm ứng với chánh-trị thiêng-liêng tức là các Đấng vô hình đều rõ biết mọi sự hành-tàng nơi cõi thế, triết-lý về hình-thể của con-người, thọ tinh cha huyết mẹ sản sinh ra, thiø có sự cảm giác của thiêng-liêng đối cùng nhau rất mật thiết, cho nên một người con lúc đi ra làm ăn xa nhà, khi cha mẹ có bệnh hoạn hay xảy ra ra điều gì tai biến, thì thân thể của người con sẽ có điềm máy động; giựt thịt, máy mắt hoặc là ứng mộng thấy rụng răng và các điều khác v.v... đó là về phần tính-khí hình thức của con-người, còn về phần linh-tánh thì do nơi Đức Chí-Tôn ban cho nhứt điểm lương-tâm nó có cảm-giác cùng chí-linh, cho nên khi ta hữu sự thì thành-tâm cầu-nguyện. Nền Đạo là một điều cảm ứng rất mầu-nhiệm vô cùng, có câu:

“ Nhơn-tâm sanh nhứt niệm, Thiên-địa tất giai tri”.

Từ đây chư Chức-Sắc và Chức-việc cùng Đạo-Hữu nam, nữ gắng thanh tâm cầu nguyện cho nền Đạo và cơ đời được an-ninh trật-tự kể từ ngày nay cho đến Tân-xuân đầu năm Đinh-Hợi thì sẽ thấy sự tiến-hoá phi-thường và huyền-linh mầu-nhiệm, nếu toàn cả Quốc-Dân mà đủ lòng tín-nhiện với quyền-hành chánh-trị thiêng-liêng, hiệp nhứt tâm cầu-nguyện, thì cơ loạn lạc sẽ trở nên an-ninh trật-tự, đời sẽ được cộng-hoà chung hưởng mọi điềuhạnh-phúc.

 

Ngày 8 tháng giêng năm Đinh-Hợi ( 1947).

LỄ THƯỢNG CỜ TẠI SÂN VẬN ĐỘNG          

Ngày hôm nay lá cờ của Chi Thế ra mặt với đời cùng cây Thư-Hùng-Kiếm của nó, y theo lời hứa của Đức Chí-Tôn lập cho nước Việt-Nam một nền Quốc-Đạo, cơ-quan cứu sanh cho vạn-loài.

Vì do ở định thiêng-liêng và huyền-diệu của Ngài nên người đời dể chi biết được. Quân-Đội Cao-Đài là một đội binh thiêng-liêng của Chí-Tôn lập ra để bảo vệ cơ-quan của Ngài.

Tuy với mắt thường thấy cơ-quan binh-bị như thế nầy, chớ trong đó có đủ thiên-binh, thần-tướng vì mục-đích bảo-tồn thiên-hạ mà biến ra vậy. Cái sở vọng của Bần-Đạo là Quân-đội Cao-Đài có một tinh-thần kiểu mẫu của những đội binh trên thế-giới, có mục-đích bảo toàn cho nhơn-loại dựng lại hoà-bình. Quân đội Cao-Đài không phải vì quyền lợi riêng mà tàn sát làm tiêu-diệt thiên-hạ.

Bần Đạo có lời yếu thiết căn dặn toàn Quận Đội nên nhớ rằng: lực-lượng chúng ta dầu mạnh đến đâu cũng không thể chống lại lực-lượng tàn sát phá hoại của bom nguyên-tử được.

Quân-đội Cao-Đài phải hiểu cái mạnh của mình, mạnh vì lòng nhơn-nghĩa và tánh nghĩa-hiệp cứu đời.

Vậy muốn dẹp được cái mạnh của bom nguyên-tử thì chúng ta chỉ dùng cái mạnh của nhơn-nghĩa và tình nghĩa hiệp mà thôi. Quân-Đội Cao-Đài ra thật tướng ấy là ý Thầy muốn cho Quân-Đội Cao-Đài làm kiểu mẫu những Quân-Đội Quốc-Tế mà thành hay không do quyền năng của Chí-Tôn.

Vậy Quân-Đội Cao-Đài phải giữ-gìn thanh gươm nghĩa-hiệp, lá cờ nhơn-nghĩa cho vững-vàng. Được như thế thì quyền-năng của Chí-Tôn lúc nào cũng có trong Quân-Đội Cao-Đài vậy.

 

GIẢNG TIẾP Ý NGHĨA TƯỢNG-TRƯNG CỦA LÁ CỜ QUÂN-ĐỘI

Nền vàng cốt yếu thuộc về huỳnh-chủng, gốc xanh da trời là lòng bao la quảng đại, trong có bánh xe lửa chín chia gọi là pháp-luân thường-chuyển, lại có ý nghĩa là Cửu-thiên khai-hoá. Trong  lá cờ có ba màu: vàng, xanh, đỏ ấy là Tam-giáo qui-nguyên, Ngũ-chi phục-nhứt, gọi là Bảo Sanh-Kỳ (Lá cờ Bảo Sanh).

Quân-Đội Cao-Đài có trách nhiệm thiêng-liêng, làm cho đời được an-ninh trật-tự, đào-tạo hạnh-phúc cho nhơn-sanh chung hưởng cốt yếu làm khuôn mẫu cho sự hoà-bình, làm gương cả lân-bang Ngoại-Quốc. Hiện thời các nước liệt-cường dùng khí-cụ tối-tân, cho đến bom nguyên-tử, chỉ có tàn sát với nhau mà thôi, còn Quân-Đội Cao-Đài tức là một “Đạo Thiên Binh” được toàn thắng, chỉ lưởi gươm kiếm-hiệp khử tà tôn chánh, diệt giả phò chơn, nương theo lá cờ Bảo-sanh mà thật hành nhơn-nghĩa, thủ thắng về mặt Đạo-đức tinh-thần, chẳng làm gì trái với lương tâm. Tóm lại, Quân-Đội Cao-Đài tức là một  Cơ-quan Hoà-Bình Thế-Giới.

                         

Đền-Thánh ngày 8 tháng giêng năm Đinh-Hợi (1947)

LỄ RƯỚC QUẢ CÀN-KHÔN

Ngày nay đã dời quả Càn-Khôn về Đền-Thánh, Đức Chí-Tôn đã ngự nơi ngai của Ngài, chúng ta nên mừng cho nhơn-loại được ảnh hưởng nơi Đền-Thánh nầy mà tiến-hoá mãi lên.

Đền Thánh kể từ đây không còn ai xem nó là vôi, cát, xi-măng nữa, mà là khối đức-tin của toàn con cái của Đức Chí-Tôn đã tượng nên hình vậy.

Nhờ những bàn tay của mấy em, mấy con, thợ hồ, thợ mộc đã chịu đói rách khổ cực hơn mười năm trường mới dày công đào-tạo nên. Từ đây một sắc dân nào có đủ đức-tin nơi Chí-Tôn là Chúa tể vạn-loại thì dầu ở nơi phương trời nào, họ sẽ hướng về Đền-Thánh mà cầu-nguyện hàng ngày hàng giờ để mong hưởng phước lành của Ngài.

Đền-Thánh làm xong, nền Đạo đã vững-vàng, chúng ta sẽ dẹp lần cái bạo-tàn của đời để dìu-dắt nhơn-loại đi vào con đường gầy dựng lại trật-tự, hoà-bình cho cái năng-lực  nhơn-nghĩa, chúng ta sẽ  đem hạnh-phúc lại cho thiên-hạ trong buổi chuyển thế nầy.

Chúng ta  nên mừng vì nhơn-loại sẽ nhờ khối đức-tin của chúng ta mà hưởng ân-huệ của Đấng Chí-Tôn.

Bần-Đạo nhắc lại, Đức Chí-Tôn đã hứa với con cái của Ngài những gì ngày nay chúng ta đã thấy, Ngài chúng ta theo lời hứa, Bần-Đạo đứng tại toà giảng đây chứng chắc như thế, bởi những công-nghiệp phi-thường tạo thành trong thời gian qua để làm bằng chứng. Vì Quốc-Dân Việt-Nam ta còn kém đức tin nơi Ngài nên cơ quan cứu khổ để giải thoát cái ách nặng nề của chúng ta phải còn muộn màng đến ngày nay, mà trước mắt chúng ta còn thấy cái thảm trạng tương tàn tương sát rất đau đớn thương tâm, phải chi Quốc dân ta tự thử và cầu-nguyện thử đi, rồi coi Đức Chí-Tôn  sẽ cho chúng ta y như lời hứa không.

 

ĐẠI LỄ ĐỨC CHÍ-TÔN

Đêm mồng 9 tháng giêng năm  Đinh-Hợi (1947 )

Quốc dân Việt-nam có một phần người thiếu đức-tin về Đạo Cao-Đài, họ chẳng tin rằng Trời khai Đạo  để tạo Đời, lập Minh-Đức Tân-Dân, tức là một cơ quan cứu thế, làm cho vạn loại hoà bình càn-khôn an-tịnh, tránh khỏi sự cạnh tranh giết hại lẫn nhau. Hiện giờ cái hoạ chiến tranh, khói lữa lan tràn khắp nơi, nhơn-sanh thống-khổ, cốt nhục tương tàn là vì có phần người không tin có Trời, chẳng noi theo luật công-bình của tạo-hoá, cho nên mới gây ra một trường náo-nhiệt như thế. Ngày nào nhơn-sanh biết nhận định Đạo Trời là phương châm giải khổ lập thành Quốc-Đạo trong nước Việt-Nam, đem lại sự an ninh trật tự cho nhơn loại  cộng hưởng hoà-bình, thì ngày ấy là ngày của Đức Chí-Tôn rưới giọt hồng ân cho nhơn loại gội nhuần hạnh-phúc.

 

Đền-Thánh ngày rằm tháng giêng năm Đinh-Hợi ( 1947 )

Lễ Thượng-Ngươn giảng về vấn đề

TAM-BỬU

Hiến lễ Đức Chí-Tôn là: Bông, Rượu, Trà, thể theo Tam-Bửu của con người là: Tinh, Khí, Thần, ấy là một vật báu nhứt của thế-gian, khi chúng ta hiến lễ cho Đức Chí-Tôn  thì phải trau dồi tô điểm ba vật báu cho tinh khiết, chẳng nên để nó nhiểm lấy bụi trần ô uế, thì vật báu ấy trở nên vô giá trị.Vậy Chức-Sắc, Chức-Việc nam nữ cần phải trau tria thân-thể và trí-não tinh-thần cho được trong sạch.

Mỗi khi hiến lễ ta cần dâng các bửu vật ấy cho Thầy để làm hột giống tốt đặng gieo trồng cho nhơn-sanh nhuần gội chung hưởng âu huệ của Thầy ban.

Vậy điều cần yếu là Chức-Sắc vào hàng Thánh thể, phải trọng tu dưỡng ba vật báu của mình cho thanh bạch, hầu hiến lễ Đức Chí-Tôn

 

Ngày 30 tháng giêng năm Đinh-Hợi ( 1947 )

LỄ HỘI YẾN DIÊU-TRÌ

Hội Yến Diêu-Trì là cơ quan đắc Đạo tại thế. Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu cùng Cửu Vị nữ Phật đã giáng trần Hội Yến với chư Chức sắc, xướng hoạ thi phú và dạy Đạo. ấy là Hội chư Tiên tại thế.

Đức Chí-Tôn thuộc về Phật, Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu thuộc về Pháp, nếu có Đức Chí-Tôn mà không có Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu thì trong vũ trụ nầy không có chi về mặt hữu vi, còn nhơn-loại là Tăng.

Ta nhìn có Đức Chí-Tôn khai hoá, nhưng có sanh hoá càn-khôn Càn khôn cũng như cơ sản suất nhơn-loại tại thế cũng do âm dương tương hiệp mới phát khởi vạn-vật, cho nên con người gọi là cha mẹ là Tiểu Thiên-Địa, còn nhiều ý nghĩa rất sâu xa nói chẳng tột.

 

Báo Ân-Từ ngày mồng1 tháng 2 năm Đinh-Hợi (1947)

THỜ ĐỨC PHẬT-MẪU TẠI BÁO-ÂN TỪ

Từ đây chúng ta rất hân hạnh thờ Phật-Mẫu tại Báo-Ân-Từ. Buổi mới mở Đạo Bần-Đạo biết công-nghiệp của Phật-Mẫu thế nào, Ngài và Cửu vị nữ Phật dìu-dắt con cái của Đức Chí-Tôn ban sơ đến ngày đêm chúng ta giao lại cho Thầy.

Ngày mở Đạo, vì cái tình-cảm ấy, các vị Đại Thiên-Phong buổi nọ xin thờ Phật Mẫu ở Đền Thánh, thì Phật Mẫu cho biết rằng Quyền Chí-Tôn là Chúa còn Phật-Mẫu là tôi, mà tôi làm sao mà ngang hàng với Chúa, chúng ta thấy Phật Mẫu cung kính Chí-Tôn đến dường ấy không gì dường được.

Cả cơ quan tạo-đoan hữu tướng, thảy đều do Phật-Mẫu tạo thành. Khi ta đến cõi trần mang mãnh thi hài, cái chơn linh khi đến, khi về cũng do nơi tay Phật Mẫu mà sản xuất, Phật Mẫu là mẹ của linh hồn, nếu chúng ta biết ơn nặng ấy, thì ta càng cảm mến cái công đức hoá dục sản xuất của Ngài vô cùng.

