Ðại-đạo Tam-kỳ Phổ-độ

Tòa-Thánh  Tây-Ninh

 

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

BÍNH TUẤT- ĐINH HỢI (1946-1947)

 

QUYỂN-NHỨT (tiếp theo)

HỘI THÁNH  GIỬ BẢN QUYỀN

IN LẦN THỨ NHẤT

Năm Canh-tuất (1970)

 

Trên Cửu-long đài, trước Báo-Ân-Từ hồi 4 giờ rưỡi chiều ngày 15 tháng 8 năm Đinh-hợi (1947)

ĐỨC HỘ-PHÁP

GIẢI-NGHĨA PHẬT-MẪU CHƠN-KINH

 

Ngày nay là ngày Đại-Lễ Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu. Bần-Đao tưởng cả thảy toàn Đạo nên biết quyền-hành của Phật-Mẫu như thế nào? Và tại sao chúng ta thờ Người.

 

Muốn biết quyền hành ấy Bần-Đạo phải thuyết-minh và giải nghĩa bài Kinh Đức Phật-Mẫu mà chúng ta thường tụng niệm hằng ngày đó. Trước khi giãi nghĩa Bần-Đạo cũng nên nói rõ ai đến cho bai Kinh ấug ? Cho hồi nào? Và tại nơi đâu ?.

 

Kinh Đức Phật-Mẫu cho tại Kiêm-Biên Tông-Đạo (Cao Miên-Quốc) nơi Báo Aân-Đường của hai vợ chồng Thừa-Sử Huỳnh-Hửu-Lợi. Lúc trước chưa có Kinh Phật-Mẫu, chúng ta chỉ biết Phật-Mẫu, đến Hiệp-Thiên-Đài Khai Đạo Cao-Đài nhờ thi phú văn tự của Cửu-Vị Tiên-Nương cho biết nguyên-do đến Khai Đạo, chớ chúng ta chưa biết quyền-hành của Người. Nơi Kiêm-Biên cả Chức sắc Hội-Thánh Ngoại-Giao đến cầu Kinh, khiến khi đó Bần-Đạo đến nhằm lúc cúng Vía Phật-Mẫu. Bát-nương đến cầm cơ viết, chính mình Bần-Đạo phò loan nơi Đại-Điện, có nhiều Đạo-Hữu và một người không biết Đạo là gì, là ông Hiếu ( kêu Bần-Đạo bằng chú) ngồi trước sân chơi, thấy tứ phía đều có hào-quang giáng hạ xẹt xuống rất ngay Báo-Aân-Đường. Tới chừng trọn bài Kinh rồi, cả thảy đều nói lại không biết cái gì xẹt khi nảy như sao xẹt qua xẹt lại vậy, không dè trong nhà đương phò-loan. Có cháu của Bần-Đạo và nhiều Đạo-Hữu ở ngoài đều làm chứng quả quyết như vậy. Bây giờ Bần-Đạo xin giảng từ câu Kinh cho toàn thể hiểu.

“ Tạo-Hoá thiên huyền-vi thiên hậu”

“Chưởng Kim-Bàn Phật-Mẫu Diêu-Trì”

-Từng Trời thứ chín gọi cung Tạo-Hoá Thiên, có vị cầm quyền năng tạo-đoan gọi là Thiên-Hậu, nắm cả Kim-Bàn tức là nắm đẳng cấp Thiêng-Liêng điều-khiển chơn-linh gọi là Phật-Mẫu Diêu-Trì. Bên Á-Đông người ta thường kêu Phật-Mẫu là Mẹ sanh thờ bằng cốt tượng cũng nhờ nơi Cửu-Vị Tiên-Nương truyền bá còn lưu lại ngày nay, là bọ đồng-cốt, nhờ Đồng cốt mà cả Á-Đông đều biết Phật-Mẫu là Mẹ sanh của nhơn-loại.

“ Sanh-quang dưỡng dục quần-nhi”

-                                 Lấy khí sanh-quang ( Fluide de vitalité ) nuôi nấng con cái của Người tức là vạn-sanh.

“ Chơn linh phối nhứt thân vi thánh hình”

-                                 Chơn-linh của Chí-Tôn cho ta hiệp với thi-hài là thành thân hình, ta gọi là phách hay vía, khi thoát xác chơn-linh ấy xuất ngoại.

“ Thiên-cung xuất vạn-linh tùnh pháp”

Do nơi Thiên-cung mà ra vạn-loại, tức nhiên vạn-vật tùng quyền pháp thiên cung mà sanh.

“ Hiệp âm dương hữu hiệp biến sanh”

Lấy âm dương khí hoà-hiệp nhau biến hoá ra vạn-vật.

“ Càn-khôn sản xuất hữu hình”

Càn-khôn trước là không-không. Phật-Mẫu biến ra cả vạn linh.

“ Bát-hồn vận chuyển hoá thành chúng sanh”

Trong Bát-Hồn kể vật-chất-hồn, thảo-mộc-hồn, thú-cầm-hồn, nhơn-hồn, Thần-hồn, Thánh-hồn, Tiên-hồn, Phật-hồn do trong Kim-Bàn của Phật-Mẫu mà ra. Bát đẳng cấp thiêng-liêng chơn-hồn vận chuyển biến thành vật-chất, thảo-mộc, cầm-thú và nhơn-loại gọi là chúng sanh.

“ Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp”

Hiệp cả thảy loài vật hữu-sanh cộng lại làm đại nghiệp của mình, mở một con đường đặng lập vị cho nhau.

“ Lập tam tài định kiếp hoà căn”

Tam-tài trên kể xuống là: Thiên, Địa, Nhơn dưới kể lên là Người, Đất,Trời. Phật-Mẫu định kiếp-căn của mọi người đã sanh ở cõi trần nầy.

“ Chuyển luân định phẩm cao thăng”

 Sự luân hồi chuyển kiếp của chúng ta, nẻo sanh tử là con đường đạt vị cao thăng: Sanh ra đặng trả căn kiếp ở thế gian theo luật nhơn quả, sanh đặng lập nghiệp đạt vị cũng có, mượn kiếp hữu-sanh nầy lập vị cao thăng cũng có.

“ Hư-vô Bát-quái trị thần qui nguyên”

Lấy khí hư-vô dựng lò bà-quái đem linh-hồn trở lại cỗ cũ, Phật-Mẫu có quyền đem trở lại  cho Chí-Tôn.

“ Diệt tục kiếp trần duyên oan-trái”.

 Nhờ Phật-Mẫu định cho ta trả nợ oan-trái, Phật-Mẫu có quyền sữa cãi kiếp luân hồi định cho ta lập công mà trả quả.

“ Chưởng đào tiên thủ giải trường tồn”

Nơi Diêu-Trì-Cung, Phật-Mẫu trụ sanh quang lại thành một khối gọi là quả đào tiên, đủ phép sống vĩnh viễn trường tồn nơi cõi hư-linh. Phật-Mẫu cầm quyền phép hườn chơn thần cho ta đạt kiếp nơi cửa hư-linh.

“ Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn”

“Chí công định vị vĩnh-tồn thiên cung”

Nghiệp quả của chúng ta, do Phật-Mẫu tạo thành, Phật-Mẫu lại đem ta trả về cựu nghiệp, còn Chí Tôn do cựu nghiệp ấy mà định vị.

“ Chủ âm quang thường tùng thiên mạng,”

“Độ chơn-thần nhứt vãng nhứt lai”

Chủ âm quang là nơi địa giới, chia ranh địa ngục với thiên-đàng, tùng mạng lịnh Chí-Tôn, Phật-Mẫu giữ gìn chơn thần của chúng ta, đem ta đến đem ta về.

“ Siêu thăng phụng liễn qui khai”

Siêu thăng thì ta nhờ cái xe Tiên là xe, phụng liễn mà mở cửa đi về.

“Tiên cung Phật xứ Cao-Đài xướng danh”

Nơi Tiên cung xứ Phật, Đức Cao-Đài kêu danh hiệu đều phải tùng quyền lực Phật-Mẫu độ rỗi.

“Hội Nguơn hửu Chí-Linh huấn chúng”

Thượng-nguơn qua Trung-nguơn qua Hạ-nguơn. Nay Hạ-nguơn Tam-chuyển hầu diệt, bắt đầu Thượng-nguơn Tứ-chuyển có Chí-Tôn đến giáo-hoá chúng-sanh.

“Đại Long-Hoa nhơn chủng hoà ki”

Đại Long-Hoa đã tiên-tri là hội ân-xá các đẳng chơn hồn, không phân chia chủng tộc, nòi giống hợp nhau về một gốc (chỗ nguyên-lai).

“Tam-kỳ khai hiệp Thiên-thi”

“Khoa môn Tiên-vị ngộ kỳ Phật duyên”

Đạo Tam-Kỳ khai giáo đúng với Thiên-thơ tiền-định, để mở hội thi lên ngôi Tiên cho kẻ có duyên với Phật.

 “Trung khổ hải độ thuyền Bát-nhã”

“Phước Từ-bi giải quả trừ căn”

Phật-Mẫu đem thuyền Bát-nhã vào biển khổ đặng độ nhơn-sanh ra khỏi trần-ai.

“Huờn hồn chuyển đoạ vi thăng”

Huờn hồn cho cả chúng-sanh bị tiêu-huỷ được phục siêu-sanh cải đoạ-lac ra siêu-thăng.

“Cửu Tiên hồi-phục Kim-Bàn chưởng âm”

Cửu vị Tiên-nương trở lại thì Phật-Mẫu Kim-Ban chưởng-quản bầy âm-linh.

“Thập Thiên can bao-hàm vạn tượng”

“Tùng Địa chi hoá trưởng Càn Khôn”

Mười Thiên can là : Giáp, Aát, Bính. Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, hiệp với mười hai Địa chi là : Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, mà biến-hoá hình-tượng bao-la Càn Khôn Thế-giới, làm cho Thế giới rộng lớn thêm lên.

“ Trùng hườn phục vị Thiên nôn “

Cho trở lại quê xưa vị cũ là về nơi cửa Trời.

“ Ngươn linh hoá chủng qui hồn nhứt thăng “

Các Huyền-linh biến hoá ra nhiều quỉ hồn cũng được siêu thăng, được đi chung đường với Thần, Thánh, tiên, Phật mà phục vị.

“ Vô siêu đoạ quả căn hữu pháp “.

Không siêu thăng, không đoạ lạc căn quả đều có phép luật định..

“ Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan “

“ Vô địa ngục vô quỉ quan “.

Không còn khổ hình của kiếp làm người Phật-Mẫu diệt tiêu oan nghiệt, không còn Địa ngục cũng không còn chổ nhốt quỉ hồn.

Quỉ quan là cai ngục nhốt các hồn quỉ, là nơi giam cấm hình phạt khổ sở các quỉ hồn.

“ Chí-Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên”

( Vì chữ Đại xá nên Đạo Cao-Đài gọi là 3è Amnistie de Dieu en orient ). Chí-Tôn ân xá tội tình, đem tất cả con cái của Ngài về hiệp cùng Ngài.

“ Chiếu nhủ lịnh Từ Huyên thọ sắc”.

“Độ anh nhi nam bắc đông tây”

Chiếu theo lịnh dạy của Đức Chí-Tôn, Từ Huyên là mẹ sanh của chúng ta thọ sắc độ rổi vạn-linh tứ hướng tức là con cái của người không bỏ sót một ai.

 “ Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài”

 “Diệt hình tà pháp cường khai Đai-Đồng” .

Khai đạo Tam-kỳ, kỳ nầy dặng tạo Linh-Đài là cái tâm linh cho con người có đủ quyền năng tiêu diệt tà pháp đặng đem nhơn loại đến Đại-Đồng một cách mãnh liệt.

Hiệp nhơn sanh lại một nhà chung một Đạo, Đạo sẽ duy nhứt vạn loại sẽ là một khối, không phân biệt quốc-gia chủng tộc, Tôn-giáo, ngày nào được như vậy là ngày đó được hoà-bình thế-giới. (La religion sera une, le monde sera un, l’humanité sera une, une en nation, en race et en religion ).

“ Qui thiện lương quyết sách vận trù”

Phật-Mẫu qui thiên lương của con cái của Người, điều độ những người tâm thiện.

“ Xuân-Thu, Phất-Chủ, Bát-Du”,

“Hiệp qui Tam-giáo hữu cầu Chí-chơn”.

Lấy triết-lý của Tam-Giáo, Xuân-Thu, tiêu biểu cho đạo Thánh. Phất-Chủ cho Đạo-Tiên, Bát-Du Đạo-Phật, gom góp cả ba lại làm một chơn-pháp của Người.

“ Phục nguyên-nhơn hườn hồn Phật tánh”,

“Giáo-hoá hồn hữu hạnh hữu duyên”.

Đem Phật tánh lại cho các bậc nguyên-nhân, nguyên nhân là các chơn-hồn Chí-Tôn sai xuống làm bạn đặng độ rỗi chúng sanh, vì họ mê luyến hồng trần, nên Chí-Tôn đem Phật-tánh phổ hoá họ, nhờ đó họ trở lại quê xưa. Phỏng định 100 ức nguyên-nhân. Phật-tổ độ đặng 6 ức, Lão-Tử 2 ức, còn lại 92 ức vẫn còn đoạ lạc, Phật-Mẫu đến giáo-hoá định duyên định phận cho họ.

“ Trụ căn qui khí cửu tuyền”,

“Quảng khai thiên thượng tạo quyền chí công”

 Cả quỉ hồn, Phật-Mẫu trụ nó lại tuyền-đài, mở rộng cửa Trời đặng thật hành quyền Chí-Tôn tại thế.

“ Lịnh Mẫu-Hậu khai tông định Đạo “

Mẫu-Hậu là Diêu-Trì Kim-Mẫu hay là Thiên-Hậu Thánh-Mẫu Ngài đến mở Tôn-Giáo định Đạo cho chúng ta.

“ ÂN dưỡng sanh đảm bảo hồn hài”,

“Càn-khôn tạo-hoá sánh-tài”.

Đã sanh lại dưỡng đặng bảo đảm hình-hài thì ơn ấy quá trọng, sánh bằng Càn-Khôn thế giái.

“ Nhứt triêu nhứt tịch kinh bài mộ khang”.

Mai chiều chúng ta đến thăm viếng Đức Mẹ như Từ-Thân chúng ta vậy, mộ khang là đến thăm viếng buổi chiều để vấn an Đức Mẹ đó vậy.

“ Nam-Mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Tạo-hoá Huyền thiên cảm bái”

“Nam-Mô Đại-Từ Đại Bi năng hỉ xả, Thiên-Hậu Chí-Tôn đại bi đại ái “.

 Người cầm quyền năng tạo cả càn khôn thế giới gọi là Thiên-Hậu Chí-Tôn là Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu đại từ-bi bác-ái.

 

Theo bí-Pháp chơn truyền của cơ sanh hoá phải có đủ âm dương, trong sanh-quang chúng ta có điện-quang ( Positif và Negatif ) cũng như vạn-vật có trống mái. Nền Tôn-giáo nào có đủ âm-dương thì mới vỉnh cửu.

 

Như Đức Chúa Jésus ngày trước bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá đầu thuận lên trên gọi là đạt dương. Ông Thánh Pierre là đệ nhứt Tông-Đồ bị đóng đinh trở ngược lại, gọi là phản âm. Aâm dương tương hiệp đúng theo bí pháp, nên đạo Thánh lưu truyền lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền gì tiêu diệt đặng. Chí-Tôn có thể sai con của Người đến lập Đạo như Thich-Ca, Jésus, Khổng-Tử.v..v..

 

Trái lại người đã xuất nguyên-linh của Người đến đây độ chúng ta, thì tưởng điều ấy trọng yếu hơn hết, khi mở Đạo Cao-Đài Chí-Tôn định cho Phật-Mẫu đến làm bạn với chúng ta bảo trọng nuôi nấng đạy dỗ chúng ta, thì không có ân đức nào bằng, vì không ai biết thương con hơn là Mẹ. Phật-Mẫu đến cầm quyền lập Đạo xong, rồi giao lại cho Chí-Tôn. Phật-Mẫu làm chủ âm-quang. Chí-Tôn là chủ dương-quang, âm-dương tương hiệp, Đạo Cao-Đài nương theo năng lực của hai khối âm dương đó. Đối với năng lực tạo đoan Càn-Khôn thế giới thế nào, thì Đạo Cao-Đài ngày kia sẽ có năng-lực như thế đó.

                            

Ngày rằm tháng 8 năm Đinh-hợi (1947)

VỀ TÁNH ĐỨC CỦA GIỐNG NÒI VIỆT-NAM

 

Hôm nay BẦn-Đạo luận-bàn cùng mấy chị mấy em, Bần-Đạo giảng về tánh-đức của giống-nòi Việt-nam, dầu nam hay nữ, dầu sùng bái tôn-giáo nào, cũng không quên mối Đạo căn-bản lưu-truyền của nòi-giống là tin-tưởng Trời tức là Đấng Chí-Tôn đó vậy.

 

Toàn thiên-hạ trên mặt địa cầu nầy, ngày nào họ biết Đạo của Chí-Tôn, họ sẽ bỏ cả khuôn khổ đạo-đức của họ mà chớ, vì từ thử nước Việt-nam vẫn giữ được tánh đức lương-thiện của mình, nên lẽ công-bình ấy, Chí-Tôn mới dến hoằng-khai Đại-Đạo, định đem tánh đức hướng-thiện của nòi-giống Việt-nam gieo truyền vào tánh đức thiên-hạ.

 

Tôi sinh-trưởng tại tỉnh Tây-ninh, Ông cha tôi đều ở tỉnh Tây-ninh thì có chi vui-vẻ và hạnh-phúc hơn được mở-mang mối Đạo nơi xứ sở yêu-quý nầy. Ngồi trầm ngâm suy tưởng tôi xin thú thật, phần nhiều mấy anh mấy chị nơi quê hương của tôi, hẳn đã biết tôi từ thuở bé, anh chị thấy tôi truyền-giáo tưởng tôi mê-hoặc chúng-sanh, Nghĩ rằng không ai dám đứng lên hoạt-động, mà tôi hăng-hái đứng lên phổ-thông nền Đạo, cho đến ngày nay được thành nguyện-vọng, các bạn tôi rất lấy làm lạ, cho rằng ngày trước nó là bạn của ta, nó không có gì đặc-biệt mà ngày nầy bước chân đến nền Cao-Đài thì thì thấy có sự thay đổi lạ-lùng, Bởi vì tôi đã lấy khuôn-khổ đạo-đức tinh-thần phù-hạp với phong-hoá lễ-nghi, có ảnh-hưởng đắc-lực với dân-chúng thi-thố chơn-truyền của Đức Chí-Tôn cho ra thiệt-tướng, cho bạn đồng-hương của tôi được thấy ân-huệ thiêng-liêng ban-bố cho nòi-giống ta giá-trị cho tỉnh Tây-ninh biết bao-nhiêu. Cầu-nguyện Ơn Trên ban-bố hông-ân để dìu-dắt mấy chị, mấy em đến đây, đến Đền thờ Chía-Tôn là nơi Chí-Tôn đã tạo nổi hình tướng của Đạo.

 

Mấy chị đừng ái-ngại cứ bước lên làm gương-mẫu cho kẻ đi sau, Chí-Tôn đến đây lập đại-nghiệp Thiêng-Liêng cho toàn thiên-hạ. Bần-Đạo tin-tưởng Người chỉ làm việc hửu-ích cho đời. Đối lại hỏi chúng ta đã làm gì ra giá trị ? Gia-Tô giáo của kẻ nghèo-nàn đói khổ, của một vị Giáo-chủ hành-khất, còn nên được đại-nghiệp, chúng ta làm bao nhiêu như bọt nước bèo trôi. Một tiếng nói, một việc làm, trong gia-đình không phải là đủ, có thể nói tỷ-dụ như một ống truyền-thanh thường trong gia-đình chỉ đủ dùng cho gia-đình đó nghe thôi. Tôi tưởng muốn tạo dựng cả tinh-thần nòi-giống nươc nhà cần phải gia-tăng năng-lực thêm nũa.

 

Ngày nay không phải như trước kia, cử nầy mấy chị , mấy em có thể ra vào thong-thả được, mở ra con đường tiến-hoá của noig iống. Ngày nay mấy chị đã đến trong nền Đạo nầy tôi xin để lời cám-ơn toàn mấy chị mấy   em.

 

Đạo-đức học đường ngày 16 tháng 8 năm Đinh-hợi (1947)

LỄ BẢI TRƯỜNG ĐẠO-ĐỨC HỌC-ĐƯỜNG

 

Mời mấy vị Giáo-viên và ân-nhân của trường Đạo-đức học-đường vào trước mặt Thầy.

Lời Tiên Nho chúng ta đã nói:”gia bần tri hiếu tử, quốc loạn thức trung thần” hoàn-cảnh khó-khăn làm cho Thầy khó định-tâm cảm-xúc vô-han, thấy tinh-thần mấy em đối với đoàn hậu-tấn tức là tương-lai vận-mạng nước nhà. Đạo ngày sau cũng nhờ đám nầy. Cả thảy thống-khổ của mấy em, Chí-Tôn và Hội-Thánh đều nhận thấy cả yếu-lý.

 

Hại thay ! gặp buổi loạn-lạc, khuôn-khổ phong hoá nước nhà bị tiêu-huỷ, đời xu-hướng theo vật hình bỏ rơi đạo-đức. Chúng ta có trước mắt kẻ thù, đối-phương có năng-lực khả-dĩ tiêu-diệt chúng ta là cọng-sản đệ-tam, đã làm cho tâm-lý loài người bải-hoải tiêu-tan, xu-hướng vật-hình là tranh-đấu. Hể tranh-đấu tất-nhiên là còn trường tiêu-diệt, có Cơ-quan tiêu-diệt tức có Cơ-quan bảo-tồn, chẳng phải mình ta là đủ. Chí-Tôn mở trường dạy con cái của Ngài, là lo làm sao bảo-tồn sanh-mạng cho nhơn-loại, chẳng phải kiếp nầy mà đời đời kiếp kiếp. Phận-sự tối-trọng Ngài giao cho Đạo, chúng ta chỉ mới vẽ một nét đầu mà thôi, kết quả không phải trong buổi nầy mà trong tương-lai đoàn hậu-tán. Mấy em nhận-định được điều ấy, chẳng hề vì danh-vị, chẳng kể hoàn cảnh khó nhọc, chẳng nài đói khó, khổ não chẳng tủi-hờn, cái cảnh mấy em chịu đói rách với Đạo, tạo đầu óc cho mấy em nhỏ, thì không ân nào trọng hơn nữa. Đài Tần, đảnh Hớn, từ thượng-cổ đến giờ còn ghi, đó là cơ-quan hửu-hình, cả khối tinh-thần chúng nó do mấy con tạo nên sẽ trường-cửu, không có năng-lực nào đối-phó đặng.

 

Mấy em là “Kiến-trúc viên” vẽ từ nét coi từ điều, quan-sát tất-cả mọi hay dở mà sữa đổi cho tận thiện tận mỹ, cái thành-trí Chí-Tôn giao cho mấy em kiến trúc đó sẽ tạo lập thành quách tương-lai mà chớ.

Bần-Đạo cám ơn và tin cậy mấy em.

 

Ngày 16 tháng 8 năm Đinh-Hợi ( 1947 ).

