Ðại-đạo Tam-kỳ Phổ-độ
Tòa-Thánh
Tây-Ninh
-------o0o-------
LỜI
THUYẾT ĐẠO
CỦA
ĐỨC
HỘ-PHÁP
Năm
BÍNH
TUẤT- ĐINH HỢI (1946-1947)
QUYỂN-NHỨT
(tiếp theo)
HỘI
THÁNH GIỬ BẢN QUYỀN
IN
LẦN THỨ NHẤT
Năm
Canh-tuất (1970)
Trên
Cửu-long đài, trước Báo-Ân-Từ hồi
4 giờ rưỡi chiều ngày 15 tháng 8 năm
Đinh-hợi (1947)
ĐỨC
HỘ-PHÁP
GIẢI-NGHĨA
PHẬT-MẪU CHƠN-KINH
Ngày
nay là ngày Đại-Lễ Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu.
Bần-Đao tưởng cả thảy toàn Đạo nên
biết quyền-hành của Phật-Mẫu như thế
nào? Và tại sao chúng ta thờ Người.
Muốn
biết quyền hành ấy Bần-Đạo phải
thuyết-minh và giải nghĩa bài Kinh Đức
Phật-Mẫu mà chúng ta thường tụng niệm
hằng ngày đó. Trước khi giãi nghĩa Bần-Đạo
cũng nên nói rõ ai đến cho bai Kinh ấug
? Cho hồi nào? Và tại nơi đâu ?.
Kinh
Đức Phật-Mẫu cho tại Kiêm-Biên Tông-Đạo
(Cao Miên-Quốc) nơi Báo Aân-Đường của
hai vợ chồng Thừa-Sử Huỳnh-Hửu-Lợi.
Lúc trước chưa có Kinh Phật-Mẫu, chúng
ta chỉ biết Phật-Mẫu, đến Hiệp-Thiên-Đài
Khai Đạo Cao-Đài nhờ thi phú văn tự
của Cửu-Vị Tiên-Nương cho biết nguyên-do
đến Khai Đạo, chớ chúng ta chưa biết
quyền-hành của Người. Nơi Kiêm-Biên
cả Chức sắc Hội-Thánh Ngoại-Giao đến
cầu Kinh, khiến khi đó Bần-Đạo đến
nhằm lúc cúng Vía Phật-Mẫu. Bát-nương
đến cầm cơ viết, chính mình Bần-Đạo
phò loan nơi Đại-Điện, có nhiều Đạo-Hữu
và một người không biết Đạo là gì,
là ông Hiếu ( kêu Bần-Đạo bằng chú)
ngồi trước sân chơi, thấy tứ phía
đều có hào-quang giáng hạ xẹt xuống
rất ngay Báo-Aân-Đường. Tới chừng
trọn bài Kinh rồi, cả thảy đều nói
lại không biết cái gì xẹt khi nảy như
sao xẹt qua xẹt lại vậy, không dè trong
nhà đương phò-loan. Có cháu của Bần-Đạo
và nhiều Đạo-Hữu ở ngoài đều làm
chứng quả quyết như vậy. Bây giờ Bần-Đạo
xin giảng từ câu Kinh cho toàn thể hiểu.
“
Tạo-Hoá thiên huyền-vi thiên hậu”
“Chưởng
Kim-Bàn Phật-Mẫu Diêu-Trì”
-Từng
Trời thứ chín gọi cung Tạo-Hoá Thiên,
có vị cầm quyền năng tạo-đoan gọi
là Thiên-Hậu, nắm cả Kim-Bàn tức
là nắm đẳng cấp Thiêng-Liêng điều-khiển
chơn-linh gọi là Phật-Mẫu Diêu-Trì.
Bên Á-Đông người ta thường kêu Phật-Mẫu
là Mẹ sanh thờ bằng cốt tượng cũng
nhờ nơi Cửu-Vị Tiên-Nương truyền
bá còn lưu lại ngày nay, là bọ đồng-cốt,
nhờ Đồng cốt mà cả Á-Đông đều
biết Phật-Mẫu là Mẹ sanh của nhơn-loại.
“
Sanh-quang dưỡng dục quần-nhi”
-
Lấy khí sanh-quang
( Fluide de vitalité ) nuôi nấng con cái
của Người tức là vạn-sanh.
“
Chơn linh phối nhứt thân vi thánh hình”
-
Chơn-linh của
Chí-Tôn cho ta hiệp với thi-hài là thành
thân hình, ta gọi là phách hay vía, khi
thoát xác chơn-linh ấy xuất ngoại.
“
Thiên-cung xuất vạn-linh tùnh pháp”
Do
nơi Thiên-cung mà ra vạn-loại, tức
nhiên vạn-vật tùng quyền pháp thiên
cung mà sanh.
“
Hiệp âm dương hữu hiệp biến sanh”
Lấy
âm dương khí hoà-hiệp nhau biến hoá
ra vạn-vật.
“
Càn-khôn sản xuất hữu hình”
Càn-khôn
trước là không-không. Phật-Mẫu biến
ra cả vạn linh.
“
Bát-hồn vận chuyển hoá thành chúng
sanh”
Trong
Bát-Hồn kể vật-chất-hồn, thảo-mộc-hồn,
thú-cầm-hồn, nhơn-hồn, Thần-hồn,
Thánh-hồn, Tiên-hồn, Phật-hồn do trong
Kim-Bàn của Phật-Mẫu mà ra. Bát đẳng
cấp thiêng-liêng chơn-hồn vận chuyển
biến thành vật-chất, thảo-mộc, cầm-thú
và nhơn-loại gọi là chúng sanh.
“
Cộng vật loại huyền linh đồ nghiệp”
Hiệp
cả thảy loài vật hữu-sanh cộng lại
làm đại nghiệp của mình, mở một
con đường đặng lập vị cho nhau.
“
Lập tam tài định kiếp hoà căn”
Tam-tài
trên kể xuống là: Thiên, Địa, Nhơn
dưới kể lên là Người, Đất,Trời.
Phật-Mẫu định kiếp-căn của mọi
người đã sanh ở cõi trần nầy.
“
Chuyển luân định phẩm cao thăng”
Sự
luân hồi chuyển kiếp của chúng ta,
nẻo sanh tử là con đường đạt vị
cao thăng: Sanh ra đặng trả căn kiếp
ở thế gian theo luật nhơn quả, sanh
đặng lập nghiệp đạt vị cũng có,
mượn kiếp hữu-sanh nầy lập vị cao
thăng cũng có.
“
Hư-vô Bát-quái trị thần qui nguyên”
Lấy
khí hư-vô dựng lò bà-quái đem linh-hồn
trở lại cỗ cũ, Phật-Mẫu có quyền
đem trở lại cho Chí-Tôn.
“
Diệt tục kiếp trần duyên oan-trái”.
Nhờ
Phật-Mẫu định cho ta trả nợ oan-trái,
Phật-Mẫu có quyền sữa cãi kiếp luân
hồi định cho ta lập công mà trả quả.
“
Chưởng đào tiên thủ giải trường
tồn”
Nơi
Diêu-Trì-Cung, Phật-Mẫu trụ sanh quang
lại thành một khối gọi là quả đào
tiên, đủ phép sống vĩnh viễn trường
tồn nơi cõi hư-linh. Phật-Mẫu cầm
quyền phép hườn chơn thần cho ta đạt
kiếp nơi cửa hư-linh.
“
Nghiệp hồng dẫn tử hồi môn”
“Chí
công định vị vĩnh-tồn thiên cung”
Nghiệp
quả của chúng ta, do Phật-Mẫu tạo
thành, Phật-Mẫu lại đem ta trả về
cựu nghiệp, còn Chí Tôn do cựu nghiệp
ấy mà định vị.
“
Chủ âm quang thường tùng thiên mạng,”
“Độ
chơn-thần nhứt vãng nhứt lai”
Chủ
âm quang là nơi địa giới, chia ranh
địa ngục với thiên-đàng, tùng mạng
lịnh Chí-Tôn, Phật-Mẫu giữ gìn chơn
thần của chúng ta, đem ta đến đem
ta về.
“
Siêu thăng phụng liễn qui khai”
Siêu
thăng thì ta nhờ cái xe Tiên là xe, phụng
liễn mà mở cửa đi về.
“Tiên
cung Phật xứ Cao-Đài xướng danh”
Nơi
Tiên cung xứ Phật, Đức Cao-Đài kêu
danh hiệu đều phải tùng quyền lực
Phật-Mẫu độ rỗi.
“Hội
Nguơn hửu Chí-Linh huấn chúng”
Thượng-nguơn
qua Trung-nguơn qua Hạ-nguơn. Nay Hạ-nguơn
Tam-chuyển hầu diệt, bắt đầu Thượng-nguơn
Tứ-chuyển có Chí-Tôn đến giáo-hoá
chúng-sanh.
“Đại
Long-Hoa nhơn chủng hoà ki”
Đại
Long-Hoa đã tiên-tri là hội ân-xá các
đẳng chơn hồn, không phân chia chủng
tộc, nòi giống hợp nhau về một gốc
(chỗ nguyên-lai).
“Tam-kỳ
khai hiệp Thiên-thi”
“Khoa
môn Tiên-vị ngộ kỳ Phật duyên”
Đạo
Tam-Kỳ khai giáo đúng với Thiên-thơ
tiền-định, để mở hội thi lên ngôi
Tiên cho kẻ có duyên với Phật.
“Trung
khổ hải độ thuyền Bát-nhã”
“Phước
Từ-bi giải quả trừ căn”
Phật-Mẫu
đem thuyền Bát-nhã vào biển khổ đặng
độ nhơn-sanh ra khỏi trần-ai.
“Huờn
hồn chuyển đoạ vi thăng”
Huờn
hồn cho cả chúng-sanh bị tiêu-huỷ
được phục siêu-sanh cải đoạ-lac
ra siêu-thăng.
“Cửu
Tiên hồi-phục Kim-Bàn chưởng âm”
Cửu
vị Tiên-nương trở lại thì Phật-Mẫu
Kim-Ban chưởng-quản bầy âm-linh.
“Thập
Thiên can bao-hàm vạn tượng”
“Tùng
Địa chi hoá trưởng Càn Khôn”
Mười
Thiên can là : Giáp, Aát, Bính. Đinh,
Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, hiệp
với mười hai Địa chi là : Tý, Sửu,
Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân,
Dậu, Tuất, Hợi, mà biến-hoá hình-tượng
bao-la Càn Khôn Thế-giới, làm cho Thế
giới rộng lớn thêm lên.
“
Trùng hườn phục vị Thiên nôn “
Cho
trở lại quê xưa vị cũ là về nơi
cửa Trời.
“
Ngươn linh hoá chủng qui hồn nhứt thăng
“
Các
Huyền-linh biến hoá ra nhiều quỉ hồn
cũng được siêu thăng, được đi chung
đường với Thần, Thánh, tiên, Phật
mà phục vị.
“
Vô siêu đoạ quả căn hữu pháp “.
Không
siêu thăng, không đoạ lạc căn quả
đều có phép luật định..
“
Vô khổ hình nhơn kiếp lưu oan “
“
Vô địa ngục vô quỉ quan “.
Không
còn khổ hình của kiếp làm người
Phật-Mẫu diệt tiêu oan nghiệt, không
còn Địa ngục cũng không còn chổ nhốt
quỉ hồn.
Quỉ
quan là cai ngục nhốt các hồn quỉ,
là nơi giam cấm hình phạt khổ sở
các quỉ hồn.
“
Chí-Tôn đại xá nhứt trường qui nguyên”
(
Vì chữ Đại xá nên Đạo Cao-Đài gọi
là 3è Amnistie de Dieu en orient ). Chí-Tôn
ân xá tội tình, đem tất cả con cái
của Ngài về hiệp cùng Ngài.
“
Chiếu nhủ lịnh Từ Huyên thọ sắc”.
“Độ
anh nhi nam bắc đông tây”
Chiếu
theo lịnh dạy của Đức Chí-Tôn, Từ
Huyên là mẹ sanh của chúng ta thọ sắc
độ rổi vạn-linh tứ hướng tức là
con cái của người không bỏ sót một
ai.
“
Kỳ khai tạo nhứt Linh Đài”
“Diệt
hình tà pháp cường khai Đai-Đồng”
.
Khai
đạo Tam-kỳ, kỳ nầy dặng tạo Linh-Đài
là cái tâm linh cho con người có đủ
quyền năng tiêu diệt tà pháp đặng
đem nhơn loại đến Đại-Đồng một
cách mãnh liệt.
Hiệp
nhơn sanh lại một nhà chung một Đạo,
Đạo sẽ duy nhứt vạn loại sẽ là
một khối, không phân biệt quốc-gia
chủng tộc, Tôn-giáo, ngày nào được
như vậy là ngày đó được hoà-bình
thế-giới. (La religion sera une,
le monde sera un, l’humanité sera une, une
en nation, en race et en religion ).
“
Qui thiện lương quyết sách vận trù”
Phật-Mẫu
qui thiên lương của con cái của Người,
điều độ những người tâm thiện.
“
Xuân-Thu, Phất-Chủ, Bát-Du”,
“Hiệp
qui Tam-giáo hữu cầu Chí-chơn”.
Lấy
triết-lý của Tam-Giáo, Xuân-Thu, tiêu
biểu cho đạo Thánh. Phất-Chủ cho Đạo-Tiên,
Bát-Du Đạo-Phật, gom góp cả ba lại
làm một chơn-pháp của Người.
“
Phục nguyên-nhơn hườn hồn Phật tánh”,
“Giáo-hoá
hồn hữu hạnh hữu duyên”.
Đem
Phật tánh lại cho các bậc nguyên-nhân,
nguyên nhân là các chơn-hồn Chí-Tôn
sai xuống làm bạn đặng độ rỗi chúng
sanh, vì họ mê luyến hồng trần, nên
Chí-Tôn đem Phật-tánh phổ hoá họ,
nhờ đó họ trở lại quê xưa. Phỏng
định 100 ức nguyên-nhân. Phật-tổ
độ đặng 6 ức, Lão-Tử 2 ức, còn
lại 92 ức vẫn còn đoạ lạc, Phật-Mẫu
đến giáo-hoá định duyên định phận
cho họ.
“
Trụ căn qui khí cửu tuyền”,
“Quảng
khai thiên thượng tạo quyền chí công”
Cả
quỉ hồn, Phật-Mẫu trụ nó lại tuyền-đài,
mở rộng cửa Trời đặng thật hành
quyền Chí-Tôn tại thế.
“
Lịnh Mẫu-Hậu khai tông định Đạo
“
Mẫu-Hậu
là Diêu-Trì Kim-Mẫu hay là Thiên-Hậu
Thánh-Mẫu Ngài đến mở Tôn-Giáo định
Đạo cho chúng ta.
“
ÂN dưỡng sanh đảm bảo hồn hài”,
“Càn-khôn
tạo-hoá sánh-tài”.
Đã
sanh lại dưỡng đặng bảo đảm hình-hài
thì ơn ấy quá trọng, sánh bằng Càn-Khôn
thế giái.
“
Nhứt triêu nhứt tịch kinh bài mộ khang”.
Mai
chiều chúng ta đến thăm viếng Đức
Mẹ như Từ-Thân chúng ta vậy, mộ khang
là đến thăm viếng buổi chiều để
vấn an Đức Mẹ đó vậy.
“
Nam-Mô Diêu-Trì Kim-Mẫu Tạo-hoá Huyền
thiên cảm bái”
“Nam-Mô
Đại-Từ Đại Bi năng hỉ xả, Thiên-Hậu
Chí-Tôn đại bi đại ái “.
Người
cầm quyền năng tạo cả càn khôn thế
giới gọi là Thiên-Hậu Chí-Tôn là
Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu đại từ-bi bác-ái.
Theo
bí-Pháp chơn truyền của cơ sanh hoá
phải có đủ âm dương, trong sanh-quang
chúng ta có điện-quang ( Positif và Negatif
) cũng như vạn-vật có trống mái. Nền
Tôn-giáo nào có đủ âm-dương thì mới
vỉnh cửu.
Như
Đức Chúa Jésus ngày trước bị đóng
đinh trên cây Thánh-Giá đầu thuận
lên trên gọi là đạt dương. Ông Thánh
Pierre là đệ nhứt Tông-Đồ bị đóng
đinh trở ngược lại, gọi là phản
âm. Aâm dương tương hiệp đúng theo
bí pháp, nên đạo Thánh lưu truyền
lại hai ngàn năm, không ai dùng quyền
gì tiêu diệt đặng. Chí-Tôn có thể
sai con của Người đến lập Đạo như
Thich-Ca, Jésus, Khổng-Tử.v..v..
Trái
lại người đã xuất nguyên-linh của
Người đến đây độ chúng ta, thì
tưởng điều ấy trọng yếu hơn hết,
khi mở Đạo Cao-Đài Chí-Tôn định
cho Phật-Mẫu đến làm bạn với chúng
ta bảo trọng nuôi nấng đạy dỗ chúng
ta, thì không có ân đức nào bằng,
vì không ai biết thương con hơn là Mẹ.
Phật-Mẫu đến cầm quyền lập Đạo
xong, rồi giao lại cho Chí-Tôn. Phật-Mẫu
làm chủ âm-quang. Chí-Tôn là chủ dương-quang,
âm-dương tương hiệp, Đạo Cao-Đài
nương theo năng lực của hai khối âm
dương đó. Đối với năng lực tạo
đoan Càn-Khôn thế giới thế nào, thì
Đạo Cao-Đài ngày kia sẽ có năng-lực
như thế đó.
Ngày
rằm tháng 8 năm Đinh-hợi (1947)
VỀ
TÁNH ĐỨC CỦA GIỐNG NÒI VIỆT-NAM
Hôm
nay BẦn-Đạo luận-bàn cùng mấy chị
mấy em, Bần-Đạo giảng về tánh-đức
của giống-nòi Việt-nam, dầu nam hay nữ,
dầu sùng bái tôn-giáo nào, cũng không
quên mối Đạo căn-bản lưu-truyền của
nòi-giống là tin-tưởng Trời tức là
Đấng Chí-Tôn đó vậy.
Toàn thiên-hạ trên mặt địa cầu nầy, ngày nào họ
biết Đạo của Chí-Tôn, họ sẽ bỏ cả khuôn khổ
đạo-đức của họ mà chớ, vì từ thử nước Việt-nam vẫn
giữ được tánh đức lương-thiện của mình, nên lẽ
công-bình ấy, Chí-Tôn mới dến hoằng-khai Đại-Đạo,
định đem tánh đức hướng-thiện của nòi-giống
Việt-nam gieo truyền vào tánh đức thiên-hạ.
Tôi
sinh-trưởng tại tỉnh Tây-ninh, Ông cha
tôi đều ở tỉnh Tây-ninh thì có chi
vui-vẻ và hạnh-phúc hơn được mở-mang
mối Đạo nơi xứ sở yêu-quý nầy. Ngồi
trầm ngâm suy tưởng tôi xin thú thật,
phần nhiều mấy anh mấy chị nơi quê
hương của tôi, hẳn đã biết tôi từ
thuở bé, anh chị thấy tôi truyền-giáo
tưởng tôi mê-hoặc chúng-sanh, Nghĩ rằng
không ai dám đứng lên hoạt-động, mà
tôi hăng-hái đứng lên phổ-thông nền
Đạo, cho đến ngày nay được thành nguyện-vọng,
các bạn tôi rất lấy làm lạ, cho rằng
ngày trước nó là bạn của ta, nó không
có gì đặc-biệt mà ngày nầy bước
chân đến nền Cao-Đài thì thì thấy
có sự thay đổi lạ-lùng, Bởi vì tôi
đã lấy khuôn-khổ đạo-đức tinh-thần
phù-hạp với phong-hoá lễ-nghi, có ảnh-hưởng
đắc-lực với dân-chúng thi-thố chơn-truyền
của Đức Chí-Tôn cho ra thiệt-tướng,
cho bạn đồng-hương của tôi được
thấy ân-huệ thiêng-liêng ban-bố cho nòi-giống
ta giá-trị cho tỉnh Tây-ninh biết bao-nhiêu.
Cầu-nguyện Ơn Trên ban-bố hông-ân để
dìu-dắt mấy chị, mấy em đến đây,
đến Đền thờ Chía-Tôn là nơi Chí-Tôn
đã tạo nổi hình tướng của Đạo.
Mấy
chị đừng ái-ngại cứ bước lên làm
gương-mẫu cho kẻ đi sau, Chí-Tôn đến
đây lập đại-nghiệp Thiêng-Liêng cho
toàn thiên-hạ. Bần-Đạo tin-tưởng Người
chỉ làm việc hửu-ích cho đời. Đối
lại hỏi chúng ta đã làm gì ra giá trị
? Gia-Tô giáo của kẻ nghèo-nàn đói khổ,
của một vị Giáo-chủ hành-khất, còn
nên được đại-nghiệp, chúng ta làm
bao nhiêu như bọt nước bèo trôi. Một
tiếng nói, một việc làm, trong gia-đình
không phải là đủ, có thể nói tỷ-dụ
như một ống truyền-thanh thường trong
gia-đình chỉ đủ dùng cho gia-đình đó
nghe thôi. Tôi tưởng muốn tạo dựng
cả tinh-thần nòi-giống nươc nhà cần
phải gia-tăng năng-lực thêm nũa.
Ngày
nay không phải như trước kia, cử nầy
mấy chị , mấy em có thể ra vào thong-thả
được, mở ra con đường tiến-hoá của
noig iống. Ngày nay mấy chị đã đến
trong nền Đạo nầy tôi xin để lời
cám-ơn toàn mấy chị mấy em.
Đạo-đức
học đường ngày 16 tháng 8 năm Đinh-hợi
(1947)
LỄ
BẢI TRƯỜNG ĐẠO-ĐỨC HỌC-ĐƯỜNG
Mời
mấy vị Giáo-viên và ân-nhân của trường
Đạo-đức học-đường vào trước mặt
Thầy.
Lời
Tiên Nho chúng ta đã nói:”gia bần tri
hiếu tử, quốc loạn thức trung thần”
hoàn-cảnh khó-khăn làm cho Thầy khó định-tâm
cảm-xúc vô-han, thấy tinh-thần mấy em
đối với đoàn hậu-tấn tức là tương-lai
vận-mạng nước nhà. Đạo ngày sau cũng
nhờ đám nầy. Cả thảy thống-khổ của
mấy em, Chí-Tôn và Hội-Thánh đều nhận
thấy cả yếu-lý.
Hại
thay ! gặp buổi loạn-lạc, khuôn-khổ
phong hoá nước nhà bị tiêu-huỷ, đời
xu-hướng theo vật hình bỏ rơi đạo-đức.
Chúng ta có trước mắt kẻ thù, đối-phương
có năng-lực khả-dĩ tiêu-diệt chúng
ta là cọng-sản đệ-tam, đã làm cho tâm-lý
loài người bải-hoải tiêu-tan, xu-hướng
vật-hình là tranh-đấu. Hể tranh-đấu
tất-nhiên là còn trường tiêu-diệt,
có Cơ-quan tiêu-diệt tức có Cơ-quan bảo-tồn,
chẳng phải mình ta là đủ. Chí-Tôn mở
trường dạy con cái của Ngài, là lo làm
sao bảo-tồn sanh-mạng cho nhơn-loại,
chẳng phải kiếp nầy mà đời đời
kiếp kiếp. Phận-sự tối-trọng Ngài
giao cho Đạo, chúng ta chỉ mới vẽ một
nét đầu mà thôi, kết quả không phải
trong buổi nầy mà trong tương-lai đoàn
hậu-tán. Mấy em nhận-định được điều
ấy, chẳng hề vì danh-vị, chẳng kể
hoàn cảnh khó nhọc, chẳng nài đói khó,
khổ não chẳng tủi-hờn, cái cảnh mấy
em chịu đói rách với Đạo, tạo đầu
óc cho mấy em nhỏ, thì không ân nào trọng
hơn nữa. Đài Tần, đảnh Hớn, từ thượng-cổ
đến giờ còn ghi, đó là cơ-quan hửu-hình,
cả khối tinh-thần chúng nó do mấy con
tạo nên sẽ trường-cửu, không có năng-lực
nào đối-phó đặng.
Mấy
em là “Kiến-trúc viên” vẽ từ nét
coi từ điều, quan-sát tất-cả mọi hay
dở mà sữa đổi cho tận thiện tận
mỹ, cái thành-trí Chí-Tôn giao cho mấy
em kiến trúc đó sẽ tạo lập thành quách
tương-lai mà chớ.
Bần-Đạo
cám ơn và tin cậy mấy em.
