Ðại
đạo Tam
kỳ
Phổ độ
Tòa Thánh
Tây Ninh
LỜI
THUYẾT-ĐẠO
của ĐỨC
HỘ-PHÁP
Năm
Mậu-tý (1948)
QUYỂN
NHÌ
HỘI-THÁNH
GIỮ BẢN QUYỀN
IN
LẦN THỨ NHẤT
NĂM
QUÝ-SỬU
1973
HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Văn
phòng THƯỢNG-SANH
Số
: 121/TS
|
ĐẠI- ĐẠO TAM-KỲ PHỔ –ĐỘ
(Tứ thập ngũ thiên)
TÒA-THÁNH
TÂY-NINH
|
THƯỢNG-SANH
CHƯỞNG-QUẢN
HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Kính
gởi: Hiền Huynh HIẾN PHÁP
CHƯỞNG
-QUẢN BỘ PHÁP-CHÁNH
Tham
chiếu: Quý thánh-thơ số 15/ĐS ngày 12-6-1970.
Kính
Hiền-Huynh.
Theo
đề-nghị của Hiền-Huynh tôi chấp-thuận cho
Ban Đạo-Sử xuất-bản để phổ-biến những
bài Thuyết-Đạo tại Tòa-Thánh của Đức HỘ-PHÁP
từ năm 1946 đến năm 1955.
Những
bài giảng được chọn để ấn hanh phải có
sự kiểm-duyệt của Ban Kiểm-Duyệt Kinh sách.
Nay
kính
TÒA
THÁNH, ngày 14 tháng 5 Canh-Tuất (dl. 17-6-1970)
THƯỢNG
SANH
(ấn
ký)
LỜI
TỰA
Những
bài Thuyết-Đạo trong quyển sách này là lời
vàng tiếng ngọc của Đức Hộ-Pháp, Một vị
Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một
bậc vĩ-nhân của thế-hệ, nên một Uûy-Ban sưu-tầm
và biên-tập thành-lập có Đức Thượng-Sanh chấp
thuận, để xúc-tiến việc sưu-tầm và biên-tập
đã có kết-quả mỹ-mãn, nên Uûy-Ban đem ra ấn-hành
cho toàn đạo được lãnh-hội lời vàng tiếng
ngọc nói trên.
Trong Ban Đạo-Sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ
Phổ-Độ đã có sẵn một Thư-Viện tàng-trữ
các loại kinh-sách cổ-kim và Đông Tây cho các
nhà khảo-cứu và toàn đạo có thêm tài-liệu,
những quyển “LỜI THUYẾT-ĐẠO” của Đức
Hộ-Pháp sẽ lưu-trữ vào Thư-Viện nầy để
chư độc-giả đến xem .
Đức Hộ-Pháp là một trong những vị tiền-bối
khai-sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã
thực-hiện trước hết chủ-thuyết Tam-Lập :“Lập
Đức, Lập Công, Lập Ngôn “.
Về lập Đức, thì Đức Ngài là người
đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng
mà khai-sáng mối Đạo cho toàn sanh-chúng được
chung hưởng hồng-ân của Đức Chi Tôn (Ngọc-Hoàng
Thượng-Đế).
Về lập Công, thì Đức Ngài vừa lập đức
vừa lập công trong việc khai-sáng. Từ cái không
làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một
đại-nghiệp Đạo ở cỏi thế nầy. Nếu ngài
không phải là một đại-đức thì làm sao thành-công
được ?
Về lập Ngôn, thì Đức Ngài lưu lại lời
vàng tiếng ngọc trong các bài thuyết-đạo mà
chúng ta đang thưởng-thức và còn nhiều lời
giáo-huấn cao-siêu khác nữa mà chư qui độc-giả
và toàn Đạo nên lưu-ý.
Nhơn-danh Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài kiêm
Trưởng-Ban-Đạo-Sử, tôi xin trân-trọng giới-thiệu
cùng độc-giả bốn-phương quyển-sách quí-giá
nầy đáng được lưu-niệm mãi-mãi.
Trân
trọng kính chào.
Hiến
Pháp TRƯƠNG-HỮU-ĐỨC.
LỜI TRẦN THUYẾT
Mỗi
lần ly-loạn là mỗi lần thư-tịch bị làm
mồi cho khói lữa…
Nhìn vào lịch-sử những vụ “ PHẦN THƯ
“ những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy
ra như một hệ-luận trước những biến-cố,
tình-trạng nầy đã kéo dài qua các thời- đại,
ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhằm vào
mục-đích thực-hiện chánh sách ngu-dân và đồng
hóa triệt-để.
Những kinh-nghiêm đau thương âý là nguyên-nhân
thúc-đẩy chúng tôi cố-gắng thực-hiện công-việc
sưu-tầm những tài-liệu nầy.
Chúng tôi nghĩ rằng :”Nếu tài-liệu kinh-sách
chỉ được tập-trung tàng-trữ vào một chổ,
tránh sao cho khỏi bị hủy-diệt khi kẻ cường-quyền
đến cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định
quây ra làm nhiều bản đề gởi đến, và ký-thác
vào những bậc có tâm-hồn trung-kiên với Đạo,
những người dám chết để bảo-tồn những tiếng
nói của những Đấng thay Trời dạy Đạo.
Nếu một mai thời cuộc lại biến-thiên,
có thể các cuộc “PHẦN THƯ”lại tái diễn
thì thiết tưởng trong số tài-liệu này vẫn
còn có nhiều người nhiệt-tâm gìn-giữu được
vẹn toàn.
Đây không phải là việc làm của một cá-nhân
hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp
chung của những người vô danh, nguyện đem hết
năng lực của mình để phụng-sự cho lý-tưởng
bảo-tồn truyền-thống giáo-lý của Đạo. Trong
khi quyển tài-liệu này đến tay quí vị thì cũng
đã có người quá hăng-say trong công việc thực-hiện
lý-tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người
thiên-cổ.
Việc làm của chúng tôi không phải là một
ý-nghĩ nông-nổi của một sớm một chiều,
nhưng là một hoài-bảo trong suốt thời-gian ly-loạn.
Chúng tôi hằng cầu nguyện Đức Chí -Tôn và
Phật-Mẫu ban-bố phước lành cho chúng tôi sớm
gặp nhịp may để thực-hiện hoài-bảo ấy.
Ngày nay chân trời đã rạng-tỏ, ý nguyện
đã đắc thành.
Chúng tôi xin hiến dâng tròn vẹn cho Hội-Thánh
tất cả những tài-liệu mà chúng tôi đã ghi
chép, góp-nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục-đích
bảo-tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức
Hộ-Pháp.
Từ đây, bản-quyền này sẽ tùy thuộc
hoàn-toàn của Hội-Thánh. Kính xin Hội-Thánh cho
kiểm-duyệt và ấn-hành, để cho mọi người
đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu-ái của
Đức Hộ-Pháp, đã dành cho toàn-thể chúng sanh
trong thời-gian Đức Ngài còn tại thế.
Tòa-Thánh,
ngày 28 tháng 8 năm Bính-Ngọ
(DL. 12 - 10 - 1966)
BAN TỐC - KÝ
Tại
Đền - Thánh, thời Tý Mồng 1 tháng Giêng năm
Mậu - Tý ( 10 - 2 - 948)
ĐẠO CAO-ĐÀI LÀ HOÀN THUỐC
PHỤC-SINH
HÒA-BÌNH
Ngày
hôm nay, giờ này chúng ta vui một tí, năm Tý đến
với chúng ta, nếu Bần-Đạo nhớ không lầm thì
buổi Chí-Tôn hành pháp có cho Bần-Đạo biết
rằng 3 con chuột hiệp lại là ngày thành đạo.
Năm nay đủ 3 con chuột rồi đó vậy. Ta chắc
rằng năm nay Đạo sẽ kết-quả lời hứa của
Chí-Tôn với con cái của Ngài, thành Đạo tức
thành Đời nơi nước Việt-Nam đó vậy.
Chúng ta thử ôn lại đã có 23 năm hành-đạo
, chúng ta đã chịu bao nhiêu khổ-hạnh để bảo-vệ
con cái của Chí-Tôn. Ngày nay các kết-quả này
có đáng giá trừ cái khổ-hạnh trong 23 năm ấy
chăng ? Bần-Đạo xin nói quả-quyết rằng : từ
tạo-thiên lập -địa đến giờ chưa có nền
tôn-giáo nào được mau chóng như tôn-giáo của
Chí-Tôn đến tạo nơi xứ Việt -Nam chúng ta.
Chúng ta ôn thử lại trong buổi thành Đạo cuối
cùng trong 2 năm nay, ta thấy gì ? Nếu chúng ta
có đủ tinh thành tìm hiểu thánh-ý của Chí-Tôn
trong 22 năm. Để cho chủng-tộc Việt-Nam chịu
đau-khổ, chiụ trong cảnh tương-tàn, tương-sát,
thống khổ, cảnh tượng nguy-ngập có nghĩa gì
? Ý vị gì ? ấy là Đức Chí-Tôn xây-chuyển
cho con cái của Ngài thấy rằng: hung bạo ở thế-gian,
không phải năng-lực độc đoán mà thắng được
và trị thế được.
Cường-lực ! Ôâi cường-lực ! Đối
với thế gian nầy, nếu có phương-chước, có
bí-pháp thì duy lấy nhơn-đức trị nó mà thôi.
Hung-bạo của đời nầy không lấy hung-bạo trị
đặng, duy lấy đạo-đức tinh-thần trị mới
đặng. Trong 2 năm quốc-vận thống khổ do duyên
cớ gì ? Do lấy hung-bạo chẳng trừ được năng-lực
hung-bạo vì hiện giờ sự hung-bạo của thế-gian
vô đối. Ấy là Chí-Tôn cho quốc-dân Việt-Nam
một bài học đích đáng đủ bằng-cớ trước
mắt để suy đời. Ngài để kinh-nghiệm rồi
hai năm rồi. Ngài lấy năng-lực đạo-đức tinh
thần để cho thiên-hạ thấy : đạo-đức tinh-thần
mới có thể đem hạnh-phúc đến cho nòi giống
như thế nào ? Làm cho tỏ rạng nền tôn-giáo
bằng năng-lực tinh-thần của Ngài. Chúng ta đã
thấy : Bần-Đạo sau 5 năm bị dồ-lưu nơi hải-ngoại.
Chịu mọi điều thống khổ , cái chết của Bần-Đạo
cách cái sống bằng một sợi tóc, mà Bần-Đạo
vẫn còn về đây. Nếu nói thế thường, cái
tình cảnh chịu 5 năm khổ sở lao-lý ấy. Tinh-thần,
lấy vật hình thường-tình tâm-lý mà nói, không
ai không có hận, có phiền được, hận với phiền
nó cố nhiên, mà nếu hận phiền ấy theo tâm-lý
thường-tình thì có gì quan-hệ đâu. Trái lại
trong thi hài cuả Phạm-Công-Tắc còn có một vị
làm chủ của nó nữa là Hộ-Pháp; quyền của
Hộ-Pháp mạnh-mẽ hơn của Phạm-Công-Tắc là
con ngựa để cởi mà thôi, còn Hộ-Pháp là người
cởi, nên con ngựa không thể không tuân mạng
lịnh của chủ nó được. Hộ-Pháp có một phần,
mà Phạm-Công-Tắc có một phần. Phạm-Công-Tắc
là tôi, còn Hộ-Pháp là quyền năng của Chí-Tôn
.
Nòi giống Việt-Nam chịu ảnh-hưởng của
văn-hóa Nho-phong 4.000 năm đã để cho chúng ta
hai câu đích-đáng, nếu chúng ta biết dùng từ
thử Việt-Nam không có cảnh tượng ngày nay:
“Hành-thiện chi nhơn như xuân viên chi
thảo, bất kiến kỳ trưởng nhựt hưũ sở tăng.
“Hành
ác chi nhơn như ma đao chi thạch, bất kiến kỳ
tổn nhựt hữu sở khuy”.
Câu trước : người làm lành như vườn
cỏ mùa xuân không thấy lớn càng ngày càng tăng
thêm.
Câu
sau : người làm ác như cục đá mài dao, tuy không
thấy hao mà càng ngày càng mòn khuyết.
Lấy
nhơn-nghĩa đối với bạo tàn, lấy tâm ưu-ái
trả thù-hận, ấy là tâm Phật, phải tâm chí
Thánh mới làm đặng. Bần-Đạo làm đặng, đặng
chi ? Đặng nêu cao tinh-thần Đạo Cao-Đài nầy
lên như Chí-Tôn muốn.
Lẽ thì đem hung-bạo trừ hung-bạo, theo
thường tình thì mới vui lòng, thỏa-mãn tâm thần
của Phạm-Công-Tắc thì ắt vui mầng lắm chớ.
Nhưng Hộ-Pháp, vì biết hại cho tương lai nước
nhà, nên cầm cây huệ-kiếm đưa ra, lấy tâm-lý
yêu-ái đối lại với oán ghét, cốt yếu làm
cho nhơn loại, làm chứng rằng chơn truyền của
đạo Cao-Đài là hườn thuốc “ phục sinh hòa
bình” cho nhơn loại. Quốc dân Việt-Nam làm đặng
thì toàn-cầu mới làm đặng. Ai cầm huệ-kiếm
ấy đặng, thì họ cứu nước họ đặng, cũng
như Việt-Nam đã cứu nước Việt-Nam vậy.
Tại
Đền-Thánh đên mồng hai tháng giêng
Năm
Mậu-Tý (11-2-1948)
NGÀY XUÂN LÀ NGÀY PHỤC-SINH CỦA VẠN-VẬT
Bần-Đạo không thể đi cùng mỗi nhà của
toàn cả Chức Sắc Thiên-phong và mấy em Nam Nữ
đặng viếng thăm trong ba ngày xuân-nhựt. Một
mảnh thân muốn biến hóa ra cả muôn hình xác,
nhưng không thể đặng.
Vậy thời Bần-Đạo cũng để một đôi
lời cho mấy em, mấy con Nam Nữ, mấy anh mấy
chị có mặt đảnh lễ tại đây biết rằng:
buổi nào tinh-thần Bần-Đạo cũng ở bên cạnh
mỗi người cả thảy.
Một điều mà Bần-Đạo mơ-ước hơn hết
là ngày giờ nào thong-dong, Bần-Đạo được vui
thú thanh-nhàn, nay đi nầy ở một ngày, một
bửa, mai đi nhà kia ở một đôi lát. Ngày nào
đến cảnh an-nhàn mà Bần-Đạo được đạt-vọng
đường ấy, thì tưởng rằng không còn hạnh-phúc
nào hơn nữa. Bần-Đạo tưởng mảnh thân nầy
có phương thế đồng sống chung với mấy em trong
cảnh gia-đình ấm lạnh để cùng hiểu nhau những
nỗi tân khổ sầu buồn thì Bần-Đạo rất hữu-hạnh
mà được chia mảy-mún cũng đặng,
dầu cắn hột muối hay ăn hột cơm rơi với mấy
em, thì tưởng kiếp sống của Bần-Đạo không
có cảnh vinh-quang phú-quí nào trên thế-gian
nầy đối đặng.
Cả thảy đến thăm Bần-Đạo , mà Bần-Đạo
đi thăm lại không đặng, theo đạo-pháp cho là
thất lễ. Xin cả thảy nên biết cái cảnh ngộ
và tha thứ giùm cho.
Ngày
xuân nói đến tiếng xuân, miệng nói tiếng xuân
là nói tiếng sống, vạn-vật ngày xuân nầy là
sống là ngày phục sinh. Qua mơ-ước tâm hồn
của cả thảy trong một năm già cỗi, trong lúc
xuân đến, cây-cối nở lá nở bông, tốt tươi
trở lại, tất nhiên là được phục-sinh lại
thì cả tâm-hồn của chúng ta cũng phục-sinh như
thế .
Mấy
em suy-gẫm cái thân sanh của chúng ta là đồng-sanh
với vạn-vật, đã phục-sinh thì thân hình của
chúng-sanh, của chúng ta, của cả thảy Nam. Nữ
cũng đồng phục-sinh lại, tâm-hồn của chúng
ta trong một năm mờ-mệt, khổ-não, nhọc-nhằn,
trong cảnh tan-thương trần-thế, nay xuân về,
mấy em đến nhà Đại-Từ-Phụ, tức là Suối
Vĩnh-Sanh của tâm hồn mấy em. Qua thành tâm cầu
xin Đại-Từ-Phụ ban ơn cho mấy em được phục-sinh
mới trong thánh-chất của Người.
Chắc-chắn
cả thảy đều được hanh-phúc hiển-nhiên, đương
thời hay là trong cảnh xương-tàn cốt rủ vì
đã được hồng-ân của Chí-Tôn ban cho về già,
tức là dưới thế nầy sẽ được an-nhàn cả
tâm-thần và hình-thể. Mong sao cả thảy được
mau phục-sinh mới trong Thánh-chất của Chí-Tôn
đó vậy.
Tại
Hiệp-Thiên-Đài
21
giờ đêm mồng 3 tháng Giêng năm Mậu-Tý (12-2-48)
HUẤN
TỪ
CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP
SAU BỮA TIỆC ĐẦU XUÂN
Năm
mới, không có đặt diễn-văn chi. Hôm nay tôi
dùng những tiếng thường để nói việc đời.
Theo thế thường người ta nói: “ Thực
nhơn tài phải cứu nhơn tai” ( Phàm ăn của người
phải giúp cho người). Tuy vận tôi nghèo, nhưng
tôi làm cái tiệc này rất đặc-biệt, lại nữa
tôi mời quý Ngài cũng đặc-biệt, toàn là chư
vị yếu-nhơn cầm quyền Chánh-trị Đạo, không
ai là ở ngoài. Tôi không nói dối rằng nhà tôi
đơn-chiếc, vì nhà tôi là cả toàn-cầu.
Quý
Ngài hưởng lễ rồi, tôi xin nhờ quý Ngài một
việc: vì tôi có một ông cha Thiêng-Liêng là Thiên-phụ,
Ôâng cho tôi cái quyền bác-ái là thương cả
toàn-cầu, và một Ông Chúa là Thiên tử. Thiên-phụ
tôi thì giao chèo chiếc thuyền Bát-Nhã, Thiên
tử giao đẩy xa-thơ, từ Nam chí Bắc, từ Đông
chí Tây. Anh em rất đông, nhưng người ngồi trên
thì nhiều, còn kẻ đẩy, chèo, thì ít.
Năm
rồi, các Ngài hảo-tâm giúp sức cũng chèo, cũng
đẩy năm nay cũng vậy, xin cũng giúp đẩy, giúp
chèo cho đến nơi, đến chốn. Aáy là ơn trọng
lắm vậy.
Xin
quý Ngài giúp tôi cho trọn-đạo.
Tại
Đền-Thánh, thời Tý - Mồng
3 tháng Giêng năm Mậu-Tý (12-2-48)
QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN-GIÁO
Trong ba ngày xuân, Bần-Đạo ước-mong nước cam-lộ của
Chí-Tôn chan rưới đặng rửa tâm-hồn của mấy
em, phục-sinh trở lại.
Nay
Bần-Đạo xin thuyết-minh quyền năng của nền
Tôn-giáo.
Cả
chủng-loại, loài người và vật loại, chúng
ta quan-sát ngoại thể thấy loài người và vạn-vật
phải ở chung hiệp cùng nhau, goi là xã-hội mới
sống được. Chúng ta thấy trước mặt nhiều
vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ
tổ-chức xã-hội, giống thú mà còn biết chung
hiệp từ đoàn-thể tức nhiên có tinh-thần xã-hội.
Loài người cốt yếu sống cũng phải có xã-hội.
Lại nữa, nếu chúng ta tìm chơn-lý của Phật-giáo
thì thấy Chí-Tôn đã phú thác cho loài người
làm chúa vạn-vật. Ngài để tinh-thần của loài
người cao-trọng, tức nhiên cho người có khối
linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thể
làm tròn trách vụ đối với vạn-vật, tức là
Ngài định cho ta làm chủ xã-hội vạn-linh.
Làm
trách-vụ tức nhiên có tinh-thần cảm-xúc mà
cảm-xúc tức nhiên sanh tình. Tình là luật thiên-nhiên
của Chí-Tôn. Tình phân ra hai vở chánh, nơi cõi
phàm thì có luật định giới-hạn, chúng ta thấy
tạo luật-pháp xã-hội, hiển nhiên nơi của Hư-Linh
cũng có đặc quyền, nên cũng có khuôn luật là
Thiên-điều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền
thưởng phạt ấy, gọi là nhơn quả, vay trả,
hễ nên thì thưởng, còn hư phải thường, luật
định như thế rất nên công-bình chánh đáng.
Vì
có khuôn-khổ luật-pháp do quyền thiêng-liêng
của Chí-Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng
ra hiền, lành cũng như ác, hỗn-độn cả tinh-thần
của Chí-linh, tổng-số không mực thước, không
căn đề, không cội rễ.
Aáy
vậy Đạo cốt yếu tạo khối tình-ái tâm-lý
của loài người, biết mình là phần-tử của
xã-hội, phải làm điều gì cho xã-hội nhờ,
Gia-đình
là một phần nhỏ trong xã-hội-hội, nếu biết
giữ-gìn thân-thể, tôn-trọng danh-giá cha mẹ,
anh em thảng có đứa du-côn không kể gia-pháp,
làm rối loạn gia-đình thì kẻ đó ai cũng muốn
bỏ, muốn đưa ra khỏi gia-đình tông-tổ. Sợ
các gia-đình nào mực thước, thảng có điều
vô phúc ấy sẽ xứõ đứa làm nhục đó, hình
phạt nặng-nề hơn kẻ tha-nhơn.
Càn-khôn là đại gia-đình, cửa đạo cũng
vậy, xã-hội cũng vậy, là một gia-đình có cha
mẹ, bà con, như một tông-tộc vậy.
Lớn hơn gia-đình là một quốc-gia, là một
gia-đình lớn, gồm cả các gia đình tổng-hợp
lại, chiều theo một khuôn luật do quyền-năng
của Đạo-giáo tức Đại gia-đình.
Ta lần-lượt đi đến toàn nhơn-loại hiệp
lại thành Đại gia-đình.
Con người sanh ra phải biết trách-vụ của
mình, trong tiểu gia-đình hay đại gia-đình cũng
vậy, người ở gia-đình chỉ xưng mình là con,
vì cớ Jésus Christ chỉ mình là con của người
(le fils de l’homme).
Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn
thì hiểu giá-trị của nó thế nào? Văn-minh Nho-giáo
hiểu giá-trị làm người ấy khó khăn lắm,
khó mà minh biện được: “Vi nhơn nan, vi nhơn
nan” (làm người khó, làm người khó) . Tố tố
vi nhơn nan (làm ngườ rất nên là khó).
Mong làm người cho xứng đáng là người
trong gia-đình là khó khăn lắm, mà hễ làm người
để dìu đỡ được gia-đình, tức là chúa gia-đình
đó; mình là người mà nâng đỡ được quốc-vận,
là chúa của quốc-gia, Giờ ta thử hỏi: một
nền tôn-giáo đem tâm-lý loài người hiệp một
lại là một điều đứng trên cái mức đại-gia-đình
đó. Làm người chủ xứng đáng của gia-đình
đã là khó, làm người chủ xứng đáng của quốc-gia
lại càng khó, rồi làm người chủ xứng đáng
của một nền tôn-giáo không phải dễ. Hễ làm
chủ được xứng-đáng, thì đối với nhơn-quả,
ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa. Người
đã đem thân nầy ra làm chúa gia-đình, không còn
là mình nữa mà là bâc tiền-bối ; người đáng
là một chủ của một nước là bậc Thánh-nhơn,
người đáng là người chủ một Tôn-giáo ấy
là vị Phật.
Aáy vậy, chúng ta muốn quan-sát một Tôn-giáo
được gọi là chánh giáo, thì Tôn-giáo đó phải
đủ yếu-điểm tạo nên người chủ của nó
đặng diu-dỡ các phần-tử của Đạo ấy,
đủ hạnh-kiểm, đủ quyền-năng, phải cao-thượng
hơn sự thường-tình, đi cho vững trên con đường
hằng sống mới xứng đáng là chủ của Đại-gia-đình
Càn-khôn Võ-trụ. Cả phương-pháp không mực thước
quyền hành để đạt đến địa-vị chúa một
Tôn-giáo thì không phải chánh đạo. Ta đã thấy
gì ? Đạo Cao-Đài có không? Ta suy xét coi : có
hẳn. Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắn thì
nên người làm chúa nền Tôn-giáo của Chí-Tôn
đã tạo sẵn, có mực thước, chuẩn thằng, phép
tắc, để cho người ấy lập nên địa vị.
Tại
Đền-Thánh, Ngày 4 tháng Giêng năm Mậu-Tý (13-2-1948)
QUYỀN NĂNG CỦA TÔN GIÁO (Tiếp theo)
Đêm hôm qua bị đèn tắt, nên chưa kết
luận thể-pháp. Nay Bần-Đạo thuyết hơi dài
một chút, xin cả thảy có mõi chân đừng phiền.
Đêm hôm qua, Bần-Đạo đã diu-dắt các
bạn, các em, các con, đi trên con đường tầm-kiếm
triết-lý một nền Tôn-giáo. Cả nhơn-loại đều
học làm chúa toàn cả gia-đình, được làm chủ
một tiểu gia đình, tức là một tông-tộc là
một vị hiền tại thế rồi, được làm chủ
một đại gia-đình là Quốc-gia, là một vị Thánh-nhơn,
được làm chủ một số Quốc-gia hiệp lại như
Hiệp-Chúng-Quốc tại Mỹ-Châu như Washington .
. chẳng hạn, là một vị Tiên, được làm chủ
tối đại-gia-đình tức nhiên làm chủ toàn thiên-hạ,
một nền Tôn-giáo là một vị Phật. Thể-pháp
của Đạo Cao-Đài có khuôn-khổ tập cho nhơn-loại
đi đến mục đích trong luật-pháp của một nền
chánh-giáo.
Kế đây, Bần-Đạo xin thuyết
về bí-pháp. Vả chăng Chí-Tôn sanh chúng ta là
người, cho chúng ta là người, cho chúng ta nhứt
điểm linh-quang tạo hình-ảnh mỗi cá-nhân. Ngài
định phân-sự tối trọng-yếu của Ngài và cầu
chúng ta thật hành cho ra thiệt tướng, nghĩa
là: làm thế nào đặng làm chúa vạn-vật hữu-vị
cho Ngài. Hễ giao phận-sự thì buộc phải đảm-nhiệm
luật-pháp cũng như sai ai thế hình-ảnh cho mình
đến nơi nào, làm phận sự gì cần đưa ra chương-trình
đặng thi thố ra sao cho thành-đạt. Trong chương-trình
có phương-pháp hành-vi, tức nhiên luật-pháp của
Chí-Tôn muốn buộc loài người đạt đức làm
chúa vạn-vật, định pháp vô hình tức nhiên
định Thiên-điều. Thiên-điều là luật, còn
pháp là quyền-năng thưởng phạt nhơn-quả. Không
lạ gì, chúng ta thấy thế thường, con ngươì
không làm thì không có nên hư, còn lãnh trách-vụ
thì nên hư đặng thất. Nên hư đặng thất của
con người là một tấn-tuồng nơi mặt thế.
Ta nhận thấy mang thi-hài, xác-thịt, khối chơn-linh
chịu mờ-ám, chỉ biết sống phải hiểu nghĩa-vụ
mình, không phải sống đặng thừa hưởng, từ
khi lọt lòng mẹ thì đã mang một mối nợ trần.
Hễ mắc nợ thì phải trả, mà trả cho ai? Khởi
trả cho gia-đình trước. Ai là người làm trọn
đạo gia-đình cũng khó làm rồi, biết bao nhiêu
trở lực, quả kiếp trước tái-diễn lại, phải
vay trả kiếp sau. Vay vay, trả trả, chẳng khác
gì anh lái buôn kia trên đường đi. Muốn học
làm chúa vạn-vật cũng phải nhiều đường lối
gay trở khó khăn.