KINH-TẾ  LÝ-TÀI

 

Để trả lời bài diễn văn của Ông Trưởng-Ban Kinh-Tế Lý-Tài vừa đọc với những lời trong tâm lý thật thà. Nếu thiên-hạ biết đảm nhiệm thi-hành theo thì bước tương lai sẽ vững-vàng. Nền Kinh-Tế của mỗi nước có tươn-liên với Quốc-Tế, nền Kinh-Tế Lý-Tài vững thì Quốc-Tế mới vững.

 

Hại thay! Nước ta trước kia chưa bị chiếm cứ và sau 80 năm bị Pháp quốc thống trị, nền Kinh tế vẩn không có gì hết. Nếu chúng ta nhìn vào sự thật, khởi đoan ta có Kinh tế từ khi tẩy chay gốc cà phê của Đường-Nhơn .

 

Dân ta từ xưa đến nay có cái bệnh lưu truyền xu hướng theo quan trường, nên nền Kinh-Tế đều phí bỏ cho Ngoại-quốc may là mình phú thác cho Đường-Nhơn là anh em cùng nòi giống với mình, nếu vào tay người khác màu sắc thì cái hại không biết chừng nào.

 

Nay biết rằng toàn quốc-dân cũng đều hiểu Kinh-Tế Lý-Tài là vận mạng của nước nhà thì mơ mộng của tôi sẽ đắc thành. Nhờ Đường-Nhơn chỉ từ trước đem hết năng lực từ thử trao lại cho chúng ta nếu họ nhìn chúng ta là đồng chủng, tìm phương thế giúp ta lập nền Kinh-Tế thì nên việc được. Năng-lực của Trung-Hoa có phương lập nên cho chúng ta về  Kinh-tế trong nội địa Việt-nam nầy mà thôi. Lấy theo bản thống-kê chót (derrnier recensement) trong năm 1935 là một triệu tám trăm ngàn (1.800.000) có lạc-loài cũng còn một triệu (1.000.000), phần nhiều là nhà Canh-nông tư-bản. Ta khởi làm cái trứng thương-mãi trong Đạo, nếu nó sống được, biết đâu hột giống của Đạo tạo ra sẽ sanh bông trổ tái, chẳng những cho quốc dân hưởng, mà cho đến cả toàn cầu nữa. Nền Đạo-Cao-Đài, do văn-minh tối cổ Á-Đông mà Trung-hoa và Ấn-độ đều chịu ảnh-hưởng, có hai dân-tộc đó nâng-đở thì sau nầy về mặt kinh-tế mình vững lắm vậy. Phỏng theo tình-thế mà đoán nếu nền kinh-tế ta có năng-lực khéo hay, đặng hiệp với Trung-hoa và Ấn-độ thì nên được mà thôi.

 

Chúng ta đem hột giống ấy gieo không thấy mọc, nếu mọc được rồi khéo tìm cách trồng xuống đất-đai phì nhiêu lat Trung-hoa và Ấn-độ thì chúng ta đủ sống.

 

Vía Đức Lý Giáo-tông ngày 18 tháng năn năm Đinh-hợi (02/10/1947)

NGUYÊN DO ĐẠO CAO-ĐÀI XUẤT-HIỆN

 

Hôm nay Bần-Đạo giảng: ”Nguyên-do nào có Đạo Cao-Đài sản-xuất buổi nầy”. Theo bí-pháp chơn-truyền thì mỗi chuyển của địa-cầu  là một nước thăng tiến. Mỗi chuyển có 36 ngàn năm, chia làm ba nguơn, mỗi năm có 12 ngàn năm. Chiếu theo pháp Phật trong mỗi chuyển Thượng-nguơn hay là khai nguơn thuộc quyền Phật, Trung-nguơn thuộc quyền Tiên, Hạ-nguơn thuộc quyền Thánh. Nhận-định bí-pháp thiêng-liêng của Chí-Tôn, nhỏ có người dạy, lớn học-hành lập thân danh, thành nhơn rồi tự-trị lấy mình . Phật thì dạy, Tiên đào-luyện, Thánh thì trị. Hạ-nguơn thuộc Thánh, nhơn-sanh tranh-đấu cho sự sống còn, ấy nguơn tranh-đấu mà triết-lý cốt là trị được sản-xuất cơ-quan bảo-tồn cho loài người.

 

Hạ-nguơn tam chuyển hầu mãn, khởi Thượng nguơn tứ chuyển, địa-cầu chúng ta lạc hậu nhiều lắm vậy. Đã ba ngàn năm xa xuôi đã thua thuỷ-đức, kim-đức và mộc-đức tinh-quân  trong số bảy địa-cầu (Système solaire. Les sept plannètes solaires) người ta đã bảy chuyển, mình mới tới đệ tứ chuyển, vì vậy nên Chí-Tôn mượn các Đẳng Chơn-linh ở các địa-cầu kia đến làm bạn với chúng ta. Chẳng những Hoá-nhân mà đến Nguyên-nhân, Chí-Tôn cũng mượn họ đến tại địa-cầu nầy làm bạn giáo-hoá chúng ta. Không biết số bao nhiêu theo Phật-pháp thì được 24 chuyến thuyền Bát-nhã chở họ đến, khoản chừng 100 ức. Phật-tổ độ 6 ức, Lão-tử độ 2 ức, còn 92 ức đến Hạ-nguơn nầy cũng chưa thoát khổ, vì cớ Chí-Tôn mới đến khai Đạo Cao-Đài.

 

Thượng-Ngươn về phần Phật giáo-hoá thì khởi ngươn tứ-chuyển cũng về Phật. Ta tìm hiểu triết-lý nầy, vì Thánh bất lực  thì Phật phải đến chớ có lạ gì đâu, để đánh thức nhơn-sanh độ rỗi họ vào con đường hoạt-bát tinh-thần, thức-tỉnh họ trong trường hổn độn nầy, cho họ nhớ lại rằng chơn-linh của mình đều do nơi khối chơn-linh của Chí-Tôn và phải nên nhớ đến chơn-linh đừng quá chạy theo tánh-chất mà bị đoạ-lạc luân-hồi, tức là Phật qui nhơn-sanh qui hồi nguyên-bổn vậy.

 

Dở sấm-truyền xem mỗi phen có đến Brahma, Civa, Christna, đến cầm quyền-năng trị-thế cũng đủ, Ta thấy trước mắt như vậy, nắm quyền trị không thì chưa đủ vai tuồng, vì dầu có đủ quyền năng quyền năng để trị cũng không thể nắm cả quyền-hành tâm-linh thiên-hạ được. Phải có giáo-hoá vì giáo-hoá là căn-bản của trị, nếu chỉ trị mà không giáo-hoá thì thất-sách. Phật thuộc về giáo-hoá, Thánh thì trị. Hại thay! Thế-gian nầy chỉ có chánh-trị thôi. Quan-sát khắp Âu-châu có người tu Phật đến bực siêu-việt, có thể xuất-thần vân du thiên ngoại, xem xét các pháp, nhận thấy nền chánh-trị Chí-Tôn chia ra hai mặt :

1.- Chánh-trị Càn khôn Thế-giới.

2.- Chánh-trị Cực-lac Thế-giới.

Họ làm chứng quả quyết như vậy (Le gouvernement se compose de deux sections : 1.- Gouvernement. 2.- Enseignnent).

Chúng ta thấy hiện-tượng Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài.Tại sao gọi là Cao-Đài? Thuở trước Cổ-nhơn muốn cầu Tiên, phải cất một cái đài thật cao bằng tranh lá gọi là Thảo-đài. Ngày nay Chí-Tôn lập Đạo Cao-Đài để làm Toà ngự của chư Thần Thánh Tiên Phật đến hồng-trần nầy làm bạn cùng người, hiệp cả loài người làm một, bất luận sắc dân nào, màu da nào, dầu tinh-thần bất đồng-thẻ cũng đều do nơi luật luân-hồi cầm quyền (Pouvoir seigneurs de la loi Karmique gouvernement).

 

Cá-nhân cũng như xã-hội loài người đều đặt dưới luật quả-báo. Cá-nhân hay quốc-gia cũng dưới quyền ấy. Quả nhẹ thì tấn mau, nặng nề thì chậm-chạp. Hể nặng mang quả-kiếp, tức tấn-bộ chậm chập.

Aâu-châu nhờ có Đạo Thánh Gia-Tô nên trong 2.000 năm sau hưởng ân-huệ thiêng-liêng không ai bằng . Thánh bên ta là Khổng Phu-tử thì hiền , ai làm thì làm không buộc , không như Ông Thánh bên phương Tây ép phải làm. Bần Đạo nghĩ rằng : ép buộc đắc lợi hơn.

 

Chí-Tôn đến mới nói đại-đồng thế-giới đã làm rồi , nhưng không thành , Chí-Tôn đến làm cho thành , đem nhân-loại quy một bổn nên mở Đạo Cao-Đài làm nguồn cội . Thượng ngươn là Ngươn của Phật, Thánh không trị được , thì Phật đến độ rỗi, cũng như hể có người nghiêm-khắc thì có người nhơn-từ, hể không trị được thì cũng có người dỗ-dành khuyên-lơn  mới được , nên Ngươn tứ chuyển đúng theo chơn-pháp thuộc về Phật đó vậy.

 

Đền-Thánh giờ Ngọ  ngày mồng 1 tháng 9 năm Đinh-hợi (19470

CƠ-QUAN CHUYỂN THẾ

 

Bần-Đạo nhờ buổi Chí-Tôn mới đến tỏ danh-hiệu Ngài, Người hứa với các môn-đệ của Người buổi đầu tiên về cơ-quan chuyển thế làm phân-vân biết bao-nhiêu nhà trí-thức, tìm hiểu hai chữ chuyển thế nghĩa là gì ? Theo triết-lý học định nghĩa chữ chuyển-thế là xoay đổi thời đại hiển-nhiên ra thời đại khác hoặc không phù-hạp, hoặc quá khuôn-khổ nề-nếp nên quyết-đoán thay đổi lập-trường thiêng-liêng vì thời-đại này đã định.

 

Chuyển, nghĩa là sửa-đổi củ ra mới, lấy nghĩa-lý đã định hẳn ra , tức nhiên chúng ta nhận thấy các khuôn luật đạo-đức từ trước đến giờ để lại đều bị biếm-trách cả, bởi vì đời quá hung-tàn bạo ngược vô nhơn-luân , tinh-thần đạo-đức không quy-định. Tâm-lý loài người không tương-quan cùng nhau , mất cả cả luật đồng sanh làm căn-bản làm của loài người , luật đồng sanh gần như bị huỷ bỏ, bởi thấy tấn-tuồng trước mắt , nào giặc-giả chiến-tranh ; giành sống mà giết lẫn nhau , oán kết thâm thù, loài người do nơi ấy mà biến sanh tàn ác , cái phương sanh sống đến một giai-đoạn rất khó khăn mà chúng ta thử xét đoán trong các kinh-điển Tôn-giáo đã để lại là “ mưa dầu nắng lửa ”. Trận mưa dầu nắng lửa sẽ có hiện-tượng y như trong kinh-điển đã nói . Cũng vì sự sinh-hoạt khó khăn mà loài người giết hai lẫn nhau . Trên mặt địa-cầu , nếu lấy con số hiểu biết người ta ước chừng khoản  hai ngàn năm mươi bảy triệu sanh-mạng , không kể mấy trận giặc tàn-khốc đã qua , hiện giờ làm giảm bớt rất nhiều trong số ấy . Đời sống đến giai đoạn  khó khăn hơn nữa, những phẩm-vật nuôi sống loài người càng giảm bớt, thì nhân-loại còn quyết-liệt chiến-đấu hơn nữa.

 

Bần-Đạo tìm hiểu định nghĩa hai chữ “chuyển thế” là thay đổi thời thế, đem kinh luật ra quan-sát thấy mỗi thế-kỷ, mỗi nguơn từ trước đến giờ nhiều gai-đoạn cũng giống nhau một cách lạ lùng, những tấn-tuồng nầy giống tấn-tuồng trước, không ngoai khuôn-viên ấy, trước hết bắt đầu là sắc dân da đen là dân Brahma, tức là dân Ấn-độ, Chí-tôn giao vận-mạng địa-cầu nầy cho dân da đen, vì dân da đen là con trưởng nam của Đức Chí-Tôn, Đức Chí-Tôn giao cho dân da đen nắm giữ về tinh-thần lẫn hình-thể, không ai hân-hạnh hơn dân da đen. Nước Aán-độ có Đạo đầu tiên hơn hết, làm chúa cả địa-cầu nầy. Đã được hửu-hạnh cao-trọng quyền-năng hơn hết, nhưng rồi phân chia nòi-giống, biệt-lập tương-tranh, tận-diệt tất cả nòi giống khác, chính mình chúng ta hôm nay, cũng ở trong khuôn-khổ đó vậy. Vì thế mà mất quyền-hành, Đức Chí-Tôn mới đem dân da xám là dân Bengalis (Bènarés) lên làm chủ-quyền, chuyển-giao lại cho dân da xám sửa Đời, trị thế. Chí-Tôn đem Đạo Brahma để dân da xám làm chủ, làm chúa sửa Đời, lập Đạo, trái lại dân da xám không làm nên phận, các tấn tuồng hung-ác mãi diễn lại, buộc Đức Chí-Tôn phải cho dân Olivâtre cầm quyền làm Thầy nơi địa-cầu nầy đặng trị-thế, nhưng rồi sắc dân Olivâtre cũng không làm nên phận, nên mới có nạn tận-diệt mà chúng ta đã thấy khuôn-khổ đó là khoản đất Á-Đông nầy thuộc bán đảo Malacca cũng bị hành-pháp đó, cho nên biển tân-diệt sát hại, chỉ còn lại Presqu’ ile de Malacca.

 

Đức Chí-Tôn mới giao cho sắc dân da đỏ, sắc dân nầy là dân xứ Egyte (Ai-cập) tức là nòi giống của thế-giới mới. Pérou cũng là con cháu sắc dân ấy. Lúc trước thế-giới mới chưa có, xung-quanh vòng xích-đạo  (Equateur) lúc bây giờ là toàn biển cả  hoá cồn như vùng sa-mạc Sahara ngày nay, nơi dân Atlantéenné tối cổ. Thấy dân Pesrou, Egypte mà ngày nay ai cũng phải cúi đầu trước sự văn-minh của họ. Nhưng đến nay họ không còn tồn tại đẹp đẻ như trước , vì làm Chúa mà giết người, làm anh, làm Thầy không xứng đáng . Đức Chí-Tôn thấy nhân-loai không giữ vững thiên-lương đức-tánh mới làm ra trân Đại-Hồng-Thủy, cho nên mới có thế-giới mới ngày nay.

 

Đến da vàng (Asi Iranienne) là nước Tàu, đừng tưởng nước Tàu do một sắc dân mà ra, họ gồm nhiều sắc dân hiệp lại thành nước Tàu, thành thử tiếng nói thì khác chỉ có chữ giống nhau mà thôi, nước Nam ta gốc ta gốc ở nước Tàu, giống da vàng cũng thất Đạo nên Đức Chí-Tôn để quyền cho giống da trắng gần Mongol hiệp với Race Caspienne (Afghanstan) Yougoslavie ở Cận-đông tràn qua Âu-châu lập-quốc rồi chiếm-đoạt Âu-châu.

 

Đức Chí-Tôn để quyền cho dân da trắng làm chủ, thay vì dân da trắng lo sửa đời trị thế, trái lại  để cho thế-giới tương-tàn tương-sát lẫn nhau, nếu cơ-quan chuyển thế đổi quyền thì mặt địa-cầu còn thay đổi. Dân da trắng rồi cũng như cảnh-tượng Hoàng-đồø nước Tàu vậy. Cơ-quan chuyển thế mà Đức Chí-Tôn lập trước mắt sẽ dữ-dội lắm , tấn-tuồng đó vẫn còn tiếp-diễn chưa dứt.

 

Bần-Đạo quả-quyết rằng : sẽ còn  đại động dữ dội một phen nửa nơi mặt địa cầu này, đăïng chi? Đặng giống da  trắng giao quyền cho sắc dan mới nửa là giống dân Thần-Thông Nhơn (Race Lucde) làm chủ, cầm giềng mối toàn mặt địa cầu này.

 

Hại thay  Luật Thiên-nhiên chiếu theo Kinh Luật  thượng cổ để lại quan-sát hẳn-hoi, dở sách ra coi thấy thế nào sau thế ấy, bánh xe tiến-hoá vẫn đi,  xây một  chiều . Bần-Đạo e cho loài người  mài-miệt tội-lổi đó càng nguy hại cho  loài người hơn nửa, nên Chí Tôn lập Đạo Cao Đài  là đền thờ cao trọng  đức-tin to lớn, ngự trước thiên-lương loài người mới có thể thắng cơ-quang thiên điều định trước.

 

Chúng ta, Thánh-Thể của Ngài, giúp Ngày giải-quyết được chăng? Nế thoáng không được, cái hại nầy còn duy trì nữa. Ngài muốn Việt-nam nầy là Thánh-Địa cho nhơn-loại biết rằng: nhờ đây mà giải quyết cứu-thế bảo-tồn nhơn-loại là do con-cái của Ngài, do nưoi chúng ta. Nếu bất lực chúng ta có phần lỗi đó vậy.

 

Đền-Thánh ngày rằm tháng 9 năm Đinh-Hợi ( 1947 ).

ĐỨC CHÍ-TÔN HỨA VỚI LOÀI NGƯỜI

 

Hôm nay chúng ta làm lễ buổi trưa, giờ ngọ rảnh thì giờ giảng về triết-lý của Đạo. mỗi hành-tàng của chúng ta nhập vào thánh-thể của Đức Chí-Tôn tìm hiểu hầu chúng ta đi đến mục đích và phải biết cho chắc rồi mới vững bước không bợ-ngợ thất tâm, vì biết sự chơn-thật. Chí-Tôn hứa với loài người, Ngài sẽ đến giao nền Chơn Đạo đạy dỗ với sự chơn thật cho con cái của Ngài, dựa theo chơn-lý, dùng lý-trí đặng tiềm tàng hiểu biết tận tường chơn-lý ấy.

 

Hôm thứ hai tuần rồi, Bần-Đạo đặng nghe trong máy truyền-thanh, Liên-Hiệp-Quốc đã hội hiệp nhau trù hoạch phương-châm lập chánh-trị hoàn-cầu, chẳng những thống-nhứt cả quốc gia làm một, mà còn qui tụ nòi giống loài người làm một. Luận-thuyết ấy có đủ lời lẽ rất nên hiển-nhiên để lập một nền chánh-trị có hiến-pháp có chánh giới, có quân-bị, đủ như nền chánh-trị quốc-gia kia vậy. Vị đề-xướng suy-luận rằng: cả loài người còn mơ hồ nói không thể nào đạt đến dặng. Nhưng họ phải nghĩ lại như buổi trước kia, nếu nói người ta lấy  nước có thể vận-hành cả địa-cầu thay đổi, ta không tin, bây giờ đã có chiến-hạm chở nổi 80.000 tấn chạy cùng khắp trên mặt biển. Người ta không tin có điển khí, và hiện giờ đã có điển-khí ấy nó chiếu sáng khắp cùng trên mặt địa cầu. Trước kia vô-tuyến-điện , và loài người bay và nghe thấy được dọ dẵm trên không trung. Thiên-hạ không tin, thì ngày nay nó đã hiện tướng mà loài người đã đạt đến, Bần-Đạo tin chắc-chắn rằêng: Họ sẽ thành-tựu mà lời hứa Chí-Tôn sẽ hẳn đúng.

 

Chí-Tôn đến dặng hiệp con cái lại làm một nhà của Ngài. Trong Thánh-ngôn Ngài còn quả-quyết đó, Ngài đến tạo ra tân thế-giới làm cho nhơn-loại đại-đồng. Nếu sự tiềâm-tàng sắp đặt không đặng kết-liễu thì Chí-Tôn sẽ thất hứa với con cái của Ngài mà chớ ! Bần-Đạo dám chắc rằng: Ngài không bao-giờ thất hứa, vì đã được 99 điều rồi Ngài đã thật-hành vẹn hứa, không lẽ còn một điều nữa mà Ngài làm không đặng.

 

Bần-Đạo tiềm-tàng kiếm luật tương-đối hửu-vi đương nhiên của toàn thiên-hạ và cả chúng-sanh trên mặt địa-cầu nầy. Luật tương-đối ấy là gì ? Có hai luật : Hửu-tướng (Loi de relativité physique) và Vô-tướng (Loi de relavité spirituelle) tương-đối khắp cả Càn-Khôn Vũ-trụ nầy. Do luật thiên-nhiên ấy tạo thành Càn Khôn, Xã-hội nhơn-quần; dầu cho xã-hội, cá-nhân nào cũng phải chịu dưới luật tương-đối ấy, dầu cả nhơn-sanh hay chúng ta cũng vậy, đều chịu ảnh-hưởng của thất tình. Hình ảnh thật hiện con Thất-đầu-xà mà ta thấy là hình-ảnh của người đó vậy, bảy mối tâm-lý ấy tạo nên hình tướng loài người, là do bảy mối tình : Hể có hỉ mới có nộ, có ai mới có lạc, có ái mới có ố, duy có cái dục đứng chánh quyền quyết-định mà thôi, mà dục có thể dục cho ố, cho nộ, cho ái, cho ai, cho lạc được. Nó có lập trường đặc-sắc đủ quyền điều-khiển. Aáy là hình tướng  thiên-nhiên của Tạo-đoan, nên Chí-Tôn nói có âm ắt có dương, có nóng ắt có lạnh. Nếu có âm mà thiếu dương là mặt trời thì bảy địa-cầu (Sysstème planètaire) và cả nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy chưa chắc gì mà còn sống. Nếu có mặt tròi mà không có mặt trăng, là không âm, thì cả vạn-vật và loài người không còn, nghĩa là nếu không có âm dương thì không có Càn-Khôn Vũ-Trụ.

 

Luật tương đối tạo-đoan Càn-Khôn Thế-giới dầu hửu-tướng hay vô-hình cũng vậy, có nên ắt có hư, có đặng ắt có thất, có thắng ắt có bại, có mạnh yếu tất nhiên có hiền dữ, lẽ tư-nhiên luật tương-đối phải vậy, đời vẫn hung tàn bạo ngược vô đạo đăng chi ? Đặng sản xuất luật tương-đối tức nhiên là hửu Đạo, phải có luật tương-đối đặng nó trở lại thiên-lương  nhơn-đức. Chí-Tôn để cho loài người một địa-điểm dữ-tợn không biết trời, không biết đất, sắp đặt có hung ác, có hiền lành , thì cái lành ấy Chí-Tôn giao cho ai ? Bởi luật ấy rất công-bằng, tội phải trả, hiền thì đặng hưởng, quyền-năng thiêng-liêng vô-hình nắm vận-mạng cả loài người và càn-khôn thế-giới, vốn một mặt luật, chẳng vậy thì chúng ta chỉ làm lành mà chi ? Đạo khổ thảm không hưởng chi hết, còn ác thì nó sang-trong vinh-hiển, thì cái sống nầy không có luật công-bình chi cả. Vì cớ mà triết-lý Bác-sĩ  Stem nói : luật tương-đối có quyền-năng định vân-mang toàn-cầu xã-hội. Ngài chỉ nói đến luật hửu-vi của nó, còn luật vô-hình Ngài không luận được.