Ngày
16 tháng 8 năm Đinh-Hợi ( 1947 ).
KINH-TẾ
LÝ-TÀI
Để
trả lời bài diễn văn của Ông Trưởng-Ban
Kinh-Tế Lý-Tài vừa đọc với những
lời trong tâm lý thật thà. Nếu thiên-hạ
biết đảm nhiệm thi-hành theo thì bước
tương lai sẽ vững-vàng. Nền Kinh-Tế
của mỗi nước có tươn-liên với Quốc-Tế,
nền Kinh-Tế Lý-Tài vững thì Quốc-Tế
mới vững.
Hại
thay! Nước ta trước kia chưa bị chiếm
cứ và sau 80 năm bị Pháp quốc thống
trị, nền Kinh tế vẩn không có gì hết.
Nếu chúng ta nhìn vào sự thật, khởi
đoan ta có Kinh tế từ khi tẩy chay gốc
cà phê của Đường-Nhơn .
Dân
ta từ xưa đến nay có cái bệnh lưu truyền
xu hướng theo quan trường, nên nền Kinh-Tế
đều phí bỏ cho Ngoại-quốc may là mình
phú thác cho Đường-Nhơn là anh em cùng
nòi giống với mình, nếu vào tay người
khác màu sắc thì cái hại không biết
chừng nào.
Nay
biết rằng toàn quốc-dân cũng đều hiểu
Kinh-Tế Lý-Tài là vận mạng của nước
nhà thì mơ mộng của tôi sẽ đắc thành.
Nhờ Đường-Nhơn chỉ từ trước đem
hết năng lực từ thử trao lại cho chúng
ta nếu họ nhìn chúng ta là đồng chủng,
tìm phương thế giúp ta lập nền Kinh-Tế
thì nên việc được. Năng-lực của Trung-Hoa
có phương lập nên cho chúng ta về Kinh-tế
trong nội địa Việt-nam nầy mà thôi.
Lấy theo bản thống-kê chót (derrnier recensement)
trong năm 1935 là một triệu tám trăm ngàn
(1.800.000) có lạc-loài cũng còn một triệu
(1.000.000), phần nhiều là nhà Canh-nông
tư-bản. Ta khởi làm cái trứng thương-mãi
trong Đạo, nếu nó sống được, biết
đâu hột giống của Đạo tạo ra sẽ
sanh bông trổ tái, chẳng những cho quốc
dân hưởng, mà cho đến cả toàn cầu
nữa. Nền Đạo-Cao-Đài, do văn-minh tối
cổ Á-Đông mà Trung-hoa và Ấn-độ đều
chịu ảnh-hưởng, có hai dân-tộc đó
nâng-đở thì sau nầy về mặt kinh-tế
mình vững lắm vậy. Phỏng theo tình-thế
mà đoán nếu nền kinh-tế ta có năng-lực
khéo hay, đặng hiệp với Trung-hoa và
Ấn-độ thì nên được mà thôi.
Chúng
ta đem hột giống ấy gieo không thấy
mọc, nếu mọc được rồi khéo tìm cách
trồng xuống đất-đai phì nhiêu lat Trung-hoa
và Ấn-độ thì chúng ta đủ sống.
Vía
Đức Lý Giáo-tông ngày 18 tháng năn năm
Đinh-hợi (02/10/1947)
NGUYÊN
DO ĐẠO CAO-ĐÀI XUẤT-HIỆN
Hôm
nay Bần-Đạo giảng: ”Nguyên-do nào có
Đạo Cao-Đài sản-xuất buổi nầy”.
Theo bí-pháp chơn-truyền thì mỗi chuyển
của địa-cầu là một nước thăng
tiến. Mỗi chuyển có 36 ngàn năm, chia
làm ba nguơn, mỗi năm có 12 ngàn năm.
Chiếu theo pháp Phật trong mỗi chuyển
Thượng-nguơn hay là khai nguơn thuộc quyền
Phật, Trung-nguơn thuộc quyền Tiên, Hạ-nguơn
thuộc quyền Thánh. Nhận-định bí-pháp
thiêng-liêng của Chí-Tôn, nhỏ có người
dạy, lớn học-hành lập thân danh, thành
nhơn rồi tự-trị lấy mình . Phật thì
dạy, Tiên đào-luyện, Thánh thì trị.
Hạ-nguơn thuộc Thánh, nhơn-sanh tranh-đấu
cho sự sống còn, ấy nguơn tranh-đấu
mà triết-lý cốt là trị được sản-xuất
cơ-quan bảo-tồn cho loài người.
Hạ-nguơn
tam chuyển hầu mãn, khởi Thượng nguơn
tứ chuyển, địa-cầu chúng ta lạc hậu
nhiều lắm vậy. Đã ba ngàn năm xa xuôi
đã thua thuỷ-đức, kim-đức và mộc-đức
tinh-quân trong số bảy địa-cầu (Système
solaire. Les sept plannètes solaires) người
ta đã bảy chuyển, mình mới tới đệ
tứ chuyển, vì vậy nên Chí-Tôn mượn
các Đẳng Chơn-linh ở các địa-cầu
kia đến làm bạn với chúng ta. Chẳng
những Hoá-nhân mà đến Nguyên-nhân, Chí-Tôn
cũng mượn họ đến tại địa-cầu nầy
làm bạn giáo-hoá chúng ta. Không biết
số bao nhiêu theo Phật-pháp thì được
24 chuyến thuyền Bát-nhã chở họ đến,
khoản chừng 100 ức. Phật-tổ độ 6
ức, Lão-tử độ 2 ức, còn 92 ức đến
Hạ-nguơn nầy cũng chưa thoát khổ, vì
cớ Chí-Tôn mới đến khai Đạo Cao-Đài.
Thượng-Ngươn
về phần Phật giáo-hoá thì khởi ngươn
tứ-chuyển cũng về Phật. Ta tìm hiểu
triết-lý nầy, vì Thánh bất lực thì
Phật phải đến chớ có lạ gì đâu,
để đánh thức nhơn-sanh độ rỗi họ
vào con đường hoạt-bát tinh-thần, thức-tỉnh
họ trong trường hổn độn nầy, cho họ
nhớ lại rằng chơn-linh của mình đều
do nơi khối chơn-linh của Chí-Tôn và
phải nên nhớ đến chơn-linh đừng quá
chạy theo tánh-chất mà bị đoạ-lạc
luân-hồi, tức là Phật qui nhơn-sanh qui
hồi nguyên-bổn vậy.
Dở
sấm-truyền xem mỗi phen có đến Brahma,
Civa, Christna, đến cầm quyền-năng trị-thế
cũng đủ, Ta thấy trước mắt như vậy,
nắm quyền trị không thì chưa đủ vai
tuồng, vì dầu có đủ quyền năng quyền
năng để trị cũng không thể nắm cả
quyền-hành tâm-linh thiên-hạ được.
Phải có giáo-hoá vì giáo-hoá là căn-bản
của trị, nếu chỉ trị mà không giáo-hoá
thì thất-sách. Phật thuộc về giáo-hoá,
Thánh thì trị. Hại thay! Thế-gian nầy
chỉ có chánh-trị thôi. Quan-sát khắp
Âu-châu có người tu Phật đến bực
siêu-việt, có thể xuất-thần vân du
thiên ngoại, xem xét các pháp, nhận thấy
nền chánh-trị Chí-Tôn chia ra hai mặt
:
1.-
Chánh-trị Càn khôn Thế-giới.
2.-
Chánh-trị Cực-lac Thế-giới.
Họ
làm chứng quả quyết như vậy (Le gouvernement
se compose de deux sections : 1.- Gouvernement.
2.- Enseignnent).
Chúng
ta thấy hiện-tượng Chí-Tôn mở Đạo
Cao-Đài.Tại sao gọi là Cao-Đài? Thuở
trước Cổ-nhơn muốn cầu Tiên, phải
cất một cái đài thật cao bằng tranh
lá gọi là Thảo-đài. Ngày nay Chí-Tôn
lập Đạo Cao-Đài để làm Toà ngự của
chư Thần Thánh Tiên Phật đến hồng-trần
nầy làm bạn cùng người, hiệp cả loài
người làm một, bất luận sắc dân nào,
màu da nào, dầu tinh-thần bất đồng-thẻ
cũng đều do nơi luật luân-hồi cầm
quyền (Pouvoir seigneurs de la loi Karmique
gouvernement).
Cá-nhân
cũng như xã-hội loài người đều đặt
dưới luật quả-báo. Cá-nhân hay quốc-gia
cũng dưới quyền ấy. Quả nhẹ thì tấn
mau, nặng nề thì chậm-chạp. Hể nặng
mang quả-kiếp, tức tấn-bộ chậm chập.
Aâu-châu
nhờ có Đạo Thánh Gia-Tô nên trong 2.000
năm sau hưởng ân-huệ thiêng-liêng không
ai bằng . Thánh bên ta là Khổng Phu-tử
thì hiền , ai làm thì làm không buộc
, không như Ông Thánh bên phương Tây ép
phải làm. Bần Đạo nghĩ rằng : ép buộc
đắc lợi hơn.
Chí-Tôn
đến mới nói đại-đồng thế-giới
đã làm rồi , nhưng không thành , Chí-Tôn
đến làm cho thành , đem nhân-loại quy
một bổn nên mở Đạo Cao-Đài làm nguồn
cội . Thượng ngươn là Ngươn của Phật,
Thánh không trị được , thì Phật đến
độ rỗi, cũng như hể có người nghiêm-khắc
thì có người nhơn-từ, hể không trị
được thì cũng có người dỗ-dành khuyên-lơn
mới được , nên Ngươn tứ chuyển đúng
theo chơn-pháp thuộc về Phật đó vậy.
Đền-Thánh
giờ Ngọ ngày mồng 1 tháng 9 năm Đinh-hợi
(19470
CƠ-QUAN
CHUYỂN THẾ
Bần-Đạo
nhờ buổi Chí-Tôn mới đến tỏ danh-hiệu
Ngài, Người hứa với các môn-đệ của
Người buổi đầu tiên về cơ-quan chuyển
thế làm phân-vân biết bao-nhiêu nhà trí-thức,
tìm hiểu hai chữ chuyển thế nghĩa là
gì ? Theo triết-lý học định nghĩa chữ
chuyển-thế là xoay đổi thời đại hiển-nhiên
ra thời đại khác hoặc không phù-hạp,
hoặc quá khuôn-khổ nề-nếp nên quyết-đoán
thay đổi lập-trường thiêng-liêng vì
thời-đại này đã định.
Chuyển,
nghĩa là sửa-đổi củ ra mới, lấy nghĩa-lý
đã định hẳn ra , tức nhiên chúng ta
nhận thấy các khuôn luật đạo-đức
từ trước đến giờ để lại đều
bị biếm-trách cả, bởi vì đời quá
hung-tàn bạo ngược vô nhơn-luân , tinh-thần
đạo-đức không quy-định. Tâm-lý loài
người không tương-quan cùng nhau , mất
cả cả luật đồng sanh làm căn-bản
làm của loài người , luật đồng sanh
gần như bị huỷ bỏ, bởi thấy tấn-tuồng
trước mắt , nào giặc-giả chiến-tranh
; giành sống mà giết lẫn nhau , oán kết
thâm thù, loài người do nơi ấy mà biến
sanh tàn ác , cái phương sanh sống đến
một giai-đoạn rất khó khăn mà chúng
ta thử xét đoán trong các kinh-điển Tôn-giáo
đã để lại là “ mưa dầu nắng lửa
”. Trận mưa dầu nắng lửa sẽ có hiện-tượng
y như trong kinh-điển đã nói . Cũng vì
sự sinh-hoạt khó khăn mà loài người
giết hai lẫn nhau . Trên mặt địa-cầu
, nếu lấy con số hiểu biết người
ta ước chừng khoản hai ngàn năm mươi
bảy triệu sanh-mạng , không kể mấy
trận giặc tàn-khốc đã qua , hiện giờ
làm giảm bớt rất nhiều trong số ấy
. Đời sống đến giai đoạn khó khăn
hơn nữa, những phẩm-vật nuôi sống
loài người càng giảm bớt, thì nhân-loại
còn quyết-liệt chiến-đấu hơn nữa.
Bần-Đạo
tìm hiểu định nghĩa hai chữ “chuyển
thế” là thay đổi thời thế, đem kinh
luật ra quan-sát thấy mỗi thế-kỷ, mỗi
nguơn từ trước đến giờ nhiều gai-đoạn
cũng giống nhau một cách lạ lùng, những
tấn-tuồng nầy giống tấn-tuồng trước,
không ngoai khuôn-viên ấy, trước hết
bắt đầu là sắc dân da đen là dân Brahma,
tức là dân Ấn-độ, Chí-tôn giao vận-mạng
địa-cầu nầy cho dân da đen, vì dân
da đen là con trưởng nam của Đức Chí-Tôn,
Đức Chí-Tôn giao cho dân da đen nắm giữ
về tinh-thần lẫn hình-thể, không ai
hân-hạnh hơn dân da đen. Nước Aán-độ
có Đạo đầu tiên hơn hết, làm chúa
cả địa-cầu nầy. Đã được hửu-hạnh
cao-trọng quyền-năng hơn hết, nhưng rồi
phân chia nòi-giống, biệt-lập tương-tranh,
tận-diệt tất cả nòi giống khác, chính
mình chúng ta hôm nay, cũng ở trong khuôn-khổ
đó vậy. Vì thế mà mất quyền-hành,
Đức Chí-Tôn mới đem dân da xám là dân
Bengalis (Bènarés) lên làm chủ-quyền,
chuyển-giao lại cho dân da xám sửa Đời,
trị thế. Chí-Tôn đem Đạo Brahma để
dân da xám làm chủ, làm chúa sửa Đời,
lập Đạo, trái lại dân da xám không
làm nên phận, các tấn tuồng hung-ác
mãi diễn lại, buộc Đức Chí-Tôn phải
cho dân Olivâtre cầm quyền làm Thầy nơi
địa-cầu nầy đặng trị-thế, nhưng
rồi sắc dân Olivâtre cũng không làm nên
phận, nên mới có nạn tận-diệt mà
chúng ta đã thấy khuôn-khổ đó là khoản
đất Á-Đông nầy thuộc bán đảo Malacca
cũng bị hành-pháp đó, cho nên biển tân-diệt
sát hại, chỉ còn lại Presqu’ ile de
Malacca.
Đức
Chí-Tôn mới giao cho sắc dân da đỏ,
sắc dân nầy là dân xứ Egyte (Ai-cập)
tức là nòi giống của thế-giới mới.
Pérou cũng là con cháu sắc dân ấy. Lúc
trước thế-giới mới chưa có, xung-quanh
vòng xích-đạo (Equateur) lúc bây giờ
là toàn biển cả hoá cồn như vùng
sa-mạc Sahara ngày nay, nơi dân Atlantéenné
tối cổ. Thấy dân Pesrou, Egypte mà ngày
nay ai cũng phải cúi đầu trước sự
văn-minh của họ. Nhưng đến nay họ không
còn tồn tại đẹp đẻ như trước ,
vì làm Chúa mà giết người, làm anh,
làm Thầy không xứng đáng . Đức Chí-Tôn
thấy nhân-loai không giữ vững thiên-lương
đức-tánh mới làm ra trân Đại-Hồng-Thủy,
cho nên mới có thế-giới mới ngày nay.
Đến
da vàng (Asi Iranienne) là nước Tàu, đừng
tưởng nước Tàu do một sắc dân mà
ra, họ gồm nhiều sắc dân hiệp lại
thành nước Tàu, thành thử tiếng nói
thì khác chỉ có chữ giống nhau mà thôi,
nước Nam ta gốc ta gốc ở nước Tàu,
giống da vàng cũng thất Đạo nên Đức
Chí-Tôn để quyền cho giống da trắng
gần Mongol hiệp với Race Caspienne (Afghanstan)
Yougoslavie ở Cận-đông tràn qua Âu-châu
lập-quốc rồi chiếm-đoạt Âu-châu.
Đức
Chí-Tôn để quyền cho dân da trắng làm
chủ, thay vì dân da trắng lo sửa đời
trị thế, trái lại để cho thế-giới
tương-tàn tương-sát lẫn nhau, nếu cơ-quan
chuyển thế đổi quyền thì mặt địa-cầu
còn thay đổi. Dân da trắng rồi cũng
như cảnh-tượng Hoàng-đồø nước Tàu
vậy. Cơ-quan chuyển thế mà Đức Chí-Tôn
lập trước mắt sẽ dữ-dội lắm , tấn-tuồng
đó vẫn còn tiếp-diễn chưa dứt.
Bần-Đạo
quả-quyết rằng : sẽ còn đại động
dữ dội một phen nửa nơi mặt địa
cầu này, đăïng chi? Đặng giống da
trắng giao quyền cho sắc dan mới nửa
là giống dân Thần-Thông Nhơn (Race Lucde)
làm chủ, cầm giềng mối toàn mặt địa
cầu này.
Hại
thay Luật Thiên-nhiên chiếu theo Kinh
Luật thượng cổ để lại quan-sát
hẳn-hoi, dở sách ra coi thấy thế nào
sau thế ấy, bánh xe tiến-hoá vẫn đi,
xây một chiều . Bần-Đạo e cho loài
người mài-miệt tội-lổi đó càng
nguy hại cho loài người hơn nửa, nên
Chí Tôn lập Đạo Cao Đài là đền
thờ cao trọng đức-tin to lớn, ngự
trước thiên-lương loài người mới có
thể thắng cơ-quang thiên điều định
trước.
Chúng
ta, Thánh-Thể của Ngài, giúp Ngày giải-quyết
được chăng? Nế thoáng không được,
cái hại nầy còn duy trì nữa. Ngài muốn
Việt-nam nầy là Thánh-Địa cho nhơn-loại
biết rằng: nhờ đây mà giải quyết
cứu-thế bảo-tồn nhơn-loại là do con-cái
của Ngài, do nưoi chúng ta. Nếu bất lực
chúng ta có phần lỗi đó vậy.
Đền-Thánh
ngày rằm tháng 9 năm Đinh-Hợi ( 1947 ).
ĐỨC
CHÍ-TÔN HỨA VỚI LOÀI NGƯỜI
Hôm
nay chúng ta làm lễ buổi trưa, giờ ngọ
rảnh thì giờ giảng về triết-lý của
Đạo. mỗi hành-tàng của chúng ta nhập
vào thánh-thể của Đức Chí-Tôn tìm
hiểu hầu chúng ta đi đến mục đích
và phải biết cho chắc rồi mới vững
bước không bợ-ngợ thất tâm, vì biết
sự chơn-thật. Chí-Tôn hứa với loài
người, Ngài sẽ đến giao nền Chơn Đạo
đạy dỗ với sự chơn thật cho con cái
của Ngài, dựa theo chơn-lý, dùng lý-trí
đặng tiềm tàng hiểu biết tận tường
chơn-lý ấy.
Hôm
thứ hai tuần rồi, Bần-Đạo đặng nghe
trong máy truyền-thanh, Liên-Hiệp-Quốc
đã hội hiệp nhau trù hoạch phương-châm
lập chánh-trị hoàn-cầu, chẳng những
thống-nhứt cả quốc gia làm một, mà
còn qui tụ nòi giống loài người làm
một. Luận-thuyết ấy có đủ lời lẽ
rất nên hiển-nhiên để lập một nền
chánh-trị có hiến-pháp có chánh giới,
có quân-bị, đủ như nền chánh-trị
quốc-gia kia vậy. Vị đề-xướng suy-luận
rằng: cả loài người còn mơ hồ nói
không thể nào đạt đến dặng. Nhưng
họ phải nghĩ lại như buổi trước kia,
nếu nói người ta lấy nước có thể
vận-hành cả địa-cầu thay đổi, ta
không tin, bây giờ đã có chiến-hạm
chở nổi 80.000 tấn chạy cùng khắp trên
mặt biển. Người ta không tin có điển
khí, và hiện giờ đã có điển-khí ấy
nó chiếu sáng khắp cùng trên mặt địa
cầu. Trước kia vô-tuyến-điện , và
loài người bay và nghe thấy được dọ
dẵm trên không trung. Thiên-hạ không tin,
thì ngày nay nó đã hiện tướng mà loài
người đã đạt đến, Bần-Đạo tin
chắc-chắn rằêng: Họ sẽ thành-tựu
mà lời hứa Chí-Tôn sẽ hẳn đúng.
Chí-Tôn
đến dặng hiệp con cái lại làm một
nhà của Ngài. Trong Thánh-ngôn Ngài còn
quả-quyết đó, Ngài đến tạo ra tân
thế-giới làm cho nhơn-loại đại-đồng.
Nếu sự tiềâm-tàng sắp đặt không
đặng kết-liễu thì Chí-Tôn sẽ thất
hứa với con cái của Ngài mà chớ ! Bần-Đạo
dám chắc rằng: Ngài không bao-giờ thất
hứa, vì đã được 99 điều rồi Ngài
đã thật-hành vẹn hứa, không lẽ còn
một điều nữa mà Ngài làm không đặng.
Bần-Đạo
tiềm-tàng kiếm luật tương-đối hửu-vi
đương nhiên của toàn thiên-hạ và cả
chúng-sanh trên mặt địa-cầu nầy. Luật
tương-đối ấy là gì ? Có hai luật :
Hửu-tướng (Loi de relativité physique) và
Vô-tướng (Loi de relavité spirituelle) tương-đối
khắp cả Càn-Khôn Vũ-trụ nầy. Do luật
thiên-nhiên ấy tạo thành Càn Khôn, Xã-hội
nhơn-quần; dầu cho xã-hội, cá-nhân nào
cũng phải chịu dưới luật tương-đối
ấy, dầu cả nhơn-sanh hay chúng ta cũng
vậy, đều chịu ảnh-hưởng của thất
tình. Hình ảnh thật hiện con Thất-đầu-xà
mà ta thấy là hình-ảnh của người đó
vậy, bảy mối tâm-lý ấy tạo nên hình
tướng loài người, là do bảy mối tình
: Hể có hỉ mới có nộ, có ai mới có
lạc, có ái mới có ố, duy có cái dục
đứng chánh quyền quyết-định mà thôi,
mà dục có thể dục cho ố, cho nộ, cho
ái, cho ai, cho lạc được. Nó có lập
trường đặc-sắc đủ quyền điều-khiển.
Aáy là hình tướng thiên-nhiên của
Tạo-đoan, nên Chí-Tôn nói có âm ắt
có dương, có nóng ắt có lạnh. Nếu
có âm mà thiếu dương là mặt trời thì
bảy địa-cầu (Sysstème planètaire) và
cả nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy
chưa chắc gì mà còn sống. Nếu có mặt
tròi mà không có mặt trăng, là không
âm, thì cả vạn-vật và loài người
không còn, nghĩa là nếu không có âm dương
thì không có Càn-Khôn Vũ-Trụ.
Luật
tương đối tạo-đoan Càn-Khôn Thế-giới
dầu hửu-tướng hay vô-hình cũng vậy,
có nên ắt có hư, có đặng ắt có thất,
có thắng ắt có bại, có mạnh yếu tất
nhiên có hiền dữ, lẽ tư-nhiên luật
tương-đối phải vậy, đời vẫn hung
tàn bạo ngược vô đạo đăng chi ? Đặng
sản xuất luật tương-đối tức nhiên
là hửu Đạo, phải có luật tương-đối
đặng nó trở lại thiên-lương nhơn-đức.
Chí-Tôn để cho loài người một địa-điểm
dữ-tợn không biết trời, không biết
đất, sắp đặt có hung ác, có hiền
lành , thì cái lành ấy Chí-Tôn giao cho
ai ? Bởi luật ấy rất công-bằng, tội
phải trả, hiền thì đặng hưởng, quyền-năng
thiêng-liêng vô-hình nắm vận-mạng cả
loài người và càn-khôn thế-giới, vốn
một mặt luật, chẳng vậy thì chúng
ta chỉ làm lành mà chi ? Đạo khổ thảm
không hưởng chi hết, còn ác thì nó sang-trong
vinh-hiển, thì cái sống nầy không có
luật công-bình chi cả. Vì cớ mà triết-lý
Bác-sĩ Stem nói : luật tương-đối có
quyền-năng định vân-mang toàn-cầu xã-hội.
Ngài chỉ nói đến luật hửu-vi của
nó, còn luật vô-hình Ngài không luận
được.
Nếu
có hửu-tướng và hiện-hửu thì cũng
do nơi một cái quyền-lực nào mới được.