Nếu Bần-Đạo không vì chủ đặng đè
nén con vật nầy, chỉ biết sống như con vật
thì đã quên hẳn mình là gì, chẳng cần luận,
đương nhiên nhơn-loại lâm vào cảnh vay trả
như anh lái buôn bị gian-lận nhiều nên bán lỗ,
ấy là nhơn. Đi chuyến khác nữa may mua rẻ bán
được mắc thì bán được lời. Lời lỗ là
con buôn trên trường đời. Ta thấy giờ nào chúng
ta chẳng còn buôn lấy lời cho chúng ta hưởng
mà buôn cho Ông chủ hảng hưởng, ngày ấy chúng
ta không sợ lỗ lời. Nhơn quả cũng thế, ngày
giờ nào ta chẳng còn là ta mà còn trong gia-tộc
ta, ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà sống cho
nhơn-loại, ngày ấy là ngày giải-thoát.
Mình
không vay hỏi ai, mình chỉ cho mượn thì mình
ắt giàu. Ngày giờ nào mà lời lỗ mình không
chịu trách-nhiệm chỉ sống về nghề-nghiệp
của mình mà thôi, thì mình ắt không ăn thua chi
với ai cả. Đức Chí-Tôn cũng thế, ngày giờ
nào con cái của Ngài lấy hiếu đối với Ngài,
nuôi nhơn-loại về tinh-thần và vật-chất đó
là cơ-quan đạt đạo, chúng ta cho vay mà không
thiếu, ấy là ta tự giải thoát.
Ta
thử hỏi cả bí-pháp của Đạo Cao-Đài có
như vậy chăng? Có chớ ! kìa cái Cửu-Trùng-thiên
Chí-Tôn đem phô bày tại mặt thế nầy đối
với Cửu-phẩm Thần, Tiên, không còn ai chối
đặng, ai đi trọn thì được giải-thoát. Ngôi
Giáo-Tông môi-giới hay thiệt? Chính anh Cả chúng
ta đã ngồi được. Ai làm được vậy chăng ?
Làm được chớ ! Nếu có kẻ nói mắc lo gia-đình,
không thể lo Đạo được là thì phi-lý. Đạo
là trường học đạt đại gia-đình, Đạo là
trường thì lập vị, sao lại làm không được?
Tại làm biếng học ! Học đặng hành. Nên hư
do tại mình, không phải do Chí-Tôn và cũng không
phải do tại Đạo, Tôn-giáo nào không đạt được
Cửu-phẩm Thần, Tiên dưói thế nầy thì trên
Cửu-thiên kia không hề đạt vị được. Aáy
vậy, về mặt bí-pháp Đạo Cao-Đài là rõ-ràng
một nền chánh-giáo của Chí-Tôn vậy.
Tại
Đền –Thánh Đêm 29 tháng Giêng năm Mậu-Tý (1948)
KHI VÔ ĐỀN-THÁNH PHẢI BỎ HẾT PHÀM TÂM
Hôm
nay, Qua lên giảng-giải là do đêm trước Truyền-Trạng
Ngọ đã giảng trong khi lãnh trách-nhiệm hay quyền
Tiếp-Lễ Nhạc-Quân, đứng trên ngó xuống thấy
mấy em có cử-chỉ do tâm-lý không được chững-chạc
và đúng theo nghiêm-luật của Hội-Thánh. Nhưng
đó là bề ngoài chẳng nói chi, trọng hệ hơn
hết là cái huyền vi bí-mật của Đền-Thánh
nầy, buộc lòng Qua phải lên giảng.
Mấy
em có biết tương-lai nền Chơn-giáo nầy của
mấy em là tạo đại-nghiệp đại gia-đình cho
một sắc dân gọi là Tân-Dân của Chí-Tôn , để
nơi mặt thế nầy, là Thần-Thông-Nhơn. Mấy em
kiếm hiểu hai Thần-Thông, dầu không thấu-lý
mà nghe nói tiếng ấy cũng hiểu sự quan-hệ của
nó ra sao.
Aáy
vậy, muốn tạo một tinh-thần tới Thần-Thông
cho sắc dân Tân-Dân của Chí-Tôn đem đến mặt
địa-cầu nầy, do trong mấy em hiện-tượng ra
mà mấy em không tầm cái giống Thần-Thông thì
làm sao tạo Tân-Dân ấy cho được. Cả huyền-vi
bí-pháp của Chí-Tôn để tạo Thần-Thông-Nhơn
ấy, mắt mấy em nhìn thấy không biết hình-ảnh
thì làm sao đạt thành được.
Mấy
em sẽ làm Cha, làm Mẹ của đám Thần-Thông-Nhơn
ấy mà không có hột giống làm sao tạo hình cho
đặng. Còn như Qua đây là Hộ-Pháp khi lên Ngai
đứng có mấy công chuyện mà quên trước quên
sau, đó là buổi mới khai đạo. Còn mấy em dầu
có khó-khăn đi nữa, nay Đạo đã 22 năm mà còn
quên thì không biết nói làm sao đặng .
Mấy
em có thấy đâu khi vào Đền-Thánh, đền nầy
gọi là Đền-Thánh, thì thế nào mấy em phải
hiểu. Qua đứng trên Ngai lấy hết tư-tưởng
của mấy em cái giọng của mấy em cầu kinh qua
ôm hêt dâng lên cho Đức Chí-Tôn, dâng đây, không
phải là tiếng thường, ấy là cái thiên-thiều,
Ngài hưởng rồi, Ngài trả lại cho mấy em cái
thiên-tính. Có như vậy thì địa-cầu nầy mới
an-tịnh, mới thái-bình được. Mấy
em ôi ! Nếu cúng mà giọng đọc thô bỉ, không
đồng một nhịp-nhàng thì mong gì cái thiều-quang
của Càn-Khôn Vũ-Trụ điềm-tỉnh đặng an-hưởng.
Qua
đứng trên Ngai, Qua thấy trên nê-hoàn-cung của
mấy em, nếu định tâm, thì có một hào-quang
xung lên đều đều, mọi người đều có cả
hào-quang đó, có một Vị-Phật ôm hết đem vào
Bát-Quái-Đài, hiệp với đạo hào-quang trong quả
Càn-Khôn đoạn đem trở ra bao trùm cả chỗ ngồi
của mấy em , mà mấy em không thấy được, cho
nên khi mấy em hầu lễ, nếu biết hưởng cái
ơn Thiêng-Liêng ban cho đó, thì tinh-thần được
an-tịnh, hanh-phúc biết bao, nếu biết thọ hưởng
cái hồng-ân đó, cũng như lúc mấy em đói rồi
có ai liệng cho đồ ăn, mà không biết hưởng,
thì làm sao no đặng, tức phải đói.
Đáng
lẽ khi bước vô Bửu-Điện, đi qua Hiệp-Thiên-Đài
thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt,
vậy đi qua rồi phải tịnh-tâm. Qua không nói
ai, vì trước mỗi bữa đều tắm rửa, vô đó,
dầu hình thể của mấy em có nhơ nhớp, thúi
hôi, cùi-đày mà cái tâm của mấy em trong sạch
đó là tâm vô tội. Dầu kẻ nào tội tình ưu-lự
thế mấy mà bước vô Đền-Thánh rồi, cũng phải
tập tánh cho thanh-khiết, bỏ cả những tư-tưởng
phàm-tục, để tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng
ứng. Mấy em đem cái hình xác vào Đền-Thánh,
nhưng là cái xác vô tội, đặng hiến cho Chí-Tôn,
Nếu không vậy, thì có vào Đền-Thánh, kẻ ngồi
chỗ nầy, kẻ ngồi chỗ kia mà trong óc không
niệm, thì vô Đền-Thánh có ích gì ? đi cúng,
điều trọng yếu nhứt là tinh-thần, cái huyền-vi
bí-pháp tinh-thần ở đấy là Cửu-Trùng-Đài
rồi Bát-Quái-Đài thuộc về Chơn-Linh, ấy là
linh-tâm xuất -hiện, nếu mấy em có cảm mới
có ứng, mà nếu có ứng, thì mấy em mới hưởng
được, thân không hưởng được là lỗi tại
mấy em không trọn làm thành-kính.
Thỉnh-thoảng
rồi Qua sẽ giải bí-pháp của Hộ-Pháp đứng
trên Ngài là gì ? Mấy em không thấy cũng đáng
trách. Vậy từ đây từ sau, Qua chỉ xin cho mấy
em một điều là hễ bước chân vô Đền-Thánh,
thì bỏ hết cả phàm-tâm, thì hanh-phúc sẽ Tôn-giáo
lớn, bằng chẳng vậy, đừng đi cúng, vì đến
cúng, không những không hưởng được đặc-ân,
mà còn mang tội thêm mà chờ.
Tại
Đền-Thánh Đêm Mồng 1 tháng 2 năm Mậu Tý (1948)
LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ-TÔN VỚI NGÀI
Bần-Đạo hứa sẽ tiếp-tục giảng về
cái Ngai của Hộ-Pháp và phận-sự của Hộ-Pháp
phải làm gì, nhưng Bần-Đạo tưởng cả thảy
chưa cần biết, yếu trọng hơn hết là vấn-đề
liên quan của con cái Chí-Tôn với Ngài.
Bần-Đạo thấy cả con cái của Ngài, nghe
tiếng gọi của Ngài mà đến, là vì yêu
ái Ngài, tâm-linh biết cảm-ứng, biết nhìn nhận
Đấng tạo sanh linh-quang là Cha, Cha kêu con đã
là sự thương rồi, nên sự thương yêu của toàn
thể tín-đồ nam nữ cũng vậy đối với Chí-Tôn
vô hạn; Bần-Đạo chán biết và xin thú thật
rằng: ngày nào về cõi hư-linh, nếu vô tòa phán
xét Bát-Quái-Đài thì Bần-Đạo quả-quyết làm
chứng rằng: tình thương của nhơn-sanh đối với
Chí-Tôn rất nồng-nàn. Nhưng có điều khuyết
điểm nầy : chờ chi con cái của Ngài đem tình-ái
ấy để cả thảy thương lẫn nhau, dùng tình-thương
đã đem hiến cho Chí-Tôn có thể hiến chung cho
nhau, đặng cùng hưởng tại mặt thế nầy, Trái
lại : không !
Điều khuyết-điểm ấy quá lẽ, buộc Bần-Đạo
phải minh-triết cho cả thảy được rõ biết.
Ước mong con cái của Chí-Tôn biết thương yêu
nhau nồng-nàn hơn là thương Ngài nữa mới đặng,
Cả thảy đừng tưởng rằng: mình bước
chân vào cửa đạo là một sự tình cờ đa, Bần-Đạo
quả quyết rằng: không phải là một sự tình
cờ, và nếu Bần-Đạo chứng chắc rằng toàn
con cái của Ngài đều ở trong lòng của Ngài,
sanh ra đã có một tình yêu đối cùng nhau, từ
trong vật-loại dĩ chí nhơn thân chúng ta đã có
liên-quan mật thiếât nồng-nàn, khối tình ái
vô biên vô hạn. Cả thảy nên biết điều ấy,
Bần-Đạo xin nói thật, ngày giờ nầy cho các
chơn-linh đến mặt thế đã từng chung chịu khổ-não
cùng nhau, cả muôn kiếp sanh mới gặp-gỡ nhau
trong lòng của Đức Chí Tôn đó chớ.
Trong
24 chuyến thuyền Bát-Nhã, đem chơn-linh đến mặt
địa-cầu, mấy bạn đã ngồi trong ấy, ngày
nay Đức Chí-Tôn đã đến, đến để làm tròn
một lời hứa của Ngài. Còn chúng ta đã hứa
với Ngài những gì ? “ Hứa : Các con vì Thầy
đầu kiếp đặng tạo tinh-thần vật loại, độ
cả hóa-nhân và nguyên nhân qui-hồi cựu-vị.
Các con vì thương Thầy tạo hình ảnh của Đạo”.
Ngày nay là ngày giờ chót Thầy đến với mục-đích
và sở-vọng của Thầy là hội-hiệp các con lại
làm một cùng Thầy.
Ôâi
! Nếu các bạn đã biết, từng chung chịu đau
khổ cùng nhau và vạn kiếp sanh. Nơi đây có kẻ
đã làm cha, làm ông, làm chị, làm mẹ chung lẫn
trong các kiếp tái-sanh nơi mặt địa-cầu nầy
để tạo yêu - thương trong toàn nhơn-loại. Các
bạn có biết điều ấy đâu, duy có thầy gần
mà chẳng thấy xã-hội, đương nhiên cùng máu
thịt thì thương nhau, biết đâu trong đám nầy
đã có kẻ làm cha, mẹ,ông, bà ta, mà ta không
thấy, không biết. Tình cảm của chúng ta hể
khuất mắt rồi, thì nhẹ giá trị quá lẽ. Bần-Đạo
là Hộ-Pháp, nếu Bần-Đạo nói điều chi mong
đặng gạt-gẫm nhơn-sanh, ngày kia về Ngọc Hư-Cung
Bần-Đạo chịu trách cứ đó.
Oâi
! kiếp sanh tại thể mang xác thịt , hỏi sống
được mấy lát ? Nội một giấc thức, giấc
ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người,
mang thi-hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt
không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chổ
khác kia, sao không tìm cảnh thiệt là cảnh tồn-tại,
lại chạy theo bóng.
Ước-ao
cả thảy biết điều trọng-hệ bí-mật đó mà
thương yêu lẫn nhau, thương lún thương càng đi,
rồi ngày kia coi có lầm chăng ? Bần-Đạo quả-quyết,
ấn Hộ-Pháp, Bần-Đạo nắm trong tay, nói chẳng
hề sai chạy. Bần-Đạo mong-ước cả thảy con
cái của Chí-Tôn , đừng tưởng mang thi-hài nầy
mà nam nữ phân-biệt đa nghe. Biết đâu trong đám
nữ nầy, có kẻ đã làm cha, làm anh của người
nào đó. Giả cuộc đứng coi trọng-hệ, cả thảy
nên hiểu và từ đây noi theo lẽ thiệt, đừng
mơ sự giả, đó là điều mơ-vọng ước-ao của
Bần-Đạo hơn hết.
Tại
Đền-Thánh Đêm 14 tháng 2 năm Mậu-Tý (24-3-1948)
HỘ-PHÁP HÀNH-PHÁP MỖI KHI VÔ CÚNG ĐÀN
Hôm
nay Bần-Đạo chẳng phải thuyết-đạo Bần-Đạo
chỉ nói chuyện mà thôi. Nói chuyện Hộ-Pháp,
mỗi phen vô cúng đàn làm việc chi, theo như lời
Bần-Đạo đã hứa.
Bần-Đạo nói đây để cả thảy biết
được điều ấy trọng hệ như thế nào, đặng
giữ gìn và giúp Bần-Đạo mỗi phen hành-pháp
được dễ-dàng một chút. Bần-Đạo nói hôm
nay, để đêm mai có nhiều thì giờ giảng những
điều thiêt-yếu hơn, trọng hệ hơn.
Mỗi phen nhập đàn, hễ trống chuông rồi,
thì tất cả đi vô, cả thảy đi vô thong-thả,
chỉ có Bần-Đạo thật bối-rối, bước lên
ngai rồi, trụ pháp lại, vẽ bùa niệm chú. Câu
chú mà khi thượng sở, chúng ta thường nghe đọc.
“
TAM CHÂU BÁT-BỘ HỘ-PHÁP THIÊN-TÔN “.
Thật
sự thì như vầy:
“
TAM THIÊN THẾ-GIẢI HỘ-PHÁP GIÁNG LÂM “.
Từ
trước đến giờ các bậc tiền-bôùi của chúng
ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải
được, phải để y như vậy.
Khi bái đàn rồi cả thay quì tụng kinh,
còn Bần-Đạo tiïnh-niệm, mỗi câu kinh mấy em
đọc vẫn dễ, vì thuộc mà đọc thôi, riêng
Bần-Đạo mỗi câu kinh phải mật niệm, tụ hết
cả nghĩa lý của nó dâng lên Chí-Tôn và các
Đấng Thiêng-Liêng. Rồi còn điều nầy rắc-rối
hơn hết, hễ khi nào cả thảy tụng rồi bài
kinh Chí-Tôn hoặc kinh Tam-giáo, khi Bần-Đạo thấy
nín hết, buổi đó đem hết tinh-thần trụ lại,
dâng lời niệm ấy vào Bát-Quái-Đài. Đến khi
tất cả niệm ngũ nguyện cũng vậy, Bần-Đạo
định tâm, dồn cả đức-tin biến thành huệ
quang chiếu-diệu đem vào Bát-Quái-Đài rồi, đợi
cho Bát-Quái-Đài trả lời khi ấy ở trong đó
ánh-sáng tỏa ra, Bần-Đạo cuối đầu niệm thế
cho cả thảy.
Còn dâng Tam-Bửu, Bần-Đạo hiểu cả nghĩa-lý
của nó đang khi dâng bông, cả thảy hình-thể
con-cái của Chí-Tôn tức là Thánh-Thể của
Ngài, trụ hết xác Thánh đó dâng cho Ngài đặng
Ngài làm phương cứu thế. Đó là dâng bông,
Tới dâng rượu, cả thảy, khi dứt câu
kinh, nín lặng hết, Bần-Đạo vận-dụng cả
trí-não tinh-thần, đem đức-tin của cả thảy
dâng vào Bát-Quái-Đài,
Tới dâng trà, là dâng cả linh-hồn cho Chí-Tôn.
Bần-Đạo để cả tinh-thần trụ lại, đem limh-hồn
của con-cái Chí-Tôn dâng cho Ngài,
Khi các người cầu nguyện, buổi cầu nguyện
biết vậy thì cầu nguyện như vậy thôi, còn
Bần-Đạo phải trụ hết tinh-thần định trở
lại, đem cả lời cầu nguyện ấy đặng dâng
cho Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng,
Khi Chí-Tôn truyền cho pháp ấy, Bần-Đạo
nghĩ rằng: đó là chiếu theo cổ pháp của nhà
Phật buổi trước, nhứt là Thiền-Môn mỗi khi
làm chay, thí của, cầu siêu, hay tuần-tự chi
đều rước một vị Hòa-Thượng tru-trì đến.
Không gì khác hơn là bí-pháp của Chí-Tôn trụ
thần, Bần-Đạo dám chắc rằng không ai biết,
họ tụng kinh như hát mà thôi, không ai để hết
tinh-thần vào câu kinh, nên mấy thầy chùa có
gõ mõ tụng kinh có ăn thua gì, trọng hệ là vị
Hòa-Thượng trụ trì ngồi hành pháp, nhưng không
hiểu họ có biết mà làm y theo đó hay không?
Cái trọng-hệ ấy, nếu ai làm cho y, thì là trúng
với bí-pháp. Tiểu-Đàn thì vậy.
Còn Đại-Đàn lại còn rối cho Hộ-Pháp
hơn nữa, là có ba ấn: Thượng Nguơn, Trung Nguơn,
Hạ Nguơn, ấn ấy không phải do tay Hộ-Pháp không
? Khi đứng lên Ngai rồi bắt ấn Hộ-Pháp lấy
cả tam bộ Thiêng-Liêng tức là sanh khí mà ta
thấy trước mắt tỏa ra cùng khắp. Rồi đến
trụ thần lại bao trùm cả trái đất này như
vòng bao một trái cây gì vậy, để cái cuốn
lên trên, đem dâng cho Chí-Tôn ngự. Kế dâng bông,
bắt ấn Thượng Nguơn dưới đạp Ngưu-Đẩu,
tay đưa Gián-Ma-Xử lên hiệp với chữ Khí,
đem Khí ấy đưa ra cả càn-khôn thế-giới. Aán
Thượng-Nguơn làm chủ chữ Khí, đem Khí ấy hiệp
hết cả Nguơn-khí đặng bao trùm vũ-trụ.
Đến Trung Nguơn bắt ấn Hiệp-Chưởng Biến-hóa,
Gián-Ma-Xử để nằm gang, đuôi bên Thế, cán
bên Đạo, ý nghĩa Đạo cầm cán đặng trị đời,
Bắt ấn Hiệp-Chưởng, cầm cả cơ-pháp của
vạn-vật biến-sanh đăng bảo-tồn không cho tương
tranh, tự diệt nhau.
Tới Hạ Nguơn, tay tả thuộc dương để
trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để
Gián-Ma-Xử chúi xuống, trụ thầøn đem cả càn-khôn
hiệp cả vạn-vật. Bắt ba ấn phải trụ thần,
làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban
sơ, buổi Chí-Tôn mới giao cho Bần-Đạo tại
Từ Lâm-Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì
không quen, không phải mình làm thầy phù, thầy
pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng.
Vì cớ nên mới có quỉ lộng tại Tù-Lâm-Tự
buổi nọ, các ấn khác của Hộ-Pháp có linh hay
không mà quỉ lộng? Aáy là thiên cơ khiến vậy.
Chí-Tôn mở Tam-Thâïp-Lục Động coi có phá nổi
Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh-Giáo
không ? Để cho chúng sanh thí-nghiệm mà thay quyền-năng
vô tận của Ngài. Buổi nọ vì thời-gian ngắn-ngủi,
nên công việc chưa rành-rẽ, vì không đủ thì
giờ để chuyên-luyện, hoặc cho là chưa trọng
hệ cho lắm, nên có điều sơ-lược, Đó là Thánh-ý
của Đức Chí-Tôn muốn như vậy.
Trong một thời cúng, Bần-Đạo đã căn
dặn nhiều phen trọng-hệ hơn hết, là khi dâng
Tam-Bửu, dầu cho tinh-thần suốt buổi cúng nhiều
lúc lo ra đi nữa, đến khi dâng Tam-Bửu, khuyên
cả thảy định thần đặng mật niệm, dâng ba
bửu trọng hệ cho Chí-Tôn, tức là giúp sức
Bần-Đạo hành pháp dễ dàng một chút đó.
Tại
Đền-Thánh Đêm rằm tháng 2 năm Mậu Tý (25-3-1948) - (LỄ
THÁI-THƯỢNG)
Ý
NGHĨA ĐI HOÁN ĐÀN (Cúng
Đại-Đàn)
Nay
Bần-Đạo định giảng tiếp, nhưng bị vụ hoán-đàn
mà không cho vô, nên Bần-Đạo phải giảng nghĩa
rõ vì sao mà không cho vô ấy, vậy có đứng lâu
mõi chân xin cả thảy đừng phiền nghe ! .
Không
có một điều Chí-Tôn để trong Pháp-giới của
Ngài trong cửa Đạo nầy mà không có nghĩa lý.
Ít nữa mình không biết thì phải tìm cho biết,
coi tại sao như thầy chùa chạy kim-đàn vậy.
Không biết phải hỏi, cả thảy nên biết rằng,
không một điều gì trong nền Tôn-giáo nầy mà
vô nghĩa-lý đa nghe ! .
Tại
sao phải hoán-đàn, nam, nữ chen nhau ? Đó là bùa
pháp-luân thường chuyển. Tại sao Chí-Tôn đêû
bùa pháp-luân thường chuyển tại thế này, đặng
chi vậy? Hiện đã mãn Hạ-Nguơn tam-chuyển,
bắt đầu Thượng-Nguơn tứ-chuyển ta gọi là
khai nguơn nên phải để cho pháp-luân chuyển.
Ta
đã biết thời Tiên-Thiên Khí, Hậu-Thiên Khí
chuyển làm một mới đạt Đạo đặng. Cả thảy
đều biết qua Cửu Trùng-Đài nầy là Cửu Thiên
Khai-Hóa, còn cung trên kia là Cung-Đạo, từ trước
đến nay, mỗi người mãi miết tìm Đạo mà Chí-Tôn
để giữa đó, trước mắt mà không biết, đi
chín từng Trời để cho phần hồn đi cho cùng
một Cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật,
tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại
Phật, chuyển luân như vậy, bí-pháp gọi là đạt
Đạo. Tại sao cả thảy không tìm hiểu, rồi
không chịu vô hoán- đoàn, sợ mõi chân, chờ
trong nầy thiên-hạ đi giáp rồi mới vô cúng
mà thôi.
Cũng
vì bởi không hoán-đàn là không đạt được
thể-pháp đó không đủ theo pháp-giới của Chí-Tôn,
nên người cầm pháp có phận-sự không cho vô
tức là không cho làm loạn Đạo.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý mồng 9 tháng Giêng năm Mậu
Tý (19-2-1948)
ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ
Thưa
cùng Chư Chức-sắc Thiên-Phong Nam, Nữ, Chư đạo-hữu,
mấy em, mấy con Nam, Nữ, có mặt tại lễ đầu
xuân là lễ Đức Chí-Tôn ! .
Ngày
nay ta tính lại đã trót 23 năm Chí-Tôn đến cùng
con cái của Ngài, cái hanh-phúc của nhơn-loại
may duyên gặp hồi tận độ của Đức Chí-Tôn
đáng lẽ tinh-thần loài người thoạt nghe thoạt
thấy, tâm-linh buộc phải xu-hướng theo sau bước
chân của Chí-Tôn. Tại sao ta phải hỏi vì cớ
nào đã 23 năm mà nhơn-loại chưa hưởng được
hồng-ân của Chí-Tôn chan-rưới nơi mặt thế
này?
Bần-Đạo
đã thuyết mấy kỳ trước : một nền chánh -giáo
dầu bi-pháp, dầu thể-pháp phải có thiệt tướng
như thế mới ra một nền chánh-giáo. Ngày nay
là ngày Chí-Tôn đến cùng ta, kỷ-niệm này, bất
tiêu bất diệt. Bần-Đạo đã thuyết vì cớ
nào từ tạo thiên lập Địa đến giờ, nhơn-loại
vẫn khư khư tầm đạo. Chúng ta chán thấy rằng,
nhơn-loại trên địa-cầu nầy thay đổi nhiều
lớp mà nay chúng ta còn tồn tại đây, theo Chơn-Pháp
để lại tính ra từ đó đến nay biết bao nhiêu
thay đổi, đáng lẽ nhơn-loại đã quên Chí-Tôn
mà chớ, sao vẫn nhớ mãi mà thôi, bởi chẳng
nhớ Ngài chẳng đặng, tại sao không nhớ Ngài
không đặng ? Nhơn-loại đang đi tìm, khao-khát
cái danh-từ, tên tuổi của Ngài. Các dân-tộc
đang tìm tòi vì biết nhìn Ngài là người chủ-quyền
tạo-đoan Càn-khôn Thế-giới. Ai đã dạy họ,
ai chỉ cho họ, ai buộc họ, mà họ biết chơn-lý
chỗ nào mà theo, một điều là người nào cũng
vẫn tìm-tôi mãi điều ấy mà thôi. Bần-Đạo
không nói riêng về loài người, dầu vật loại
vô tri vô giác hay hữu trí hữu giác cũng vẫn
tìm Người mãi mãi. Ta thấy vật vô tri vô giác
như đá, sắt là bất động vật, rõ-ràng không
âm-thinh chỉ có sắc-tường ta thấy chắc tri-giác
đã thế nào, Bần-Đạo xin hỏi đá tìm ai, kiếm
ai mà cục này chồng chất lên cục kia, leo lên
nhau mà thành ra hồn núi ? Đặng tìm kiếm khối
sanh-quang của nó. Vật hữu sanh chúng ta thấy
cây lúa mới cấy nó nằm nghiêng, sau khi sống
nó đứng thẳng đầu lên. Hỏi nó tìm ai ? Tìm
Đấng Tạo-đoan. Cây trong rừng hoặc trong vườn
bị che khuất còn biết nghiêng mình nảy chồi
đâm tược. Hỏi tìm ai ? Tìm Đấng Tọa-đoan.
Aáy là vật vô-tri vô-giác, còn người tại sao
bỏ không đặng, hễ không bỏ Đấng Tạo-đoan
đặng thì phải tìm tôi mãi, gọi là tầm Đạo,
Đạo là cơ-quan bí-mật làm cho Trời một người
hiệp một trong sự sống của Càn-Khôn Vũ-trụ,
nên con người vẫn đi tìm nguyên do sự sống
ấy, xem thế tức là đi tìm Đạo đó. Chúng ta
buổi mới sanh ra còn anh-hài không đủ trí-thức
xét đóan, chúng ta đã thấy gì ? Thấy trước
mắt vạn-vật hữu-sanh, đó chẳng qua là những
bạn đồng sanh với chúng ta mà thôi. Khi được
năm ba tuổi rồi, cả vạn-vật đối với sự
sống của ta rất hữu tình như thế nào, ấy
là mức đầu tiên làm cho tinh-thần con người
tự tỉnh. Quan-niệm của vạn-vật đối với
con người rất nên mật-thiết, dầu vật ấy
hung tàn đối với con người tình thân-ái giao-hảo
vẫn liên-quan mật-thiết. Chúng ta đã thấy cọp,
beo, sấu, hùm gấu làm cho ta sợ-sệt, sự hung-dữ
của nó có thể hại sanh-mạng của ta được,
nên mới kiên sợ như vậy. Ngoài ra còn vạn-vật
đều có tình hữu-ái đối với ta “ Khuyển
thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng
mật ”. Ta thấy cả vạn-vật ấy đối với
ta rất có cảm-tình, bởi lẻ đồng-sanh, như
đứa con nít thấy con bướm đẹp-đẽ thì mê
lắm, tìm bắt, đến khi gặp con ong chích thì
sợ-sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự
tỉnh, đi tìm nguyên-do của sự sống ấy, đó
là khởi bước đầu sự tầm Đạo.