 

Nếu có hửu-tướng và hiện-hửu thì cũng do nơi một cái quyền-lực nào mới được. Hung ác lập lập nên bá-chủ hoàn-cầu nầy, là vì đời không có cái tương-đối ấy, nên quyền năng lành trừ diệt nó không đặng , thành thử nó cứ làm dữ mãi. Cả thiên-hạ đều dữ, dữ nên sống, nhưng cái dữ ấy có quyền hạn-định phải tiêu-diệt. Cả toàn cầu đương-nhiên của hai khối cọng-sản và quốc-gia, hiện nay trên mặt địa cầu gần phân nữa theo quốc-gia cho vừa mức cân phân, nữa hiền nữa dữ là tại cọng-sản quá bạo ngược , nên phải  lâùy hiền sửa dữ kia. Chí-Tôn cốt-yếu nắm quyền ấy để sửa đời, nguyên do Ngài muốn nói đến đặng tạo tân Thế giới là vậy. Ngài đã hứa và Ngài sẽ trọn hứa cùng các con cái của Ngài.

 

LỄ CÁC THÁNH (TOUSSAINT)

TẠI TOÀ-THÁNH TÂY-NINH.

Ngày 21 tháng 09 năm Đinh-Hợi (3-11-1947)

 

(8 giờ Đại-lễ Chí-Tôn , cầu-nguyện cho vong-hồn các Thánh tử Đạo, có đủ chư chức-sắc, chức-việc và Đạo-hửu nam, nữ. Nhiều quan chức Văn Võ Pháp dự cúng. Sau thời cúng xong Đức Hộ-Pháp giảng Đạo).

Ngày nay là ngày lễ các Thánh Tử Đạo của Thiên-Chúa-giáo tức là Đạo Thánh đó vậy. Chúng ta biết rằng sắc dân nào cũng có chơn-lý tối-trọng là chẳng hề qua khỏi mặt Đạo, ấy là gương tỏ rạng cho toàn con cái Chí-Tôn soi thấy. Dầu đời biến-chuyển thế nào, nhơn loại cũng không bao giờ xa Đạo, bởi quyền-năng tinh-thần là một, sắc dân nào dầu văn-minh cao-siêu đến đâu cũng chẳng từ chối Đạo-giáo được. Trước mắt chúng ta thấy rằng nước Pháp không phải là nước vô đạo mà cả châu Aâu cũng không phải toàn thể đều vô đạo. Nếu lấy sự thật quả quyết tại đền Lourrdre ở Vichy, ta thấy từ chơn giáo nhỏ đến giờ chưa có ai ép xác, vì tâm đức yêu ái và tín-ngưỡng  Đức Chí-Tôn mà đi 10 cây số bằng hai đầu gối đến lạy Chí-Tôn. Tưởng chắc rằng không đâu có mà ở nước Pháp đã có. Còn nói chi các kỳ đại lễ, chúng ta ai ai cũng biết rằng người Âu-châu cổi dày thì không đi dặng, và không có hình phạt nào nặng hơn băng bắt họ đi chơn không. Mỗi kỳ phải cổi giày và vát tượng ảnh Chúa đi hằng 10 cây số ngàn. Suy đó không ai từ chối Đạo cho đặng.

 

Ngày nay Chính-phủ Pháp, Chánh-phủ Nam-kỳ và cả chúng ta thiết lễ cầu siêu  cho nhơn-loại, dưới thế-gian nầy loài người phân-chia nòi giống, họ-hàng, tông-tổ, chia vật hình chia sắc da, chứ chơn-linh chúng ta không phân-biệt tộc phái nam nữ nòi giống gì cả, thoát khỏi hình thể nầy rồi ta vào Thánh-thể thường tại của Chí-Tôn. Hại thay, có nhiều chơn-hồn ân hận đau khổ khi giải thể mới nhận thấy tranh đấu nhau trên mặt thế nầy là một điều rất vô lý và khổ não đáo để khi về cỏi hư linh.

 

Nước Pháp và khắp Aâu-châu họ hiểu cái triết lý cao trọng ấy của Đạo giáo. Chư Đạo-hữu đừng lấy lời Bần-Đạo vừa nói mà khi thị. Họ hiểu còn ta chưa, các chơn-linh chiến địa kia, ngày giờ nào qua đệ nhứt thiên, qua âm-quang cảnh, ân hận, than trách ôm nhau mà khóc lóc, vì về đến đó thì không còn thù địch nhau nữa, ở thế-gian nầy, mang xác thịt phàm phu nên lầm lạc. Thiên hạ có lẽ hiễu sự bí-mật Đạo giáo ấy, lầm lỗi biết ăn năn hối-hận, các chơn linh đồng hoá giọt máu bảo-tồn quốc thể của mình được cao kỳ về tinh-thần đạo-đức, còn hình thể tại thế gian nầy thì ái yêu cao trọng.

 

Sự công-bình tại thế-gian nầy là trồng cây thì hưởng trái chẳng có gì lạ. Nơi thế-gian thế nào thì trên cõi hư-linh cũng vậy. Các anh chi em, các con nữ phái, đừng tưởng chết là hết. Trồng cây còn được hưởng trái, nếu chết là hết thì sự công-bình thiêng-liêng té ra vô nghĩa lý lắm sao ? Họ được hưởng với tinh-thần cao-trọng hơn nữa, bằng chẳng vậy thì luật công-binh là vô hiêu-quả.

 

Đem giọt máu tinh-thần giống nầy hoà với giông kia thì hột giống ấy sẽ gây lại cho toàn nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy hưởng đặng hoa quả hạnh-phúc.

 

Đền Thánh đêm 30 tháng 9 năm Đinh-hợi (1947)

QUỐC ĐẠO

 

Thưa cùng chư Chức sắc Thiêng-phong, chư Chức-việc, mấy em, mấy con nam, nữ !

Ngày nay Đạo Cao-Đài đã đến khoản đường kết liễu danh-giá và hình tướng của nó, nên Bần-Đạo lấy đề hai chữ Quốc-Đạo  đem giảng-giải, Chí-Tôn ban-sơ thuyết-minh Đạo-lý hầu may ra những kẻ mơ-hồ tỉnh mộng đặng hiểu biết mình đến lập-trường nào, phương-sách nào, khoảng đường nào, ấy là điều rất hay về tâm-lý toàn cả Quốc-dân buổi nầy.

 

Hai chử Quốc-Đạo lần đầu, Chí Tôn viết ra làm cho Bần-Đạo mờ-mịt, củng vì hai chử Quốc-Đạo ấy mà Phạm-Công-Tắc chết năm 35 tuổi, thí thân theo đuổi làm cho ra thiệt tướng. Ôi! Hai chử  Quốc-Đạo là một  vật mà Bần-Đạo tiềm-tàng rồi mới hiểu, khởi điểm biết thương yêu nòi giống biết thương yêu tổ quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều khát khao từ buổi thanh-xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo, năm 35 tuổi, Bần-Đạo thấy sao mà phải khao-khát thèm-lạt, tại làm sao Chí-Tôn biết thiếu thốn nơi tinh-thần điều ấy mà cho Bần-Đạo, Bần-Đạo ban sơ nghi-hoặc, có lẽ  một đấng có quyền năng thiêng-liêng biết tâm-lý đang nồng-nàn ao-ước, đương thèm-lạt khao khát, đương tiềm-tàng mà đem ra cám-dỗ. Hại thay! Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần-đạo ăn năn quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy gì? Cả toàn thiên-hạ nói rằng nòi giống Việt-nam không có Đạo. Lạ lùng thay ! Chúng ta tự hỏi có thật vậy chăng ? Thật quả có chớ, có nhiều Đạo quá mà thành ra không Đạo, mượn Đạo, xin Đạo của thiên-ha mà thôi.

 

Ta thừa hiểu rằng nòi giống Việt-nam xuất-hiện ở hoang-địa bên Tàu, nên ta không ái-ngại nói Việt-nam nầy là sắc dân Tàu vậy. Nòi giống Tàu nhìn quả thật là dân Tàu mà thôi. Đất địa tổ-quốc ta không phải ở đây, ở Bắc Tam-tỉnh là Quảng-đông, Quảng-tây và Vân-nam kể luôn Đông-kinh (Tonkin) tức là Hà-nội và Hải-nam nữa, là tổ quán ta thì thiệt của ta đó vậy.

 

Bần-Đạo tìm hiểu Nho-phong ta đạt đặng hay là có trước. Chúng ta thấy nòi giống Việt-thường nầy là con cháu nước Lỗ, mà Nho-tông xuất-hiện cũng ở nước Lỗ nói rằng giống Lỗ lập Đạo Nho, chắc hẳn là Nho-tông chúng ta vi chủ. Nói vi chủ tức là của mình nếu có Đạo Nho sẵn trước thì ta có Đạo Nho, Đạo Lão, Đạo Phật ba nền Tôn-giáo mà mặt địa cầu nầy là trọng-yếu, bất kỳ là sắc dân nào, hay liệt quốc nào cũng đều nhìn nhận là do trong xứ Á-Đông nầy. Thêm nữa Thần-Đạo nguyên do ở Phù-tang, sắc dân vi chủ tức Nhựt-bổn đem truyền qua Trung-huê rồi qua xứ ta. Ta chịu ảnh-hưởng quyền-lực của của Thần-giáo từ đó. Nhờ có nó Nho-tông phát triển khác chánh-giáo hơn, lại biết tín-ngưỡng một cách đặc-biệt hơn Thần-giáo. Bằng cớ hiện hửu là ta đã thờ Thần trong các làng ngày nay đó vậy. Ngoài nữa tâm-lý tín-ngưỡng của nòi-giống Việt-nam  nhiệt-liệt và thật thà đối với bất kỳ Đạo-Giáo nào. Đến thế-kỷ 19, đạo Thánh-giáo Gia-Tô đem đến nước ta truyền-giáo mới thành một trường nhiệt-liệt tranh-đua quyết chinh-phục hết thảy các tôn-giáo khác. Bần-Đạo đã giảng rõ-ràng nguyên-do đó, thành-thử Việt-nam vì có nhiều Đạo quá thành không Đạo.

 

Có phen các bạn thân-ái tưởng đến tương-lai Quốc dân, lo phương binh-vực mở rộng tự-do thêm, tức có kẻ phản-đối đả-đảo lại. Bần-Đạo không nhớ ở Hạ Nghị-viện Pháp năm nào, những người binh-vực chúng ta bị đả-đảo, nước Việt-nam  không tinh-thần Đạo-Giáo nên khó lập chánh-giới lắm, vì không có căn-bản tinh-thần đạo-đức mà chúng ta không thể chối và chịu thiệt-thòi theo lời vu-cáo. Vì cớ, Bần-Đạo đau thảm, khổ não tinh-thần tìm hiểu coi sắc dân ta có Đạo hay chăng. Hại thay ! Ở trước mắt ta nào là bóng chàng, đồng cốt, ông chàng, ông địa, làm cho nhơ nhuốc cái tinh-thần Đạo-giáo. Bần-Đạo uất-ức. Ngày Chí-Tôn tình cờ đến, vì ham thi văn, nên ban sơ Diêu-Trì-Cung đến dụ bằng thi-văn tuyệt bút làm cho mê-mẫn tinh-thần. Hại thay !  Nếu chẳng phải là nhà thi-sĩ  ắt chưa bị bắt một cách dễ dàng như thế, vì ham văn-chương thi-phú nên Ngài ráng dạy. Chí-Tôn đến ban đầu làm bạn thân , về sau xưng thiệt danh Ngài, biểu Bần-Đạo phế đời theo Thầy lập Đạo. Khi ấy Bần-Đạo chưa tín ngưỡng, bởi lẽ nòi-giống nước Nam còn tín ngưỡng tạp nhạp lắm, không chưn đứng, không căn-bản, nói rõ là không tín-ngưỡng gì hết. Bần-Đạo mới trả-lời với Đức Chí-Tôn, ngày nay Bần-Đạo nghĩ lại rất nên sợ sệt. Nếu không phaỉ gặp  đặng Đấng Đại Từ-Bi thì tội tình biết chừng nào mà kể :

 

“Thưa Thầy, Thầy biểu con làm Lão-Tử hay Jésus con làm cũng không đặng, Thích-Ca con làm cũng không đặng, con chỉ làm đặng Phạm-Công-Tắc mà thôi, con lại nghĩ bất tài vô đạo-đức nầy quyết theo Thầy không bỏ, nhưng tưởng cũng chẳng ich chi cho Thầy”

Đấng ấy trả lời :

“Tắc ! Thảng Thầy lấy tánh đức Phạm-Công-Tắc mà lập giáo con mới nghĩ sao? “

Bần-Đạo liền trả lời:

“Nếu đặng vậy…”

Ngài liền nói:

“Thầy đến lập cho nước Việt-Nam nầy một nền Quốc-Đạo “.

Nghe xong Bần-Đạo từ đấy hình như phiêu-phiêu lên giữa không-trung, mơ-màng như giấc mộng. Được nghe nói cái điều  mà mjnhf thèm ước, nên Bần-Đạo không từ-chối đặng.

Ôi ! Quốc-Đạo là thế nào ? Quốc là nước, vậy nòi giống tín-ngưỡng lập Quốc-Đạo, Bần-Đạo theo tới cùng coi lập nó ra thế nào, hình-tướng nào cho biết. Vì đó mà lần mò theo đuổi đến ngày nay, thấy hiện-hửu cái hình-trạng là Đạo Cao-Đài rồi lại đoán xét coi nó biến hình Quốc-Đạo Việt-nam ra sao ? Ngài cho một bài thi dám chắc không ai thấu-đáo nỗi, người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi cái ngọn thì không thấy gốc, tứ văn thiệt-thà hay-ho cho tới khi các đảng-phái quốc sự ngày nay cũng là lợi-dụng.

 

  - “Từ đây nòi giống chẳng chia ba”:

   Tức-nhiên là không chia ba Đạo, chớ không phải chia ba kỳ à.

  -“Thầy hiệp các con lại một nhà” :

     Thầy nắm chủ quyền hiệp Tam-giáo, nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam,Trung, Bắc thì vô vị lắm.

   -“Nam, Bắc cùng rồi ra ngoai-quốc” :

Tức-nhiên nền chơn-giáo Quốc-Đạo không phải là của ta thôi, mà của toàn nhơn-loại là truyền-giáo Nam, Bắc thành tướng rồi ra ngoại-quốc tức là Tôn-giáo toàn-cầu vậy.

   - “Chủ quyền chơn-đạo một mình ta

 

Tam-giáo, Ngài vi chủ, năm châu tín-ngưỡng lại quy nhứt mà thôi. Nắm cả tín-ngưỡng của loài người, chính Chí-Tôn là Chúa-tể Càn Khôn Thế-giới, làm Chúa nền Chánh-giáo tại nước Nam, vi chủ tinh-thần loài người tức là đủ quyền-năng lập Quốc-Đạo. Ngài đến đem đại-nghiệp cho Quốc-dân nầy, hình thể lựa chọn ai? Chọn tạo-đoan vạn vật tức là Phật-Mẫu, trí não của Cha, hình-hài của Mẹ, cả thảy đều thấy hễ vô đại-điện Đức Đại Từ-Phụ , nào chức nầy, chức kia , mão cao áo rộng, còn vô diện thờ Phật-mẫu thì trắng hết, không ai hơn ai cả. Nếu hiểu-biết thấy bí-pháp Chí-Tôn cao-kỳ quá lẽ. Chí-Tôn nói rằng : Quốc-Đạo nầy Ngài quy-tụ tinh-thần đạo-đức trí-thức toàn nhân-loại cho đặc-biệt, có cao, có thấp, có hàng ngũ, có phẩm-giá, còn về phần xác-thịt của loài người, mạng sống trước mặt Ngài không ai hơn ai, cả thảy sống đồøng sống, chết đồng chết, đặng đem Quốc-Đạo làm môi-giới cả đại-đồng đặng tạo tạo đặng tạo tương-lai loài người cho có địa-vị oai-quyền cao-thượng. Nếu hiểu đặng thì Thánh-thể cũng vậy, Hội-Thánh, chư chức-sắc Thiên-phong nam nữ hay toàn thể tín-đồ cũng vậy, lãnh Thiên-mạng đảm-nhiệm trách-vụ thiêng-liêng Chí-Tôn phú-thác lập Giáo, tức-nhiên phải có phẩm giá, trật-tự đẳng-cấp . Nếu hiểu thêm ý của Ngài, khi cổi áo nầy ra khỏi Đại-Điện rồi hết thảy đồng là anh em, không ai hơn ai, không ai thua ai, không khinh, không trọng , đầy đủ lòng yêu-ái trong lòng Mẹ đem ra mà thôi, Nam, Nữ cũng thế. Ngày giờ nào nhơn-loại cả thế-giới ở mặt địa cầu nầy hiểu được lý-lẽ chí-hướng cao-thượng ấy là ngày Đạo Cao-Đài sẽ ra thiệt-tướng.

 

Đêm mồng 1 tháng 10 năm Đinh-hợi (1947)

CÁC CON ĐỐI VỚI PHẬT-MẪU

 

Bần-Đạo giảng tiếp bài đêm hồi hôm, vì có nhiều chị em không hiểu bài giảng đó cho rõ rệt. Để Bần-Đạo hỏi rồi mấy chị em trả lời cho trúng, cho hay nghe!

 

Chúng ta  đã có một  Bà Mẹ là Đức Phật-Mẫu cầm  quyền-năng tạo-đoan xác-thịt, hình-hài của ta. Chí-Tôn là Cha phần hồn, cho nhứt điểm Tính Phật-Mẫu là Mẹ của xác cho nhứt điểm Khí, Cha Mẹ hữu hình, vâng lịnh Phật-Mẫu tạo xác thịt hiện-hữu đây, còn quyền-năng thi-hài Đấng ấy làm chủ. Phật-Mẫu có tính-chất của Bà Mẹ,  Bần-Đạo xin làm chứng rằng : tánh-chất của Bà Mẹ hữu-hinh thế nào, thì tánh chất của Bà Mẹ là Phật-Mẫu cũng hiện y-nhiên như vậy, nhưng có phần yêu-ái hơn, binh-vực hơn.

 

Chúng ta khi vào Đại-điện của Chí-Tôn tức là Cửu-Trùng-Thiên đó, đứng trong hàng phẩm Cửu-Thiên Khai-Hoá có trật-tự phẩm-vị quyền-hành, hạng thứ nên phải mặc thiên-phục vào chầu, còn  vào Đền thờ Phật-Mẫu đều phải bạch-y tất cả, dầu cho Giáo-Tông hay Hộ-Pháp cũng phải cổi thiên-phục để ở ngoài, hỏi tại sao phải như vậy ? Lấy tánh-đức thường tình của một Bà Mẹ không có gì lạ, ta thấy vì trong một gia-đình kia dầu rân-rát, một người dầu quyền cao tước trọng, dầu làm quan-Toà, quan Tham-Biện hay Tể-Tướng đi nửa mà bước vào nhà còn làm Tể-Tướng thì Ba Mẹ lại không ưa lại thêm phiền luỵ, làm quan với ai kia, chớ về nhà làm Quan với gia đình à! Oai quyền với thiên hạ ở ngoài kia chớ ở đây không thể làm oai Quyền với Mẹ được, dầu bực nào cũng vậy vẫn là con mà thôi, mấy chi hiểu chưa? Bài học ấy dạy chúng ta hiểu gì? Triết lý cao siêu ấy, nếu chúng ta tìm hiểu thấu thì tương-lai Đạo Cao-Đài mới có vậy. Bần-Đạo đã nói: Thập Nhị-Thời-Quân, Thượng-Sanh, Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp gọi là Ngự-Mã-Quân của Chí Tôn. Phật-Mẫu sợ Chí Tôn tạo Đạo không nên phải tái kiếp, nên Bà phải cho theo xuống Thập-Nhị Thời-Quân, phẩm tước cao trọng thay, nhưng không có gì trước mắt Phật-Mẫu, tất cả con cái của Người vinh-hiển sang trọng đến đâu, Người càng rầu càng lo sợ, e sang trọng ắt tự kiêu, biết đâu không hại cho tương lai vô biên của họ vì quyền tước. Cả thảy lấy triết-lý ấy để răn minh. Còn bây giờ Bần-Đạo phải kết luận như sau đây: Về tới cửa của Mẹ rồi, coi như đồng sanh, đồng tử, cốt nhục tương thân, đừng để tâm khinh-trọng tôn-ti, làm mất khuôn-mẫu của Mẹ hằng mong ước, cả thảy nam nữ cũng vậy phẩm vị bên Cửu-Thiên Khai-Hoá không giống như ở đây, mấy em dầu có tâm thương mến ở bên kia cũng phải nhớ nơi bà Mẹ, ở sao cho xứng đáng là con đối với Mẹ, là anh em đối với anh em cốt nhục của mình chung một gia-đình, là phải Đạo.

 

Ngày 10 tháng10 năm Đinh-Hợi ( 1947 ) tại Hiệp-Thiên-Đài.

DẠY PHƯƠNG-PHÁP GIẢNG ĐẠO

 

Bài học văn-chương của Chí-Tôn (cours rhétorique) rất giản dị. Hành-tàng Pháp hay Việt, cũng chẳng khác nhau, nói nói hay viết cũng giống như một bài thi. Cách hành văn (tenue) chia ra từng đoạn;

Sujet đối với phá thừa.

Développment đối với trạng luận.

Dénouement đối với thúc.

Conclusion đối với kết.

Diễn văn phải giữ chặt niêm luật có mực thước như một bài viết, phải khép vào một khuôn luật nhứt định, nếu không nghẹt lối, không ngỏ ra. Trong các nền Tôn-Giáo, đó là sự rất trọng-hệ, như Đạo Gia-Tô ngày xưa mở ra, 12 vị Thánh-Tông-Đồ học ở trong nhà Bà Sainte Maria, nhờ có chơn linh giáng hạ giúp sức. Ngày kia Đức Chúa Jésus nói: Miệng của Ta, các Người phải đi truyền Tân-Ước (Nouveau Testament) 12 vị Tông-Đồ đều dốt, nhờ chơn-linh giáng-hạ nhập thể, hễ nhập thể thì phát huệ.

 

Lúc chưa biết đạo tôi cũng không tin điều ấy, đến lúc ở chùa Gò-kén trước mấy ngàn người tôi bước lên giảng đài đi qua đi lại đến 16 vòng mà hể ngước mặt lên thấy đầu người lố-nhố, sợ-hải không thuyết được. Kế phát sật-sừ như say rượu không còn thấy ai nữa hết. Say đáo-để, nói mà không biết nói những gì, chừng xuống đài thiên-hạ khen mới biết, may là trước tập nhiều rồi đó. Chí-Tôn dạy tôi và dạy anh Cao Thượng-Phẩm, hể người này thuyết thì người kia nghe, nhờ vậy, nhứt là nhờ anh Cao Thượng-Phẩm trêu-ngạo nên phải cố-gắng, vậy mà lúc lên đài còn quáng mắt.

 

Tôi buộc mấy anh em chị em, tập cho quen dạn, Đạo sau nầy muốm truyền ra thiên-hạ thì phải thuyết . Đó là vô tự kinh, viết sách truyền-bá không bằng thuyết-giảng, cần phải có niêm luật. Với ai thì sợ chớ với nòi giống Việt-nam mình đã có sẵn văn-hiến bốn ngàn năm làm bổn. Có ba môi-giới : Phú, Tỉ, Hứng;

 

- Phú là đọc thông sách vở đem nguyên-văn ra giải cho rõ nghĩa.

- Tỉ là lấy cổ soi kim dùng tích xưa giải hiện-tại.

- Hứng là đứng lên giảng đài rồi phát hứng chí mà nói.