Chúng ta ngày nay trên đường tu-tiến, đắc đạo hay không cũng do bà Mẹ thiêng-liêng nâng đở ấp yêu, vì không có ai cưng con hơn là Phật-Mẫu. Nếu chúng ta biết đặng cơ quan tạo hoá Càn-khôn sản xuất hữu hình của Phật-Mẫu, thì chúng ta sẽ có tình cảm kính trọng thương yêu Phật Mẫu đến ngần nào. Con cái của Ngài xin đem vào thờ ở Đền-Thánh, thì Ngài lại từ chối mới biết cái cung kính của Phật-Mẫu đối với Đức Chí-Tôn ở thế gian nầy được đáo để đến dường ấy.

Còn nữ phái coi tánh đức của Mẹ mà làm gương tu tỉnh, lạ gì những tánh thường tình thế gian, đàn bà ăn hiếp chồng, thất kính với chồng, bỏ con trẻ bơ vơ, chẳng qua là họ không thọ bẩm cái tình thương yêu nồng-nàn của mẹ vậy.

Bây giờ nói về tại sao có Phật-Mẫu trước khi có Đức Chí-Tôn là đấng không mà có, nếu nói có tất cả là không, ấy là đấng vô hình, vô ảnh ở trong cảnh vô tướng, Đức Chí-Tôn vì mộng tưởng chẳng khác kẻ phàm, sanh ra lớn lên lại muốn tạo nghiệp, muốn tưởng Đức Chí-Tôn là nguồi cội cả Bí-Pháp nên gọi là Phật. Trong Bí-Pháp buổi ban sơ phân tách ra âm dương, phần âm là Phật-Mẫu sản xuất cả cơ hữu vi của vụ trụ. Bởi thế nên quyền năng của Phật Mẫu là Mẹ khí thể của ta, nên ta có ba hình thể là Tam-Bửu đó vậy.

Tam-Bửu là ba khí chất tạo nên hình hài xác thịt là con kỵ-vật, thiên hạ lầm tưởng hể xác chết là mất, vậy thì thử hỏi Trời Đất vạn vật một khi đã hoại thì tan nát không còn sanh hoá nữa hay sao ?.

Bởi mang xác thịt mắt phàm không thể thấy, chớ nếu có huệ-nhãn thì thấy trong cái xác của người có ba thể: thể thứ nhất là xác hài, thuộc vật chất biến sanh, thể thứ nhì là chơn-thần do tinh-ba của vật-chất-khí mà sản xuất, từ phẩm địa Thần đến Thiên Thần, thể thứ ba là ngươn khí do chơn linh mà có, từ bực Thánh đổ lên.

Chúng ta đạt pháp do chúng ta có ba thể tương liên đừng tưởng chúng ta không đạt được. Chúng ta hễ đi được thì đi hoài, đâu cũng có đường hết thảy. Song muốn đạt được pháp thì phải luyện. Ban sơ mới khai Đạo chúng ta phải thi hành thể-pháp nếu sau nầy không đạt được chơn pháp thì cũng như con người có quần mà không có áo vậy.

Từ khi cơ-quan hữu tướng của Mẹ đã tạo thành, thì Đức Chí-Tôn không cho mẹ thấy nữa. Phật-Mẫu thì biết tôn-sùng và sợ sệt chớ không thấy Đức Chí-Tôn được, nên bây giờ Mẹ thì vui cùng con cái an ủi nhớ con cái. Lạ gì tình thương của đàn bà, có mặt chồng thì ít thương con, ít ấp yêu, còn đến khi vắng mặt chồng thì mới biết thương yêu con cái vậy.

Phật-Mẫu khi thấy con cái đến ngày qui liễu, bỏ cái áo xác thịt nầy về với Ngài, Ngài rất vui lòng tiếp rước con cái, như người đàn bà gặp được đứa con yêu dấu cách biệt từ lâu.

Đền thờ nầy là nơi lễ bái Đức Phật-Mẫu trong buổi nhơn đạo mãn sang hồi cựu vị.

 

QUỐC - SỰ  ( 1 )

Phiên nhóm Bộ Quốc-Sự ngày mồng 9 tháng 2 năm Đinh-Hợi (1947)

Hôm nay chúng ta bàn giải về Quốc Sự, vậy trước khi bàn đến vấn đề quốc sự, tôi có mấy điều đưa ra trước để chúng ta vạch một con đường mà chúng ta sẽ đi hay nói là sẽ làm, vì chúng ta phải có mục đích rõ ràng.

Chúng ta cũng dư hiễu, hiện giờ các liệt cường như các nước Pháp, Anh, Mỹ, Nga mỗi nước đều có một chế độ chánh trị riêng. Nói đến chánh-trị, chúng ta nên hiểu rằng, chế độ chánh-trị là do một mục đích, một chủ nghĩa, một tinh-thần của quần-chúng tạo ra.

Như xưa khi, nước Pháp còn dưới chế-độ Quân-chủ độc-tài làm cho dân Pháp chiụ không nổi sự bất-công tàn bạo của nhà Vua, nên trong quần-chúng có nhiều nhà triết lý cao thâm như : Jean Jacques Rousseau, Montesquieu, họ muốn đem lại công lý dân quyền, nên ngồi bóp trán suy nghĩ tạo nên một tinh-thần chánh-trị dân-chủ, mà một khi đã phát sanh một tinh-thần đân chủ rồi thì mới lập thành một chế-độ chánh-trị dân-quyền.

Chế-độ nầy phát sinh ra rồi thì quần-chúng Pháp nhìn nhận nó là một chủ nghĩa dân-quyền, phải tìm phương thi-hành cho kỳ được, để đả-đảo ché-độ quân-chủ độc-tài. Nước Nga cũng thế, trước kia dân Nga bị oằn-oại bóp chẹt dưới chế độ quân-chủ độc tài, nên Lenine cũng ngồi suy nghĩ tìm tòi phát sanh ra một tinh-thần dân-chủ và do tinh-thần dân-chủ đó nên lập thành một chế-độ dân-quyền Cọâng-sản.

Tóm lại, quần chúng của mỗi nước vì cái nạn độc-tài của quân-chủ hay của một ông Thủ-lỉnh mà phát sanh ra một tinh-thần cách-mạng, rồi thì quần chúng lại tạo ra chế độ dân quyền.

Nếu đã có tinh-thần chế độ chánh-trị dân quyền rồi, thì quần chúng coi đó là một chủ-nghĩa phải theo đuổi để bài trừ một chế-độ không hợp lòng dân.

Đến đây tôi xin để một câu hỏi ? Vậy chớ quần-chúng phải làm thế náo để bài trừ cái chế độ chánh-trị tàn bạo kia hầu áp-dụng chế độ dân-quyền.

Theo tôi thấy thì quần chúng dùng hai phương-pháp sau nầy :

Phương-Pháp thứ nhất : Tranh-đấu về tinh-thần như biểu-tình phản-động, hoặc ngoại-giao tranh-đấu, hoặc bất hợp tác hay dùng kinh-tế mà tranh-đấu để bóp chẹt, đánh đổ một chế-độ mà quần chúng cho là bất hợp thời.

Phương-pháp thứ nhì : Vì tranh-đấu theo phương-pháp trên, quần chúng bị binh lực đàn áp, thế nên quần chúng hiệp lại thành khối, tạo nên một lực-lượng binh bị tương đương làm hậu-thuẩn đối-phó lại để ủng hộ cái chủ nghiã của mình.

Nói đến đây chư vị cũng dư hiểu rồi, vì ủng hộ cho một chủ-nghĩa nên quần chúng tạo thành quân-đội, để ủng hộ cái chủ nghĩa hay mục-đích của mình vậy.

Nếu đã biết rằng vì ủng-hộ một chủ-nghĩa nên chủ-nghĩa đó tạo ra quân đội để làm hậu thuẩn, thì chúng ta phải nhận định rằng chánh-trị tạo ra quân đội chớ quân-đội không khi nào tạo ra chánh-trị.

Cũng như chúng ta ngày nay, hỏi vậy chúng ta theo đuổi chủ-nghĩa nào ?.

Có phải chúng ta theo đuổi chủ nghĩa Cao-Đài không ? Nếu đúng như thế thì chủ nghĩa Cao-Đài vì muốn tồn tại nên phải lập ra quân-đội. Như vậy quận-đội là của Chánh-trị lập thành, nên quân-đội phải tuân theo nguyên-tắc chánh trị. Như thế quân-đội phải do chánh-trị điều khiển vì chúng ta làm chính-trị.

Làm chánh trị là làm Quốc-Sự. Bộ Quốc Sự muốn đạt thành con đường chánh trị của mình thì quân đội là cơ quan tạo nên để ủng-hộ chánh-trị đó vậy.

Xin chư vị thử nghĩ coi có phải thế không ? Nếu phải thì chúng ta nên nhìn nhận rằng: quân-đội phải chiụ quyền điều-khiển của chính trị để chúng ta làm quốc-sự. Chúng ta có Bộ Quốc-Sự để làm chính trị thì quân đội phải tuân hành theo những qui tắc chánh-trị, còn về việc điều-khiển quân-đội khi hành binh thì do Bộ Tham-Mưu quân-đội được trọn quyền và được quyền đòi hỏi những vật-liệu chiến tranh nơi Bộ Quốc-Sự.

Tóm lại chúng ta đã xác-định rằng: Bộ Quốc-sự phải ban hành những qui-tắc chánh trị để điều-khiển quân đội hầu Bộ quốc-sự đủ lực-lượng và đủ điều-kiện làm chánh-trị.

Cũng như cổ kim lập triều-đình, định chánh-thể rồi, mượn ra nguyên-tắc lập quân-đội, quân-đội không tuân-hành đi nghịch lại mạng-lịnh của triều-đình thì triều đình bất lực, nảy sanh loạn lạc. Bất cứ một ai trong nước mạnh đặng yếu thua, giựt giành thì không còn gì chánh-trị nhân-nghĩa nữa.

Trên đây là một sự thật của lịch sữ tiến-hoá chánh-trị hay là một phương pháp làm chánh trị.

Quần chúng vì làm chánh-trị để tranh đấu quyền lợi quyền nên lập ra quân-đội làm hâu-thuẩn cho chánh-trị. Như vậy thì quân-đội của quần chúng chớ không phải quần chúng của quân-đội hay nói với sự hiểu rộng thì triều đình lập ra quân đội vậy.

Chúng ta ngày nay vì làm chánh trị nên phải có quân-đội, ngày nào nếu chúng ta không làm chánh trị nữa thì quân đội phải giải tán.

Song thời cuộc bắt buộc chúng phải làm chánh trị nên chúng ta đã bỏ thăm công nhận thành lập Bộ Quốc-sự rồi để thay mặt quần chúng làm Quốc-Sự, cứu vãn sanh mạng và quyền lợi của họ vậy. Như thế chúng ta nên triệt để ủng hộ Bộ Quốc-sự của Hội-Thánh để chống lại cái nạn chánh-trị khốc hại của chế-độ bóc lột hay nói là Đế-quốc chủ-nghĩa.

Một bằng cớ trước mắt chúng ta là ông D`Argenlieu sang Đông-dương để lại cái trách vụ của Nội-các Pháp phú-thác cho, hỏi vậy cái trách-vụ ấy là những gì ? Có phải là những Huấn-lịnh, những nguyên-tắc, những điều-kiện về chánh-trị buộc

D’ Argenlieu phải tuân-hành không ?

Còn ngày nay chúng ta xem sao, chúng ta thấy rằng nước Pháp muốn áp dụng xứ nầy một  chánh trị liên-bang để thu hoạch cho được cái mục đích quyền-lợi của họ, nên Nội-các Pháp sai ông Bollaert là một nhà chánh-trị có biệt tài sang Đông-dương mang theo những huấn-lịnh, những điều-kiện, những qui-tắc chánh-trị để tranh thủ với cái mục đích chánh trị của dân chúng Đông-dương mà nhứt là dân chúng Việt-Nam.

Bởi thế nên quân-đội Pháp ở Đông-dương phải chiụ dưới quyền điều khiển của ông Bollaert, nghĩa là Ông Bollaert có quyền định đoạt sự chiến nay hoà, hoặc kháng chiến, hoặc đánh với đối phương nào và những chỗ nào quân-đội không được đụng chạm  tới.

Như thế thì chúng ta rõ rằng Ông Bollaet rất qua đây làm chính trị, làm quốc-sự chớ không phải qua đây chỉ có một lịnh chiếu.

Thử hỏi, nếu ông Bollaert  không làm chính trị thì chiến đấu để làm gì ? Cho mục đích chánh-trị nào ? Bây giờ chúng ta lo làm Quốc-sự để đạt thành chủ-nghĩa của chúng ta nên mới có Bộ Quốc-Sự chuyên lo vạch con đường chánh-trị sáng suốt để bàn định và giải quyết với cái chánh-trị sáng suốt của ông Bollaert  mang từ Pháp sang đây,  thì theo tin tiếp được thì ông Bollaet và Thủ-Tướng Hoạch sẽ đến Toà-Thánh nay mai.

Ngày nay chúng ta trên con-đường phụng sự quốc-gia phải tranh đấu về

Chánh-trị để thâu-hoạch lại những cái gì mà chúng ta có quyền hưởng một cách  xứng đáng.

----------------------------

( 1 ) Trước kia (vào khoản năm 1947) trong Đạo có cơ quan Quốc-Sự-Vụ.

 

Đêm rằm tháng 2 năm đinh-Hợi ( 1947 ) tại Đền-Thánh

GIẢNG TAM-BỬU TINH KHÍ THẦN

Phàm con người có ba báu: Tinh là xác thân của cha mẹ sanh ra, liên quan với xác thân là hơi (corps astral), nó tiếp xúc liên quan bảo trọng sự sống. Sự sống là nuôi nấng lấy hình hài chúng ta bằng sanh quang do nơi Phật-Mẫu tạo mà có, liên quan với linh hồn ta là của Chí-Tôn ban cho mà cớ. Ba thành một, một thành ba gọi là Tam-Bửu: Tinh, Khí, Thần.