Lớn
lên chút nữa, biết ái-tình chung trong gia-đình
hay xã-hội, biết thân danh chung. Phận-sự của
người giữ Đạo là giữ sự đồng sống trong
khuôn-khổ xã-hội, tất nhiên tìm mối đồng
sanh của cơ Tạo-đoan ấy, Thân danh ta đối với
Xã-hội nhơn quần, ta thấy Xã-hội đối với
ta như thế nào và ta phải đối lại như thế
nào ? Thật sự là tìm phương thế đặng tôn
sùng sự sống chung của nhau mà thôi. Vì sự sống
của vạn-vật, của loài người sản-xuất do
Đấng Tạo-đoan là Chí-Tôn, nên chữ Đạo nó
liên-hệ mật-thiết với loài người thế nào
thì nó liên-hệ mật-thiết với Chí-Tôn dường
ấy, nên Ngài mới đến đặng thức-tỉnh chúng
ta biết, hiểu. Ngài là chủ của sự sống, đến
đem sự sống lại, trừ-diệt cho tiêu-tan ác-nghiệt.
Ngài đem đến sự sống để trước mắt nhơn-loại,
như nhắc-nhỡ họ phải tôn-sùng cái sống chung
của nhau. Hễ tôn-sùng, tức nhiên phải nhìn Đấng
Tạo-đoan đã ban cho chúng ta mạng sống, cho ta
nhứt-điểm linh-quang, mới biết phân biệt hiền
với ác, chánh với tà, để làm biểu-hiện cho
con người thức giấc mê, tìm hiểu chơn-lý của
sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống
theo tinh-thần của Thánh-Hiền hay sống theo tánh
hung-bạo tàn-ác của con vật. Cốt yếu đem cái
sống Thánh-Hiền ấy là cái sống của Chí-Tôn
ban cho, là vật báu để trong mình, vật ấy quí-hóa
không phải hèn-hạ.
Giờ
đây Chí-Tôn đến mặt thế nầy, đặng làm cho
nhơn-loại biết tôn-trọng sự sống ấy trong
khuôn-khổ của Chí-Tôn định, hiệp tâm-lý trở
lại làm một trong tình thân-ái đại-đồng. Chơn-pháp
của Chí-Tôn đem đến với chúng ta đã 23 năm
nay là vậy, nếu chúng ta đã mang danh-thể của
Ngài, trước chúng ta chẳng tự mình lập phương-pháp
làm kiểu-mẫu cho thiên-hạ nhìn Đạo Cao-Đài
là Chánh-Giáo, thế nào làm khuôn-mẫu cho cả
toàn tâm-lý loài người đỗ theo thì chúng ta
thất-hiếu cùng Chí-Tôn lắm vậy.
Tại
Đền-Thánh Đêm rằm tháng Giêng năm Mậu Tý (24-2-2948)
THỂ
CHẤT VÀ TÁNH-ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN
Hôm
nay, Bần-Đạo giảng về thể-chất và tánh-đức
của các hạng khách trần, cốt yếu để dìu-dắt
cả thảy quan-sát toàn thể Đạo.
Aáy là phương hay để chúng ta quan-sát được
mỗi hạng khách-trần, trọng hệ nhứt là Thánh-Thể
của Đức Chí-Tôn tức nhiên là Hội-Thánh. Vả
chăng, chúng sanh nhứt là nhơn-loại mỗi mỗi
đều có đẳng cấp Thiêng-Liêng tùy theo sự tiến-hoá
của chơn-linh họ, dầu tánh-chất hay hình-thể
cũng tùy theo tiến-hóa của chơn-linh mà có riêng
đặc-tánh, riêng về hình thể của họ, chúng
ta ngó thấy phương pháp của cổ nhân xem tướng
người, đoán tánh-chất, số mạng, cũng là nương
theo đó.
Các hạng khách-trần, Bần-Đạo duy nói
về đẳng cấp và tấn-hóa, nếu dám quả-quyết,
nói hẳn rằng: mặt địa-cầu nầy có 2.700 triệu
người mà buổi nầy khuyết-điểm bao nhiêu không
biết, số ấy là trong thời thái-bình. Trong 2.700
triệu nhơn-sanh tức có 2.700 triệu tánh-đức,
chúng ta không thể gì đoán xét đựơc nhưng chúng
ta có thể chia khách-trần ra thành nhiều hạng:
-
Một hạng trước là hạng trái-chủ, nghĩa là
hạng thiếu nợ, hạng thiếu nợ là gì ? Là những
người gây ra nhơn-quả đã nhiều. Luật nhơn-quả
để họ vô hàng cùng khổ của các chơn-linh.
-
Hạng thứ nhi là hạng tác-trái, nghĩa là người
đã cho vay.
-
Hạng thứ ba là hạng du-học, là các chơn-linh
đến mặt địa-cầu tìm phương-pháp đặng học-hỏi,
vì họ thiếu-thốn, đến đặng thâu-đoạt cái
phần thiếu kia cho hay biết nhiều thêm đặng
tấn-hóa về chơn-linh.
-
Hạng thứ tư là hạng ta-bà, du-bi, du-thực đến
chơi rồi về, mà cái hạng ấy ít lắm, nếu
có đi nữa thì phần nhiều chết yểu hết.
-
Còn một hạng nữa là hạng thiên-mạng, hạng
thiên-mạng là hạng chơn-linh cao-cấp tức nhiên
đã đạt phẩm vị cao trọng, vâng mạng đến
thi-hành lịnh của Ngọc-Hư-Cung hay của Lôi-Aâm-Tự.
Bây giờ Bần-Đạo mới chỉ rõ hạng trái-chủ
là hạng thiếu nợ. Bần-Đạo quả-quyết rằng,
nếu ngó thấy họ ta đoán được ngay. Cái thói
nghèo hèn cùng khổ dầu đến đâu cung nghèo hèn,
rán làm sang bao nhiêu cũng lộ cái nghèo hèn ấy,
vì tánh-đức họ hiện ra hình dạng xấu-xa cho
đến cách ăn mặc cũng vậy ; họ sợ thiếu nợ
nhưng hại thay họ đã lo dêm lo ngày , chạy tảo
chạy tần, lo sống đủ mọi phương-diện, nhưng
chẳng phút nào họ được an-hưởng tinh-thần
và tưởng-tượng rằng mình có hạnh-phúc. Có
khi người trái-chủ ấy đầu-kiếp một lượt
thì họ có phương-thế làm đặng trả, là may
duyên cho họ lắm; nếu rủi người chủ-trái
không đến thì họ phải đầu kiếp mãi tìm cho
đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ
đặng trả nợ, ấy là một phương-pháp mà các
chơn-linh hải-hùng sợ-sệt hơn hết. Tánh-đức
họ là thường lo cho mình được lợi mà thôi,
nhưng không biết chừng nào đủ , đến nổi trong
ý muốn làm có của cho lung, cho nhiều để dành
ngừa đó đặng có phương-thế trả nợ , sợ
có một điều là buổi muốn trả mà không trả
nổi. Tâm-linh họ thúc-dục như vậy. Họ hà-tiện
lắm, nhiều khi gặp được tình liên-hửu với
chơn-linh nào mà họ gọi là chủ-trái đến ,
lạ-lùng thay, đối với cả toàn thiên-hạ không
thương-yêu ai, mà nếu họ gặp người chủ-trái
ấy dục họ thương-yêu, kính mến, chiều chuộng,
bao nhiêu cũng đem dưng hết cho người ấy. Có
nhiều khi không có của họ đem cả thân sanh họ
đặng đền-trả nữa. Hạng thiếu nợ có tánh-đức
đặc-biệt nhỏ nhen, chắc-mót, không tưởng đến
ai khác hơn mình duy người chủ trái đến thì
toàn cả cơ-nghiệp đều để lại cho người
đó, dầu muốn dầu không , hay là không hay biết
cũng do tay người đó phá-hoại hết sự nghiệp.
Họ phát-hiện ra có tánh-chất buồn-bực quạu-quọ,
không yên-tâm cứ lo-lắng bậy-bạ nhứt là hình-ảnh
của họ cùng khổ, bịnh-hoạn luôn và thường
chịu phận đê-hèn. Đó là hạng có quả-kiếp.
Còn
hạng chủ nợ có tính-cách đặc-biệt là không
biết lo gì hết, lơ-lơ lửng-lửng, ngày chí
tối không biết đợi ai trả nợ, mà chắc mình
có món nợ chúng sẽ trả, không lo gì cho họ
cả, thả linh-binh du-hí du-thực, không biết gì
ráo cứ ngơ-ngơ, ngửng-ngửng , không đông tới
ai, mà cũng khong làm gì nên cho ai; mà khi nào chúng
ta thuyết-đạo với họ thì họ biết xu-hướng
, chịu nghe tưởng cái huyền-linh nầy sẽ giúp
mình đắc lợi gì. Họ đi chùa, đi miểu cốt
cầu danh nghe nơi nào linh-hiển, đem nhang đèn
tới cầu tài cầu loại cho mình . Hình ảnh của
họ, gương mặt bơ-bơ mà lúc nào cũng tự-tôn
tự-đại , mình là chủ nợ dầu nợ nhiều hay
nợ ít cũng là nhà giàu rồi, đặc sắc điều
nầy là không sợ hao tài. Tánh-chất sợ tội,
sợ quả báo mà không biết trọng mình, thoạt
nghe đó, tin tưởng đó, nhưng không phải tin-tưởng
đạo-đức mà chỉ tin nơi huyền-linh đặng cầu
khẩn mà thôi, lại có tính-chất ngớ-ngẩn, trong
mình không có tiền thì thôi, nếu có tiền mà
ai nói vừa bụng thì móc đưa ra hết, có khi đưa
rồi lại mắng người ta, đưa chẳng phải vì
thiệt tâm mà đưa. Tánh chất của ngưòi trái
chủ là vậy đó.
Bây
giơ ønói đến hạng du-học , hạng du-học bình-thường
cái gì cũng muốn biết, ham đọc sách vở kinh-luật,
nhưng chỉ đọc qua-loa rồi bỏ , ưa kiếm hiểu,
ua tọc-mạch hơn ai hết , cái gì cũng muốn hiểu,
cái gì cũng muốn biết, có khi họ mơ-màng thì
họ cũng muốn bỏ. Hạng du-học thì nhiều mà
lạ lùng thay, phần nhiều không tín-ngưỡng ,
học cao đến đâu nếu đem đạo đức tinh thần
mà nói , họ không biết gì hết, cứ cái chơn-lý
họ tìm mãi mà thôi, chính mình họ, họ cũng
chẳng biết họ là ai, nhưng cũng là hạng tự-tôn,
tự-đại lắm, họ quyết-đoán trong óc họ rằng
không ai hơn họ được , cho là mình khôn hơn
thiên-hạ nên làm cao cách hơn ai. Gương mặt lúc
nào đi cũng ngước lên, người ta gọi là mấy
cậu “trịch bồ lương” mà thứ đó lại nhiều
hơn hết.
Hạng
ta-bà, nếu có thì chúng ta thấy liền, không động
tới ai, không nói tới ai, cái sống, cái chết
của họ cũng không cần biết, họ thường ở
theo các chùa hoặc lên núi, một cỏi một mình,
chịu thanh-tịnh mà thôi, còn đi chơi tìm lên
non núi. Ta thấy trong các chùa chiền, họ bơ-vơ
dộng chuông, gõ mõ rồi nam-mô lên, nam-mô xuống.
Hạng ta-bà du-hí nầy sống trên cỏi trần nếu
không vừa bụng thì thối lui về tức là chết.
Bây
giờ các bạn muốn nghe hơn hết là hạng thiên-mạng.
Hạng thiên-mạng, là hạng người không biết
tầm lấy cho mình, chỉ lấy của mình lo cho thiên-hạ,
không biết tôn-trọng hình hài của mình, chỉ
tôn-trọng thiên-hạ, bởi vì hạng thiên-mạng
cốt-yếu tìm cả năng-lực chỉ đạo cho thiên-hạ
làm môi-giới tinh-thần, ấy là một phương-pháp
giải-cứu cho đời và bảo-trọng thiên-ha đó.
Tính-chất như Lục-Tổ bất-động , bất trần,
bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều người họ đên
mà chưa có phận-sự thì họ ngơ-ngơ ngửng-ngửng
như khùng như điên. Aáy là khi chưa đắc thế,
thien-hạ kêu là ba-trợn ba-nháng đó; một khi
họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên-hạ
thay thế cho thiêng-liêng, vâng mạng lịnh Đức
Chí-Tôn đến làm bạn với người đặng truyền-đạo,
thâu con-cái của Chí-Tôn về một mối. Phần
đó ta có thể xem-xet được trong thánh-thể của
Đức Chí-Tôn.
Mấy
em nếu có gặp người khùng khùng điên điên
phải quyết-đoán là họ còn đợi thời và họ
chưa tới thời đó thôi.
Tại
Đền-Thánh đêm 26 tháng Giêng năm Mậu-Tý (5-31948)
VIỆT-NAM
ĐỘC-LẬP TRONG LIÊN-HIỆP PHÁP
Hôm
nay có tin lành, nên Bần Đạo lên giảng-giải
cho toàn Đạo được hay biết.
Mới
đây có tin vô-tuyến-điện cho hay rằng : Cựu
Hoàng-Đế Bảo-Đại đã đem cho nước ta được
độc-lập và thống-nhất, vì nước Pháp có tuyên-bố
cho cả toàn cầu hay rằng đã chấp-nhận rồi,
duy còn ký kết bản hiệp-ước với Pháp nữa
là xong. Độc-lập trong Liên-hiệp Pháp có nghĩa
là văn-hoá đã truyền-bá các nơi, nơi nào có
người Pháp. Trên địa-cầu nầy người Pháp
có nhiều thuộc-địa , ngoài ra văn-hoá Pháp cũng
đã có ảnh-hưởng đến các nước không phải
là thuộc địa Pháp. Vậy, các nước nào không
liên-quan đến nước Pháp cũng có thể liên-hiệp
với Pháp được. Liên hiệp Pháp là liên-hiệp
các quốc-gia lại cho cường-liệt đặng bảo
trọng cho các quốc-gia chung nhau, bởi vậy nên
trong Liên-hiệp Pháp, mỗi nước đều được
tự-chủ bình-đẳng có quyền-hạn như nhau , mặc
dù người Pháp đã đề xướng, nhưng Pháp cũng
chỉ là phần-tử trong đó. Thật sự như vậy.
Bần
Đạo nói đây cốt-yếu để vào tâm-não cả
con cái của Chí-Tôn. Bần Đao sau 5năm năm bị
đồ-lưu nơi hải-ngoại được về, quyết-đoán
đem cựu Hoàng-Đế Bảo-Đại về xứ đặng thương-thuyết
tới độc lập cho nước nhà, Không phải hôm
nay là việc tình-cờ mà quả-quyết đâu. Bần-Đạo
xin nói rằng những hành-tàng mà ngày nay kết-liễu
do Bần-Đạo đã biết trước từ năm 1927.
Bần-Đạo
cốt-yếu nhức cho con-cái Đức Chí-Tôn để trong
trí rằng :”Không giờ phút nào Chí-Tôn nói gì,
hứa gì với con cái của Ngài mà thất tín, thất
hứa, thế nào cũng kết-liễu mà thôi” .
Con
cái của Ngài nếu đủ khôn-ngoan chịu khó ôn
lại Thánh-giáo của Ngài từ trước, xem lại
từ trang từ lời Thấnh-huấn thì hiểu ngay rằng
không hề sai-suyển một mảy-may nào cả.
Tại
Báo-ân-Từ thời ngọ ngày Rằm tháng 2 năm Mậu-Tý
(1948).
ĐỂ
CẢ ĐỨC TIN NƠI PHẬT-MẪU
Chúng
ta luận một việc cần phải luận bàn cùng nhau,
nên chúng ta tin chắc rằng Đức Phật-Mẫu là
Mẹ-Sanh của chúng ta và cả vạn-vật, nếu chúng
ta tin và biết chắc như vậy thì chúng ta phải
để cả đức tin nơi Người , theo ý Bần-Đạo
tưởng cái gì về xác thịt thi-hài nầy đều
do Phật-mẫu đào-tạo ra cả.
Đức
Đại-Từ-Phụ duy làm cha của chơn-linh chúng
ta mà thôi, như cha mẹ phàm nầy, ông cha duy có
nhứt điểm tinh, còn huyết khí đều do bà mẹ
đào-tạo mà có, Đức Chí-Tôn duy cho nhứt điểm
linh, còn tạo nên trí não và xác thịt của ta
ra hình-tướng là do tay của Phật-mẫu, hai cái
quyền ấy rất cao-trọng hẻ khôn ngoan muốn cầu
xin cho đăng siêu-thoát linh-hồn, không ai hơn là
Chí-Tôn, còn về phần xác thịt nếu đau đớn
khổ-sở, mỗi mỗi cái đều xin Mẹ thì chắc
hơn hết.
Có
nhiều điều ta đén xin Mẹ thì Mẹ cho, chớ còn
xin Cha thì không được , phải vậy không ? Nhứt
là phái nữ, tâm-hồn thường phải nương theo
Phật-Mẫu một cách manh-mẽ hơn nữa, hoặc sanh
con cũng được mạnh-giỏi hoặc chính thân-thể
mình không được cường-tráng, hoặc đức tin
còn yếu ớt sao không đến xin Mẹ, chỉ có Mẹ
mới đủ quyền-năng ban ơn ấy cho; còn như mấy
em nhỏ, đã có vợ chồng thì nên đến phụng-sự
Đức Mẹ mà cầu xin cho sanh đặng con tốt, cho
Đấng nào đến nơi cửa của mình sẽ là một
chơn-linh cao-siêu , đó là biết khôn đó chớ,
nếu chúng ta quả quyết có điều ấy thì tự-nhiên
sẽ có như vậy,
Bần-Đạo
vẫn thấy nữ phái còn lạnh-nhạt điều ấy
lắm.
Tại
Đền-Thánh thời Tý đêm 19 tháng 02 Mậu-Tý (29-03-1948)
THIÊN-CUNG
CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ-TÔN
Ngày
hôm nay, Bần-Đạo giảng về Thiên-cung của mỗi
con cái của Đức Chí-Tôn , Thiên-cung ấy, Chí-Tôn
có nói rằng :
“Gia-tài
của các con Thầy đã sắm sẵn”.
Gia-tài
ấy tức là Thiên cung vậy.
Bần-Đạo
nhớ lại buổi nọ , Đức Chí-Tôn biểu chuc Đại
Thiên-Phong , nhut là những môn-đệ đầu tiên
của Ngài bên Cửu-Trùng-Đài , nên ta kể những
Vị ấy như là Thánh-Tông-Đồ của Đao Cao-Đài
vậy: như là Trung, Trang, Tương, Thơ, Nương, Ca…
đó là những Vị đến lúc ban-sơ khởi thể của
nền Đạo . Chí-Tôn biểu : Các con phải lập
họ hàng của mình, tức là biểu lập Thiên-cung
tại thế. Thảm thay ! Hồng-ân ấy, Chí-Tôn liệng
trong tay ma không biết nắm , tức-nhiên họ làm
mất đạo-nghiệp của họ vậy.
Thiên-cung
của chúng ta mà Đai Từ-Phụ gọi gia-tài dành
để cho chúng ta, trừ ra đứa nào chê bỏ, Thầy
mới đem cho đứa khác, Thiên-cung ấy là gì ?
Là các nguyên-căn của Đức Chí-Tôn, là cơ-quan
tạo-đoan Càn-Khôn vũ-trụ. Đức Chưởng-Đạo
Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn nói rằng : Đức Chí-Tôn
buổi nọ có Thiên-cung riêng, Ngài dứt cả toàn
Thiên-cung đó đến một chỗ chẳng có vật chi
, rồi Ngài lấy dương-quang đặng Ngài biến-tướng
ra và ban cho mỗi con vật một điểm linh, tiếng
Phạn goi là Monade, còn ta gọi là nhứt điểm
linh, điểm linh ấy tấn-hoá vô-biên vô giới,
đi từ vật-chất dến Phật-vị, thì trong con
người đi biết bao nhiêu kiếp sống liên-quan
mật-thiết cùng nhau, do mỗi kiếp sống để tạo
thành một gia-tộc. Chúng ta sanh ở thế-kỷ nầy
có ông, bà, cha, mẹ, anh,em, bạn tác, vợ chồng,
con cái, cả các cơ-nghiệp hửu-hình của chúng
ta tại thế nầy, sẽ trở nên cơ-nghiệp nơi
cảnh vô-vi kia, đặng làm Thiên-cung của chúng
ta. Vậy Thiên-cung là gì ? Nếu chúng ta gọi
là gia-tộc vô-hình thì phải gọi là xã-hội,
do đại-nghiệp căn-bản của chúng ta lập-thành.
Nếu chúng ta tưởng-tượng trở lộn lai do lời
của Đức Chưởng-Đạo nói , thì Đức Chí-Tôn
cũng vô một khuôn-luật ấy, nhưng Ngài đạt
Pháp, nắm cả bí-mật vô-biên đặng tạo Càn-Khôn
vũ-trụ riêng, chẳng khác như ta đã thấy tấn-tuồng
hửu vi nơi mặt thế nầy, cũng làm con, làm cha,
mà ta thấy cha ta tạo nghiệp thế nào, thì ta
cũng bắt chước như thế ấy. Hình-trạng Đức
Chí-Tôn đã làm thì ta sẽ làm theo, hay là ta đã
làm rồi nơi cỏi vô-hình, Đức Chí-Tôn đã dành
để cho ta mà ta chưa hề biết như vậy, ta chỉ
biết giờ nầy mà thôi, đến khi bỏ xác thú
rồi, trở lại cảnh vô-hình, mới biết là ta
có đại-nghiệp.
Bởi
vậy cho nên buổi sanh-tiền trong kiếp sông của
ta đây: ăn để sống, tranh dành nhau để nuôi
con thú, tức là thú hình của ta mà quên lảng
cả đại-nghiệp.Không có thảm trạng nào hơn
là ta quên mình hiểm-nguy, nên Chí-Tôn rất thảm
khổ thấy ta chìm đắm trong trường đời. Ta
thử tưởng-tượng như ta làm cha mẹ đương giũ
đại-nghiệp cho con, phần hương-hoả đó rất
vĩ-đại , trong thời buổi còn niên-thiếu cho
nó đi ra ngoại-quốc du-học, rồi lúc ở ngoại
quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia-nghiệp
ấy nó chưa được hưởng mà không ai giúp đở,
tự nó tìm kế làm thuê làm mướn với tài hay
mà sống. Nếu nó sống với nghề hay nghiệp giỏi
, với cái thiệt-tài của nó thì không nói gì,
ngặc một nỗi nó không sống được theo phương-pháp
quân-tử, nó phải hạ mình xuống đi ăn trộm
ăn cướp, bạo tàn, điếm-đàng, lương-đối,
làm đủ tội lõi với phương sống đê-hèn đó
của đưa tiểu-nhơn, thì ta thử hỏi ông cha hay
bà mẹ cầm cái đại-nghiệp ấy, sẽ đau đớn
thương tâm như thế nào chớ ?
Thật
ra Đức Chí-Tôn cũng dường đó, một đám nhơn-sanh
chúng ta đây, Ông đã nói : của mỗi đứa con
Ông còn giữ một đại-nghiệp, đại nghiệp ấy
không phải của Ông cho, mà là của tự mình chúng
ta tạo dựng, nhưng chúng ta lại nỡû quên phứt
nó đi , để cho thân-thể ra hèn-tiện, khổ-não,
tuân-chuyên, mà cái nghiệp kia ta lại không bảo
trọng được. Nếu đương đầu với mạng sống
mà ta không tự tỉnh, kiếm phương-pháp sống
cho chí thành, rủi tìm cái sống theo quỉ-pháp,
thử hỏi Đức Chí-Tôn đau đớn như thế nào
nữa ? Thầy đã nói “gia tài của các con Thầy
không bao giờ lấy cho kẻ khác, kỳ dư kẻ nào
chê bỏ”. Nếu chúng ta thất-nghiệp cả của
cải phụ-ấm do nơi ta đào tạo ấy mà ta trở
bước hưởng lại không đựơc là tại nơi ta
từ chối, tự ta quên mình mà tự bỏ cái đại-nghiệp
ấy. Ta sống một trăm tuổi có nghĩa gì đâu
? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, thì
dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều
gì ? Người chết ấy nói với ta rằng “ Tôi
đi đây là đến cảnh thiệt, còn quí ngài ở
lại đó là cảnh giả đa nghe”. Phải sáng suốt
đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ-nghiệp
thiêng-liêng, chớ đời sống phàm gian là khổ-hãi
đa nghe !
Nhơn-loại bao giờ mới tỉnh cơn mơ mộïng
tàn-ác mà tìm cho được cái sống thánh đức
cao siêu ? Vì cớ cho nên mỗi đứa chúng ta, dầu
lao-khổ, truân-chuyên, dầu nhiều phen bị khảo-đảo
khổ-hạnh, mà dường như tinh-thần ta thấy khoái-lạc
hơn nữa, là tại sao vậy ? Tại ta biết rằng
sự khảo-đảo hình xác nầy không phương gì
mà động chạm đến phạm-vi đại-nghiệp của
ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi, mà
hễ không động đến được thì ta biết rằng
ta có thể bảo thủ được, không sợ mất của
Thiêng-Liêng ta đã sẵn có.
Nếu cả mấy em biết nghe theo chơn-lý vô-cùng
vô-tận của thiêng-liêng hằng sống ấy, bảo-trọng
được cái cảnh thiệt-tướng ấy là hay hơn
là trọng cái sống của tính mơ-mộng. Mấy em
chỉ nên sợ một người mà thôi, ngoài ra dưới
thế-gian nầy không sợ ai hết. Kẻ nào có quyền
thế thì chỉ có giết chết thân ta là hết chuyện.
Còn các em, các con, phải sợ người mà chẳng
những có giết thi-hài của mấy em, mấy con, mà
còn tận-đọa tam-đồ chi-khổ, lại còn truất
cả đại-nghiệp của mấy em và mấy con nữa,
người ấy là Đại-Từ-Phụ vậy.
Tại
Đền-thánh thời Tý đêm 21 tháng 2 năm Mậu Tý
(31-03-48)
NHIỀU
KẺ ĐƯỢC GỌI MÀ ÍT NGƯỜI ĐẾN
Nói về chữ hiếu thật là quá rộng-rãi
bao-la, nên Nho-giáo nói không hết được. Ví như
có câu rằng : quạt nồng ấm lạnh, nghĩa là
khi cha mẹ nóng-nực thì quạt cho mát, khi cha mẹ
lạnh thì đắp cho ấm, đó là câu nói để tỏ
tâm-hiếu của con cái theo thế thường tình nhỏ
mọn mà thôi, chớ đối với Phật-Mẫu không
có một điều gì ta làm đặng đêøn công sanh
thành dưỡng-dục của cha mẹ mà gọi là hiếu,
bởi mình không phương thế trả cái hiếu ấy
đặng bao giờ. Vì vậy mà sách Nho ta không hết
được.
Aáy vậy, có hiếu tức là phụng-sự cho
cha mẹ đủ mọi phương diện theo hoàn-cảnh của
mình. Làm con mà muốn nói mình có hiếu mà Oång
mặc kệ Oång, mình mặc kệ mình, có khi cả đôi
tháng hoặc suôát năm không thăm viếng, đợi
tin chết đặng về để tang, bằng không chết
thì thôi, Oâng Bà sống tự họ, mình sống tự
mình.
