Ði đạo  Tam kỳ  Phổ độ

Tòa Thánh  Tây Ninh

 

 

LỜI THUYẾT-ĐẠO

của ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm Mậu-tý (1948)

QUYỂN NHÌ

HỘI-THÁNH GIỮ BẢN QUYỀN

 

IN LẦN THỨ NHẤT

NĂM QUÝ-SỬU

1973

 

HIỆP-THIÊN-ĐÀI

Văn phòng THƯỢNG-SANH

Số : 121/TS

ĐẠI- ĐẠO TAM-KỲ PHỔ –ĐỘ

(Tứ thập ngũ thiên)

TÒA-THÁNH TÂY-NINH

 

 

THƯỢNG-SANH CHƯỞNG-QUẢN HIỆP-THIÊN-ĐÀI

 Kính gởi: Hiền Huynh HIẾN PHÁP

CHƯỞNG -QUẢN BỘ PHÁP-CHÁNH

Tham chiếu: Quý thánh-thơ số 15/ĐS ngày 12-6-1970.

Kính Hiền-Huynh.

Theo đề-nghị của Hiền-Huynh tôi chấp-thuận cho Ban Đạo-Sử  xuất-bản để phổ-biến những bài Thuyết-Đạo tại Tòa-Thánh của Đức HỘ-PHÁP từ năm 1946 đến năm 1955.

Những bài giảng được chọn để ấn hanh phải có sự kiểm-duyệt của Ban Kiểm-Duyệt Kinh sách.

Nay kính

TÒA THÁNH, ngày 14 tháng 5 Canh-Tuất (dl. 17-6-1970)

THƯỢNG SANH

(ấn ký)

 

LỜI TỰA

Những bài Thuyết-Đạo trong quyển sách này là lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ-Pháp, Một vị Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một bậc vĩ-nhân của thế-hệ, nên một Uûy-Ban sưu-tầm và biên-tập thành-lập có Đức Thượng-Sanh chấp thuận, để xúc-tiến việc sưu-tầm và biên-tập đã có kết-quả mỹ-mãn, nên Uûy-Ban đem ra ấn-hành cho toàn đạo được lãnh-hội lời vàng tiếng ngọc nói trên.

Trong Ban Đạo-Sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một Thư-Viện tàng-trữ các loại kinh-sách cổ-kim và Đông Tây cho các nhà khảo-cứu và toàn đạo có thêm tài-liệu, những quyển “LỜI THUYẾT-ĐẠO” của Đức Hộ-Pháp sẽ lưu-trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc-giả đến xem .

Đức Hộ-Pháp là một trong những vị tiền-bối khai-sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực-hiện trước hết chủ-thuyết Tam-Lập :“Lập Đức, Lập Công, Lập Ngôn “.

Về lập Đức, thì Đức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng mà khai-sáng mối Đạo cho toàn sanh-chúng được chung hưởng hồng-ân của Đức Chi Tôn (Ngọc-Hoàng Thượng-Đế).

Về lập Công, thì Đức Ngài vừa lập đức  vừa lập công trong việc khai-sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại-nghiệp Đạo ở cỏi thế nầy. Nếu ngài không phải là một đại-đức thì làm sao thành-công được ?

Về lập Ngôn, thì Đức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài thuyết-đạo mà chúng ta đang thưởng-thức và còn nhiều lời giáo-huấn cao-siêu khác nữa mà chư qui độc-giả và toàn Đạo nên lưu-ý.

Nhơn-danh Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng-Ban-Đạo-Sử, tôi xin trân-trọng giới-thiệu cùng độc-giả bốn-phương quyển-sách quí-giá nầy đáng được lưu-niệm mãi-mãi.

Trân trọng kính chào.

Hiến Pháp TRƯƠNG-HỮU-ĐỨC.

 

LỜI TRẦN THUYẾT

Mỗi lần ly-loạn là mỗi lần thư-tịch  bị làm mồi cho khói lữa…

Nhìn vào lịch-sử những vụ “ PHẦN THƯ “ những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ-luận trước những biến-cố, tình-trạng nầy đã kéo dài qua các thời- đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhằm vào mục-đích thực-hiện chánh sách ngu-dân và đồng hóa triệt-để.

Những kinh-nghiêm đau thương âý là nguyên-nhân thúc-đẩy chúng tôi cố-gắng thực-hiện công-việc sưu-tầm những tài-liệu nầy.

Chúng tôi nghĩ rằng :”Nếu tài-liệu kinh-sách chỉ được tập-trung tàng-trữ vào một chổ, tránh sao cho khỏi bị hủy-diệt khi kẻ cường-quyền đến cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản đề gởi đến, và ký-thác vào những bậc có tâm-hồn trung-kiên với Đạo, những người dám chết để bảo-tồn những tiếng nói của những Đấng thay Trời dạy Đạo.

Nếu một mai thời cuộc lại biến-thiên, có thể các cuộc “PHẦN THƯ”lại tái diễn thì thiết tưởng trong số tài-liệu này vẫn còn có nhiều người nhiệt-tâm gìn-giữu được vẹn toàn.

Đây không phải là việc làm của một cá-nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng-sự cho lý-tưởng bảo-tồn truyền-thống giáo-lý của Đạo. Trong khi quyển tài-liệu này đến tay quí vị thì cũng đã có người quá hăng-say trong công việc thực-hiện lý-tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên-cổ.