Hung ác lập lập nên bá-chủ hoàn-cầu
nầy, là vì đời không có cái tương-đối
ấy, nên quyền năng lành trừ diệt nó
không đặng , thành thử nó cứ làm dữ
mãi. Cả thiên-hạ đều dữ, dữ nên
sống, nhưng cái dữ ấy có quyền hạn-định
phải tiêu-diệt. Cả toàn cầu đương-nhiên
của hai khối cọng-sản và quốc-gia,
hiện nay trên mặt địa cầu gần phân
nữa theo quốc-gia cho vừa mức cân phân,
nữa hiền nữa dữ là tại cọng-sản
quá bạo ngược , nên phải lâùy hiền
sửa dữ kia. Chí-Tôn cốt-yếu nắm quyền
ấy để sửa đời, nguyên do Ngài muốn
nói đến đặng tạo tân Thế giới là
vậy. Ngài đã hứa và Ngài sẽ trọn
hứa cùng các con cái của Ngài.
LỄ
CÁC THÁNH (TOUSSAINT)
TẠI
TOÀ-THÁNH TÂY-NINH.
Ngày
21 tháng 09 năm Đinh-Hợi (3-11-1947)
(8
giờ Đại-lễ Chí-Tôn , cầu-nguyện cho
vong-hồn các Thánh tử Đạo, có đủ
chư chức-sắc, chức-việc và Đạo-hửu
nam, nữ. Nhiều quan chức Văn Võ Pháp
dự cúng. Sau thời cúng xong Đức Hộ-Pháp
giảng Đạo).
Ngày
nay là ngày lễ các Thánh Tử Đạo của
Thiên-Chúa-giáo tức là Đạo Thánh đó
vậy. Chúng ta biết rằng sắc dân nào
cũng có chơn-lý tối-trọng là chẳng
hề qua khỏi mặt Đạo, ấy là gương
tỏ rạng cho toàn con cái Chí-Tôn soi thấy.
Dầu đời biến-chuyển thế nào, nhơn
loại cũng không bao giờ xa Đạo, bởi
quyền-năng tinh-thần là một, sắc dân
nào dầu văn-minh cao-siêu đến đâu cũng
chẳng từ chối Đạo-giáo được. Trước
mắt chúng ta thấy rằng nước Pháp không
phải là nước vô đạo mà cả châu Aâu
cũng không phải toàn thể đều vô đạo.
Nếu lấy sự thật quả quyết tại đền
Lourrdre ở Vichy, ta thấy từ chơn giáo
nhỏ đến giờ chưa có ai ép xác, vì
tâm đức yêu ái và tín-ngưỡng Đức
Chí-Tôn mà đi 10 cây số bằng hai đầu
gối đến lạy Chí-Tôn. Tưởng chắc
rằng không đâu có mà ở nước Pháp
đã có. Còn nói chi các kỳ đại lễ,
chúng ta ai ai cũng biết rằng người Âu-châu
cổi dày thì không đi dặng, và không
có hình phạt nào nặng hơn băng bắt
họ đi chơn không. Mỗi kỳ phải cổi
giày và vát tượng ảnh Chúa đi hằng
10 cây số ngàn. Suy đó không ai từ chối
Đạo cho đặng.
Ngày
nay Chính-phủ Pháp, Chánh-phủ Nam-kỳ
và cả chúng ta thiết lễ cầu siêu
cho nhơn-loại, dưới thế-gian nầy loài
người phân-chia nòi giống, họ-hàng,
tông-tổ, chia vật hình chia sắc da, chứ
chơn-linh chúng ta không phân-biệt tộc
phái nam nữ nòi giống gì cả, thoát khỏi
hình thể nầy rồi ta vào Thánh-thể thường
tại của Chí-Tôn. Hại thay, có nhiều
chơn-hồn ân hận đau khổ khi giải thể
mới nhận thấy tranh đấu nhau trên mặt
thế nầy là một điều rất vô lý và
khổ não đáo để khi về cỏi hư linh.
Nước
Pháp và khắp Aâu-châu họ hiểu cái triết
lý cao trọng ấy của Đạo giáo. Chư
Đạo-hữu đừng lấy lời Bần-Đạo
vừa nói mà khi thị. Họ hiểu còn ta
chưa, các chơn-linh chiến địa kia, ngày
giờ nào qua đệ nhứt thiên, qua âm-quang
cảnh, ân hận, than trách ôm nhau mà khóc
lóc, vì về đến đó thì không còn thù
địch nhau nữa, ở thế-gian nầy, mang
xác thịt phàm phu nên lầm lạc. Thiên
hạ có lẽ hiễu sự bí-mật Đạo giáo
ấy, lầm lỗi biết ăn năn hối-hận,
các chơn linh đồng hoá giọt máu bảo-tồn
quốc thể của mình được cao kỳ về
tinh-thần đạo-đức, còn hình thể tại
thế gian nầy thì ái yêu cao trọng.
Sự
công-bình tại thế-gian nầy là trồng
cây thì hưởng trái chẳng có gì lạ.
Nơi thế-gian thế nào thì trên cõi hư-linh
cũng vậy. Các anh chi em, các con nữ phái,
đừng tưởng chết là hết. Trồng cây
còn được hưởng trái, nếu chết là
hết thì sự công-bình thiêng-liêng té
ra vô nghĩa lý lắm sao ? Họ được hưởng
với tinh-thần cao-trọng hơn nữa, bằng
chẳng vậy thì luật công-binh là vô hiêu-quả.
Đem
giọt máu tinh-thần giống nầy hoà với
giông kia thì hột giống ấy sẽ gây lại
cho toàn nhơn-loại trên mặt địa-cầu
nầy hưởng đặng hoa quả hạnh-phúc.
Đền
Thánh đêm 30 tháng 9 năm Đinh-hợi (1947)
QUỐC
ĐẠO
Thưa
cùng chư Chức sắc Thiêng-phong, chư Chức-việc,
mấy em, mấy con nam, nữ !
Ngày
nay Đạo Cao-Đài đã đến khoản đường
kết liễu danh-giá và hình tướng của
nó, nên Bần-Đạo lấy đề hai chữ Quốc-Đạo
đem giảng-giải, Chí-Tôn ban-sơ thuyết-minh
Đạo-lý hầu may ra những kẻ mơ-hồ
tỉnh mộng đặng hiểu biết mình đến
lập-trường nào, phương-sách nào, khoảng
đường nào, ấy là điều rất hay về
tâm-lý toàn cả Quốc-dân buổi nầy.
Hai
chử Quốc-Đạo lần đầu, Chí Tôn viết
ra làm cho Bần-Đạo mờ-mịt, củng vì
hai chử Quốc-Đạo ấy mà Phạm-Công-Tắc
chết năm 35 tuổi, thí thân theo đuổi
làm cho ra thiệt tướng. Ôi! Hai chử
Quốc-Đạo là một vật mà Bần-Đạo
tiềm-tàng rồi mới hiểu, khởi điểm
biết thương yêu nòi giống biết thương
yêu tổ quốc, đeo đuổi mất còn với
cái điều khát khao từ buổi thanh-xuân
đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo,
năm 35 tuổi, Bần-Đạo thấy sao mà phải
khao-khát thèm-lạt, tại làm sao Chí-Tôn
biết thiếu thốn nơi tinh-thần điều
ấy mà cho Bần-Đạo, Bần-Đạo ban sơ
nghi-hoặc, có lẽ một đấng có quyền
năng thiêng-liêng biết tâm-lý đang nồng-nàn
ao-ước, đương thèm-lạt khao khát, đương
tiềm-tàng mà đem ra cám-dỗ. Hại thay!
Yếu ớt đức tin, ngày nay Bần-đạo
ăn năn quá lẽ, 15 năm đã đặng thấy
gì? Cả toàn thiên-hạ nói rằng nòi giống
Việt-nam không có Đạo. Lạ
lùng thay ! Chúng ta tự hỏi có thật vậy
chăng ? Thật quả có chớ, có nhiều Đạo
quá mà thành ra không Đạo, mượn Đạo,
xin Đạo của thiên-ha mà thôi.
Ta
thừa hiểu rằng nòi giống Việt-nam xuất-hiện
ở hoang-địa bên Tàu, nên ta không ái-ngại
nói Việt-nam nầy là sắc dân Tàu vậy.
Nòi giống Tàu nhìn quả thật là dân
Tàu mà thôi. Đất địa tổ-quốc ta không
phải ở đây, ở Bắc Tam-tỉnh là Quảng-đông,
Quảng-tây và Vân-nam kể luôn Đông-kinh
(Tonkin) tức là Hà-nội và Hải-nam nữa,
là tổ quán ta thì thiệt của ta đó vậy.
Bần-Đạo
tìm hiểu Nho-phong ta đạt đặng hay là
có trước. Chúng ta thấy nòi giống Việt-thường
nầy là con cháu nước Lỗ, mà Nho-tông
xuất-hiện cũng ở nước Lỗ nói rằng
giống Lỗ lập Đạo Nho, chắc hẳn là
Nho-tông chúng ta vi chủ. Nói vi chủ tức
là của mình nếu có Đạo Nho sẵn trước
thì ta có Đạo Nho, Đạo Lão, Đạo Phật
ba nền Tôn-giáo mà mặt địa cầu nầy
là trọng-yếu, bất kỳ là sắc dân nào,
hay liệt quốc nào cũng đều nhìn nhận
là do trong xứ Á-Đông nầy. Thêm nữa
Thần-Đạo nguyên do ở Phù-tang, sắc
dân vi chủ tức Nhựt-bổn đem truyền
qua Trung-huê rồi qua xứ ta. Ta chịu ảnh-hưởng
quyền-lực của của Thần-giáo từ đó.
Nhờ có nó Nho-tông phát triển khác chánh-giáo
hơn, lại biết tín-ngưỡng một cách
đặc-biệt hơn Thần-giáo. Bằng cớ hiện
hửu là ta đã thờ Thần trong các làng
ngày nay đó vậy. Ngoài nữa tâm-lý tín-ngưỡng
của nòi-giống Việt-nam nhiệt-liệt
và thật thà đối với bất kỳ Đạo-Giáo
nào. Đến thế-kỷ 19, đạo Thánh-giáo
Gia-Tô đem đến nước ta truyền-giáo
mới thành một trường nhiệt-liệt tranh-đua
quyết chinh-phục hết thảy các tôn-giáo
khác. Bần-Đạo đã giảng rõ-ràng nguyên-do
đó, thành-thử Việt-nam vì có nhiều
Đạo quá thành không Đạo.
Có
phen các bạn thân-ái tưởng đến tương-lai
Quốc dân, lo phương binh-vực mở rộng
tự-do thêm, tức có kẻ phản-đối đả-đảo
lại. Bần-Đạo không nhớ ở Hạ Nghị-viện
Pháp năm nào, những người binh-vực chúng
ta bị đả-đảo, nước Việt-nam không
tinh-thần Đạo-Giáo nên khó lập chánh-giới
lắm, vì không có căn-bản tinh-thần đạo-đức
mà chúng ta không thể chối và chịu thiệt-thòi
theo lời vu-cáo. Vì cớ, Bần-Đạo đau
thảm, khổ não tinh-thần tìm hiểu coi
sắc dân ta có Đạo hay chăng. Hại thay
! Ở trước mắt ta nào là bóng chàng,
đồng cốt, ông chàng, ông địa, làm
cho nhơ nhuốc cái tinh-thần Đạo-giáo.
Bần-Đạo uất-ức. Ngày Chí-Tôn tình
cờ đến, vì ham thi văn, nên ban sơ Diêu-Trì-Cung
đến dụ bằng thi-văn tuyệt bút làm
cho mê-mẫn tinh-thần. Hại thay ! Nếu
chẳng phải là nhà thi-sĩ ắt chưa bị
bắt một cách dễ dàng như thế, vì ham
văn-chương thi-phú nên Ngài ráng dạy.
Chí-Tôn đến ban đầu làm bạn thân ,
về sau xưng thiệt danh Ngài, biểu Bần-Đạo
phế đời theo Thầy lập Đạo. Khi ấy
Bần-Đạo chưa tín ngưỡng, bởi lẽ
nòi-giống nước Nam còn tín ngưỡng tạp
nhạp lắm, không chưn đứng, không căn-bản,
nói rõ là không tín-ngưỡng gì hết.
Bần-Đạo mới trả-lời với Đức Chí-Tôn,
ngày nay Bần-Đạo nghĩ lại rất nên
sợ sệt. Nếu không phaỉ gặp đặng
Đấng Đại Từ-Bi thì tội tình biết
chừng nào mà kể :
“Thưa
Thầy, Thầy biểu con làm Lão-Tử hay Jésus
con làm cũng không đặng, Thích-Ca con làm
cũng không đặng, con chỉ làm đặng Phạm-Công-Tắc
mà thôi, con lại nghĩ bất tài vô đạo-đức
nầy quyết theo Thầy không bỏ, nhưng
tưởng cũng chẳng ich chi cho Thầy”
Đấng
ấy trả lời :
“Tắc
! Thảng Thầy lấy tánh đức Phạm-Công-Tắc
mà lập giáo con mới nghĩ sao? “
Bần-Đạo
liền trả lời:
“Nếu
đặng vậy…”
Ngài
liền nói:
“Thầy
đến lập cho nước Việt-Nam nầy một
nền Quốc-Đạo “.
Nghe
xong Bần-Đạo từ đấy hình như phiêu-phiêu
lên giữa không-trung, mơ-màng như giấc
mộng. Được nghe nói cái điều mà
mjnhf thèm ước, nên Bần-Đạo không từ-chối
đặng.
Ôi
! Quốc-Đạo là thế nào ? Quốc là nước,
vậy nòi giống tín-ngưỡng lập Quốc-Đạo,
Bần-Đạo theo tới cùng coi lập nó ra
thế nào, hình-tướng nào cho biết. Vì
đó mà lần mò theo đuổi đến ngày nay,
thấy hiện-hửu cái hình-trạng là Đạo
Cao-Đài rồi lại đoán xét coi nó biến
hình Quốc-Đạo Việt-nam ra sao ? Ngài
cho một bài thi dám chắc không ai thấu-đáo
nỗi, người coi cái gốc thì không thấy
ngọn, người coi cái ngọn thì không thấy
gốc, tứ văn thiệt-thà hay-ho cho tới
khi các đảng-phái quốc sự ngày nay cũng
là lợi-dụng.
- “Từ đây nòi giống
chẳng chia ba”:
Tức-nhiên là không chia ba Đạo,
chớ không phải chia ba kỳ à.
-“Thầy hiệp các con lại một
nhà” :
Thầy nắm chủ quyền hiệp Tam-giáo,
nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam,Trung,
Bắc thì vô vị lắm.
-“Nam, Bắc cùng rồi ra ngoai-quốc”
:
Tức-nhiên
nền chơn-giáo Quốc-Đạo không phải
là của ta thôi, mà của toàn nhơn-loại
là truyền-giáo Nam, Bắc thành tướng
rồi ra ngoại-quốc tức là Tôn-giáo toàn-cầu
vậy.
- “Chủ quyền chơn-đạo một
mình ta”
Tam-giáo,
Ngài vi chủ, năm châu tín-ngưỡng lại
quy nhứt mà thôi. Nắm cả tín-ngưỡng
của loài người, chính Chí-Tôn là Chúa-tể
Càn Khôn Thế-giới, làm Chúa nền Chánh-giáo
tại nước Nam, vi chủ tinh-thần loài
người tức là đủ quyền-năng lập Quốc-Đạo.
Ngài đến đem đại-nghiệp cho Quốc-dân
nầy, hình thể lựa chọn ai? Chọn tạo-đoan
vạn vật tức là Phật-Mẫu, trí não
của Cha, hình-hài của Mẹ, cả thảy
đều thấy hễ vô đại-điện Đức Đại
Từ-Phụ , nào chức nầy, chức kia , mão
cao áo rộng, còn vô diện thờ Phật-mẫu
thì trắng hết, không ai hơn ai cả. Nếu
hiểu-biết thấy bí-pháp Chí-Tôn cao-kỳ
quá lẽ. Chí-Tôn nói rằng : Quốc-Đạo
nầy Ngài quy-tụ tinh-thần đạo-đức
trí-thức toàn nhân-loại cho đặc-biệt,
có cao, có thấp, có hàng ngũ, có phẩm-giá,
còn về phần xác-thịt của loài người,
mạng sống trước mặt Ngài không ai hơn
ai, cả thảy sống đồøng sống, chết
đồng chết, đặng đem Quốc-Đạo làm
môi-giới cả đại-đồng đặng tạo
tạo đặng tạo tương-lai loài người
cho có địa-vị oai-quyền cao-thượng.
Nếu hiểu đặng thì Thánh-thể cũng vậy,
Hội-Thánh, chư chức-sắc Thiên-phong nam
nữ hay toàn thể tín-đồ cũng vậy, lãnh
Thiên-mạng đảm-nhiệm trách-vụ thiêng-liêng
Chí-Tôn phú-thác lập Giáo, tức-nhiên
phải có phẩm giá, trật-tự đẳng-cấp
. Nếu hiểu thêm ý của Ngài, khi cổi
áo nầy ra khỏi Đại-Điện rồi hết
thảy đồng là anh em, không ai hơn ai,
không ai thua ai, không khinh, không trọng
, đầy đủ lòng yêu-ái trong lòng Mẹ
đem ra mà thôi, Nam, Nữ cũng thế. Ngày
giờ nào nhơn-loại cả thế-giới ở
mặt địa cầu nầy hiểu được lý-lẽ
chí-hướng cao-thượng ấy là ngày Đạo
Cao-Đài sẽ ra thiệt-tướng.
Đêm
mồng 1 tháng 10 năm Đinh-hợi (1947)
CÁC
CON ĐỐI VỚI PHẬT-MẪU
Bần-Đạo
giảng tiếp bài đêm hồi hôm, vì có
nhiều chị em không hiểu bài giảng đó
cho rõ rệt. Để Bần-Đạo hỏi rồi
mấy chị em trả lời cho trúng, cho hay
nghe!
Chúng
ta đã có một Bà Mẹ là Đức Phật-Mẫu
cầm quyền-năng tạo-đoan xác-thịt,
hình-hài của ta. Chí-Tôn là Cha phần
hồn, cho nhứt điểm Tính Phật-Mẫu là
Mẹ của xác cho nhứt điểm Khí, Cha Mẹ
hữu hình, vâng lịnh Phật-Mẫu tạo xác
thịt hiện-hữu đây, còn quyền-năng
thi-hài Đấng ấy làm chủ. Phật-Mẫu
có tính-chất của Bà Mẹ, Bần-Đạo
xin làm chứng rằng : tánh-chất của Bà
Mẹ hữu-hinh thế nào, thì tánh chất
của Bà Mẹ là Phật-Mẫu cũng hiện y-nhiên
như vậy, nhưng có phần yêu-ái hơn, binh-vực
hơn.
Chúng
ta khi vào Đại-điện của Chí-Tôn tức
là Cửu-Trùng-Thiên đó, đứng trong hàng
phẩm Cửu-Thiên Khai-Hoá có trật-tự
phẩm-vị quyền-hành, hạng thứ nên phải
mặc thiên-phục vào chầu, còn vào Đền
thờ Phật-Mẫu đều phải bạch-y tất
cả, dầu cho Giáo-Tông hay Hộ-Pháp cũng
phải cổi thiên-phục để ở ngoài, hỏi
tại sao phải như vậy ? Lấy tánh-đức
thường tình của một Bà Mẹ không có
gì lạ, ta thấy vì trong một gia-đình
kia dầu rân-rát, một người dầu quyền
cao tước trọng, dầu làm quan-Toà, quan
Tham-Biện hay Tể-Tướng đi nửa mà bước
vào nhà còn làm Tể-Tướng thì Ba Mẹ
lại không ưa lại thêm phiền luỵ, làm
quan với ai kia, chớ về nhà làm Quan với
gia đình à! Oai quyền với thiên hạ ở
ngoài kia chớ ở đây không thể làm oai
Quyền với Mẹ được, dầu bực nào
cũng vậy vẫn là con mà thôi, mấy chi
hiểu chưa? Bài học ấy dạy chúng ta
hiểu gì? Triết lý cao siêu ấy, nếu
chúng ta tìm hiểu thấu thì tương-lai
Đạo Cao-Đài mới có vậy. Bần-Đạo
đã nói: Thập Nhị-Thời-Quân, Thượng-Sanh,
Thượng-Phẩm, Hộ-Pháp gọi là Ngự-Mã-Quân
của Chí Tôn. Phật-Mẫu sợ Chí Tôn tạo
Đạo không nên phải tái kiếp, nên Bà
phải cho theo xuống Thập-Nhị Thời-Quân,
phẩm tước cao trọng thay, nhưng không
có gì trước mắt Phật-Mẫu, tất cả
con cái của Người vinh-hiển sang trọng
đến đâu, Người càng rầu càng lo sợ,
e sang trọng ắt tự kiêu, biết đâu không
hại cho tương lai vô biên của họ vì
quyền tước. Cả thảy lấy triết-lý
ấy để răn minh. Còn bây giờ Bần-Đạo
phải kết luận như sau đây: Về tới
cửa của Mẹ rồi, coi như đồng sanh,
đồng tử, cốt nhục tương thân, đừng
để tâm khinh-trọng tôn-ti, làm mất khuôn-mẫu
của Mẹ hằng mong ước, cả thảy nam
nữ cũng vậy phẩm vị bên Cửu-Thiên
Khai-Hoá không giống như ở đây, mấy
em dầu có tâm thương mến ở bên kia
cũng phải nhớ nơi bà Mẹ, ở sao cho
xứng đáng là con đối với Mẹ, là anh
em đối với anh em cốt nhục của mình
chung một gia-đình, là phải Đạo.
Ngày
10 tháng10 năm Đinh-Hợi ( 1947 ) tại Hiệp-Thiên-Đài.
DẠY
PHƯƠNG-PHÁP GIẢNG ĐẠO
Bài
học văn-chương của Chí-Tôn (cours rhétorique)
rất giản dị. Hành-tàng Pháp hay Việt,
cũng chẳng khác nhau, nói nói hay viết
cũng giống như một bài thi. Cách hành
văn (tenue) chia ra từng đoạn;
Sujet
đối với phá thừa.
Développment
đối với trạng luận.
Dénouement
đối với thúc.
Conclusion
đối với kết.
Diễn
văn phải giữ chặt niêm luật có mực
thước như một bài viết, phải khép
vào một khuôn luật nhứt định, nếu
không nghẹt lối, không ngỏ ra. Trong các
nền Tôn-Giáo, đó là sự rất trọng-hệ,
như Đạo Gia-Tô ngày xưa mở ra, 12 vị
Thánh-Tông-Đồ học ở trong nhà Bà Sainte
Maria, nhờ có chơn linh giáng hạ giúp
sức. Ngày kia Đức Chúa Jésus nói: Miệng
của Ta, các Người phải đi truyền Tân-Ước
(Nouveau Testament) 12 vị Tông-Đồ đều
dốt, nhờ chơn-linh giáng-hạ nhập thể,
hễ nhập thể thì phát huệ.
Lúc
chưa biết đạo tôi cũng không tin điều
ấy, đến lúc ở chùa Gò-kén trước
mấy ngàn người tôi bước lên giảng
đài đi qua đi lại đến 16 vòng mà hể
ngước mặt lên thấy đầu người lố-nhố,
sợ-hải không thuyết được. Kế phát
sật-sừ như say rượu không còn thấy
ai nữa hết. Say đáo-để, nói mà không
biết nói những gì, chừng xuống đài
thiên-hạ khen mới biết, may là trước
tập nhiều rồi đó. Chí-Tôn dạy tôi
và dạy anh Cao Thượng-Phẩm, hể người
này thuyết thì người kia nghe, nhờ vậy,
nhứt là nhờ anh Cao Thượng-Phẩm trêu-ngạo
nên phải cố-gắng, vậy mà lúc lên đài
còn quáng mắt.
Tôi
buộc mấy anh em chị em, tập cho quen dạn,
Đạo sau nầy muốm truyền ra thiên-hạ
thì phải thuyết . Đó là vô tự kinh,
viết sách truyền-bá không bằng thuyết-giảng,
cần phải có niêm luật. Với ai thì sợ
chớ với nòi giống Việt-nam mình đã
có sẵn văn-hiến bốn ngàn năm làm bổn.
Có ba môi-giới : Phú, Tỉ, Hứng;
-
Phú là đọc thông sách vở đem nguyên-văn
ra giải cho rõ nghĩa.
-
Tỉ là lấy cổ soi kim dùng tích xưa giải
hiện-tại.
-
Hứng là đứng lên giảng đài rồi phát
hứng chí mà nói.