Chí Tôn lại chọn lựa vật quí báu là Bông (tinh) Rượu (khí), Trà (Thần) là ý-nghĩa Ngài muốn đòi hỏi con cái của Ngài những món quí mà ta có để sống ấy hiến cho Ngài, tức là Ngài muốn toàn con cái của Ngài sống mãi với Ngài đó vậy.

Muốn cho khỏi phụ lòng Chí-Tôn thì ta phải đào luyện cho đệ nhị xác thân ấy đặng tinh-khiết nhẹ nhàng. Muốn được vậy; ta chỉ có hai điều là phải trai-giới: chỉnh tu cho-cái đệ nhị xác thân được tráng-kiện hoạt-bác, tùng khuông-viên thiện-đức. Đệ nhị xác thân ta khi còn sống ở quanh mình ta, bảo hộ về sanh-quang tiếp với đệ tam xác thân là linh-hồn. Khi lìa khỏi xác thúi hôi hửu hoại thì nó trực tiếp ngay với linh-hồn nếu nó được thanh-khiết. Bằng nó nghiệt ác thì nó phải dính lúi với cái xác thúi hôi nầy mà phải chiụ lìa xa cái linh hồn thì thần tử sẻ rước đi mà phải đoạ là vậy. Bởi cớ Chí-Tôn ban cho ta cái Bí-Pháp (phép xác) cắt đứt dây oan nghiệt cho nó rời hẳn với đệ nhứt xác thân được khinh phù nhập một với linh-hồn tức là hằng sống vậy.

Loài người quá xảo quyệt khôn khéo tiềm tàng sự sung sướng xác thịt nầy, tại do đó mà gây nên biết bao nhiêu thần sầu quỉ khóc, chiến-tranh không ngớt, là do nơi lòng tham lam tiến triển văn-minh, cơ khí tối-tân như là bom nguyên-tử để giết người. Hiện tại nơi Mỹ-Châu, Cổ-Tàng viện của họ có đến 200 triệu quyển sách. Cứ đổ đồng một ngày xem một quyển thì phải sống đến mấy đời mới đọc hết dược.

Chí-Tôn biết rõ loài người tiến-hoá tột bực mà tự đắc tự tôn, chỉ biết lo cho xác thịt mà thôi, không chuyên lo cho đếân nhị xác thân và tinh-thần, nên Chí-Tôn đến khai đạo là cố ý giáo hoá cho loài người biết rõ câu tội phước, giồi luyện cho con người tận thiện đến hiệp cùng Ngài. Nếu chúng ta biết được vậy thì toàn-thể thế-giới nầy những điều tinh-ma quỉ quái sẽ tiêu diệt, thần tử không hề đến đó được.

Nếu ta thấy được cõi Hư-Linh kia, cái tinh của vạn loại bị giết  một cách tàn nhẩn, bởi loài người kết oán thù thâm với nó, chực chờ thù ghét, vì vậy mà có vay trả luân hồi mãi mãi đoạ đày, bất năng thoát tục.

Mong sao chúng ta từ đây phải biết trọng lấy lẽ ấy mà luyện đệ nhị xác thân cho đủ đầy sự tinh khiết, là phải thương loài vật, phải thương tất cả để chấm dứt cái oan nghiệt ấy mà truyền bá cái hườn thuốc linh-đơn nầy là đạo đức của Chí Tôn, để cứu vớt quần sanh thoát vòng đoạ lạc hoàn toàn.

Cả thế-giới nầy biết được và thì chắc-chắn không còn cảnh thảm khổ nầy tái diển lại nữa. Loài người do một nguyên căn mà thôi, bởi do tâm lý và tập quán của các nước, của các sắc dân, vì cái khác ấy mà chia thôi nhau, nghịch lẫn nhau, thù địch nhau, mà tranh đấu đất không ngừng.

Vậy Thánh Ý của Chí-Tôn khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Tam Giáo Qui-Nguyên, Ngũ-Chi Phục-Nhứt là muốn dung hoà tâm lý toàn cả con caí của Người để cứu vãn trên 92 ức nguyên nhân, vì thế mà bị sa đoạ nơi đây. Chí-Tôn đã đại-từ đại-bi chỉ rõ căn nguyên và ban ơn cho ta, dạy dỗ cho ta để đạt  ngôi vị là phải trau luyện cho tinh hiệp với khí, tinh khí hườn thần là cơ huyền-bí để mà đắc Đạo vậy.

Trong giá của Tam-Bửu mà Chí-Tôn ưa chuộng để dâng Đại lễ cho Ngài là nguyên-nhân chấm dứt cái hoạ tranh thủ mà gây nên trường oan nghiệt cho toàn thế-giới.

Aáy vậy, muốn duy trì sự hoà hiệp đại đồng nầy cũng do nơi gốc Bí-Pháp đó mà thôi, dầu triết-lý thâm-uyên đạo-đức mà tôn-giáo nào cũng không qua lẽ ấy; mà nếu không đạt được thì toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trượt tội tình, thì thế-giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ.

 

Đền-Thánh ngày rằm tháng 2  Nhuần năm Đinh-Hợi (1947).

TAM-BỬU

(Tiếp theo)

Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp về Tam-Bửu, Bần-Đạo lần lượt giảng Tam-Bửu trước là vì Đức Chí-Tôn lấy Bông, Rượu, Trà mà tượng hình ba thể, tạo nên vạn loại.

Chơn-linh mới thiệt là ta, còn chơn-thần là do tinh ba của vật khí biến hình. Chơn linh ta mượn cơ-quan hửu hình thể thân-mật cùng cả cơ-quan tạo-đoạn võ trụ.

Ta đến mang mảnh hình-hài như thế nầy đặng chi ? Nguyên do nơi nào mà đến rồi Bần-Đạo lần lượt giảng vì sao mà ta phải Tu. Tu có ích gì, do nguyên-lý nào mà phải Tu.

Bần-Đạo sẽ giảng nguyên-do con người là gì, rồi mới tiếp giảng đến Cửu-Thiên Khai-Hoá, Đức Chí-Tôn tạo Bát-Quái-Đài là gì ?.

Bây giờ Bần-Đạo giảng về Tam-Bửu, ba cơ quan tạo nên hình thể con người, Chơn linh ta do nguyên khí mà có, nguyên-khí là Tiên-thiên-khí, chơn thần do Hậu-thiên-khí kết thành, còn xác thịt do vật chất mà nên.

Hỏi vậy ta muốn ...đây do cơ-quan nào ? Aáy là nhờ Chơn-linh mới có sự sống. Chơn linh  có một quyền năng vô-đoán, chưa có khoa-học nào tra cứu rõ thấu được. Cái quyền-năng của nó là của Đức Chí-Tôn ban cho. Quyền-năng của chơn linh không giới hạn, nó là quyền-năng bảo trọng đường sống của vạn-loại, của xác hình. Chơn-thần là Hậu-thiên-khí nó bảo-trọng vật-chất-khí.

Trong ba khí chất ấy, tạo ra hình hài chúng ta, chơn-linh là nhứt điểm linh-quang do Chí-Tôn mà có để bảo-trọng cái sinh-mạng, cái sống của thi-hài. Đến ngày giờ nào niên kỹ đã định hết khối sinh quang rồi thì cái quyền năng ấy ra khỏi xác, thì xác phải hoại, chúng ta gọi là tử.

Aáy vậy, ta thử kiếm coi Tiên-thiên-khí, Hậu-thiên-khí và Vật-chất-khí là gì ? chúng ta sẽ thấy bất kỳ vật hửu hình nào cũng có ba thể chất:

Vật-chất thì mắt ta thấy,

Chơn-thần là Hậu thiên-khí.

Năng-lực là Tiên-thiên-khí.

Ba khí chất nầy tượng ra hình hài của con-người, vật chất có mùi vị, năng lực  thế nào thì loài người thế ấy vì chúng ta thấy một một hột gạo, nấu ra cơm ăn vào để lấy cái tinh ba của nó là Hậu-Thiên khí phục nguyên khối sanh-quang của ta được tồn tại.

Tinh ba của vật-chất nó vào mình làm cho xác hài có năng-lực tráng-kiện. Ta thấy khi đói bủn rủn tay chơn là thiếu sanh khí có vậy.

Chơn-thần là hậu-thiên-khí, ta không thấy mà chớ nên tưởng rằng không có, ta ăn hột cơm vào bụng, lọc lấy cái tinh-ba làm huyết khí để nuôi lấy khối sanh vật nầy. Ta biết có mà không thấy được. Chơn thần chúng ta, thiên hạ kêu là phách, vía cả thảy đều có.

Người hay sợ ma là tại sao ? Vì họ thấy hình ảnh của khí chất biến hình, năng minh  năng ẩn, mà sự ẩn hiện ấy lấy làm lạ và trái với mắt phàm thường thấy, nên làm cho họ sợ.

Một khi ta thấy một vong linh hiện hình mà ta có phước gần gủi đặng họ sẽ thương-yêu mình hơn kẻ phàm lắm vậy.

Kẻ phàm mang xác hài hay có thất tình lục dục, nên có sự phân cách về thể chất hữu-vi làm cho thiếu sự thương yêu vì ta sợ.

Ngày nào ta về cảnh vô nghĩa sống trong khối tạo đoan chừng đó ta mới biết Đạo là có phận sự bảo trọng chúng sanh, khuyên lơn dạy dỗ và giúc thúc cho các đẳng linh hồn tăng tiến trên đường tấn hóa. Ta chỉ đặng phép thương yêu binh vực chớ không ai đặng mưu hại giục hư.

Bần Đạo giảng cõi hư linh, nếu ta đạt pháp xuất ngoại xác thân, tương hội cùng các bậc cỏi vô hình thì ta thấy khác hẳn theo tánh chất phàm tâm tưởng tượng.

Cõi Hư-Linh các bậc cao trọng Thánh, Tiên, Phật chỉ có mơ ước thiết thực nhất một điều là làm thế nào giúp ích cho chúng sanh. Các đấng ấy rất may mắn gặp những dịp đẻ an ủi tâm hồn chúng sanh, hằng giờ hằng buổi không thiếu tình thương.

Chúng ta đến làm người, cốt yếu đạt cho được cơ tạo đoan trở nên Chí-Linh chí Thánh, một kiếp học thêm một bực, để ngày kia mong mỏi làm Trời.

Các bạn biết Phật Thích-Ca xưng là Bổn-Sư, người Tu gọi là Thầy, nếu các chơn linh ấy gặp được, thấy được gần được Phật thì đối với Phật không ngoài mức bạn thân ái.

Ơû thế nầy dầu một vị Phật cũng không chê ai, không hạng nào chê, hạng nào khen, vì Phật đã biết con đường đi trước kia, dầu ai phạm, dầu ai lạc hậu cũng tới sau, họ chỉ biết một điều là chỉ từ nẻo quanh co, vui vẻ chỉ cho bạn đi cùng đường đạt lên Phật vị.

Họ không dám chê ai, chẳng phải đối với loài người mà thôi mà đối với tất cả van-loại, chúng-sinh chỉ là anh em còn lạc-hậu đó vậy.

Con vật mà ta thấy bị giết được là vì nó vô cô không phương bảo-vệ, ngày nay giết nó mà ăn thịt, biết đâu sau nầy các bạn lạc-hậu ấy tiến-hóa đến phẩm người trở lên, rồi chúng ta sẽ gặp nó bên mình, khi ấy nó ngó ta mà cười và hỏi: “ Xưa kia Đức-Phật có ăn tôi một lần “. Nghĩ tưởng chẳng gì sỉ hổ thẹn thuồng bằng. Thế nên ta phải ăn chay..

Chưa có ai nhẩn tâm giết người đặng ăn thịt, cũng không có ai đặng quyền giết các bạn lạc-hậu ấy đễ ăn.

Ta đến đây làm bạn cùng vạn-vật chúng sanh, vạn-vật giút ta học cho thấu đáo huyền-vi cơ Đạo, tạo chí linh nối nghiệp Đức Chí-Tôn.

Thầy có nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp phẩm-vị cho chúng ta, Thầy không khi nào lấy lại, trừ ra kẻ nào từ bởi Đại Từ-Phụ mà không tin sao ? Ông cha phàm kia còn yêu ái con, trước buổi nhắm mắt còn tính để lại cho con một phần gia nghiệp hương hỏa.

Một điều là ông cha phàm làm với phạm vi nhỏ phương-pháp nhỏ theo phàm. Còn ông cha thiêng-liêng không lẽ thua ông cha phàm. Thầy nói: Thầy dành sẵn gia nghiệp ngôi vị thì Thầy không quyền cho kẻ khác, trừ khi mình bỏ. Bần-Đạo tưởng, nhứt là phái Nam, thanh-niên vũ-chức (có chức phận trong quân-đội) nếu mấy em biết cơ-quan ấy thì không hạnh phúc nào hơn là dám hủy mình vì Đức Chí-Tôn. Bần-Đạo dám chắc Thầy không hề chiïu thiếu ai và Thầy không hề quên mối nợ tình ái của con cái của Ngài. Nếu Thầy không thương món nợ ấy thì Hộ-Pháp hứa sẽ tái kiếp luân-hồi bồi thường cho đủ.