Việc làm của chúng tôi không phải là một ý-nghĩ  nông-nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài-bảo trong suốt thời-gian ly-loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện Đức Chí -Tôn và Phật-Mẫu ban-bố phước lành cho chúng tôi sớm gặp nhịp may để thực-hiện hoài-bảo ấy.

Ngày nay chân trời đã rạng-tỏ, ý nguyện đã đắc thành.

Chúng tôi xin hiến dâng tròn vẹn cho Hội-Thánh tất cả những tài-liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp-nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục-đích bảo-tồn những lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ-Pháp.

Từ đây, bản-quyền này sẽ tùy thuộc hoàn-toàn của Hội-Thánh. Kính xin Hội-Thánh cho kiểm-duyệt và ấn-hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu-ái của Đức Hộ-Pháp, đã dành cho toàn-thể chúng sanh trong thời-gian Đức Ngài còn tại thế.

Tòa-Thánh, ngày 28  tháng 8  năm  Bính-Ngọ

(DL. 12 - 10 - 1966)

BAN TỐC - KÝ

 

Tại Đền - Thánh, thời Tý Mồng 1 tháng Giêng năm Mậu - Tý ( 10 - 2 - 948)

ĐẠO CAO-ĐÀI LÀ HOÀN THUỐC

PHỤC-SINH  HÒA-BÌNH

Ngày hôm nay, giờ này chúng ta vui một tí, năm Tý đến với chúng ta, nếu Bần-Đạo nhớ không lầm thì buổi Chí-Tôn hành pháp có cho Bần-Đạo biết rằng 3 con chuột hiệp lại là ngày thành đạo. Năm nay đủ 3 con chuột rồi đó vậy. Ta chắc rằng năm nay Đạo sẽ kết-quả lời hứa của Chí-Tôn với con cái của Ngài, thành Đạo tức thành Đời nơi nước Việt-Nam đó vậy.

Chúng ta thử ôn lại đã có 23 năm hành-đạo , chúng ta đã chịu bao nhiêu khổ-hạnh để bảo-vệ con cái của Chí-Tôn. Ngày nay các kết-quả này có đáng giá trừ cái khổ-hạnh trong 23 năm ấy chăng ? Bần-Đạo xin nói quả-quyết rằng : từ tạo-thiên lập -địa đến giờ chưa có nền tôn-giáo nào được mau chóng như tôn-giáo của Chí-Tôn đến tạo nơi xứ Việt -Nam chúng ta. Chúng ta ôn thử lại trong buổi thành Đạo cuối cùng trong 2 năm nay, ta thấy gì ? Nếu chúng ta có đủ tinh thành tìm hiểu thánh-ý của Chí-Tôn trong 22  năm. Để cho chủng-tộc Việt-Nam chịu đau-khổ, chiụ trong cảnh tương-tàn, tương-sát, thống khổ, cảnh tượng nguy-ngập có nghĩa gì ? Ý vị gì ? ấy là Đức Chí-Tôn xây-chuyển cho con cái của Ngài thấy rằng: hung bạo ở thế-gian, không phải năng-lực độc đoán mà thắng được và trị thế được.

Cường-lực !  Ôâi cường-lực ! Đối với thế gian nầy, nếu có phương-chước, có bí-pháp thì duy lấy nhơn-đức trị nó mà thôi. Hung-bạo của đời nầy không lấy hung-bạo trị đặng, duy lấy đạo-đức tinh-thần trị mới đặng. Trong 2 năm quốc-vận thống khổ do duyên cớ gì ? Do lấy hung-bạo chẳng trừ được năng-lực hung-bạo vì hiện giờ sự hung-bạo của thế-gian vô đối. Ấy là Chí-Tôn cho quốc-dân Việt-Nam một bài học đích đáng đủ bằng-cớ trước mắt để suy đời. Ngài để kinh-nghiệm rồi hai năm rồi. Ngài lấy năng-lực đạo-đức tinh thần để cho thiên-hạ thấy : đạo-đức tinh-thần  mới có thể đem hạnh-phúc đến cho nòi giống như thế nào ? Làm cho tỏ rạng nền tôn-giáo bằng năng-lực tinh-thần của Ngài. Chúng ta đã thấy : Bần-Đạo sau 5 năm bị dồ-lưu nơi hải-ngoại. Chịu mọi điều thống khổ , cái chết của Bần-Đạo cách cái  sống bằng một sợi tóc, mà Bần-Đạo vẫn còn về đây. Nếu nói  thế thường, cái tình  cảnh chịu 5 năm khổ sở lao-lý ấy. Tinh-thần, lấy vật hình thường-tình tâm-lý mà nói, không ai không có hận, có phiền được, hận với phiền nó cố nhiên, mà nếu hận phiền ấy theo tâm-lý thường-tình thì có gì quan-hệ đâu. Trái lại trong thi hài cuả Phạm-Công-Tắc còn có một vị làm chủ của nó nữa là Hộ-Pháp; quyền của Hộ-Pháp mạnh-mẽ hơn của Phạm-Công-Tắc là con ngựa để cởi mà thôi, còn Hộ-Pháp là người cởi, nên con ngựa không thể không tuân mạng lịnh của chủ nó được. Hộ-Pháp có một phần, mà Phạm-Công-Tắc có một phần. Phạm-Công-Tắc là tôi, còn Hộ-Pháp là quyền năng của Chí-Tôn .