Rủi nghe ai nói : ông Cha bị cảm nặng,
bị rét sau chú nó cô nó không về thăm thì lại
nói rằng : ” Tôi cũng lạnh gần chết tôi đây,
nhà tôi ở xa, ổng lạnh Oång ở nhà, tôi đi
đường xa đây tôi còn cảm nặng đau hơn Ổng
nữa “ . Đối với cha mẹ mình phải báo hiếu
trọn cả kiếp sanh cũng chưa vừa, càng khổ-não,
khó-khăn chừng nào thì tâm hiếu ấy mới quí,
mới trọng.
Đối với Chí-Tôn cũng thế, đêm hôm qua
đi cúng chỉ có một ít người thôi, đó là tâm
đạo theo Trời mưa nắng ! Lại đổ thừa đi
mưa sợ cảm sổ mũi nhức đầu. Tội nghiệp
Chí-Tôn rủi có lạnh không ai đến cho mà chờ,
mà người chắc không lạnh nên không cầu lụy
chi mình, chỉ mình không hưởng ơn riêng, sợ
buổi trúc hồn là khổ-não.
Trong Thánh-giáo Gia-tô có câu chuyện như
thế nầy: Đức Chúa Jésus Christ nói : Nhiều kẻ
được kêu mà ít người đến “ (Il y a beaucoup
d’ appelés mais peu de venus). ý nói rằng con cái
của Đức Chí-Tôn thì nhiều mà hạng đặng siêu
rỗi vẫn ít. Có người đó cũng có học-thức
nghe vậy thức mình nói : “ Đấng Cứu-Thế đến
siêu-rỗi thì siêu hết, chớ có lý nào kêu lại
không đến, Thánh-giáo nói làm sao vậy chớ ?
“ Coi bộ bất bình lắm.
Đến ngày lễ Đức Chúa giáng-sinh, tuyết
trời lạnh lắm, mà anh ta làm cũng làm chức trùm
hay cậu gì trong Đề-Thánh đó, nhưng đến buổi
lễ thấy đền thờ trống hơn. Oâng cha mới kêu
ông ta lại, vừa cười vừa nói rằng : “ Nhiều
người kêu mà ít kẻ đến là vậy đó ”. Anh
ta nhớ lại lời mình vấn nạn khi trước, bắt
thẹn-thuồng mắc cở.
Nếu nền Đạo của Chí-Tôn phải tùng theo
sự nồng lạnh mà thạnh hay suy, thì đây về
sau, Bần-Đạo tưởng nếu trời mưa miết ắt
diệt Đạo Cao-Đài nầy đặng có phải ?
Tại
Đền-Thánh đêm 23 tháng 2 năm Mậu-Tý (02-03-1948)
VẬN
MẠNG CỦA NƯỚC VIỆT-NAM HIỆN-THỜI
Ngày nay Bần-Đạo hạ-san một lần nữa,
bởi vấn-đề tương-lai, vận mạng của nước
Việt-Nam chúng ta tới giai-đoạn rắc-rối không
giải đặng cứu-vãn tình thế của nòi giống
Việt-Nam, bằng chẳng vậy thì như trước mắt
chúng ta thấy trường lưu-huyết vô lối mà tàn
sát chúng sanh rồi đó. Khi Bần-Đạo bị đồ-lưu
hải-ngọai (Madagascar) trở về thấy thời-cơ
đang rối-rấm, cuộc cờ nước nhà đã làm vào
lối bế-tắc không thể thắng được. Nhưng nhờ
đức-tin vững-vàng nơi Đức Chí-Tôn mà Bần-Đạo
tìm phương thế xóa bỏ bàn cờ nầy, sắp làm
bàn cờ khác giao cho họ giành, nhưng họ đi thế
nào mà tới đây lại bị bí nước nữa. Nước
bí nầy thật khó gở, mà cũng theo đức-tin quá
mạnh nơi Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo tìm giải-pháp
đặng thí-nghiệm, đắc thành chăng là do nơi
ở nhà cầu-nguyện cho giỏi, để tâm mỗi ngày
đừng cho ra, đem cả tinh-thần thống-nhứt lại
cầu-nguyện cho Bần-Đạo làm được đắc thành
kết liễu.
Tấn tuồng nầy rắc-rối chẳng khác như
Bần-Đạo nói bóng, rán tìm hiểu, trong gia-đình
Ông cha cầm cái giấy nợ từ lâu mà đòi không
đặng, nhà nghèo khổ, con cháu anh em tông-tộc
rầu buồn, có một chú ba nài (cornac) cũng cha
Hồ chú Nhẩn gì đó, đến dụ-dỗ nói rằng
: có thể đủ tài năng đòi nợ, rồi thâu-đoạt
giấy nợ đi, vị trưởng-tộc tính đòi đặng
giao cho nó cái chủ-quyền đó, rồi ra khỏi nhà
của mình, chú ba nài đòi không ăn thua gì cả,
đáo-để nợ đòi không được mà trong tông-đường
hao tốn tiền của mồ-hôi nước mắt nữa. Oâng
trưởng-tộc mới tính về đòi lại, cái chú
Ba nài kia nhồi-sọ cả tông-đường đó nghe lời
của chú. Oâng trưởng-tộc muốn về thì chủ
nợ nói “Ông hỏi cả tông-đường của Oââng.
Nếu nhìn cái quyền của Ông thì tôi trả cho”.
Còn đối với tông-đường đó thì chú lại nói
: “ coi chừng Oång về đòi rồi Oång lấy luôn
một mình Oång đa”. Hiện giờ phải giải-quyết
làm sao cho người thiếu nợ phải trả, làm sao
cho Ông trưởng-tộc đó minh-biện cho người phải
trả, hai vấn đề đó Bần-Đạo cần giải-quyết
trong chuyến đi nầy.
Tại
Đền-Thánh Đêm rằm tháng 3 năm Mậu-Tý (1948)
ĐÒI
LẠI CHỦ-QUYỀN CỦA VIỆT-NAM
Sau khi Bần-Đạo đã làm xong phận sự đối
với Quốc Việt-Nam, với chủng-tộc Việt-Nam
y như Thánh-ý của Đức Chí-Tôn đã hứa hẹn
từ trước, Bần-Đạo để lời cảm ơn toàn
thể con cái của Ngài.
Chư Chức-Sắc Thiên-Phong Thánh-thể của
Đức Chí-Tôn cũng vậy, và toàn đạo Nam Nữ
cũng vậy, cả thẩy đều giúp Hộ-Pháp một cách
huyền-bí, không phương gì tả đặng. Sự liễu-kết
cho tương-lai Quốc-gia nòi giống nầy, quả quyết
chắc-chắn do trong khối óc của Thánh-thể của
Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái của Ngài sản
xuất đó vậy, có một điều lạ chướng mà
Bần-Đạo không phương suy-nghiệm đặng, là khi
Bần-Đạo hạ san với giải-pháp mới trong tay,
cầm xuống kính thành thì Bần-Đạo tưởng rằng
sẽ gặp điều khó khăn, không thể giải-quyết
đặng với nhà chưởng-quyền của Đại-Pháp.
Trái ngược lại, Bần-Đạo thấy một tinh-thần
của một nòi giống công-chánh, đã hiển-nhiên
hiện trước mắt Bần-Đạo, là người đã thấu-đáo
việc mình đương hành-động và người ta đợi
mình nói việc mình đang làm đó, mà mình lại
không nói, không làm cho người ta hiểu. Có lạ
gì, tình-trạng của một nước đã đánh tan quân
chủ, lập nên dân-quyền làm đầu vạn-quốc,
về Pháp-chánh ấy mà nguời ta tức tại sao toàn
cả quốc-dân Pháp lại tự nhiên coi dân-chủ
là trọng, mặc dù muốn hay không mà Pháp-Chánh
buộc thì người ta phải tôn-sùng, thức là xu
hường theo đó. Lại nữa vạn-quốc còn để
mắt coi hành tàng của người ta là lẽ tự nhiên,
đó là điệâu-nghệ sở-trường, họ muốn đến
bảo-thủ mà khỏi mỉa-mai miệng thế, nhưng công-chánh
của nhà chưởng-quyền nước Pháp sẵn có, chúng
ta chỉ nhắc lại mà thôi. Đại nghiệp của nước
Việt-nam người Pháp đã lấy trong tay của nhà
vua, thì phải trả lại cho nhà vua, không thể
trả lại cho ai khác đặng, mà ít nữa trả cũng
có người đứng lên nói chớ. Người ta đợi
mình nói, mà mình không nói, trái ngược lại
Bần-Đạo đã đến giáp mặt và đã thấy thiên-hạ
hưởng-ứng nhìn-nhận chánh-lý lời nói của
mình là nước Pháp sẽ trả độc-lập và thống-nhứt
cho nước Việt-Nam.
Lạ lùng thay ! Con đường khó mà thành dễ.
Còn bây giờ tới đoạn đường mình tưởng dễ
mà thành ra khó, là nhà vua của mình là Bảo-Đại
chẩn-chờ chưa quyết-định, làm khó, trở ngại
người ta, nghĩ cũng buồn cười, nhưng dù sao
Chí-Tôn cũng đã định sẽ kết-liễu như Thánh-ý
của Ngài, không khi nào sai-chạy đặng.
Bần-Đạo đã thường giảng rằng : dầu
cá-nhân, dầu gia-đình, dầu quốc-gia xã-hội,
dầu cho toàn-thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu
nầy phải chịu trong khuôn luật quả kiếp của
tòa chánh-trị Ngọc-Hư Cùng, là tòa Tam-Giáo đang
nắm quyền Càn-Khôn Thế-giái rất nghiêm khắc
và oai quyền, oai-lực ấy vô đối, không quyền-năng
nào đối thủ đặng. Trên quyền năng ấy có
mấy vị Phật thuộc Cực-lạc Thế-Giới vì chủ
quả kiếp, nên dù cho Chí-Tôn cũng không sửa
cải định án của họ đăïng.
Ta thấy ngày nay, toàn quốc-dân Việt-Nam
đương oằn-oại trong sự thống-khổ cốt-nhục
tương-tàn, ta thử xét cao hơn nữa, thì ta thấy
quả-kiếp dựng hình-tướng các đời Đinh, Lê,
Lý, Trần, Lê tới ngày nay ta thấy giống-nòi
Việt-Nam gây ra biết bao nhơn-quả. Ta xem cộng
thử Việt Hớn mà đoán buổi sau nầy nào là
Tây-Sơn, nào là Mã-Nguy, hễ có vay ắt có trả,
tánh-tuồng ngày nay diễn lại là tấn-tuồng tổ-tiên
đã làm hồi trước. Một Quốc-gia diệt Tây-Sơn
thế nào, thì ngày nay cũng diễn lại y như thế
ấy. Quả-kiếp đã xuất hiện rồi, ta trách ai,
ta phiền ai, ta than khổ với ai, trước đã làm
nay phải chịu ảnh-hưởng hay không cũng nguy khốn
mà chớ.
Nếu Bần-Đạo không thủ pháp cho oai-nghiêm,
thì cũng chẳng khỏi sự tranh-quyền đoạt-vị
trong cửa đạo nầy. May thay ! Bần-Đạo có đủ
oai-quyền xoay trở các quả kiếp ấy , làm cho
Thánh-thể của Đức Chí-Tôn khỏi bợn nhơ quả-kiếp,
mà tránh được Thiên-điều. Rồi đây, chúng
ta mở mắt coi lịch-sử của Đời và lịch-sử
của Đạo, cũng như hình với bóng, y như nhau
không phương nào khác được.
Tại
Đền-Thánh Đêm Mồng 1 tháng 4 năm Mậu-Tý (1948)
QUỐC-ĐẠO
KIÊM TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO
NAM-PHONG
THỬ NHỰT BIẾN NHƠN-PHONG
Bữa nay Bần-Đạo giảng một vấn-đề
trọng yếu nhưng chẳng giảng một bữa mà đủ,
nên cần phải tiếp tục nhiều lần, Bần-Đạo
mới giảng dứt. Sau một buổi lễ cúng rồi,
thì giờ lên giảng-đài rất ít. Bần-Đạo phải
thúc nhặt lại là vì mỗi lần hành lễ rồi
cả thảy đều mệt. Bần-Đạo sẽ liệu phương
sắp-đặt lại là giảng trước giờ hành lễ.
Theo trong bài thi của Đức Chí-Tôn gởi cho Hoàng-Đế
Bảo-Đại có hai câu yếu-trọng cho nền Thánh-giáo.
Chí-Tôn hơn hết là hai câu nầy :
“
Quốc-Đạo kiêm triêu thành Đại-Đạo
Nam-phong
thử nhựt biến nhơn-phong”
Hai
câu này chúng ta hiểu rằng, Đức Chí-Tôn muốn
nói với Ngài Bảo-Đại nền Quốc-Đạo của
Người, ngày nay đã thành Đại-Đạo, trong chữ
Đại-Đạo bao trùm cả đức-tin loài người,
câu thứ nhì “ Nam phong thử nhựt biến nhơn
phong “ chữ phong không phải là gió, nó có nghĩa
lý lắm ! phong đây là phong-tục, Chí-Tôn muốn
nói phong-tục nước nhà của Người sẽ làm nền
phong-hóa của loài người, hai câu ấy chúng ta
nên đoán xét, suy-gẫm coi Đức Chí-Tôn vì thương
mà quá lời không ? Thảng như Tôn-giáo nào kích-bác
họ sẽ nói Chí-Tôn tự-tôn, tự-trọng, hay là
họ có đức tin hơn nữa họ có thể bàn luận
rằng :
Chí-Tôn vì quá thương mà nói. Vậy chúng
ta thử coi nền Quốc-Đạo của chúng ta sẽ trở
nên nền Tôn-giáo của toàn-cầu, chăng ? Và phong-hóa
chúng ta có thể thay thế cho cả nhơn-loại trên
mặt địa-cầu nầy chăng ? Chúng ta nên quan-sát,
suy-gẫm rồi tưởng-tượng coi có thể đặng
vậy không ? Có thể được và Bần-Đạo tin quả-quyết
rằng nó phải như vậy đó. Tội nghiệp thay !
Một sắc dân đã từng bị nước Trung-Hoa khắc-phục,
tuy chịu trong hoàng-đồ, chúng ta có một lịch-sử
trong 4.000 năm tranh đấu, vẫn tự-do, độc-lập,
không chịu tùng mạng lịnh của Trung-Hoa. Nước
chúng ta như cái dải áo, còn Trung-Hoa như cáí
áo, chúng ta không có lý lẽ gì từ-chối tinh-thần
một sắc dân anh-dũng ấy, nó phải nương cái
năng-lực ở chỗ nào ? Aáy là nương tinh-thần
Đạo-Giáo nước nhà của nó, chúng ta phải chịu
ảnh-hưởng trọng-hệ hơn hết của hai nền Tôn-giáo
Trung-Hoa và Aán-Độ, Nho-giáo Trung-hoa dạy chúng
ta tu cho được chi-thiện, chí-nhơn, Phật-giáo
bên Aán-Độ dạy chúng ta tự tu đặng đạt đại-từ
đại-bi. Hai cái khối tinh-thần hiệp lại nhau
làm một nền Tôn-giáo, để được bảo-trọng
tinh-thần quốc-tùy của mình.
Chí-Tôn đã nói cùng người Pháp : Từ thử
một sắc dân ấy chỉ biết nô-lệ chưa biết
vi-chủ, vì vậy mà ta đến bồi thường sự bất
công ấy, Đạo-Giáo đã dạy chúng ta chi-thiện
chí-nhơn, đại-từ đại-bi, tinh-thần đó vậy,
hỏi vậy ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng
? Tôi dám chắc giọt Cam-lồ ấy, tinh-thần loài
ngươi đã khao-khát, để bảo-toàn sanh-mạng,
bằng chẳng vậy thì nhơn-loại phải tự-diệt
mà chớ.
Tại sao tự-diệt ? Chúng ta thấy trường
hỗn-độn một nền văn-minh gồm có tinh-thần
duy vật mạnh-mẽ mà chớ, cái chánh-sách của
loài người chạy theo duy-vật đương-nhiên thì
mặt địa-cầu chưa hòa-bình gì họ chỉ biết
tranh sống với duy-vật, chớ chưa sống với tinh-thần
chí-thành, cái quyền năng của Đạo-giáo Gia-tô
mạnh-mẽ dường nào mà ngày nay phải thoái-bộ
trước năng-lực của toàn-cầu, còn đạo-giáo
mà đến thay thế đặng cái năng-lực ấy, rồi
đây cũng chưa chắc quyết thắng tấn tuồng tương-lai,
mà vật-chất sẽ dẫn đến con đường tử lộ
không phương cứu-chữa, duy có Đức Chí-Tôn đến
cứu loài người mà thôi.
May thay ! Trong nòi giống tổ-phụ chúng ta
để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày
nay lấy ra làm món thuốc cứu cả tinh-thần nhơn-loại
trong toàn-cầu nầy và trong tủ thuốc thiêng-liêng
đó để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương
cứu khổ chẳng khi nào sai chạy. Nhưng vì chẳng
đủ năng-lực để cứu-thế, đem hoàn thuốc
hằng sống ấy bảo-tồn sanh mạng loài người.
Tại
Đền-Thánh Đêm Mồng 5 tháng 4 năm Mậu-Tý (1948)
GIẢNG
TIẾP CÂU THÁNH NGÔN
"QUỐC-ĐẠO
KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO"
Bần-Đạo ngày nay giảng tiếp câu Thánh-ngôn
“ Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo” của
Đức Chí-Tôn , giảng hôm kỳ lễ vừa rồi, Bần-Đạo
để đại khái đề-mục cho toàn cả tiềm tàng
thử coi nền Tôn-giáo của chúng ta sẽ biến tướng
ra thành Đại-Đạo là chỗ nào ? Nó đã đem cái
gì cho nhơn-loại về mặt tinh-thần Đạo-đức
mà biến ra đại-đồng. Chúng ta đã ngó thấy
nguyên-do Đạo-giáo bao giờ loài người phải
chung họp lại với nhau, nào xã-hội, nào
là gia-đình, dầu trong buổi ăn lông ở lổ loài
người chẳng hề qua mặt luật thiêng-liêng đó
đặng. Buổi ấy, tất cả có bí-pháp, hội-họp
gia-đình; Đức Chí-Tôn duy có một mình, Ngài
phân ra mới có Phật-Mẫu, Ngài phân ra đệ nhị
quyền hiệp tại đệ nhứt quyền, chủ quyền-năng
tạo ra Càn-Khôn vũ-trụ để lập gia-đình cho
loài người đó vậy. Nhờ Chí-Tôn phân tánh là
bí-pháp lập thành xã-hội đó, chúng ta đã hằng
tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp
lại mà biến sanh được, giải rõ là trống mái,
đực cái hay nam nữ vậy, nó tương-liên trước
mặt chúng ta, hoặc một cách âm-thầm bí-mật,
vậy loài người bao giờ cũng có Xã-hội nhơn-quần,
gia-đình, vì mặt luật buộc như vậy, lời chúng
ta thường nói : “ chưa ai ở đất nẻ mà chun
lên “. Mỗi cá nhân đều có nguyên do căn-bản.
Hại thay ! Xã-hội bình-quyền tức nhiên mặt
địa cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất
ấy nương với quyền năng tinh-thần mà loài người
đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mẩu
nhiệm: của Tạo-đoan, đời có triết lý, khoa
học làm cho đảo lộn tinh-thần, họ làm rồi
họ tự kiêu là làm chủ cả cơ-quan bí-mật của
loài người, tự khoe mình là trời; tự kiêu,
tự đắc, tự tôn, tự đại, chúng ta đã thấy
họ tự chối mọi lẽ thiên nhiên. Ngày giờ nhân-loại
xu-hướng theo phương-pháp vật hình, quyền-năng
khoa-học, lý-thuyết quái-gỡ dị-đoan ấy, làm
cho tinh-thần loài người ngu-xuẫn, cho rằng không
Trời, không Đất, tức nhiên không Đạo, không
người, không xã-hội, không gia-đình; sống như
con vật chung hiệp với nhau đồng sống vậy thôi.
Sống không quyền-lực tinh-thần vi-chủ, không
thể nào nhơn-loại tự bảo-tồn cho dân chúng
đặng mà tránh khỏi nạn tiêu-diệt, họ coi mạng
sống của loài người là một vâït-dụng, để
hưởng hanh-phúc sung-sướng, lường-gạt, buộc
tinh-thần người làm nô-lệ cho vật hình, chúng
ta thấy tấn tuồng nguy-ngập, xô đẩy loài người
đi đến diệt-vong. Tổ phụ chúng ta sống từ
Thượng-cổ đến nay 3.000 năm, một vị chí Thánh
để lưu lại cho đời mực thước niêm luật
xã-hội, nhơn-quần, Ngài định phải có gia-đình,
có Tông-tổ, có xã-hội, Ngài lập pháp trọn
trong điều ấy, từ thường dân chí Vương đế,
không ai ra khỏi mặt luật.
Tổ-phụ chúng ta chịu Đạo-giáo để lại
sự thờ phượng tông-tổ gia-đình chúng ta, tức
nhiên thờ kẻ quá vãng, ta coi người chết như
sống, chúng ta tôn-sùng mạng sống của con vái
người, vì loài người là thiên-hạ là trời.
Chúng ta biết nhìn nhận Trời trên mặt
địa-cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời, thức
nhiên thờ loài người đó vậy. Đạo-giáo chúng
ta đêû lại 2.000 năm, vậy điều trọng-hệ là
thờ Trời và thờ Người, buổi hổn độn nầy,
nhơn-loại vì khoa học mà đi đến một đường
tử lộ. Chúng ta cần đến đạo-giáo phô trương
trên mặt địa cầu nầy cho nhơn-loại họ biết
tự tỉnh để tru cả tánh loài người lại, hưởng
hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.
Bần-Đạo giảng lần trước, tiếp kỳ
nầy kết luận là hườn thuốc thờ Trời và
thờ Người, thản vạn loại phản phúc mà còn
chối nữa thì chịu tận-diệt mà thôi.
Tại
Đền Thánh Ngày 14 tháng 4 năm Mậu-Tý (1948)
GIẢNG TIẾP CÂU THÁNH NGÔN
"QUỐC-ĐẠO
KIÊM TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO
NAM-PHONG
THỬ NHỰT BIẾN NHƠN-PHONG"
Hôm nay, Bần-Đạo giảng tiếp Thánh-ngôn của Thầy câu
:
“
Quốc-đạo kim triêu thành Đại-đạo,
Nam phong thử nhựt biến nhơn phong”.
Chúng
ta quan sát coi nền Quốc đạo của chúng ta có
phương thế gì để làm một nền Tôn-giáo cho
toàn cầu ?
Đương nhiên bây giờ, cái tinh-thần của
loài người chỉ xu-hướng theo trí thức đương
nhiên của họ. Họ có thể được cái hành-vi
bí-mật thiêng-liêng mà lập nên cơ giới phi-thường
ở mặt địa-cầu nầy. Nhưng cái cơ-giới ấy
do nơi hóa-công sản-xuất ra tâm-não của kẻ
trí-thức thông-minh đặng bảo-vệ sanh-mạng của
loài người và lập hanh-phúc cho loài người.
Trái ngược lại, những hạng trí-thức
thông-minh ở trong thời-đại nầy, đều nảy
sanh do một tâm lý khoa-học ấy trở lại tàn
sát sanh mạng của loài người, đó là đến những
cảnh bạo ngược. Hơn nữa, trước mắt chúng
ta đã ngó thấy hai trận giặc trên hoàn cầu
đã giết hại-nhau, nên hiện giờ trên mặt địa-cầu
đã tự giết chết bao nhiêu mà kể.
Cái trí-thức tinh-thần ấy có làm gì cho
đồng-bào và thời đại nầy đặng hanh-phúc
chăng ? Trái lại, nó đem cho đời một tấn tuồng
thống khổ trước mắt cả thảy. Bần-Đạo chỉ
nhắc lại cho con cái của Đức Chí-Tôn thấy
rõ, nhơn-loại hiện-nay đã xu-hướng theo hạng
tri-thức tinh-thần khoa-học thì có kể đâu là
thương chủng tộc, còn ngày nay đã gây ra biết
bao tấn tuồng thê lương thảm-đạm, nhơn-loại
hết yêu ái nhau, mà trái lại người với người
họ đối nhau còn quá hơn thú dữ, người với
người mà họ chưa biết tôn trọng mạng sống
với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau
đặng tìm hanh-phúc.
Mặt địa-cầu nầy, sanh ra các đảng phái
nào thì chỉ biết tương tàn tương-sát với nhau
mà thôi, họ không kể gì là sanh mạng của con
người, họ chỉ biết lấy xương cốt của loài
người mà lập đài danh-dự của họ thôi. Cái
mục đích bạo-tàn của họ, chúng ta đã thấy
hiển nhiên trước mắt, cái thảm khổ của đời
mà chưa hề có ai thấu rõ tâm-lý khổ-não của
đời, đem lòng thương hại đến nhơn-sanh.
Từ Phật-giáo ra đời đến bây giờ , tinh-thần
của loài mới biết thương hại cho nhau, một
nơi nào có một tâm-hồn ưu-ái thì các Tôn-giáo
đương nhiên trước kia là một huờn thuốc để
cứu chữa cái bệnh thảm-khổ của loài người
nơi mặt địa-cầu nầy, nhưng nay huờn thuốc
cứu chữa ấy để tại mặt thế nầy, nó không
thể trị đặng một bịnh tinh-thần, khoa-học
đương nhiên của họ đã sản xuất trên mặt
địa cầu nầy. Thử hỏi chúng ta có đem gì hanh-phúc
cho họ không ? chúng ta chỉ biết đem lại cái
nhơn-nghĩa mà lập nền hanh-phúc cho họ thôi.
Tuy vậy, nòi giống của chúng ta là một
sắc dân chiến đấu, một sắc dân oanh-liệt,
từ xưa tổ-phụ ta biết hiền lành, biết kính
trọng, biết thương yêu, kính trọng mạng sống
của loài người lắm, cái tánh thông-thái, cái
tánh thông-minh của tổ-phụ của chúng ta sản
xuất trong một nguồn cội từ lành, không điều
gì đem đến trước mắt tổ-phụ của chúng ta,
mà tổ-phụ chúng ta tìm tòi không đặng.
Nước Việt-Nam ở trong khoản đất phì
nhiêu nên tổ phụ chúng ta biết trọng sanh mạng
con cái của Trời, biết nhận nhơn loại là anh
em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nhìn
câu : “ Từ hải giai huynh đệ”; tổ-phụ ta
biết yêu thương nhơn-loại, bất kỳ là một
sắc dân nào, một nòi giống nào có trí-thức
cao-minh làm cho loài người đặng hanh-phúc thì
tổ-phụ ta kỉnh trọng tôn-thờ vậy. Một nền
Tôn-giáo mà đến nước Việt-Nam ta truyền bá
thì tổ-phụ kỉnh trọng tôn sùng ngay. Nên mối
Đạo nào vào nước Việt-Nam ta được kết quả
mỹ-mãn. Lòng mộ Đạo của tổ-phụ ta trước
kia lấy lương-thiệnlàm căn bản, lấy nhơn-nghĩa
làm môi giới, cái sự tôn nghiêm của tổ-phụ
từ thử hiển nhiên chúng ta đã ngó thấy.
Trong nước hiện giờ thì có các đạo-giáo
thanh-liêm chánh-trực đang làm cha mẹ cho dân,
cái tinh-thần tạo hanh-phúc cho dân, một trang
anh-dũng biết bảo-trọng nền quốc túy, nâng-đỡ
nước nhà, biết tôn-sùng nhơn-nghĩa, chúng ta
đã ngó thấy các đạo-giáo của chúng ta đem
cái nhơn-nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm-lý
của loài người là có thể tri đặng cái tinh-thần
bạo ngược của họ.
Nhơn-loại vì quá ỷ tài sức nương theo
cái tinh-thần khoa-học mà làm mất cái tinh-thần
căn-bản nhơn-luân. Nên nay ta đem cái Đạo nhơn-nghĩa
mà thức tĩnh loài người, đặng cho họ nhìn
với nhau vì danh nhơn-nghĩa hầu thương yêu nhau,
dắt nhau đi đến chủ-nghĩa đại-đồng.