Vì những kẻ dám đem mình làm tế vật cho Thầy để lập nên một quốc gia ấy phải thành. Đức Chí-Tôn tạo cho con cái của Ngài một cửa nhỏ tuy khó đi mà Bần-Đạo chắc rằng, những hạng con cái dám chết vì Ngài thì chúng nó dám đạp văng cửa ra chúng nó đi sấn đến. Nếu chúng ta có con mắt thiêng-liêng, ngày nào họ đi ngang qua thì ta sẽ thấy các Đấng dầu chư Thần, Thánh, Tiên, Phập tức là các chơn-linh cao trọng cũng phải cúi đầu.

Thầy sẽ trả bao nhiêu món nợ tình ái của con cái của Ngài thì không biết, chớ không khi nào Đức Chí-Tôn trả cho một mà phải trả nhiều hơn là hẳn vậy. Xin cho toàn đạo nam nữ sao lục nguyên văn để phổ thông chơn-lý.

Đền Thánh đêm rằm tháng 3 năm Đinh-Hợi ( 1947 )

TAM BỬU 

(Tiếp theo)

Hôm nay, nhơn  Bần-Đạo làm phép giải oan cho một người anh em của chúng ta là Hồ-Tấn-Khoa, nên Bần-Đạo giảng tiếp về Tam-Bửu. Giảng tiếp về vần-đề ấy lại, Bần-Đạo tuyên bố cho toàn Đạo nam, nữ và chư Chức-Sắc Thiên-Phong Nhị-Hữu-Hình Đài được nghe rõ. Đối với cơ quan đời biến chuyển, từ ngày Bần-Đạo bị đồ- lưu đến khi về tới nay tính lại đã gần tám tháng, Bần-Đạo thấy tình hình Quốc-Gia của chúng ta mà cả thảy ai ai cũng biết chẳng cần phải lập lại, vì Bần Đạo đã thuyết minh nhiều lần rồi.

Bây giờ thử hỏi chơn-truyền của Đức Chí-Tôn mở đạo là một nền chánh giáo, tôn chỉ bảo chúng ta làm gì ? và Đạo Cao-Đài phải đi theo con đường nào ? Chúng ta thấy Đại-Từ-Phụ lấy ba Tôn-Giáo: Nho, Thích, Đạo làm cơ quan duy nhứt, dầu về phần thiêng-liêng hay hửu-hình cũng vậy, để làm bí-mật chơn-truyền diù- dắt linh-hồn và thi hài của chúng ta là một phương-pháp đoạt kiếp giải thoát linh hồn. Nho lấy nhơn-nghĩa làm căn bản. Đạo lấy công-chánh làm căn bản. Thích lấy bác-ái từ-bi làm căn bản, Ba triết-lý ấy hiệp lại vừa lo phần Đời và phần Đạo, xác hồn chúng ta đi đến tận con đường mà Đức Chí-Tôn  chờ đợi các con cái hiệp một cùng người.

Nhơn-nghĩa là gì ? Người có nhơn là thì không có oán, nghĩa thì không bạc. Công chánh là gì? Có công thì không có phụ, có chánh thì không có tà, không chối cái điều chơn-thật được, còn có từ bi thì có khoan hồng dung thứ, có bác-ái mới có thể bảo thủ và thân mến toàn thiên hạ, nếu chiếu theo chơn truyền của Đức Chí-Tôn  khuyên bảo chúng ta thế nào, thì chúng ta phải tuân theo thế ấy, chúng ta phải khoan-hồng tha-thứ, biết yêu ái, phải có công-bình chánh-lý, chúng ta giữ được cả chơn truyền ấy thì không ghét ai, còn ai. Trái lại, Đại-Từ-Phụ buộc chúng ta phải thương yêu kẻ nghịch, kẻ thù của chúng ta nữa.

Chiếu theo chơn-truyền ấy, đối với đời, với quốc gia chủng tộc toàn đạo phải xử thế nào? Chẳng lẽ Đạo Cao-Đài phải nhượng-bộ hạ mình trước đảng phái, vì cái tinh thần của Đạo còn chẳng nhượng ai, huống phải hạ mình làm nô lệ cho đảng phái. Quyền tự chủ ấy là quyền của Đức Chí-Tôn ban cho, Thầy đã không làm tớ ai, nên quyền Đạo nó chỉ làm Thầy.

Nó tự có năng-lực, mà cái năng-lực của ai cả. Nó có một quyền hành sỡ hữu, chớ không tùng ai và không theo đảng phái nào. Nó phải lập quyền yêu-ái công-chánh từ-bi, nó có phận-sự tạo nghiệp cho đời chớ không phải tôi mọi cho đời.

 Đời đang phải chịu vòng nô-lệ thì con cái của Đức Chí-Tôn bây giờ phải theo tôn-chỉ nào? Phải biết rằng có Thiên-mạng con cái của Đức Chí-Tôn là phánh-thể ông Trời tại thế nầy. Trời đã không nhường ai không làm tôi tớ ai, thì con cái của Đức Chí-Tôn  cũng chỉ có phận sự giúp đỡ thiên-lương của con cái Ngài, vì thiên-lương ấy là căn-bản tạo quyền cho thiên-hạ, là con cái của Ngài, lẽ đương-nhiên chúng ta phải biết phận sự đối với quốc gia xã hội.

 

Đền Thánh đêm 29 tháng 2 Nhuần năm  Đinh-Hợi (1947).

QUYỀN-NĂNG CỦA ĐỨC TIN    

Bần-Đạo giảng về quyền năng của Đức-Tin. Hôm nay vì có hàng Quân-Đội Võ-Chức nên Bần-Đạo cần giải rõ cái quyền-năng ấy cho toàn Đạo Nam, Nữ rõ.

Thời buổi nầy là thời buổi toàn con cái của Đức Chí-Tôn đưa tay lên cùng nhau nâng đở và vãn-hồi quốc-vận, nên Bần-Đạo giảng về cái quyền-năng của Đức-Tin, để cả thảy trụ tinh-thần cầu nguyện Đại Từ-Phụ ban ơn nền Chánh-đạo sớm được hoàn thành, hầu cứu vớt cả nòi giống-nòi thoát nạn tương tàn, tương sát.

Hoạn nạn nên để trọn đức tin nơi Người, thì mới mong nền Đạo mau thành chơn-tướng. Đức Chí-Tôn          tạo cơ quan cứu sanh nầy mà gặp phải những điều trắc trở, nguy hại không sớm giải quyết được, là bởi toàn thể quốc dân ta không biết cầu nguyện nơi Người. Bần-Đạo lập lại lời nói của Đức Chúa Jesus nói cùng Môn-Đồ của Người rằng: “Hởi các Môn-Đồ. Đức Chúa Cha ta trên trời dạy rằng: Nếu toàn thể các ngươi có một cái Đức-Tin bằng hột mè thì nó cũng đủ sức xô ngã núi, nó đi không gì ngăn cản nổi”.

Aáy là Ngài nói cái Đức-tin bằng hột mè mà toàn thể quốc-dân đều có, thì đâu có phải chịu cảnh trạng thương tâm thế nầy.

Hại thay ! Dân 25 triệu, đã tự xưng là con Rồng Cháu Tiên, tự biết giống nòi do một căn-nguyên chí Thánh cao-trọng, có máu Tiên-Rồng, mà cái đức tin lại không bằng hôït mè hay sao? Nếu mỗi người Việt-Nam ta đều có một cái đức tin bằng hột mè mà thôi, cũng đủ dời non vét bể được.

Bần-Đạo nói thật, buổi Chí-Tôn đến tạo nền đạo cho nòi giống Rồng Tiên nầy, chính Ngài cầm cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà gọi từ đứa con, cho không biết bao nhiêu bài thuyết dạy, tạo thành một nền Tôn-Giáo Cao-Đài, Bần –Đạo tưởng chưa có người nào đem cả tinh-thần, tâm đức mà thi-ân cho ai dường ấy. Đức Chí-Tôn đến đôï rỗi, lập giáo rồi lại bắt Minh-thệ.

Hỏi tại sao Ngài lại bắt Minh-thệ buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau. Mỗi người có một chút Đức-tin, Thầy bảo qui đức-tin ấy lại, phải có tâm đức tin-tưởng yêu ái lẫn nhau. Phải nhìn nhận có thầy, có đức-tin nơi Thầy.

Hại thay ! Có nhiều đứa con của Ngài cũng nghe, cũng tìm Đạo, cũng thọ giáo, cũng Minh-thệ đủ phép tắc. Biết bao nhiêu, khi mới đến cùng Thầy, quì dưới chơn Thầy mà hể ra khỏi chơn Ngài rồi thì lại phản phúc Ngài và con cái của Ngài.         

Bần-Đạo định quyết rằng; cái tai nạn của giống dân Việt-Nam đến cảnh tưởng nầy chúng ta phải nhìn nhận tội chúng ta vì thiếu đức-tin nơi Ngài mà ra vậy.

Phải chi trước kia biết nhìn nhận Đấng đến diù-dắt ân-ái nâng đỡ, để đức-tin nơi Người, nghe theo Người thì cái nạn đổ máu tương tàn, tương-sát giống nòi không hề có đặng.

Cái hại về sự lưu huyết nầy Bần-Đạo xin nói là cái tội bất tín-nhiệm cùng Đại-Từ-Phụ đó vậy. Ôi! Nếu Bần-Đạo tả hết cái tình cảnh của Đạo trót hai mươi năm nay, thì mới biết cái năng-lực của Đức-Tin nó mạnh đến bực nào. Từ khi Bần-Đạo đến đây, ai xô cũng không ngã, đuỗi cũng không đi, dầu còn dầu mất, dầu nên hư, Đức Chí-Tôn bảo Bần-Đạo ngồi nơi đây, ở nơi đây, dầu cho vì mạng lịnh ấy mà mảnh thân nầy có phải tiêu diệt để bảo trọng nền Chánh-Đạo, thì Bần-Đạo cũng không bước ra khỏi đây một bước. Nếu Bần-Đạo quí trọng sanh mạng nầy, thì Bần Đạo có đủ thì giờ để trốn tránh. Biết bao nhiêu bạn, khuyên lơn Bần-Đạo trốn đi. Bần-Đạo trốn được, tránh được mà Bần-Đạo không khi nào chịu vậy. Đức Chí-Tôn bảo ở, dầu sống chết ngồi nơi đây ôm chân Ngài mà thôi. Bần-Đạo chỉ để lời cầu-nguyện cả thi-hài và tâm-hồn làm tế vật cho Đạo được thành tượng mà thôi. Bần-Đạo chỉ xin có bấy nhiêu mà chưa chắc đã xin được, vì phải toàn thể con cái Đức Chí-Tôn quy tụ đức tin lại thành một cái năng lực giúp chúng ta thắng nổi quỉ quyền và các cường-lực đàn áp tiêu-diệt Đạo.

Chúng ta bảo-trọng được nền Đạo, do cái năng-lực của đức tin ấy. Chúng ta qui đức tin lại bảo-trọng cơ Đạo thì thoát được cái nạn tương-tàn, tương-sát máu đổ thịt rơi.

Nếu toàn Đạo nam nữ nhìn Đức Chí-Tôn lập đặng cái quyền-năng ấy, chúng ta nương lấy nó mạnh-mẽ, cầu-nguyện đồng-tâm một ngày, một giờ thử coi Đức Chí-Tôn có giải thoát cho chúng ta không ?

Từ khi Bần-Đạo về quy-tụ các con cái của Ngài, thì Bần-Đạo đã giải-kiết cho Đạo nhiều rồi. Chúng ta cầu nguyện thêm và lo tròn phận sự phú thác thì ngày đoạt vọng không lâu, và chúng ta sẽ thấy có huyền-diệu hay không về quyền năng ấy. 

                                             

Đền Thánh đêm 29 tháng 3 năm  Đinh-hợi (1947)

TAM-BỬU NGUYÊN-THỦY TẠO THÀNH CÀN KHÔN THẾ-GIỚI.

Hôm nay Bần-Đạo giảng về Tam-bửu nguyên-thuỷ tạo thành càn khôn thế giới.

Từ trước đến giờ thiên-hạ thường nói là có Đạo, tin Đạo, nhưng Bần-Đạo tưởng chắc chưa có ai hiểu Đạo là gì cả, nên Bần-Đạo lần-lượt giảng cái chơn nghĩa của chữ Đạo, giải rõ cái liên-quan giữa Đạo và con người cùng vạn vật do nơi đâu nà có, rồi sẽ giảng về nguyên-căn của Tam-bửu là một nguyên-căn, là một bổn nguyên Tinh, Khí, Thần. Đức Chí-Tôn là Đắng tự hửu hằng hửu, mà từ thử đến giờ bất kỳ một Đấng Thiêng-Liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên căn của Người đặng.

Theo lời Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn nói thì chính Ngài cũng không hiễu rõ nguyên-căn của Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền-năng vô đối của người mà thôi. Bần-Đạo đã vấn nạn Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn một vấn đề khó giải mà từ xưa đến nay chắc chưa có vị Giáo Chủ nào đả hỏi như Bần-Đạo. Bần-Đạo hỏi nguyên-căn  của Đức Chí-Tôn và quyền năng của Người, thì Đức Chưởng-Đạo có tả một bài văn chữ  Pháp dịch ra Quốc-ngữ; nhưng chính Đức Nguyệt-Tâm cũng đã thú thật rằng: không biết nguyên do của Chí-Tôn là thể nào, chỉ biết quyền năng vô đối của Người mà thôi.