Nòi giống Việt-Nam chịu ảnh-hưởng của văn-hóa Nho-phong 4.000 năm đã để cho chúng ta hai câu đích-đáng, nếu chúng ta biết dùng từ thử Việt-Nam không có cảnh tượng ngày nay:

“Hành-thiện chi nhơn như xuân viên chi thảo, bất kiến kỳ trưởng nhựt hưũ sở tăng.

“Hành ác chi nhơn như ma đao chi thạch, bất kiến kỳ tổn nhựt hữu sở khuy”.

Câu trước : người làm lành như vườn cỏ mùa xuân không thấy lớn càng ngày càng tăng thêm.

Câu sau : người làm ác như cục đá mài dao, tuy không thấy hao mà càng  ngày càng mòn khuyết.

Lấy nhơn-nghĩa đối với bạo tàn, lấy tâm ưu-ái trả thù-hận, ấy là tâm Phật, phải tâm chí Thánh mới làm đặng. Bần-Đạo làm đặng, đặng chi ? Đặng nêu cao tinh-thần Đạo Cao-Đài nầy lên như  Chí-Tôn muốn.

Lẽ thì đem hung-bạo trừ  hung-bạo, theo thường tình thì mới vui lòng, thỏa-mãn tâm thần của Phạm-Công-Tắc thì ắt vui mầng lắm chớ. Nhưng Hộ-Pháp, vì biết hại cho tương lai nước nhà, nên cầm cây huệ-kiếm đưa ra, lấy tâm-lý yêu-ái đối lại với oán ghét, cốt yếu làm cho nhơn loại, làm chứng rằng chơn truyền của đạo Cao-Đài là hườn thuốc “ phục sinh hòa bình” cho nhơn loại. Quốc dân Việt-Nam làm đặng thì toàn-cầu mới làm đặng. Ai cầm huệ-kiếm ấy đặng, thì họ cứu nước họ đặng, cũng như Việt-Nam đã cứu nước Việt-Nam vậy.

 

Tại Đền-Thánh đên mồng hai tháng giêng

Năm Mậu-Tý (11-2-1948)

NGÀY XUÂN LÀ NGÀY PHỤC-SINH CỦA VN-VẬT

Bần-Đạo không thể đi cùng mỗi nhà của toàn cả Chức Sắc Thiên-phong và mấy em Nam Nữ đặng viếng thăm trong ba ngày xuân-nhựt. Một mảnh thân muốn biến hóa ra cả muôn hình xác, nhưng không thể đặng.

Vậy thời Bần-Đạo cũng để một đôi lời cho mấy em, mấy con Nam Nữ, mấy anh mấy chị có mặt đảnh lễ tại đây biết rằng: buổi nào tinh-thần Bần-Đạo cũng ở bên cạnh mỗi người cả thảy.

Một điều mà Bần-Đạo mơ-ước hơn hết là ngày giờ nào thong-dong, Bần-Đạo được vui thú thanh-nhàn, nay đi  nầy ở một ngày, một bửa, mai đi nhà kia ở một đôi lát. Ngày nào đến cảnh an-nhàn mà Bần-Đạo được đạt-vọng đường ấy, thì tưởng rằng không còn hạnh-phúc nào hơn nữa. Bần-Đạo tưởng mảnh thân nầy có phương thế đồng sống chung với mấy em trong cảnh gia-đình ấm lạnh để cùng hiểu nhau những nỗi tân khổ sầu buồn thì Bần-Đạo rất hữu-hạnh mà được chia mảy-mún cũng đặng, dầu cắn hột muối hay ăn hột cơm rơi với mấy em, thì tưởng kiếp sống của Bần-Đạo không có cảnh  vinh-quang phú-quí nào trên thế-gian nầy đối đặng.

Cả thảy đến thăm Bần-Đạo , mà Bần-Đạo đi thăm lại không đặng, theo đạo-pháp cho là thất lễ. Xin cả thảy nên biết cái cảnh ngộ và tha thứ giùm cho.

Ngày xuân nói đến tiếng xuân, miệng nói tiếng xuân là nói tiếng sống, vạn-vật ngày xuân nầy là sống là ngày phục sinh. Qua mơ-ước tâm hồn của cả thảy trong một năm già cỗi, trong lúc xuân đến, cây-cối nở lá nở bông, tốt tươi trở lại, tất nhiên là được phục-sinh lại thì cả tâm-hồn của chúng ta cũng phục-sinh như thế .

Mấy em suy-gẫm cái thân sanh của chúng ta là đồng-sanh với vạn-vật, đã phục-sinh thì thân hình của chúng-sanh, của chúng ta, của cả thảy Nam. Nữ cũng đồng phục-sinh lại, tâm-hồn của chúng ta trong một năm mờ-mệt, khổ-não, nhọc-nhằn, trong cảnh tan-thương trần-thế, nay xuân về, mấy em đến nhà Đại-Từ-Phụ, tức là Suối Vĩnh-Sanh của tâm hồn mấy em. Qua thành tâm cầu xin Đại-Từ-Phụ ban ơn cho mấy em được phục-sinh mới trong thánh-chất của Người.