Cái nền nhơn-nghĩa của chúng ta, nó có
thể làm môi giới cho các chủng-tộc trên thế-giới,
đạo nhơn-nghĩa của chúng ta là một căn bản
của quốc-thể của nước Việt-Nam và có thể
thành quốc-đạo được.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý mồng 5 tháng 5 năm Mậu-Tý
(11-6-1948)
GIẢNG TIẾP CÂU THÁNH NGÔN
"NAM
PHONG THỦ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG"
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp câu thánh-ngôn
của Đức Chí-Tôn :
“
Nam phong thử nhựt biến nhơn phong”.
Bữa
trước Bần-Đạo đã giải rõ đại công của
nền nhơn luân phong-hóa của ta. Nay ta sưu-tầm
căn-nguyên của Nam phong coi do đâu sản xuất.
Bần-Đạo đã giảng là cốt-yếu muốn thực
hành phong-hóa nhà Nam, phải do nơi Nho tông mà
làm căn-bản.
Thời-kỳ nầy Chí-Tôn đến, lấy Nho-tông
để chuyển-thế và thi-thố cho cả toàn-cầu
vạn-quốc một triết lý tối-tân, đặng chỉnh
dốn sửa đương những tệ-tục tồi-phong của
nhơn-loại mà đem vào thánh-chất của con người.
Đức Chí-Tôn đã tìm định đến đặng sửa
đương. Vậy ta nên tìm hiểu Nho-tông là thể
nào ?. Đã cho ta vật gì ? Có đủ phương tiện
mà chuyển thế đặng chăng ? Trước hết ta phải
biết trong tay ta có khí-cụ gì rồi mới có đủ
can đảm xông pha ra chiến-trường quyết-thắng,
tìm xem coi nhơn-loại đang thiếu thốn điều gì
và xem coi nhơn-loại đang tìm kiếm vật gì, mà
vật ấy chúng ta có hay không ?
Nói đến Nho-tông thì chẳng còn gì phải
biện thuyết nữa; vì đã có chẳng biết bao nhiêu
là hiền-môn, thánh-tích để lại từ thử. Kể
từ ngày Đức Khổng-Phu-Tử giáng thế đã hai
ngàn năm trăm năm, nếu ta suy xét cao xa hơn nữa
thì ta thấy Đạo-Nho phát sanh từ vua Phục-Hi
là tối cổ hơn hết. Ta không thể tìm đâu xa
hơn nữa, duy biết rằng Đức Khổng-Phu-Tử học
Nho của ông Châu-Công, đặng chỉnh đốn lại
Đạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy vậy.
Đạo Nho đã làm được những gì ? Ta thấy
Đạo Nho của chúng ta có Hội-Thánh mà Hội-Thámh
ấy bí-ẩn khéo-léo lạ-lùng duy có một người
có thể kiến-thiết quốc-phong của một nước
mà thôi, chớ không đủ năng-lực chuyển cả
tâm-lý toàn cầu được. Vì sự khuyết-điểm
ấy, Đức Chí-Tôn mới đến lập Hội-Thánh,
đền thờ của Ngài kêu là Cao-Đài, danh từ đó
chỉ rõ đền thờ cao-trọng của Ngài tại thế
nầy, tiếng Pháp gọi là Haute Éùglise (nghĩa là
Đức tin cao-trọng).
Hỏi Hội-Thámh của Đạo khổng lập quốc
thế nào ? Ta thấy Hội-Thámh của Đạo Khổng
trong gia-đình làm gia-pháp biến sanh ra phong hóa
gia nghiêm đó vậy. Người chưởng-quản gia-đình
tức là giáo-sư Hội-Thánh của Đạo Khổng tức
là ông cha, nên thiên hạ thường kêu là chủ-gia.
Trong hương-đảng có Hội-Thánh của hương-đảng,
theo cổ tục thì Ông Hương-chủ là chủ của
Hội-Thánh Hương-đảng, còn chức Hương-cả và
đại Hương-cả là người ta mới bày ra sau đây
mà thôi. Trong hương-lân ngày xưa, chức Hương-chủ
là lớn hơn hết vậy. Khởi đầu trong gia-đình,
rồi mới tới Hương-lâøn, rồi mới ra đến
quốc-gia, người chủ của quốc-gia ấy là nhà
Vua. Ôâng cha ta trong gia-đình, ông Hương-chủ
trong Hương-thôn, ông Vua trong nước, cả ba người
ấy giữ ba giềng mối đạo, phụng thờ ba Tôn-giáo.
Tổng số ba Tôn-giáo ấy lại là Nho tông.
Ôâng cha trong nhà thì thờ tiên tằng tổ
khảo của Tông môn, Ông là giáo-sư, là thầy
cả trong gia-đình. Oâng Hương-chủ thì thờ chư
thần tức là cả công thần vì nước mà hi-sanh
tánh mạng, được nhà Vua ân tứ làm chủ Hương-làn,
nên trong làng ta chỉ thấy có đình thờ thần
thiên phu phụng tự mà thôi, nên ông Hương chủ
là thầy Cả của làng. Nhà Vua thì thờ Đức
Chí-Tôn tức là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, ta thấy
sự tế tự đấng Chí-Tôn ấy lưu-truyền từ
thời thượng cổ, nên hằng niên mới có tế
Nam-giao, đó là tế Đức Chí-Tôn vậy.
Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong-hóa
nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng
tự, nếu đoán chắc là thờ âøm-chất của tổ-tiên
ta biết phụng thờ Đức Chí-Tôn, cái thâm tình
ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay mà Ngài
mới đến đặng đền bồi ân-nghĩa ấy lại
có lẽ. Thế thì Ngài đến vì Tổ-tiên ta đã
giao mối thâm-tình nồng-hậu, chớ chẳng phải
vì sự tình cờ mà Ngài đến nước Việt-Nam
này đâu. Trong phong-hóa của ta gồm có : Phong-hóa
của nhà, phong-hóa của làng, phong-hóa của nước,
tức là phong-hóa chung của Xã-hội nhơn-quần
Việt-Nam ta đó. Bây giờ chúng ta khảo cứu coi
Nho-Tông đối với xã-hội là gì ? tức nhiên
ta thấy là luật-pháp, tuy rằng 86 năm nay bị
ảnh-hưởng của văn-minh Aâu châu, chúng ta lãng
quyên nền phong-hóa tốt đẹp của ta mặc dầu,
nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.
Chí-Tôn đã đến, Đạo Nho có thất-thập-nhị
Hiền và tam thiên đồ-đệ, Chí-Tôn lập Hội-Thánh
có nhứt Phật, tam Tiên, tam thập lục Thánh, Thất-thập
nhị hiền và tam-thiên đồ-đệ, rõ ràng là Hội-Thánh
của Đạo Nho đó. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài
áp dụng nền chánh-trị của nhà Châu đặng lập
chánh-trị của Đạo, làm cho cả cơ quan yếu
thiết của Đạo Cao-Đài ra thiệt tướng, đặng
đủ năng lực chuyển thế, ta không có gì mà
nghi ngờ nữa cả.
Gia-nghiêm của ta lập thành do phong-hóa của
tổ-phụ để lại có những gì ? Căn-bản gia-nghiêm
hay gia pháp do nhơn-luân chỉ đạo, nên lấy nhơn-luân
làm chuẩn đích, mà nói về nhơn-luân thì mỗi
người đều biết. Khởi đoan là hôn-phối, việc
vợ chồng đối với nhau để trọn quyền của
ông chủ-gia định liệu là người chồng, sau
quyền chủ gia ấy lại có quyền nội-trợ để
cho người vợ, hai quyền ấy vô đối. Ta thấy
lối 100 năm trước đây, quyền của cha bảo con
chết cũng phải chết, không phải bất hiếu như
ngày hôm nay của những kẻ học đòi theo lượn
sống tự-do văn-minh vật-chất, còn trở lại
muốn làm chủ cha mẹ. Không, Nho pháp không cho
có quyền lực ấy bao giờ. Nho-pháp không chịu
cho cái giọt máu, cái giọt máu khí-huyết, do
vật ấy tạo hình, lại muốn làm chủ vật tạo
đoan ra nó, như vậy là sai luật thiên-nhiên của
Chí-Tôn dĩ định. Hỏi vậy cái quyền nắm Đạo
nhơn-luân trong tay của ông cha ta quan-sát theo con
mắt của đời văn-minh nầy thì nói là quyền
áp-bức có phải? Hại thay ! Nếu quyền ấy không
chỉnh đốn lại phong-hóa của con người đem
vào khuôn-khổ thuần-phong mỹ-tục thì cả nhơn-loại
trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng
ứng với sự tự-do mà đi đến địa vị con
vật, là mất hết tính chất làm người đó.
Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần
cha mẹ là những người đã trọn kiếâp sanh
lịch-duyệt thế tình, mà sự lịch-duyệt ấy
còn vốn thiếu ; nên ta hằng thấy cảnh tượng
của sự tự do, định phận ấy đã làm bại-hoại
thân hình, tâm-lý của con người tại thế thế
nào rồi, điều ấy không chối cải được.
Bần-Đạo buổi ấu xuân bị ảnh-hưởng
của tự-do, thấy sự kềm thúc của gia-nghiêm
lấy làm khó chịu. Khi ấy Bần-Đạo đang học
Pháp-văn. Lúc về thăm Ông thầy Nho, khi đến
đó Ông mới tường thuật tình cảnh bối rối
gia-đình của một vị quan viên bà con xa với
Bần-Đạo. Vì vợ làm khổ tâm cho chồng là vị
quan viên ấy, đến nỗi gia-đình phải tan nát.
Oâng tường thuật câu chuyện này vừa xong thì
lại than rằng: “ Hai thay! Vì buổi trước không
phải cha mẹ định hôn, mà tự do kết-hôn nên
ngày hôm nay mới ra đường ấy “. Thừa dịp
ấy Bần-Đạo mới vấn-nạn Ông, Bần-Đạo hỏi
rằng : gia pháp của ta nghiêm-khắc quá lẽ, đến
sự chăn con như chúa ngục chăn tù, nếu không
có quyền tự-do thì con sẽ tối-tăm ngu-dốt ?
Ông lại trả lời rằng: ” không, không phải
gia-pháp áp-bức làm cho con mất tự-do đâu, mà
trái lại người đó có quyền lắm chớ, đến
nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà
“ tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử
tùng tử “ Quyền của con còn có thể thế cho
quyền của cha đựoc rồi, thì có áp bức chỗ
nào đâu ? Chỉ có kềm-thúc tâm-tình của con
cho nó đừng thương ai trước khi thương vị hôn
phối của nó, để cho nó đầy đủ tình-ái mà
thương người vợ tương-lai của nó vậy thôi.
Muốn định hôn cho con thì trước hết cha mẹ
đã lựa chọn tâm-lý của vị hôn thê coi có
hòa hiệp với tâm-tình của con mình không, chứ
chẳng phải xem-xét tánh đức mà thôi, mà cha
mẹ là người lịch-lãm thế tình, nên thâm hiểu
cả tâm tình của đôi lứa, dầu cho đôi lứa
chưa biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ
cùng nhau, đồng-tâm đồng-chí thương yêu nhau
đặng.
Đạo nhơn-luân khởi thủy từ hôn-nhơn,
mà nho-phong đã định cho cha mẹ vi-chủ, nếu
để cho đứa con vi chủ thì chỉ có hư mà thôi,
mà gia-đình hư tức nhiên sẽ có ảnh-hưởng
tới xã-hội vậy.
Đây là Bần-Đạo duy mới nói có gia-nghiêm
mà thôi, vậy bây giờ chúng ta luận về tâm-lý.
Sự hám-vọng tự-do quá lẽ, mà đưa tâm-lý con
người đến mức khả ố, nguy-hiểm không thể
tả được. Ta thấy nó gieo trên mặt địa cầu
nầy một triết-lý vô lối là triết lý: vô phụ,
vô quân, không quê-hương, không gia-đình, bởi
vậy ta mới thấy thế tình con sanh ra ngỗ-nghịch,
không tuân phụ-huấn. Thảng như ngoại nhơn có
hỏi đến tại sao sao đã lớn, đã khôn, mà không
biết nghe lời phụ-huấn cư-xử với đời vô
đễ vô nhơn không còn tình thương nhơn-phẩm,
thì chư đạo-hữu biết kẻ bất hiếu kia sẽ
trả lời ra sao không ? Nó trả lời rằng : Tôi
không xin họ sanh tôi, tôi không muốn họ sanh
tôi, chẳng qua họ vì lỡ mà sanh tôi nên họ
phải nuôi tôi đó thôi, Oâi ! Aân-đức thâm sanh
thật không còn có nghĩa gì hết.
Những tệ-tục ấy nếu Đạo Cao-Đài không
xuất hiện đặng chỉnh-đốn lại, sợ cả nhơn-loại
trên mặt địa cầu nầy sẽ thành ra ác thú.
Tại
Đền-Thánh ngày 12 tháng 5 năm Mậu-Tý (18-6-1948)
BẢO
THỦ THUẦN PHONG MỸ TỤC
Hôm
nay, Bần-Đạo tiếp tục khảo-cứu phong hóa của
dân-tộc Việt-Nam đối với phong-hóa các dân-tộc
khác, cốt yếu xem coi chúng ta có phương gì chỉnh-đốn
đạo nhơn-luân của họ đặng ? Mấy kỳ trước
Bần-Đạo đã giảng rằng : Đạo nhơn-luân khởi
đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con,
có cha con mới có dân-tộc lập thành quốc-gia
xã-hội.
Đương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn-luân
của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy
đã nghiên-đổ và lung-lạc tất cả, nhất là
bên Aâu-châu, đạo nhơn-luân của họ tồi-tệ
là thường, Bần đạo thấy rất nên bại-hoại,
từ thử đến giờ chưa ai nghe nói cha lấy con,
anh lấy em, mà bên Aâu-châu thường có xãy ra
điều ấy. Hại thay ! Trãi qua tám chục năm nay
những tánh-tính yêu-nghiệt ấy lại truyền sang
đến nòi giống chúng ta, ngày nay vẫn còn thấy
tấn tuồng đó nửa, yêu-nghiệt đã biến tướng
biểu sao thiên hạ không lọan được, Đạo nhơn-luân
đã vậy, tinh thần của con người không biết
phẩm-vị, nhơn-cách gì hết, nên hột giống ác
nghiệt biến sanh ra mãi thôi. Thành-thử nhân-loại
ngày nay quá bạo ngược, tương-tân tương-sát
lẫn nhau, người đối với người còn giữ tợn
hơn thú đối với thú nửa, vô nhơn vô đạo,
cha không xứng phận cha, con chẳng biết đạo
con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, chồng không
nên chồng, vợ không đáng vợ, nền luân-lý của
nhơn loại trên măït đia-cầu nầy không còn
có khuôn-khổ gì hết. May thay ! Đạo nhơn-luân
của tổ-phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh-hưởng
của văn-minh ngoại-bang làm cho ô-uế đôi chút,
nhưng nhờ Đức Chí-Tôn đến phổ truyền nền
chơn-giáo của Ngài nơi đất Việt-Nam nầy, có
thể còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn-mẫu
cho toàn cả sắc dân nơi địa-cầu nầy bắt
chước theo nữa.
Đạo làm chồng, chúng ta có gương xưa tích cũ,
nhờ nơi Nho-tông rất oai-quyền, nghiêm-khắc,
mặt luật của nó kềm chế tâm-lý của con người.
Đạo Nhơn-luân của nhà Nho ta có cái vẽ đẹp
thiên-nhiên, ai tiêm-nhiễm cũng đến sanh mê-mẫn,
cảm-kích, vậy mới tạo tâm-lý theo Nho-tông làm
hình-trạng tinh-thần Nho-đạo, khuôn tuồng đó
duy ở Việt-Nam mới có, còn các Tôn-giáo khác
hình-tướng lại biến ra làm khuôn-mẫu riêng
trên sân khấu đời, nên đạo Nho-tông thâm-nhập
vào cốt-thể của cả thảy con người đặng.
Bao nhiêu gương để chỉnh đốn đạo nhơn-luân,
cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng
là trọng, đặng sửa đương cho nhau lập mình
lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ chồng ông
Châu-Công, Ngài là Tể-Tướng đầu triều mà
bà vợ vẫn lo canh-cửi làm ăn nuôi mẹ chồng,
một vị mạng-phụ phu-nhơn mà cư-xử được
như vậy thật đáng quý. Kịp đến khi Ông hồi
hưu, buổi già cả vợ chồng đối với nhau như
chủ khách. Nước ta lại có bà vợ của ông Phan-Thanh-Giản
Ông xuất sĩ rồi bận việc triều-chánh luôn,
hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy
khi vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng
lo thủ hiếu thay thế cho chồng, xét ra thì gương
ấy cả Châu-Aâu cũng chưa hề có vậy. Ngày giờ
nào, gương mẫu tiết-liệt ấy trãi qua cho toàn
phụ-nữ trên mặt địa-cầu nầy đồ theo, thì
ngày ấy danh-thể của phái-nữ mới được trọng
nễ, nhứt là phụ-nữ Cao-Đài cần phải làm
cho đặng, hầu sửa đương nền phong-hóa của
Việt-Nam trước đã.
Còn về sự tồi-tệ thì chúng ta hằng thấy
tích xưa điển-cũ, như có câu : “ Đố phụ
loạn gia “. Lạ lùng thay và khéo-léo thay ! Chẳng
phải ở bọn Hàn Mặc hoặc thượng-lưu trí-thức,
lại ở nơi một người đàn bà hạng thường,
đủ khôn-ngoan đạo-đức có đủ hạnh-kiểm
có thể sửa chồng nên phận được.
Xưa kia có người lính cầm lọng cho Yến-Tử
là quan Tể-Tướng. Oâng nầy thì nhỏ người,
còn chú lính cầm lọng thì to lớn kich-cợm. Oâng
Yến-Tử tuy là Tể-Tướng đầu triều, nhưng
con người có tánh cách nho-nhã, nề-nếp nhà quan,
không kiêu-hãnh, gương mặt khiêm-hòa, còn chú
lính cầm lọng lại vênh mày vênh mặt, bộ tướng
tá nghinh-ngang, tưởng rằng không phải Yến-Tử
mà chính anh ta là Tể-Tướng đầu triều mà chớ
! Lúc Tể-Tướng đi ngang qua, người vợ chú lính
núp kẹt cửa thây vậy, nên khi về nhà mới đòi
làm tờ để. Anh ta hỏi tại sao ? Người vợ
nói rằng : “ Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy
chàng đi ngang, quan Tể-Tướng, Ngài thì nhỏ người
mà gương mặt nho-nhã, tỏ vẻ hạ mình còn chàng
thân hình to lớn mà chàng hiên-ngang coi trái mắt
quá lẽ, vì thế, thiếp lấy làm hỗ-ngươi không
thể ở với chàng nữa. Nhờ vậy, chú lính ấy
biết cảm-hóa, sau sửa mình lập thân trong hàng
ngũ quân binh lên đến bực Tướng. Aáy vậy,
đạo nhơn-luân nếu biết giữ chặt, thì vợ
có thể làm nên cho chồng, dạy chồng nên đạo
được. Phụ-nữ Cao-Đài cũng thế đã hai mười
năm nay tiêm-nhiễm đạo đức tinh-thần, tạo
đầu óc tâm-não, vậy tìm phương dạy chồng
thế nào !
Có nhiều hạng người được vinh-quang thì
lên mặt phách-xấc, không nhớ đến cằn-bổn
nên hạ của mình khi trước, phải biết rằng
chúng ta ra đứng đợt với thiên-hạ được là
nhờ Chí-Tôn tô mày vẻ mặt cho đó, hạng nầy
rất nhiều, phụ-nữ nên để ý sửa dạy cho
họ bớt tâm tự-kiêu đôi chút.
Đối với cha con, Nho-tông để lại nhiều
vẻ đẹp của tổ-phụ chúng ta lưu-truyền đặng
làm chuẩn-thằng mà sửa đương xã-hội và lập-quốc.
Cha hiền mới sanh con thảo, con thảo là hôït
giống để làm một nền móng tương-lai, tương-lai
quý hóa không thể tả bởi Tiền-nho chúng ta đã
nói :” Vua Nghiêu tìm ông Thuấn đặng truyền
ngôi ; chẳng vì lẽ gì hơn là nghe danh ông Thuấn
chí hiếu, mà một khi ta được chí hiếu rồi
thì không gì sánh bằng. Có hiếu rồi mới có
nghĩa, có trung, có cang, có trí, nghĩa là hễ có
hiếu rồi thì có thể có đủ hết tính-đức
khác.
Ngày xưa người ta tầm hiếu đến tận
nơi thôn-lân, huyện phủ, tỉnh-lỵ, để hỏi
thăm những gương hiếu-thuận. Người ta tìm hiếu
tức là tìm hiền, do cái hiếu ấy suy đọ ra
cái hiền của bực danh thần triều-chánh, mà
muốn có hiếu thì cha phải có từ vậy. Bần-Đạo
thấy quốc-dân Việt-Nam bị ảnh-hưởng của
ngoại-quốc, con không cần cha, cha không biết
đến con, tồi-phong tệ-tục ấy đã thấy rõ
ràng trước mắt. Bởi vậy. Trong xã-hội có ba
người quan trọng : Cha, Chủ, Chúa. Cha là ông
chủ của một gia-đình, Chủ là ông chủ của
một Hương -đảng, Chúa là Ông chủ của một
nước, cả ba vị ấy làm dầu từ gia-đình lên
xã-hội. Nếu quyền cha nắm không kham do người
cha bất-lực. Truy căn-nguyên là do tự-do kết-hôn,
chồng không phải chồng, vợ không phải vợ,
cập-xách với nhau rồi tự-lập gia-đình, đạo
nhơn-luân không có chỗ nào ràng-buộc, chẳng
qua là chơi-hoa giởn nguyệt, không căn-bản gì
hết, hiểu sao khi sanh con ra mà chúng lại không
trở nên kẻ vô bổn. Nhứt là hạng Việt-Nam
lai của ta là tối hại.
Bần-Đạo đã nói để cha mẹ định hôn,
như thế có lợi hơn vì như ta vẫn thấy, cả
kiếp sanh lúc còn nhỏ, cha mẹ còn đủ đến
ông nội, ông cố cũng còn nữa, trộng một chút
là ta vẫn còn thấy đông-đảo, đó là khi chưa
biết khôn, khi đã khởi biết khôn ngoan thì ông
nội đã đi đâu rồi, rồi cha mẹ đã già, mà
mình cũng già nữa, trong lúc ông bà cha mẹ mật,
mình cảm thấy cái quyền trong tâm-lý của mình
cũng mất.
Cha mẹ là bực cao kỳ trí-thức, đáng kính,
đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu cho chúng ta
chưa có tình thương nồng-nàn đi nữa, nhưng thời
gian qua chừng nào, nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc
cha mẹ chồng đã khuất, thì nhận thấy ở chồng
là hình-ảnh người cha của mình, còn chồng nhận
thấy ở vợ là hình-ảnh mẹ của mình, nên được
khuây khỏa tấm lòng và khắn-khít không lìa nhau
là vì lẽ ấy. Nói gì trên bộc trong dâu, một
đời nếu không có xảy ra điều gì thì thôi,
còn nếu có xảy ra điều chí sanh phiền sanh giận,
thì chừng ấy không phương thuốc gì trị được
cả, tâm-lý phải chia lìa thì tình kia phải chia
cách, mới dễ bỏ nhau thay chồng đổi vợ, con
cái sanh ra thấy tấn-tuồng ấy tập tánh học
theo, hiểu sao tương-lai không hư-hèn và tánh-đức
không lạc-lầm phàm tâm lìa đạo đức. Làm cha
mẹ nếu chúng ta biết tiền Nho đã đối với
con người như thế nào, đến nổi trong một tông
đường có đứa con nào ngổ-nghịch cha mẹ định
tự bỏ thì chỉ nói ngoài cửa miệng, chớ chưa
thấy ai từ con được bao giờ.
Nhớ lại, khi Bần-Đạo đi ngoài Qui-Nhơn,
gặp một ông già tên là ông sáu Chèo, vì ông
bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà
nhìn thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển
gì hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ có
một vế thôi :” Nhược niệm cửu-huyền chi
bổn, khả năng tu-tỉnh ngộ thân “ nghĩa là
“ Nhớ đến cửu-huyền thì phải rán gìn giữ
thân mình “ Bần-Đạo thấy thờ có một câu
mà không có sơn-thủy gì hết, lấy làm lạ hỏi
thì ông nói : “ Một câu đó đủ nghĩa để
dạy con cái biết tuân theo, thành tâm tu-chỉnh
thì Cửu-huyền sẽ vinh-diệu, biết giữ thân
mình không bịnh nhược thì sanh con sáng-láng mạnh-khỏe
khôn-ngoan. Đời bây giờ thiên-hạ mê đường
hoa-nguyệt phong-tình, sanh con lớn lên thành ho
lao, ho-tổn hay tật-nguyền, có nhiều sắc dân
sanh con thấy tàn-tật ghê khiết lắm, vì cớ
mà mấy năm trước đày Hitler thi-hành chánh-sách
của Đức Quốc-Xã xử-tử hay là thiến những
kẻ tàn-tật, bịnh hoạn, lấy lý rằng kẻ ấy
chẳng giúp-ích gì cho nước, chẳng những thêm
một miệng ăn cho Xã-hội lại còn đi hại cho
nòi-giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa lại
những dàn đinh càng-tráng, nhưng vì Đức Quốc-Xã
đã làm quá lẽ thành ra tàn-ác nghịch Đạo làm
người.
Tổ-phụ chúng ta không thi-thố chánh-sách
ấy, chỉ dùng tinh-thần đặng giữ con cho nó
tránh khỏi sự bạc-nhược đã nói : mà nòi giống
Việt-Nam nầy không bị tiêu-diệt là nhờ khéo
giữ đạo nhơn-luân từ trước đó vậy.
Tại
Đền-Thánh Đêm 19 tháng 5 năm Mậu-Tý (25-6-1948)
PHONG HÓA
VIỆT-NAM ĐỐI VỚI PHONG HÓA CÁC DÂN-TỘC VẠN-QUỐC
(Tiếp theo)
Bần-Đạo giảng tiếp về khảo-cứu phong-hóa
nước ta đối với Dân-tộc vạn-quốc.
Bần-Đạo đã giảng rằng trong Quốc gia
Xã-hội của chúng ta có ba quyền: Cha, Chủ, Chúa.
Ba quyền ấy cầm cả chánh-trị của nước nhà,
có khác nhau chăng duy có nhỏ và lớn, chớ chánh-kiến
vốn đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền-tảng
cho phong-hóa chúng ta vậy.
Hôm nay, Bần-Đạo tiếp giảng về quyền
làm cha và triều chánh của ông cha, tức là gia-đình
liên quan thế nào đối với triều-chánh của
làng và triều-chánh của nước.
Chúng ta thấy trong ba quyền ấy, duy có quyền
chủ là trên hết, sau biến tướng đến quyền
cha, quyền thầy : ấy là đạo Tam-Cang ; Phụ-tử,
Sư-đệ, Quân-Thần, Bần-Đạo sẽ giảng rành-mạch
về quyền chúa ấy sau. Bây giờ Bần-Đạo giải
rõ quyền cha mà thôi.
Vã chăng chúng ta để ý cho tận-tường
xem coi xã-hội chúng ta thấy có điều đặc-sắc
riêng biệt không giống với các xã-hội khác,
là từ khi Đức Khổng-Phu-Tử hiệp ba quyền ấy
làm Hội-Thánh của Ngài. Oâng cha tức là thầy
của gia-đình, Ông chủ tức là ông thầy Cả
của làng. Oâng vua chúa tức là ông thầy Cả
của nước. Vì cớ nên hình trạng của ba quyền
ấy Bần-Đạo nói rõ là lớn nhỏ khác nhau, mà
chánh kiến vẫn là một. Trong gia-đình nếu ta
không gọi là Ông cha thì gọi là Ông chúa của
gia-đình, cầm đầu cái triều-chánh của Ông,
bà vợ gia-đình, người ta còn gọi là nội-tướng
tức là thủ-tướng của gia-đình, cả con cái
là lục-bộ đài quan, tôi tớ hoặc những công
nhân giúp việc trong gia-đình tức nhiên là toàn
dân vậy.