Hậu-thuẩn
cho ba môi giới nầy là : Kinh, Điển,
Luật. Muốn phú phải thuộc Kinh mới
Phú được. Tỉ thì phải lấy điển
tích ra mà ví-dụ dặng so-sánh . Hứng
không được ngoài khôn-luật, ngoài sự
thật, không được nói bậy…nhớ ba
chơn-tướng trước, ba hậu thuẩn sau.
Một bài thi dủ cho mình thuyết-giáo rồi
, với Chí-Tôn điều chi cũng không khó.
Như là :
“
Yến-Tử-Hà xưa lúc vận cùng,
Còn
mang dép rách đến Quang-Trung.
Nay
con chưa rõ thông đường Đạo,
Cứ
ngóng theo chơn Lão tháp tùng”.
Ngài
dụ điển rồi lấy tích, như hai câu
đầu hỏi tại sao Yến-Tử-Hà lại mang
dép rách đến Quang-Trung ? Yến-Tử-Hà
là tôi nước Hàn , nước Hàn mất đi
tìm nơi cầu cứu hầu rửa nhục cho nước
mình , Sở-Bá-Vương chê người Hàn không
dùng, nên Yến phài lận-đận, nghèo khó
phải mang dép rách đến Quan-trung tìm
Hớn-Bái-Công. Hai câu sau các con cứ theo
Thầy, con để bước của con lên dấu
chơn Thầy thì không bao giờ lạc lối.
Yến bị bạc-đãi, nước Hàn bị chiếm
(Trương-Tử-Phòng là người Hàn cũng
trong thời đó). Hỏi vậy, Chí-Tôn lấy
tích gì ? Nước mình cũng mất như nước
Hàn, Yến đi làm tôi cho Hớn đặng báo
thù cho Hàn, Chí-Tôn muốn nói : Các con
muốn báo thù nước thì làm như Yến
vào Quang-Trung, muốn nước các con còn
thì theo Thầy.
Thôi,
thí-nghiệm thử xem, mấy anh em cho tôi
một cái đề đi rồi tôi thuyết. Như
bài thi :
“
Phong Thần đừng tưởng chuyện mờ hồ,
Giữa biển ai từng gặp Lão Tô.
Chuyên
Phong-thần đừng tưởng viết ra là bịa
đặt, Lão Tô là Tô-Đông-Pha, Ông Tổ
của nòi giống Phù-tang, ai dè ngoài biển
có Tô-Đông-Pha nghĩa là có sắc dân bên
Phù-tang. Ai từng gặp mà gặp là có đa.
“Mượn
thế đặng toan phương giác thế”,
Mượn
thế, bày tàn ác vô đạo-đức đặng
thức tỉnh cho bây.
“Cũng
như mượn bút của chàng Hồ”
Ông
Đổng-Hồ, anh cầm viết, viết sử của
Vương-Kiệt là đắc-thắng, thấy Vương-Kiệt
bị hại mà không sợ, vào đó lãnh, cũng
như Thầy hiện giờ, đến đây nhơn
loại đương tàn ác, mượn cái tàn ác
đó dặng thức tỉnh chúng sanh, như Đổng-Hồ
không sợ chết, thì Thầy sẽ thắng như
ĐổngHồ vậy, đặng lập quyền cho các
con cái của Ngài đặng thành tựu. Hồi
đời đó có một người tướng tài của
nhà Tần mà ngồi không, không chịu kháng-chiến,
Đổng-HôÀ ghi: Tội thất quốc nầy là
của anh chàn, hỏi tại sao ? Tại anh ngồi
không, làm bại liệt tinh-thần tranh-đấu,
nên tội ấy của anh gánh chịu đó. Bài
nầy đầy đủ trong khuôn-luật.
Tại
Tháp Đức Quyền Giáo-Tông
Hồi
8 giờ ngày 13 tháng 10 năm Đinh-hợi (1947)
ĐẠI-NGHIỆP
TINH-THẦN CỦA ĐỨC
QUYỀN GIÁO-TÔNG THƯỢNG-TRUNG-NHỰT
Ngày
nay là ngày Kỷ niệm Đức Quyền Giáo-Tông
Thương-Trung-Nhựt, ấy là ngày Bần-Đạo
quả-quyết rất trọng hệ và quý hoá
cho Cửu-Trùng-Đài.
Bần-Đạo
quả-quyết nói với bằng-chứng hiển-nhiên
là bạn đồng thuyền. Bần-Đạo biết
rõ giá trị của Thượng-Trung-Nhựt là
dường nào.
Tuy
vân, ngôi vị Giáo-Tông Đạo Cao-Đài
do Đức Lý cầm quyền gìn giữ Thánh-chất
dung hoà nữa Thánh nữa Phàm còn toạ
ngôi vị tại thế là Thượng-Trung Nhựt
đó. Aáy vậy Thượng-Trung-Nhựt tạo
ngôi vị Giáo-Tông cho Đạo Cao-Đài như
ông Thánh Saint Pierre tạo ngôi Thánh-hoàng
cho Pha-Pha tại Rome vậy.
Ôi
! buổi Chí-Tôn đến một cách đột ngột
tình-cờ, đến trong thế-kỷ XX nầy mà
nhơn-loại đang sống trong thảm-khổ từ
thể-chất đến tinh-thần, Ngài xưng tên
làm cho cả thảy nhân-loại ngạc-nhiên
, nhứt là chúng tôi buổi nọ đang đi
trong con đường thế tối-tăm, ngày ấy
người niên-kỷ cao hơn hết là Thương-Trung-Nhật
, chúng tôi hỏi người:
“
Eùt ce possible ? “(có thể có không ?).
Vì
còn đang mơ hồ, chúng tôi chẳng khác
chi ở trong địa huyệt đang tiềm-tàng
con đường sáng, chúng tôi còn tối-tăm
. May thay ! Người có duyên tiền-định
đến dìu-dắt chúng tôi ra khỏi chốn
địa huyệt âm-u, nhờ hai con mắt sáng
của Người làm dẫn Đạo.
Khi
chúng tôi hỏi :
“Eùt
ce possible ?” (có thể như vậy chăng
?)
Người
trả lời :
“C’
est bien possible” (có thể như vậy lắm
.)
Bởi
thiên-hạ đang khổ-thảm nên Đấng ấy
đến không phải là lạ. Ta thấy trong
gia-đình đau-khổ, mà ông cha chưa phải
chết thì sự thương-yêu đối với con
cái nồng nàn sẽ được ông cha ấy thể
hiện. Ngưòi quả-quyết rằng :
“Đấng
ấy đến buổi nầy là Chí-Tôn đó vậy.”
Nếu
không phải Chí-Tôn không ai chịu nổi
đau thảm được.
Vì
thành-tâm nguyện vọng của Người cảm-xúc
tới cỏi hư-linh làm cho Chí-Tôn và cả
chư Thần Thánh Tiên Phật đều động
lòng. May thay ! Chí-Tôn đến lập nền
Chánh-Đạo cho chúng ta tại nước Việt-nam
thì không có gì vinh-diệu cho giống nòi
chúng ta hơn nữa.
Thảng
sau nầy tôn-giáo Cao-Đài sẽ làm môi
giới chuẩn thằng cho một nền văn-minh
tối đại thì tôi quả-quyết rằng nền
văn-minh ấy sản xuất ra do tâm-lý của
Thượng-Trung-Nhựt mà chớ ! Ôi ! Bao
nhiêu công nghiệp, chúng ta nghĩ lại đều
nhớ buổi ban sơ đương lúc tâm-lý hoang-mang
tranh-đấu sự sống còn, nhứt là tâm-lý
nòi-giống Việt-nam đang mưu-đồ giải-thoát
ách nô-lệ, ai còn tin khi ta nói ra những
điều mà ai cũng cho là mơ-hồ, bởi cả
tâm-lý còn hoang-mang. Đến các bạn đồng
thuyền, đồng chung tâm-lý với Người
có đủ trí thức hiểu biết chí hướng
cao-thượng của Người mới theo Người,
mà trong cảnh hoang-mang còn phản-phúc
thay , huống chi quốc-dân Việt-nam . Ngài
đã để đức tin quyết tạo nên hình
thể Nền Đạo cho quốc-dân Việt-nam
, thì chính quốc-dân trở lại nghịch
thù , làm cho trọn một kiếp sanh của
Người phải đau thảm đổ luỵ bao phen
trước khi chết.
Bần-Đạo
quả-quyết rằng : trót một đời người,
chưa tìm ra một mặt biết thương nòi
giống với một tâm-lý nồng-nàn như
Thượng-Trung-Nhựt , Bần-Đạo chưa thấy
được hai người như vậy, nếu chẳng
vì tình yêu-ái vô hạn thì người chẳng
hề huỷ thân danh tạo nên hình thể Đạo
để lại cho Quốc-dâ, cái đại nghiệp
tinh-thần nầy sâu xa chừng nào, Quốc-dân
hưởng lâu chừng nấy, sâu xa chừng nào
lại càng quý-hoá thêm nữa, càng ngày
càng tăng-gia giá-trị và thiên-hạ sẽ
biết tấm lòng yêu-ái của Thượng-Trung-Nhựt
biến ra một quốc-hồn kiên-cố.
Cả
thảy ai là Quốc-dân Việt-nam đều phải
cúi đầu và vâng theo ý-chí cao-thượng
ấy, không có một lưởi gươm nào tiêu-diệt
dược sự-nghiệp của Người để lại
cho nòi giông Việt-nam đó vậy.
Đền
Thánh ngày 13 tháng 10 năm Đinh-hợi (1947)
Vía
Đức Quyền Giáo-Tông
CỨU
KHỔ VỀ XÁC THỊT
Bần-Đạo
nhắc lại một lần nữa , khi hiến Tam-Bửu
thì về chánh tế, khi nào đưa lên tức
nhiên trình cho mình biết của Lễ ấy
là ý-nghĩa gì, đặng cầu-nguyện hiến
lễ cho Chí-Tôn, khi ấy đưa lên mình
cúi đầu dưng vật báu ấy là Tam-bửu
cho Thầy.
Bí-pháp
rất trọng hệ : Bông là xác (thân hình)
khi nào hiến bông tức là hiến cả thi-hài
cho Chí-Tôn làm vật tế-lễ cho Ngài,
Hiến rượu tức là hiến cả tinh-thần,
trí-não của mình. Hiến trà là đem linh-hồn
mình trọn dâng cho Chí-Tôn, chính mình
là thi-hài con vật, mà vị chánh tế đưa
lên thiên-đàn Chí-Tôn của Lễ.
Ngày
hôm nay là ngày lễ kỷ-niệm của Đức
Quyền Giáo-Tông là vị chức-sắc cao-trọng
của chúng ta. Bần-Đạo giảng tiếp thêm
hai chữ cứu khổ . Luôn dịp Bần-Đạo
tỏ cho toàn Hội-Thánh tức là Thánh-thể
của Đức Chí-Tôn và toàn con cái của
Ngài biết rằng: Người là một chơn-linh
cao trọng , mặc dù hình thể đã mất
, nhưng khối thiên-lương ấy vẫn còn
mãi mãi chẳng hề hư hủ bao giờ, Bần-Đạo
nói: Chí-Tôn đến tình-cờ làm cho trí
nảo Bần-Đạo phải bị ngạc-nhiên ,
rồi Bần Đạo kiếm hiểu trong đôi ba
năm sau , mới rõ đặng hai chữ cứu khổ
của Chí-Tôn.
Lạ
thay ! Đức Cao Thượng-Phẩm và Đức
Quyền Giáo-Tông biết nỗi lòng Chí-Tôn
khi Người nói hai chữ cứu-khổ. Cứu
là giúp, khỏi có ám nghĩa đủ năng-lực
định quyền nhứt đoán. Khổ là đau-đớn
, đau-đớn về tâm-hồn, đau đớn về
hình-thể . Biết người rồi mới thương
người được , mới có thể nắm quyền
người tu nơi cửa Đạo, đặng độ rỗi
nhơn-sanh và chính mình yêu-thương sẽ
làm môi giới cho chúng ta yêu-thương toàn
thiên-hạ.
Ôi
! hai chữ cứu-khổ, nghe hai tiếng ấy
không kẻ nào đã chịu những nỗi thống-khổ,
đau đón về đạo-đức tinh-thần , làm
ta khao khát tinh-thần việc chi trọng-yếu
vậy. Chúng ta đương đói mà có người
đem bát cơm lại cho ăn, nghe đến mùi
vị nó thâm-thuý làm sao.
Ôi
! Hai chữ cứu-khổ , Đạo lấy hình-thể
cho người đời trong Trời Nam dùng rồi
tới thiên-hạ toàn-cầu nhơn-loại ngay
người chưa biết tiến-hoá đến dặc-điểm
văn-minh, vẫn còn trong vòng nô-lệ. Vậy
sắc dân yếu hèn , vẫn còn dã-man , thô-kịch
, dốt-nát là Việt-nam đã bị nạn ,
tỷ như người ta bắt ngưòi bán mọi
buổi nọ . Bần-Đạo đã quan-sát cả
lịch-sử loài người ở Á-Đông thấy
như thế, mà Á-châu cũng thế, tự quyền-hành
bán mọi là đặc sắc hơn hết của đế-quyền
Romain coi con người không có giá-trị
bằng con vật , được trọn quyền sinh-sát
mà người chủ đã mua mạng sống của
kẻ tôi mọi coi kẻ ấy như con vật.
Đến nay cường quyền Romain phải chịu
huỷ bỏ việc làm tôi-đòi nô-bộc .
Vậy tôi-mọi do nơi mua đặng kẻ khốn-khó
về làm nô-lệ mà thôi , khi ấy Maurice
đến đứng lên đường đột đối
đầu cùng Hoàng-đế Romain đặng giải
thoát sự đau thảm ấy, sau buổi đó
họ coi Maurice dường như Đức Chí-Tôn
đến giáng-the, đặng giải-thoát cứu
khổ cho nhơn-sanh. Ở Á-Đông nhứt là
Trung-Hoa chẳng phải nước đặc-sắc
và trọn yêu thương, nhưng làm nhiều
dân-tộc hiệp thành một nước Trung-Hoa.
Nhờ buổi thượng-cổ thâu các sắc dân
lạc-hậu làm nô-lệ . Dân-tộc ta chịu
không nổi phải phản-đối để tìm phương
giải-khổ cho nhau. Bây-giờ sự khổ nọ
đã tràn vậy. Không lạ chi trước mắt
ta đã thấy chúng biết rủ nhau , không
làm gì đặng , thì đời phải chịu mai-một
làm tôi-tớ cho cho người khác phải chịu
nghèo hèn không sang-trọng được. Thế-tình
chẳng lạ gì, hể tới chừng làm chi
phi-thường thì có một mình độc chiết
cô-quạnh không ai nâng đỡ.
Nhìn
trong thế-gian nầy thấy những kẻ côi-cút
đơn-cô bị áp-bức nên buồn, sự áp-bức
ấy cột-trói vào vòng nô-lệ tinh-thần
của họ, chừng ta ở trong vòng nô-lệ,
mắt chúng ta đã chán thấy anh em ở chung
một nhà, bạn tác với nhau chung chia
đau khổ, nghèo hèn có nhau mà còn bị
đè nén bằng cách gián-tiếp, thế thường
cũng chung là nô-lệ thì còn ai có quyền
hơn về hình-thể lẫn tinh-thần.
Phật
Thích-Ca có giải: sanh lão, bịnh, tử
là bốn cái khổ của con người, mà cả
hoàn cầu để cả trí não tinh-thần tìm
phương trừ diệt sao cho được bốn cái
khổ ấy. Tìm phương thế làm cho nhơn-sanh
sống mỹ-mãn. Hết sanh rồi lão, chúng
ta thấy các nơi văn minh càng ngày càng
tiến tới nữa, thì lo lập các dưỡng-lão-đường.
Các nước trên mặt địa-cầu nầy không
quốc-gia nào không nuôi kẻ già. Đến
bịnh ở một địa cầu nầy, hễ bao
nhiêu người là bao nhiêu nhà-thương chuyên
chủ trị an thiên-hạ, nếu làm ra không
đắc lực thì làm cho nhơn sanh phiến-loạn.
Đến tử, các xã hôïi văn minh đang
tìm phương cứu chữa làm cho cái chết
con người không có thống-khổ quá lẽ
và làm sao cho gia đình chủng-tộc qui
tụ lại thành nước văn minh.
Thế
nào làm giảm tứ-khổ đó? Duy chuyên-chú
đặng cải sửa làm cho bớt khổ tinh-thần,
ấy vậy khổ xác-thịt do đâu mà ra,
là do nơi tại muốn sống cho hạnh-phúc
hôn người, không có một mãnh-lực nào
định phận mình nội công-tâm quyết-đoán.
Bởi nhơn-sanh tự biết mình sang-trọng
trên vạn-vật. Của-cải của Chí-Tôn
để nơi thế nầy đảm-bảo sanh-mạng
con-cái Người không đủ, nên có kẻ
nghèo-hèn, người sang-trọng , kẻ ngu-tối
, người minh-mẫn , có người cho là bất
công , mà sự bất công đó do tại đâu
? do thiếu đạo-đức . Muốn trừ khổ
ấy phải làm sao ? Hiện đương tại mặt
địa-cầu nầy , các yếu nhơn đã làm
gì đặng thâu tâm thiên-ha , định quyền
chính-trị ? duy có đem mãnh thương-tâm
trải yêu thương cho đời xem thấy. Lấy
tâm trung-chánh thương-yêu đặng cứu
vớt dân-sanh , giao sanh-mang trong tay làm
chủ, làm người điều-khiển đặng trị.
Hỏi tâm ái-truất thương-sanh thiên-hạ
ai dám chắc có, tôi xin đặt một dấu
hỏi (?) phải nhiều gia-đình , nếu quyền-năng
ấy có tâm-lý đủ đều xuất-hiện chơn-thật
có thể gieo thương vào lòng dân-sanh toàn
một nước, kêu gọi dân-sanh đối đãi
hoà-ái cùng nhau chia sống với nhau. Nước
nào may-mắn được người chủ quyền
sáng-suốt đoạt đến mục-đích, thì
quốc-dân ấy được hưởng vô-cùng hạnh-phúc
gia-đình. Quốc-gia xã hội cũng vậy,
chỉ biết mình không biết người, tương-tàn
tương-sát nhau. Vì cớ Đạo Cao-Đài xuất
hiện. Hỏi tại sao có Đạo Cao-Đài?
Khi nào trong gia đình thống khổ, thì
có ông cha chung chịu cùng các con để
giải khổ cho con. Trong nước nếu nhơn-sanh
khổ thì vị chủ quyền là Vua hay Giám-đốc
đứng lên cầm quyền nhiếp-chánh tìm
phương giải khổ cho nhơn-sanh.
Hiện giờ đã qua quyền hạn quốc-gia
xã-hội, đén vạn-quốc thì ai vì chủ
đặng làm được phận-sự ấy? Vạn
quốc đương thống-khổ ai có phận sự
dùi-dắt họ ra khỏi cảnh khổ, nếu
chẳng phải là Đức Chí-Tôn chưa ai
vì chủ mặt địa-cầu nầy được.
Aáy
vậy, trong gia-đình thì người Cha chịu
khổ với con, các Quốc-gia và cả toàn
dân ở mặt địa-cầu nầy chưa ai chia
khổ được. Chí-Tôn đến đặng kêu
gào lòng yêu-ái của toàn nhơn-loại biết
nhìn nhau là anh em, biết thương yêu nhau,
binh-vực nuôi-nấng và tôn trọng nhau,
đem hoà-ái gieo truyền vào tâm lý loài
người mà nói rằng: “ Tao là Cha bây,
đến đây làm cho bây biết tao, đặng
bây biết bây, bao giờ anh em bây biết
thương-yêu nhau, tức là ông cha bây giải
khổ cho bây về phần hồn và phần xác
đó vậy “.
Đền
Thánh thời tý rằm tháng 10 năm Đinh-Hợi
( 1947 ).
CỨU
KHỔ VỀ TINH-THẦN
Hôm
qua Bần-Đạo đa giảng về phương-pháp
cứu khổ của Chí-Tôn đem đến cho con
cái của Ngài về hình thể tức nhiên
về xác thịt.
Hôm
nay Bần-Đạo tiếp, giảng phương pháp
cứu-khổ của Chí-Tôn về tinh-thần,
tức-nhiên về tâm-hồn.
Cái
khổ tâm-hồn của loài người nó thốâng
thiết nặng nề, nguy
hiểm nhiệt-liệt hơn cái khổ xác thịt
muôn phần. Cái khổ tâm-hồn ta thấy
nhiều người chụi không nổi phải chịu
quyên-sinh, họ tưởng đau thảm của họ
hễ diệt tiêu thi-hài là hết, nguyên-do
quyên-sinh là vậy. Họ lầm ! Sự thống
khổ tinh-thần hay tâm-hồn, dầu xác thịt
nầy huỷ hoại, cũng không an-ủi được
tâm-hồn vẫn đau thảm như thường. Quyên
sinh họ tưởng khỏi việc đau khổ phần
xác, trái lại sự đau khổ tinh-thần
ấy vẫn sống mãi nơi Hư-Linh lại còn
dữ-dội ghê-tợn hơn nữa.
Aáy
vậy, sự đau thảm nơi thế nầy bao nhiêu,
nếu không dùng an-ủi, nó sẽ cong khỗ
não thêm gia bội lúc cõi trần. Tại sao
có sự khỗ não tâm-hồn ? Loài người,
chúng ta lấy hết khối tinh anh xét căn
nguyên, do đâu mà xuất-hiện? Ta thấy
trong đời, các bậc nhơn sanh vô-ngần
đẳng cấp, nếu làm thống-kê định-phẩm
giá thì con số vô cùng tận, bao nhiêu
người, bao nhiêu tâm-lý, khác hẵn cùng
nhau, tại sao? Nếu ta biết rõ chơn-lý
của Đạo thì do địa-vị toạ-hoá các
chơn-hồn, định phẩm hình thể mình
chẳng phải sản xuất do quyết-định
của mình mà do tiến-triển phẩm-vị
tinh-thần trí-não nơi Chí-Tôn định-vị.
Điều ấy không cần luận vì biết phần
tâm-lý, trí-não mà hành-tàng, sanh-hoạt,
mọi sự đều biệt phân, nên vì cớ
mà Đạo pháp Chí-Tôn đã giãi rõ: Toàn
cơ-quan thống khỗ cốt đễ làm bài học
hay, đặng tinh-thần giục tiến tới nơi
cao-trọng cuối cùng là làm Chí-Tôn trong
vật-loại. Chúng ta không cần luận.
Phần
xác ta thấy gì? Thấy dường như bất
công hiển-nhiên trước mắt , nếu không
biết Đạo thì chỉ-trích cơ Toạ-Đoan
bất công là phải. Tại sao chúng ta thấy
dưới thế nầy thì ai cũng là người
như ai , sao có kẻ tài nưòi dở, kẻ
trí người ngu , kẻ hiền người dữ
. Cả thảy sự phân cách đặc-biệt tâm-lý
cá nhân , ta thấy trường tranh-đấu sinh-hoạt
tương-liên , tỷ như học trò đến trương
cùng đồng bạn với nhau , thấy mình
sao tối tăm ngu-muội , còn bạn mình sao
sáng-láng thông-minh , ngu đến nỗi phải
bỏ trường không học đặng nữa về
làm tên dân hèn, bạn mình khôn ngoan
hơn , lập phẩm-vị cao-trọng làm quan-quyền
cần vận mạng dân-chúng , sửa-trị phong-hoá
,làm lãnh-đạo cho đời , sao có sự phân-biệt
lạ-lùng như thế ấy ? Học trò nào cũng
quyết-tâm ráng học , mà học không nổi
là do đâu ? Rán tranh, tranh không lại
phải khổ tâm-hồn. Đó là một lý.
Còn
lớn lên rồi trường đời chán mắt,
nghề hay nghiệp giỏi tài tình đủ bảo-thủ
gia-đình, với nghề hay khéo, kẻ khác
kia thâu sự đắc lợi, sanh sống hạnh-phúc
, muốn học làm theo mà học không nổi,
bắt chước lại hư, là tại mình ngu-muội
hơn mới vậy. Tức mình hổ-thẹn , phải
đau-khổ tâm-hồn , người ta làm được
sao mình lai không, người lập danh-vị
đời đủ mực quyên-hành, ta cả đời
hiểu biết , có lẽ cũng như người ,
mà vẫn làm tôi-towscho người ra thân
mai một. Uất-ức tinh-thần , người ta
sao lại được thế mà mình như vầy
? Thấy hiển-nhiên trường đời bất-công,
tức mình đó là khổ nảo tinh thần ,
tức là khổ não tâm-hồn đó vậy.