Chắc-chắn cả thảy đều được hanh-phúc hiển-nhiên, đương thời hay là trong cảnh xương-tàn cốt rủ vì đã được hồng-ân của Chí-Tôn ban cho về già, tức là dưới thế nầy sẽ được an-nhàn cả tâm-thần và hình-thể. Mong sao cả thảy được mau phục-sinh mới trong Thánh-chất của Chí-Tôn đó vậy.

Tại Hiệp-Thiên-Đài

21 giờ đêm mồng 3 tháng Giêng năm Mậu-Tý (12-2-48)

 

HUẤN TỪ CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

SAU BỮA TIỆC ĐẦU XUÂN

Năm mới, không có đặt diễn-văn chi. Hôm nay tôi dùng những tiếng thường để nói việc đời.

Theo thế thường người ta nói: “ Thực nhơn tài phải cứu nhơn tai” ( Phàm ăn của người phải giúp cho người). Tuy vận tôi nghèo, nhưng tôi làm cái tiệc này rất đặc-biệt, lại nữa tôi mời quý Ngài cũng đặc-biệt, toàn là chư vị yếu-nhơn cầm quyền Chánh-trị Đạo, không ai là ở ngoài. Tôi không nói dối rằng nhà tôi đơn-chiếc, vì nhà tôi là cả toàn-cầu.

Quý Ngài hưởng lễ rồi, tôi xin nhờ quý Ngài một việc: vì tôi có một ông cha Thiêng-Liêng là Thiên-phụ, Ôâng cho tôi cái quyền bác-ái là thương cả toàn-cầu, và một Ông Chúa là Thiên tử. Thiên-phụ tôi thì giao chèo chiếc thuyền Bát-Nhã, Thiên tử giao đẩy xa-thơ, từ Nam chí Bắc, từ Đông chí Tây. Anh em rất đông, nhưng người ngồi trên thì nhiều, còn kẻ đẩy, chèo, thì  ít.

Năm rồi, các Ngài hảo-tâm giúp sức cũng chèo, cũng đẩy năm nay cũng vậy, xin cũng giúp đẩy, giúp chèo cho đến  nơi, đến chốn. Aáy là ơn trọng lắm vậy.

Xin quý Ngài giúp tôi cho trọn-đạo.

 

Tại Đền-Thánh, thời Tý - Mồng 3 tháng Giêng năm Mậu-Tý (12-2-48)

QUYỀN NĂNG CỦA NỀN TÔN-GIÁO

Trong ba ngày xuân, Bần-Đạo ước-mong nước cam-lộ của Chí-Tôn chan rưới đặng rửa tâm-hồn của mấy em, phục-sinh trở lại.

Nay Bần-Đạo xin thuyết-minh quyền năng của nền Tôn-giáo.

Cả chủng-loại, loài người và vật loại, chúng ta quan-sát ngoại thể thấy loài người và vạn-vật phải ở chung hiệp cùng nhau, goi là xã-hội mới sống được. Chúng ta thấy trước mặt nhiều vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ tổ-chức xã-hội, giống thú mà còn biết chung hiệp từ đoàn-thể tức nhiên có tinh-thần xã-hội. Loài người cốt yếu sống cũng phải có xã-hội. Lại nữa, nếu chúng ta tìm chơn-lý của Phật-giáo thì thấy Chí-Tôn đã phú thác cho loài người làm chúa vạn-vật. Ngài để tinh-thần của loài người cao-trọng, tức nhiên cho người có khối linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thể làm tròn trách vụ đối với vạn-vật, tức là Ngài định cho ta làm chủ xã-hội vạn-linh.

Làm trách-vụ tức nhiên có tinh-thần cảm-xúc mà cảm-xúc tức nhiên sanh tình. Tình là luật thiên-nhiên của Chí-Tôn. Tình phân ra hai vở chánh, nơi cõi phàm thì có luật định giới-hạn, chúng ta thấy tạo luật-pháp xã-hội, hiển nhiên nơi của Hư-Linh cũng có đặc quyền, nên cũng có khuôn luật là Thiên-điều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền thưởng phạt ấy, gọi là nhơn quả, vay trả, hễ nên thì thưởng, còn hư phải thường, luật định như thế rất nên công-bình chánh đáng.

Vì có khuôn-khổ luật-pháp do quyền thiêng-liêng của Chí-Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng ra hiền, lành cũng như ác, hỗn-độn cả tinh-thần của Chí-linh, tổng-số không mực thước, không căn đề, không cội rễ.

Aáy vậy Đạo cốt yếu tạo khối tình-ái tâm-lý của loài người, biết mình là phần-tử của xã-hội, phải làm điều gì cho xã-hội nhờ,

Gia-đình là một phần nhỏ trong xã-hội-hội, nếu biết giữ-gìn thân-thể, tôn-trọng danh-giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du-côn không kể gia-pháp, làm rối loạn gia-đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia-đình tông-tổ. Sợ các gia-đình nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xứõ đứa làm nhục đó, hình phạt nặng-nề hơn kẻ tha-nhơn.

Càn-khôn là đại gia-đình, cửa đạo cũng vậy, xã-hội cũng vậy, là một gia-đình có cha mẹ, bà con, như một tông-tộc vậy.