 

Hậu-thuẩn cho ba môi giới nầy là : Kinh, Điển, Luật. Muốn phú phải thuộc Kinh mới Phú được. Tỉ thì phải lấy điển tích ra mà ví-dụ dặng so-sánh . Hứng không được ngoài khôn-luật, ngoài sự thật, không được nói bậy…nhớ ba chơn-tướng trước, ba hậu thuẩn sau. Một bài thi dủ cho mình thuyết-giáo rồi , với Chí-Tôn điều chi cũng không khó. Như là :

“ Yến-Tử-Hà xưa lúc vận cùng,

Còn mang dép rách đến Quang-Trung.

Nay con chưa rõ thông đường Đạo,

Cứ ngóng theo chơn Lão tháp tùng”.

Ngài dụ điển rồi lấy tích, như hai câu đầu hỏi tại sao Yến-Tử-Hà lại mang dép rách đến Quang-Trung ? Yến-Tử-Hà là tôi nước Hàn , nước Hàn mất đi tìm nơi cầu cứu hầu rửa nhục cho nước mình , Sở-Bá-Vương chê người Hàn không dùng, nên Yến phài lận-đận, nghèo khó phải mang dép rách đến Quan-trung tìm Hớn-Bái-Công. Hai câu sau các con cứ theo Thầy, con để bước của con lên dấu chơn Thầy thì không bao giờ lạc lối. Yến bị bạc-đãi, nước Hàn bị chiếm (Trương-Tử-Phòng là người Hàn cũng trong thời đó). Hỏi vậy, Chí-Tôn lấy tích gì ? Nước mình cũng mất như nước Hàn, Yến đi làm tôi cho Hớn đặng báo thù cho Hàn, Chí-Tôn muốn nói : Các con muốn báo thù nước thì làm như Yến vào Quang-Trung, muốn nước các con còn thì theo Thầy.

 

Thôi, thí-nghiệm thử xem, mấy anh em cho tôi một cái đề đi rồi tôi thuyết. Như bài thi :

“ Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,

  Giữa biển ai từng gặp Lão Tô.

Chuyên Phong-thần đừng tưởng viết ra là bịa đặt, Lão Tô là Tô-Đông-Pha, Ông Tổ của nòi giống Phù-tang, ai dè ngoài biển có Tô-Đông-Pha nghĩa là có sắc dân bên Phù-tang. Ai từng gặp mà gặp là có đa.

“Mượn thế đặng toan phương giác thế”,

Mượn thế, bày tàn ác vô đạo-đức đặng thức tỉnh cho bây.

“Cũng như mượn bút của chàng Hồ”

 

Ông  Đổng-Hồ, anh cầm viết, viết sử của Vương-Kiệt là đắc-thắng, thấy Vương-Kiệt bị hại mà không sợ, vào đó lãnh, cũng như Thầy hiện  giờ, đến đây nhơn loại đương tàn ác, mượn cái tàn ác đó dặng thức tỉnh chúng sanh, như Đổng-Hồ không sợ chết, thì Thầy sẽ thắng như ĐổngHồ vậy, đặng lập quyền cho các con cái của Ngài đặng thành tựu. Hồi đời đó có một người tướng tài của nhà Tần mà ngồi không, không chịu kháng-chiến, Đổng-HôÀ ghi: Tội thất quốc nầy là của anh chàn, hỏi tại sao ? Tại anh ngồi không, làm bại liệt tinh-thần tranh-đấu, nên tội ấy của anh gánh chịu đó. Bài nầy đầy đủ trong khuôn-luật.

 

Tại Tháp Đức Quyền Giáo-Tông

Hồi 8 giờ ngày 13 tháng 10 năm Đinh-hợi (1947)

ĐẠI-NGHIỆP TINH-THẦN CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG THƯỢNG-TRUNG-NHỰT

 

Ngày nay là ngày Kỷ niệm Đức Quyền Giáo-Tông Thương-Trung-Nhựt, ấy là ngày Bần-Đạo quả-quyết rất trọng hệ và quý hoá cho Cửu-Trùng-Đài.

 

Bần-Đạo quả-quyết nói với bằng-chứng hiển-nhiên là bạn đồng thuyền. Bần-Đạo biết rõ giá trị của Thượng-Trung-Nhựt là dường nào.

 

Tuy vân, ngôi vị Giáo-Tông Đạo Cao-Đài do Đức Lý cầm quyền gìn giữ Thánh-chất dung hoà nữa Thánh nữa Phàm còn toạ ngôi vị tại thế là Thượng-Trung Nhựt đó. Aáy vậy Thượng-Trung-Nhựt tạo ngôi vị Giáo-Tông cho Đạo Cao-Đài như ông Thánh Saint Pierre tạo ngôi Thánh-hoàng cho Pha-Pha tại Rome vậy.

 

Ôi ! buổi Chí-Tôn đến một cách đột ngột tình-cờ, đến trong thế-kỷ XX nầy mà nhơn-loại đang sống trong thảm-khổ từ thể-chất đến tinh-thần, Ngài xưng tên làm cho cả thảy nhân-loại ngạc-nhiên , nhứt là chúng tôi buổi nọ đang đi trong con đường thế tối-tăm, ngày ấy người niên-kỷ cao hơn hết là Thương-Trung-Nhật , chúng tôi hỏi người:

 

“ Eùt ce possible ? “(có thể có không ?).

Vì còn đang mơ hồ, chúng tôi chẳng khác chi ở trong địa huyệt đang tiềm-tàng con đường sáng, chúng tôi còn tối-tăm . May thay ! Người có duyên tiền-định đến dìu-dắt chúng tôi ra khỏi chốn địa huyệt âm-u, nhờ hai con mắt sáng của Người làm dẫn Đạo.

Khi chúng tôi hỏi :

“Eùt ce possible ?” (có thể như vậy chăng ?)

Người trả lời :

“C’ est bien possible” (có thể như vậy lắm .)

Bởi thiên-hạ đang khổ-thảm nên Đấng ấy đến không phải là lạ. Ta thấy trong gia-đình đau-khổ, mà ông cha chưa phải chết thì sự thương-yêu đối với con cái nồng nàn sẽ được ông cha ấy thể hiện. Ngưòi quả-quyết rằng :

“Đấng ấy đến buổi nầy là Chí-Tôn đó vậy.”

Nếu không phải Chí-Tôn không ai chịu nổi đau thảm được.

 

Vì thành-tâm nguyện vọng của Người cảm-xúc tới cỏi hư-linh làm cho Chí-Tôn và cả chư Thần Thánh Tiên Phật đều động lòng. May thay ! Chí-Tôn đến lập nền Chánh-Đạo cho chúng ta tại nước Việt-nam thì không có gì vinh-diệu cho giống nòi chúng ta hơn nữa.

 

Thảng sau nầy tôn-giáo Cao-Đài sẽ làm môi giới chuẩn thằng cho một nền văn-minh tối đại thì tôi quả-quyết rằng nền văn-minh ấy sản xuất ra do tâm-lý của Thượng-Trung-Nhựt mà chớ !  Ôi ! Bao nhiêu công nghiệp, chúng ta nghĩ lại đều nhớ buổi ban sơ đương lúc tâm-lý hoang-mang tranh-đấu sự sống còn, nhứt là tâm-lý nòi-giống Việt-nam đang mưu-đồ giải-thoát ách nô-lệ, ai còn tin khi ta nói ra những điều mà ai cũng cho là mơ-hồ, bởi cả tâm-lý còn hoang-mang. Đến các bạn đồng thuyền, đồng chung tâm-lý với Người có đủ trí thức hiểu biết chí hướng cao-thượng của Người mới theo Người, mà trong cảnh hoang-mang còn phản-phúc thay , huống chi quốc-dân Việt-nam . Ngài đã để đức tin quyết tạo nên hình thể Nền Đạo cho quốc-dân Việt-nam , thì chính quốc-dân trở lại nghịch thù , làm cho trọn một kiếp sanh của Người phải đau thảm đổ luỵ bao phen trước khi chết.

 

Bần-Đạo quả-quyết rằng : trót một đời người, chưa tìm ra một mặt biết thương nòi giống với một tâm-lý nồng-nàn như Thượng-Trung-Nhựt , Bần-Đạo chưa thấy được hai người như vậy, nếu chẳng vì tình yêu-ái vô hạn thì người chẳng hề huỷ thân danh tạo nên hình thể Đạo để lại cho Quốc-dâ, cái đại nghiệp tinh-thần nầy sâu xa chừng nào, Quốc-dân hưởng lâu chừng nấy, sâu xa chừng nào lại càng quý-hoá thêm nữa, càng ngày càng tăng-gia giá-trị và thiên-hạ sẽ biết tấm lòng yêu-ái của Thượng-Trung-Nhựt biến ra một quốc-hồn kiên-cố.

 

Cả thảy ai là Quốc-dân Việt-nam đều phải cúi đầu và vâng theo ý-chí cao-thượng ấy, không có một lưởi gươm nào tiêu-diệt dược sự-nghiệp của Người để lại cho nòi giông Việt-nam đó vậy.

 

Đền Thánh ngày 13 tháng 10 năm Đinh-hợi (1947)

Vía Đức Quyền Giáo-Tông

CỨU KHỔ VỀ XÁC THỊT

 

Bần-Đạo nhắc lại một lần nữa , khi hiến Tam-Bửu thì về chánh tế, khi nào đưa lên tức nhiên trình cho mình biết của Lễ ấy là ý-nghĩa gì, đặng cầu-nguyện hiến lễ cho Chí-Tôn, khi ấy đưa lên mình cúi đầu dưng vật báu ấy là Tam-bửu cho Thầy.

 

Bí-pháp rất trọng hệ : Bông là xác (thân hình) khi nào hiến bông tức là hiến cả thi-hài cho Chí-Tôn làm vật tế-lễ cho Ngài, Hiến rượu tức là hiến cả tinh-thần, trí-não của mình. Hiến trà là đem linh-hồn mình trọn dâng cho Chí-Tôn, chính mình là thi-hài con vật, mà vị chánh tế đưa lên thiên-đàn Chí-Tôn của Lễ.

 

Ngày hôm nay là ngày lễ kỷ-niệm của Đức Quyền Giáo-Tông là vị chức-sắc cao-trọng của chúng ta. Bần-Đạo giảng tiếp thêm hai chữ cứu khổ . Luôn dịp Bần-Đạo tỏ cho toàn Hội-Thánh tức là Thánh-thể của Đức Chí-Tôn và toàn con cái của Ngài biết rằng: Người là một chơn-linh cao trọng , mặc dù hình thể đã mất , nhưng khối thiên-lương ấy vẫn còn mãi mãi chẳng hề hư hủ bao giờ, Bần-Đạo nói: Chí-Tôn đến tình-cờ làm cho trí nảo Bần-Đạo phải bị ngạc-nhiên , rồi Bần Đạo kiếm hiểu trong đôi ba năm sau , mới rõ đặng hai chữ cứu khổ của Chí-Tôn.

 

Lạ thay ! Đức Cao Thượng-Phẩm và Đức Quyền Giáo-Tông biết nỗi lòng Chí-Tôn khi Người nói hai chữ cứu-khổ. Cứu là giúp, khỏi có ám nghĩa đủ năng-lực định quyền nhứt đoán. Khổ là đau-đớn , đau-đớn về tâm-hồn, đau đớn về hình-thể . Biết người rồi mới thương người được , mới có thể nắm quyền người tu nơi cửa Đạo, đặng độ rỗi nhơn-sanh và chính mình yêu-thương sẽ làm môi giới cho chúng ta yêu-thương toàn thiên-hạ.

 

Ôi ! hai chữ cứu-khổ, nghe hai tiếng ấy không kẻ nào đã chịu những nỗi thống-khổ,  đau đón về đạo-đức tinh-thần , làm ta khao khát tinh-thần việc chi trọng-yếu vậy. Chúng ta đương đói mà có người đem bát cơm lại cho ăn, nghe đến mùi vị nó thâm-thuý làm sao.

 

Ôi ! Hai chữ cứu-khổ , Đạo lấy hình-thể cho người đời trong Trời Nam dùng rồi tới thiên-hạ toàn-cầu nhơn-loại ngay người chưa biết tiến-hoá đến dặc-điểm văn-minh, vẫn còn trong vòng nô-lệ. Vậy sắc dân yếu hèn , vẫn còn dã-man , thô-kịch , dốt-nát là Việt-nam đã bị nạn , tỷ như người ta bắt ngưòi bán mọi buổi nọ . Bần-Đạo đã quan-sát cả lịch-sử loài người ở Á-Đông thấy như thế, mà Á-châu cũng thế, tự quyền-hành bán mọi là đặc sắc hơn hết của đế-quyền  Romain coi con người không có giá-trị bằng con vật , được trọn quyền sinh-sát mà người chủ đã mua mạng sống của kẻ tôi mọi coi kẻ ấy như con vật. Đến nay cường quyền Romain phải chịu huỷ bỏ việc làm tôi-đòi nô-bộc . Vậy tôi-mọi do nơi mua đặng kẻ khốn-khó về làm nô-lệ mà thôi , khi ấy Maurice đến  đứng lên đường đột đối đầu cùng Hoàng-đế Romain đặng giải thoát sự  đau thảm ấy, sau buổi đó họ coi Maurice dường như Đức Chí-Tôn đến giáng-the, đặng giải-thoát cứu khổ cho nhơn-sanh. Ở Á-Đông nhứt là Trung-Hoa chẳng phải nước đặc-sắc và trọn yêu thương, nhưng làm nhiều dân-tộc hiệp thành một nước Trung-Hoa. Nhờ buổi thượng-cổ thâu các sắc dân lạc-hậu làm nô-lệ . Dân-tộc ta chịu không nổi phải phản-đối để tìm phương giải-khổ cho nhau. Bây-giờ sự khổ nọ đã tràn vậy. Không lạ chi trước mắt ta đã thấy chúng biết rủ nhau , không làm gì đặng , thì đời phải chịu mai-một làm tôi-tớ cho cho người khác phải chịu nghèo hèn không sang-trọng được. Thế-tình chẳng lạ gì, hể tới chừng làm chi phi-thường thì có một mình độc chiết cô-quạnh không ai nâng đỡ.

 

Nhìn trong thế-gian nầy thấy những kẻ côi-cút đơn-cô bị áp-bức nên buồn, sự áp-bức ấy cột-trói vào vòng nô-lệ tinh-thần của họ, chừng ta ở trong vòng nô-lệ, mắt chúng ta đã chán thấy anh em ở chung một nhà, bạn tác với  nhau chung chia đau khổ, nghèo hèn có nhau mà còn bị đè nén bằng cách gián-tiếp, thế thường cũng chung là nô-lệ thì còn ai có quyền hơn về hình-thể lẫn tinh-thần.

 

Phật Thích-Ca có giải: sanh lão, bịnh, tử là bốn cái khổ của con người, mà cả hoàn cầu để cả trí não tinh-thần tìm phương trừ diệt sao cho được bốn cái khổ ấy. Tìm phương thế làm cho nhơn-sanh sống mỹ-mãn. Hết sanh rồi lão, chúng ta thấy các nơi văn minh càng ngày càng tiến tới nữa, thì lo lập các dưỡng-lão-đường. Các nước trên mặt địa-cầu nầy không quốc-gia nào không nuôi kẻ già. Đến bịnh ở một địa cầu nầy, hễ bao nhiêu người là bao nhiêu nhà-thương chuyên chủ trị an thiên-hạ, nếu làm ra không đắc lực thì làm cho nhơn sanh phiến-loạn. Đến tử, các  xã hôïi văn minh đang tìm phương cứu chữa làm cho cái chết con người không có thống-khổ quá lẽ và làm sao cho gia đình chủng-tộc qui tụ lại thành nước văn minh.

 

Thế nào làm giảm tứ-khổ đó? Duy chuyên-chú đặng cải sửa làm cho bớt khổ tinh-thần, ấy vậy khổ xác-thịt do đâu mà ra, là do nơi tại muốn sống cho hạnh-phúc hôn người, không có một mãnh-lực nào định phận mình nội công-tâm quyết-đoán. Bởi nhơn-sanh tự biết mình sang-trọng trên vạn-vật. Của-cải của Chí-Tôn để nơi thế nầy đảm-bảo sanh-mạng con-cái Người không đủ, nên có kẻ nghèo-hèn, người sang-trọng , kẻ ngu-tối , người minh-mẫn , có người cho là bất công , mà sự bất công đó do tại đâu ? do thiếu đạo-đức . Muốn trừ khổ ấy phải làm sao ? Hiện đương tại mặt địa-cầu nầy , các yếu nhơn đã làm gì đặng thâu tâm thiên-ha , định quyền chính-trị  ? duy có đem mãnh thương-tâm trải yêu thương cho đời xem thấy. Lấy tâm trung-chánh thương-yêu đặng cứu vớt dân-sanh , giao sanh-mang trong tay làm chủ, làm người điều-khiển đặng trị. Hỏi tâm ái-truất thương-sanh thiên-hạ ai dám chắc có, tôi xin đặt một dấu hỏi (?) phải nhiều gia-đình , nếu quyền-năng ấy có tâm-lý đủ đều xuất-hiện chơn-thật có thể gieo thương vào lòng dân-sanh toàn một nước, kêu gọi dân-sanh đối đãi hoà-ái cùng nhau chia sống với nhau. Nước nào may-mắn được người chủ quyền sáng-suốt đoạt đến mục-đích, thì quốc-dân ấy được hưởng vô-cùng hạnh-phúc gia-đình. Quốc-gia xã hội cũng vậy, chỉ biết mình không biết người, tương-tàn tương-sát nhau. Vì cớ Đạo Cao-Đài xuất hiện. Hỏi tại sao có Đạo Cao-Đài? Khi nào trong gia đình thống khổ, thì có ông cha chung chịu cùng các con để giải khổ cho con. Trong nước nếu nhơn-sanh khổ thì vị chủ quyền là Vua hay Giám-đốc đứng lên cầm quyền nhiếp-chánh tìm phương giải khổ cho nhơn-sanh.

 

            Hiện giờ đã qua quyền hạn quốc-gia xã-hội, đén vạn-quốc thì ai vì chủ đặng làm được phận-sự ấy? Vạn quốc đương thống-khổ ai có phận sự dùi-dắt họ ra khỏi cảnh khổ, nếu chẳng phải là Đức Chí-Tôn  chưa ai vì chủ mặt địa-cầu nầy được.

 

Aáy vậy, trong gia-đình thì người Cha chịu khổ với con, các Quốc-gia và cả toàn dân ở mặt địa-cầu nầy chưa ai chia khổ được. Chí-Tôn đến đặng kêu gào lòng yêu-ái của toàn nhơn-loại biết nhìn nhau là anh em, biết thương yêu nhau, binh-vực nuôi-nấng và tôn trọng nhau, đem hoà-ái gieo truyền vào tâm lý loài người mà nói rằng: “ Tao là Cha bây, đến đây làm cho bây biết tao, đặng bây biết bây, bao giờ anh em bây biết thương-yêu nhau, tức là ông cha bây giải khổ cho bây về phần hồn và phần xác đó vậy “.

 

Đền Thánh thời tý rằm tháng 10 năm Đinh-Hợi ( 1947 ).

CỨU KHỔ VỀ TINH-THẦN

 

Hôm qua Bần-Đạo đa giảng về phương-pháp cứu khổ của Chí-Tôn đem đến cho con cái của Ngài về hình thể tức nhiên về xác thịt.

 

Hôm nay Bần-Đạo tiếp, giảng phương pháp cứu-khổ của Chí-Tôn về tinh-thần, tức-nhiên về tâm-hồn.

Cái khổ tâm-hồn của loài người nó thốâng thiết            nặng nề, nguy hiểm nhiệt-liệt hơn cái khổ xác thịt muôn phần. Cái khổ tâm-hồn ta thấy nhiều người chụi không nổi phải chịu quyên-sinh, họ tưởng đau thảm của họ hễ diệt tiêu thi-hài là hết, nguyên-do quyên-sinh là vậy. Họ lầm ! Sự thống khổ tinh-thần hay tâm-hồn, dầu xác thịt nầy huỷ hoại, cũng không an-ủi được tâm-hồn vẫn đau thảm như thường. Quyên sinh họ tưởng khỏi việc đau khổ phần xác, trái lại sự đau khổ tinh-thần ấy vẫn sống mãi nơi Hư-Linh lại còn dữ-dội ghê-tợn hơn nữa.

 

Aáy vậy, sự đau thảm nơi thế nầy bao nhiêu, nếu không dùng an-ủi, nó sẽ cong khỗ não thêm gia bội lúc cõi trần. Tại sao có sự khỗ não tâm-hồn ? Loài người, chúng ta lấy hết khối tinh anh xét căn nguyên, do đâu mà xuất-hiện? Ta thấy trong đời, các bậc nhơn sanh vô-ngần đẳng cấp, nếu làm thống-kê định-phẩm giá thì con số vô cùng tận, bao nhiêu người, bao nhiêu tâm-lý, khác hẵn cùng nhau, tại sao? Nếu ta biết rõ chơn-lý của Đạo thì do địa-vị toạ-hoá các chơn-hồn, định phẩm hình thể mình chẳng phải sản xuất do quyết-định của mình mà do tiến-triển phẩm-vị tinh-thần trí-não nơi Chí-Tôn định-vị. Điều ấy không cần luận vì biết phần tâm-lý, trí-não mà hành-tàng, sanh-hoạt, mọi sự đều biệt phân, nên vì cớ mà Đạo pháp Chí-Tôn đã giãi rõ: Toàn cơ-quan thống khỗ cốt đễ làm bài học hay, đặng tinh-thần giục tiến tới nơi cao-trọng cuối cùng là làm Chí-Tôn trong vật-loại. Chúng ta không cần luận.

 

Phần xác ta thấy gì? Thấy dường như bất công hiển-nhiên trước mắt , nếu không biết Đạo thì chỉ-trích cơ Toạ-Đoan bất công là phải. Tại sao chúng ta thấy dưới thế nầy thì ai cũng là người như ai , sao có kẻ tài nưòi dở, kẻ trí người ngu , kẻ hiền người dữ . Cả thảy sự phân cách đặc-biệt tâm-lý cá nhân , ta thấy trường tranh-đấu sinh-hoạt tương-liên , tỷ như học trò đến trương cùng đồng bạn với nhau , thấy mình sao tối tăm ngu-muội , còn bạn mình sao sáng-láng thông-minh , ngu đến nỗi phải bỏ trường không học đặng nữa về làm tên dân hèn,  bạn mình khôn ngoan hơn , lập phẩm-vị cao-trọng làm quan-quyền cần vận mạng dân-chúng , sửa-trị phong-hoá ,làm lãnh-đạo cho đời , sao có sự phân-biệt lạ-lùng như thế ấy ? Học trò nào cũng quyết-tâm ráng học , mà học không nổi là do đâu ? Rán tranh, tranh không lại phải khổ tâm-hồn. Đó là một lý.

 

Còn lớn lên rồi trường đời chán mắt, nghề hay nghiệp giỏi tài tình đủ bảo-thủ gia-đình, với nghề hay khéo, kẻ khác kia thâu sự đắc lợi, sanh sống hạnh-phúc , muốn học làm theo mà học không nổi, bắt chước lại hư, là tại mình ngu-muội hơn mới vậy. Tức mình hổ-thẹn , phải đau-khổ tâm-hồn , người ta làm được  sao mình lai không, người lập danh-vị đời đủ mực quyên-hành, ta cả đời hiểu biết , có lẽ cũng như người , mà vẫn làm tôi-towscho người ra thân mai một. Uất-ức tinh-thần , người ta sao lại được thế mà mình như vầy ? Thấy hiển-nhiên trường đời bất-công, tức mình đó là khổ nảo tinh thần , tức là khổ não tâm-hồn đó vậy.