Lại
nữa kẻ đi buôn kia cũng buôn như ai,
với phương-pháp như họ, sao họ lai được
nhiều lời, lập lầu-cát nguy-nga , vợ
con đầy-đủ sang-trọng vinh-hoa , còn
mình dấn thân làm con buôn thì lỗ-lã
thất-bại tiêu-tan, tức mình quá sức
tức-nhiên phải thống khổ tâm-hồn.
Mấy
lẽ bất-công ấy thiên-hạ tìm phương
thuốc , có người theo huyền-vi mà tìm
mãi, kiếm mãi , chờ có người đủ phương
cứu-khổ tâm-hồn mà cũng tìm chưa
gặp đặng . Mang xác thịt phải chịu
một phen thống-khổ , đàu-óc tinh-toán,
tại sao mình tài-tình hoạt-đông có hơn
thiên-hạ , làm thì thất-bại , tục gọi
không thời buồn-bực tức-tối đủ thứ,
rồi đành an-ủi lấy mình bằng câu :
“tài mạng tương đố ” mà thật ra
không biết quyền-ăng do đâu mình phải
chịu thống-khổ như thế.
Các
sự thống-khổ Bần-Đạo luận từ nảy
đến giờ, thiên-hạ tìm thuốc cứu-khổ,
chạy mãi không tìm đặng cho nên không
một người nào sống ở đời được
thoả-mãn . Kẻ hèn, người sang, kẻ trí
người ngu , thất công tìm phương an-ủi
. Nhuwhai vợ chồng anh nhà nghèo kia , thấy
thiên-hạ giàu , mình nghèo, mảnh áo chưa
lành , ăn bửa mơi lo buổi chiều, đau-khổ,
không hiểu duyên-cớ nào người ta sang
trọng , hêtsuwcs khóc than rồi cungxtuwj
mình an-ủi lấy nhau , ngồi ngâm-nga hát
ru tâm-hồn :
“
Người ta giàu cái quần cũng đũi, cái
áo cũng đũi,
Đôi đứa mình nghèo đốt củi
đốt than.
Nghèo hèn xin bậu chớ than.
Rảnh đồng công mối nợ, anh mua
lụa hang may cho “
Hát
như vậy rồi có lẽ vợ bớt khóc . mà
anh ta cũng buồn cười.
Còn
trí Khổng-Minh, hồi đốt Tư-Mã-Ý đặng
bảo-thủ cơ-nghiệp của Lưu-Bị sợ
có ngay sẽ vào tay Tư-Mã-Ý . Đốt nũa
chừng trời mưa tắt lửa, cứu Tư-Mã-Ý
khỏi chết. Tức quá không biết an-ủi
làm sao , ngước mặt lên trời than : Mưu
sự tại nhơn, thành sự tại thiên , nhơn
nguyện như thử, như thử !!! thiên-lý
vị nhiên, vị nhiên !!! nếu không an-ủi
như vậy ắt ông phải điên lên mà chớ
!!!
Ông
Hồ-Địch thấy Nhạc-Phi bị Tần-Cối
giết một cách tàn-nhẫn vì tại ngu
trung , nghe Phiên đem binh phạt Tống ,
ngồi xem kết-quả bên nào ăn thua , nhứt
là đợi cho quả báo nhà Tống , nhưng
Trời định Tống không thua , Phiên phải
thối binh về nước , tức mình than rằng
: “ Thiên địa hửu tư, thần minh bất
công “đó là an ủi một cách hung-bạo.
Ngày
giờ nào nhơn-sanh tìm phương an ủi cho
bớt thống-khổ, phương an-ủi tìm cũng
đáo-để như tìm gió theo mây. chạy đến
gỏ cửa Khổng Phu-tử :
-
“Ông có thuốc gì an-ủi nỗi thống-khổ
tâm-hồn của tôi chăng ? ”
Thì
Khổng-Tử trả lời :
-
“ Phương chuyển thế không cùng , dầu
đạt được bí-pháp trung-dung, cũng chưa
thoả mãn”.
Sang
gỏ cửa Phật Thích-Ca :
-
“Phật có thuốc gì chữa nổi thống-khổ
tâm-hồn tôi chăng ? ”
Phật đem chơn-lý tứ-khổ truwocs
mắt là sinh, lão, bịnh , tử , ấy là
chơn-lý . Người mới tự xét : Tôi không
muốn sanh , mà ai sanh ra tôi chi để tôi
chịu khổ thế nầy. Sống tôi tôi không
muốn sống , vì sống là gốc sản-xuất
tứ khổ. Cái khổ ấy chẳng phải của
tôi mà ai làm cho tôi khổ, cũng không
thoả mãn tâm-hồn. Tìm nơi Phâït không
thấy đặng gì. Đến gỏ cửa Lão-Tử
:
-
“ Bạch Ngài ! Có món thuốc gì an-ủi
tâm-hồn tôi chăng ? “
-
“ Bảo cứ gìn-giữ đạo-đức làm căn-bản,
thoát mình ra khỏi thúc-phược của thế-tình,
lên non phủi kiếp oan-khiên , nơi tiạch-mịch
u-nhàn thân tự-tại, nếu không thêù
thì đừng mơ mộng gì thoát khổ được”.
Nghe lời lên núi ở mà ngặt nỗi
hễ mỗi lần đem gạo lên ăn thì khó
nhọc trần-ai khổ-nhộng. Đói tuột xuống,
thất chí nữa, thành phương an-ủi cũng
ăn trớt. Rồi đến gỏ cửa Chúa Jésus
de Nazareth hỏi:
-
“Đấng Cứu thế có phương thuốc nào
trị thống-khổ tâm-hồn tôi chăng ?”
Trả lời:
-
“ Nếu các ngươi quả quyết nhìn nhận
mình là con cái Đức Chúa Trời , tức
là Đức Chí-Tôn làm như Người làm,
mới mong an ủi tâm-hồn được ”.
Trong
khuôn-khổ phương-pháp làm con-cái của
Chí-Tôn thì lắm kẻ nói được mà làm
không được , cũng như tuồng hát viết
hay mà không có kép tài đặng hát.
Cả
thảy không chối : Cũng có kẻ an-ủi
được nhờ đức-tin vững-vàng , còn
phần nhiều ngược dòng đạo-lý khác,
không ở trong lòng Chí-Tôn một chút nào
tất cả. Thất chí nữa nên hết thế
tìm ai.
Bây
giờ Chí-Tôn làm phương nào trong thế-kỷ
XX nầy đặng an-ủi tâm hồn nhơn-loại
, Ngài đến cùng con cái của Ngài quả-quyết
rằng : Nếu các con-cái của Ngài tức
là Thánh-thể của Ngài lập Đạo không
thành, thì Ngài phải tái-kiếp. Trọng
hệ gì dữ vậy ? Ngài đến thế lập
Đạo , từ tạo thiên lập địa không
cơ-quan nào rời khỏi tay Ngài, Ngự-Mã-Quân
tái kiếp lập Đạo thay thế cho Ngài.
Tại sao vậy ? Nói thật, không ai có quyền-năng
nào hơn mẹ ru con, không ai có quyên-năng
bằng cha yêu-ái, khi con đau-đớn, con
đương khóc, mẹ bồng thì liền nín,
còn cha hôn một cái, hết thảm hết buồn.
Chí-Tôn
sai các Vị Giáo-Chủ đại-diện Ngài
đến lập Đạo do danh thể Ngài, vâng
mạng-lịnh nơi Ngài, đến thay thế giáo-hoá
con cái Ngài . Chưa vị nào an-ủi được
sự đau thảm cho trọn vẹn cái khổ của
đời . Khối đau thảm ấy từ buổi có
loài người chất chồng vô số kể .
Ngài
đến bồng nhơn-loại trong tay, ru rằng
: Khối đau khổ tâm-hồn của các con
là tại các con đào-tạo ra chớ không
phải của Thầy, khổ là do quả kiếp
mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải-khổ
không gì khác hơn đập đổ các đẳng
cấp tâm-hồn, thông-nhất nhân-loại,
nhìn nhau là anh em đồng máu thịt, cùng
một căn-bản cội nguồn, hầu chia vui
sớt nhọc, biết tôn-trọng nhau, kẻ trên
không ép chế người dưới , trí không
hiếp ngu, hèn sang không phân-biệt, mực
thước tâm-hồn nhân-loại phải đồng
phẩm-giá, đồng quyền-năng.
Ngày
giờ nào, nhơn-loại biết tôn-trọng nhau
, dầu sang hèn nhìn nhau là anh em cốt
nhục, ngày ấy phương giải-khổ không
khó. Các con nghe Thầy mà làm y lời Thầy
thì khổ ấy tự tiêu-diệt. Nếu các
con còn đau thảm, thì đấm ngực nói:
”Khổ nầy do các con tạo ra, không phải
do Thầy định tội đa nghe !!!”.
Thầy
đến chỉnh đốn tâm-lý loài người
, tránh tranh-đấu , tiêu-diệt lẫn nhau,
thì không còn hổn loạn với nhau , thì
tứ-nhiên diệt khổ chớ có chi đâu lạ.
Cơ-quan
giải khổ tâm-hồn của Ngài là đó.
Đền-Thánh
ngày mồng 1 tháng 11 năm Đinh-hợi (1947)
THUYẾT ĐẠI-ĐỒNG
Ngày
nay Bần-Đạo giảng về đại-đồng .
Trước khi giải thuyết ấy, Bần-Đạo
xin giảng thuyết duy-tâm và duy-vật. Nếu
không thấu hiểu hai thuyết ấy, thì không
hiểu thuyết đại-đồng. Bần-Đạo đã
giảng về Tam-Bửu tức là ba cơ-quan tạo
nên con người: Một là Tinh, hai là Khí.
Ba là thần.
-
Tinh
là gì ? Tinh là con người hửu-hình tức
là xác thịt ta.
-
Khí
là gì ? Khí là trí não của chúng ta.
-
Thần
là gì ? thần là linh-hồn của chúng ta,
Đức Chí-Tôn gọi là chơn-linh.
Ba
mốn báu ấy tương-liên với nhau, bởi
vì mỗi Bửu có Thể-pháp riêng, mà ba
xác ấy hiệp lại mới tạo thành hình-ảnh
con người.
Bây
giờ phân ra : Tinh là Vật, tức nhiên
là con vật là thú, như các con thú khác,
nghĩa là hình xác đứng về hàng phẩm
thú. Khí là trí-não ta. Thần là chơn-linh
sản xuất nơi Chí-Tôn. Ba cơ-quan tương-liên
nhau, có khi làm trung-gian. Khí là trí-não
ta, nó đáo đến địa giới hiệp cùng
chơn-linh cho huệ trí. Trái lại, nếu
nó không tương liên với linh-hồn đặng
thì nó lại tương-liên với xác thịt,
nghĩa là nhập vào giác tánh của con người.
Giác tánh là gì? Giác tánh là trí não
thô-sơ, nó chỉ biết sống như con vật.
Tỉ như con thú kia mới sanh ra chưa biết
gì mà đã tìm vú mẹ, đặng bảo trọng
sanh mạng của mình . Luật bảo-sanh biểu
nó tìm bao-nhiêu đó để sống mà thôi.
Ba món báu ấy tương-liên với cả càn-khôn
vũ-trụ, Thần tương-liên với Phật tức
là Chí-Tôn, Khí tương-liên với Pháp,
còn Tinh tương-liên với Tăng tức là
với vật loại.
Aáy
vậy duy-vật là xu-hướng theo Tinh, còn
duy-tâm tức là thuyết hửu-thần tương-quan
với Phật là Chí-Tôn . Bình thường các
tôn-giáo, đặt ra tên nầy, danh nọ đủ
thứ, chí lý là tìm Đấng tạo sanh vạn-vật
, lấy hình của Người mà tạo ra linh-quang
của loài người tức là cha linh-quang
của chúng ta, hay là Cha của vạn loại
đó vậy . Bởi vậy, các Tôn-giáo , nhứt
là Thiên-Chúa-giáo nói : Con người là
Thiên-thần bị hảm tu,ø bởi chơn-linh
của chúng ta với Thiên-thần đồng chất
với Chí-Tôn . Mang lấy xác thịt nầy
tức là ở trong cái khám vật-loại. Còn
Phật-giáo cho ta hiểu ba ba báu ấy chẳng
khác nào như người cỡi ngự với con
ngựa . Con ngựa ấy là con kỵ vật tức
là Tinh, Pháp là dây cương con ngựa ,
mà trọng-yếu hơn hết là đồ bắt kế
con ngụa là hàm thiết , chưn-đưng kềm
con ngựa chạy ngay con đường mình muốn
tức là Tinh. Người cỡi ngựa là chơn-linh
ta , nghĩa là Thần , Thần là hình ảnh
của Chí-Tôn tạo cho ta, vì cớ con người
có cao-vọng chưa đạt được thì cao-trọng
, chưa đắc huệ-trí mà tưởng mình là
Ông Trời con, nên luôn luôn muốn làm
Ông Trời hơn, hết. Tại sao vậy? Có
khó gì đâu mà không hiểu: Đứa học
trò ngồi trong lớp thấy ông quan vô ,
có kỉnh sợ chi đâu , mà tự nói thầm
rằng : ông làm quan được trước, tôi
cũng làm quan được, trừ khi nào ném
sách vở ra chăn trâu , thì mới hết phương
làm được.
Chơn-linh
biết mình muốn tu hầu làm Thần, Thánh,
Tiên, Phật cũng có thể làm băng được
Chí-Tôn mà chớ, bởi vì phẩm-vị Ngài
đã dành để sẵn cho các con cái Ngài,
nếu ngưòi làm được như Ngài vậy.
Bởi vậy dầu chưa làm được ra gì,
đã biết mình là Trời tại thế. Có
câu chuyện tức cười, bằng cớ hiển-nhiên
như Đức Trạng-Trình là Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
buổi nọ hồi còn bé đi học, có Quan
Huyện đến xét trường hay thăm trường
chi đó, nghe noi Ngài nổi danh thần-đồng
, khi thấy Ngài nhỏ người, thân không
cao lớn hơn ai, lại bận áo rộng xùng
xình, vì bận bính của ai đó, lết-bết
dưới đất tức cười lắm nên ghẹo
chơi. Ông Huyện ra một câu đối như
vầy : Học-trò là học trò con, quần
áo lon-xon là con học-trò. Ngài liền ứng
thinh trả lời liền : Ông Huyện là Ông
Huyện thằng, ăn nói lằng-xằng là thằng
Ông Huyện. Ngài nói liền, thiên-tứ nhứt-định
không chịu thua.
Aáy
vậy duy-tâm thì sản-xuất thiên-tài,
duy-vật thì sản xuất nhơn-tài. Để
rồi sau Bần-Đạo sẽ thuyết ra thiên-tài
và nhơn-tài một lần đặc-biệt . Nãy
giờ Bần-Đạo đã mở đề cho hiểu
xin nên nhớ và nghe giảng tiếp thuyết
đại-đồng. Đại-đồng là hiệp một
vật loại . Vậy đại-đồng tiến-hoá
do căn-bản nơi đâu mà có ? Dám chắc
hỏi Đại-đồng là gì ? Không ai giải-nghĩa
được . Đại-đồng là đồng sanh tức-nhiên
là chúng sanh đó vậy. Ai đã đồng sanh
với ta là bạn là anh em của ta . Bởi
các vật hửu-hình thọ quyền-năng vô-tận
vô-biên của Chí-Tôn, đến thế-gian với
một mạng sanh, tức là đồng-sanh dầu
vật loại , côn-trùng, thảo-mộc, thú-cầm
hiệp với loài người là chúng-sanh, tức
nhiên là bạn đồng-sanh cả thảy , hể
đồng-sanh ta phải nhìn nhau là anh em trong
lòng Chí-Tôn mà sản-xuất, vì nhà Phật
cấm chúng ta không đặng sát hại sanh-vật,
vì là bạn đồng-sanh của chúng ta.
Vậy
hai chữ Đại-đồng là gì ? Thật ý-nghĩa
bạn đồâng-sanh, nhìn nhau hiệp một
trong nguyên-căn gọi là Đại-đồng. Hỏi
thuyết đại-đồng ngày nay xuất-hiện
là tại sao? Chúng ta đoán dễ lắm.
Cung-kỉnh, tôn-trọng, quý-hoá mạng sanh
vạn-loại, loài người đứng phẩm tối
cao tối trọng , thay thế hình ảnh Chí-Tôn
có quyền-hành làm Chúa Đại-đồng. Loài
ngưòi bị tàn-ác, chẳng những sát hai
vạn-linh mà thôi , lại chém giết tranh
ăn, tranh sống, lấy cường-lực đàn-áp
làm căn-bản, dùng bạo tàn làm chúa thiên-ha.
Cái thuyết duy-vật là trong khuôn-luật
vật-hình nhứt-định, còn thuyết-duy-tâm
chỉ có khuôn khổ thiên-nhiên , theo thuyết
duy-vật nào là các cường-quốc trên
khắp đị-cầu tìm đủ phương-châm
luật-pháp, làm cho thiên-hạ hoá ra đại-đồng
ấy là điều mơ-màng , vì không hề đạt
vọng được . Chưa ai hiểu đặng một
người tài-tình quán-chúng , trí-não cao
sâu phải hạ mình làm người ngu dốt,
Chưa có quyền-năng nào mà đem một đứa
ngu dốt lên làm ông Tể-tướng triều-đình
, Hàng-phẩm căn-mạng đều do Chí-Tôn
sở định . Đã biết không ai ép buộc
được , không khuôn luật nào biểu một
vị đại văn-sĩ ăn mày ngoài chợ được.
Hể
không có hình luật nào làm được , sửa
được , thì thuyết đại-đồng thiên-hạ
không thành tựu. Thuyết ấy kết liễu
được là khi nào lấy thuyết hửu thần
duy-tâm làm môi giới chung trong sự yêu-ái
tôn-trọng nhau trong tình anh em đồng một
căn-bản, một máu thịt, một chủng-tộc.
Vì cớ các đấng giáng cơ bên Aâu-châu
nói : Loài người sẽ đạt đén địa-vị
tối-cao tối-trọng mà họ muốn đạt,
là loài người sẽ có nòi-giống một
quốc-gia , một Tôn-giáo, ngày giờ nào
loài người đạt được ba điều ấy
thì thế-giới đại-đồng kết-liễu
thành tướng. Chí-Tôn đến với loài
người , Ngự-Mã-quân của Ngài sợ-sệt
Ngài xuống trần phải nguy-hiểm . Ngài
đến tạo cho loài người một quốc-gia,
một nòi-giống, một Tôn-giáo. Nhưng Ngự-Mã-Quân
của Ngài không muốn cho Ngài đến, nên
thay Ngài đến làm cho ba điều ấy thành
tựu nên hình. Nếu ba điều ấy không
thành , thì đại-đồng thế-giới là
thuyết vẫn còn trong vòng mơ-mộng.
Đền-Thánh
đêm 14 tháng 11 năm Đinh-hợi (1947)
SỰ-TÍCH
ĐỨC JÉSUS GIÁNG-SINH
Ngày
hôm nay chúng ta tính từ ngày đã đúng
1947 năm của Chúa Cứu Thế, tức là Đức
Chúa Jésus Christ ở làng Nazareth xứ Palestine
vâng mạng-lịnh Đức Chúa Trời , tức
là Đức Chí-Tôn, đến độ rỗi các
sắc dân Aâu-châu. Chúng ta quan-sát và
chinh Bần-Đạo quan-sát thấy chơn-truyền
của Đạo Thánh Gia-Tô vẫn đồng căn,
đồng bổn với Đạo Phật, ấy là Phật-giáo
hạ-thừa , không có chi khác, dầu bí-pháp
chơn-truyền hay thể pháp cũng y như vậy.
Thảng
từ thử đến giờ , có thuyết chia rẽ
tinh-thần, là tại nơi người phàm, đem
thuyết ấy để trong sự tin-tưởng của
sắc dân Aâu-châu, nên mới có sự chia
rẽ nòi-giống. Vì nạn ấy mà chúng ta
ngày nay thấy trên mặt toàn cầu nòi-giống
chịu nạn tương-tàn, tương-sát nhau.
Bần-Đạo
xin thuyết cái nguyên-căn của Đức Chúa
Jésus Christ là gì ?
Thỉnh-thoảng
rồi Bần-Đạo sẽ đem nguyên-căn của
Thánh-giáo Gia-Tô thuyết-minh ra cho cả
thảy nam nữ đều rõ biết.
Đức
Chúa Jésus là ai ? Nếu chúng ta thấy chơn-truyền
của dân-tộc Hébreux tức dân Do-Thái
bây giờ để lại , theo luật pháp của
Thánh Moise đã tiên-tri nói về Đấng
Cứu-Thế giáng-sanh , nếu chung ta tìm
tòi, lật từ tờ trong Kinh Thánh Gia-Tô
chẳng hề thấy tên Christ và chẳng có
tên Christ nơi cỏi thiêng-liêng. Bần-Đạo
dám chắc Đức Chúa Jésus Christ là chơn-linh
Christna là Tam Thế-Tôn đó vậy.
Đức
Phật Christna không phải xa lạ với chúng
ta, bởi vậy cho nên dã đến mà lại
đến với chức-trách nhỏ-nhen , hạ mình
hèn-hạ ấy hầu đem tâm-hồn Chí-Thanh
của Ngài thức-tỉnh các sắc dân Aâu-châu
. Ngài đến nơi một nhà bần hèn. Bần-Đạo
xin nói rằng : Ngài đến nhà của bà
Maria cốt yếu là là một bà tu trong Đền-Thánh
Jérusalem , ông Joseph cũng người tu trong
Đền Thánh.. Luật-lệ của Đền-Thánh
buộc hễ con gái đến tuổi cập-kê cho
ra xuất giá. Năm ấy cô Maria tức là
một cô Đạo nữ , chúng ta nói là một
ni-cô ở Đền Jérusalem, đến tuổi lấy
chồng. Phép Đền-Thánh buộc mấy Thầy
tu trong đền thờ phải có người đứng
ra cưới, bởi vì chiếu theo lời Chí-Tôn
căn-dặn nhủ lời Ngài nói với Adam và
Eve buổi nọ (Unissez vous et multipliez) bây
phải chung sống cùng nhau đặng biến
sanh ra nhiều nữa.
Lễ
tuyển chọn chồng cho bà Maria, theo luật
Đền Thánh buộc mỗi vị nam lựa bông
để trong Đền-Thánh 3 ngày, nếu bông
ấy còn tươi-tắng thì được cưới.
Hại
thay ! Có nhiều kẻ trẻ trung, còn ông
Joseph buổi nọ đã quá 50 tuổi, cũng
chịu theo luật cưới ấy. Nếu chúng
ta nói đến hoa-khôi lịch-sắc thì bà
Maria cũng có thể vào hạng đó. Mới
tới tuổi cập-kê mà sắc đẹp ấy làm
biết bao nhiêu kẻ nam-nhi ước-vọng.
Ông Joseph cũng như mọi người đem bông
hoa đến Đền Thờ chịu trách-nhiệm
tuyển chọn ấy . Người tìm bông hoa
nầy, bông hoa kia, còn ông , ông nghĩ mình
đã già rồi , vợ con mà làm chi, nhưng
luật Hội-Thánh buộc không làm ắt có
hình-phạt , hoặc quỳ hương chẳng hạn
(cười…). Bước ra ra khỏi Đền-Thánh
, Ông thấy bông huệ khô héo của ai bỏ,
ông lượm lấy đem cặm vào bình , không
ngờ thứ huệ rất nên kỳ lạ , những
bông nụ nở rồi nó rụng đi , còn bông
búp bắt hơi nước sống lại , nở tươi
đẹp, còn các thứ hoa khác tàn rụi hết,
ông phải chịu phép cưới cô Maria.
Hại
thay ! Nhà tu nếu làm làm lễ cưới rồi
phải ra khỏi Đền-Thánh, mà đôi vợ
chồng ông đều tu không gia-đình, không
nhà cửa, không phương sanh sống, thật
rất nên thê-thảm.
May
thay ! Lúc còn ở trong Đền-Thánh, ông
Joseph làm thợ mộc, ông giỏi nghề mộc
lắm . Ông mới bàn tính , bây giờ vợ
chồng nghèo dắt nhau ra ngoài làm ăn,
chồng làm thợ mộc , vợ may vá , mà
bà Maria về nữ công rất hay khéo nghề
đan (tricoter) , nhờ vậy tìm sự sanh sống
cũng tạm được đầy đủ.