Lớn hơn gia-đình là một quốc-gia, là một gia-đình lớn, gồm cả các gia đình tổng-hợp lại, chiều theo một khuôn luật do quyền-năng của Đạo-giáo tức Đại gia-đình.

Ta lần-lượt đi đến toàn nhơn-loại hiệp lại thành Đại gia-đình.

Con người sanh ra phải biết trách-vụ của mình, trong tiểu gia-đình  hay đại gia-đình cũng vậy, người ở gia-đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Jésus Christ chỉ mình là con của người (le fils de l’homme).

Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn thì hiểu giá-trị của nó thế nào? Văn-minh Nho-giáo hiểu giá-trị  làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được: “Vi nhơn nan, vi nhơn nan” (làm người khó, làm người khó) . Tố tố vi nhơn nan (làm ngườ rất nên là khó).

Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia-đình là khó khăn lắm, mà hễ làm người để dìu đỡ được gia-đình, tức là chúa gia-đình đó; mình là người mà nâng đỡ được quốc-vận, là chúa của quốc-gia, Giờ ta thử hỏi: một nền tôn-giáo đem tâm-lý loài người hiệp một lại là một điều đứng trên cái mức đại-gia-đình đó. Làm người chủ xứng đáng của gia-đình đã là khó, làm người chủ xứng đáng của quốc-gia lại càng khó, rồi làm người chủ xứng đáng của một nền tôn-giáo không phải dễ. Hễ làm chủ được xứng-đáng, thì đối với nhơn-quả, ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa. Người đã đem thân nầy ra làm chúa gia-đình, không còn là mình nữa mà là bâc tiền-bối ; người đáng là một chủ của một nước là bậc Thánh-nhơn, người đáng là người chủ một Tôn-giáo ấy là vị Phật.

Aáy vậy, chúng ta muốn quan-sát một Tôn-giáo được gọi là chánh giáo, thì Tôn-giáo đó phải đủ yếu-điểm tạo nên người chủ của nó đặng diu-dỡ  các phần-tử  của Đạo ấy, đủ hạnh-kiểm, đủ quyền-năng, phải cao-thượng hơn sự thường-tình, đi cho vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là chủ của Đại-gia-đình Càn-khôn Võ-trụ. Cả phương-pháp không mực thước quyền hành để đạt đến địa-vị chúa một Tôn-giáo thì không phải chánh đạo. Ta đã thấy gì ? Đạo Cao-Đài có không? Ta suy xét coi : có hẳn. Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắn thì nên người làm chúa nền Tôn-giáo của Chí-Tôn đã tạo sẵn, có mực thước, chuẩn thằng, phép tắc, để cho người ấy lập nên địa vị.

 

Tại Đền-Thánh, Ngày 4 tháng Giêng năm Mậu-Tý (13-2-1948)

QUYỀN NĂNG CỦA TÔN GIÁO (Tiếp theo)

Đêm hôm qua bị đèn tắt, nên chưa kết luận thể-pháp. Nay Bần-Đạo thuyết hơi dài một chút, xin cả thảy có mõi chân đừng phiền.

Đêm hôm qua, Bần-Đạo đã diu-dắt các bạn, các em, các con, đi trên con đường tầm-kiếm triết-lý một nền Tôn-giáo. Cả nhơn-loại đều học làm chúa toàn cả gia-đình, được làm chủ một tiểu gia đình, tức là một tông-tộc là một vị hiền tại thế rồi, được làm chủ một đại gia-đình là Quốc-gia, là một vị Thánh-nhơn, được làm chủ một số Quốc-gia hiệp lại như  Hiệp-Chúng-Quốc tại Mỹ-Châu như Washington . . chẳng hạn, là một vị Tiên, được làm chủ tối đại-gia-đình tức nhiên làm chủ toàn thiên-hạ, một nền Tôn-giáo là một vị Phật. Thể-pháp của Đạo Cao-Đài  có khuôn-khổ tập cho nhơn-loại đi đến mục đích trong luật-pháp của một nền chánh-giáo.

            Kế đây, Bần-Đạo xin thuyết về bí-pháp. Vả chăng Chí-Tôn sanh chúng ta là người, cho chúng ta là người, cho chúng ta nhứt điểm linh-quang tạo hình-ảnh mỗi cá-nhân. Ngài định phân-sự tối trọng-yếu của Ngài và cầu chúng ta thật hành  cho ra thiệt tướng, nghĩa là: làm thế nào đặng làm chúa vạn-vật hữu-vị cho Ngài. Hễ giao phận-sự thì buộc phải đảm-nhiệm luật-pháp cũng như sai ai thế hình-ảnh cho mình đến nơi nào, làm phận sự gì cần đưa ra chương-trình đặng thi thố ra sao cho thành-đạt. Trong chương-trình có phương-pháp hành-vi, tức nhiên luật-pháp của Chí-Tôn muốn buộc loài người đạt đức làm chúa vạn-vật, định pháp vô hình tức nhiên định Thiên-điều. Thiên-điều là luật, còn pháp là quyền-năng thưởng phạt nhơn-quả. Không lạ gì, chúng ta thấy thế thường, con ngươì không làm thì không có nên hư, còn lãnh trách-vụ thì nên hư đặng thất. Nên hư đặng thất của con người là một tấn-tuồng nơi mặt thế. Ta nhận thấy mang thi-hài, xác-thịt, khối chơn-linh chịu mờ-ám, chỉ biết sống phải hiểu nghĩa-vụ mình, không phải sống đặng thừa hưởng, từ khi lọt lòng mẹ thì đã mang một mối nợ trần. Hễ mắc nợ thì phải trả, mà trả cho ai? Khởi trả cho gia-đình trước. Ai là người làm trọn đạo gia-đình cũng khó làm rồi, biết bao nhiêu trở lực, quả kiếp trước tái-diễn lại, phải vay trả kiếp sau. Vay vay, trả trả, chẳng khác gì anh lái buôn kia trên đường đi. Muốn học làm chúa vạn-vật cũng phải nhiều đường lối gay trở khó khăn.