Aáy vậy, gia-đình theo phong-hóa Việt-Nam
ta rất trọng-hệ, Ông cha của gia-đình cũng như
Ông chúa của nước vậy, nên xét ra đến cực-điểm
phong-hóa của ta thì thấy tốt đẹp lạ-lùng,
chỉ vì ta không quan-tâm đến thôi, nếu để
ý ta sẽ vui hứng hạnh-phúc đặc biệt, bởi
không có dân-tộc nào giống như chúng ta, kỳ
dư nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng văn-minh
như chúng ta mà cũng không đồng một vẻ hay là
giảm bớt thì có. Trọng hệ là gia-đình mới
trọng. Vì cớ đạo làm cha, phong-hóa chúng ta
kính trọng một cách vô đối. Đối với xã-hội,
tổ-phụ chúng ta biết con cái lớn lên phải lập
gia-thất, nên mới lưu truyền món hương-hỏa
ấy. Lấy gia-pháp làm chủ đích, gia-pháp ấy
biến ra gia-nghiêm, mà gia-nghiêm chặt-chịa kềm-thúc
con cái chẳng có ý chi khác hơn là dụng oai-quyền
đó mà tạo một vị chúa tương-lai cho gia-đình,
nên tổ-phụ chúng ta trong mong điều trọng-hệ
ấy mà hủy bỏ cả hành-tàng phụ-thuộc ở ngoài
là cả sự sanh-hoạt của gia-đình, chỉ lo bảo
thủ lấy tinh-thần làm cha tương-lai cho đúng
giá trị của nó.
Lạ chi đối với nòi giống của chúnh ta
thường nghe mọi người nói : “ Phụ có từ,
tử mới hiếu “ mà Bần-Đạo đã nói rằng
cả tánh-đức của con người đứng đầu trên
hết là hiếu, Bần-Đạo cũng đã giảng, đời
thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do nơi
hiếu, nên vua Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho
Ngài là vì ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh-đức
hiếu ấy là cái năng-lực căn-bản của các tánh-đức
khác, nó là tánh-đức của Đạo-đức tinh-thần
và nó đi gần tánh chất của loài người. Con
người đã có hiếu thì tánh-đức tốt đẹp
khác đều là phụ thuộc, bởi vì khởi-đoan của
tâm hiếu, không phải biến sanh một ngày, một
bữa gì mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra
làm căn-bản môi giơí cho các tánh-đức khác
nảy-nở, mà ta đã thấy và định quyết rằng
người đã làm được con hiếu thì thế nào cũng
sẽ là cha từ. Mà hạng phụ từ rất tối cần,
tối trọng cho xã-hội vậy.
Aáy vậy trong gia-đình phải có phụ-từ,
mà tại sao cha phải từ ? Phương ngôn nói : “
Cha hiền sanh con thảo “ lại có câu : “ Hiếu
thuận huờn sanh hiếu thuận tử, ngổ-nghịch
huờn sanh ngổ-nghịch nhi” sách xưa truyện củ
ta thấy còn lưu lại nhiều thành-tích rất quí
hóa. Đứa bé thơ kia học ai trước hết ? Học
cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có hình-trạng
gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô-trược
dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm
ai. Dòm cha bắt chước cha, dòm mẹ bắt chước
mẹ, dòm anh em bắt chước anh em. Trong gia-đình
nếu có gương cha lành, thì sự ấy huyền-bí
thay ! Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi
sơ sanh, đứa con chưa biết nghe, hiểu thấu đáo
cho thấu lý, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân,
Bần-Đạo vẫn quả quyết rằng cái phụ-giáo
và mẫu-giáo đó không mất, dầu có đứa con
có lơ-lảng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng
hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy,
chúng ta không thể tưởng-tượng được, khi cha
mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tìm-tàng cái giáo-hóa
buổi sơ sanh ấy làm can gốc trong bản tâm của
nó.
Làm người cha hiền không làm mất tự-do
của con, trái lại còn trọng nữa, trong xã-hội
chúng ta như vậy đó. Đừng thấy hình-trạng
giáo-hóa bề ngoài lấy nghiêm trị làm căn-bản
mà gọi rằng đối với nòi giống chúng tâch
mẹ áp chế con làm mất tự-do của nó. Không
phải như vậy đâu ! Có lẽ vì nhìn thấy tông-đường
hư hoại, nên cha mới nghiêm trị con, đặng bảo
thue tương-lai của tông-đường, chớ chẳng phải
cố làm mất quyền tự do của con.
Bần-Đạo giảng tích nầy cho cả thảy
nghe mà suy ngẫm, thì thấy nòi giống chúng ta
vốn trọng sự tự do của con cái mà trọng một
cách khéo léo.
Đời tiền Lê có Ông Thừa-Tướng đầu
triều không có con. Hai Ông bà thường đến chùa
nầy miễu kia cầu tự “ Nhơn hữu thiện niệm,
thiên tất tùng chi” nên bà vợ hạ sanh được
một đứa con trai. Quan Thừa-Tướng đã niên-cao
kỷ-trưởng mà có một đứa con trai thì nỗi
mừng vui đó không thể luận được. Người Nam
mình hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng cậu
công-tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong
gia-đình đối với cậu thì ai cũng là tôi đòi
nô-lệ hết. Hai ông bà cưng đáo-để, lớn lên
rồi hễ thấy cưng lại thêm nhỏng-nhẻo, rồi
du côn, rồi hoang-đàng, chi địa vô giáo-dục.
Tấn tuồng xảy ra như vậy mà quan Thừa-Tướng
và phu-nhân cũng không giám động tới, vì qua
cưng còn ai giám động tới cậu nữa đâu, cậu
muốn lên trời hay xuống đất chi cũng được.
Đến tuổi đi học, cho vào trường thì
không ai chịu nổi, con các quan bị cậu đánh
luôn, ngày nào cũng có mắng-vốn. Thấy tình-trạng
như vậy, biết con mình bị cưng quá không ai động
tới được. Đến khi trưởng thành 17, 18 tuổi,
ôi thôi ! thanh lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc,
không món nào mà cậu không có, ngoài ra còn du
côn, du đảng, ai thấy gia-đình ấy mà không nói
rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải
thống khổ tinh-thần như vậy. Nhưng ông bà cũng
vẫn cưng không động gì tới cậu công-tử cả,
ông chỉ buồn than với ông bạn là quan Hình-Bộ
Thượng-Thư rằng: Tôi có một đứa con mà con
cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ-đổi, thì ông
bạn nói : “ Thưa quan Thừa-Tướng, nếu Ngài
giao-quyền trọng vẹn cho tôi đem lịnh lang về
ở với tôi đặng tôi giáo-hóa thử coi “. Quan
Thừa-Tướng đã hết phương rồi, nên giao cho
Ông bạn dạy-dỗ cũng không được gì hết, cậu
công tử vẫn còn buông lung điếm đàng hơn nữa,
nên ông định dùng oai quyền mà trị mới cho
Quan Thừa-Tướng hay : “Tôi phải dụng quyền
đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc
làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài
vui lòng như vậy, tôi mới sửa lịnh-lang đặng.
Quan Thừa-Tướng chịu : Bạn làm sao giúp tôi
được thì làm, vì tôi cùng đường, hết kế
rồi, Quan Hình-Bộ Thượng-Thư thả cho cậu công-tử
ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thử,
rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội nhơn khác
vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu
không thấu, thông tin về nhà cho Thừa-tướng
hay. Ngài làm như tuồng cha đau lòng vì con, ra
chịu tội trước triều đình, rồi Ngài và quan
Hình-Bộ Thượng-Thư đến người nầy người
nọ xin tha thứ, đi tới đâu dắt công-tử theo
tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên lương-tâm
tự hối, biết tội mình làm để lụy đến cha
dừơng ấy.
Về nhà ông rước thầy cho đi học thêm
nữa, vì cậu đã biết ăn-năn, sợ cha mẹ và
chịu ở nhà không dám phóng-túng chơi-bời nữa.
Nhưng, trong gia-đình cũng không chiều được cậu
chỉ kiêng có cha mẹ thôi, ngoài ra không kể ai
cả, nỗi giận là cậu đánh đập liền. Ông
mới tính một phương kế, lấy cớ là con nhà
trâm-anh, bắt cậu để móng tay, từ đó cậu
ít khi ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên
hạ nữa, là vì cũng bị lật móng tay hai ba lần
gì đó, nên hoảng mà thuần nết lại. Đến khi
triều-đình mở khoa mục, cậu nhờ trí thông-minh
sáng-suốt lạ thường lại học giỏi nên chấm
đậu Trạng nguyên. Nhà vua và cả mọi người
biết tánh-đức của cậu trước như vậy mà
nay được như vầy thì ai cũng mừng, trong gia-đình
còn mừng hơn nữa. Thiết lễ tân-quan, khi vị
tân quan vào bái lễ từ-đường, rồi trở ra
hội-yến với các quan, quan Thừa tướng mới
kêu con lại nói : ” ngày nay con đã vinh hiển
rồi sẻ ra làm quan thì móng tay không để làm
chi nữa, con đưa đây cho cha ”, ông cất tử-tế,
đem vào bàn thờ tử đường, lấy giấy đỏ
gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa,
để bốn chữ “Trấn tâm chi bửu ” nghĩa
là của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con
và dạy rằng : “ từ nay trở đi hoặc sau nầy
con có kế chí cha làm đến đầu triều, vật
trấn tâm chi bửu nầy cũng không nên rời con
”. Thì y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai
thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đếùn
đầu triều, mà cái gói “ trấn tâm chi bửu”
tức là móng tay vẫn còn luôn.
Bần-Đạo dám cả gan nói rằng : nhờ cái
phụ giáo như vậy, mà triều chánh Việt-Nam ta
mới bền-bỉ, và chắc-chắn rằng ngưòi đó
là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc
lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh-thần
đó mà chúng ta đạt được tinh-thần độc lập
ngày nay.
Phụ giáo rất cao kỳ quí-hóa. Nếu xét
tường-tận như vậy thì ta chưa đáng phận làm
chúa gia-đình. Trước khi tạo gia-đình , cần
suy gẩm coi ta có xứng đáng làm chúa làm nội
tướng chăng rồi sẽ tạo, cả khuôn-khổ tốt
đẹp nòi-giống chúng ta đã xao lãng, nào giục
tấn, nào cấp tiến, nào văn-minh, nào duy-tân
đáo để thôi. Tấn-tuồng duy tân vật-chất đưa
đến tồi-phong bại-tục, hiện giờ là hoàn thuốc
quá độc hại vậy.
Phong-hóa tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi vậy
chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh-thần mà
đã biết như vậy thì nên bỏ hay là phải cố
thủ ? phải bảo-thủ cái thể chất toàn-hảo
ấy là điều Chí-Tôn mong muốn hơn hết. Ngài
không nở nói ra, mà Người trông cho chúng ta biết
phục-hồi cái phong-hóa của tổ phu lưu lại,
đặng tạo một văn-hóa tương lai cho toàn thể
mặt địa cầu nầy vậy.
Nếu Ngài nói ra thì nòi giống Việt-Nam
sẽ nói là Ngài thủ cựu hay là muốn phá hoại
sự tự do của loài người và đời văn-minh vật
chất nầy không thể không chỉ trích Chí-Tôn
với lời lẻ ấy, nên Ngài không nói đó vậy.
PHONG HÓA VIỆT-NAM ĐỐI VỚI CÁC
CHỦNG TỘC KHÁC (tiếp theo)
Hôm
nay Bần-Đạo tiếp-tục khảo-cứu nền phong-hóa
của chủng tộc Việt-Nam đối với các chủng-tộc
khác.
Bần-Đạo đã giảng rỏ về đạo làm cha
trong xã-hội của chúng ta đã tạo thành một
nền phong-hóa đặc-sắc của nòi giống như thế
nào rồi. Vậy, Bần-Đạo lần-lượt giảng tiếp
về các quyền của cha, Bần-Đạo giảng về đạo
và quyềncủa cha trước rồi sẽ giảng về Đạo
và quyền của chủ, sau chót mới đạo và quyền
của nhà vua tức là chúa.
Ai cũng biết điều trọng-yếu trong xã-hội
Việt-Nam ta là tổ-phụ là nguồn cội của các
Tôn-giáo, nên từ thượng-cổ tổ-phụ ta đã
lưu lại cho nòi giống ta cái cảnh tượng là
biết tôn trọng cửu huyền thất-tổ, dầu quá
vãng hay hiện tiền cũng vậy, sự sùng-thượng
ấy còn tồn-tại trong tâm-hồn mãi thôi, Nên
Tôn-giáo chơn-thật ấy nó buột van-quốc nhìn
nhận là một Tôn-giáo đặc sắc của một sắc
dân chơn-thật hơn hết. Thế thì đạo nhơn-luân
của chúng ta là do truyền nối hương hỏa của
cựu-huyền thất-tổ đó vậy. Ta chảng cần luận
chi sâu-xa hơn nữa, chỉ nói cái nợ máu thịt
mà nòi giống Việt-Nam này xem mắc hơn các nòi
giống khác trên mặt địa-cầu nầy. Vì bởi
tiên-nho chúng ta đã lưu lại một lý-thuyết chánh-đáng
chuyên-nghiệp để cảm tâm lý của nòi-giống
chúng ta là “ Bất hiếu hửu tam vô hậu nhi kế
đại”. Trọng hệ hơn hết của nền quốc-giáo
Việt-Nam ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm
vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại,
nếu không đương nổi thì phải chịu thất hiếu
với các tông-tộc, cửu-huyền thất-tổ. Thất
hiếu trọn vẹn, mà đã thất hiếu rồi thì buổi
tương lai về cõi hư-linh không ngó mặt ông bà
ta đặng. Vì cớ, nên việc hôn nhân nơi nước
ta có vẽ nghiêm khắc, truyền lại làm căn-bản
Tôn-giáo trong nước, dùng khuôn- khổ trọng
nghiêm ấy đặng định-luật, thì ta chẳng còn
ngạc nhiên, hỏi cớ sau luật nhơn-luân lại gắt
gao như vậy ?
Xưa kia hể định luật hôn-phối với nhau
thành vợ chồng rồi thì chủ hướng duy có một
điều là nối truyền hương hỏa. Tiếng tục
thường nói rằng : “ Dài dòng cả họ “ nên
tông tộc nào dài dòng cả họ thì hạnh-phúc
đáo để, trước phong-hóa mà đạo nhơn-luân
phải gắt-gao; khi cưới vợ ba năm mà không sanh
con trai nối hậu thì đàng trai đặng phép để
bỏ và lập vị thứ. Tại sao ? Nếu người đàng
ông cả gan vì thương vợ mà không chịu để
bỏ thì mang tội bất hiếu với cửu-huyền thất-tổ,
với cha mẹ kia.
Thấy đạo nhơn-luân của chúng ta trọng
yếu dường ấy, mà hễ trọng yếu tức nhiên
quyền cha vẫn là cái oai quyền cao trọng, quyền
cha trong phong-hóa chúng ta, nếu con bất hiếu có
thể lên án tử hình được, lên án với luật
pháp hữu định, bởi vậy nên tổ-phụ ta nói
“Quân-sử thần-tử, thần bất tử bất trung,
phụ-sử tử-vong, tử-bất-vong bất-hiếu” ấy
là luật nhơn-luân của ta như vậy đó.
Đối với các quốc gia, các nòi giống khác
nhau, nếu có công kích thì họ nói đó là làm
mất quyền tự do, mất nhơn-phẩm của con. Bần-Đạo
giám chắc rằng họ thêm-thuồng lắm mà họ không
làm được vì tình-trạng phong-hóa của ta, các
nước Aâu-châu không thế đối đặng. Bần-Đạo
giảng về cái quyền cha mà chính mắt Bần-Đạo
trông thấy hiển nhiên là khi Bần-Đạo mới ra
trường đi làm việc, đổùi xuống Cái-Nhum, có
ông Kế-hiền ở làng Chánh-an, tên là Kế-hiền
Kỷ làm một vị trưởng-tộc trong tông-đường,
niên kỷ độ lối 55 tuổi. Khi ấy trong nhà thờ-đường
làm lễ cúng Ông Cao-tằùng gì đó, mà lệ trong
dòng họ, người nào đến giờ tế tự mà vắng
mặt thì năm đó mất phần hương-hỏa. Sự nghiêm
trị rất nhẹ-nhàng nhưng mực-thước, nên kẻ
nào trong năm đó bị phạt ắt cất đầu không
nổi, rồi chỉ có khóc lóc lén lúc vậy thôi
nên cả thảy điều phải đến. Bần-Đạo tọc
mạch theo coi nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong
tông-đường của Bần-Đạo gia-phong thì lại
khác. Bởi biết ông Kế-hiền Kỷ còn theo nho
lắm, trong lúc ấy Bần-Đạo ngạc nhiên thấy
trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng
dầu khinh, mỗi đứa điều đến một món, đi
thôi rần-rộ, độ bảy giờ cúng thì lối 5 giờ
đi rước ông Trưởng tộc, các con cháu xúm khiên
ông, ba bốn chục người giành mà khiên, còn bao
nhiêu đi sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh
tiếp. Ôâi-thôi ! Bần-Đạo tưởng nhà vua cũng
không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu
đem bộ áo của ông cố hay ông sơ gì đó mặt
vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy. Bần-Đạo
tưởng-tượng đó là ông vua, Ông chúa của gia-đình,
rõ-ràng vậy.
Còn nếu biết ông trị nghiêm trong tông
đường thế nào thì lại càng cảm mến hơn nữa,
vì bởi từ thử chưa hề có một con cháu nhà
nào đem nhau tới làng mà kiện thưa một việc
chi cả, gia luật thật đáo đễ đẹp đẽ và
nghiêm-khắc, như thế mà đã năm sáu đời truyền
kế. Tộc phái không kể nội ngoại gì cũng kế
nghiệp được. Trong tộc phái ấy có một bộ
tông chi không sót một tên nào mà vẫn còn giữ
vĩnh cửu luôn. Ngày giờ nầy các nước ngoại
quốc kia nói nhà Nam ta bảo-thủ cổ-tục ấy,
hỏi có ai làm đặng vậy chưa ? Nếu có được
thì một phần ít thôi, mà cũng không có nữa.
Tại sao ? Tại tiêm-nhiễm văn-hóa Aâu-châu rồi
đem của quí liệng đi hốt của bỏ đem vào,
tinh-thần đã đánh ra bạc-nhược, thô bỉ, chạy
theo thuyết duy vật của văn-minh vật chất, quên
hẳn khuôn-khổ tổ-nghiệp ta để lại rất đẹp
dẽ vô cùng, thâu thập những vật không đáng
giá, làm xáo trộn nền phong hóa tận-thiện tận-mỹ.
Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại
trong nước là tại làm sao chăng ? Cả đạo nhơn-luân
điên-đảo, biểu sao không trôm cướp loạn-lạc,
giặc-giả tứ tung cho được !
Nền đạo nhơn-luân có đủ năng-lực bảo-trọng
tương-lai quốc vận lại đem bỏ đi, lấy cái
hoàn thuốc độc của thiên-hạ đưa cho, đã thiệt
thòi mà cũng còn rán trướng cố lên mà nuốt,
nuốt cho chết.
Quyền hạn của chúng ta, ngày nào chưa bảo-thủ
cho toàn dân tộc được thì đừng mong gì vĩnh-cửu.
Trái lại cần phải tô-điểm Nam-phong do tinh-thần
tổ-phụ ta để lại làm căn-bản mới đủ sức-mạnh,
đủ cường-liệt ngang hàng với toàn cầu van-quốc.
Bằøng chăûng vậy thì đứng mong sớm hưởng,
còn xa với lắm.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý Mồng 1 tháng 6 năm Mậu-Tý
(7-7-1948)
PHONG-HÓA
VIỆT-NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG-TỘC KHÁC (tiếp
theo)
Chúng
ta hôm nay tiếp tục khảo cứu nền phong-hóa của
nước nhà ta đối với các dân-tộc toàn thiên-hạ.
Bần-Đạo đã giảng về chủ quyền thứ
ba của xã-hội chúng ta, gọi là quyền giáo sư
thứ ba theo đạo nho mà vị chủ quyền về đạo
nhơn-luân hay là chủ quyền về gia-đình ấy tức
là ông cha. Bần-Đạo đã giảng về đạo và
quyền của người rồi, bây giờ tiếp giảng
về ông chủ quyền thứ nhì của xã-hội. Ông
chủ quyền thứ nhì mà cũng là giáo-sư văn-minh
Nho giáo là ông chủ của hương-đảng. Bần-Đạo
đã nói chức Đại Hương-cả hay kế-hiền là
mới bày đặt sau nầy, chớ Nho-giáo chỉ định
tới Hương-chủ là hết. Ta thấy rằng vị đó
cầm quyền hương-thôn, mà thật ra người cũng
là chủ-quyền của xã-hội. Ta để tâm nghiên
cứu coi cái phong-hóa của đệ nhị chu- quyền
nằm đó ra thế nào? Bần-Đạo xin nói trước
rằng nó tốt đẹp không gì bì đặng, hại thay
! Ngày giờ nầy vì quốc-dân xu-hướng theo văn-minh
tân thời muốn phế bỏ hủy hoại và cũng do
bởi cớ nên Đức Thanh-Sơn để câu thi tự rằng
:
“
Văn-hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần di-chủng đến dàng công “.
Nền văn-hóa đạt được trải qua bốn
ngàn năm, không cần ai dâng công tạo văn-hiến
khác .
Đạo của vị chủ Hương-đảng là coi sóc
sự sanh-hoạt của dân chúng trong thôn-hương,
chẳng những nắm chủ quyền sự sanh hoạt mà
còn nắm chủ quyền sự chết sống, cầm vân
mạng cả thôn hương trong tay nữa. Đạo của
người là Đạo-thường, lo phụng thờ tôn miếu
của triều-đình . Các đình làng đương nhiên
là công thần miếu, thờ những vị công thần
bất kỳ nơi nào trong thôn quê đã xuất hiện
những vị trung-quân ái-quốc, vị quốc vong-xu,
tô điẻm giang-san, binh vực lợi quyền của xã-hội
; có công vĩ-đại với triều-đình, đến khi
qui-liễu được nhà vua ân-tứ phong cho Thần vị.
Đièu hay hơn hết là vị công-thần đạt-vị
đó, lại được trong bổn thôn sanh quán của
người thờ người. Sự khéo léo ta thấy hiển
nhiên, vì cớ vì hương chủ trong thôn hương cần
nhứt tạo hiền tài; nào là lập trường học,
bố thí kẻ côi cúc không phương học vấn, nào
là nâng đở các gia-đình hữu học. Khi đạt
đặng khoa mục, khỏi làm xâu, bởi gọi hàng
khóa-sĩ, Bần-Đạo xin nói rằng chưa nước nào
đã làm như nước Nam ta, khi xuất sĩ vị tân
khoa về quê gọi là bái tổ vinh, qui, lạy tạ
mồ mã tông đường; ngày đó chẳng cần tả,
sự vinh hiển vô đối của họ nên phương-pháp
ấy giục tâm toàn quốc cố học, học đặng
hành. Hại thay! Trong thôn hương nhiều nhặt-nhiệm
nên cũng có sự hay mà cũng có sự giở, là kẻ
nào bất tài thiếu học, hay có tính chất hèn
kém, không đủ tinh-thần tế-thế an-bang; làm
cục bứơu của xã-hội, nếu kẻ ấy không lập
thân danh đặng thì duy có trốn mà đi chớ không
giám ở trong làng mình nữa. Vì cớ cả quốc
dân nôn-nả học-hành, chẳng phải học để lập
thân danh mà thôi chỉ thấy khuôn khổ nghiêm-nghị,
dìu-dắt chủ hướng người quân-tử dù tánh-đức
tiểu nhơn mà ở trong làng cũng phải sửa nết
lại.
Vị Hương-chủ có phận sự bảo vệ sinh-mạng
nên theo đàng cựu thì trích quốc-gia làm công-điền,
hồi cựu trào số đất công điền trong các đất
đai của làng rất thặng, vì thuở ấy dân chưa
có gia-nghiệp tư-bản. Những đất hoang vu, ông
Hương-chủ khải mở thành công-điền, toàn thể
dân đinh buộc họ duy có làm xâu mà thôi, mà
chẳng phải làm xâu như bây giờ, người nào
có làm xâu thì số lúa tư-sản của mình được
hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị
trích mấy phần mười số lúa tư-bản của mình
đó. Số sản-xuất những công-điền ấy chia
làm ba phần; hai phần ba để vào công nho làng,
môït phần ba nạp cho triều chánh của nhà vua,
nên không có lấy thuế bằng tiền bạc. Nhà vua
buổi nọ muốn thưởng công các quan duy có đong
luá mà thôi, vị nào cao-cấp mấy hộc, trung cấp
mấy hộc, hạ cấp mấy hộc; ngoài ra lương ấy
nhà vua có phương pháp kêu là ban thưởng đặc-biệt
về công nghiệp vĩ-đại, ân tứ cho ngựa bốn
cập, sáu cập hay mười cập, hay xe đôi chục,
năm chục mà thôi, sự khéo-léo của quốc-gia
là giục tâm cho dân cày-cấy ngoài ra sự chăn-nuôi
súc-vât, rồi vì sau nầy việc canh điền nặng-nề
thì lại bày ra việc thưởng trâu bò thay thế
cho đầu ngựa. Ngày xưa làm quan không ăn tiền
chỉ lảnh lương nên tiếng tục gọi là “ ăn
lương” là vậy.
Một phần ba số lương triều chánh thâu
vào thì nhà vua dùng phát lương cho các quan, năm
nào đặng mùa dư-giả thì làm kho dự -trữ, nơi
các hương-đảng cũng đều phải vậy. Thảng
như rủi năm nào thất-bát, dân đói khó, thì
lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẫn-bần,
mà đầu tiên đứng ra tế-chẩn là ông hương-chủ,
khởi phát ở kho lúa của làng trước, khi nào
thiếu mới thêm ở kho quốc-gia. Sự nông-nả
chẳng phải tìm phương cho dân cày-cấy ruộng
nương mà thôi, phải khuyến-khích chăn-nuôi súc
vật, khuếch-trương các tiểu công nghệ trong
làng, thức giục dân nuôi tằm dệt vải làm tơ
lụa, các nghề thờ mộc, thợ rèn và các kỷ-nghệ
nào hay khéo mà dân sở tại làm đặng, quyền
ấy là quyền của ông chủ hương-đảng, còn
ban Hội-Tề, hương-sư hương-hào v.v... đều là
phụ thuộc vào triều-chánh của ông hương-chủ
mà thôi.
Cái đạo của vị hương-chủ là thờ công-thần,
mà là thờ mạng sống của toàn dân trong hương
nữa, nên cổ -tục ấy lưu-truyền đến ngày
hôm nay, sống cũng phải lo cho dân, mà chết cũng
phải lo cho dân. Vì cớ đồ âm-công phải có
sẵn. Hồi cựu-trào bất kỳ hạng nào, dầu là
một vị quan hồi-hưu về ở trong làng cũng vậy,
hễ khi có một đám tử, toàn dân của làng
đều có bổn phận tham-gia, dù cho quan đi nửa
thì khi khiên đám, cũng phải đi không ai khỏi
đặng.
Lại nữa, chẳng phải lo việc chết thôi,
còn phải lập nhà thương, nhà nuôi trẻ em, trường
học, cả cái khuôn-khổ văn-minh hương-đảng
lưu lại ngày nay là do nơi chủ quyền của hương-chủ
mà ra vậy.
Hồi lúc Bần-Đạo còn nhỏ, nhớ nhứt
là khi xay lương, và giả lương, hễ lúa đem về
kho rồi thì dân làng nhứt là phụ-nữ, xúm lại
giả cho trắng đặng nạp về triều kêu là nạp
lương, tục ấy mới bỏ trong thời gian gần đây.
Mà xay lương thôi thì đô-hội, mệt-nhọc mà
vui-vẻ lạ lùng. Không thể nói hết đặng, câu
hò câu hát còn lưu lại trong dân-gian ngày hôm
nay là do nguyên cội xay lương đó. Xay giả xong,1/3
nộp cho triều-đình, 2/3 để cho hương-đảng.
Còn một điều nữa là ở trong làng hễ
có người nghèo-khổ cơ-hàn, thì hương-chủ dạy
toàn dân làng phải bảo-vệ, hễ cưới vợ không
được thì xúm nhau chung tiền lại giúp, cất
nhà không nổi thì xúm nhau tạo nhà cho, khi có
bênh-hoạn thì xúm nhau đến thăm viếng và giúp
đỡ, tình liên-lạc mật thiết như côt-nhục,
mà khuôn-tuồng đó ngày nay đã mất rồi. Vì
chưng tư-lợi tư-kỷ nhiều quá mà cho tiêu-diệt
hết lòng tương-ái tương-thân trong hương-đảng.