Lại nữa kẻ đi buôn kia cũng buôn như ai, với phương-pháp như họ, sao họ lai được nhiều lời, lập lầu-cát nguy-nga , vợ con đầy-đủ sang-trọng vinh-hoa , còn mình dấn thân làm con buôn thì lỗ-lã thất-bại tiêu-tan, tức mình quá sức tức-nhiên phải thống khổ tâm-hồn.

 

Mấy lẽ bất-công ấy thiên-hạ tìm phương thuốc , có người theo huyền-vi mà tìm mãi, kiếm mãi , chờ có người đủ phương cứu-khổ tâm-hồn mà cũng tìm chưa  gặp đặng . Mang xác thịt phải chịu một phen thống-khổ , đàu-óc tinh-toán, tại sao mình tài-tình hoạt-đông có hơn thiên-hạ , làm thì thất-bại , tục gọi  không thời buồn-bực tức-tối đủ thứ, rồi đành an-ủi lấy mình bằng câu : “tài mạng tương đố ” mà thật ra không biết quyền-ăng do đâu mình phải chịu thống-khổ như thế.

 

Các sự thống-khổ Bần-Đạo luận từ nảy đến giờ, thiên-hạ tìm thuốc cứu-khổ, chạy mãi không tìm đặng cho nên không một người nào sống ở đời được thoả-mãn . Kẻ hèn, người sang, kẻ trí người ngu , thất công tìm phương an-ủi . Nhuwhai vợ chồng anh nhà nghèo kia , thấy thiên-hạ giàu , mình nghèo, mảnh áo chưa lành , ăn bửa mơi lo buổi chiều, đau-khổ, không hiểu duyên-cớ nào người ta sang trọng , hêtsuwcs khóc than rồi cungxtuwj mình an-ủi lấy nhau , ngồi ngâm-nga hát ru tâm-hồn :

 

“ Người ta giàu cái quần cũng đũi, cái áo cũng đũi,

   Đôi đứa mình nghèo đốt củi đốt than.

               Nghèo hèn xin bậu chớ than.

   Rảnh đồng công mối nợ, anh mua lụa hang may cho “

 

Hát như vậy rồi có lẽ vợ bớt khóc . mà anh ta cũng buồn cười.

Còn trí Khổng-Minh, hồi đốt Tư-Mã-Ý đặng bảo-thủ cơ-nghiệp của Lưu-Bị sợ có ngay sẽ vào tay Tư-Mã-Ý . Đốt nũa chừng trời mưa tắt lửa, cứu Tư-Mã-Ý khỏi chết. Tức quá không biết an-ủi làm sao , ngước mặt lên trời than : Mưu sự tại nhơn, thành sự tại thiên , nhơn nguyện như thử, như thử !!! thiên-lý vị nhiên, vị nhiên !!! nếu không an-ủi như vậy ắt ông phải điên lên mà chớ !!!

 

Ông Hồ-Địch thấy Nhạc-Phi bị Tần-Cối giết một cách tàn-nhẫn  vì tại ngu trung , nghe Phiên đem binh phạt Tống , ngồi xem kết-quả bên nào ăn thua , nhứt là đợi cho quả báo nhà Tống , nhưng Trời định Tống không thua , Phiên phải thối binh về nước , tức mình than rằng : “ Thiên địa hửu tư, thần minh bất công “đó là an ủi một cách hung-bạo.

 

Ngày  giờ nào nhơn-sanh tìm phương an ủi cho bớt thống-khổ, phương an-ủi tìm cũng đáo-để như tìm gió theo mây. chạy đến gỏ cửa Khổng Phu-tử :

- “Ông có thuốc gì an-ủi nỗi thống-khổ  tâm-hồn của tôi chăng ? ”

Thì Khổng-Tử trả lời :

- “ Phương chuyển thế không cùng , dầu đạt được bí-pháp trung-dung, cũng chưa thoả mãn”.

Sang gỏ cửa Phật Thích-Ca :

- “Phật có thuốc gì chữa nổi thống-khổ tâm-hồn tôi chăng ? ”

 

            Phật đem chơn-lý tứ-khổ truwocs mắt là sinh, lão, bịnh , tử , ấy là chơn-lý . Người mới tự xét : Tôi không muốn sanh , mà ai sanh ra tôi chi để tôi chịu khổ thế nầy. Sống tôi tôi không muốn sống , vì sống là gốc sản-xuất tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của tôi mà ai làm cho tôi khổ, cũng không thoả mãn tâm-hồn. Tìm nơi Phâït không thấy đặng gì. Đến gỏ cửa Lão-Tử :

 

- “ Bạch Ngài ! Có món thuốc gì an-ủi tâm-hồn tôi chăng ? “

- “ Bảo cứ gìn-giữ đạo-đức làm căn-bản, thoát mình ra khỏi thúc-phược của thế-tình, lên non phủi kiếp oan-khiên , nơi tiạch-mịch u-nhàn thân tự-tại, nếu không thêù thì đừng mơ mộng gì thoát khổ được”.

            Nghe lời lên núi ở mà ngặt nỗi hễ mỗi lần đem gạo lên ăn thì khó nhọc trần-ai khổ-nhộng. Đói tuột xuống, thất chí nữa, thành phương an-ủi cũng ăn trớt. Rồi đến gỏ cửa Chúa Jésus de Nazareth hỏi:

- “Đấng Cứu thế có phương thuốc nào trị thống-khổ tâm-hồn tôi chăng ?”

            Trả lời:

- “ Nếu các ngươi quả quyết nhìn nhận mình là con cái Đức Chúa Trời , tức là Đức Chí-Tôn làm như Người làm, mới mong an ủi tâm-hồn được ”.

 

 Trong khuôn-khổ phương-pháp làm con-cái của Chí-Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm không được , cũng như tuồng hát viết hay mà không có kép tài đặng hát.

 

Cả thảy không chối : Cũng có kẻ an-ủi được nhờ đức-tin vững-vàng , còn phần nhiều ngược dòng đạo-lý khác, không ở trong lòng Chí-Tôn một chút nào tất cả. Thất chí nữa nên hết thế tìm ai.

 

Bây giờ Chí-Tôn làm phương nào trong thế-kỷ XX nầy đặng an-ủi tâm hồn nhơn-loại , Ngài đến cùng con cái của Ngài  quả-quyết rằng : Nếu các con-cái của Ngài tức là Thánh-thể của Ngài lập Đạo không thành, thì Ngài phải tái-kiếp. Trọng hệ gì dữ vậy ? Ngài đến thế lập Đạo , từ tạo thiên lập địa không cơ-quan nào rời khỏi tay Ngài, Ngự-Mã-Quân tái kiếp lập Đạo thay thế cho Ngài. Tại sao vậy ? Nói thật, không ai có quyền-năng nào hơn  mẹ ru con, không ai có quyên-năng bằng cha yêu-ái, khi con đau-đớn, con đương khóc, mẹ bồng thì liền nín, còn cha hôn một cái, hết thảm hết buồn.

 

Chí-Tôn sai các Vị Giáo-Chủ đại-diện Ngài đến lập Đạo do danh thể Ngài, vâng mạng-lịnh nơi Ngài, đến thay thế giáo-hoá con cái Ngài . Chưa vị nào an-ủi được sự đau thảm cho trọn vẹn cái khổ của đời . Khối đau thảm ấy từ buổi có loài người chất chồng vô số kể .

 

 Ngài đến bồng nhơn-loại trong tay, ru rằng : Khối đau khổ tâm-hồn của các con là tại các con đào-tạo ra chớ không phải của Thầy, khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải-khổ không gì khác hơn đập đổ các đẳng cấp tâm-hồn, thông-nhất nhân-loại,  nhìn nhau là anh em  đồng máu thịt, cùng một căn-bản cội nguồn, hầu chia vui sớt nhọc, biết tôn-trọng nhau, kẻ trên không ép chế người dưới , trí không hiếp ngu, hèn sang không phân-biệt, mực thước tâm-hồn nhân-loại phải đồng phẩm-giá, đồng quyền-năng.

 

Ngày giờ nào, nhơn-loại biết tôn-trọng nhau , dầu sang hèn nhìn nhau là anh em cốt nhục, ngày ấy phương giải-khổ không khó. Các con nghe Thầy mà làm y lời Thầy thì khổ ấy tự tiêu-diệt. Nếu các con còn đau thảm, thì đấm ngực nói: ”Khổ nầy do các con tạo ra, không phải do Thầy định tội đa nghe !!!”.

 

Thầy đến chỉnh đốn tâm-lý loài người , tránh tranh-đấu , tiêu-diệt lẫn nhau, thì không còn hổn loạn với nhau , thì tứ-nhiên diệt khổ chớ có chi đâu lạ.

Cơ-quan giải khổ tâm-hồn của Ngài là đó.

 

Đền-Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm Đinh-hợi (1947) 

THUYẾT ĐẠI-ĐỒNG

 

Ngày nay Bần-Đạo giảng về đại-đồng . Trước khi giải thuyết ấy, Bần-Đạo xin giảng thuyết duy-tâm và duy-vật. Nếu không thấu hiểu hai thuyết ấy, thì không hiểu thuyết đại-đồng. Bần-Đạo đã giảng về Tam-Bửu tức là ba cơ-quan tạo nên con người: Một  là Tinh, hai là Khí. Ba là thần.

  • Tinh là gì ? Tinh là con người hửu-hình tức là xác thịt ta.

  • Khí là gì ? Khí là trí não của chúng ta.

  • Thần là gì ? thần là linh-hồn của chúng ta, Đức Chí-Tôn gọi là chơn-linh.

Ba mốn báu ấy tương-liên với nhau, bởi vì mỗi Bửu có Thể-pháp riêng, mà ba xác ấy hiệp lại mới tạo thành hình-ảnh con người.

 

Bây giờ phân ra : Tinh là Vật, tức nhiên là con vật là thú, như các con thú khác, nghĩa là hình xác đứng về hàng phẩm thú. Khí là trí-não ta. Thần là chơn-linh sản xuất nơi Chí-Tôn. Ba cơ-quan tương-liên nhau, có khi làm trung-gian. Khí là trí-não ta, nó đáo đến địa giới hiệp cùng chơn-linh cho huệ trí. Trái lại, nếu nó không tương liên với linh-hồn đặng thì nó lại tương-liên với xác thịt, nghĩa là nhập vào giác tánh của con người. Giác tánh là gì? Giác tánh là trí não thô-sơ, nó chỉ biết sống như con vật. Tỉ như con thú kia mới sanh ra chưa biết gì mà đã tìm vú mẹ, đặng bảo trọng sanh mạng của mình . Luật bảo-sanh biểu nó tìm bao-nhiêu đó để sống mà thôi. Ba món báu ấy tương-liên với cả càn-khôn vũ-trụ, Thần tương-liên với Phật tức là Chí-Tôn, Khí tương-liên với Pháp, còn Tinh tương-liên với Tăng tức là với vật loại.

 

Aáy vậy duy-vật là xu-hướng theo Tinh, còn duy-tâm tức là thuyết hửu-thần tương-quan với Phật là Chí-Tôn . Bình thường các tôn-giáo, đặt ra tên nầy, danh nọ đủ thứ, chí lý là tìm Đấng tạo sanh vạn-vật , lấy hình của  Người mà tạo ra linh-quang của loài người tức là cha linh-quang của chúng ta, hay là Cha của vạn loại đó vậy . Bởi vậy, các Tôn-giáo , nhứt là Thiên-Chúa-giáo nói : Con người là Thiên-thần bị hảm tu,ø bởi chơn-linh của chúng ta với Thiên-thần đồng chất với Chí-Tôn . Mang lấy xác thịt nầy tức là ở trong cái khám vật-loại. Còn Phật-giáo cho ta hiểu ba ba báu ấy chẳng khác nào như người cỡi ngự với con ngựa . Con ngựa ấy là con kỵ vật tức là Tinh, Pháp là dây cương con ngựa , mà trọng-yếu hơn hết là đồ bắt kế con ngụa là hàm thiết , chưn-đưng kềm con ngựa chạy ngay con đường mình muốn tức là Tinh.  Người cỡi ngựa là chơn-linh ta , nghĩa là Thần , Thần là hình ảnh của Chí-Tôn tạo cho ta, vì cớ con người có cao-vọng chưa đạt được thì cao-trọng , chưa đắc huệ-trí mà tưởng mình là Ông Trời con, nên luôn luôn muốn làm Ông Trời hơn, hết. Tại sao vậy? Có khó gì đâu mà không hiểu: Đứa học trò ngồi trong lớp thấy ông quan vô , có kỉnh sợ chi đâu , mà tự nói thầm rằng : ông làm quan được  trước, tôi cũng làm quan được, trừ khi nào ném sách vở ra chăn trâu , thì mới hết phương làm được.

 

Chơn-linh biết mình muốn tu hầu làm Thần, Thánh, Tiên, Phật cũng có thể làm băng được Chí-Tôn mà chớ, bởi vì phẩm-vị Ngài đã dành để sẵn cho các con cái Ngài, nếu ngưòi làm được như Ngài vậy. Bởi vậy dầu chưa làm được ra gì, đã biết mình  là Trời tại thế. Có câu chuyện tức cười, bằng cớ hiển-nhiên như Đức Trạng-Trình là Nguyễn-Bỉnh-Khiêm buổi nọ hồi còn bé đi học, có Quan Huyện đến xét trường hay thăm trường chi đó, nghe noi Ngài nổi danh thần-đồng , khi thấy Ngài nhỏ người, thân không cao lớn hơn ai, lại bận áo rộng xùng xình, vì bận bính của ai đó, lết-bết dưới đất tức cười lắm nên ghẹo chơi. Ông Huyện ra một câu đối như vầy : Học-trò là học trò con, quần áo lon-xon là con học-trò. Ngài liền ứng thinh trả lời liền : Ông Huyện là Ông Huyện thằng, ăn nói lằng-xằng là thằng Ông Huyện. Ngài nói liền, thiên-tứ nhứt-định không chịu thua.

 

Aáy vậy duy-tâm thì sản-xuất thiên-tài, duy-vật thì sản xuất nhơn-tài. Để rồi sau Bần-Đạo sẽ thuyết ra thiên-tài và nhơn-tài một lần đặc-biệt . Nãy giờ Bần-Đạo đã mở đề cho hiểu xin nên nhớ và nghe giảng tiếp thuyết đại-đồng. Đại-đồng là hiệp một vật loại . Vậy đại-đồng tiến-hoá do căn-bản nơi đâu mà có ? Dám chắc hỏi Đại-đồng là gì ? Không ai giải-nghĩa được . Đại-đồng là đồng sanh tức-nhiên là chúng sanh đó vậy. Ai đã đồng sanh với ta là bạn là anh em của ta . Bởi các vật hửu-hình thọ quyền-năng vô-tận vô-biên của Chí-Tôn, đến thế-gian với một mạng sanh, tức là đồng-sanh dầu vật loại , côn-trùng, thảo-mộc, thú-cầm hiệp với loài người là chúng-sanh, tức nhiên là bạn đồng-sanh cả thảy , hể đồng-sanh ta phải nhìn nhau là anh em trong lòng Chí-Tôn mà sản-xuất, vì nhà Phật cấm chúng ta không đặng sát hại sanh-vật, vì là bạn đồng-sanh của chúng ta.

 

Vậy hai chữ Đại-đồng là gì ? Thật ý-nghĩa bạn đồâng-sanh, nhìn nhau hiệp một trong nguyên-căn gọi là Đại-đồng. Hỏi thuyết đại-đồng ngày nay xuất-hiện là tại sao?  Chúng ta đoán dễ lắm. Cung-kỉnh, tôn-trọng, quý-hoá mạng sanh vạn-loại, loài người đứng phẩm tối cao tối trọng , thay thế hình ảnh Chí-Tôn  có quyền-hành làm Chúa Đại-đồng. Loài ngưòi bị tàn-ác, chẳng những sát hai vạn-linh mà thôi , lại chém giết tranh ăn, tranh sống, lấy cường-lực đàn-áp làm căn-bản, dùng bạo tàn làm chúa thiên-ha. Cái thuyết duy-vật là trong khuôn-luật vật-hình nhứt-định, còn thuyết-duy-tâm chỉ có khuôn khổ thiên-nhiên , theo thuyết duy-vật nào là các cường-quốc trên khắp đị-cầu  tìm đủ phương-châm  luật-pháp, làm cho thiên-hạ hoá ra đại-đồng ấy là điều mơ-màng , vì không hề đạt vọng được . Chưa ai hiểu đặng một người tài-tình quán-chúng , trí-não cao sâu phải hạ mình làm người ngu dốt, Chưa có quyền-năng nào mà đem một đứa ngu dốt lên làm ông Tể-tướng triều-đình , Hàng-phẩm căn-mạng đều do Chí-Tôn sở định . Đã biết không ai ép buộc được , không khuôn luật nào biểu một vị đại văn-sĩ ăn mày ngoài chợ được.

 

Hể không có hình luật nào làm được , sửa được , thì thuyết đại-đồng thiên-hạ không thành tựu. Thuyết ấy kết liễu được là khi nào lấy thuyết hửu thần duy-tâm làm môi giới chung trong sự yêu-ái tôn-trọng nhau trong tình anh em đồng một căn-bản, một máu thịt, một chủng-tộc.   Vì cớ các đấng giáng cơ bên Aâu-châu nói : Loài người sẽ đạt đén địa-vị tối-cao tối-trọng mà họ muốn đạt, là loài người sẽ có nòi-giống một quốc-gia , một Tôn-giáo, ngày giờ nào loài người đạt được ba điều ấy thì thế-giới đại-đồng kết-liễu thành tướng. Chí-Tôn đến với loài người , Ngự-Mã-quân của Ngài sợ-sệt Ngài xuống trần phải nguy-hiểm . Ngài đến tạo cho loài người một quốc-gia, một nòi-giống, một Tôn-giáo. Nhưng Ngự-Mã-Quân của Ngài không muốn cho Ngài đến, nên thay Ngài đến làm cho ba điều ấy thành tựu nên hình. Nếu ba điều ấy không thành , thì đại-đồng thế-giới là thuyết vẫn còn trong vòng mơ-mộng.

 

Đền-Thánh đêm 14 tháng 11 năm Đinh-hợi (1947)

SỰ-TÍCH ĐỨC JÉSUS GIÁNG-SINH

 

Ngày hôm nay chúng ta tính từ ngày đã đúng 1947 năm của Chúa Cứu Thế, tức là Đức Chúa Jésus Christ ở làng Nazareth xứ Palestine vâng mạng-lịnh  Đức Chúa Trời , tức là Đức Chí-Tôn, đến độ rỗi các sắc dân Aâu-châu. Chúng ta quan-sát và chinh Bần-Đạo quan-sát thấy chơn-truyền của Đạo Thánh Gia-Tô vẫn đồng căn, đồng bổn với Đạo Phật, ấy là Phật-giáo hạ-thừa , không có chi khác, dầu bí-pháp chơn-truyền hay thể pháp cũng y như vậy.

 

Thảng từ thử đến giờ , có thuyết chia rẽ tinh-thần, là tại nơi người phàm, đem thuyết ấy để trong sự tin-tưởng của sắc dân Aâu-châu, nên mới có sự chia rẽ nòi-giống. Vì nạn ấy mà chúng ta ngày nay thấy trên mặt toàn cầu nòi-giống chịu nạn tương-tàn, tương-sát nhau.

 

Bần-Đạo xin thuyết cái nguyên-căn của Đức Chúa Jésus Christ là gì ?

Thỉnh-thoảng rồi Bần-Đạo sẽ đem nguyên-căn của Thánh-giáo Gia-Tô thuyết-minh ra cho cả thảy nam nữ đều rõ biết.

 

Đức Chúa Jésus là ai ? Nếu chúng ta thấy chơn-truyền của dân-tộc Hébreux tức dân Do-Thái bây giờ để lại , theo luật pháp của Thánh Moise đã tiên-tri nói về Đấng Cứu-Thế giáng-sanh , nếu chung ta tìm tòi, lật từ tờ trong Kinh Thánh Gia-Tô chẳng hề thấy tên Christ và chẳng có tên Christ nơi cỏi thiêng-liêng. Bần-Đạo dám chắc Đức Chúa Jésus Christ là chơn-linh Christna là Tam Thế-Tôn đó vậy.

 

Đức Phật Christna không phải xa lạ với chúng ta, bởi vậy cho nên dã đến mà lại đến với chức-trách nhỏ-nhen , hạ mình hèn-hạ ấy hầu đem tâm-hồn Chí-Thanh của Ngài thức-tỉnh các sắc dân Aâu-châu . Ngài đến nơi một nhà bần hèn. Bần-Đạo xin nói rằng : Ngài đến nhà của bà Maria cốt yếu là là một bà tu trong Đền-Thánh Jérusalem , ông Joseph cũng người tu trong Đền Thánh.. Luật-lệ của Đền-Thánh buộc hễ con gái đến tuổi cập-kê cho ra xuất giá. Năm ấy cô Maria tức là một cô Đạo nữ , chúng ta nói là một ni-cô ở Đền Jérusalem, đến tuổi lấy chồng. Phép Đền-Thánh buộc mấy Thầy tu trong đền thờ phải có người đứng ra cưới, bởi vì chiếu theo lời Chí-Tôn căn-dặn nhủ lời Ngài nói với Adam và Eve buổi nọ (Unissez vous et multipliez) bây phải chung sống cùng nhau đặng biến sanh ra nhiều nữa.

 

Lễ tuyển chọn chồng cho bà Maria, theo luật Đền Thánh buộc mỗi vị nam lựa bông để trong Đền-Thánh 3 ngày, nếu bông ấy còn tươi-tắng thì được cưới.

 

Hại thay ! Có nhiều kẻ trẻ trung, còn ông Joseph buổi nọ đã quá 50 tuổi, cũng chịu theo luật cưới ấy. Nếu chúng ta nói đến hoa-khôi lịch-sắc thì bà Maria cũng có thể vào hạng đó. Mới tới tuổi cập-kê mà sắc đẹp ấy làm biết bao nhiêu kẻ nam-nhi ước-vọng. Ông Joseph cũng như mọi người đem bông hoa đến Đền Thờ chịu trách-nhiệm tuyển chọn ấy . Người tìm bông hoa nầy, bông hoa kia, còn ông , ông nghĩ mình đã già rồi , vợ con mà làm chi, nhưng luật Hội-Thánh buộc không làm ắt có hình-phạt , hoặc quỳ hương chẳng hạn (cười…). Bước ra ra khỏi Đền-Thánh , Ông thấy bông huệ khô héo của ai bỏ, ông lượm lấy đem cặm vào bình , không ngờ thứ huệ rất nên kỳ lạ , những bông nụ nở rồi nó rụng đi , còn bông búp bắt hơi nước sống lại , nở tươi đẹp, còn các thứ hoa khác tàn rụi hết, ông phải chịu phép cưới cô Maria.

 

Hại thay ! Nhà tu nếu làm làm lễ cưới rồi phải ra khỏi Đền-Thánh, mà đôi vợ chồng ông đều tu không gia-đình, không nhà cửa, không phương sanh sống, thật rất nên thê-thảm.