Nếu Bần-Đạo không vì chủ đặng đè nén con vật nầy, chỉ biết sống như con vật thì đã quên hẳn mình là gì, chẳng cần luận, đương nhiên nhơn-loại lâm vào cảnh vay trả như anh lái buôn bị gian-lận nhiều nên bán lỗ, ấy là nhơn. Đi chuyến khác nữa may mua rẻ bán được mắc thì bán được lời. Lời lỗ là con buôn trên trường đời. Ta thấy giờ nào chúng ta chẳng còn buôn lấy lời cho chúng ta hưởng mà buôn cho Ông chủ hảng hưởng, ngày ấy chúng ta không sợ lỗ lời. Nhơn quả cũng thế, ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà còn trong gia-tộc ta, ngày giờ nào ta chẳng còn là ta mà sống cho nhơn-loại, ngày ấy là ngày giải-thoát.

Mình không vay hỏi ai, mình chỉ cho mượn thì mình ắt giàu. Ngày giờ nào mà lời lỗ  mình không chịu trách-nhiệm chỉ sống về nghề-nghiệp của mình mà thôi, thì mình ắt không ăn thua chi với ai cả. Đức Chí-Tôn cũng thế, ngày giờ nào con cái của Ngài lấy hiếu đối với Ngài, nuôi nhơn-loại về tinh-thần và vật-chất đó là cơ-quan đạt đạo, chúng ta cho vay mà không thiếu, ấy là ta tự giải thoát.

Ta thử hỏi cả bí-pháp của Đạo Cao-Đài  có như vậy chăng? Có chớ ! kìa cái Cửu-Trùng-thiên Chí-Tôn đem phô bày tại mặt thế nầy đối với Cửu-phẩm Thần, Tiên, không còn ai chối đặng, ai đi trọn thì được giải-thoát. Ngôi Giáo-Tông môi-giới hay thiệt? Chính anh Cả chúng ta đã ngồi được. Ai làm được vậy chăng ? Làm được chớ ! Nếu có kẻ nói mắc lo gia-đình, không thể lo Đạo  được là thì phi-lý. Đạo là trường học đạt đại gia-đình, Đạo là trường thì lập vị, sao lại làm không được? Tại làm biếng học ! Học đặng hành. Nên hư do tại mình, không phải do Chí-Tôn và cũng không phải do tại Đạo, Tôn-giáo nào không đạt được Cửu-phẩm Thần, Tiên dưói thế nầy thì trên Cửu-thiên kia không hề đạt vị được. Aáy vậy, về mặt bí-pháp Đạo Cao-Đài  là rõ-ràng một nền chánh-giáo của Chí-Tôn vậy.

 

Tại Đền –Thánh Đêm 29 tháng Giêng năm Mậu-Tý (1948)

KHI VÔ ĐỀN-THÁNH PHẢI BỎ HẾT PHÀM TÂM

Hôm nay, Qua lên giảng-giải là do đêm trước Truyền-Trạng Ngọ đã giảng trong khi lãnh trách-nhiệm hay quyền Tiếp-Lễ Nhạc-Quân, đứng trên ngó xuống thấy mấy em có cử-chỉ do tâm-lý không được chững-chạc và đúng theo nghiêm-luật của Hội-Thánh. Nhưng đó là bề ngoài chẳng nói chi, trọng hệ hơn hết là cái huyền vi bí-mật của Đền-Thánh nầy, buộc lòng Qua phải lên giảng.

Mấy em có biết tương-lai nền Chơn-giáo nầy của mấy em là tạo đại-nghiệp đại gia-đình cho một sắc dân gọi là Tân-Dân của Chí-Tôn , để nơi mặt thế nầy, là Thần-Thông-Nhơn. Mấy em kiếm hiểu hai Thần-Thông, dầu không thấu-lý mà nghe nói tiếng ấy cũng hiểu sự quan-hệ của nó ra sao.

Aáy vậy, muốn tạo một tinh-thần tới Thần-Thông cho sắc dân Tân-Dân của Chí-Tôn đem đến mặt địa-cầu nầy, do trong mấy em hiện-tượng ra mà mấy em không tầm cái giống Thần-Thông thì làm sao tạo Tân-Dân ấy cho được. Cả huyền-vi bí-pháp của Chí-Tôn để tạo Thần-Thông-Nhơn ấy, mắt mấy em nhìn thấy không biết hình-ảnh thì làm sao đạt thành được.