Ta thử nghĩ lại, một ông chủ cầm quyền
xã-hội dường đó, chánh-sách còn bằng mấy
công-sản, mà là cộng-sản tinh-thần, nên Quốc-gia
chúng ta có cộng-sản thúc-nhặt tâm-lý làm khuôn
phong-hóa chung sông cùng nhau, không cướp-bóc không
tranh quyền đạt vị. Ơû trong làng, quyền làm
chủ hương thôn ấy chỉ có truyền biểu mà thôi,
dầu trong triều về đó ở mà dân không tín-nghiệm
thì cũng không có quyền gì buộc dân đem mình
lên đặng. Phần nhiều triều chánh sau nầy mới
có tham-quan ô-lại, chớ thời xưa một người
làm quan rất sợ điều đó lắm, là vì hễ đã
mang danh tham-quan rồi thì về làng không ở với
ai được, cả làng mạt-sát chịu không nỗi,
cho nên cả cái bí-pháp hằng tâm gìn-giữ rất
nhặt-nhiệm, kẻo buổi về già không chịu nỗi
sự trích-điểm của thôn-lân, được vinh-quang
chừng nào thì lại càng giũ-gìn tánh-đức. Trong
làng mà vị nào vì dân, đủ tánh-đức nuôi dạy
dân, thương dân như con đỏ thì dân-sanh cử lên,
chớ không phải bầu-cử hốt-mớ, rồi đưa kẻ
bất tài thất đức lên được, vì trong triều-chánh
của ông hương-chủ ở dưới có bạn hội-tề,
đi từ mức đào luyên-từ cấp, rồi mới lên
đến hương-chủ thì đã sáng-suốt mực thước
lắm rồi.
Ngoài ra nữa, còn một điều là trong hương-đảng
coi chủ quyền ấy như ông tòa, đến bây giờ
còn chức-tước mà quyền không phải vậy. Oâng
chủ của làng làm tòa xử, hòa-giải dân-tình,
nên không có tụng-cáo ra triều-đình bao giờ,
hay là từ các án-tiết trọng-hệ, như cường-đồ,
sát-mạng, mới thấu đến luật-hình triều chánh.
Trong làng có điều gì chinh-tâm xich-mich với nhau
thì ông chủ của làng xử trước, nếu bất-đồng
đem nội-vụ ra nhà việc, hễ lỗi nhỏ thì nạp
tiền câu-tra, tội lớn thì căn nọc đánh giữa
làng, không đến nỗi chết mà hễ bị đánh rồi
thì về nhà còn có nước mà trốn đi nơi khác,
hoặc đóng cửa đi đâu đi lén-lút khổ-não lắm
vì bị gièm pha nhạo-báng xấu-hỗ chịu không
nổi. Còn nói về phụ-nữ nhứt là gia-đình con
hát bè, hát bộ, thì có dọn mà đi luôn. Đến
nghiêm-luật gái chửa hoang, đẻ lạnh thì cha
ông, con cháu, đều bị đòi ra giũa làng hết
thảy. Thứ vợ hổn với chồng, chồng hiếp vợ,
con bất hiếu, em vô lễ với anh cũng vậy, đặng
giữ nghiêm phong-hóa xã-hội do khởi đoan từ
hương-đảng ra quốc-gia xã-hội.
Triều-đình cốt-yếu làm đầu đặng nắm
giềng mối, chớ thật ra cầm quyền xã-hội là
trong hương-đảng, mà quyền trong hương-đảng
là của đệ nhị chủ-quyền, tức là quyền ông
hương-chủ đó vậy.
Tại
Đền-thánh Thời Tý Mồng 5 tháng 6 năm Mậu-Tý
(11-7-1948)
PHƯƠNG-PHÁP
TỔ-CHỨC XÃ-HỘI TRONG HƯƠNG-THÔN
VIỆT-NAM
Kỳ trước, Bần-Đạo đã giảng về đạo
của vị chủ-quyền xã-hội chúng ta là ông chủ,
nay tiếp thuyết về phương-pháp tổ-chức xã-hội
ta trong hương-thôn là thế nào và ai cầm quyền
ấy. Ta đã thấy Nho-đạo ta lấy gia-đình làm
căn-bản, bước từ tiểu gia-đình là gia-tộc,
lên đại gia-đình là quốc-gia, lại thấy sự
khéo-léo trong gia-đình là phương-pháp thực-hành.
Các phần-tử trong gia-tộc hiệp lại thành tông-đường,
một gia-tộc nào đủ nhơn-nghĩa đạo-đức thì
tông-đường đó, để mắt nông-nả cho có đủ
phương-pháp thi-thố cả sở-năng của mình, bởi
chỉ trông cậy nơi mình làm cho gia-đình đứng
đợt được với thiên-hạ một cách vinh-diệu,
mà hễ tông-đường được vinh-diệu, tức nhiên
người đại-diện cho tông-đường ấy khi ra thay
mặt cho tông-đường, đã đào-luyện trí-trức
tinh-thần, sở-năng, sở-kiến, đặng thay thế
tông-đường cho xứng-đáng trước luật quan phép
nước. Trong hoàn-cảnh kiến thiết xã-hội là
vậy. Làm đầu tông-đường được, tức nhiên
trong hương-đảng đã để dành địa-vị cho danh-thể
cao-trọng ấy rồi, thanh-niên thì vào hàng thành-đinh,
niên-kỷ cao-trưởng thì vào hàng kỳ-lão, lãnh
kiến-thiết hương-đảng, không bỏ một ai. Tuy
vậy, ban Hội-tề có đông-đảo mặc dầu, nhưng
Bần-Đạo đã nói rằng hội-tề bất quá là
triều-chính của đệ-nhị chủ-quyền là ông
hương-chủ trong hương-đảng vậy thôi.
Aáy vậy, trong hương-thôn có người nào
xứng-đáng làm đầu hương-thôn, người ấy không
lẽ triều-chính không biết đặng, nên danh-nghĩa
trong hương-đảng liên-quan mật-thiết với triều-đình,
mà hễ có liên-quan tức nhiên là địa-vị triều-đình
sẽ dành để cho người cầm-quyền hương-đảng
đó vậy.
Tổ-chức xã-hội chúng ta đi từ tiểu gia-đình
lên đại gia-đình là quốc-gia, vì cớ nên Tiên-nho
chúng ta, dầu cho đệ tam quyền là ông cha trong
gia-đình, mà có tội đem ra giữa triều-chánh
buộc tội là trị đạo bất-nghiêm, còn đệ-nhị
chủ-quyền là trị dân không nghiêm cũng gọi
là trị đạo bất-nghiêm. Hình phạt nặng-nề
sẽ định-án cho ai chủ-quyền đệ-nhị và đệ-tam
đó không phương chối-cải.
Cái đạo, nói tiếng đạo, mà người cầm
quyền trị đạo phải thật-hành được đạo,
đã không dễ, thì cầm quyền trị-đạo lại
càng không dễ nữa. Phải làm thế nào thi-thố
cho dân-sự trong bổn thôn thấy tâm-thánh của
mình là thay thế đức Khổng Phu-Tử làm cha mẹ
dân, mà chẳng vậy thôi, còn cầm -quyền làm
thầy trong bổn thôn nữa mà chớ.
Tổ-chức xã-hội quốc-gia chúng ta không
mắc-mỏ mà thật sự thì khó đáo-để. Thuở
mà nòi giống nầy còn kêu cha là bố và mẹ là
cái, kẻ nào đạt được vị bố-cái hương-đảng,
tức là cha mẹ của hương-đảng, ấy là lời
ban thưởng, tặng khen lớn-lao lắm vậy, tức
nhiên đệ-nhị chủ-quyền là quyền của vị
bố-cái hương-đảng là vinh-diệu hơn hết.
Aáy vậy, đệ-nhị chủ-quyền làm cha, làm
thầy hương-thôn, ta suy-xét tưởng-tượng xem
phận-sự ấy trọng-yếu như thế nào ? Coi dân
như con đỏ, làng như cha mẹ dân thay-thế cho
triều-đình, mà muốn nên phận cha mẹ dân thì
vị chủ-quyền đó không tư tâm, tư-kỷ, hễ
tư tâm tư-kỷ tức bốc-lột dân, trộm cướp
của dân, hiếp-bức dân. Ta thấy phương-pháp
đương-nhiên, hiện giờ còn giữ khuôn-khổ ấy,
chỉ hại một điều là hương-đảng đương-nhiên
xu-hướng tân-thời đã hết làm cha mẹ dân, dở
thói tham-quan ô-lại, làm cục bướu làm mục
ghẻ tâm-lý của dân. Vì cớ nên giá trị của
đệ-nhị chủ quyền không còn năng-lực nữa,
mà nếu không còn năng-lực tức là hết cầm
quyền chuyển tâm-lý được, biểu thế nào ngăn
cản được dân xu-hướng theo văn-minh mới, mà
nhứt là nòi giông Việt-Nam này hay nghinh tàn yểm
cựu lắm. Nếu không đủ biệt tài cầm cái khối
báu do Chí-Tôn để lầim trao-đổi làm cho có
giá-trị cứ do theo điều mới mẽ ấy thì chỉ
có làm cha làm chủ bướng vậy thôi, nên cần
phải biết sửa đương lại thì xã-hội nầy
sẽ đứng đầu hơn hết. Tại mình làm chủ mà
không biết của báu, khinh-miệt nên thiên-hạ
không còn làm cha mẹ, bố cái hương đảng nữa,
nên cái vinh-diệu của tiên-nho ta lưu lại đã
bị bại-hoại thành hình tướng dị-hợm lắm
rồi.
Vị chủ quyền hương-đảng của nhà nho
ta, tuy là tư-tưởng tinh-thần rất đơn-sơ, nhưng
nói ít mà làm nhiều, nên vị hương-chủ hồi
cựu-trào lãnh làm chủ hương-đảng thì triều-đình
phái một vị quan đến phong quyền cho và thường
nói : “Triều chánh cầu xin một điều là vị
hương-chủ làm sao cho xứng đáng phận sự cha
mẹ của dân”
Trước ta đã thấy quyền làm cha mẹ trong
gia-đình khó-khăn thế nào rồi, thì vị hương-chủ
lên làm cha mẹ dân trong một làng, lời xưa thường
gọi là bá tánh là vì bởi nhiều tông-đường
hiệp lại mới thành một làng. Nên việc làm
cha mẹ dân trong một làng không phải dễ, dân
đói phải lo, dân rách phải lo, dân khổ phải
lo, một tên dân đau khổ thì ông chủ-quyền thì
phải ở bên mình như cha ở bên mình con vậy,
cha nâng đỡ danh thể làm cho con nên thế nào,
thì ông chủ-quyền của hương-thôn cũng phải
làm nên cho dân thế ấy. Nghĩa là tâm-lý của
ông cha cầm quyền gia-đình trị con thế nào ?
thì ông chủ cầm quyền hương-lân trị dân cũng
như cha trị con vậy.
Nếu từ trước đến giờ còn giữ được
khuôn khổ tổ-chức của tổ-phụ để lại, thì
Bần-Đạo tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong
đương nhiên, và cầm chắc sự thống khổ loạn-lạc
chẳng hề có đặng. Ngày hôm nay, phong-hóa quốc-gia
xã-hội ta không còn nguyên hình tướng nữa, đã
thay đổi ra thô-tục gớm-ghiết quá chừng.
Đức lý Giáo-Tông lập Bàn Trị Sự, Ngài
tập chức Chánh Trị-Sự và Phó-Trị-Sự, rồi
Ngài lại biểu Bần-Đạo lập chức Thông-Sự.
Ngài nói Phó-Trị-Sư ïlà Giáo-Tông em mà nơi
làm có Giáo-Tông em thì tức nhiên phải có Hộ-Pháp
em là Thông-Sự nữa chớ. Nếu sự tổ-chức hương-lân
chưa phải cần yếu thì Đức Lý đã không làm
như vậy. Ngài đặt chức Chánh-Trị-Sự tức
là Ông chủ, đệ nhị quyền trong thôn-lân về
phần đạo, hỏi vậy mơ-vọng của Đức Lý để
Chánh-Trị-Sự làm gì? Đức Lý có ý đem qui cũ
đạo vào đệ-nhị chủ-quyền, đặng phục-hồi
lại y như trước. Ngài quyết-định hơn nữa
là để vị Chức Sắc ấy nắm quyền Hội-Thánh
tức là vào Thánh thể của Đức Chí-Tôn, nghĩa
là dự-định đặng lên Lễ-Sanh, rồi lên Giáo-Hữu,
tức là vào Thánh thể đó vậy. Muốn chỉnh đốn
xã-hội lại, nên luôn dịp để một khuôn-khổ
trị đạo cho dân sanh tỉnh giác, biết vật báu
ấy mà gìn-giữ, tô điểm, làm cho xã-hội thôn-lân
thêm xinh-lịch. Ýù muốn là vậy, mà thử hỏi
Bàn Trị Sư toàn thể Quốc-gia ta ngày kia có đủ
năng-lực và đủ tinh-thần đạo-đức để chỉnh-đốn
xã-hội ta trong hường-thôn, lần-lần sửa lại
theo tổ-chức tối-cổ của quốc-gia xã-hội ta
trước được không ?
Bần-Đạo dám chắc rằng Đạo Cao-Đài
làm đặng, và nhờ bàn tay của toàn-thể quốc-dân
Việt-Nam ta đó. Việc làm bất luận lâu hay mau,
miễn đạt được thì thôi, Bần-Đạo sợ e một
điều là đầu óc hình-thể ta thấy trước mắt,
thay vì chỉnh-đốn đi ngược trở lại khuôn
cũ, rồi lại còn xu-hướng theo tổ-chức xã-hội,
làm diệt-vong phong-hóa ; thay vì cứu sống lại
cái gia-tài, lại làm tiêu cả sự tốt đẹp thọ-hưởng
đã bốn ngàn năm nay còn noi lại. Bần-Đạo mơ-ước
một điều là toàn con cái của Đức Chí-Tôn
trong hương-thôn tức là Bàn-Trị-Sự, biết phận-sự
trọng-yếu của mình để đủ tinh-thần làm vừa
theo thánh ý của Đức Lý Giáo-Tông và Đức Chí-Tôn.
Bần-Đạo mong-mỏi cả thảy đem cái quí của
tổ-phụ của chúng ta lưu lại chỉnh-đốn cho
đẹp cho xinh đủ oai-quyền năng-lực, đặng ngày
kia đem cho toàn các sắc dân khác đồ theo. Đương
buổi nầy thiên-hạ đương thống-khổ tâm-hồn,
nếu họ thấy chánh-sách của ta đạt được,
họ sẽ lấy và đồ theo mà lấy trong tay Cao-Đài
họ không thẹn mặt.
Cả thảy nam nữ nhớ lời căn-dặn, đặng
khi thái bình trở lại , cho chỉnh đốn Bàn-Trị-Sự
trong hương-thôn, để làm nền-móng tổ-chức
quốc-gia ta sống lại đẹp-đẽ mỹ-mãn và cường-liệt,
mà quốc-gia ta có đẹp-đẽ mỹ-mãn cường-liệt
thì nhờ nơi hương-đảng tạo ra ; nếu mấy người
tạo ra thô-bỉ thì sự kiến-thiết cũng thô-bỉ,
hễ mấy người tạo ra đẹp-đẽ thì sự kiến-thiết
đẹp-đẽ, mạnh-mẽ vì bởi khởi đầu đào
tạo bằng một giống mạnh, thì cây lên mạnh,
bằng một giống yếu thì cây sẽ lên yếu.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý, Mồng 9 tháng 6 năm Mậu-Tý
(15-7-1948)
ĐỆ
NHỨT CHỦ-QUYỀN CỦA XÃ-HỘI VIỆT-NAM
Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp về đệ
nhứt chủ-quyền của xã-hội chúng ta. Bần-Đạo
đã giảng kỳ rồi về đệ nhị chủ-quyền tức
là chủ quyền hương-đảng, và đã giải rõ ràng
cái phương-pháp kiến-thiết từ thử là lấy
gia-đình làm căn-bản. Tiểu gia-đình là trong
một nhà liên-quan với cả tông-đường gọi là
họ, là tánh, trung gia-đình tức là tổ-chức
trong hương-đảng của đệ nhị chủ-quyền, tới
đệ-nhứt chủ-quyền làm đầu một đại gia-đình
là một nước.
Ta đã tự hiểu Thánh-ý của Đức Chí-Tôn
sanh ra nòi giống chúng ta, và đã tạo cả tinh-thần
của nòi giống chúng ta, không biết chừng dìu-dắt
tinh-thần để lập chánh-kiến quốc-gia, là lấy
gia-đình làm căn-bổn. Ta thấy rõ-ràng Chí-Tôn
muốn cho cả nhơn-loại chung hiệp cùng nhau làm
một đại gia-đình toàn-cầu thế-giới sau nầy
vậy, nếu Ngài định trước cho một quốc-dân
của Ngài đến lấy tinh-thần đạo-đức làm
một can-bổn cho cả tinh-thần đạo-đức toàn
nhơn-loại, lấy cả quyền-năng lập quốc cho
nước Việt-Nam, đặng làm khuôn-mẫu chuẩn đích
tưương-lai lập chánh-trị toàn-cầu thiên-hạ
mà chớ. Nếu không tự-tôn, ta cũng nhận thấy
rằng điều tưởng-tượng ấy không lầm, bởi
dầu muốn hay không, quyền-năng vô-hình cũng xô-đuổi
dục-tấn các Dân-tộc vạn-quốc phải đi đến
sự chung-hiệp vào đại gia-đình của toàn nhơn-loại
mà thôi.
Aáy vậy, Bần-Đạo thuyết đệ nhứt chủ
quyền do tổ-phụ chúng ta tổ-chức và lưu lại
trong văn-hiếân tức là nhà vua. Đệ nhứt quyền
là giáo-sư, là ông cha của cả nước. Không lạ
gì, chúng ta cũng thấy như ông cha trong tiểu gia-đình
kia vậy. Đức Khổng Phu-Tử nói : “Đạo trị
dân không khác đạo trị gia-đình” ấy đạo
của Ngài vậy. Chúng ta thấy trước khi lên cầm
quyền vì một sơn-hà xã tắc, một nhà đương
quyền tại vị, hay đã thoái-vị cũng vậy, các
vì vương-đế thường có nói nơi cửa miệng
hoặc di-chúc lại, bao giờ cũng mơ-ước cho người
kế-vị xứng-đáng làm cha mẹ của nhơn-dân bá-tánh,
văn-hiến của ta tuy đơn-sơ mà thâm-thúy lắm
là nói ít mà làm nhiều, và sự khó-khăn trọng
yếu chẳng thể tưởng tượng được.
Bần-Đạo nhắc lại một lần nữa là buổi
nòi giống An-Nam ta đây còn kêu cha là bố, mẹ
là cái, mà vị đế-vương nào lên cầm-quyền
được dân tặng là bố-cái, như Bố cái Đại-Vương,
thì sự vinh-hiến của triều-chánh đó không luận
đặng, mà sự vinh-hiến của Đế-Vương đó cũng
chẳng tả được đối với lòng dân. Nói làm
nhiều. Văn-hiến của ta do văn-hiến của Tàu
châm-chế sửa-chữa lại, lấy của người làm
của mình. Lấy căn-bản chánh-gốc của người
ta làm của cải riêng của mình với tư cách đặc-biệt,
tưởng không nước nào khéo leó hơn nước Việt-Nam
ta vậy.
Ta thấy lời một vị Đế-Vương để lại
cho con lên truyền kế cho mình như Hớn Chiêu-Liệt
để lại Hậu-Chúa, có câu căn-dặn rằng : Nếu
nhà cầm quyền nào mực-thước trị dân, biết
tùng theo thì thiên-hạ thái-bình, quốc-thới dân-an,
Hớn-Châu-Liệt sắc Hậu-Chúa viết :” Vật dĩ
thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi
chi” (nghĩa là ông Hớn Chiêu-Liệt căn dặn con
truyền kế rằng : đừng thấy lành nhỏ gọi
nhỏ mà không làm, đừng thấy ác nhỏ gọi nhỏ
mà làm). Vì Đế-vương biết rằng trong tay cầm
sanh mạng quốc-gia, trị cả bá-tánh để lại
cho con một di-ngôn bất-hủ. Nếu cả các Đế-vương
trên mặt địa-cầu nầy, cầm sanh mạng quốc-gia
biết lấy câu ấy làm “trấn-tâm chi-bửu”
cho mình, Bần-Đạo tưởng-chắc, nếu thi-hành
cho đúng thì cả quốc-dân đó hạnh-phúc vô-cùng.
Tổ-phụ chúng ta muốn trong nước ta, dân ta, tình
của vua đối với dân như thế nào cho mực-thước,
chơn-thật như cha đối với con, nếu vua đối
được với dân như cha đối với con, tức nhiên
lấy tình ái làm quyền hành, công chánh làm mực
thước, tưởng không quốc-gia nào trên mặt địa-cầu
nầy hưởng được hanh-phúc hơn nữa. Ta thấy
tấn-tuồng ly-loạn do kẻ cầm quyền định vận-mạng
cho nước, cho dân chỉ biết mình, không biết
bá tánh. Thường nghe nói: “Thiên hạ vi gia”
hại một điều tuy vậy nhà vua ở với bá tánh
như cha ở với con, nên có câu “ Thiên hạ vi
gia” vậy nhà vua lấy thiên-hạ làm nhà, thương
dân như thương con đỏ, trái lại họ lấy thiên-hạ
làm tôi đòi của cải. Thay vì coi thiên-hạ như
nhà như con, họ lại coi thiên-hạ như nô lệ,
tư nghiệp của mình, tức là hiểu lầm khuôn
khổ của tiên Nho ta đã quyết định vậy.
Tổ-chức thật khéo-léo làm sao, chính nhà
vua cũng không thoát cái khuôn viên gia-đình. Nếu
ngôi vua truyền-hiền thì chẳng nói chi, từ khi
các vị Đế-vương truyền-tử đến giờ gia-đình
vẫn ở bên cạnh họ, họ phải bảo trọng gia-đình
trước nhứt bởi gia-đình của họ là đệ nhứt
gia-đình trong quốc-gia. Ta thấy từ khi các quốc-gia
nầy chẳng chịu ảnh-hưởng của Nho-tông mà
lập quốc, đã trở nên suy đổi bởi nguyên căn
nào, do trị gia bất-nghiêm ! Cho nên cổ truyền
tai hại hơn hết là cái loạn trong cung tần, trong
vòng hoàng-tộc mà sản xuất, đã hiển nhiên
như vậy không chối cải được. Các vị vua trị
gia bất-nghiêm, biểu không bại-hoại sao được,
mà đệ nhứt gia-đình thất đạo có liên quan
mật thiết đến cả toàn bá-tánh thất đạo.
Nhà vua côt-yếu coi bá-tánh như con đỏ, coi nước
nhà như đại gia-đình, giữ đạo nhơn-luân làm
trọng hệ, đã có quyền sanh-sát, mà nếu quyền
ấy không chuẩn thằng, biểu sao dân trong nước
không thống-khổ. Khi sự thống khổ ấy dân chịu
đựng nổi chăng nói chi, thảng như quá sức không
chịu nổi được nữa, sanh loạn lên thì triều
chánh và cả nước nhà phải nghiêng đổ.
Sự kiến-thiết quốc-gia lấy gia-đình làm
gốc, ta không thể chối rằng không biết gia-đình
ấy hay là từ bỏ đạo nhơn-luân duy có theo lối
vô thần thì mới chối đạo nhơn-luân đặng,
nếu không chối đạo nhơn-luân, tức không chối
đạo gia-đình, mà không chối gia đình thì cũng
không hề chối tương-lai vận-mạng của tổ-quốc
mình được. Aáy vậy căn-bản của phong-hóa Việt-Nam
ta do nơi đạo nhơn-luân, nơi gia-đình, phân làm
ba hạng : “ Hạ, Trung và Thượng gia đình”;
Thượng gia-đình là quốc-gia, trung gia-đình là
hương-đảng, hạ gia-đình là tông đường, không
có chi là lạ, là khó, nhưng căn nguyên ấy ta
không sửa đổi đặng bởi ba bực hạ, trung,
thượng của cơ tấn-hóa thế nào thì gia-đình
cũng thế ấy. Cả Càn-Khôn có thượng giái, trung
giái, hạ giái, mặt luật thiên nhiên của sự
tiến hóa trật tự ấy không thể tiêu-hủy đặng.
Tổ-chức xã-hội của chúng ta khéo léo
làm sao đâu, Bần-Đạo dám chắc rằng cao thượng
hơn hết. Hại thay! Quốc dân ôm của báu trong
tay mà không biết quí trọng, liệng rồi chạy
theo ăn mót đồ bỏe của thiên-hạ, lấy làm
của. Đức Chí-Tôn đến đặng thức tỉnh nhơn
sanh, nên mới có câu Ngài nói với nhà vua : “Nam
phong thử nhựt biến nhơn phong” là thêm ý rằng
: tổ-phụ chúng bây để lại cho bây một phong-hóa,
nó sẽ biến thành phong-hóa của toàn nhơn loại
vậy.
Ngài cho biết rằng chúng ta vốn có của
báu, mà của báu ấy thiên-hạ đang tìm kiếm
đặng sống.
Tại
Báo-Ân-Từ Thời Ngọ rằm tháng 4 năm Mậu-Tý
(23-5-1948)
Ý
NGHĨA VỀ NHẠC “ NHẠC TẤU HUÂN THIÊN”
Có
điều mầu nhiệm nên nay Bần-Đạo giảng về
Lễ-Nhạc để tránh sự thất lễ khi vô hành
lễ, vì không hiểu nghĩa lý, không biết thủ
lễ theo phép cho y khuôn khổ khi “ Nhạc tấu
Huân-Thiên”.
Bên Á-Đông, trong nền đạo Cao-Đài có
trống, có chuông, còn bên Aâu-Châu có chuông mà
không có trống là tại sao ? Tại sao Á-Đông dùng
trống còn Aâu-Châu dùng chuông ? Trống âm-thinh
của Đạo.
Thuở chưa có Càn-Khôn Vũ-Trụ, Đạo-giáo
có dạy : Hai lằn nguơn-khí dụng lại nổ ra khối
lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái-Cực. Chủ ngôi
Thái-Cực là Đức Chí-Tôn. Khi nào trời sét nổ,
chúng ta nghe sao ? An-Nam mình kêu “ầm” còn theo
Đạo-Pháp kêu “ùm”. Vì cớ phép Phật sửa
lại là “úm” : úm ma ni bát rị hồng. Câu ấy
đọc có nghĩa là nắm cả quyền năng vũ-trụ
quản suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra sao
? Khi nổ rồi còn nghe tiếng bay xa, nguyên căn
của tiếng nổ là tiếng trống, còn giọng ngân
là tiếng chuông. Aáy vậy, nguyên căn của Đạo-Giáo
do bên Á-Đông nầy, có tiếng trống ngân bay qua
Aâu-Châu, nên các Đạo-giáo Aâu-Châu đều là
hưởng ứng theo Phật-Giáo mà Phật giáo xuất
hiện nơi Á-Đông. Vì vậy mà các nền Tôn-giáo
phụ thuộc đều không dùng theo nguyên tắc căn
bản.
Còn tại sao khi vô làm lễ, lúc “ Nhạc
tấu Huân-Thiên tức là lễ hiến dâng sự sống
cho Đức Chí-Tôn là Thầy của cả Càn-Khôn vạn-vật,
Bần-Đạo thường nhắc-nhở tất cả phải đứng
ngay ngắn, nghiêm-chỉnh. Nhạc là hưởng ứng
của cả khối sanh quang của Càn-Khôn vạn-vật
đồng thinh. Nơi Á-Đông có câu “ Biểu thổ
cách mộc thạch kim dử tự trước nãi bát âm”.
Các vật vô năng mà nói đặng có trật-tự niêm
luật hòa nhau là đạt-đạo, hiệp lại với tiếng
kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người
cùng vạn-vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc-Hư-Cung
có đối liền :”Bát hồn tư mặc ca Hoàng-Lão,
vạn-vật đồng thinh niệm Chí-Tôn “.