Thảng
mãn ngày qua tháng lại, hạ sanh con đầu
lòng là Jesus. Hai vợ chồng nuôi con với
phương-tiện nghèo khổ, nhứt là ngày
hôm nay là ngày sanh của Đức Jésus Christ
còn để lại dấu-tích cho chúng ta thật
đáng để ý hơn hết. Đêm Noel trong Đền-Thánh
làm lễ long-trọng như chúng ta làm lễ
hôm nay, và hai vợ chồng đi lại từ
làng Nazareth vô Đền-Thánh làm lễ. Khi
đó bà đã có thai gần ngày sanh, nghĩ
mình đã có căn tu, đến ngày đại-lễ
không thể ở nhà được m bụng mang dạ
chửa, cũng ráng đi đến chầu lễ thường
lệ.
Ở
Châu-thành nhà cửa bị thiên-hạ mướn
chật hết, kiếm không ra chỗ ngủ , không
lẽ ở ngoài trời, mới vô năn-nỉ chúng
cho ở trong chuồng chiên tạm trú, Trời
đang tiết Đông-thiên ,như ngày nay chúng
ta nghe cũng hơi lạnh, lạnh-lẽo lạ-lùng
nhứt là với hai người tâm Đạo nay
vô ngủ trong chuồng chiên rất khổ sớ.
Đúng 12 giờ khuya đêm hôm ấy bà chuyển
bụng sanh ra Đức Chúa Jéssus Christ.
Trong
sách nói, ngày Chúa giáng sanh có vì sao
gọi là sao chuổi mọc không gì khác lạ,
đó là Comete de Halley, mỗi 75 năm mọc
trở lại một lần. Các vị Vương tiên-tri
rằng “ngày nào sao chuổi ấy mọc là
ngay Chúa giáng-sanh nên nhớ để dạ tìm
Người” . Có nhiều huyền-diệu ta không
thể tưởng tượng được như đám chăn
chiên đóng trại ngoài trời , bổng nghe
giữa thinh-không có nhiều Thiên-Thần
kêu nói có Chúa Cứu-Thế giáng sanh, nên
vua của dân Maures và các người chăn
chiên ấy vô đảnh lễ Chúa đầu tiên
hơn hết. Tai hại thay ! Thời buổi đó
nước của dân Juifs bị đế-quốc Romains
chiếm làm thuộc-địa, ở Palestine thì
để một vị chánh-soái là Hérode Antivas
hằng để tâm mưu sát Đấng Chúa Cứu-Thế,
vì có tiên-tri nói đến làm Vua nước
Do-Thái, nên ngay từ buổi đến trấn-nhậm
Palestine, chính Hérode đã giết ông Thánh
Jean Baptiste.
Buổi
ấy các nhà Tiên-tri cho biết Đức Chúa
Cứu-Thế sanh ngày đó mà không biết
Đấng Chúa Cứu-Thế là ai ? Muồn giết,
mà không biết ở đâu ? Nên bắt tất
cả con nít sanh trong đêm ấy đem ra giết
hết, đinh-ninh rằng trong đám đó có
lẽ có Đấng Chúa Cứu-Thế. Ai dè may
thay ! Ông Josph đêm mệt mỏi nằm mông
thấy Thiên-Thần mách bảo, liền bồng
đứa tre trốn qua Egypte. Hai vợ chồng
đáo tẩu kịp chớ không thì Chúa cũng
bị giết rồi..
Qua
Egypte một thời-gian , đúa con lên được
5,6 tuổi, nghe tin bên nước minh đặng
yên và có lịnh thiêng-liêng truyền
dạy hai vợ chồng trở lại Palestine ,
chồng làm thợ mộc theo nghề củ, vợ
may vá nuôi con, lại sanh thêm ba, bốn
người con trai, gái nữa, thành thử cách
sống rất nghèo-hèn khổ-não, từ cái
đường sông Jourdain Đức Chúa để bước
đội nước mỗi ngày giúp mẹ cùng kiếm
công một hai cắc.
Buổi
nọ là lúc đã trộng rồi , được 12,
13 tuổi, theo cha học làm thợ mộc, ông
chỉ đâu làm đó. Khi đó ông Joseph lãnh
làm nhà của người ta, rủi cưa cắt
làm sao mấy cây cột lỡ cụt hết, người
chủ bắt đền không biết liệu làm
sao !!! Nhà nghèo tiền đâu mua cột khác
đặng bồi thường. Ông ngồi khóc ròng,
đoạn Chúa mới cầu-nguyện rồi cha một
đầu con một đầu nắm kéo nhẵng ra
cho đủ thước đặng bồi thường cho
đủ, bằng không thì chỉ có ở đợ
mà trừ. Thiệt lạ lùng thay và huyền-diệu
thay đó là Đấng Christ hành-pháp lạ
lần thứ nhất.
Trong
năm 12 tuổi là năm kéo cột đó, Jésus
vô Đền Thờ buổi nọ chơn-linh Đức
Christna giáng-hạ, các vị Giáo-chủ trong
Đạo toàn là những Bác-sĩ nghe tiếng
đồn danh thần-đồng của Chúa Jésus
nên khi vô Đền Thờ, họ xúm nhau lai
vấn đạo, Đức Christna giáng-linh , ngồi
giữa các vị Giáo-chủ ấy, thuyết đạo
làm cho thiên-hạ ngạc nhiên sự lạ.
Hai
vợ chông buổi nọ đi chầu lễ Sabat
vô Đền-Thánh cúng rồi về, dòm lại
Đức Chúa đâu mất, hỏi ai nấy có thấy
Jésus không ? Hai ông bà tìm kiếm mãi
cũng không thấy con, sợ-sệt, hơ-hải
chạy trở lại đền thờ , thấy Jésus
ngồi giữa các Bác-sĩ Giáo-chủ đó ngồi
chung quanh đương vấn Đạo.
Bữa
nọ tình cờ, tuy vẫn lúc còn ở trong
Đền-Thánh, Bà có được tin truyền rằng
: Bà sẽ cho loài người nơi mặt thế
nầy, bởi nơi lòng bà xuất-hiịen ra
Đấng Chúa Cứu-Thế, tuy đã biết trước
như vậy , nhưng vì chạy kiếm con không
thấy, vừa mệt , vùa sợ-sệt đến khi
tìm gặp thấy con ngồi thuyết đạo,
đã có lòng phiền, bèn kêu Chúa nói:”Sao
con làm cho Mẹ khổ-não kiếm con lắm
vậy”, Đức Chúa lièn nói : “Bà kia,
Bà không biết tôi đang làm phận sự
của Cha tôi biểu phải làm hay sao ?”
Bà mới tỉnh, tự hiểu biết, nên phiền
Đức Chúa về lời nói đó. Từ đó khi
Chúa về nhà thì cũng như mọi đứa trẻ
khác, cũng đi đội nước, cũng đục-đẻo
làm thợ mộc , phục tùng cha mẹ hiếu
hạnh đủ điều.
Trong
nhà em út bất hoà, còn ông Jésus hiếm
lắm, tánh hay nhịn-nhục nên mấy người
em thường hay ăn hiếp. Ở nhà không yên
, ông đi làm thợ lấy tiền vè nuôi cha
mẹ lây lất qua ngày.
Đến
năm 30 mươi tuổi nghe Saint Jean Baptiste
truyền-giáo tại bờ sông Jourdain, cũng
trong lúc đó , Đức Chúa đến gạp ông
đang giải-oan cho thiên-hạ. Khi vừa thấy
Đức Chúa ở xa xa đi đến thì ông đã
biết là Đấng Chúa Cuwuws-Thế, mới nói:
Từ sáng đến giờ tôi chỉ chờ có một
người nầy thôi. Đức Chúa đến thọ
phép giải-oan của Ngài. Trong buổi vừa
hành-pháp xong Đức Chúa dưới sông Jourdain
vừa bước lên thì trên không hiện ra
hào-quang sáng-suôt , hiện ra giống như
chim bồ-câu trắng sa giữa đầu Chúa,
ngay giữa thinh-không có tiếng nói :”Nầy
con yêu dấu của ta, cả ân-đức của
ta để cho Ngươi đó ”. Từ ngày đó,
Đức Chúa Jésus là chơn-linh Đấng Christna
giáng hạ, cho nên đi truyền-giáo nơi
nào , chơn-linh Ngài không phải như ngày
sinh-nhật nữa và đã biến thành Chí-Thánh
vậy. Ngài là chơn-linh Thánh sông trước
mắt cả thiên-hạ đạt cả Đạo-giáo.
Ngài quan-sát nơi mặt thế nầy , Đức
Jésus Christ không kém thua ai trong hàng
Giáo-Chủ . Ngiaf để nhứt tâm lẫn tuát
thương sanh yêu-ái người thật nồng-nàn
chơn-chất. Đức Thích-Ca thế nào thì
Chúa thế ấy. Bởi cớ thiên-hạ thương
mến nghe theo Đạo-Giáo của Ngài . Dân
Juif các vì Giáo-Chủ buổi nọ , luôn
các vua chúa Palestine, thấy Đức Chúa
Jésus Christ thuyết đạo-giáo có một
chí-hướng chơn-truyền phản-khắc với
tôn-chỉ của họ , họ oán ghét, tìm
phương giết Chúa , đến đàu-cáo với
César rằng :”Người ấy mưu cuộc phản
loạn đem bọn Juif ra khỏi sự thống-trị
của chế-độ Romain” nhưng họ vu-cáo
đủ thứ cũng không được vì thánh-đức
của Chúa không thể phạm vào được
. Họ lại tìm cách bài-bác luật Đạo,
tạo một ban tuyên-truyền làm cho cho nhơn-gian
sợ di-hại liên-luỵ không dám gâng Chúa
. Mấy Giáo-Chủ (Caiphe) ấy bắt Chúa
Jésus giao cho nguyên-soái Pilate lên án
tử hình. Tuyên-truyền thế nào không
biết cho đến ngày lễ Pâques là ngày
thả tù nhơn, có tên Barabbas là tướng
hung-dữ, sát nhơn đủ tội mà toàn dân
Juif đồng tha bổng, còn Đức Chúa Jésus
chúng không tha, lên án tử-hình và đem
ra giết, đóng đinh trên cây thập tự.
Cái
chết của Jésus Christ là gì ? Là Ngài
đem xác Thánh trọng quý dâng cho Chí-Tôn
làm tế-vật , xác Thánh chết trên Thánh-giá
là lễ tế đồng thể với Tam-Bửu của
chúng ta dâng lên Đức Chí-Tôn ngày nay
đó vậy.
Vậy,
Đức Chúa Jésus Christ đã làm con tế
vật cho Đức Chí-Tôn đặng cứu chuộc
tội lỗi của loài người , nhứt là
các sắc dân Aâu-châu, nên danh theerNgaif
để hai chữ Cứu-Thế chẳng có chi là
quá đáng.
Thật
ra Đấng Cứu-Thế ấy là Tam-thế Chí-Tôn
giáng-linh tức là Christna tái thế.
Đền-Thánh
ngày rằm tháng 11 năm Đinh-hợi (1947)
THIÊN-TÀI VÀ NHƠN-TÀI
Hôm
nay Bần Đạo giảng về “Thiên-tài và
nhơn-tài” Nhưng trước khi giảng thuyết
ấy , nên mở một lối để cả thảy
hiểu nguyên-do nào mình đạt được thiên-tài
hay chỉ nhắm nhơn-tài mà thôi.
Bần-Đạo
đã giảng nhiều phen giảng hình-trạng
Tam-Bửu , đã cho cả thảy biết trong
mình ta có tam thân , thất phách, chúng
ta gọi theo Đạo-giáo là Tinh, Khí, Thần.
Thứ
nhứt: Thân thể hửu-hình của chúng ta
đây gọi là phàm-thân.
Thứ
nhì: Thân-thể khí-chất vô-hình, mắt
không nhìn thấy được, nếu thấy được
là đạt Đạo, gọi là Pháp-thân.
Thứ
ba: Gọi là Linh-thân tức là linh-hồn.
Ba món báu ấy chung hiệp nhau lại tạo
nên hình ảnh con người.
Nếu
ta thấy được thì thân-thể hửu-hình
nầy đồâng-thể với vật loại tức
là thú vậ. Pháp-thân tương-liên với
càn-khôn thế-giới đồng thể với Khí,
cả Khí chất Tạo-đoan ra nguyên-do loài
người, lấy nguyên-do đó làm thành hình-ảnh
của linh-thân chúng ta, còn sự sáng-suốt
linh-thiêng là do nơi lòng Đức Đại Từ-Phu.
Vậy chia làm ba người trong ta nuôi-nấng
xác hình hửu-hình nầy. Pháp thân một
mặt giữ-gìn xác thân châu-toàn kiếp
sống, một mặt tương-liên với quyền-năng
sở-định của các đấng Thiêng-Liêng
với Chí-Tôn. Vậy nó chia ra hai lập-trường
;
1.-Lập-trường
đối với vật loại.
2.-
Lập-trường đối với Chí-Tôn , Pháp-thân
phải có tinh-thần trí-thức bổn-năng
xu-hướng quyền năng vô-hình, tìm nguyên-căn
mình xu-hướng theo Đấng Tạo-Đoan , hiểu
hình-thể, biết đi, biết về, gọi bằng
huệ tức linh-tâm. Thảng không biết,
chỉ lo bảo-tồn sự sanh sống của vật-loại
thôi, thì trở nên giác-tánh. Một đàng
linh-tâm, một đàng giác tánh, nó ở giữa.
Bây
giờ đã hiểu rồi, Bần-Đạo xin thuyết
về “Thiên-tài và Nhơn-tài”.
Trí-giác
Pháp-thân chúng ta có hai điều xu-hướng,
hể xu hướng theo thiên-tư thì đạt được
thiên-lương là một khối tài-tình đạt
kiếp sống vi-chủ cùng tận hình-thể,
việc nầy không gì khác hơn là cái kho
ta đựng quyền-năng ta đạt được .
Trong phép luân-chuyển kiếp sanh lập kho
chất chứa cả tài-vật của chúng ta
đạt đặng trong kiếp sanh , nhờ đào-luyện
bởi bài học khổ của Tạo-Đoan , năng
chịu khổ , giỏi chịu hành hạ khổ
não chất chứa . Kho đó còn. Trí vẫn
còn.
Trở
lại giác tánh , ta thấy gì ? biết bảo-trọng
mạng sống như muôn loài, như trâu ăn
cỏ , khỉ ăn trái cây , giác-tánh tạo
hình xu-hướng theo vật loại thì đè
pháp-thân xuống, muốn tìm hạnh-phúc
mà thôi, mà tiềm-tàng hạnh-phúc ta tưởng
thế-gian nầy nhiều tướng hình , tương-đối
với càn-khôn , xác thịt yếu-ớt tìm
phương để bảo-vệ không có phương
nào không làm, so-sánh với vạn-vật thì
con người thua nhiều con vật khác , thua
công-khai , như con cọp mà mình kêu ông
cọp. Muốn thắng nó đặng thì tìm phương
quyết thắng, tạo ra súng ống đặng
tự-vệ lấy mình, nên làm chủ nó được
. Giác-tánh tìm phương tự-vệ phải xu-hướng
theo đường duy-vật.
Nhơn
tài ta thấy gì ? Có một kho sách ở thành
New-York có 2.000 triệu quyển sách học
mưu hay chước khéo, cả thảy tài-tình
nhơn-loại cộng thành khối lớn, nhưng
chưa hề quyết đoán vận-mạng nhơn-loại
được.
Nhơn-tài
đã làm gì hạnh-phúc cho nhơn-loại ,
chúng ta đã thấy dầu cách vật , họ
đi tới mức huệ qua không được , trở
lại vật hình. Trên kia đã thấy gì ?
Họ tìm phương-pháp tương-tàn tương-sát
lẫn nhau, có gì khác hơn đâu , bởi duy-vật
chỉ làm chúa vật-loại thôi, ấy là
nhơn tài. Phương-pháp của con người
tìm thế đem cả hình-thể của người
lên làm chúa cả vạn-vật, ấy là thuyết
duy-vật. Những mưu-chước hay khéo, họ
thâu đoạt được để làm chúa vạn-vật
thuộc nhơn-tài.
Bây
giờ tới thuyết Thiên-tài . Thiên-tài
là khi nào Pháp-thân xu-hướng theo nguyên-do
căn-bản, tâm-linh của nó. Tự hỏi mình
cũng như con vật, sao khôn ngoan hơn vật,
sao có linh-tâm, có căn-bản vì đâu ?
Tìm kiếm ra căn-bản ấy là Tu. Tu để
tìm nguyên-do linh-tâm chúng ta là thiên-lương
ta đó, hay khéo hơn hết là ngày giờ
nào để trí-thức tinh-thần theo thiên-lương
thì mở-mang một cách lạ lùng.
Tại
sao khiếu vật-hình không làm trở-ngại
vật mà phải cùng ta tự tìm kiếm , tự
luyện tinh-thần ấy là Pháp-thân thì
đạt huệ, mà đạt-huệ đặng thì đóng
khối trong kho vô tận từ thử đến giờ
, nếu mở cửa ra được là lấy được
, kiếp nầy mang thi-hài xác- thịt có
một bài học mà thô, còn các bài học
kia nếu chúng ta dở quyển sách vĩnh-sanh
ra thì không có gì khuất-lấp được.
Thiên-tài
quy-tụ nơi trí ta đặng , không có năng-lực
nào nơi mặt thế nầy đối-phó mà ta
không thắng. Không nói Thiên-tài ấy đủ
quyền-năng tạo hạnh-phúc thi-hài chúng
ta mà thôi, lại còn tạo hanh-phúc cho
thiên-hạ nữa mà chớ ! Aáy là cơ-quan
đạt Đạo. Các Giáo-chủ tại thế nắm
Thiên-tài, bảo trọng tinh-thần loài người
tức-nhiên cứu người đó, bởi chúng
ta thắng vật hình hửu-vi, hửu-hoại
nầy . Đêm ngày 24 giờ, thấy chết sống
trước mắt, thiệt tướng. Chẳng phải
ở cái sống nầy mà ở trong buổi chết,
biết bao kẻ khi khổ não cực nhọc thi-hài
quá lẽ, chạy theo phương cứu-khổ, tìm
không được phải thống-khổ tinh-thần.
Muốn an-ủi chúng nó phải đi con đường
nào ? Sự thống-khổ có thể an-ủi được
trong giấc ngủ, khi thức, mở mắt ra
thấy kiếp sống nầy đương đau thảm,
ta tìm được phương an-ủi, làm cho binh-tỉnh
tâm-hồn, định được thiên-lương chúng
ta trong giấc ngủ , khi thức chúng ta đã
thấy trường đời đau thảm.
Đã
giải rõ hai thuyết Nhơn-tài và Thiên-tài,
xem coi bên nào hơn bên nào kém. Hại thay
! những kẻ biết vật không biết hình
bóng của vật, chỉ biết vật không biết
thiên-lương, bởi cớ, trường đời ta
thấy trí-lự nhơn-tài tìm phương tranh-đáu
sanh sống, hạnh-phúc hơn người, cả
nhơn-tài hiện tướng dữ-dội lần đẹp
đẻ có mùi vị quyền-năng trục cả
tinh-thần con người theo nó, chưa biết
tồn-tại chăng ? Hình ảnh trước mắt
cả trương đời đi đến con đường
tự diệt , chớ không phải con đường
vĩnh-sanh . Nếu chúng ta muốn muốn đạt
được quyền vĩnh-sanh thì lấy Thiên-tài
làm căn-bản.
Muốn
đoạt Thiên-tài không theo ai , không xin
ai được hơn là đi theo Đại Từ-Phụ,
dầu ta ngu-ngốc thế nào, xin một ngày
không đặng thì hai ngày đến một tháng,
một năm , nếu theo hoài dầu cho có nhiều
xin mà ông cha không thể cho đặng , chúng
ta cứ cương-quyết chìu-lòn phục-luỵ,
kiên-nhẫn theo hoài, dầu khó cũng phải
cho, bởi không nở nào không cho, mà hể
Đấng ấy cho rồi không có cái gì ở
thế gian này đối với của ấy được.
Lời
Bần-Đạo căn-dặn : Mặc ai sang trọng
ở trường đời , ta cứ quyết theo Chí-Tôn
thì đại-nghiệp không mất, quả quyết
đứa con nào của Ngài trọn trung, trọn
hiếu với Người và với Hội-Thánh là
hình thể của Người tại thế gian nầy,
thì không bao giờ thất nghiệp và thất
phận.
Đền-Thánh
ngày mồng 1 tháng chạp năm Đinh-hợi
(1947)
DÂNG
TAM-BỬU
Bần-Đạo
xin nhắc lại một phen nữa, khi nào hành
lễ lúc dâng Tam-Bửu . Hể đưa bông lên
là dâng cái hình thể của chúng ta đó,
ta cúi đầu cầu-nguyện Chí-Tôn :
-
“ Con xin dâng mãnh hình-hài của con cho
Chí-Tôn dùng phương nào thì dùng”.
Khi
dâng rượu cầu nguyện :
-
“Con xin dâng cả trí-thức tinh-thần
của con cho Chí-Tôn dùng phương nào thì
dùng”.
Khi dâng trà cầu nguyện :
-“Con
xin dâng cả linh-hồn cho Chí-Tôn dùng
phương nào thi dùng”.
Câu
chót nếu chúng ta khôn-ngoan nguyện như
vầy :
-“
Cả linh-hồn, cả trí-não, cả hình-hài
con, Thầy đào-tạo đó là của Thầy
thì do nơi quyền-hành độc-đoán của
Thầy định”.
Đó
ta cầu nguyện như vậy với Chí-Tôn.
Bần-Đạo
đã giảng Tam-Bửu , tại sao Chí-Tôn lấy
bông tượng trưng hình-hài, Ngài muốn
nhìn con cái của Ngài bằng cái giá-trị
tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái bông.
Ngài
lấy rượu là muốn tinh-thần của loài
người cường-liệt như rượu mạnh vậy.
Ngài
muốn lấy trà là muốn chơn-linh ta điều-hoà
như trà vậy .
Ngài
lựa ba món đó cốt yếu là vậy.
Ngày
nay Bần-Đạo giảng ba ngôi hiệp nhứt
của Đức Chí-Tôn, cả thảy mỗi phen
vào Đền-Thánh nắm sanh khí ấy tạo
cả cơ-quan hửu-hình nầy, dầu sắc đá
cỏ cây, cả thú vật vạn-linh hửu tướng,
thuộc về Tăng.
Đạo
nầy luật thế nầy, Đạo kia luật thế
khác, nhưng không khác hơn Phật-giáo.
Giả
thí như Thánh Giáo Gia-Tô cũng có Ba Ngôi
(La trinité) : Đức Chúa Cha (Le Père), Đức
Chúa Con (Le Fils) và Đức Chúa Thánh Thần
(Le Saint Esprit). Đức Chúa Cha là Phật,
Đức Chúa Con là Pháp, Đức Chúa Thánh
Thần là Tăng.
Không Đạo-giáo nào thuyết-minh
rõ-ràng cơ tạo-đoan lấy thuyết hổn-độn
sơ-khai phân chia :
“Khí
chi khinh-thanh thượng phù giả vi thiên,
Khí chi trọng-trược hạ ngưng giả vi
địa”. (Khí khinh thanh bay lên trên làm
Trời, Khí trong trược ở dưới ngưng
kết lại làm đất).
Cả
vật-loại hửu tướng nầy có hai quyền-năng
sản-xuất:
1.-
Ngôi Chí-Tôn.
2.-
Đức Mẹ.
Cả
quyền-năng ông cha chúng ta đào-tạo thế
nào ngày nay, quyền-năng Chí-Tôn cũng
đào-tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta
thế nào thì mặt luật ấy không khác
nào quyền-năng vô-tận của Phật-mẫu
dùng đặng đào-tạo Càn-Khôn Thế-giới,
chúng ta không biết, không thể đoán được,
luật ấy không xa. Chí-Tôn
là Phật, Phật-Mẫu là Pháp, Càn-Khôn
là Tăng. Mặt địa cầu nầy đến 3.000
thế-giới cũng là Tăng.
Nắm
quyền trị thế là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên
chính quyền-năng Chí-Tôn định, địa
cầu nầy không định khác, chỉ có một
mặt Trời nầy không có mặt Trời khác,
trong 24 giờ một ngày, Đấng cầm quyền
trong pháp-giới là Hư-Vô Cao-Thiên vâng
mạng lịnh Hoạ-Nhiên Pháp-Thiên làm cho
vũ-trụ khỏi tương-tàn với nhau. Địa-cầu
này nếu không mặt luật đạo-đức thì
sinh ra bậy-bạ con người không chắc
sống.