 

May thay ! Lúc còn ở trong Đền-Thánh, ông Joseph làm thợ mộc, ông giỏi nghề mộc lắm . Ông mới bàn tính , bây giờ vợ chồng nghèo dắt nhau ra ngoài làm ăn, chồng làm thợ mộc , vợ may vá , mà bà Maria về nữ công rất hay khéo nghề đan (tricoter) , nhờ vậy tìm sự sanh sống cũng tạm được đầy đủ.

 

Thảng mãn ngày qua tháng lại, hạ sanh con đầu lòng là Jesus. Hai vợ chồng nuôi con với phương-tiện nghèo khổ, nhứt là ngày hôm nay là ngày sanh của Đức Jésus Christ còn để lại dấu-tích cho chúng ta thật đáng để ý hơn hết. Đêm Noel trong Đền-Thánh làm lễ long-trọng như chúng ta làm lễ hôm nay, và hai vợ chồng đi lại từ làng Nazareth vô Đền-Thánh làm lễ. Khi đó bà đã có thai gần ngày sanh, nghĩ mình đã có căn tu, đến ngày đại-lễ không thể ở nhà được m bụng mang dạ chửa, cũng ráng đi đến chầu lễ thường lệ.

 Ở Châu-thành nhà cửa bị thiên-hạ mướn chật hết, kiếm không ra chỗ ngủ , không lẽ ở ngoài trời, mới vô năn-nỉ chúng cho ở trong chuồng chiên tạm trú, Trời đang tiết Đông-thiên ,như ngày nay chúng ta nghe cũng hơi lạnh, lạnh-lẽo lạ-lùng nhứt là với hai người tâm Đạo nay vô ngủ trong chuồng chiên rất khổ sớ. Đúng 12 giờ khuya đêm hôm ấy bà chuyển bụng sanh ra Đức Chúa Jéssus Christ.

 

Trong sách nói, ngày Chúa giáng sanh có vì sao gọi là sao chuổi mọc không gì khác lạ, đó là Comete de Halley,  mỗi 75 năm mọc trở lại một lần. Các vị Vương tiên-tri rằng “ngày nào sao chuổi ấy mọc là ngay Chúa giáng-sanh nên nhớ để dạ tìm Người” . Có nhiều huyền-diệu ta không thể tưởng tượng được như đám chăn chiên đóng trại ngoài trời , bổng nghe giữa thinh-không có nhiều Thiên-Thần kêu nói có Chúa Cứu-Thế giáng sanh, nên vua của dân Maures và các người chăn chiên ấy vô đảnh lễ Chúa đầu tiên hơn hết.  Tai hại thay ! Thời buổi đó nước của dân Juifs bị đế-quốc Romains chiếm làm thuộc-địa, ở Palestine thì để một vị chánh-soái là Hérode Antivas hằng để tâm mưu sát Đấng Chúa Cứu-Thế, vì có tiên-tri nói đến làm Vua nước Do-Thái, nên ngay từ buổi đến trấn-nhậm Palestine, chính Hérode đã giết ông Thánh Jean Baptiste.

 

Buổi ấy các nhà Tiên-tri cho biết Đức Chúa Cứu-Thế sanh ngày đó mà không biết Đấng Chúa Cứu-Thế là ai ? Muồn giết, mà không biết ở đâu  ? Nên bắt tất cả con nít sanh trong đêm ấy đem ra giết hết, đinh-ninh rằng trong đám đó có lẽ có Đấng Chúa Cứu-Thế. Ai dè may thay ! Ông Josph đêm mệt mỏi nằm mông thấy Thiên-Thần mách bảo, liền bồng đứa tre trốn qua Egypte. Hai vợ chồng đáo tẩu kịp chớ không thì Chúa cũng bị giết rồi..

 

Qua Egypte một thời-gian , đúa con lên được 5,6 tuổi, nghe tin bên nước minh đặng yên  và có lịnh thiêng-liêng truyền dạy hai vợ chồng trở lại Palestine , chồng làm thợ mộc theo nghề củ, vợ may vá nuôi con, lại sanh thêm ba, bốn người con trai, gái nữa, thành thử cách sống rất nghèo-hèn khổ-não, từ cái đường sông Jourdain Đức Chúa để bước đội nước mỗi ngày giúp mẹ cùng kiếm công một hai cắc.

 

Buổi nọ là lúc đã trộng rồi , được 12, 13 tuổi, theo cha học làm thợ mộc, ông chỉ đâu làm đó. Khi đó ông Joseph lãnh làm nhà của người ta, rủi cưa cắt làm sao mấy cây cột lỡ cụt hết, người chủ bắt đền  không biết liệu làm sao !!! Nhà nghèo tiền đâu mua cột khác đặng bồi thường. Ông ngồi khóc ròng, đoạn Chúa mới cầu-nguyện rồi cha một đầu con một đầu nắm kéo nhẵng ra cho đủ thước đặng bồi thường cho đủ, bằng không thì chỉ có ở đợ mà trừ. Thiệt lạ lùng thay và huyền-diệu thay đó là Đấng Christ hành-pháp lạ lần thứ nhất.

 

Trong năm 12 tuổi là năm kéo cột đó, Jésus vô Đền Thờ buổi nọ chơn-linh Đức Christna giáng-hạ, các vị Giáo-chủ trong Đạo toàn là những Bác-sĩ nghe tiếng đồn danh thần-đồng của Chúa Jésus nên khi vô Đền Thờ, họ xúm nhau lai vấn đạo, Đức Christna giáng-linh , ngồi giữa các vị Giáo-chủ ấy, thuyết đạo làm cho thiên-hạ ngạc nhiên sự lạ.

 

Hai vợ chông buổi nọ đi chầu lễ Sabat vô Đền-Thánh cúng rồi về, dòm lại Đức Chúa đâu mất, hỏi ai nấy có thấy Jésus không ? Hai ông bà tìm kiếm mãi cũng không thấy con, sợ-sệt, hơ-hải chạy trở lại đền thờ , thấy Jésus ngồi giữa các Bác-sĩ Giáo-chủ đó ngồi chung quanh đương vấn Đạo.

 

Bữa nọ tình cờ, tuy  vẫn lúc còn ở trong Đền-Thánh, Bà có được tin truyền rằng : Bà sẽ cho loài người nơi mặt thế nầy, bởi nơi lòng bà xuất-hiịen ra Đấng Chúa Cứu-Thế, tuy đã biết trước như vậy , nhưng vì chạy kiếm con không thấy, vừa mệt , vùa sợ-sệt đến khi tìm gặp thấy con ngồi thuyết đạo, đã có lòng phiền, bèn kêu Chúa nói:”Sao con làm cho Mẹ khổ-não kiếm con lắm vậy”, Đức Chúa lièn nói : “Bà kia, Bà không biết tôi đang làm phận sự của Cha tôi biểu phải làm hay sao ?”  Bà mới tỉnh, tự hiểu biết, nên phiền Đức Chúa về lời nói đó. Từ đó khi Chúa về nhà thì cũng như mọi đứa trẻ khác, cũng đi đội nước, cũng đục-đẻo làm thợ mộc , phục tùng cha mẹ hiếu hạnh đủ điều.

 

Trong nhà em út bất hoà, còn ông Jésus hiếm lắm, tánh hay nhịn-nhục nên mấy người em thường hay ăn hiếp. Ở nhà không yên , ông đi làm thợ lấy tiền vè nuôi cha mẹ lây lất qua ngày.

 

Đến năm 30 mươi tuổi nghe Saint Jean Baptiste truyền-giáo tại bờ sông Jourdain, cũng trong lúc đó , Đức Chúa đến gạp ông đang giải-oan cho thiên-hạ. Khi vừa thấy Đức Chúa ở xa xa đi đến thì ông đã biết là Đấng Chúa Cuwuws-Thế, mới nói: Từ sáng đến giờ tôi chỉ chờ có một người nầy thôi. Đức Chúa đến thọ phép giải-oan của Ngài. Trong buổi vừa hành-pháp xong Đức Chúa dưới sông Jourdain vừa bước lên thì trên không hiện ra hào-quang sáng-suôt , hiện ra giống như chim bồ-câu trắng sa giữa đầu Chúa, ngay giữa thinh-không có tiếng nói :”Nầy con yêu dấu của ta, cả ân-đức của ta để cho Ngươi đó ”. Từ ngày đó, Đức Chúa Jésus là chơn-linh Đấng Christna giáng hạ, cho nên đi truyền-giáo nơi nào , chơn-linh Ngài không phải như ngày sinh-nhật nữa và đã biến thành Chí-Thánh vậy. Ngài là chơn-linh Thánh sông trước mắt cả thiên-hạ đạt cả Đạo-giáo. Ngài quan-sát nơi mặt thế nầy , Đức Jésus Christ không kém thua ai trong hàng Giáo-Chủ . Ngiaf để nhứt tâm lẫn tuát thương sanh yêu-ái người thật nồng-nàn chơn-chất. Đức Thích-Ca thế nào thì Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên-hạ thương mến nghe theo Đạo-Giáo của Ngài . Dân Juif các vì Giáo-Chủ buổi nọ , luôn các vua chúa Palestine, thấy Đức Chúa Jésus Christ thuyết đạo-giáo có một chí-hướng chơn-truyền phản-khắc với tôn-chỉ của họ , họ oán ghét, tìm phương giết Chúa , đến đàu-cáo với César rằng :”Người ấy mưu cuộc phản loạn đem bọn Juif ra khỏi sự thống-trị của chế-độ Romain” nhưng họ vu-cáo đủ thứ cũng không được vì thánh-đức của Chúa không thể phạm vào được . Họ lại tìm cách bài-bác luật Đạo, tạo một ban tuyên-truyền làm cho cho nhơn-gian sợ di-hại liên-luỵ không dám gâng Chúa . Mấy Giáo-Chủ (Caiphe) ấy bắt Chúa Jésus giao cho nguyên-soái Pilate lên án tử hình. Tuyên-truyền thế nào không biết cho đến ngày lễ Pâques là ngày thả tù nhơn, có tên Barabbas là tướng hung-dữ, sát nhơn đủ tội mà toàn dân Juif đồng tha bổng, còn Đức Chúa Jésus chúng không tha, lên án tử-hình và đem ra giết, đóng đinh trên cây thập tự.

 

Cái chết của Jésus Christ là gì ? Là Ngài đem xác Thánh trọng quý dâng cho Chí-Tôn làm tế-vật , xác Thánh chết trên Thánh-giá là lễ tế đồng thể với Tam-Bửu của chúng ta dâng lên Đức Chí-Tôn ngày nay đó vậy.

 

Vậy, Đức Chúa Jésus Christ đã làm con tế vật cho Đức Chí-Tôn đặng cứu chuộc tội lỗi của loài người , nhứt là các sắc dân Aâu-châu, nên danh theerNgaif để hai chữ Cứu-Thế chẳng có chi là quá đáng.

Thật ra Đấng Cứu-Thế ấy là Tam-thế Chí-Tôn giáng-linh tức là Christna tái thế.

 

Đền-Thánh ngày rằm tháng 11 năm Đinh-hợi (1947)

THIÊN-TÀI VÀ NHƠN-TÀI

 

Hôm nay Bần Đạo giảng về “Thiên-tài và nhơn-tài” Nhưng trước khi giảng thuyết ấy , nên mở một lối để cả thảy hiểu nguyên-do nào mình đạt được thiên-tài hay chỉ nhắm nhơn-tài mà thôi.

 

Bần-Đạo đã giảng nhiều phen giảng hình-trạng Tam-Bửu , đã cho cả thảy biết trong mình ta có tam thân , thất phách, chúng ta gọi theo Đạo-giáo là Tinh, Khí, Thần.

 

Thứ nhứt: Thân thể hửu-hình của chúng ta đây gọi là phàm-thân.

Thứ nhì: Thân-thể khí-chất vô-hình, mắt không nhìn thấy được, nếu thấy được là đạt Đạo, gọi là Pháp-thân.

Thứ ba: Gọi là Linh-thân tức là linh-hồn. Ba món báu ấy chung hiệp nhau lại tạo nên hình ảnh con người.

Nếu ta thấy được thì thân-thể hửu-hình nầy đồâng-thể với vật loại tức là thú vậ. Pháp-thân tương-liên với càn-khôn thế-giới đồng thể với Khí, cả Khí chất Tạo-đoan ra nguyên-do loài người, lấy nguyên-do đó làm thành hình-ảnh của linh-thân chúng ta, còn sự sáng-suốt linh-thiêng là do nơi lòng Đức Đại Từ-Phu. Vậy chia làm ba người trong ta nuôi-nấng xác hình hửu-hình nầy. Pháp thân một mặt giữ-gìn xác thân châu-toàn kiếp sống, một mặt tương-liên với quyền-năng sở-định của các đấng Thiêng-Liêng với Chí-Tôn. Vậy nó chia ra hai lập-trường ;

 

1.-Lập-trường đối với vật loại.

2.- Lập-trường đối với Chí-Tôn , Pháp-thân phải có tinh-thần trí-thức bổn-năng xu-hướng quyền năng vô-hình, tìm nguyên-căn mình xu-hướng theo Đấng Tạo-Đoan , hiểu hình-thể, biết đi, biết về, gọi bằng huệ tức linh-tâm. Thảng không biết, chỉ lo bảo-tồn sự sanh sống của vật-loại thôi, thì trở nên giác-tánh. Một đàng linh-tâm, một đàng giác tánh, nó ở giữa.

 

Bây giờ đã hiểu rồi, Bần-Đạo xin thuyết về “Thiên-tài và Nhơn-tài”.

Trí-giác Pháp-thân chúng ta có hai điều xu-hướng, hể xu hướng theo thiên-tư thì đạt được thiên-lương là một khối tài-tình đạt kiếp sống vi-chủ cùng tận hình-thể, việc nầy không gì khác hơn là cái kho ta đựng quyền-năng ta đạt được . Trong phép luân-chuyển kiếp sanh lập kho chất chứa cả tài-vật của chúng ta đạt đặng trong kiếp sanh , nhờ đào-luyện bởi bài học khổ của Tạo-Đoan , năng chịu khổ , giỏi chịu hành hạ khổ não chất chứa . Kho đó còn. Trí vẫn còn.

 

Trở lại giác tánh , ta thấy gì ? biết bảo-trọng mạng sống như muôn loài, như trâu ăn cỏ , khỉ ăn trái cây , giác-tánh tạo hình xu-hướng theo vật loại thì đè pháp-thân xuống, muốn tìm hạnh-phúc mà thôi, mà tiềm-tàng hạnh-phúc ta tưởng thế-gian nầy nhiều tướng hình , tương-đối với càn-khôn , xác thịt yếu-ớt tìm phương để bảo-vệ không có phương nào không làm, so-sánh với vạn-vật thì con người thua nhiều con vật khác , thua công-khai , như con cọp mà mình kêu ông cọp. Muốn thắng nó đặng thì tìm phương quyết thắng, tạo ra súng ống đặng tự-vệ lấy mình, nên làm chủ nó được . Giác-tánh tìm phương tự-vệ phải xu-hướng theo đường duy-vật.

 

 Nhơn tài ta thấy gì ? Có một kho sách ở thành New-York có 2.000 triệu quyển sách học mưu hay chước khéo, cả thảy tài-tình nhơn-loại  cộng thành khối lớn, nhưng chưa hề quyết đoán vận-mạng nhơn-loại được.

 

Nhơn-tài đã làm gì hạnh-phúc cho nhơn-loại , chúng ta đã thấy dầu cách vật , họ đi tới mức huệ qua không được , trở lại vật hình. Trên kia đã thấy gì ? Họ tìm phương-pháp tương-tàn tương-sát lẫn nhau, có gì khác hơn đâu , bởi duy-vật chỉ làm chúa vật-loại thôi, ấy là nhơn tài. Phương-pháp của con người tìm thế đem cả hình-thể của người lên làm chúa cả vạn-vật, ấy là thuyết duy-vật. Những mưu-chước hay khéo, họ thâu đoạt được để làm chúa vạn-vật thuộc nhơn-tài.

 

Bây giờ tới thuyết Thiên-tài . Thiên-tài là khi nào Pháp-thân xu-hướng theo nguyên-do căn-bản, tâm-linh của nó. Tự hỏi mình cũng như con vật, sao khôn ngoan hơn vật, sao có linh-tâm, có căn-bản vì đâu ? Tìm kiếm ra căn-bản ấy là Tu. Tu để tìm nguyên-do linh-tâm chúng ta là thiên-lương ta đó, hay khéo hơn hết là ngày giờ nào để trí-thức tinh-thần theo thiên-lương thì mở-mang một cách lạ lùng.

 

Tại sao khiếu vật-hình không làm trở-ngại vật mà phải cùng ta tự tìm kiếm , tự luyện tinh-thần ấy là Pháp-thân thì đạt huệ, mà đạt-huệ đặng thì đóng khối trong kho vô tận từ thử đến giờ , nếu mở cửa ra được là lấy được , kiếp nầy mang thi-hài xác- thịt có một bài học mà thô, còn các bài học kia nếu chúng ta dở quyển sách vĩnh-sanh ra thì không có gì khuất-lấp được.

 

Thiên-tài quy-tụ nơi trí ta đặng , không có năng-lực nào nơi mặt thế nầy đối-phó mà ta không thắng. Không nói Thiên-tài ấy đủ quyền-năng tạo hạnh-phúc thi-hài chúng ta mà thôi, lại còn tạo hanh-phúc cho thiên-hạ nữa mà chớ ! Aáy là cơ-quan đạt Đạo. Các Giáo-chủ tại thế nắm Thiên-tài, bảo trọng tinh-thần loài người tức-nhiên cứu người đó, bởi chúng ta thắng  vật hình hửu-vi, hửu-hoại nầy . Đêm ngày 24 giờ, thấy chết sống trước mắt, thiệt tướng. Chẳng phải ở cái sống nầy mà ở trong buổi chết, biết bao kẻ khi khổ não cực nhọc thi-hài quá lẽ, chạy theo phương cứu-khổ, tìm không được phải thống-khổ tinh-thần. Muốn an-ủi chúng nó phải đi con đường nào ? Sự thống-khổ có thể an-ủi được trong giấc ngủ,  khi thức, mở mắt ra thấy kiếp sống nầy đương đau thảm, ta tìm được phương an-ủi, làm cho binh-tỉnh tâm-hồn, định được thiên-lương chúng ta trong giấc ngủ , khi thức chúng ta đã thấy trường đời đau thảm.

 

Đã giải rõ hai thuyết Nhơn-tài và Thiên-tài, xem coi bên nào hơn bên nào kém. Hại thay ! những kẻ biết vật không biết hình bóng của vật, chỉ biết vật không biết thiên-lương, bởi cớ, trường đời ta thấy trí-lự nhơn-tài tìm phương tranh-đáu sanh sống, hạnh-phúc hơn người, cả nhơn-tài hiện tướng dữ-dội lần đẹp đẻ có mùi vị quyền-năng trục cả tinh-thần con người theo nó, chưa biết tồn-tại chăng ? Hình ảnh trước mắt cả trương đời đi đến con đường tự diệt , chớ không phải con đường vĩnh-sanh . Nếu chúng ta muốn muốn đạt được quyền vĩnh-sanh thì lấy Thiên-tài làm căn-bản.

 

 Muốn đoạt Thiên-tài không theo ai , không xin ai được hơn là đi theo Đại Từ-Phụ, dầu ta ngu-ngốc thế nào, xin một ngày không đặng thì hai ngày đến một tháng, một năm , nếu theo hoài dầu cho có nhiều xin mà ông cha không thể cho đặng , chúng ta cứ cương-quyết chìu-lòn phục-luỵ, kiên-nhẫn theo hoài, dầu khó cũng phải cho, bởi không nở nào không cho, mà hể Đấng ấy cho rồi không có cái gì ở thế gian này đối với của ấy được.

 

Lời Bần-Đạo căn-dặn : Mặc ai sang trọng ở trường đời , ta cứ quyết theo Chí-Tôn thì đại-nghiệp không mất, quả quyết đứa con nào của Ngài trọn trung, trọn hiếu với Người và với Hội-Thánh là hình thể của Người tại thế gian nầy, thì không bao giờ thất nghiệp và thất phận.

 

Đền-Thánh ngày mồng 1 tháng chạp năm Đinh-hợi (1947)

DÂNG TAM-BỬU

 

Bần-Đạo xin nhắc lại một phen nữa, khi nào hành lễ lúc dâng Tam-Bửu . Hể đưa bông lên là dâng cái hình thể của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu-nguyện Chí-Tôn :

- “ Con xin dâng mãnh hình-hài của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng”.

Khi dâng rượu cầu nguyện :

- “Con xin dâng cả trí-thức tinh-thần của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng”.

            Khi dâng trà cầu nguyện :

-“Con xin dâng cả linh-hồn cho Chí-Tôn dùng phương nào thi dùng”.

 Câu chót nếu chúng ta khôn-ngoan nguyện như vầy :

 -“ Cả linh-hồn, cả trí-não, cả hình-hài con, Thầy đào-tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền-hành độc-đoán của Thầy định”. 

 Đó ta cầu nguyện như vậy với Chí-Tôn.

Bần-Đạo đã giảng Tam-Bửu , tại sao Chí-Tôn lấy bông tượng trưng hình-hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài bằng cái giá-trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông.

Ngài lấy rượu là muốn tinh-thần của loài người cường-liệt như rượu mạnh vậy.

Ngài muốn lấy trà là muốn chơn-linh ta điều-hoà như trà vậy .

Ngài lựa ba món đó cốt yếu là vậy.

Ngày nay Bần-Đạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Đức Chí-Tôn, cả thảy mỗi phen vào Đền-Thánh nắm sanh khí ấy tạo cả cơ-quan hửu-hình nầy, dầu sắc đá cỏ cây, cả thú vật vạn-linh hửu tướng, thuộc về Tăng.

Đạo nầy luật thế nầy, Đạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật-giáo.

Giả thí như Thánh Giáo Gia-Tô cũng có Ba Ngôi (La trinité) : Đức Chúa Cha (Le Père), Đức Chúa Con (Le Fils) và Đức Chúa Thánh Thần (Le Saint Esprit). Đức Chúa Cha là Phật, Đức Chúa Con là Pháp, Đức Chúa Thánh Thần là Tăng.

 

            Không Đạo-giáo nào thuyết-minh rõ-ràng cơ tạo-đoan lấy thuyết hổn-độn sơ-khai phân chia :

“Khí chi khinh-thanh thượng phù giả vi thiên, Khí chi trọng-trược hạ ngưng giả vi địa”. (Khí khinh thanh bay lên trên làm Trời, Khí trong trược ở dưới ngưng kết lại làm đất).

Cả vật-loại hửu tướng nầy có hai quyền-năng sản-xuất:

1.- Ngôi Chí-Tôn.

2.- Đức Mẹ.

Cả quyền-năng ông cha chúng ta đào-tạo thế nào ngày nay, quyền-năng Chí-Tôn cũng đào-tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền-năng vô-tận của Phật-mẫu dùng đặng đào-tạo Càn-Khôn Thế-giới, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa. Chí-Tôn là Phật, Phật-Mẫu là Pháp, Càn-Khôn là Tăng. Mặt địa cầu nầy đến 3.000 thế-giới cũng là Tăng.

 

Nắm quyền trị thế là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên  chính quyền-năng Chí-Tôn định, địa cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt Trời nầy không có mặt Trời khác, trong 24 giờ một ngày, Đấng cầm quyền trong pháp-giới là Hư-Vô Cao-Thiên vâng mạng lịnh Hoạ-Nhiên Pháp-Thiên làm cho vũ-trụ khỏi tương-tàn với nhau. Địa-cầu này nếu không mặt luật đạo-đức thì sinh ra bậy-bạ  con người không chắc sống.