Nay thuyết về vấn-đề ấy, Bần-Đạo chỉ nói đấng Chí-Linh hằng hửu ấy là Đức Chí-Tôn, là Cha cả chơn-linh vạn-vật mà nhứt là chúng ta đây đã biết với một cách thâm thúy khối linh ấy thế nào hơn hết, biết bao nhiêu Đấng, biết bao nhiêu người từ xưa đến nay thường tự xét, tự hỏi, vì cớ nào ta có một cái linh-tâm cao trọng hơn cả van-vật ? Tìm tòi với chẳng biết bao nhiêu sự khôn ngoan hiểu biết, và cũng vì tại nơi ấy mà buổi nào loài người cũng chẵng hề quên Đạo.  Nhìn biết và hiểu hay không hiểu, dầu muốn từ chối hay không, chúng ta cũng tự xót có vật tối linh trong thân thể ta, mà vật ấy là gì, từ trước đến giờ loài người tìm kiếm mãi nguyên do của nó.

Tiếp khai các nền Tôn-Giáo hiện-hữu không một nền Tôn-Giáo nào nói mực thước và có một chơn lý cao-siêu hơn là Phật-Giáo, nhưng cũng chưa giải rõ. Ta chẳng cần tìm đâu xa-xuôi làm chi, chúng ta thấy hiểu con người có tâm-linh chúng ta có quan-sát cả nhơn-lý của Phật-Giáo từ buổi sơ khai, nên chúng ta dám nói chắc rằng : chúng ta có một Tôn-Giáo do Đấng Chúa-Tể cuả các nền Tôn-Giáo khác lập thành, vì bởi đó là nguyên-căn và chính đó là một Tôn-Giáo tự hữu, từ buổi Trời đất biến-sanh đã có, cái khối nhơn-linh ấy là Cha của chơn-linh, Cha của nhứt điểm linh quang, làm sao chúng ta hiểu linh-quang ấy, vì ta xét từ trước Đức Chí-Tôn  dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất do thanh-khí ấy mà biến thành van-vật. Loài người đến nay nhờ tấn hóa mà khôn ngoan, cũng như vạn vật nhờ tấn-hóa mà được toàn năng toàn tri vậy. Các nhà triết-học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng chưa hiểu rõ cái nguyên-căn ấy. Phật-Giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban-bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh thì gọi thì gọi là Brama là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là Civa chủ về Pháp, Đức Chí-Linh cầm quyền-năng biến chuyển chớ không cầm quyền năng tạo-đoan. Pháp vận hành mà sanh khí nên ta thấy mênh mông trước mắt ta ấy là khí, vậy khí là gì? Khí là khối sanh-quang vạn-vật thở khí ấy mà sống, cho nên chữ Khí là sự-sống của vạn-vật, do khí là pháp biến tướng ra vạn-vật. Nên Đấng thứ nhì chưởng-quản cái sanh khí thường gọi là “2è LOGOS” thuộc âm ấy là Phật-Mẫu chưởng-quản cả cơ quan toa-đoan nầy vậy.

Như chúng ta thấy cơ-quan sanh-hóa vạn-vật và loài người là do âm-dương phối hợp mà biến tướng, Phật chiết-tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Aâm, là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái bí-mật ấy là khí âm-dương phối hiệp biến hình, mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi nầy, vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh-quang có năng-lực vận-hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là nước, lửa, gió, rồi nước, lửa gió vận hành biến ra vạn vật, đi từ Hổn-ngươn-khí, Hư-vô-khí đến. Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật, tức là Huyền-ảnh-khí biến ra nhơn-hình vậy. Khi mà khoa-học gọi là Nguyên-tử-khí (Atome) Nguyên-tử-khí có năng lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chớ không biết nguyên-căn và nguyên-tánh của nó đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và dùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ trụ, mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà qui nguyên Thánh-Thể. Thử hỏi Đức Chí-Tôn      cho nhơn-loại đoạt nguyên-tử-khí ấy để làm chi ? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy, mà dầu cho Đạo-giáo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng để kiếm hiểu. Ngày hôm nay Nguyên-Tử-khí dùng để giết người, thì biết đâu sau nầy nó sẽ là phương cứu tử hườn sanh cho người, và nó sẽ đem loài người đến địa-vị trường-sanh bất-tử.

Vì bởi nguyên-tử-khí là căn-nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái khí ấy sanh trước hết là nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn vật, vì cớ mà con người đối với vũ trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn-Khôn làm Đại-Thiên-Địa và lấy con người mà làm Tiểu-Thiên-Địa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn-Khôn, tức là sự sống phải tương liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm-quyền vô đối.

Hỏi vậy Chí Tôn tạo ra cái Đại nghiệp ấy để cho ai ? Để choVạn-Linh lại là loài người, mà loài người có hưởng được thì Đức Chí-Tôn mà dành cho, nếu chúng ta một ngày kia hoặc nam hay nữ chẳng hạn, cũng sẽ có một đứa hưởng được cái quyền năng ấy. Đức Chí-Tôn lập ra Đại-nghiệp thì Ngài cũng muốn chúng ta làm được như Ngài tức là đem Tiểu-Thiên-Địa đến Đại-Thiên-Địa.

Aáy vậy về cơ-quan đoạt lấy đại-nghiệp, Chí-Tôn chỉ dặn chúng ta có một tiếng Tu. Tu cho hiền mới hưởng được nhưng thế-gian lại chưa hiền, thế-gian còn dữ quá thì chừng nào mới đoạt đặng.

 

Đền –Thánh ngày 29 tháng 4 năm Đinh-Hợi ( 1947 )

LOÀI NGƯỜI DO ĐÂU MÀ ĐẾN

Hôm nay Bần-Đạo giảng về loài người do đâu mà đến. Trước khi ta  tìm chơn-lý ấy, ta nên biết trước Tạo-đoan là Cha cả vạn-vật hữu-hình và tìm nguyên-căn của Chí-Tôn đã.

Chúng ta đã nhìn trong kinh điển hồi trước để lại thấy cả cơ-quan hữu-vi nhãn tiền nầy làm cho ta biết và nhìn đến đến Tạo-đoan ấy là Đại-Từ-Phụ. Chẳng luận giống dân nào và các nhà triết-lý của các Tôn-Giáo cũng vậy, đều nhìn Đấng Tạo-đoan Càn-Khôn thế-giới sanh-hoá vạn-vật và loài người, là đấng Cha cả chúng sanh, ấy là các Tôn-giáo đã có từ thượng-cổ đến giờ. Các Tôn-giáo cho ta hiểu, có một Đấng quyền năng vô biên vô-đối không tả được, tạo ra vạn-vật Càn-Khôn Vũ-trụ nầy. Đấng ấy đã có đến ở cùng loài người cũng thọ bao nhiêu thống khổ, đau-đớn, biết luân-luân chuyển-chuyển từ phẩm người đến Thánh, Thần, Tiên, Phật. Đấng ấy nắm cả quyền năng vô-đối huyền-vi mầu-nhiệm trong tay, tạo nên càn-khôn thế-giới định phép công-bình, lành có lành trả, ác có ác trả hiển nhiên, nên loài người tôn sùng Đấng ấy là Đấng Thượng-Đế, cầm quyền thống ngự vạn linh ấy hoàng-đế tối cao thượng của võ-trụ vậy.

Các Tôn-Giáo có nói Đức Thượng-Đế, là đấng không nhìn thấy được, vì không hình không ảnh, nhưng không việc nào mà Ngài không biết. Trong Đạo-Giáo có câu: “Thiên võng khôi-khôi, sơ nhi bất lậu”, nghĩa là: Trời cao lồng lộng mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới thiêng-liêng của Ngài, nên xưng tụng Ngài là Thiên-Tôn cầm quyền vạn-linh mực thước như một ông Toà trị thế.

Đấng tạo ra vạn-vật Càn-khôn vũ-trụ, sanh ra nuôi nấng tạo ra bảo bọc, hằng để trong mỗi thi-hài một tâm linh mới được khôn ngoan hiểu biết rằng: Có người có ta nên ta nhìn Đấng cho ta cái tâm-linh ấy là đấng tối linh, là Cha của ta. Ngoài Đấng ấy, thì không ai nữa làm Chúa tể của vạn-linh đặng, tôn sùng như thế là thấy Đấng Cha cao thượng hơn ông Cha phàm, vì thế mới xưng tụng Ngài là Đại-Từ-Phụ. Thật thế, chúng ta cho Ngài là Đại-Từ-phụ thì trúng hơn hết, vì nếu Đấng không cho một điểm linh-quang thì thế nào bảo-tồn sanh mạng đặng.

Loài thú, ta thấy hiển-nhiên mới sanh ra tuy mắt còn nhằm hiếp mà vẫn tìm vú mẹ để sống, để cỏ cây hể sanh ra thì biết trải lá hứng sương tuyết, hấp thụ cái sanh khí mà nuôi sự sống, một vật có điểm linh-quang ấy như thế khối linh-quang ấy là Cha vậy.

Đại-Từ-Phụ là Cha cả vạn-linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ hưởng phần hữu hình tại thế mà thôi, Ngài lại còn dành một phần quí trọng hơn là nhứt điểm linh-quang, nhờ đó mà từ vật-chất đến thú cầm nhơn-loại , mới tiến đến Phật vị mà ngang phẩm cùng Ngài. Đức Từ-phụ là Phật, Ngài muốn cho con cái cũng thành Phật, đặng đạt quyền-năng bí-mật như Ngài, rồi lập ra một Càn Khôn thế-giới khác. Luật Thiên-nhiên một ông Cha tạo nghiệp thì con theo nghiệp Cha mà tạo ra sự-nghiệp khác nữa.

Tuy trong buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ, Bần-Đạo biết mở Đạo Cao-Đài đặng tuyển chọn trong hàng Phật đạt kiếp từ tạo Càn-Khôn thế-giới đến kế vị Ngài. Trong buổi Đại-Từ-Phụ mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ có treo bảng ở Ngọc-Hư-Cung lập một ông Trời kế vị Ngài, nhưng chúng ta thấy trong hàng Phật có ba người.

1.- Phật Thích-Ca.

2.- Phật Di-Lặc.

3.- Đức Chúa Christ

Thử hỏi ba người làm được, mà người đó chúng ta biết chắc có, tuy không quyết đoán trước đặng, chúng ta mơ màng ngó thấy nhưng không dám nói.

Hễ Đấng nào đủ quyền-năng trị thế, tinh-thần cho cao-trọng thâu phục cả tâm-lý nhơ-sanh vào khuôn Đại-Đạo, gồm tinh-thần tư-tưởng loài người lại được, thì Đấng ấy sẽ kế nghiệp Đức Chí-Tôn

 

Đền Thánh  đêm rằm tháng 5 năm Đinh Hợi (1947)

LUẬT CÔNG-BÌNH THIÊNG-LIÊNG

Trên 5 năm  Bần Đạo bị đồ lưu nơi hãi-ngoại, khi trở về bổn xứ Bần-Đạo nhìn thấy vận mạng nước nhà, thấy sự tấn-hoá của toàn thể quốc-dân trong hai lẽ buồn vui, nhưng có một điều làm cho Bần-Đạo ngạc nhiên hơn hết là trong nhơn-loại tấn -bộ văn-minh trên mặt địa-cầu, lại có một hạng người chém giết đồng-bào một cách tàn-nhẫn, nếu lấy ý trí mà quyết đoán thì ta chẳng biết mục-đích của họ định cho  tương-lai vận mạng nước nhà thế nào? Theo Bần-Đạo tưởng chẳng có một cơ quan nào mà chúng ta thấy trong hoàn-cầu hiện nay chấp nhân sự sanh sát trước mắt loài người, và cũng biết bao nhiêu liệt-cường hơn thế nữa. Kẻ tính làm bá chủ hoàn-cầu để lập thành một lực lượng với các phương pháp tàn sát đã kết liễu thế nào, chúng ta thấy rõ. Hại thay! Nòi giống Việt-Nam cũng có bọn người tạo thành một nhóm tự xưng là tri thức tinh-thần có lực lượng mạnh-mẻ mong giết hại đồng chủng của mình mà độc tài lập vị.

Dân tàn-bạo ấy tưởng là khôn ngoan hơn hết, dùng chánh sách cường quyền áp bức đồng-bào. Bần-Đạo thử hỏi đặng hay chăng: Xin trả lời, không hề khi nào đặng. Bần-Đạo thấy cái tàn ác động lòng Chí-Tôn, nên đã biết tạo ra một đạo thiên-binh để bảo trọng cái mạng của đồng bào, cái ác-nghiệt của họ làm động lòng Từ-bi của Ngài, nói cho chánh-lý, nếu là một đạo Thiên-binh mà đã đứng ra bãi chiến-trường chém tướng đoạt cờ bảo-tồn quốc-vận, ấy là tương quân tạo thời cãi thế đã đành còn những kẻ tàn hại dân lành với phương tàn ác tức là quân cường đồ cướp đảng.

Bần-Đạo xét đoán cái tình thế nước nhà về hữu-hình và hiện diện của Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo suy nghĩ đến cái triết lý đạo đức của Càn-khôn Thế-giới này là một cái ơn công-bình thiêng-liêng đã định, tức nhiên hể có vay phải có trả chúng ta cũng không chối đặng, chúng ta đã thấy hiện tượng một cơ-quan bất công, tại sao mặt thế người ngu, kẻ trí, kẻ làm Cha, người làm Tớ v..v… Một khuôn luật công-bình vô biên vô-tận tấn-hoá văn-minh khoa-học giết bại cả sanh-mạng loài người ở thế-gian nầy mà không có công bình thì loài người ví như con vật, mạnh đặng yếu thua, khôn còn dại mất, cái thuyết đương nhiên của thiên hạ tranh đấu, chúng ta thấy nếu còn duy trì thì loài người sẽ tận diệt, chỉ nhờ luật nhơn-quả ấy nên chúng ta nói không có ai tiêu diệt loài người được, họ tưởng giết là tiêu diệt. Aáy là ngu muội.