Mấy em sẽ làm Cha, làm Mẹ của đám Thần-Thông-Nhơn ấy mà không có hột giống làm sao tạo hình cho đặng. Còn như Qua đây là Hộ-Pháp khi lên Ngai đứng có mấy công chuyện mà quên trước quên sau, đó là buổi mới khai đạo. Còn mấy em dầu có khó-khăn đi nữa, nay Đạo đã 22 năm mà còn quên thì không biết nói làm sao đặng .

Mấy em có thấy đâu khi vào Đền-Thánh, đền nầy gọi là Đền-Thánh, thì thế nào mấy em phải hiểu. Qua đứng trên Ngai lấy hết tư-tưởng của mấy em cái giọng của mấy em cầu kinh qua ôm hêt dâng lên cho Đức Chí-Tôn, dâng đây, không phải là tiếng thường, ấy là cái thiên-thiều, Ngài hưởng rồi, Ngài trả lại cho mấy em cái thiên-tính. Có như vậy thì địa-cầu nầy mới an-tịnh, mới thái-bình được. Mấy em ôi ! Nếu cúng mà giọng đọc thô bỉ, không đồng một nhịp-nhàng thì mong gì cái thiều-quang của Càn-Khôn Vũ-Trụ điềm-tỉnh đặng an-hưởng.

Qua đứng trên Ngai, Qua thấy trên nê-hoàn-cung của mấy em, nếu định tâm, thì có một hào-quang xung lên đều đều, mọi người đều có cả hào-quang đó, có một Vị-Phật ôm hết đem vào Bát-Quái-Đài, hiệp với đạo hào-quang trong quả Càn-Khôn đoạn đem trở ra bao trùm cả chỗ ngồi của mấy em , mà mấy em không thấy được, cho nên khi mấy em hầu lễ, nếu biết hưởng cái ơn Thiêng-Liêng ban cho đó, thì tinh-thần được an-tịnh, hanh-phúc biết bao, nếu biết thọ hưởng cái hồng-ân đó, cũng  như lúc mấy em đói rồi có ai liệng cho đồ ăn, mà không biết hưởng, thì làm sao no đặng, tức phải đói.

Đáng lẽ khi bước vô Bửu-Điện, đi qua Hiệp-Thiên-Đài thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt, vậy đi qua rồi phải tịnh-tâm. Qua không nói ai, vì trước mỗi bữa đều tắm rửa, vô đó, dầu hình thể của mấy em có nhơ nhớp, thúi hôi, cùi-đày mà cái tâm của mấy em trong sạch đó là tâm vô tội. Dầu kẻ nào tội tình ưu-lự thế mấy mà bước vô Đền-Thánh rồi, cũng phải tập tánh cho thanh-khiết, bỏ cả những tư-tưởng phàm-tục, để tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng. Mấy em đem cái hình xác vào Đền-Thánh, nhưng là cái xác vô tội, đặng hiến cho Chí-Tôn, Nếu không vậy, thì có vào Đền-Thánh, kẻ ngồi chỗ nầy, kẻ ngồi chỗ kia mà trong óc không niệm, thì vô Đền-Thánh có ích gì ?  đi cúng, điều trọng yếu nhứt là tinh-thần, cái huyền-vi bí-pháp tinh-thần ở đấy là Cửu-Trùng-Đài rồi Bát-Quái-Đài thuộc về Chơn-Linh, ấy là linh-tâm xuất -hiện, nếu mấy em có cảm mới có ứng, mà nếu có ứng, thì mấy em mới hưởng được, thân không hưởng được là lỗi tại mấy em không trọn làm thành-kính.

Thỉnh-thoảng rồi Qua sẽ giải bí-pháp của Hộ-Pháp đứng trên Ngài là gì ? Mấy em không thấy cũng đáng trách. Vậy từ đây từ sau, Qua chỉ xin cho mấy em một điều là hễ bước chân vô Đền-Thánh, thì bỏ hết cả phàm-tâm, thì hanh-phúc sẽ Tôn-giáo lớn, bằng chẳng vậy, đừng đi cúng, vì đến cúng, không những không hưởng được đặc-ân, mà còn mang tội thêm mà chờ.

 

Tại Đền-Thánh Đêm Mồng 1 tháng 2 năm Mậu Tý (1948)

LIÊN QUAN CON CÁI CHÍ-TÔN VỚI NGÀI

Bần-Đạo hứa sẽ tiếp-tục giảng về cái Ngai của Hộ-Pháp và phận-sự của Hộ-Pháp phải làm gì, nhưng Bần-Đạo tưởng cả thảy chưa cần biết, yếu trọng hơn hết là vấn-đề liên quan của con cái Chí-Tôn với Ngài.

Bần-Đạo thấy cả con cái của Ngài, nghe tiếng gọi của Ngài mà đến, là vì yêu ái Ngài, tâm-linh biết cảm-ứng, biết nhìn nhận Đấng tạo sanh linh-quang là Cha, Cha kêu con đã là sự thương rồi, nên sự thương yêu của toàn thể tín-đồ nam nữ cũng vậy đối với Chí-Tôn vô hạn; Bần-Đạo chán biết và xin thú thật rằng: ngày nào về cõi hư-linh, nếu vô tòa phán xét Bát-Quái-Đài thì Bần-Đạo quả-quyết làm chứng rằng: tình thương của nhơn-sanh đối với Chí-Tôn rất nồng-nàn. Nhưng có điều khuyết điểm nầy : chờ chi con cái của Ngài đem tình-ái ấy để cả thảy thương lẫn nhau, dùng tình-thương đã đem hiến cho Chí-Tôn có thể hiến chung cho nhau, đặng cùng hưởng tại mặt thế nầy, Trái lại : không !