 

Bây giờ chúng ta quan-sát Hổn-Nguơn Thượng-Thiên ngày nay Đức Phật Di-Lặc ở nơi Hổn-Nguơn Thượng-Thiên cầm cả hành-tàng Càn-Khôn vũ-trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vạn loại.

Trước khi nguyện lấy dấu và niệm Nam-mô Phật, Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng, dám chắc thật đích-xác ba Ngôi ấy chưa ai biết rõ.

 

Ngày nay Bần-Đạo giảng : Phật là gì ? Phật là một Đấng toàn-trí toàn-năng, người ta lầm-lạc tưởng không thấy hình dạng là không có người thế-gian lầm-lạc nhiều lắm. Họ quả-nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi-hài mà thôi . Đấng toàn-trí toàn năng ấy là Đấng đầu-tiên hiệp lại với Chí-Tôn.

Bần-Đạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc-biệt :

1.- Hạo-Nhiên Pháp-Thiên tương-liên hiệp một cùng Đức Chí-Tôn.

2.- Hư-Vô Cao-Thiên thuộc về Pháp-giới cầm cả luật Thiên-điều.

3.- Hổn-Nguơn Thượng-Thiên thuộc tạo-hoá thuộc Tăng .

Phật vị có ba đẳng-cấp ấy đặng nắm cả quyền năng Càn-Khôn Thế-giới.

Phi-Tưởng Diệu-Thiên nắm quyền-hành tạo-đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật. Phi-Tưởng Diệu-Thiên lãnh phận sự nơi Đức Chí-Tôn cầm nguơn-khí của con người, giữ sanh-mạng vạn-vật kêu là vạn-linh.

 

Tạo-Hoá Huyền-Thiên thuộc Pháp có ba quyền tạo-đoan thế-giới hửu-hình nầy vô cùng tận. Tạo-hoá cầm sanh-khí để tạo sanh-vật. Tạo-hoá Huyền-Thiên, Phật-Mẫu cầm Pháp chuyển cơ sanh-hoá không cùng tận , cả loài người, cây, cỏ, sắt, đá cũng tấn lên phẩm người nữa là nhờ tay của Đức Phật-Mẫu nắm Pháp biến xuất. Cả thi-hài chơn-linh trí-não pháp-thân luân-chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của tạo-hoá trong các cơ-thể ấy, loài người học làm đặng biết , đặng chi ? Đặng tạo Pháp thân huyền-diệu được toàn-thiện toàn-mỹ , toàn trí , toàn năng như Phật-Mẫu đã làm, ta làm đặng học-hỏi tạo pháp-thân do quyền-lực thuộc Pháp, hình-hài xác thịt thuộc Tăng, thây chúng ta thay đổi lăn-lóc trên đường sanh sanh tử tử cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí-Tôn là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên , Các đấng ấy hửu sanh hửu tử tri khổ nghiệp chướng vạn-linh, năng du ta-bà thế giới độ tạn vạn-linh đắc qui Phật vị.

Các Đấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn-thiện , đặng toàn-trí , toàn-năng , họ đi trước mình đi sau , họ cao, mình thấp thỏi, con đường họ đi mình cũng đi tới . Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng : Mặt thế nầy chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo-Nhiên Pháp-Thiên một vị Phật cao-trọng, toàn trí , toàn năng gần như Đức Chí-Tôn nũa mà xuống thế đặng học , bìa học khổ, dám làm kẻ ngu dốt lắm.

 

Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth là một vị chi Phật như Đức Cakya Mouni đến thế-gian bưng bình Bát-du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế-gian như vậy mà nơi cửa hư-không lại có quyền-năng vô-tận vô đối . Đến Đức Chúa Jésus Christ là một vị Christna Vichnou đệ nhị kiếp Chí-Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hàn khổ-não để đi xin từng chén cơm , từng miếng bánh mì để nuôi kẻ đói khó. Đó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.

 

Đấng Tạo-Đoan đưa tay xin cho loài người ăn, đó là người cầm quyền-năng nuôi khắp vạn-vật Càn-Khôn vũ-trụ . Thế-gian chưa hề thấy và chưa hề biết.

Kỳ sau Bần-Đạo giảng tiếp.

 

Văn-phòng Hiệp-Thiên-Đài ngày 8 tháng chạp năm Đinh-hợi (18-01-1948).

HUẤN-TỪ CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP TRONG LỄ KHÁNH-THÀNH VĂN-PHÒNG HIỆP-THIÊN-ĐÀI

 

Các bạn Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Phước-Thiện nam nữ.

Tưởng từ khi tôi đã phế đời, hiến mãnh thân phàm nầy cho Đức Chí-Tôn làm khí cụ tạo cho nước Việt-nam một nền Tôn-giáo nầy, không ngày nào được phần thưởng vô-giá như ngày hôm nay, mà chỉ có một ly rượu. Theo sự hưởng-ứng của các bạn biết, nếu con người ta lấy cái sức phàm làm môi-giới cho cái sở hành riêng thì hẵn không ai can-đảm chịu. Cái người đã thả mình vô cảnh khổ với một sự vui tươi thì hồi xưa đến giờ chưa có. Tại sao vậy ? Tôi đã hiểu bí-mật ấy, tôi hiểu cả, nên cho các ban hiểu.

 

Các Đấng tự-hửu, hằng hửu, thiên-hạ tưởng không có, họ lầm từ trước, người ta tưởng Đấng ấy không có. Đấng ấy đã có từ tạo thiên, lập địa, tôi biết tôi hiể, tôi đã chịu khổ não để thay-thế hạnh-phúc cho đời là do nơi đâu ? Không phải tại nhà tôi hay tại tôi, chưa chắc, do nước Việt-nam chăng ? Aáy là do toàn nhơn-loại.  Đấng Cha lành ấy dầu thấy con bạc-bẽo thế nào, Đấng ấy cũng còn thương yêu. Sự thương-yêu của ông cha lành nó truyền-nhiễm tôi, do nơi chỗ tôi nghe được,  tôi hiểu được, biết rõ đặng Người.

Đấng ấy có mơ-vọng gì vô hạn ? Nhứt là Ngự-Mã-Quân của Chí-Tôn biết trước hơn ai hết, bởi vì Ngài có dạy, trước hết là Ngài bỏ Huỳnh-Kim-Khuyết , bỏ thiên-cung đòi xuống trần dạy con cái của Ngài lập phương giải khổ. Nếu tôi không lầm, cơ-bút đã  cho tôi biết các bạn Hiệp-Thiên do nơi đâu sản-xuất ? Do để giữ quyền thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời-Quân, thập nhị địa-chi, tức là cảnh thiêng-liêng vô-hình của chúng ta. Tôi tưởng tấn-tuồng tôi đã làm trọn và làm nơi cỏi vô-hình . Ngày kia về thiêng-liêng các bạn sẽ thấy hình tối đại, tối thiểu. Phận-sự tôi đối với các bạn nó có thâm-tình vô hạn, vì đồng tâm, đồng chí, một mực đề xướng cả thảy đều nghe chịu một hoàn cảnh, Bần Đạo làm không hết, số là tại Bần-Đạo và các bạn Hiệp-Thiên-Đài đã hứa với Chí-Tôn.

 

Bần-Đạo lo cho toàn cả nhơn-loại hoàn-cầu, chớ không phải thương-xót một cá-nhân nào hay một đoàn thể nào, một quốc-gia nào, không phải làm tôi mọi cho đời, làm tôi mọi cho Đạo, nhưng vì cái năng-lực vô hình kia mà thôi.

 

Trước khi lãnh lịnh trên Bạch-Ngọc-Kinh tạo nền Chơn-Giáo Chí-Tôn quyết-định có Ngài giáng-thế mới được, Ngư-Mã-Quân không cho , bắt buộc phải có người thay thế cho Ngài tức là Thánh-Thể của Ngài tại đây.

 

Ngài đi mà không cho thì phải có hình-ảnh thế cho Ngài mới được. Hình-ẩnh của Ngài là Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên, Hộ-Pháp có khôn-ngoan nào hơn là cầu-khẩn cho có người đến với mình đặng tạo Thánh-Thể đó, chớ một mình Hộ-Pháp xuống không thế được, nên phải cám dỗ cung nầy, điện kia , đến Cửu- Thiên Khai-Hoá, biết chắc làm được mới đi.

 

Các bạn cứ làm đi, vì cái phận sự đối với thế-gian, đối với lời hứa ở trên kia, mặt cân không biết đồng chưa ? Lời hứa trước kia, sự làm bây giờ, biết hai cái đó có đúng không ? Bần-Đạo làm mãi không biết làm sao cho rồi, nào lo cho Cửu-Trùng, rồi đến Phước-Thiien, đầu-óc của Hộ-Pháp đã chịu thâm-giao cùng các bạn, cứ làm mãi thôi, sống giờ nào làm giờ ấy. Không phải kiếp nầy tại đây có Thánh-Thể, không phải tại xứ Việt-nam ta mới có, chúng ta chỉ là người cặm bông tiêu thôi, chớ không phải người tạo, chúng ta sáng-lập là để đoàn hậu-tấn, vì chúng nó đứng chàng-ràng, không biết đứa nào gánh vát đảm đương.

 

Bổn-phận làm anh phải tạo nghiệp cho em. Mở đường trước cho con cháu đi, sau nhờ có chúng nó Thánh-Thể của Chí-Tôn mới tồn tại. Thầy không phải đến một kiếp nầy thôi mà đến phải ở đời đời, không phải Thánh-Thể đương nhiên họ sẽ đến nữa hay đã đến rồi, nó còn lộn-xộn không biết đứa nào. Biết còn nữa thì tức-nhiên phải mở con đường cho chúng nó đi vào tạo-nghiệp cho chúng nó. Tôi là đầy tớ của Đức Chí-Tôn, biết có bao nhiêu đó cứ đảm-nhiệm cương-quyết nâng-đở Đạo và Đời thôi.

 

May một điều là tôi còn thiếu với Đức Chí-Tôn . tôi xin đầu kiếp, thiếu hay không mà kiếp nầy tôi đã là tên dân nô-lệ cho nước Việt-nam , đã chịu thống-khổ tâm-hồn lẫn hình thể trên 35 năm.

 

Tôi không xin, tôi biết tại sao tôi đầu-kiếp xuống dân Việt-nam, tôi cảm-kích vô-hạn , nào chịu khổ, nào chịu bạc-nhược yếu-hèn. Tại thấy nhơn-loại đau-đớn Chí-Tôn mới đến ,ở một nền Tôn-Gioá, làm một khối sanh-quang cho toàn nhơn-loại, đó là cái danh-dự của nước Vieet-nam đã chịu khổ.

 

Vì cái tình của Chí-Tôn đối với dân-tộc Việt-nam  nên tôi thí thân phải chết mới đền bồi xứng-đáng.

Còn một việc khác nữa là Ngài tạo đầu-óc, từ ngày mở Đạo Cao-Đài đến giờ, Ngài tạo đầu-óc nòi-giống Việt-nam để vãn-hồi quốc-vận, như thế cũng đủ cho mình đưa sanh-mạng mà đổi.

 

Vậy sự làm của chúng ta phải cương-quyết và nhẫn-nại đủ điều, không nhút-nhác, vui chịu, bởi đã hiểu giá-trị ân-đức của Đức Chí-Tôn như thế nào rồi, muốn trả được hết phải học sách làm đầy-tớ của những đầy-tớ của Đức Chí-Tôn , làm được vậy chừng đó mới trả nợ tình của Đức Chí-Tôn đặng.

 

Trường Hành-Chánh lúc 4 giờ chiều ngày10 tháng chạp. Đinh-hợi(20-01-1948)

HUẤN-TỪ CỦA ĐỨC H-PHÁP TRONG LỄ MÃN KHOÁ HẠNH-ĐƯỜNG

 

Bài diễn-văn cảm-tạ của Nguyễn-Hửu-Lương thay mặt các vị Lễ-sanh tân-phong, ấy là áng văn đầy chơn-lý, đi thẳng vào tâm-hồn của Bần-Đạo, nó có mãnh-lực mạnh-mẽ lạ thường, Bần-Đạo tưởng nếu cả thảy đồng thật-hvaofddungs theo lời thuyết văn mới vừa đọc đây thì mối Đạo sẽ lan-tràn tốt tươi vô-đối, Bần-Đạo lấy làm cảm-tình, tuy vân, mấy em nói bửa tiệc thô-sơ, nhưng bữa tiệc nầy xem lịch-sử Đạo trong các bậc Thánh Hiền nước Việt-Nam từ xưa nay chưa từng có. Lịch-sử của Đức Khổng Phu-Tử từ nhà Châu đến giờ nay mới sống lại, nó sống với bữa tiệc nầy thôi.

 

Quả-nhiên từ ngày mở Đạo thì đã tạo hạnh-đường nhưng nó chưa có sanh-hồn, nay nhờ bữa tiệc nầy mà nó có sanh-hồn hiển-nhiên quí-báu vô-giá vậy, Tuy vân, không có gì xứng-đáng, nhưng Bần-Đạo hưởng được một vật quí-giá mà từ trước đến giờ chưa hưởng được.

 

Trước hết Bần-Đạo giải-nghĩa cái quyền đương-nhiên là quyền đời và quyền đương-nhiên của Đạo trong thế-kỷ XX nầy, nền văn-minh của Thiên-Chúa-Giáo truyền khắp cả nhân-gian cùng vạn-quốc trong hai ngàn năm trước. Đạo Thánh Gia-Tô lập quyền Đạo hồi xưa có cảnh tượng như thế nào thì ngày nay nền Đạo Cao-Đài của chúng ta cũng thế.

 

Hiện-tượng nền Tôn-Giáo của Chí-Tôn bây-giờ nó giống theo khuôn-khổ và cảnh-tượng của Thánh-Giáo Gia-Tô đã truyền, dầu cho ai cũng phải nhìn rằng : Cái công-trình của Thiên-Chúa-Giáo với nhơn-loại là vĩ-đại. Có thể chia ra hai quyền :

1.- Là quyền đời đương-nhiên (Pouvoir temporel).

2.- Là quyền-năng của tinh-thần (Pouvoir spirituel).

Cái quyền tinh-thần ấy biến ra một nền chánh-trị đặc-biết riêng của nó như Đền-Thánh Vatican ở La-Mã, là một nước trong vạn-quốc, một nước về tinh-thần . Cái tương-lai Đạo Cao-Đài sẽ đi đến đóø, không phải mơ-hồ mà tưởng chắc quả-quyết vậy.

 

Lập quyền chánh-trị Đạo Cao-Đài cũng  như nền chánh-trị của Thánh-Giáo Gia-Tô nơi Đền Vatican 2.000 về trước. Lúc ấy quyền Đời và quyền Đạo Thánh Gia-Tô chiến-đấu và phản-khắc nhau, trong lúc mà Thánh-Đạo  Gia-Tô đang tạo quyền-hành tinh-thần đạo-đức. Cái chánh-trị của Thánh-Giáo Gia-Tô lập-thành được là nhờ lấy từ mảnh-mún tinh-thần mà tạo nên khối đó vậy.

 

Cái chánh-trị của Đạo Cao-Đài cũng thế, nhưng chỉ có một điều khác là người ta làm trước, mình làm sau, đường đi chúng ta kỹ-lưỡng hơn , trước kia tôi tưởng nó phải gặp nhiều trở ngại nguy-hiểm như Thánh-Giáo Gia-Tô đã đi. Trong hai ngàn năm mới lập quyền vững chắc và mạnh-mẽ đăng.

 

Còn nền Chánh-Giáo của Chí-Tôn mới 23 năm mà đã nên hình mạnh-mẽ, đó là Đức Chí-Tôn ban ân-huệ cho nước Việt-Nam đặc-biệt , Từ xưa các vị Giáo-chủ trên mặt địa-cầu nầy chưa đạt được như chúng ta bao giờ, Tuy vân,chúng ta đã chịu nhiều phen khảo-đảo ấy, ngó lộn lại đối với các nền Tôn-giáo, các vị Giáo-chủ, muôn phần không có một.

 

Nền móng của Thiên-Chúa-Giáo tạo ra khó khăn thế nào , chúng ta noi theo sự sáng-tạo ấy đặng tạo nên một nền móng nữa , phận-sự rất dễ-dàng. Nền Chánh-trị ấy là một nền chánh-trị để phân quyền với quyền đời, quyền đời Bần-Đạo chẳng cần luận vì nó là oai-quyền nh trước mắt chúng ta đã thấy. Bần-Đạo chỉ luận về quyền Đạo của chúng ta mới vừa đạt đặng.

 

Nó cũng quyền hành như ai , nhưng có một điều trọng-yếu khác hẳn là quyền đời và quyền đạo cách nhau nột trời một vực , như bên nầy và bên kia , mặc dù không có mức chính giữa đã định , nhưng bên kia xâm-lăng sang bên nầy một chút thì người ta đã thấy . Hai quyền đều đặc-sắc không giống nhau đặng . Cây huệ-kiếm của chúng ta không phải là thiết-kiếm của thế-gian hửu hình mà là huệ kiếm vô-hình tức là tinh-thần và đạo-đức của chúng ta.

 

Bần Đạo đã nhiều dịp nói rằng : Cả Thánh-Thể của Chí-Tôn là trường quan-lại, nếu quan-lại Đạo mà bắt chước đồ theo thể-pháp và hình thể của quyền đời, thì xem như nó dị-kỳ hì-hợm lắm. Quyền Đạo nó có hình-tướng khác, nó không quái gở và dị hợm như trường đời, chúng ta xem thấy hiển-nhiên đó vậy.

 

Nếu anh hoạ-sĩ đủ tài, đủ năng-lực cầm cây bút hoạ cho nó nên hình tướng, tưởng không có vật báu chi ở thế-gian nầy so-sánh được , vì nó có Tiên căn Phật cốt hiện trong đó , để tạo ra hình tướng . Cái hình tướng và tinh-thần của Tiên Phật tốt đẹp thế nào không nói ra ai ai cũng biết. Cái hình nó phải mường-tượng như thế đó , phải làm cho nó ra hình Tiên cốt Phật các bạn thử xem Tiên, Phật tốt đẹp như thế nào, thì trường quan-lai của của Đạo phải cầm cây viết thiêng-liêng vẽ nên hinh tốt đẹp như Phật như Tiên vậy.

Nếu rủi có một bệt lọ hay một bợn nhơ dính vào thì nó dị hình dị dạng và ô-trược lắm. Nó phải cho đẹp đẻ khôi-ngô  linh-dị nguyệt-xu mới đặng . Tỷ như hạng gái kia đi ra đường mà có một bệt lọ lấm lên mặt thì nó đã dị-hợm khó coi rồi. Tóm lại là nó phải tinh tuý , nếu dính một chút bợn nhơ thì nó sẽ gớm-ghê hình dạng mà chớ !

 

Tôi nói quyết một điều là chánh-trị đạo mà có dính một chút của quyền đời thì dị-hợm xấu-xa lắm vậy. Bởi tinh-thần không chịu vật-chất , vật chất không hề hoà-thuận với tinh-thần . Trường quan-lại của nền chánh-giáo Chí-Tôn khác hơn đời,  chúng ta chỉ lấy đạo-đức nhơn-nghĩa làm quyền, còn ngoài kia họ lấy quyền-lực cưởng-bức, hai cái so nhau khác hẳn.

 

Trong cửa Đạo nếu chẳng biết quyền mình là gì, lại bắt-chước đồ theo tâm-lý thiên-hạ, cưởng bức vô đạo-đức, vô nhơn-tình thì quả-nhiên sái hẳn. Quyền chúng ta là chỉ lấy đạo-đức tinh-thần của tổ-phụ ta để lại trong 4.000 năm làm huệ-kiếm để bảo trọng quốc-hồn của nòi giống thì mới trúng, còn ngoài ra dùng phương-pháp khác là sai lầm.

 

Tôi nói ít mà các bạn nam nữ hiểu nhiều, tôi chỉ trông cậy các bạn. Vậy tôi xin để cả sự trong cậy của tôi trong tâm của các bạn là hình thể của Đức Chí-Tôn thật hành dùm nhơn nghĩa của Chí-Tôn đã để trước Đền-Thánh cho đời ngó thấy, đặng hưởng lấy hạnh-phúc thiên-nhiên ngàn xưa để lại là may mắn cho tương-lai con Hồng cháu Lạc.

 

Chúng ta hãy lấy Nho-phong làm căn-bản, phục-sanh hồn nước đã điêu-tàn , sau 80 năm nô-lệ, cho nó phục-sanh lại với các năng-lực  làm sống quốc hồn của minh trong 4.000 năm về trước. Như thảng ta vẽ được khéo, được đẹp , thì người ta đương trông mong cho nó thành tướng . Chừng đó chúng ta không muốn bán cũng có kẻ mua, chẳng phải một nước Việt-nam nầy thôi, mà toàn-cầu vạn-quốc nài mua mà chớ !

Nhưng phải làm sao cho nên hình-tướng để có đủ quyền-năng bảo-trọng cả toàn cầu nhơn-loại đặng tồn tại, sống trong tinh-thần đạo-đức, trong sự công-bình yêu-ái của Chí-Tôn gieo-trồng nơi cửa Đạo. Đến chừng ấy chúng ta có thể trương tấm bảng lên rằng : Nền Đạo Cao-Đài làm môi giới, căn-bản nền đại-đồng thế-giới đó vậy.

 

Bần-Đạo tưởng ly rượu nồng ngày hôm nay là ly rượu trường-sanh bất-tử, bởi đây là nơi sản-xuất hột giống trường-sanh bất tử. Ly rượu trường-sanh nầy các bạn đưng khinh rẽ nó. Trước khi từ giã, cảm-ơn các vị giáo-viên và chư vị tân-phong nam nữ đã cho Bần-Đạo hưởng được mùi ngon vị ngọt rất hay ho. Bần-Đạo để lời cảm ơn.

 

Đền-Thánh 4 giờ chiều ngày 13 tháng chạp năm Đinh-hợi (23-01-1948)

LỄ BẾ-MẠC ĐẠI-HỘI HỘI-THÁNH

 

Bần-Đao hân-hạnh tỏ lời cám-ơn chư Thánh-Nhị Hửu-Hình Đài. Tuy vân, Bần-Đạo không ra tay giúp Hội-Thánh vì chơn-pháp buộc phải như vậy , nhưng cả đôi tháng nay Bần-Đạo để tâm theo dỏi Hội-Thánh ta từ bước, có nhieeufvaans-đề không giả-quyết được , muốn Bần-Đạo đến giải-quyết dùm , nhưng Pháp-Chánh không cho Bần-Đạo định-đoạt. Hội Nhơn-sanh có quyền Hội Nhơn-sanh, Hội Thánh có quyền Hội-Thánh, Thượng-Hôi có quyền Thượng-Hội. Cũng như Hội Thánh không được phạm quyền Hôi Nhơn-sanh , Thượng Hôi không được phạm quyền Hội Thánh. Nghiêm luật ấy đã định chơn-chánh, mực thước không ai có quyền cải qua đặng, Bần-Đạo chỉ giúp chút ý-kiến chứ không dự biết gì trong quyền lực đặc-biệt của Hội Thánh.

 

Trong hai tháng Bần-Đạo nói thật-tình thấy Hội-Thánh tấn-bo khá nhiều rồi. Hôi-Thánh năm nay đã đem ra mặt luật lưu lại cho hậu tấn một khuôn-khổ chuẩn-đích từ-thử chưa xuất-hiện.