Giết người không phải tuyệt sanh mạng của loài người, như đốn cây chẳng phải  là giết chết cây, mà làm cho nó sanh chồi nẩy tược, kẻ làm ác nó tưởng giết là hết, không thể như thế được, chúng ta sẽ còn thấy tấn-tuồng nhơn-quả.

Nước Việt-nam ta đã từng chịu luật nhơn-quả trả vay, cựu trào đã tàn sát Nguỵ Khôi. Mã Nguỵ hiện còn di-tích tại trường đua bây giờ, đã giết họ để lên làm chúa, 80 năm nô-lệ do đó mà ra.

Kẻ tàn bạo ấy ngày nay nó tưởng giết Đạo là hết, nước Nam phải chăng đã thiếu Chúa cho nên tính giết người mà tạo Chúa, đặng ngày sau ho sẽ quỳ luỵ tôn sung, nếu không quả có vậy thì luật công-bình thiêng-liêng về đạo-đức cũng không hề có.

 

Đêm 14 tháng 6 Đinh-Hợi ( 31-7-1947 )

NGUYÊN-DO CỦA LOÀI NGƯỜI

Bần-Đạo hôm nay thuyết về triết lý nguyên-do của loài người. Triết-lý ấy là một vấn đe àtừ khi có loài người đến giờ, tìm  tòi cho thấu đáo chơn lý  hầu đi cho trúng con đường tức là Đạo vậy.

Từ Thượng-cổ loài người chỉ biết mình có một, nghĩa là đồng-sanh đồng-tử. Muốn biết nguyên-căn triết-lý các Đạo giáo, truy tầm vấn-đề trọng yếu ấy thì hỏi loài người do nơi nào mà đến ? Chịu phần tử sanh cùng vạn vật để làm gì ? và chết phải đi đâu?

Chẳng lạ gì? Tại thế-gian nầy từ thử các đạo giáo đều tìm nguyên-căn ấy tức là để trở lại nguyên-do căn-bản gọi là Đạo.

Cái thuyết tối trọng tối cao ấy phải viết sách, mới mong đủ nghĩa được. Bần-Đạo có nói triết-lý ấy nơi đây thì chắc chắn chư Hiền nghe cũng như không, nghĩa là không bổ ích chi cả bởi quá sức hiểu biết.

Nên Bần-Đạo hứa ngày rằm tháng 7 đến đây sẽ viết ra cái Chơn-lý ấy trong một bài diễn văn, nguyên-do cả đạo-đức triết-lý.

Hôm nay Bần-Đạo xin thuyết minh vấn đề đương sở dụng hiện thời là vấn đề đại đồng thế giới ( Fraternité universelle ). Tại sao nước nào, dân tộc nào trong thế giới chừ đương mơ mộng tìm phương-pháp đại-đồng thế-giới ? Nói thật ra kể từ có Thánh-Giáo Gia-Tô, vấn-đề ấy chấm một câu hỏi nguyên vẹn và thúc nhặt hơn hết. Thuyết đại đồng Phật giáo đeo đuổi mãi mới lập thành giáo, rồi mới lập cả tâm lý đại-đồng.

Loài người từ tạo thiên lập địa đồng một nguyên do một tánh chất, đồng một nguyên linh, thúc kết triết lý ấy hơn hết là từ Đức Chúa Jésus tạo nên Thánh-giáo Gia-Tô. Ngày nay Đạo Cao-Đài cũng đeo đuổi mục đích ấy. Trên mặt địa-cầu, người ta tìm hiểu loài người được hai ngàn bảy trăm triệu (2.700.000.000) vì nguyên căn tinh thần hình thể, chủng-tộc loài người là một nguyên do, một căn bản. Rồi đến thế nầy biến cải sắc da đen lên xám, lên xanh, lên đỏ, lên vàng cuối cùng là da trắng. Đương nhiên là mãn hạ-ngươn tam chuyển, lên thượng-ngươn tứ nhuyển (1er  cyele du 4e manvantara) vì chuyển tiếp nên loài người phải chịu khảo đảo đặng vào trường thi hầu thoát khỏi mặt địa-cầu nầy mà làm thần thông nhơn (race lucide) do hai sắc da vàng và trắng hiệp lại xuất hiện.

Aáy vậy, thuyết đại-đồng thế-giới trong buổi nầy, Chí-Tôn lập Đạo Cao-Đài cốt-yếu để làm cho loài người biết mình do một nguyên-căn linh-hoat sản-xuất chung nhau, biết nhìn nhau là anh em đồng một căn-nguyên mà đến. Từ cổ chí kim các Tôn-giáo tìm đủ mọi phương làm cho loài người thức tỉnh tinh-thần , biết nhìn nhau là cốt nhục . Hại thay ! loài người chẳng biết nhìn chơn-lý của Đạo, những luống mơ hồ, nên Chí-Tôn buộc lòng phải đến tạo nền Đạo Cao-Đài, chủ-trương cho loài người một đại-nghiệp, hiệp một hoàn cảnh, chung sống nhau một tinh-thần, một căn-bản, qui tựu cho toàn sắc dân, hầu bảo trọng cái sống của nhau, sớt ngọt chia bùi, bảo tồn nhau cho qua sự khảo đảo  đau-đớn nơi khổ cảnh nầy từ trước.

Luận xét đến các nước ở Aâu-châu, ở Á châu, đồng tìm chính-sách, vạch triết-lý ấy mà đưông hoạt động loài người hiệp nhau làm một. Bởi lý do đó mà các nhà thượng-đẳng nhơn-sanh chia nền chánh-trị ra mỗi quốc-gia, dụng tâm-lý chia đều quyền-lợi, cố ý tìm cách thống-nhất cả loài người làm một trong đường sinh-hoạt mà thôi, ấy là nước Mỹ đang thi-thố hiên-thời, còn nước Nga lại chia phân tài-sản, dung-hoà tâm-lý tạo cho loài người một phẩm-giá, một quyền-lực đồng nhau. Phương-pháp ấy khó đạt thành nguyện-vọng. Chúng ta sẽ thấy cái tư-tưởng rẻ-rúng ấy chẳng còn hiệu-lực cao-siêu trong thời gian ngắn ngủi, sau đây vì cái quyền-lực muốn hiệp tâm-lý cần phải yêu-ái, kỉnh trọng nhau, tôn-trọng sanh-mạng của nhau, chia buồn-rầu khổ-não, nhìn một Đạo với nhau, lấy tình cốt nhục đối đải với nhau, thì mới đầm ấm cả đại gia-đình xã-hội, tức là toàn cầu thiên-hạ vậy.

Muốn đoạt cho được mục đích ấy, duy lấy đạo-đức tinh-thần, muốn kỉnh nhau, hoà nhau nhìn nhau la ruột thịt, mà thấy nhà bạn mình có nhiều của lại ganh-ghét, đứa nầy dành của đứa kia, hỏi vậy có hoà được chăng ? Nếu còn giành ăn, ở, mặc, sang, giàu, cao-trọng thì không thể nào đi đến đại-đồng tâm-lý được.

Cái hiện tượng của chúng ta đã thấy trước mắt, nước nào tìm phương-pháp đại đồng thế-giới mà chẳng biết hiệp tâm-lý làm một, thì chỉ là chánh-sách vô hiệu-nghiệm đó thôi.

Vì cớ, Chí-Tôn đến tạo một gia đình nầy có một ý-nghĩa tối-cao tối-trọng, là muốn thế nào, dầu nam hay nữ thương-yêu mực thước hiệp tâm-lý cả loài người mà tạo thành khuôn mẫu, một thế-hệ mà gây tình anh em cốt nhục, vừa thi hài, vừa trí thức tinh-thần mà chung sống cùng nhau.

Thoảng ngày kia toàn đạo biết thương yêu nhau như ruột thịt, toàn quốc-dân Việt-nam hiệp một, thì hột giống đại-đồng thế-giới mới mong gieo-rắc khắp nơi, gầy dựng tạo thành nền móng vĩnh-cửu, bằng chẳng thì các phương-pháp khác chỉ sẽ là vô ý-thức mà thôi.

 

Đền Thánh đêm 24 tháng 06 năm Đinh-hợi (1947)

CƠ-QUAN ĐẠI-ĐỒNG THẾ-GIỚI

Hôm nay Bần-đạo giảng về các cơ-quan Đại-đồng thế-giới, Bần-đạo có giải nghĩa cuối Hạ ngươn Tam-chuyển bắt đầu Ngươn Tứ chuyển. Khởi đầu thường thiên-hạ phải nhập trường chung cuộc khảo thí. Thi đậu thì ra khỏi cảnh đau thảm khổ nầy, nếu rớt thì ở lại làm Thần-Thông-Nhơn (Race Lucide).

Bởi vậy cho nên  từ trước năm Bính-dân (1926) Chí-Tôn đến than-thở trước để thông-tri mỗi lương-sanh nam nữ khi chưa lập Đền Thánh . Thầy than rẳng : Đến tạo nền Tôn-giáo  để cứu khổ cho toàn thiên-hạ . Đạo mở sớm một ngày thì cứu nhơn-sanh sớm một ngày.

Hại thay ! Buổi ấy chúng ta nghe lời thánh-giáo của Người, chẳng ai để trọn tâm quan-sát tìm tòi cho ra minh-lý , chúng ta lại đoán rằng : Sự tạo Càn Khôn Thế-Giới là thời-gian của Ngài chớ không phải của mình.  Ai dè nó kết-liễu nơi chúng ta, lần tay tính lại thấy một hoàn-cảnh đau-khổ của nòi-giống quyết-liệt , đau-đớn thương-tâm không tả được, chúng ta để lời trách Đại Từ-Phụ và các Đấng Thiêng-Liêng, trách các bạn thân yêu của chúng ta nữa. Chúng ta đâu có dè các vị Giáo-chủ đang giáo-hoá chúng ta, đã thọ tội cùng Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng , đó là huyền-vi bí mật của Chí Tôn, nên ngày nay mới có ảnh-hưởng . Hỏi , Chí-Tôn than tưởng tượng như Ông Cha kia thấy tình-cảnh nguy-ngập khổ-não làm hại con cái của Người mới đứng ra cậy mình đi đến đặng cứu dùm kẻ toan tuyệt-mạng , chúng ta lại chờ, viện lý rằng: Lộ-trình còn hoãn-huợt dầu có trễ một ít ngày cũng chẳng hề bao. Bất ngờ đi tới nơi, thì con cái Người dã kề bên vực tuyệt mạng.

Chúng ta có lương-tâm xét đoán 22 năm tình-cảnh đến nước nầy, tội-lỗi ấy của ai ? Xin hỏi thử rồi trả lời: chính chúng ta có tội vậy. Xem xét cho đúng lý thì Chí-Tôn đến lập nền Đạo Cao-Đài làm Cơ-quan Chuyển thế cứu mạng loài người. Toàn Đạo Nam Nữ lãnh một cái trách-nhiệm trọng-hệ dường ấy mà không có đủ tinh-thần nghị-lực làm tròn nhiệm-vụ, Chư Đạo-hửu làm chứng cái điều ấy, nếu một ngày kia hình tướng của Đạo quả-nhiên như vậy , Bần-Đạo chẳng hề nói đã làm nên cho Đạo cho Đời. Năm 1939 bằng chứng đem đến là giặc toàn-cầu đều sôi-nổi, lời tiên-tri chẳng đi sai, nước Việt-nam là Thánh-địa của Chí-Tôn mà tránh không khỏi cái nạn ta-thán, hồi-hợp, sợ-sệt. Mãi đến ngày 27-07-1941 Bần-Đạo bị  đồ-lưu nơi hải-ngoại, chính mình làm đầu Thánh-thể mà tự nghĩ xét làm không tròn phận-sự đối với Đời với Đạo, trong tâm có nuôi hám-vọng là vui chịu bắt lưu-đày, để gánh khổ cho nước nhà thoát đoạ.  Dường như đắc kế, nên cái thú-hưởng lạc của Bần-Đạo không thể tả được, chịu có một người mà cả nước hưởng. Không dè Đạo Cao-Đài có cái tương-lai gánh cả nhơn-quả của toàn nhân-loại trên mặt địa cầu nầy, chẳng riêng một nước Việt-nam mà thôi, cũng không phải riêng cho một giống nòi mình hưởng , chúng ta, con cái của Đúc Chí-Tôn mà bị đồ lưu tức là tội của loài người chưa trả đó. 

Cả thảy đều thấy bởi Thiên-cơ, nhưng được hạnh-phúc cho kẻ nào đã đi đến Thiên-Thai kiến-diện nhận định trước sự hạn-định, chẳng phải giấc chiêm-bao mơ-mộng, ôn lại cả hành tàng của loài người, trên mặt địa-cầu nầy, hạn định chưa dứt, tức còn phải trả đến chừng nào hột giống lành của Chí-Tôn mọc lên đã thành cội hoà-bình tâm-lý, đơm bông sanh trái nơi đất Việt-nam nầy, mà khắp địa-cầu toàn nhơn-loại được hưởng hạnh-phúc, bằng chẳng thì do tội-tình nầy mà phải chịu một phen thống-khổ hơn nữa, Thảng không đủ can-đảm cương-quyết thiệt dụng quyền-năng của Ngài thì dù cho Chức-sắc Thiêng-phong, Chức-việc, Đạo-hửu cho đến mấy con nhỏ cũng vậy, cái hoạ tương-lai không thể tránh, thì không lấy gì làm lạ, hết giặc-giả đao-binh đến bịnh-chướng sát-hại. Đã từng chịu phong-ba bảo-tố, bị chìm đắm mà chúng ta còn sống rốn nơi đây (rescapé) tức là Chí-Tôn dành để lại hôït giống lành để làm căn-bản cho cội hạnh-phúc hoà-bình đại-đồng thế-giới thì sự ưu-ái nhau rất nồng-nàn hơn tình cốt nhục.