Bây
giờ chúng ta quan-sát Hổn-Nguơn Thượng-Thiên
ngày nay Đức Phật Di-Lặc ở nơi Hổn-Nguơn
Thượng-Thiên cầm cả hành-tàng Càn-Khôn
vũ-trụ, giờ Ngài đương cầm quyền
cả vạn loại.
Trước
khi nguyện lấy dấu và niệm Nam-mô Phật,
Nam-mô Pháp, Nam-mô Tăng, dám chắc thật
đích-xác ba Ngôi ấy chưa ai biết rõ.
Ngày
nay Bần-Đạo giảng : Phật là gì ? Phật
là một Đấng toàn-trí toàn-năng, người
ta lầm-lạc tưởng không thấy hình dạng
là không có người thế-gian lầm-lạc
nhiều lắm. Họ quả-nhiên là người
sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta
là không có thi-hài mà thôi . Đấng toàn-trí
toàn năng ấy là Đấng đầu-tiên hiệp
lại với Chí-Tôn.
Bần-Đạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc-biệt :
1.-
Hạo-Nhiên Pháp-Thiên tương-liên hiệp
một cùng Đức Chí-Tôn.
2.-
Hư-Vô Cao-Thiên thuộc về Pháp-giới
cầm cả luật Thiên-điều.
3.-
Hổn-Nguơn Thượng-Thiên thuộc tạo-hoá
thuộc Tăng .
Phật
vị có ba đẳng-cấp ấy đặng nắm cả
quyền năng Càn-Khôn Thế-giới.
Phi-Tưởng
Diệu-Thiên nắm quyền-hành tạo-đoan
loài người thuộc Phật, đồng thể với
Phật. Phi-Tưởng Diệu-Thiên lãnh phận
sự nơi Đức Chí-Tôn cầm nguơn-khí của
con người, giữ sanh-mạng vạn-vật kêu
là vạn-linh.
Tạo-Hoá
Huyền-Thiên thuộc Pháp có ba quyền tạo-đoan
thế-giới hửu-hình nầy vô cùng tận.
Tạo-hoá cầm sanh-khí để tạo sanh-vật.
Tạo-hoá Huyền-Thiên, Phật-Mẫu cầm
Pháp chuyển cơ sanh-hoá không cùng tận
, cả loài người, cây, cỏ, sắt, đá
cũng tấn lên phẩm người nữa là nhờ
tay của Đức Phật-Mẫu nắm Pháp biến
xuất. Cả thi-hài chơn-linh trí-não pháp-thân
luân-chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh
tử ấy là bài học của tạo-hoá trong
các cơ-thể ấy, loài người học làm
đặng biết , đặng chi ? Đặng tạo Pháp
thân huyền-diệu được toàn-thiện toàn-mỹ
, toàn trí , toàn năng như Phật-Mẫu đã
làm, ta làm đặng học-hỏi tạo pháp-thân
do quyền-lực thuộc Pháp, hình-hài xác
thịt thuộc Tăng, thây chúng ta thay đổi
lăn-lóc trên đường sanh sanh tử tử
cũng như Phật ở tối cao tối trọng,
gần Chí-Tôn là Hạo-Nhiên Pháp-Thiên
, Các đấng ấy hửu sanh hửu tử tri
khổ nghiệp chướng vạn-linh, năng du
ta-bà thế giới độ tạn vạn-linh đắc
qui Phật vị.
Các
Đấng ấy đã chịu như chúng ta ngày
nay đặng đi đến toàn-thiện , đặng
toàn-trí , toàn-năng , họ đi trước mình
đi sau , họ cao, mình thấp thỏi, con đường
họ đi mình cũng đi tới . Một điều
ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải
hiểu rằng : Mặt thế nầy chưa biết
ai cao ai thấp. Nơi Hạo-Nhiên Pháp-Thiên
một vị Phật cao-trọng, toàn trí , toàn
năng gần như Đức Chí-Tôn nũa mà xuống
thế đặng học , bìa học khổ, dám làm
kẻ ngu dốt lắm.
Chúng
ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth
là một vị chi Phật như Đức Cakya Mouni
đến thế-gian bưng bình Bát-du để xin
cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người
ăn mày ở thế-gian như vậy mà nơi cửa
hư-không lại có quyền-năng vô-tận vô
đối . Đến Đức Chúa Jésus Christ là
một vị Christna Vichnou đệ nhị kiếp
Chí-Tôn giáng linh xuống làm một vị
bần hàn khổ-não để đi xin từng chén
cơm , từng miếng bánh mì để nuôi kẻ
đói khó. Đó là bài học trước mắt
phàm chúng ta đã thấy.
Đấng
Tạo-Đoan đưa tay xin cho loài người ăn,
đó là người cầm quyền-năng nuôi khắp
vạn-vật Càn-Khôn vũ-trụ . Thế-gian
chưa hề thấy và chưa hề biết.
Kỳ
sau Bần-Đạo giảng tiếp.
Văn-phòng
Hiệp-Thiên-Đài ngày 8 tháng chạp năm
Đinh-hợi (18-01-1948).
HUẤN-TỪ
CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP TRONG LỄ
KHÁNH-THÀNH VĂN-PHÒNG HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Các
bạn Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng và Phước-Thiện
nam nữ.
Tưởng
từ khi tôi đã phế đời, hiến mãnh
thân phàm nầy cho Đức Chí-Tôn làm khí
cụ tạo cho nước Việt-nam một nền
Tôn-giáo nầy, không ngày nào được phần
thưởng vô-giá như ngày hôm nay, mà chỉ
có một ly rượu. Theo sự hưởng-ứng
của các bạn biết, nếu con người ta
lấy cái sức phàm làm môi-giới cho cái
sở hành riêng thì hẵn không ai can-đảm
chịu. Cái người đã thả mình vô cảnh
khổ với một sự vui tươi thì hồi xưa
đến giờ chưa có. Tại sao vậy ? Tôi
đã hiểu bí-mật ấy, tôi hiểu cả,
nên cho các ban hiểu.
Các
Đấng tự-hửu, hằng hửu, thiên-hạ
tưởng không có, họ lầm từ trước,
người ta tưởng Đấng ấy không có.
Đấng ấy đã có từ tạo thiên, lập
địa, tôi biết tôi hiể, tôi đã chịu
khổ não để thay-thế hạnh-phúc cho đời
là do nơi đâu ? Không phải tại nhà tôi
hay tại tôi, chưa chắc, do nước Việt-nam
chăng ? Aáy là do toàn nhơn-loại. Đấng
Cha lành ấy dầu thấy con bạc-bẽo thế
nào, Đấng ấy cũng còn thương yêu. Sự
thương-yêu của ông cha lành nó truyền-nhiễm
tôi, do nơi chỗ tôi nghe được, tôi
hiểu được, biết rõ đặng Người.
Đấng
ấy có mơ-vọng gì vô hạn ? Nhứt là
Ngự-Mã-Quân của Chí-Tôn biết trước
hơn ai hết, bởi vì Ngài có dạy, trước
hết là Ngài bỏ Huỳnh-Kim-Khuyết , bỏ
thiên-cung đòi xuống trần dạy con cái
của Ngài lập phương giải khổ. Nếu
tôi không lầm, cơ-bút đã cho tôi biết
các bạn Hiệp-Thiên do nơi đâu sản-xuất
? Do để giữ quyền thiêng-liêng nên mới
có 12 vị Thời-Quân, thập nhị địa-chi,
tức là cảnh thiêng-liêng vô-hình của
chúng ta. Tôi tưởng tấn-tuồng tôi đã
làm trọn và làm nơi cỏi vô-hình . Ngày
kia về thiêng-liêng các bạn sẽ thấy
hình tối đại, tối thiểu. Phận-sự
tôi đối với các bạn nó có thâm-tình
vô hạn, vì đồng tâm, đồng chí, một
mực đề xướng cả thảy đều nghe chịu
một hoàn cảnh, Bần Đạo làm không hết,
số là tại Bần-Đạo và các bạn Hiệp-Thiên-Đài
đã hứa với Chí-Tôn.
Bần-Đạo
lo cho toàn cả nhơn-loại hoàn-cầu, chớ
không phải thương-xót một cá-nhân nào
hay một đoàn thể nào, một quốc-gia
nào, không phải làm tôi mọi cho đời,
làm tôi mọi cho Đạo, nhưng vì cái năng-lực
vô hình kia mà thôi.
Trước
khi lãnh lịnh trên Bạch-Ngọc-Kinh tạo
nền Chơn-Giáo Chí-Tôn quyết-định có
Ngài giáng-thế mới được, Ngư-Mã-Quân
không cho , bắt buộc phải có người
thay thế cho Ngài tức là Thánh-Thể của
Ngài tại đây.
Ngài
đi mà không cho thì phải có hình-ảnh
thế cho Ngài mới được. Hình-ẩnh của
Ngài là Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài và
Hiệp-Thiên, Hộ-Pháp có khôn-ngoan nào
hơn là cầu-khẩn cho có người đến
với mình đặng tạo Thánh-Thể đó, chớ
một mình Hộ-Pháp xuống không thế được,
nên phải cám dỗ cung nầy, điện kia
, đến Cửu- Thiên Khai-Hoá, biết chắc
làm được mới đi.
Các
bạn cứ làm đi, vì cái phận sự đối
với thế-gian, đối với lời hứa ở
trên kia, mặt cân không biết đồng chưa
? Lời hứa trước kia, sự làm bây giờ,
biết hai cái đó có đúng không ? Bần-Đạo
làm mãi không biết làm sao cho rồi, nào
lo cho Cửu-Trùng, rồi đến Phước-Thiien,
đầu-óc của Hộ-Pháp đã chịu thâm-giao
cùng các bạn, cứ làm mãi thôi, sống
giờ nào làm giờ ấy. Không phải kiếp
nầy tại đây có Thánh-Thể, không phải
tại xứ Việt-nam ta mới có, chúng ta
chỉ là người cặm bông tiêu thôi, chớ
không phải người tạo, chúng ta sáng-lập
là để đoàn hậu-tấn, vì chúng nó đứng
chàng-ràng, không biết đứa nào gánh
vát đảm đương.
Bổn-phận
làm anh phải tạo nghiệp cho em. Mở đường
trước cho con cháu đi, sau nhờ có chúng
nó Thánh-Thể của Chí-Tôn mới tồn tại.
Thầy không phải đến một kiếp nầy
thôi mà đến phải ở đời đời, không
phải Thánh-Thể đương nhiên họ sẽ
đến nữa hay đã đến rồi, nó còn lộn-xộn
không biết đứa nào. Biết còn nữa thì
tức-nhiên phải mở con đường cho chúng
nó đi vào tạo-nghiệp cho chúng nó. Tôi
là đầy tớ của Đức Chí-Tôn, biết
có bao nhiêu đó cứ đảm-nhiệm cương-quyết
nâng-đở Đạo và Đời thôi.
May
một điều là tôi còn thiếu với Đức
Chí-Tôn . tôi xin đầu kiếp, thiếu hay
không mà kiếp nầy tôi đã là tên dân
nô-lệ cho nước Việt-nam , đã chịu
thống-khổ tâm-hồn lẫn hình thể trên
35 năm.
Tôi
không xin, tôi biết tại sao tôi đầu-kiếp
xuống dân Việt-nam, tôi cảm-kích vô-hạn
, nào chịu khổ, nào chịu bạc-nhược
yếu-hèn. Tại thấy nhơn-loại đau-đớn
Chí-Tôn mới đến ,ở một nền Tôn-Gioá,
làm một khối sanh-quang cho toàn nhơn-loại,
đó là cái danh-dự của nước Vieet-nam
đã chịu khổ.
Vì
cái tình của Chí-Tôn đối với dân-tộc
Việt-nam nên tôi thí thân phải chết
mới đền bồi xứng-đáng.
Còn
một việc khác nữa là Ngài tạo đầu-óc,
từ ngày mở Đạo Cao-Đài đến giờ,
Ngài tạo đầu-óc nòi-giống Việt-nam
để vãn-hồi quốc-vận, như thế cũng
đủ cho mình đưa sanh-mạng mà đổi.
Vậy
sự làm của chúng ta phải cương-quyết
và nhẫn-nại đủ điều, không nhút-nhác,
vui chịu, bởi đã hiểu giá-trị ân-đức
của Đức Chí-Tôn như thế nào rồi,
muốn trả được hết phải học sách
làm đầy-tớ của những đầy-tớ của
Đức Chí-Tôn , làm được vậy chừng
đó mới trả nợ tình của Đức Chí-Tôn
đặng.
Trường
Hành-Chánh lúc 4 giờ chiều ngày10 tháng
chạp. Đinh-hợi(20-01-1948)
HUẤN-TỪ
CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP TRONG LỄ
MÃN KHOÁ HẠNH-ĐƯỜNG
Bài
diễn-văn cảm-tạ của Nguyễn-Hửu-Lương
thay mặt các vị Lễ-sanh tân-phong, ấy
là áng văn đầy chơn-lý, đi thẳng vào
tâm-hồn của Bần-Đạo, nó có mãnh-lực
mạnh-mẽ lạ thường, Bần-Đạo tưởng
nếu cả thảy đồng thật-hvaofddungs theo
lời thuyết văn mới vừa đọc đây thì
mối Đạo sẽ lan-tràn tốt tươi vô-đối,
Bần-Đạo lấy làm cảm-tình, tuy vân,
mấy em nói bửa tiệc thô-sơ, nhưng bữa
tiệc nầy xem lịch-sử Đạo trong các
bậc Thánh Hiền nước Việt-Nam từ xưa
nay chưa từng có. Lịch-sử của Đức
Khổng Phu-Tử từ nhà Châu đến giờ
nay mới sống lại, nó sống với bữa
tiệc nầy thôi.
Quả-nhiên
từ ngày mở Đạo thì đã tạo hạnh-đường
nhưng nó chưa có sanh-hồn, nay nhờ bữa
tiệc nầy mà nó có sanh-hồn hiển-nhiên
quí-báu vô-giá vậy, Tuy vân, không có
gì xứng-đáng, nhưng Bần-Đạo hưởng
được một vật quí-giá mà từ trước
đến giờ chưa hưởng được.
Trước
hết Bần-Đạo giải-nghĩa cái quyền
đương-nhiên là quyền đời và quyền
đương-nhiên của Đạo trong thế-kỷ
XX nầy, nền văn-minh của Thiên-Chúa-Giáo
truyền khắp cả nhân-gian cùng vạn-quốc
trong hai ngàn năm trước. Đạo Thánh Gia-Tô
lập quyền Đạo hồi xưa có cảnh tượng
như thế nào thì ngày nay nền Đạo Cao-Đài
của chúng ta cũng thế.
Hiện-tượng
nền Tôn-Giáo của Chí-Tôn bây-giờ nó
giống theo khuôn-khổ và cảnh-tượng
của Thánh-Giáo Gia-Tô đã truyền, dầu
cho ai cũng phải nhìn rằng : Cái công-trình
của Thiên-Chúa-Giáo với nhơn-loại là
vĩ-đại. Có thể chia ra hai quyền :
1.- Là quyền đời đương-nhiên (Pouvoir temporel).
2.- Là quyền-năng của tinh-thần (Pouvoir spirituel).
Cái
quyền tinh-thần ấy biến ra một nền
chánh-trị đặc-biết riêng của nó như
Đền-Thánh Vatican ở La-Mã, là một nước
trong vạn-quốc, một nước về tinh-thần
. Cái tương-lai Đạo Cao-Đài sẽ đi đến
đóø, không phải mơ-hồ mà tưởng chắc
quả-quyết vậy.
Lập
quyền chánh-trị Đạo Cao-Đài cũng
như nền chánh-trị của Thánh-Giáo Gia-Tô
nơi Đền Vatican 2.000 về trước. Lúc
ấy quyền Đời và quyền Đạo Thánh
Gia-Tô chiến-đấu và phản-khắc nhau,
trong lúc mà Thánh-Đạo Gia-Tô đang tạo
quyền-hành tinh-thần đạo-đức. Cái
chánh-trị của Thánh-Giáo Gia-Tô lập-thành
được là nhờ lấy từ mảnh-mún tinh-thần
mà tạo nên khối đó vậy.
Cái
chánh-trị của Đạo Cao-Đài cũng thế,
nhưng chỉ có một điều khác là người
ta làm trước, mình làm sau, đường đi
chúng ta kỹ-lưỡng hơn , trước kia tôi
tưởng nó phải gặp nhiều trở ngại
nguy-hiểm như Thánh-Giáo Gia-Tô đã đi.
Trong hai ngàn năm mới lập quyền vững
chắc và mạnh-mẽ đăng.
Còn
nền Chánh-Giáo của Chí-Tôn mới 23 năm
mà đã nên hình mạnh-mẽ, đó là Đức
Chí-Tôn ban ân-huệ cho nước Việt-Nam
đặc-biệt , Từ xưa các vị Giáo-chủ
trên mặt địa-cầu nầy chưa đạt được
như chúng ta bao giờ, Tuy vân,chúng ta đã
chịu nhiều phen khảo-đảo ấy, ngó lộn
lại đối với các nền Tôn-giáo, các
vị Giáo-chủ, muôn phần không có một.
Nền
móng của Thiên-Chúa-Giáo tạo ra khó khăn
thế nào , chúng ta noi theo sự sáng-tạo
ấy đặng tạo nên một nền móng nữa
, phận-sự rất dễ-dàng. Nền Chánh-trị
ấy là một nền chánh-trị để phân
quyền với quyền đời, quyền đời Bần-Đạo
chẳng cần luận vì nó là oai-quyền nh
trước mắt chúng ta đã thấy. Bần-Đạo
chỉ luận về quyền Đạo của chúng
ta mới vừa đạt đặng.
Nó
cũng quyền hành như ai , nhưng có một
điều trọng-yếu khác hẳn là quyền
đời và quyền đạo cách nhau nột trời
một vực , như bên nầy và bên kia , mặc
dù không có mức chính giữa đã định
, nhưng bên kia xâm-lăng sang bên nầy một
chút thì người ta đã thấy . Hai quyền
đều đặc-sắc không giống nhau đặng
. Cây huệ-kiếm của chúng ta không phải
là thiết-kiếm của thế-gian hửu hình
mà là huệ kiếm vô-hình tức là tinh-thần
và đạo-đức của chúng ta.
Bần
Đạo đã nhiều dịp nói rằng : Cả Thánh-Thể
của Chí-Tôn là trường quan-lại, nếu
quan-lại Đạo mà bắt chước đồ theo
thể-pháp và hình thể của quyền đời,
thì xem như nó dị-kỳ hì-hợm lắm. Quyền
Đạo nó có hình-tướng khác, nó không
quái gở và dị hợm như trường đời,
chúng ta xem thấy hiển-nhiên đó vậy.
Nếu
anh hoạ-sĩ đủ tài, đủ năng-lực cầm
cây bút hoạ cho nó nên hình tướng, tưởng
không có vật báu chi ở thế-gian nầy
so-sánh được , vì nó có Tiên căn Phật
cốt hiện trong đó , để tạo ra hình
tướng . Cái hình tướng và tinh-thần
của Tiên Phật tốt đẹp thế nào không
nói ra ai ai cũng biết. Cái hình nó phải
mường-tượng như thế đó , phải làm
cho nó ra hình Tiên cốt Phật các bạn
thử xem Tiên, Phật tốt đẹp như thế
nào, thì trường quan-lai của của Đạo
phải cầm cây viết thiêng-liêng vẽ nên
hinh tốt đẹp như Phật như Tiên vậy.
Nếu
rủi có một bệt lọ hay một bợn nhơ
dính vào thì nó dị hình dị dạng và
ô-trược lắm. Nó phải cho đẹp đẻ
khôi-ngô linh-dị nguyệt-xu mới đặng
. Tỷ như hạng gái kia đi ra đường mà
có một bệt lọ lấm lên mặt thì nó
đã dị-hợm khó coi rồi. Tóm lại là
nó phải tinh tuý , nếu dính một chút
bợn nhơ thì nó sẽ gớm-ghê hình dạng
mà chớ !
Tôi
nói quyết một điều là chánh-trị đạo
mà có dính một chút của quyền đời
thì dị-hợm xấu-xa lắm vậy. Bởi tinh-thần
không chịu vật-chất , vật chất không
hề hoà-thuận với tinh-thần . Trường
quan-lại của nền chánh-giáo Chí-Tôn
khác hơn đời, chúng ta chỉ lấy đạo-đức
nhơn-nghĩa làm quyền, còn ngoài kia họ
lấy quyền-lực cưởng-bức, hai cái so
nhau khác hẳn.
Trong
cửa Đạo nếu chẳng biết quyền mình
là gì, lại bắt-chước đồ theo tâm-lý
thiên-hạ, cưởng bức vô đạo-đức,
vô nhơn-tình thì quả-nhiên sái hẳn.
Quyền chúng ta là chỉ lấy đạo-đức
tinh-thần của tổ-phụ ta để lại trong
4.000 năm làm huệ-kiếm để bảo trọng
quốc-hồn của nòi giống thì mới trúng,
còn ngoài ra dùng phương-pháp khác là
sai lầm.
Tôi
nói ít mà các bạn nam nữ hiểu nhiều,
tôi chỉ trông cậy các bạn. Vậy tôi
xin để cả sự trong cậy của tôi trong
tâm của các bạn là hình thể của Đức
Chí-Tôn thật hành dùm nhơn nghĩa của
Chí-Tôn đã để trước Đền-Thánh cho
đời ngó thấy, đặng hưởng lấy hạnh-phúc
thiên-nhiên ngàn xưa để lại là may mắn
cho tương-lai con Hồng cháu Lạc.
Chúng
ta hãy lấy Nho-phong làm căn-bản, phục-sanh
hồn nước đã điêu-tàn , sau 80 năm nô-lệ,
cho nó phục-sanh lại với các năng-lực
làm sống quốc hồn của minh trong 4.000
năm về trước. Như thảng ta vẽ được
khéo, được đẹp , thì người ta đương
trông mong cho nó thành tướng . Chừng
đó chúng ta không muốn bán cũng có kẻ
mua, chẳng phải một nước Việt-nam nầy
thôi, mà toàn-cầu vạn-quốc nài mua mà
chớ !
Nhưng
phải làm sao cho nên hình-tướng để
có đủ quyền-năng bảo-trọng cả toàn
cầu nhơn-loại đặng tồn tại, sống
trong tinh-thần đạo-đức, trong sự công-bình
yêu-ái của Chí-Tôn gieo-trồng nơi cửa
Đạo. Đến chừng ấy chúng ta có thể
trương tấm bảng lên rằng : Nền Đạo
Cao-Đài làm môi giới, căn-bản nền đại-đồng
thế-giới đó vậy.
Bần-Đạo
tưởng ly rượu nồng ngày hôm nay là
ly rượu trường-sanh bất-tử, bởi đây
là nơi sản-xuất hột giống trường-sanh
bất tử. Ly rượu trường-sanh nầy các
bạn đưng khinh rẽ nó. Trước khi từ
giã, cảm-ơn các vị giáo-viên và chư
vị tân-phong nam nữ đã cho Bần-Đạo
hưởng được mùi ngon vị ngọt rất
hay ho. Bần-Đạo để lời cảm ơn.
Đền-Thánh
4 giờ chiều ngày 13 tháng chạp năm Đinh-hợi
(23-01-1948)
LỄ
BẾ-MẠC ĐẠI-HỘI HỘI-THÁNH
Bần-Đao
hân-hạnh tỏ lời cám-ơn chư Thánh-Nhị
Hửu-Hình Đài. Tuy vân, Bần-Đạo không
ra tay giúp Hội-Thánh vì chơn-pháp buộc
phải như vậy , nhưng cả đôi tháng nay
Bần-Đạo để tâm theo dỏi Hội-Thánh
ta từ bước, có nhieeufvaans-đề không
giả-quyết được , muốn Bần-Đạo đến
giải-quyết dùm , nhưng Pháp-Chánh không
cho Bần-Đạo định-đoạt. Hội Nhơn-sanh
có quyền Hội Nhơn-sanh, Hội Thánh có
quyền Hội-Thánh, Thượng-Hôi có quyền
Thượng-Hội. Cũng như Hội Thánh không
được phạm quyền Hôi Nhơn-sanh , Thượng
Hôi không được phạm quyền Hội Thánh.
Nghiêm luật ấy đã định chơn-chánh,
mực thước không ai có quyền cải qua
đặng, Bần-Đạo chỉ giúp chút ý-kiến
chứ không dự biết gì trong quyền lực
đặc-biệt của Hội Thánh.