Một nền Chánh-trị Đạo, không khác gì chánh-trị đương-nhiên ở các nước Aâu-châu. Ở Á-đông nầy có nhiều nước phát triển như : Nhựt, Tàu, Miến, Xiêm cũng có một khuôn-khổ nhứt-định như vậy. Dầu quân-chủ lập-hiến hay Dân-chủ pháp chánh cũng một mực như nhau đều chia ra hai phần :

 

  - Phòng dân-chủ.

  - Phòng định luật.

 

Phòng định-luật là phòng bảo-thủ, Phòng dân-chủ là phòng tấn-bộ. Phòng dân-chủ của Pháp dưới thời dân-quyền “La Chambre des Députés”, còn phòng định-luật hay quân-lực nói thật ra họ không có Chúa, nhưng muốn biết phòng quân-luật hẳn-hòi, xem như nước Anh có “Chambre des Lords ” tức là Sénat của Pháp vậy.

 

Chánh-trị của Pháp thấy hai phần :”Chambre des Députés” và Sénat không dung-hoà được , thì hai khối ấy phải đảo-lộn.

 

Chánh-phủ Pháp phải đảo-lộn, tương-đối sụp đổ biết bao nhiêu lần, chúng ta đều thấy các nước dân-chủ chia ra hai phòng, mỗi khi Sénat tức là phòng dân-chủ bác không tín-nhiệm thì phòng dân-chủ phải sụp đổ, tức là nội-các đổ , mà nội-các đổ tức là chính-phủ đổ. Đời chia ra hai phòng đặc-biệt , Đạo lại khác hẳn. Chơn-Pháp của Chí-Tôn để hai phong hiệp một là Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài, Hiệp-Thiên-Đài là phòng quân-luật, còn Cửu-Trùng-Đài là phòng dân-chủ, biểu sao khỏi xích-mích nhau . Một đang bảo-thủ, một đàng dục-tấn, nếu hai đàng không hoà nhau, đem chân-lý hiển-nhiên thì hoà được được, còn không lấy chơn-lý thì đụng chỗ phản-khắc, không thể đệ lên thượng quyền mà còn nhơ-bợn được. Đó là cái bàn sàng, sàng mãi cũng phải lọt xuống.

 

Tại chơn-pháp như vậy, nên Bần Đạo biết trước cái ngày đôi bên chạm nhau, ngày ấy Bần-Đạo tự-nhiên lắm, còn ngoài nầy toàn Đạo không náo-động, Bần-Đạo chỉ kêu : “Coi chừng hể giữa Hội Thánh hai quyền phản-khắc nhau đem lên tới trên, gặp quyền độc tôn thì chịu lấy”. Nên hai bên hoảng mới tìm phương dung-hoà nhau. Đó chỉ nghĩa Bần-Đạo duy mới cầm cây Phướng Thượng-hôi rung-rinh chớ không dùng đến quyền gì hết.

 

Hội-Thánh hôm nay thành tựu trong thời gian ngắn ngủi sợ e ngày kia chư Thánh nhiều, quyền hành Hội-Thánh lớn thì sự bàn cải kịch-liệt nữa kia. Tương-lai đó tưởng chúng ta sẽ ngó thấy. Từ việc định công nghiệp đến quyền hành, thì Bần-Đạo lấy trong thâm-tâm , riêng tưởng cầm cân công-bình thay-thế Chí-Tôn không được chinh-lịch, hoặc nói được hay không nói được, đùng nói hay là sẽ nói mà thôi, câu nầy không chinh-lịch với Bần-Đạo được.

 

Kẻ nào có dày công cùng Đạo, Bần-Đạo xin bảo-lãnh không có điều chi bất-công qua mắt Bần-Đạo được , nhưng thời cuộc chưa đến mức ấy. Ai có dày công cùng Đạo, đừng tưởng Hội Thánh quên công.

 Ngày nay không nói đặng có ngày sẽ nói đặng, Hội Thánh không quên được một ai, ắt sẽ quyết định cho.

Ngày nào Bần Đạo còn đây, không có một điểm gì bất công-quả mắt Bần-Đạo được và Bần-Đạo quyết chắc như vậy.

 

Bần-Đạo xin bế-mạc đại-hội Hôi-Thánh và để lời cám-ơn.

(Đọc kinh bãi hội xong, lúc trong Đền Thánh bước ra Ngài nói :)

“ Có một điều đáng để ý, tại đây có một vị Đại Thiên-phong Đường-nhơn làm Đầu Hội-Thánh. Ngày sau người ta sẽ lấy làm lạ lắm”.

 

Đền-Thánh đêm 22 tháng chạp năm Đinh-hợi (1945)

GIẢNG HAI CÂU KINH TRONG BÀI ĐẠI-TƯÒNG

” Thâu các Đạo hửu-hình làm một,

Trường thi Tiên Phật dượt kiếp khiên”.

 

Lời hứa đặc-sắc của Chí-Tôn nó sản-xuất ra hình-dạng của nó nếu chẳng vậy thì Đạo Cao-Đài không có ý-vị gì cả. Tại sao Chí-Tôn quyết định thâu các Đạo hửu-hình làm một ? chẳng lạ chi, xác thịt chỉ chia phân tâm-lý vạn loại mà thôi, nguyên-do ấy vô-đối và hại ấy vô trị. Ông Descarte đã nói : Tư-tưởng tức nhiên thâu đến mối huyền-vi dưới thế nầy, con người tạo thời cải thế trước nhứt phải suy-đoán , có suy-đoán mới hiểu phát hình. Một khi suy-đoán định chí-hướng đến đâu , thấy đến hành-tàng nào, không một sự vật gì mà không tính trước. Các bậc vĩ-nhân cố-tâm cần-cù học đặng quyết-định vận-mạng trị dân, an-bang tế-thế. Học đặng suy đoán về tình-thế tâm-lý của đời. Ví-dụ như người ăn trộm không phải khi không mà phát-hiện tâm-lý ấy, nó có tính trước rồi mới làm. Sau cái hành-tàng thi-thố tức chúng ta đã quyết đem tâm-lý để trước. Hại thay ! Thế-gian, nói chung tâm-lý của loài người, đắc triết-lý chơn thật thì ít mà tri chí con người không thế đi con đường nào khác khác hơn sở hướng của mình.

 

Các vị Giáo-Chủ đã tiềm-tàng cho đi đến con đường ngay chánh. Mấy vị Giáo-Chủ đi quá sức tưởng-tượng , lập một khuôn-khổ không ai theo đặng, nên trong sự khó tránh đặng mưu người tìm phương đánh đổ, tìm phương sửa cải. Nếu có nền Tôn-Giáo nào ở thế-gian bị tâm-lý nhơn-sanh đánh đổ phải biến thành tà giáo , tức-nhiên là phương phân chia tâm-lý, nhiều phe, nhiều phái mới nhiều tâm-lý tương-đương thì chúng ta thấy giặc-giã chiến-tran vì đó mà khởi hấn, toàn cầu tàn-sát tự-diệt lẫn nhau bốc khởi. Hại thay ! Sự tàn-sát mạng sống của cá-nhân diệt bửu vô-giá của đời. Chí-Tôn là cha mạng sanh ấy đối với Ngài giá-trị thế nào không cần luận-giải, Ngài là Cha Thiêng-liêng, ta không thế nói cha mẹ ta tại thế nầy sánh với Chí-Tôn thế nào đặng.

 

Đau-đớn biết bao nhiêu ! nhơn-loại không biết nhìn nhau đồng căn-bản, đồng cốt nhục và tương-tàn với nhau , biểu Chí-Tôn khoanh tay ngồi ngó cho đặng, nên Ngài sai người thừa mạng-lịnh của Ngài đến qui con cái của Ngài làm một, đặng tránh nạn tương-tàn tương-sát bảo-trong sanh-mạng cho nhau.

Đáng lẽ Ngài phải đến bắt-buộc phải đến, nhưng đến chẳng được, nên con thương-yêu của Ngài đến thế cho Ngài đặng làm trọn vẹn phận sự của Ngài. Nếu đến chẳng đủ diệu-huyền ắt vô giá-trị và sở-hành sẽ vô-hiệu lực.

                                             

Ngày 22 tháng chạp năm Đinh-hợi (1947)

LỄ BÃI TRƯỜNG ĐẠO-ĐỨC HỌC-ĐƯỜNG

 

Mấy vị Giáo-viên nhát là Lương, mỗi phen có lễ nơi học-đường, mỗi phen đến dự, nó làm cho Bần-Đạo cảm-xúc, đến hể thấy đám nhỏ trước mắt rồi thấy tình-cảnh khổ não đương thời, tấn tuồng khổ-sở ấy nó phô-diễn cùng các sắc dân và cả toàn quốc chúng ta. Ngày nay Đạo-Đức học-đường biết đảm-nhiệm thì Thầy biết giá trị của mấy con chịu khổ não nhọc-nhằn dường nào ! Hiện chúng ta có ba mặt trận Đạo:

 

Thứ nhứt : Mặt-trận hình thức là để chiến-đấu quân tàn-bạo sát-hại nòi-giống quốc dân ta, có chiến-tướng binh-sĩ, cây cờ nhơn-nghĩa của Đạo binh Cao-Đài về phần xác, phần hửu-hình ta thấy để bảo tín Đạo-Giáo, để bảo thủ thân sống con người.

 

Mặt trân thứ nhì để chiến đấu vê tinh-thần trí-thức, mấy con là chiến-tướng, thẳng tới, tiến tới và cố-gắng hy-sinh thắng đặng trận cũng như mặt trận thứ ba, Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn tức là chức sắc thiên-phong đã làm chiến-tướng thắng cả tâm-hồn, bảo thủ nền Quốc Đạo từ mảy mún mà tô-điểm thêm xinh, không có lực lượng nào đến phá hoại nó đặng.

 

Ba mặt-trận ấy thấy hiển-nhiên trước mắt, cả tương-lai  trong ấy tay các em, các con, Thầøy có lời yếu thiết gởi-gấm cả tương-lai rực-rỡ đó cho mấy em, mấy con, nghe à !

           

Toà-Thánh đêm 24 thàng chạp năm Đinh-hợi (1948)

LÒNG THƯƠNG CỦA PHẬT-MẪU

 

Phàm như hể làm nghề nào, nghề nữ hay nghề nam cũng vậy, nghề-nghiệp muốn được sở trường, hay chưa biết chắc làm đặng thường phải kiếm nhà nghề,  nhờ chỉ biểu thì mới làm đặng.

 

Mấy chị, mấy em đã thấy tấn tuồng thiên-hạ tàn-sát tiêu diệt lẫn nhau quá lẽ. Phụ-nữ vạn-quốc hiệp chủng phản-kháng sự chiến tranh  và nhứt-định không cho đem con cái của họ ra làm bia cho súng đạn.

 

Tưởng các chị, em biết mình là nhơn-viên cơ Tạo-Đoan nhứt là Phật-mẫu là nhà nghề Tạo-Đoan. Mỗi cái gì mình làm được dầu nó là vật vô-tri vô giác, nếu có ai đập bể hoặc làm hư hao mình còn giận , còn đau-đớn thay, huống chi với tình mẹ con biết bao nhiêu giá-trị ! Không có quyền nào giết một đứa con của người mẹ, cũng như Phật-Mẫu hiện giờ nầy, trên Ngọc-Hư-Cung có lẽ Phật-mẫu phản-kháng cái nạn tiêu-diệt nhơn-loại mãnh-liệt  hơn Bần-Đạo tưởng-tượng mà chớ. Ở dưới thế,  đương thấy cái tình cảnh trước mắt, các chị em phải làm chứng cớ cho Phật-Mẫu nạp cả hồ-sơ cho Phật-Mẫu để phản-kháng cơ tự diệt thiêng-liêng trong 7 ngày, làm cho thiên-hạ đem cả thống-khổ , đau-đớn của các bà mẹ đưa trong tay cho bà mẹ linh-hồn là Phật-Mẫu, để Ngài đủ quyền-năng phản-kháng giữa Ngọc-Hư-Cung , hầu giảm bớt cái nạn chiến-tranh tàn-khốc. Làm được không ? Có lẽ cả thảy đều làm được chớ.

 

Đền-Thánh đêm 24 tháng chạp năm Đinh-hợi (1948)

LỄ ĐƯA CHƯ THẦN THÁNH TIÊN PHẬT TRIỀU THIÊN

 

Thỏn mỏn mà ngày nay là ngày 23 tháng chạp năm Đinh-hợi, đây tính lại từ ngày Bần Đạo về nước đến nay được 17 tháng, được ăn hai cái tết của quê-hương sau 5 năm bị đò lưu nơi hải ngoại.

 

Bần-Đạo đã ngó thấy toàn Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn nam nữ cũng thế, từ nhỏ chí lớn , đã trụ cả đức tin, làm cho Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn ngày càng thêm đẹp-đẽ. Riêng về Bần-Đạo để lời nói cùng toàn cả chức-sắc Thiên-phong, Bần-Đạo xin để lời cám ơn các cơ-quan đương-nhiên trong nền Chánh-trị Đạo, đã giúp hay cho Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi đã phục-hồi  được cái khuôn-khổ chơn-truyền. Tưởng thật ra từ 17 tháng nay Hội-Thánh làm  việc nhiều lắm, cả con cái của Chí-Tôn hao biết bao nhiêu tâm-não , thi-hài để tô-điểm nền chơn-giáo Chí-Tôn thêm cao-trọng , Bần-Đạo xin cúi đầu để lời cám ơn toàn cả con cái Đức Chí-Tôn.

 

Luôn dịp Bần-Đạo cầu chúc tân-niên nầy , cả con-cái của Chí-Tôn nam nữ , Thánh-Thể của Người được tráng-kiện tinh-thần và hình-thể , hưởng được hạnh-phúc đặc-biệt của Chí-Tôn chan-rưới và lướt qua hồi khảo đảo truân-chuyên , có lẽ buổi hạnh-phúc an-ninh của cả quốc dân chỉ sẽ đến trong chốc lát đây mà thôi, vì dân-tộc Việt-nam phải còn truân-chuyên nhiều nữa.

 

Bảy ngày nghỉ cúng, chúng ta thành-tâm cầu nguyện Đức Chí-Tôn cùng Thần Thánh Tiên Phật. Bần-Đạo quả-quyết trong năm nầy nếu tinh-thần Bần-Đạo không lầm thì nòi-giống Việt-nam chúng ta sẽ được đặc-ân là độc-lập tự-do cho tổ-quốc, độc-lập trên pháp-lý Quốc-tế đó vậy. Nhưng muốn cho thực-hiện được thực-tế,  có lẽ cuộc tranh-đấu của dân-tộc Việt-nam còn dài.

 

Luôn dip Bần Đạo giải nghĩa tại sao phong-tục nhà Nam gọi là đưa Ông Táo về Trời, chớ thật sự là đưa chư Thân Thánh Tiên Phật về triều thiên, tinh-thần từ trước vẫn vậy.

 

Chơn-truyền buổi Chí-Tôn tạo Càn Khôn Thế-giới, Ngài nắm thập nhị Thiên-can, Thập nhị Địa-chi trong tay, để định Pháp-chánh càn-khôn vũ-trụ . Trong thời buổi định Pháp-chánh ấn-định vào khoảng từ ngày 23 đến 30 sáng mồng 01 họp tại Ngọc-Hư-Cung đặng định-luật giới-hạn vi-diệu cho trái địa-cầu, chạy theo khuôn-khỏ hửu-định trong năm cho chí tân-niên là 12 giờ đêm 30 khởi-điểm 01 giờ sáng ngày mùng 01 tháng giêng năm sau.

 

Luật Thiên-Điều trị thế , trị nơi địa-cầu nầy là hình-luật thiêng-liêng là ngày giờ này nơi Ngọc-Hư-Cung kiểm soát định tội phước đó vậy. Càn Khôn Võ-Trụ , đều có đại-hội lập luật , trong một năm giáp vòng bửu giới. Nếu trái địa-cầu nào chưa được êm-đềm, luật Thiên-điều thay đổi khác mỗi năm, chiếu theo tấn-hoá và tâm-lý của nhơn-sanh . Nơi Ngọc-Hư-Cung định Pháp-chánh cũng như trong Càn Khôn vũ-trụ là 12 tháng một niên, 12 niên môït giáp, 120 năm một thế-kỷ (tất-cả đều cho rằng 100 năm là một thế-kỷ như vậy không đúng), 1200 năm là một giáp, 12.000 năm là một ngươn, 36.000 năm là một chuyển, mỗi phen đáo đến sở hành ngày giờ ấy, có Hội Giác-Tiến là thường tại, từ thử đến giờ chúng ta chưa nghe nói về một nghìn hai trăm năm có một vị Giáo-Chủ giáng thế chỉnh Đạo, bảo thủ tinh-thần đạo-đức của loài người. Cứ độ 1.200 năm có xuất hiện một nền Tôn-giáo để hoá-chuyển thay đời, tính lại địa-cầu chúng ta từ buổi phôi-thai, có vạn-linh nơi mặt thế đến nay được 3 chuyển . Nay hạ-nguơn tam chuyển , khởi đầu thượng nguơn tứ chuyển chẳng khác gì đêm 30 sáng mùng 01 tết chúng ta vậy.

 

Tới mức giữa không-gian thì nhơn-loại tới hồi khổ-não đủ điều, người ta nói là tậân-thế, cái thuyết ấy không có đâu, nếu chúng ta dùng lời đặng nói chẳng qua là một giáp đó thôi, tức nhiên là một nền văn-minh Tôn-giáo chứ không phải tận thế.

 

Kiếp số địa cầu nầy còn vĩnh-cửu, chỉ thay đổi hình thể vạn-loại mà thôi , nó vẫn còn tăng-tiến mãi, Chúng ta đã ngó thấy qua chừng 100 năm trước, văn-minh con người không đạt đến mức hiện như bây giơ. Cơ tấn bộ tinh-thần vật chất dữ dội nhứt là trong vòng 50 năm. Theo đó mà tính-toán lai coi trong 500 năm nữa, nhơn-loại sẽ ra sao ?.

 

Phật-giáo nói: qua sắc dân da trắng, tinh-thần vi-chủ tới sắc dân Thần- Thông-Nhơn, qua khỏi dân Thần-Thông thì có sắc dân Chí-linh, lúc đó người là Thần Thánh Tiên Phật tại thế, như vậây còn hai sắc dân nữa cho 500 năm sau.

 

Mỗi sắc dân vi-chủ một nguơn niên , kể hai sắc dân nữa chưa xuất hiện , ta cũng kể là 30.000 năm nữa đời sẽ thay đổi khác hơn. Nhơn vật và địa cầu cứ tăng tiến mãi, trên con đường tận-thiện tận-mỹ, vật xinh người đẹp , vật bỏ ngu đến khôn, người khôn đến chí-linh, đến ngày cùng chót toàn là Thần Thánh Tiên Phật xuống ở cỏi trần nầy. Lời Chí-Tôn tiên-tri và quyết-định hẳn hoi :

 

“ Chừng nào đất dậy Trời thay xác,

   Chư Phật Thánh Tiên xuống ở trần”.

 

Ta lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn, Càn Khôn tấn-triển thế nào ? Bần-Đạo ước mong Càn-khôn vũ-trụ phát-triển cách nào trong mỗi Nguơn niên Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn tăng-tiến theo luật-định Thiên-điều, phải đi theo y khuôn luật của con đường Chí-Tôn định , tấn-triển tới trong năm khai nguơn nầy vậy.

Bần-Đạo ước-mơ sự tăng-tiến của con cái Chí-Tôn được gia-bội gấp đôi ba bây-giờ mà chớ. Muốn đạt vọng ấy Bần-Đạo để cả tín-nhiệm nơi tâm-lý con cái của Chí-Tôn, Tưởng cả thảy đều mơ-ước mà làm đặng chăng là nhờ quyền-năng vô-tận của Đại Từ-Phụ mà đạt đặng .

 

Chúng ta hãy cầu nguyện để trọn tâm đức chắc chắn nơi Đức Chí-Tôn thì Chí-Tôn chẳng hề khi nào hẹp lượng . Chúng ta quyết-định xin mà làm nên cho cả con cái của Người thì Người cho, chắc-chắn vậy. 

 

CHUNG

MỤC-LỤC

 

1.- Thánh-thơ Đức Thượng-Sanh

2.- Lời tựa.

3.- Lời trần thuyết của Ban Tốc ký.

4.- Lời tiên-tri của Đức Lý Giáo-Tông.

5.- Vấn-đề Nho-Giáo.

6.- Bác-ái từ-bi.

7.- Tự-tín, Tha-tín và Thiên-tín.

8.- Đãi tiệc công thợ.

9.- Phát thưởng học sinh.

10.- Khai hội Nhơn-sanh năm Bính-tuất (1946)

11.- Khai-mạc Đại-Hội Phước-Thiện năm Bính-tuất (1946)

12.- Sự Cầu nguyện.

13.-Lễ thượng cờ.

14.- Ý-nghĩa lá cờ Quân-đội Cao-Đài.

15.- Lễ rước quả Càn-Khôn.

16.- Đại Lễ Chí-Tôn.

17.- Tam-bửu.

18.- Hội-yến Diêu-Trì.

19.-  Thờ Đức Phật mẫu tại Báo Aân-Từ.

20.- Quốc sự vụ.

21.- Tinh, Khí, Thần.

22.- Tiếp về Tam-Bửu.

23.- Tam-Bửu (tiếp theo).

24.- Quyền-năng của Chí-Tôn.

25.- Tam-bửu nguyên-thuỷ của càn-khôn thế giới.

26 .- Loài người do đâu mà đến.

27.-  Luật công-bình thiêng-liêng.

28.- Nguyên do của loài người.

29.- Cơ-quan Đại-đồng thế-giới.

30.- Đại-đồng thế-giới (tiếp theo).

31.- Chí-Tôn xuống thế.

32.- Ý-nghĩa Lễ, Nhạc.

33.- Mừng lễ Trung-thu.

34.- Cửu-trùng-thiên.

35.- Giải nghĩa kinh Phật-Mẫu.

36.- Về tánh đức của nòi giống Việt nam.

37.- Lễ bãi trường Đạo-Đức Học-đường (1947)

38.- Kinh-tế lý-tài.

39.- Nguyên-do nào có Đạo Cao-Đài.

40.- Cơ-quan chuyển thế.

41.- Đức Chí-Tôn hứa với loài người.

42.-Lễ các Thánh tử đạo.

43.- Quốc Đạo.

44.- Các con đối với Phật-Mẫu.

45.- Dạy phương-pháp giảng Đạo.

46.- Tại Tháp Đức Quyền Giáo-Tông.

47.- Cứu khổ về xác thịt.

48.- Cứu-khổ về tinh-thần.

49.- Thuyết Đại-đồng.

50.- Sự tích Đức Chúa Jésus giáng sinh.

51.- Thiên-tài và Nhơn-tài.

52.- Dâng Tam-Bửu.

53.- Lễ Khánh-thành văn-phòng Hiệp-Thiên-Đài.

54.- Lễ Mãn khoá hạnh-đường.

55.- Lễ bế mạc Đại-hội Hội-Thánh.

56.- Giảng hai câu kinh trong bài Đại-tường.

57.- Lễ Bãi trường Đạo-đức học đường (1948)

58.- Lòng thương của Phật-Mẫu.

59.- Lễ đưa Chư Thánh triều Thiên.

60.- Mục-lục.

 

về trang chủ