Ngày nay cả toàn-cầu thiên-hạ đã chịu thống khổ nên hằng xem chúng mình là giống lành Thiêng-liêng Chí-Tôn đã lựa chọn. Nhận-định là mầm chồi hạnh-phúc chung, thì khối thương-yêu vô-tận nầy, bằng ngòi viết không thêû tả được . Aûnh hưởng cao-trọng tuyệt-đối của sự thương-yêu là đó, mấy em tìm hiểu mà tạo lấy.

 

Ngày 29 tháng 6 năm Đinh-Hợi ( 1947 ).

CƠ-QUAN CỨU-THẾ CỦA ĐẠI-ĐỒNG THẾ-GIỚI

Hôm nay Vía Đức Quan-Thánh Đế-Quân, ngày 24 tháng 6 Đinh-Hợi Bần-Đạo đã giảng về cơ-quan cứu-thế của Đại-đồng thế giới…

Biết rằng Thánh-Thể của Chí-Tôn là nền Đạo Cao-Đài, có sứ mạng thiêng-liêng đến tại thế nầy để cứu độ toàn nhơn sanh đang lầm than khổ sở vì nạn đao binh. Chí-Tôn có than:

“Nếu  Đạo trễ một ngày là hại nhơn-sanh không biết chừng nào”,

Buổi ấy đương thái-bình yên-lặng, tưởng đâu Chí-Tôn nói vậy là giục thúc cho mình đạt đến chơn-giáo, chẳng dè 5 năm sau toàn cầu thọ nạn, có lẽ trước nhứt toàn Đạo nam, nữ đều thấy, Bần-đạo tưởng chắc từ chưa có loài người đến giờ, chưa có trận chiến-tranh nào sát hại nhơn-loại thảm khốc dường ấy. Hại thay ! loài người bạc nhược thiếu đức tin mà phải chịu muôn lỗi ngàn tội đối với Đức Chí-Tôn.

Bần-Đạo rất ưu-tư khỗ-não về tinh-thần, vì xem thấy trường sát hại nhơn-sanh cứ tiếp-diễn trong nước nhà của chúng ta mãi. Nếu lấy theo trí-độ tinh-thần của chúng ta, tưởng sự tàn sát khốc liệt đổ máu, chủng-tộc ta lâm nạn nồi da xáo thịt thì do tội tình của quốc-dân thất-tín, thất phận đối với Đức Chí-Tôn.

Nếu thân ắt hữu-tội chỉ đê đầu cúi xin Đức Chí-Tôn giảm bớt cái nạn ấy trong buổi Bần-Đạo đang đảm nhiệm thì quốc-dân Việt-nam đã bị thúc phược muốn làm cũng không đặng, muốn nói cũng không ai nghe, vì nòi giống của chúng ta thiếu tâm đức, thiếu quyền hành chính-trị.

Vậy chúng ta rán cầu nguyện cùng Đức Chí-Tôn, nếu thảng nhiên có lổi nhờ Ngài đưa tay giúp Bần-Đạo cứu-vãn tình-thế một trường sát hại khốc-liệt của nòi giống chúng ta, thì có lẽ Ngài đại-từ-bi chỉ rõ. Chúng ta biết rằng: nước Pháp và Nam không phải thù hận nhau, vì chúng ta nhận thấy đã 80 năm, đồng chia khổ não, đồng chịu nhọc nhằn khai-hoá, hèn có nhau, sang có nhau, vinh-nhục có nhau, cũng đã từng chung sống hai nước có một thâm tình thiết tha, không lẽ chúng ta không giải quyết được vì không thể chối rằng: “không có duyên-cớ “.

Vì họ phiền nòi giống Việt-Nam về tâm-lý và tình ái vì xưa kia không có, nên ngày nay biến sanh cuộc thảm khốc là không biết phòng ngừa cái lạc-hậu xưa kia, nó không đồng tâm-lý, hễ phiền nhau thì sanh ra oán nhau, nếu muốn giải quyết cho họ hết phiền thì chúng ta có phương thuốc cứu rỗi đôi bên lấy tình hoà-ái cùng nhau lấy nghĩa thâm giao, cùng nhau chia sớt thảm, giục cái tình thân ái sôi nổi cháy bùng lên, có lẽ đôi đàng sẽ giải quyết sự chiến-tranh vô lối, vô giá trị, vô nghĩa-lý, vô ích kia được.

Ngày mai Bần-Đạo sẽ đem tiếng chuông cảnh tỉnh Bạch-Ngọc-Chung của Đức Chí-Tôn đặng thức tỉnh đôi bên, cho họ nhìn nhận , ngoài ra tình thâm-giao họ lại còn tình cốt nhục, có một tinh-thần tạo ra một đại-nghiệp. Bần-Đạo xin thú thật rằng : Cả toàn con cái của Đức Chí-Tôn đừng tưởng Đạo Cao-Đài của riêng mình, có thể nói rằng : Chúng ta đi đi một con đường chí-thiện, tâm-lý nhơn-sanh, hoạt-bát tinh-thần, chúng ta đi một con đường mà thương yêu nhau, đồng chung sớt khổ cho nhau, ấy là cái đại-nghiệp nầy nó sẽ làm cái bửu-vật nâng đở tinh-thần của toàn thế-giới đại-đồng (Liberté de conscience) cả hai điều ấy hợp-thành là Quốc-Đạo.

Cái đại-nghiệp có tinh-thần là Pháp và Nam hiệp trong tình yêu-ái tinh-thần đó vậy. Bần-Đạo xin nói lại một lần nữa, Đạo Cao-Đài nầy là một đại-nghiệp không phải chỉ riêng cho nhước Nam nầy mà thôi, mà có tâm-lý hoãn-huợt, người Pháp sẽ làm đàn anh đưa tay ra đó mà giải-quyết vấn-đề rắc-rối mâu-thuẩn của Pháp và Nam.

Vậy ngày mai Bần-Đạo sẽ đi Sài-gòn thì toàn Đạo phải nhứt tâm cầu nguyện sao cho ho mở khiếu linh-quang nghe tiếng Hạc Thiêng-liêng nầy , đặng thức tỉnh cả tâm-hồn định quyết vận-mạng nước nhà và tương-lai của toàn mặt địa cầu mà chớ.

 

Ngày 29 tháng 06 năm Đinh-hợi (1947)

ĐỨC CHÍ-TÔN XUỐNG THẾ

Hôm nay Bần-Đạo giảng về Đức Chí-Tôn xuống tại thế.

Giảng đây nói về sự hiển-hiện, một cớ là các báo trên hoàn-cầu đã dăng và khi ấy có vi-bằng kiết chứng, không phải là nguỵ-biện.

Các Tôn-giáo bất kỳ ngôn-ngữ nào, nếu đè-nghị vấn-đề ấy là nói đến Đạo Bà-La-Môn là một Tôn-giáo tối-cổ, lấy sự-tích Đức Chí-Tôn  giáng-trần lần đầu tiên gọi là nhứt thế, Chí-Tôn là Brhama (Tàu dịch là Bà-La-môn) đến thành Tibet (Tây-tạng) sách Tàu gọi là Lama, ấy là một Tôn-giáo tối cổ (Bần-Đạo sẽ thuyết tự nơi xứ Tibet đến Đền Lama).

Qua 10.000 năm rồi, Đức Chí-Tôn mỗi 50 năm đến đó một lần, đến với hình thể chớ không phải với chơn-linh như Ngài đến với chúng ta ngày nay. Việc nầy đã được hoàn-cầu đăng khắp mặt báo. Khi đảng Cọng-sản nổi lên đánh đổ Đế-quyền Nga, các Vương-Hầu Khanh-Tướng phần nhiều bị giết. Vị Hoàng-đế thuộc giòng Bạch-Nga bị Cong-sản giết trong lúc đảo chánh. Có một vị Hoàng-thân chạy thoát, đến lánh nanï ở Tibet, nhờ lòng đạo-đức của dân Tibet (Tibetains), các quan công thần phò vị hoàng-thân đến Đền-Thánh Tibet ở trong chỗ mà loài người phần nhiều là đạo-đức, bởi dân Lama Đạo-trị chớ không phải Thế-trị. Nhờ Đức Dalai Lama bảo bọc nuôi-dưỡng. Lòng ái-quốc, ưu-quân đã giúp vị Hoàng-thân ấy thoát nạn cùng gia-đình thân-tộc. Khi đến Đền Thánh được trọng đãi trong 10 bữa vẫn an-vui, nhưng lòng hoài cố cứ đeo-đuổi theo mãi, phần thương Vua phần nhớ nhà Ngài mới yết-kiến Đại-sư, Đức Dalai Lama thấy sắc-diện đoán biết tâm-bịnh của Ngài, mới ngó ngay nói rằng : Kỳ Chí-Tôn đến ngự như đã hẹn, khuyên Hoàng-thân rán đợi vài tháng Chí-Tôn sẽ đến, nếu các Ngài thấy Chí-Tôn, các Ngài sẽ được an-ủi lạ thường.

Mấy vị Công-Hầu đó trước hai tháng rồi, có hỏi Đức Dalai Lama :

- Chí-Tôn đến cách nào và hình thể người ra sao ?

Ngài trả lời:

- Các Ngài muốn biết cứ đợi đến chừng đó sẽ thấy, chỉ xin căn-dặn các Ngài một điều là chung quanh Đền-Thánh có treo những thanh-chung, chừng nào những thanh-chung đó vang-rềân lên một lược là Chí-Tôn đến vậy.

            May thay ! Đến ngày, mấy vị Vương Hầu vì tánh tọc mạch, muốn biết nên đã vào chờ trước trong Đền-Thanh. Khi cả thiên-hạ vào cúng rồi, thì tất cả thanh-chung đều khua tiếng. Các bậc Đại-sư quì niệm, mấy người kia cũng quì, nhưng cố lóng tai thì nghe từ ngoài xa dường như có nhiều tiếng chân ngựa chạy có nhịp-nhàng, đến trước Đền thì dứt, Chí-Tôn từ từ vào, đến ngồi trên cái Ngai để sẵn thờ Ngài trong Đền Thánh. Các vị Công Hầu hết sức kinh-khủng, chư vị Đại-sư thì quỳ mọp mà họ chỉ quỳ nữa chừng mắt lén dòm theo. Hình ảnh Chí-Tôn đẹp đẻ vô-cùng không bút mực nào tả được. Hào-quang của Ngài rọi sáng khắp Đền.

Cứ thường-lệ, mỗi năm chục năm Ngài đến một lần, tiên-tri những hành-tàng trong 50 năm sẽ tới. Bài tiên-tri ấy Bần-Đạo mới đọc, không nhớ ở trong Cao-Đài Giáo-lý hay sách nào, Bần-Đạo sẽ tìm lại đọc cho toàn Đạo nghe. Mấy người ấy thấy Ngài đúng như trong tờ Kiết-chứng Vi-bằng, nghe tới tiếng Ngài nói, nghe lời Ngài giảng Đạo . Khi giảng Đạo rồi, chư vị Đại-sư bái lễ xong, thì hình ảnh Chí-Tôn biến mất, đồng thời ánh hào-quang cũng mất. Những người ấy vẫn chưa tin, mượn cái đèn đi đến chỗ cái Ngai ngự thì còn thấy dấu ngồi trên nệm nhung hãy còn lằn. Chí-Tôn đã đến Đền đã thờ Ngài 15.000 năm trải qua, 10.000 năm Ngài đã ban ơn tại mặt thế nầy. Trên thế-giới có ba Đền thờ Đức Chí-Tôn:

1.- Đền thờ Lama (Tibet).

2.- Đền thờ Rome.

3.- Đền thờ Cao-Đài chúng ta mới lập sau đây.

Đã từ lâu Đền Rome Chí-Tôn chưa ngự đến, hỏi tại sao ? Ta có thể nói tại Rome thờ không đúng hay không đủ nguơn-kỳ cho Ngài giá lâm. Chúng ta để sở-vọng ước-ao, nhờ Chí-Tôn thường đến với chơn-thần vô-hình dụng cơ-bút dạy Đạo, Đức Chí-Tôn  ban ơn tại Đền Lama thế nào thì chúng ta củng được Ngài ban ơn dường ấy.

Duy dân Tây-tạng họ được hạnh-phúc kiến-diện Thiên-nhan, còn chúng ta thì chưa. Ước-ao toàn sắc dân yêu-ái chơn-chánh nhứt tâm nhứt đức giữ hiếu cùng Ngài, giữ trung cùng Đạo, may ra sau nầy sẽ có Ngài ngự thì hạnh-phúc ấy sẽ ghi-tạc sử xanh, để ngàn đời như Đền Lama.

Hỏi ta được ân ấy chăng ? Được, mà kíp hay chầy do tâm đức các nòi giống Việt-nam. Giờ nào Chí-Tôn đến lập Đạo với hình thể do nơi nước Việt-nam thì là ấn trấn toà tâm-hồn của  loài người thì mới mong mỏi được hoà-bình thế-giới, đại-đồng thiên-hạ. Ước mong thế nào được  mau sớm, Người ta đã 15 ngàn năm mới hưởng thì ta chưa chắc gì đặng hưởng sớm.

Xin dân Việt-nam  mà Ngài nhìn là con yêu-dấu của Ngài được đủ-đầy đạo-đức như dân Tây-tạng , thì mới đặng đặc-ân thâm-trọng ấy, nếu không đặng thế sẽ trễ-nải , khó thấy được Chí-Tôn thì cái hại phân chia nhân-loại còn chịu lâu dài hơn nữa.