Trong
hai tháng Bần-Đạo nói thật-tình thấy
Hội-Thánh tấn-bo khá nhiều rồi. Hôi-Thánh
năm nay đã đem ra mặt luật lưu lại
cho hậu tấn một khuôn-khổ chuẩn-đích
từ-thử chưa xuất-hiện.
Một
nền Chánh-trị Đạo, không khác gì chánh-trị
đương-nhiên ở các nước Aâu-châu. Ở
Á-đông nầy có nhiều nước phát triển
như : Nhựt, Tàu, Miến, Xiêm cũng có một
khuôn-khổ nhứt-định như vậy. Dầu
quân-chủ lập-hiến hay Dân-chủ pháp
chánh cũng một mực như nhau đều chia
ra hai phần :
- Phòng dân-chủ.
- Phòng định luật.
Phòng
định-luật là phòng bảo-thủ, Phòng
dân-chủ là phòng tấn-bộ. Phòng dân-chủ
của Pháp dưới thời dân-quyền “La
Chambre des Députés”, còn phòng định-luật
hay quân-lực nói thật ra họ không có
Chúa, nhưng muốn biết phòng quân-luật
hẳn-hòi, xem như nước Anh có “Chambre
des Lords ” tức là Sénat của Pháp vậy.
Chánh-trị
của Pháp thấy hai phần :”Chambre des
Députés” và Sénat không dung-hoà được
, thì hai khối ấy phải đảo-lộn.
Chánh-phủ
Pháp phải đảo-lộn, tương-đối sụp
đổ biết bao nhiêu lần, chúng ta đều
thấy các nước dân-chủ chia ra hai phòng,
mỗi khi Sénat tức là phòng dân-chủ bác
không tín-nhiệm thì phòng dân-chủ phải
sụp đổ, tức là nội-các đổ , mà
nội-các đổ tức là chính-phủ đổ.
Đời chia ra hai phòng đặc-biệt , Đạo
lại khác hẳn. Chơn-Pháp của Chí-Tôn
để hai phong hiệp một là Cửu-Trùng-Đài
và Hiệp-Thiên-Đài, Hiệp-Thiên-Đài là
phòng quân-luật, còn Cửu-Trùng-Đài là
phòng dân-chủ, biểu sao khỏi xích-mích
nhau . Một đang bảo-thủ, một đàng dục-tấn,
nếu hai đàng không hoà nhau, đem chân-lý
hiển-nhiên thì hoà được được, còn
không lấy chơn-lý thì đụng chỗ phản-khắc,
không thể đệ lên thượng quyền mà
còn nhơ-bợn được. Đó là cái bàn sàng,
sàng mãi cũng phải lọt xuống.
Tại
chơn-pháp như vậy, nên Bần Đạo biết
trước cái ngày đôi bên chạm nhau, ngày
ấy Bần-Đạo tự-nhiên lắm, còn ngoài
nầy toàn Đạo không náo-động, Bần-Đạo
chỉ kêu : “Coi chừng hể giữa Hội
Thánh hai quyền phản-khắc nhau đem lên
tới trên, gặp quyền độc tôn thì chịu
lấy”. Nên hai bên hoảng mới tìm phương
dung-hoà nhau. Đó chỉ nghĩa Bần-Đạo
duy mới cầm cây Phướng Thượng-hôi
rung-rinh chớ không dùng đến quyền gì
hết.
Hội-Thánh
hôm nay thành tựu trong thời gian ngắn
ngủi sợ e ngày kia chư Thánh nhiều, quyền
hành Hội-Thánh lớn thì sự bàn cải
kịch-liệt nữa kia. Tương-lai đó tưởng
chúng ta sẽ ngó thấy. Từ việc định
công nghiệp đến quyền hành, thì Bần-Đạo
lấy trong thâm-tâm , riêng tưởng cầm
cân công-bình thay-thế Chí-Tôn không được
chinh-lịch, hoặc nói được hay không
nói được, đùng nói hay là sẽ nói mà
thôi, câu nầy không chinh-lịch với Bần-Đạo
được.
Kẻ
nào có dày công cùng Đạo, Bần-Đạo
xin bảo-lãnh không có điều chi bất-công
qua mắt Bần-Đạo được , nhưng thời
cuộc chưa đến mức ấy. Ai có dày công
cùng Đạo, đừng tưởng Hội Thánh quên
công.
Ngày
nay không nói đặng có ngày sẽ nói đặng,
Hội Thánh không quên được một ai, ắt
sẽ quyết định cho.
Ngày
nào Bần Đạo còn đây, không có một
điểm gì bất công-quả mắt Bần-Đạo
được và Bần-Đạo quyết chắc như
vậy.
Bần-Đạo
xin bế-mạc đại-hội Hôi-Thánh và để
lời cám-ơn.
(Đọc
kinh bãi hội xong, lúc trong Đền Thánh
bước ra Ngài nói :)
“
Có một điều đáng để ý, tại đây
có một vị Đại Thiên-phong Đường-nhơn
làm Đầu Hội-Thánh. Ngày sau người ta
sẽ lấy làm lạ lắm”.
Đền-Thánh
đêm 22 tháng chạp năm Đinh-hợi (1945)
GIẢNG
HAI CÂU KINH TRONG BÀI ĐẠI-TƯÒNG
”
Thâu các Đạo hửu-hình làm một,
Trường
thi Tiên Phật dượt kiếp khiên”.
Lời
hứa đặc-sắc của Chí-Tôn nó sản-xuất
ra hình-dạng của nó nếu chẳng vậy
thì Đạo Cao-Đài không có ý-vị gì cả.
Tại sao Chí-Tôn quyết định thâu các
Đạo hửu-hình làm một ? chẳng lạ chi,
xác thịt chỉ chia phân tâm-lý vạn loại
mà thôi, nguyên-do ấy vô-đối và hại
ấy vô trị. Ông Descarte đã nói : Tư-tưởng
tức nhiên thâu đến mối huyền-vi dưới
thế nầy, con người tạo thời cải thế
trước nhứt phải suy-đoán , có suy-đoán
mới hiểu phát hình. Một khi suy-đoán
định chí-hướng đến đâu , thấy đến
hành-tàng nào, không một sự vật gì
mà không tính trước. Các bậc vĩ-nhân
cố-tâm cần-cù học đặng quyết-định
vận-mạng trị dân, an-bang tế-thế. Học
đặng suy đoán về tình-thế tâm-lý của
đời. Ví-dụ như người ăn trộm không
phải khi không mà phát-hiện tâm-lý ấy,
nó có tính trước rồi mới làm. Sau cái
hành-tàng thi-thố tức chúng ta đã quyết
đem tâm-lý để trước. Hại thay ! Thế-gian,
nói chung tâm-lý của loài người, đắc
triết-lý chơn thật thì ít mà tri chí
con người không thế đi con đường nào
khác khác hơn sở hướng của mình.
Các
vị Giáo-Chủ đã tiềm-tàng cho đi đến
con đường ngay chánh. Mấy vị Giáo-Chủ
đi quá sức tưởng-tượng , lập một
khuôn-khổ không ai theo đặng, nên trong
sự khó tránh đặng mưu người tìm phương
đánh đổ, tìm phương sửa cải. Nếu
có nền Tôn-Giáo nào ở thế-gian bị
tâm-lý nhơn-sanh đánh đổ phải biến
thành tà giáo , tức-nhiên là phương phân
chia tâm-lý, nhiều phe, nhiều phái mới
nhiều tâm-lý tương-đương thì chúng
ta thấy giặc-giã chiến-tran vì đó mà
khởi hấn, toàn cầu tàn-sát tự-diệt
lẫn nhau bốc khởi. Hại thay ! Sự tàn-sát
mạng sống của cá-nhân diệt bửu vô-giá
của đời. Chí-Tôn là cha mạng sanh ấy
đối với Ngài giá-trị thế nào không
cần luận-giải, Ngài là Cha Thiêng-liêng,
ta không thế nói cha mẹ ta tại thế nầy
sánh với Chí-Tôn thế nào đặng.
Đau-đớn
biết bao nhiêu ! nhơn-loại không biết
nhìn nhau đồng căn-bản, đồng cốt nhục
và tương-tàn với nhau , biểu Chí-Tôn
khoanh tay ngồi ngó cho đặng, nên Ngài
sai người thừa mạng-lịnh của Ngài
đến qui con cái của Ngài làm một, đặng
tránh nạn tương-tàn tương-sát bảo-trong
sanh-mạng cho nhau.
Đáng
lẽ Ngài phải đến bắt-buộc phải đến,
nhưng đến chẳng được, nên con thương-yêu
của Ngài đến thế cho Ngài đặng làm
trọn vẹn phận sự của Ngài. Nếu đến
chẳng đủ diệu-huyền ắt vô giá-trị
và sở-hành sẽ vô-hiệu lực.
Ngày
22 tháng chạp năm Đinh-hợi (1947)
LỄ
BÃI TRƯỜNG ĐẠO-ĐỨC HỌC-ĐƯỜNG
Mấy
vị Giáo-viên nhát là Lương, mỗi phen
có lễ nơi học-đường, mỗi phen đến
dự, nó làm cho Bần-Đạo cảm-xúc, đến
hể thấy đám nhỏ trước mắt rồi thấy
tình-cảnh khổ não đương thời, tấn
tuồng khổ-sở ấy nó phô-diễn cùng
các sắc dân và cả toàn quốc chúng ta.
Ngày nay Đạo-Đức học-đường biết
đảm-nhiệm thì Thầy biết giá trị của
mấy con chịu khổ não nhọc-nhằn dường
nào ! Hiện chúng ta có ba mặt trận
Đạo:
Thứ
nhứt : Mặt-trận hình thức là để chiến-đấu
quân tàn-bạo sát-hại nòi-giống quốc
dân ta, có chiến-tướng binh-sĩ, cây cờ
nhơn-nghĩa của Đạo binh Cao-Đài về
phần xác, phần hửu-hình ta thấy để
bảo tín Đạo-Giáo, để bảo thủ thân
sống con người.
Mặt
trân thứ nhì để chiến đấu vê tinh-thần
trí-thức, mấy con là chiến-tướng, thẳng
tới, tiến tới và cố-gắng hy-sinh thắng
đặng trận cũng như mặt trận thứ ba,
Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn tức là
chức sắc thiên-phong đã làm chiến-tướng
thắng cả tâm-hồn, bảo thủ nền Quốc
Đạo từ mảy mún mà tô-điểm thêm xinh,
không có lực lượng nào đến phá hoại
nó đặng.
Ba
mặt-trận ấy thấy hiển-nhiên trước
mắt, cả tương-lai trong ấy tay các
em, các con, Thầøy có lời yếu thiết
gởi-gấm cả tương-lai rực-rỡ đó cho
mấy em, mấy con, nghe à !
Toà-Thánh
đêm 24 thàng chạp năm Đinh-hợi (1948)
LÒNG
THƯƠNG CỦA PHẬT-MẪU
Phàm
như hể làm nghề nào, nghề nữ hay nghề
nam cũng vậy, nghề-nghiệp muốn được
sở trường, hay chưa biết chắc làm đặng
thường phải kiếm nhà nghề, nhờ chỉ
biểu thì mới làm đặng.
Mấy
chị, mấy em đã thấy tấn tuồng thiên-hạ
tàn-sát tiêu diệt lẫn nhau quá lẽ. Phụ-nữ
vạn-quốc hiệp chủng phản-kháng sự
chiến tranh và nhứt-định không cho
đem con cái của họ ra làm bia cho súng
đạn.
Tưởng
các chị, em biết mình là nhơn-viên cơ
Tạo-Đoan nhứt là Phật-mẫu là nhà nghề
Tạo-Đoan. Mỗi cái gì mình làm được
dầu nó là vật vô-tri vô giác, nếu có
ai đập bể hoặc làm hư hao mình còn
giận , còn đau-đớn thay, huống chi với
tình mẹ con biết bao nhiêu giá-trị !
Không có quyền nào giết một đứa con
của người mẹ, cũng như Phật-Mẫu hiện
giờ nầy, trên Ngọc-Hư-Cung có lẽ Phật-mẫu
phản-kháng cái nạn tiêu-diệt nhơn-loại
mãnh-liệt hơn Bần-Đạo tưởng-tượng
mà chớ. Ở dưới thế, đương thấy
cái tình cảnh trước mắt, các chị em
phải làm chứng cớ cho Phật-Mẫu nạp
cả hồ-sơ cho Phật-Mẫu để phản-kháng
cơ tự diệt thiêng-liêng trong 7 ngày,
làm cho thiên-hạ đem cả thống-khổ ,
đau-đớn của các bà mẹ đưa trong tay
cho bà mẹ linh-hồn là Phật-Mẫu, để
Ngài đủ quyền-năng phản-kháng giữa
Ngọc-Hư-Cung , hầu giảm bớt cái nạn
chiến-tranh tàn-khốc. Làm được không
? Có lẽ cả thảy đều làm được chớ.
Đền-Thánh
đêm 24 tháng chạp năm Đinh-hợi (1948)
LỄ
ĐƯA CHƯ THẦN THÁNH TIÊN PHẬT TRIỀU
THIÊN
Thỏn
mỏn mà ngày nay là ngày 23 tháng chạp
năm Đinh-hợi, đây tính lại từ ngày
Bần Đạo về nước đến nay được
17 tháng, được ăn hai cái tết của quê-hương
sau 5 năm bị đò lưu nơi hải ngoại.
Bần-Đạo
đã ngó thấy toàn Thánh-Thể của Đức
Chí-Tôn nam nữ cũng thế, từ nhỏ chí
lớn , đã trụ cả đức tin, làm cho Thánh-Thể
của Đức Chí-Tôn ngày càng thêm đẹp-đẽ.
Riêng về Bần-Đạo để lời nói cùng
toàn cả chức-sắc Thiên-phong, Bần-Đạo
xin để lời cám ơn các cơ-quan đương-nhiên
trong nền Chánh-trị Đạo, đã giúp hay
cho Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi đã
phục-hồi được cái khuôn-khổ chơn-truyền.
Tưởng thật ra từ 17 tháng nay Hội-Thánh
làm việc nhiều lắm, cả con cái của
Chí-Tôn hao biết bao nhiêu tâm-não , thi-hài
để tô-điểm nền chơn-giáo Chí-Tôn
thêm cao-trọng , Bần-Đạo xin cúi đầu
để lời cám ơn toàn cả con cái Đức
Chí-Tôn.
Luôn
dịp Bần-Đạo cầu chúc tân-niên nầy
, cả con-cái của Chí-Tôn nam nữ , Thánh-Thể
của Người được tráng-kiện tinh-thần
và hình-thể , hưởng được hạnh-phúc
đặc-biệt của Chí-Tôn chan-rưới và
lướt qua hồi khảo đảo truân-chuyên
, có lẽ buổi hạnh-phúc an-ninh của cả
quốc dân chỉ sẽ đến trong chốc lát
đây mà thôi, vì dân-tộc Việt-nam phải
còn truân-chuyên nhiều nữa.
Bảy
ngày nghỉ cúng, chúng ta thành-tâm cầu
nguyện Đức Chí-Tôn cùng Thần Thánh
Tiên Phật. Bần-Đạo quả-quyết trong
năm nầy nếu tinh-thần Bần-Đạo không
lầm thì nòi-giống Việt-nam chúng ta sẽ
được đặc-ân là độc-lập tự-do cho
tổ-quốc, độc-lập trên pháp-lý Quốc-tế
đó vậy. Nhưng muốn cho thực-hiện được
thực-tế, có lẽ cuộc tranh-đấu của
dân-tộc Việt-nam còn dài.
Luôn
dip Bần Đạo giải nghĩa tại sao phong-tục
nhà Nam gọi là đưa Ông Táo về Trời,
chớ thật sự là đưa chư Thân Thánh
Tiên Phật về triều thiên, tinh-thần
từ trước vẫn vậy.
Chơn-truyền
buổi Chí-Tôn tạo Càn Khôn Thế-giới,
Ngài nắm thập nhị Thiên-can, Thập nhị
Địa-chi trong tay, để định Pháp-chánh
càn-khôn vũ-trụ . Trong thời buổi định
Pháp-chánh ấn-định vào khoảng từ ngày
23 đến 30 sáng mồng 01 họp tại Ngọc-Hư-Cung
đặng định-luật giới-hạn vi-diệu
cho trái địa-cầu, chạy theo khuôn-khỏ
hửu-định trong năm cho chí tân-niên là
12 giờ đêm 30 khởi-điểm 01 giờ sáng
ngày mùng 01 tháng giêng năm sau.
Luật
Thiên-Điều trị thế , trị nơi địa-cầu
nầy là hình-luật thiêng-liêng là ngày
giờ này nơi Ngọc-Hư-Cung kiểm soát định
tội phước đó vậy. Càn Khôn Võ-Trụ
, đều có đại-hội lập luật , trong
một năm giáp vòng bửu giới. Nếu trái
địa-cầu nào chưa được êm-đềm, luật
Thiên-điều thay đổi khác mỗi năm, chiếu
theo tấn-hoá và tâm-lý của nhơn-sanh
. Nơi Ngọc-Hư-Cung định Pháp-chánh cũng
như trong Càn Khôn vũ-trụ là 12 tháng
một niên, 12 niên môït giáp, 120 năm một
thế-kỷ (tất-cả đều cho rằng 100 năm
là một thế-kỷ như vậy không đúng),
1200 năm là một giáp, 12.000 năm là một
ngươn, 36.000 năm là một chuyển, mỗi
phen đáo đến sở hành ngày giờ ấy,
có Hội Giác-Tiến là thường tại, từ
thử đến giờ chúng ta chưa nghe nói về
một nghìn hai trăm năm có một vị Giáo-Chủ
giáng thế chỉnh Đạo, bảo thủ tinh-thần
đạo-đức của loài người. Cứ độ
1.200 năm có xuất hiện một nền Tôn-giáo
để hoá-chuyển thay đời, tính lại địa-cầu
chúng ta từ buổi phôi-thai, có vạn-linh
nơi mặt thế đến nay được 3 chuyển
. Nay hạ-nguơn tam chuyển , khởi đầu
thượng nguơn tứ chuyển chẳng khác gì
đêm 30 sáng mùng 01 tết chúng ta vậy.
Tới
mức giữa không-gian thì nhơn-loại tới
hồi khổ-não đủ điều, người ta nói
là tậân-thế, cái thuyết ấy không có
đâu, nếu chúng ta dùng lời đặng nói
chẳng qua là một giáp đó thôi, tức
nhiên là một nền văn-minh Tôn-giáo chứ
không phải tận thế.
Kiếp
số địa cầu nầy còn vĩnh-cửu, chỉ
thay đổi hình thể vạn-loại mà thôi
, nó vẫn còn tăng-tiến mãi, Chúng ta
đã ngó thấy qua chừng 100 năm trước,
văn-minh con người không đạt đến mức
hiện như bây giơ. Cơ tấn bộ tinh-thần
vật chất dữ dội nhứt là trong vòng
50 năm. Theo đó mà tính-toán lai coi trong
500 năm nữa, nhơn-loại sẽ ra sao ?.
Phật-giáo
nói: qua sắc dân da trắng, tinh-thần vi-chủ
tới sắc dân Thần- Thông-Nhơn, qua khỏi
dân Thần-Thông thì có sắc dân Chí-linh,
lúc đó người là Thần Thánh Tiên Phật
tại thế, như vậây còn hai sắc dân
nữa cho 500 năm sau.
Mỗi
sắc dân vi-chủ một nguơn niên , kể
hai sắc dân nữa chưa xuất hiện , ta
cũng kể là 30.000 năm nữa đời sẽ thay
đổi khác hơn. Nhơn vật và địa cầu
cứ tăng tiến mãi, trên con đường tận-thiện
tận-mỹ, vật xinh người đẹp , vật
bỏ ngu đến khôn, người khôn đến chí-linh,
đến ngày cùng chót toàn là Thần Thánh
Tiên Phật xuống ở cỏi trần nầy. Lời
Chí-Tôn tiên-tri và quyết-định hẳn
hoi :
“
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật Thánh Tiên xuống ở trần”.
Ta
lấy lớn suy nhỏ, lấy nhỏ so lớn, Càn
Khôn tấn-triển thế nào ? Bần-Đạo
ước mong Càn-khôn vũ-trụ phát-triển
cách nào trong mỗi Nguơn niên Thánh-Thể
của Đức Chí-Tôn tăng-tiến theo luật-định
Thiên-điều, phải đi theo y khuôn luật
của con đường Chí-Tôn định , tấn-triển
tới trong năm khai nguơn nầy vậy.
Bần-Đạo
ước-mơ sự tăng-tiến của con cái Chí-Tôn
được gia-bội gấp đôi ba bây-giờ mà
chớ. Muốn đạt vọng ấy Bần-Đạo
để cả tín-nhiệm nơi tâm-lý con cái
của Chí-Tôn, Tưởng cả thảy đều mơ-ước
mà làm đặng chăng là nhờ quyền-năng
vô-tận của Đại Từ-Phụ mà đạt đặng
.
Chúng
ta hãy cầu nguyện để trọn tâm đức
chắc chắn nơi Đức Chí-Tôn thì Chí-Tôn
chẳng hề khi nào hẹp lượng . Chúng
ta quyết-định xin mà làm nên cho cả
con cái của Người thì Người cho, chắc-chắn
vậy.
CHUNG
MỤC-LỤC
1.-
Thánh-thơ Đức Thượng-Sanh
2.-
Lời tựa.
3.-
Lời trần thuyết của Ban Tốc ký.
4.-
Lời tiên-tri của Đức Lý Giáo-Tông.
5.-
Vấn-đề Nho-Giáo.
6.-
Bác-ái từ-bi.
7.-
Tự-tín, Tha-tín và Thiên-tín.
8.-
Đãi tiệc công thợ.
9.-
Phát thưởng học sinh.
10.-
Khai hội Nhơn-sanh năm Bính-tuất (1946)
11.-
Khai-mạc Đại-Hội Phước-Thiện năm
Bính-tuất (1946)
12.-
Sự Cầu nguyện.
13.-Lễ
thượng cờ.
14.-
Ý-nghĩa lá cờ Quân-đội Cao-Đài.
15.-
Lễ rước quả Càn-Khôn.
16.-
Đại Lễ Chí-Tôn.
17.-
Tam-bửu.
18.-
Hội-yến Diêu-Trì.
19.-
Thờ Đức Phật mẫu tại Báo Aân-Từ.
20.-
Quốc sự vụ.
21.-
Tinh, Khí, Thần.
22.-
Tiếp về Tam-Bửu.
23.-
Tam-Bửu (tiếp theo).
24.-
Quyền-năng của Chí-Tôn.
25.-
Tam-bửu nguyên-thuỷ của càn-khôn thế
giới.
26
.- Loài người do đâu mà đến.
27.-
Luật công-bình thiêng-liêng.
28.-
Nguyên do của loài người.
29.-
Cơ-quan Đại-đồng thế-giới.
30.-
Đại-đồng thế-giới (tiếp theo).
31.-
Chí-Tôn xuống thế.
32.-
Ý-nghĩa Lễ, Nhạc.
33.-
Mừng lễ Trung-thu.
34.-
Cửu-trùng-thiên.
35.-
Giải nghĩa kinh Phật-Mẫu.
36.-
Về tánh đức của nòi giống Việt
nam.
37.-
Lễ bãi trường Đạo-Đức Học-đường
(1947)
38.-
Kinh-tế lý-tài.
39.-
Nguyên-do nào có Đạo Cao-Đài.
40.-
Cơ-quan chuyển thế.
41.-
Đức Chí-Tôn hứa với loài người.
42.-Lễ
các Thánh tử đạo.
43.-
Quốc Đạo.
44.-
Các con đối với Phật-Mẫu.
45.-
Dạy phương-pháp giảng Đạo.
46.-
Tại Tháp Đức Quyền Giáo-Tông.
47.-
Cứu khổ về xác thịt.
48.-
Cứu-khổ về tinh-thần.
49.-
Thuyết Đại-đồng.
50.-
Sự tích Đức Chúa Jésus giáng sinh.
51.-
Thiên-tài và Nhơn-tài.
52.-
Dâng Tam-Bửu.
53.-
Lễ Khánh-thành văn-phòng Hiệp-Thiên-Đài.
54.-
Lễ Mãn khoá hạnh-đường.
55.-
Lễ bế mạc Đại-hội Hội-Thánh.
56.-
Giảng hai câu kinh trong bài Đại-tường.
57.-
Lễ Bãi trường Đạo-đức học đường
(1948)
58.-
Lòng thương của Phật-Mẫu.
59.-
Lễ đưa Chư Thánh triều Thiên.
60.-
Mục-lục.
|