Khi nhạc trổi, cả thảy phải im-lặng,
hiến cả âm-thinh sự bí-mật ấy gọi là Phi-tướng-lễ
chủ ý là trình tấu với Đức Chí-Tôn rằng:
các con biết được mầu nhiêm căn-nguyên của
cha lành muốn cho các con nối nghiệp theo một
khuôn phép trường tồn. Lễ đó trọng hệ như
đặng Tam-Bửu vậy. Bần-Đạo dặn một lần
nữa : khi nào xướng “Nhạc tấu huân thiên”
thì phải đứng bình tịnh, người nào có vô
không kịp thì đứng ngoài mà thôi.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý đêm 19 tháng 5 năm Mậu-Tý
(27-5-1948)
TÂN
NỘI-CÁC QUỐC -GIA VIỆT NAM
Ngày hôm nay là ngày của Nội-Các Tân Chánh-Phủ
toàn quốc đến tại Hương-Cảng, trình danh-sách
đến cả Nội-Các cho Đức Bảo-Đại phê-chuẩn.
Toàn Đạo đều hiểu rõ tình-trạng hai
năm nay, nước nhà và Dân-tộc Việt-Nam đã chịu
thống-khổ dường nào. Họa nỗi-loạn khốc-liệt
thế nào, cả nòi-giống đổ máu vô lối dường
bao, hỏi do taị đâu ? Từ Trước Tổ-phụ chúng
ta để lại một nền văn-hóa, phong-tục tối
cổ, hiệp chúng ta lại thành Quốc-gia. Tiên-Nho
cho rằng hoặc nhà vua, hoặc Triều-Chánh , hoặc
toàn-dân của nước cầm quyền thống-trị. Văn-hóa
tối cổ chúng ta từ trứơc có một khuôn-luật
: Giữ Đạo để trị nước. Hễ loạn-lạc nước
không bình-phục đặng là do toàn quốc-dân thất
Đạo. Quốc-gia Việt-Nam thế nào thì nhơn-loại
trên mặt địa-cầu nầy cũng thế đó.
Nạn loạn-lạc hoàn-cầu, Bần-Đạo thuyết
hôm qua chỉ rõ nguyên do nhơn-loại thất đạo
mà nẩy sanh. Muốn cứu-vãn tình-thế Tiên nho
buộc cả nhà vua và Triều-chánh dĩ chí toàn-dân
phải ăn chay, nguyện, tế, gọi là lễ Nam-Giao.
May thay Tân Chánh-Phu tức nhiên Tân Nội-Các
toàn-quốc lại thấu đáo điều ấy, nên khi Bần-Đạo
ở Sài-Thành, chính mình Thủ Tướng Xuân đến
nhà Bảo-Sanh-Quân cầu Bần-Đạo xin hành-lễ
khẩn-nguyện Đức Chí-Tôn ban ân lành cho Quốc-dân
Việt-Nam. Đã biết hiểu cơ bí-mật ấy tức
nhiên chúng ta định họ học Đạo đặng. Một
xa thơ đã bốn ngàn năm lịch-sử đi đến giai-đoạn
khó-khăn nguy-hiểm, con đường qua rồi xa-thơ
quay bánh lăn tới đâu, chúng ta dòm thấy toàn
xương máu. Ngày nay đến đường vinh-quang trước
mắt, cần yếu toàn dân biết Đạo trọng-hệ
hơn là đường nào. Nhưng cả tâm đức của toàn
quốc cố gắng tranh-đấu cho tương-lai, hạnh-phúc
của nước nhà là những tay nhứt-định đẩy
xa-thơ ấy tiến mãi mà thôi, mà được cùng chăng
là do nơi tinh-thần đạo-đức của toàn quốc-dân
đó vậy.
Hôm nay, chúng ta vì tương lai của tổ-quốc
đặt nén hương lên Thiên-bàn thành khẩn Đức
Chí-Tôn ban ân cho Tân Chánh-Phủ Việt-Nam, được
thành-công mỹ-mãn.
VÂN MẠNG QUỐC-DÂN VIỆT-NAM
Nội
sáng mai nầy là ngày định vận mạng tương-lai
tiền-đồ Tổ-quốc cả nòi giống Việt-Nam của
chúng ta vậy. Vì cớ nên đêm nay mới có cuộc
lễ nầy, đặng cầu nguyện Đức Chí-Tôn cho
được kết-liễu mỹ-mãn và đôi đàng lấy thật
tâm hòa-giải, hầu vãn hồi trật-tự, an-ninh
cho nước nhà.
Kỳ trước, khi Bần-Đạo ở Hồng-Kông
về, Bần-Đạo có lên tòa giảng nầy nói rằng,
cái khó chẳng phải do nơi Pháp nữa, mà lại
do Việt-Nam ta, bao giờ cũng vậy, nhơn-tâm vẫn
thế. Trải tám mươi năm lệ thuộc, chúng ta chịu
thống-khổ tâm-hồn đã nhiều rồi, bây giờ
chúng ta hẳn đòi lại, đòi cho kỳ được, và
phải được mà thôi, nhứt quyết như vậy. Cả
đồng chủng của chúng ta ngày nay tinh thần đã
đến bực lão-thành rồi, chẳng còn ưng chịu
nhục-nhã tâm-hồn như xưa nữa. Đòi, đòi đặng
dùng ai là người yêu nước, thật tâm ái quốc,
không phải nói trong cửa Đạo mà thôi nói tất
cả mỗi cá-nhân trong xã-hội , nếu ai là người
thật tâm ái-quốc, muốn lo lắng cho vân mệnh
nước nhà, thì cần phải suy đi xét lại và nhận
định sự tấn thối cho tường, mỗi mỗi việc
gì cũng phải để trọn tâm nghiên-cứu cho thấu
lý mới được. Định vận mạng cho một nước
không phải là dễ, rất đổi việc làm cá nhân
là việc nhỏ mà còn phải suy gẫm định tâm
rồi mới quyết-đoán, để cả tinh-thần trí-thức
đặng giả-quyết thay, huống chi cả vân mạng
của một nòi giống thì cần phải kỹ lưỡng
hơn nữa kia.
Hại thay ! những kẻ lãnh đạo kháng-chiến,
trong buổi tinh-thần của một nước đã chịu
tám mươi năm lệ-thuộc đang bồng-bột, mà những
kẻ ấy ơ-hờ chẳng để hết tâm-hồn nghiên-cứu.
Bần-Đạo nói thiệt, họ không ái-quốc chi hết,
bất quá là một trường tranh-đấu đặng đoạt
lợi-quyền mà thôi, nếu thật tâm ái-quốc thì
họ đã giải- quyết xong rồi, cái quyền sở-hữu
của mình là thiên-hạ thiếu nợ mình, thì mình
đòi cần gì phải đánh lộn với họ, cứ chiếu
giấy tờ mà ra đòi, nếu không trả thì kiện,
chớ đánh kẻ thiếu nợ thì nó nổi khùng đánh
lại, nó có chịu thua mình đâu, rồi nó không
chịu trả mới làm sao nó ? Những kẻ lãûnh đạo
ấy đã vô ý-thức chắc hẳn vậy. Vì bởi cớ
mà Bần-Đạo đến giải-quyết vấn-đề của
nòi giống chúng ta là duy có lấy cái quyền sở-hữu
ấy đặng đòi mà thôi.
Lập lại một lần nữa, nếu Bần-Đạo
không bị đồ-lưu nơi hải-ngoại, thì không cần
phải đánh nhau. Bất chiến tự nhiên thành, nền
chơn giáo sẽ đem nòi-giống ra khỏi sự thống-khổ
như thời gian Juifs, Đức Chí-Tôn đã sai Jêsus
Christ đến giải-khổ vậy. Nếu thiên-cơ không
định dường ấy thì Đạo không có giá-trị
gì hết. Tại sao ? Chí tôn đã đến cầm tinh-thần
của nòi giống Việt-Nam bốn ngìn năm văn-hiến,
đặng làm khí-cụ quyết-chiến với tinh-thần,
coi có giải-thoát nòi giông Việt-Nam đặng chăng,
coi có thắng được hay không cho toàn con cái của
người ngó thấy.
Không phải dùng ngọn gươm, mũi súng mà
quyết-đoán thiên-hạ đặng. Tại lực cường-liệt
của gươm súng không quyết-định thắng thiên-hạ
đặng, quyết hẳn như vậy. Ta nên lấy đó mà
làm bài học và cho dân tộc Việt-Nam thấy rằng,
chúng ta có một mãnh-lực còn mạnh hơn nguyên-tử
lực nữa kìa, chẳng lực-lượng nào tàn-sát
cùng động đến được là tinh-thần đó vậy.
Bần-Đạo muốn cho nòi giống Việt-Nam thấy được
lực lượng tinh-thần nhơn nghĩa, đạo-đức,
đã thâu đoạt thắng lợi một cách vinh-diệu.
Ta hãy để mắt xem và cả để cả đầu óc suy-nghiệm,
coi hành-tàng của kẻ vô đạo, con loàn, tôi giặc
kia, có thắng được tinh-thần của tổ- tiên
Việt-Nam lưu lại đó hay chăng cho biết.
Ta mở mắt xem bên nào thắng, bên nào bại.
LỂ TIẾP RƯỚC ÔNG TỔNG-TRƯỞNG
BỘ-PHÁP-QUỐC
HẢI-NGOẠI
Ngày hôm nay, Bần-Đạo đình sự khảo-cứu
phong-hóa của nhà Nam ta về đạo nhơn-luân, đối
với đạo nhơn-luân của cả nhơn-loại trên mặt
địa-cầu nầy, để nói về buổi lễ hồi sáng
nay tổ-chức với ý-nghĩa, chí hướng gì ?
Vả chăng Ông Chevance Bertin, là đại-diện
của Tổng-Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại,
lãnh mạng lịnh của quan Tổng-Trưởng sang Đông-Dương
đặng quan-sát tình hình liên-quan Việt-Pháp, tức
là tình-hình đương-nhiên của nước nhà ta đối
với nước Pháp. Aáy là một yếu-nhơn có thể
làm phát-ngôn-viên, đặng đem sự thật trình
bày cho dân-tộc Pháp hiểu biết tình-trạng hiện
tại, nên Bần-Đạo đến tại Sài-thành, để
có lời ước vọng cùng Ông quan sáu De Lafour là
muốn gặp ông Chevance Bertin.
Thời buổi đương-nhiên nầy, chúng ta đừng
để cho thiên-hạ có thể nói rằng, không hiểu
tâm-lý của nòi giống Việt-Nam như thế nào,
hễ gặp dịp là phô bày, nhứt là chúng ta là
người đạo-đức, càng cần phải trải sự thật
trắng ra trước mắt, cho người ta quyết-đoán.
Bần-Đạo vừa nói : Ông Chevance Bertin là
một yếu-nhơn có thể làm phát-ngôn-viên cho Việt-Nam
nơi nước Pháp. Ngài là một vị trung-tướng
hồi hưu, nay làm chủ nhiệm tờ báo Climat, là
tờ báo được quốc-dân Pháp tín-nhiệm. Bần-Đạo
bày cuộc lễ hồi sáng, đặng nhờ toàn con cái
của Đức Chí-Tôn nhứt tâm, nhứt đức, tỏ
rõ thiệt-tướng, đạo-đức tinh-thần của chúng
ta ngày nay như thế nào, cho Ngài ngó thấy mà
thôi. Bần-Đạo dám chắc, không hề nói dối,
đó là làm cho tinh-thần của Ngài để ý suy-nghĩ
lắm vậy. Lạ gì, thế thường thiên-hạ hay nói
(lời lặp lại của Đức Chúa jésus Christ) : mắt
với mắt, răng với răng (oeil pour oeil dent pour
dent) kẻ vô nhơn-tình mà mình lấy tánh-cách vô
nhơn-tình ấy đối lại thì vẫn vô nhơn-tình
mãi thôi, không khi nào thấu nhơn-tình đặng,
lấy oán-hận mà trả lại sự oán-hận, thì nó
vẫn còn mãi mãi. Trên mặt thế-gian chưa ai biết
được quyền-năng tinh-thần đạo-đức, quyền-năng
ấy vô đối, nếu ta biết nắm lấy nó trong tay,
thì nó là cây gươm, nền Đạo gọi Huệ-kiếm.
Đem tình-cảm đặng cảm-giác thiên-hạ, tấn-tuồng
ấy Bần-Đạo đương làm đây với một chánh-sách,
từ khi biết Đạo và ra đảm-nhiệm phận-sự
thiêng-liêng của Chí-Tôn phú-thác. Bần-Đạo
đã biết rõ sự bí-mật của cơ-chuyển-thế
nầy và tánh-chất của loài người, thấu-đáo
tận-tường rằng không bao giờ dùng cường-lực
đặng đè nén, ép buộc tinh thần loài người,
đặng đem vào thánh chất cho được. Muốn chuyể
theo chánh-sách của Đức Chí-Tôn thì duy có lấy
nhơn-đức đối với hung-bạo, lấy hiền đối
với dữ, lấy tâm quảng-đại bạo-la khoan-dung
tha thứ của Trời đát đối với tánh-đức hẹp-hòi
của loài-người, lấy tâm bác-ái trải ra toàn
tâm-lý loài người đặng trừ cái tánh gian-xảo,
hung-tàn, quỉ-quyệt của họ. Nếu chúng ta đị
theo được đúng như vậy, mới có thể xứng-đáng
là kẻ thay mặt cho Đức Chí-Tôn cầm cơ chuyển-thế
lại thế-gian nầy.
Bần-Đạo đã làm đặng như vậy, và sẽ
còn làm-nữa. Tình-trạng của chúng ta làm ngày
hôm nay để cho thiên-hạ thấy tâm-đức chơn-thật
của chúng ta đã trải trước mắt họ, thì họ
cũng phải đối lại với ta chơn-thật như vậy.
Coi vậy mà ngoài mặt ta tinh-thần đương
thanh-tịnh sẽ có giờ xao-xuyến, chớ thiên-lương
tâm-lý vô đối trong phút giây tỉnh-giác và phút
giây ấy có thể làm môi-giới cho ta tự tỉnh
cả kiếp sống của mình.
Ta đã tìm phương tỉnh-giác thiên-hạ, Phật
Thích-Ca có nói : “ Tự giác nhi giác tha” có
giác tha, mới hiểu cuộc lễ ngày hôm nay không
phải là bỏ, ngày mệt mỏi hôm nay không phải
là một ngày vô ích và sự kết-quả tâm-tình
của chúng ta đối với Đại-diện của nước
Pháp đến viếng Tòa-Thánh vị ấy sẽ thấy và
hiểu chúng ta, thì ảnh-hưởng đó một ngày sau
mà là ngày gần đây thôi, sẽ đem đến cho Quốc-dân
Việt-Nam những thắng lợi bất ngờ.
VÌ SAO HỘ-PHÁP CẦM QUYỀN NHỊ HỮU-HÌNH ĐÀI
Bần-Đạo
lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai đạo đến
giờ Bần-Đạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như
kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được quyền
diệu-pháp, điều mà mấy người không thể tưởng
tượng được, vì từ khi mở đạo mới có lần
đầu. Hay là tại chúng ta đồng thinh tụng kinh
mà được như vậy chăng ? Aáy vậy, từ đây
về sau, chúng ta vẫn làm y như kỳ nầy mãi mãi.
Hôm nay, Bần-Đạo xin tạm đình khảo-cứu
nền phong-hóa của Việt-Nam đối với dân-tộc
van quốc đặng thuyết một vấn-đề trọng yếu
từ thử đến giờ chưa ai thố lộ. Ngày hôm
kia, Bần-Đạo gặp Đức Lý Giáo-Tông vấn đáp
cùng Ngài về một lý-thuyết tối trọng yếu
trong nền Chánh-giáo của Đức Chí-Tôn Aáy vậy,
xin cả thảy bình-tâm lắng nghe Bần-Đạo minh-thuyết
và rán nhớ, bởi vì bài giảng Đạo hôm nay có
điều bí-ẩn tiên-tri ấy kết-liễu cùng chăng
không rõ, nhưng hiện giờ ta có thể đoán xét
được.
Đức Lý Giáo-Tông có giáng cơ nói, giao
quyền Cửu-Trùng trong tay Bần-Đạo đặng thống
nhứt quyền hành chưởng-quản Nhị Hữu-Hình-Đài,
ấy là do Ngọc-Hư-Cung quyết-định, tức là thiên-điều
quyết-định vậy. Điều ấy Bần-Đạo lấy làm
khó nghĩ, lấy trí mà tưởng tượng. Ngoài ra
người nào khác hơn là Bần-Đạo thì không để
ý, nhứt là khi chịu nhận đảm-nhiệm ấy làm
cho tinh-thần Bần-Đạo kiếm hiểu vì cớ nào
Ngài cho Bần-Đạo quyền thống nhứt, mà tìm
kiếm không ra.
May thay ! Đức Lý Giáo-Tông đến, Bần-Đạo
thú-thiệt xin Ngài nói rõ cho biết đôi việc
nhỏ đặng chỉnh-đốn lại, và xin lỗi đặng
vấn-nạn Ngài vấn-đề ấy. Bần-Đạo nói:
“ - Bạch Ngài sự bí-mật ấy Ngài có
thể cho tôi biết đôi chút đặng tôi mới an-tâm,
an-trí được”.
Ngài cười nói : “ Bần-Đạo vẫn biết
trước thế nào Hiền-Hữu cũng vấn-nạn. Nhưng
Bần-Đạo cũng đã cố-tâm để đối đáp lại
cùng Hiền-Hữu. Trước kia muốn biết sự bí-mật
ấy, chúng ta nên tìm hiểu Nhị Hữu-Hình-Đài
là gì ? Bần-Đạo xin giải nghĩa : Cửu-Trùng-Đài
là chơn-tướng của Cửu-Thiên Khai-Hóa tức là
cơ hữu-vi của Càn-Khôn võ-trụ, do Cửu-Thiên
Khai-Hóa tạo-thành.
Hỏi : Bởi quyền-năng nào tạo thành ?
Do nơi quyền-năng vô đối của Chí-Tôn.
Pháp là thành-tướng ấy là do nơi Pháp từ thượng
cổ đến giờ liênhiệp Vạn-Linh và Chí-Linh.
Bởi vậy ta tìm đạo là côt-yếu tìm hiểu cái
bí-pháp ấy như thế nào và có phương-thế gì
làm cho ta đoạt đặng chăng ? Aáy vậy, Cửu-Trùng-Đài
và Cửu-Thiên Khai-Hóa Tạo-đoan cả vạn-linh trong
Càn-Khôn võ-trụ. Chúng ta ngước mặt lên trời,
mắt ta thấy hằng-hà sa-số là địa-giới, ta
gọi là sao, mỗi vì tinh-tú ấy là một quả địa-cầu
có người ta ở, cho nên Đức Chí-Tôn mới nói
rằng : Càn-Khôn võ-trụ nầy chứa đầy vạn-linh.
Nói rõ hơn Cửu-Trùng-Đài là Đời.
Còn Hiệp-Thiên-Đài là pháp-giới tạo ra
vạn-linh, nó là Đạo, rõ rệt như vậy.
Bây giờ Bần-Đạo hỏi tại cớ nào Ngài
đến đây, cầm-quyền trị thế. Ta tìm hiểu
cao sâu hơn nữa sự bí-mật ấy. Hiện thời chúng
ta thấy gì ? Ta thấy đời đương phấn-khởi
bồng-bột, tự-năng, tự-tạo, tự-đoán, tự-chủ,
không còn đạo-đức gì hết. Đương nhiên có
hai hình-tướng:
1/ Cộng-Sản tinh thần thể chất.
2/ Các Ban máy móc, cách-vật, hóa-học, tức
thuộc hình-tượng thể-chất.
Hai hình-trạng ngày nay đối chọi nhau. Thảng
ngày kia nó hiệp đồng lại, thì thể-chất ấy
có hình lại có hồn-phách thì ta thử tưởng-tượng
trên mặt địa-cầu nầy sẽ thế nào. Thể-chất
thì lúc nào cũng xu-hướng theo thể tánh duy-vật
mà thôi. Thảng các Tôn-giáo đương cầm tương-lai
linh-hồn của loài người, trên mặt địa-cầu
nầy không đủ năng-lực thì cả tài-năng thể-chất
sẽ xô đuổi cả xác-thịt lẫn linh-hồn của
con người đến chỗ tự-diệt. Aáy vậy, tinh-thần
tức là đạo-đức, phải như thế nào đặng
đối phó cho vừa sức lại thể-chất ấy. Đời
bây giờ quá tấn-triển về hình thể, phải có
cơ Đạo đủ năng-lực tỉnh-thức tâm-hồn của
loài người và giữ -gìn dìu-dắt cho mới tồn-tại.
Mà ta thấy các Tôn-giáo hiện-hữu tại địa-cầu
nầy đã mất quyền. Điều đó quyết hẳn vậy
! Thiên-hạ tinh-thần đã loạn mà không ai cầm
quyền điều-khiển nên tự-do sát-hại lẫn nhau.
Chí-Tôn đến, đến đặng cứu con cái của
Người.
Người đã làm thế nào ? Chẳng có chi lạ.
Người chỉ tăng cường đạo-đức làm giềng
mối cho tâm-lý loài người đặng bảo tồn sanh-mạng
cho cả nhơn-loại với phép duy-tâm thì Đời mới
tồn-tại.
Người luận tới đó, Bần-Đạo nói :
“ Than ôi ! Đạo Cao-Đài đã hai mươi ba năm
mà còn lẩn-quẩn trong nội-địa Việt-Nam, có
đâu đu đảm-lực ra toàn-cầu đăng độ rỗi
nhơn-sanh, e đặc-phận ấy quyết-định con đường
của Đạo còn dài, còn sơ-cấp lương-lai vân-mạng
loài người đương cấp-bách, làm thế nào chuyển-thế
cho kịp đặng hoàn-tất đảm-nhiệm thiêng-liêng
của mình”.
Ngài trả lời một câu rất hữu-duyên,
chúng ta không thể tưởng-tượng được. Ngài
nói rằng : “ Cái nhà máy xay, vốn nó không cấy,
không gặt mà nó vẫn có gạo cho ra toàn nhơn-sanh
ăn; Đạo Cao-Đài không ra khỏi nước mà có thể
làm trọn phận-sự trọn vẹn đặng “.
Bần-Đạo hỏi câu ấy có ý-nghĩa thế
nào ?
Ngài đáp; “Mối chơn-truyền của Đức
Chí-Tôn đem Đạo đến tại thế là mối dây
liên-lạc tương-quan cùng các Tôn-giáo trên thế-giới,
đương-nhiên cầm-quyền nhơn-loại bởi không
có giềng mối kết-liên với nhau thành ra chia
rẽ, phân biệt trắng đen, hơn thế. Trận giặc
Tôn-giáo trên địa-cầu hiện giờ ta thấy tại
Aán-Độ và Palestine có thể nào làm cho các Tôn-giáo
hiệp-đồng tâm-đức đặng chăng. Duy có năng-lực
của Chí-Tôn tạo thành mối dây liên-hệ các
Tôn-giáo cùng nhau đó thôi” .
Bần-Đạo vấn nữa : “Thảng các Tôn-Giáo
ấy Chí-Tôn' đem dung-hòa đặng họ tương-hội
cùng nhau, mà họ không nghe, thì ta mới làm sao
?”
Ngài nói : “Dầu đương nhiên họ không
nghe, nhơn-sanh sẽ biết điều trọng- yếu ấy
mà đòi hỏi thì họ phải chịu, chừng ấy nhơn-sanh
buộc hiệp, phải hiệp, bằng chẳng vậy họ
sẽ tự-diệt lấy họ.
“Aáy vậy, Đức Chí-Tôn định cho Hộ-Pháp
cầm-quyền hai Đài, tức Thiên-điều quyết-định
Đạo phải làm chủ của Đời, oai-quyền ấy
sẽ cứu Đời khỏi tận-diệt”.
Vì cớ Ngài nói Thiên-điều trong tay Bần-Đạo
là vậy đó.
QUẢ KIẾP CỦA DÂN-TỘC VIỆT-NAM
Cùng
mấy chị mấy em, từ thử tới giờ chúng ta vẫn
sống với đời, chúng ta thường thấy điều
gì trái với nguyên-do, tức nhiên phải tìm cho
thấu-đáo hoặc đoán cho được. Tinh-thần như
đường may mà mũi kim không ăn vải, máy sẽ ắt
có sứt mẻ chi đó, còn như xay bột thấy nghẹn
không xuống thì biết thiếu nước, cái gì cũng
có nguyên-do của nó, phải tìm cho biết hoặc
đoán cho ra lẽ.
Hiện giờ có một việc dị-hợm là nước
Pháp chịu trả tự-do độc lập thống-nhứt,
trả trọn-vẹn mà từ thử đến giờ Pháp đã
nói nếu chúng ta tự trị được, tự bảo-vệ
được, nên biết chúng ta có thể đem hạnh-phúc
lại cho nòi giống được thì người ta sẵn lòng
hứa trả, sợ e cho mình không hưởng được hạnh-phúc
mà còn nguy-khổ nữa, nên buộc người ta phải
gánh cả trách-nhiêm đã tám chục năm qua còn
lưu lại mối thâm tình của hai nòi giống. Hai
nữa là quyền-lợi đã tự tạo trên tám chục
năm còn lưu lại để mưu cầu sự sống chung
với nhau cùng tạo hạnh-phúc chung cho hai dân-tộc.
Nếu người ta sẳn lòng trả cho mình vi-chủ lấy
thì có nhiều người lấy làm lạ, nhứt là hạng
thượng-lưu trí-thức của Pháp, họ rất ngạc-nhiên
rằng nước Pháp không hề cản-đảng, không hề
từ-chối cho dân-tộc Việt-Nam thống-nhứt và
độc-lập mà tại sao dân Việt-Nam lại còn đánh
Pháp, họ hỏi như vậy đó ? Hồi nước Pháp
muốn trả những điều đó cho tay khác, nghĩa
là muốn đưa bướng cho rồi, nhưng sực nhớ
lại là không phải chủ nên đòi, mà đòi mãi
không lấy lại được, rồi vì sự hiểu lầm
đó sanh lối lạ thường lắm vậy ! Bởi cái
rối đó mà tôi bắt tội họ, họ không thể
chối được. Họ lại nói thảng như lời của
Pháp không cho mình thống-nhứt, không chịu trả
nước cho mình thì mình sẽ giết họ chứ, bởi
họ là kẻ thù. Tại sao trở lại giết nòi-giống
của mình, gây nạn tương-tàn tương-sát lẫn
nhau ? Nên họ cho đó là đảng cướp, đảng cướp
ấy lợi-dụng danh-từ ái-quốc để giết người
cướp của mà thôi.
Lạ-lùng thay ! Đêm hồi hôm
tôi thuyết rõ tại quả kiếp của nòi-giống
mà chúng ta ngày nay phải chịu hình khổ. Đời
trước vay, đời sau phải trả, tấn tuồng đau
thảm cốt-nhục tương tàn nầy còn nhiều nữa,
vì buổi trước đã tạo nên hay lưu lại mà thôi,
làm sao đoạn được, có phương gì đoạn được
chăng ? có chứ.
Điều chướng-ngại hiện giờ là tôi tưởng
phải khó-khăn về phía người Pháp, trái lại
Đức Bảo-Đại làm khó người ta, làm cho đình-đãi
cuộc thương-thuyết, mà một ngày chưa thương-thuyết,
là một ngày nhơn-sanh chết chẳng biết bao nhiêu.
Tại sao vậy ? Tại quả-kiếp chưa thường đủ,
nhơn-sanh phải chết phải trả món nợ còn đang
đòi, trả bằng máu, bàêng con số sanh-mạng.
Vì cớ mới có sự chứng-ngại lạ-lùng vừa
nói. Mà nợ ấy đòi bằng sanh-mạng, bằng máu
tức là đòi cốt-nhục của mấy bà đó chớ,
không con cũng cháu hoặc con thân quyến. Đâu xúm
lại cầu nguyện Đức Phật-Mẫu can thiệp giùm
cho, sao thờ-ơ quá vậy ! Còn bên phái nam cũng
vậy, không biết chừng, giọt máu chưa trả nợ
nó còn ở trong mấy người, phải xúm nhau cầu
nguyện.
|