 

Đền Thánh đêm mồng 1 tháng 8 năm Đinh-Hợi (1947).

Ý-NGHĨA LỄ VÀ NHẠC

Hôm nay Bần-Đạo giảng về ý nghĩa Lễ, Nhạc.

Từ thử ai cũng cho âm-thanh, sắc-tướng là tà-mị, mà căn-bản của Đạo Nho là Lễ Nhạc, mà chính Đạo Tam-kỳ là Nho-Tông chuyển thế, thì phải truy-tầm nguyên-lý của nó mà xác nhận cho đúng nghĩa là thế nào? Đòi phen chúng ta không hiểu được cho uyên-thâm khi dâng lễ cho Chí-Tôn lúc Nhạc-tấu Huân-thiên, hết lớp trống, qua đến đờn bảy bài thì lâu quá, có khi phải chồn chân  rồi nản chí, chính BaÀn-Đạo cũng vậy, vì nghĩ rằng : Chí-Tôn tư vị quốc dân Việt-nam nên tiền-định chi chi cũng làm gương mẫu cho toàn đại-đông thế-giới, mà có lễ nhạc nầy luôn luôn khi dâng lễ thì ý-nghĩa ấy ắt cho trọng lắm là phải.

Bởi cớ nên khi mới khai Đạo, Bần-Đạo đến Thánh-thất Thủ-đức của Ông Thơ tạo lập, Bần-Đạo không tin nên hỏi Đức Lý GiáoTông, Ngài dạy rằng :

”Trên Ngọc Hư Cung có hai câu liễn:

    - Phía hửu:

          “Bát hồn vận chuyển ca Huỳnh Lão.

    - Phía tả:

          “Vạn-vật đồng thanh niệm Chiù-Tôn.

Bần-Đạo cũng không hiểu là gì. Lần lần Bần-Đạo hỏi nữa, Bần-Đạo được dạy mà hiểu rằng:

“Kể từ phôi-thai Càn Khôn vạn-vật nầy, Chí-Tôn là khối sanh-quang, biến thành hai khối sanh khí, hai khối ấy trụ lại thành một khối lớn tương-hiệp nhau mới nổ sanh tiếng “Âm”, người ta gọi là nổ ầm, hay nghe tiếng Ni, Đạo Phật sửa lai thành Úùm (Úùm ma ni bát rị hồng) nhờ tiếng nổ ấy Bát-hồn mới vận-chuyển biến sanh vạn-vật và loài người. Tiếng ấy hay là nghe đến đâu thì khí sanh quang đến đó, tức là có sự sống đến, bằng chẳng nghe được thì nơi ấy bị tiêu-diệt nghĩa là chết mất mà thôi”.

Bởi cớ nên dùng đến những vật bát âm, nó đã chết đi rồi như cái trống chẳng hạn, tấm da trâu ấy đã chết, mà với sự khôn ngoan loài người mà nó có tiếng kêu được, tức là làm cho nó sống lại được, nghĩa là bát hồn ấy vận chuyển sống lai mà đảnh lễ Đức Chí-Tôn, vì cớ nên khi nghe Nhạc-tấu Huân-thiên là có âm-thanh sắc-tướng, song hiểu xác lý:

“Khi dâng lễ Chí-Tôn quy pháp định, thấy và nghe cả Bát-hồn vận-chuyển dâng cái sống cho Ngài.”

Nên chi từ đây khi Nhạc-tấu Huân-thiên, chúng ta xem quý hơn dùng Tam-Bửu, dầu phải lở đi nửa chừng trong Đền thờ, nghe đến đó phải dừng lại, cấm không được đi lộn-xộn, thì lễ ấy giảm điều kính trọng dâng cho Chí-Tôn mà không nên. Khi ấy là vận-chuyển Bát-hồn đảnh lễ Đức Chí-Tôn. Vì cơ,ù Lễ Nhạc hiểu rõ lại thì Chí-Tôn không phải tư-vị nước Việt-nam, mà chính nghĩa là làm cho sống lại Bát-hồn, và Ngài vẫn vui nhận lễ ấ. Aáy vậy mới có thể làm chủ và làm gương cho toàn nhơn-loại được, thì danh ấy không phải là quá đáng.

Xin khuyên toàn Đạo từ đây nên để trọn tâm mà kính trọng khi Nhac-tấu Huân-thiên.

Nói về 5 cây nhang, từ thử Bần-Đạo để cho các Nho-gia tự-do giảng nghĩa sao thì giảng, còn Bần-Đạo hiểu rõ là là ngũ khí, Chí-Tôn dùng ngũ-khí mà biến thành ngũ-hành vận chuyển cả Càn Khôn Thế-giới, tức Kim.Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí. Mùi vị và sanh-quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được. Nên chi, khi làm lễ đót đốt đủ 5 cây hương là đúng theo phép tin-ngưỡng là quy pháp lại, mọi vật trong ngũ khí dâng lễ cho Chí-Tôn chỉ có người vui hưởng quy pháp ấy mà thôi,cắt nghĩa rõ-rệt là ngũ-khí đó vậy. Đúng hơn nữa là trong Bát-hồn vận-chuyển được phải nhờ đến ngũ-khí cùng một ý-nghĩa với :

“Vạn-vật đồøng thanh niệm Chí-Tôn.”

Đạo Cao-Đài là nền Đạo quy-pháp cả cái sống của Bát-hồn mà dâng lễ trả cái sống khi mới phôi-thai cnaf khôn do nơi hai khối sanh khí mà tạo thành, ngày nay lại dùng lễ trọng dâng cho Chí-Tôn tức là quy pháp cho khối sanh-khí ấy, tức là Chí-Tôn vui duy-nhứt là thấy sự sống trả lại cho Ngài. Toàn Đạo nên trọn tâm xét hiểu nhiệm-mầu Đạo-lý ấy mà lần lần đạt cho được chơn-pháp của Chí-Tôn.

          

Đêm 14 tháng 8 năm Đinh-hợi (1947)

MỪNG LỄ TRUNG-THU

Chúng ta hôm nay ăn lễ Trung-thu của Phật-mẫu, theo lời dạy của Đức Lý Giáo-Tông. Nếu lấy theo chơn-truyền thì từ thượng-cổ đến nay, tức là hồi nhứt kỳ, nhị kỳ phổ-độ, Phật-mẫu tiếp rước tại Diêu-Trì-Cung lập Hội Bàn-Đào, đãi những người đạt Đạo trở về cùng Mẹ. Đạo sử nói: Phép vào Hội-yến nầy Chí-Tôn ban cho những người ấy.

Phật-mẫu ban sơ đến Hiệp-Thiên-Đài làm Mẹ chữ Khí, tức là khí sanh vạn-vật. Lấy nguơn-pháp trong chữ “Khí” biến thành Càn Khôn Vũ-trụ, chữ Khí tương-quan trong Hiệp-Thiên-Đài thuộc Pháp, tức là Toà ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu-Trùng-Đài Người đến gọi mình là bạn của chúng-anh, tự xưng Thiếp đem bí-mật từ thử chưa ai nghe đối với Chí-Tôn thế nào, nói rõ không kiên phép Ngọc-Hư, vì để tạo gia-nghiệp cho con cái của Người, thì Người có quyền nói không ai cản nổi.

Buổi nọ, Đức Phật-Mẫu nói: ngày nào Bà thân của Đức Cao Thượng-Phẩm qui-vị là ngày ấy thành Đạo, trước ngày Vía ấy Đức Phật-mẫu giảng Đạo có dùng tiếng Mẹ Con, xưng hô cùng ta tức là ngày thành Đạo, nhằm ngày lễ Trung-thu. Trước kia Đức Lý Giáo-tông không nói rõ nhưng chúng ta cũng hiểu là: Cao-Đài đã thành Quốc-Đạo,

Trong giây phút đây Cao-Đài đã được ghi vào Đạo-sử, toàn nhơn-sanh đều thấy Phật-Mẫu đến in ấn Thiêng-liêng định thành nền Quốc-Đạo của chúng ta vậy.

 

Ngày rằm tháng 8 năm Đinh-hợi (1947)

CỬU-TRÙNG-THIÊN

Thưa chư Chức-sắc, Chức-việc, Đạo-hửu Nam Nữ cung mấy Em , mấy Con !

Cửu-Trùng-Thiên làm lần nầy là lần thứ nhì, là nơi Bần-Đạo giảng Đạo hai lần đặc-biệt năm 1936 là lúc lễ Đại-tường Đức Quyền Giáo-Tông, Cửu-Trùng-Thiên cốt ý để nghinh-tiếp Ngài. Lần tay tính lại đúng 12 năm , Cửu-Trùng-Thiên hoá hình một lần nũa là ngày nay. Lần trước đứng trên Cửu-Trùng-Thiên Bần-Đạo tiên-tri rằng: trong tình thân mật của chúng ta sẽ chia-lìa nhau và đem chơn-giáo của Chí-Tôn truyền-bá ra cùng khắp. Trong 12 năm ấy dòm thấy biết bao thống-khổ khảo-đảo, đã gieo vào tâm-lý loài người tiến-bộ. Buổi tiên-tri ly-tán đã có kết-quả là 12 năm qua Cửu-Trùng-Thiên lại xuất-hiện, chứng tỏ ngày hôi-hiệp của chúng ta là ngày Đạo Cao-Đài có ảnh-hưởng đến vạn-quốc, tức là nền Quốc-Đạo đã thành tướng.

Nói đến những việc loạn lạc trong nước, những lọan-lạc ấy Chí-Tôn và các Đấng đã tiên tri từ năm 1926 chớ không một ngày một bữa gì. Nói trước là Đức Lý Giáo-Tông lúc Ngài còn cầm quyền nhiếp chánh oai-nghi. Còn nhớ lại Tết năm Mẹo 1927 Ngài về Chầu Ngọc-Hư-Cung nên cấm cơ từ ngày 30 Tết buổi đó, Chức-Sắc Thiên-Phông chưa rõ thông nghiêm luật, thường mỗi ngày hội hiệp cùng ác Đấng cũng như ăn cơm quen bữa, nhịn không được, thấy khao khát  cho tinh-thần, nên Đức Quyền Giáo-Tông bảo Bần-Đạo phò-loan,  Đức-Lý giáng nói mấy điều : Bần-Đạo sẽ trở lại. Qua ngày mồng một Ngài giáng trở lại , phạt tất-cả, Ngài than rằng : Trọn bảy ngày quì tại Ngọc-Hư-Cung xin bớt cái nạn tiêu-diệt sắp đến cả toàn cầu, đất Việt-nam là Thánh-địa mà xin không được thay ! Chư Đạo-hửu không biết, Bần-Đạo đã cầu-nguyện bảy ngày, xin cho mấy châu-thành lớn: như Sài-gòn, Huế, Hà-nội, Hải-phòng, Gia-định, Chợ-lớn mà không đặng. Tội-tình nhân-loại gây ra quá dữ thì cũng đáng ! Hội-Thánh cũng có phương-pháp giải-quyết được, Chí-Tôn đã nói :”Đạo trể một ngày hại cho nhơn-sanh chẳng biết bao nhiêu, nếu toàn chức-sắc biết giúp tay cho Người, khuyến dạy con-cái Người thì có thể giải-quyết được, Hại thay ! Trong 22 năm qua, Hội-Thánh chịu bao nhiêu điều thống-khổ, phí biết bao nhiêu sanh mạng vì khảo-đảo, tù-tội, ngục-hình, phần thì kiệt-lực vì trường-trai khổ-hạnh . Chư Chức-sắc Thiên-phong không chịu nổi phải bỏ mình, chẳng phải chư Chức-sắc mà thôi, mà toàn cả con-cái của Chí-Tôn cũng vậy.

Bần-Đạo cảm-xúc khi nghĩ đến con-cái Chí-Tôn đã đỏ biết bao nhiêu xương máu đặng tạo nên hình-tướng Thánh-thể của Ngài trong giai-đoạn 22 năm qua. Nếu Bần Đạo làm chứng quả quyết  thì phải trừ đi 5 năm 2 tháng Bần-Đạo bị đồ-lưu nơi hải-ngoại, còn tại nơi Đền-Thánh thì kẻ bị đày đi Côn-lôn, người Sơn-la, Lao-bảo.

Trong cơn ly-loạn nầy, con-cái Chí-Tôn muốn bảo toàn sanh-mạng thì phải thí mạng một phen đổi chết ra sống, đem loạn-lạc lại hoà-bình , ấy là những Thánh-tử Đạo vào Bát-Quái-Đài đã mua rất mắc cái vẻ vinh-quang, tận thiện, tận mỹ, đem hình-ảnh  Đạo lại giá-trị như xưa, đặng để làm chân tay đi từ Liên-hiệp Quốc-gia đến Liên-hiệp Đại-đồng Thế-giới, gieo truyền chơn-lý, khuyếch trương chủ-nghĩa hoà-bình.

Con đường còn dài, Đạo đi đã phải lối đến tận-thiện tận-mỹ, mong sẽ được kết-quả mỹ-mãn, đặng làm cho nền Đạo Cao-Đài ra thiệt  tướng.

Cầu nguyện Đức Chí-Tôn và Phật-mẫu bảo-trọng Thánh-thể của Ngài bớt khổ-hạnh, con đường đi bớt gay trở, hầu đi khắp mặt địa-cầu, tạo ra mối hoà-bình đại-đồng thế-giới, nếu không được thì cái nạn tàn-sát lẫn nhau vẫn còn tiếp-tục đó vậy.

 

về trang chủ