Điều khuyết-điểm ấy quá lẽ, buộc Bần-Đạo phải minh-triết cho cả thảy được rõ biết. Ước mong con cái của Chí-Tôn biết thương yêu nhau nồng-nàn hơn là thương Ngài nữa mới đặng,

Cả thảy đừng tưởng rằng: mình bước chân vào cửa đạo là một sự tình cờ đa, Bần-Đạo quả quyết rằng: không phải là một sự tình cờ, và nếu Bần-Đạo chứng chắc rằng toàn con cái của Ngài đều ở trong lòng của Ngài, sanh ra đã có một tình yêu đối cùng nhau, từ trong vật-loại dĩ chí nhơn thân chúng ta đã có liên-quan mật thiếât nồng-nàn, khối tình ái vô biên vô hạn. Cả thảy nên biết điều ấy, Bần-Đạo xin nói thật, ngày giờ nầy cho các chơn-linh đến mặt thế đã từng chung chịu khổ-não cùng nhau, cả muôn kiếp sanh mới gặp-gỡ nhau trong lòng của Đức Chí Tôn đó chớ.

Trong 24 chuyến thuyền Bát-Nhã, đem chơn-linh đến mặt địa-cầu, mấy bạn đã ngồi trong ấy, ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, đến để làm tròn một lời hứa của Ngài. Còn chúng ta đã hứa với Ngài những gì ? “ Hứa : Các con vì Thầy đầu kiếp đặng tạo tinh-thần vật loại, độ cả hóa-nhân và nguyên nhân qui-hồi cựu-vị. Các con vì thương Thầy tạo hình ảnh của Đạo”. Ngày nay là ngày giờ chót Thầy đến với mục-đích và sở-vọng của Thầy là hội-hiệp các con lại làm một cùng Thầy.

Ôâi ! Nếu các bạn đã biết, từng chung chịu đau khổ cùng nhau và vạn kiếp sanh. Nơi đây có kẻ đã làm cha, làm ông, làm chị, làm mẹ chung lẫn trong các kiếp tái-sanh nơi mặt địa-cầu nầy để tạo yêu - thương trong toàn nhơn-loại. Các bạn có biết điều ấy đâu, duy có thầy gần mà chẳng thấy xã-hội, đương nhiên cùng máu thịt thì thương nhau, biết đâu trong đám nầy đã có kẻ làm cha, mẹ,ông, bà ta, mà ta không thấy, không biết. Tình cảm của chúng ta hể khuất mắt rồi, thì nhẹ giá trị quá lẽ. Bần-Đạo là Hộ-Pháp, nếu Bần-Đạo nói điều chi mong đặng gạt-gẫm nhơn-sanh, ngày kia về Ngọc Hư-Cung Bần-Đạo chịu trách cứ đó.

Oâi ! kiếp sanh tại thể mang xác thịt , hỏi sống được mấy lát ? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người, mang thi-hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chổ khác kia, sao không tìm cảnh thiệt là cảnh tồn-tại, lại chạy theo bóng.

Ước-ao cả thảy biết điều trọng-hệ bí-mật đó mà thương yêu lẫn nhau, thương lún thương càng đi, rồi ngày kia coi có lầm chăng ? Bần-Đạo quả-quyết, ấn Hộ-Pháp, Bần-Đạo nắm trong tay, nói chẳng hề sai chạy. Bần-Đạo mong-ước cả thảy con cái của Chí-Tôn , đừng tưởng mang thi-hài nầy mà nam nữ phân-biệt đa nghe. Biết đâu trong đám nữ nầy, có kẻ đã làm cha, làm anh của người nào đó. Giả cuộc đứng coi trọng-hệ, cả thảy nên hiểu và từ đây noi theo lẽ thiệt, đừng mơ sự giả, đó là điều mơ-vọng ước-ao của Bần-Đạo hơn hết.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 2 năm Mậu-Tý (24-3-1948)

HỘ-PHÁP HÀNH-PHÁP MỖI KHI VÔ CÚNG ĐÀN

Hôm nay Bần-Đạo chẳng phải thuyết-đạo Bần-Đạo chỉ nói chuyện mà thôi. Nói chuyện Hộ-Pháp, mỗi phen vô cúng đàn làm việc chi, theo như lời Bần-Đạo đã hứa.

Bần-Đạo nói đây để cả thảy biết được điều ấy trọng hệ như thế nào, đặng giữ gìn và giúp Bần-Đạo mỗi phen hành-pháp được dễ-dàng một chút. Bần-Đạo nói hôm nay, để đêm mai có nhiều thì giờ giảng những điều thiêt-yếu hơn, trọng hệ hơn.

Mỗi phen nhập đàn, hễ trống chuông rồi, thì tất cả đi vô, cả thảy đi vô thong-thả, chỉ có Bần-Đạo thật bối-rối, bước lên ngai rồi, trụ pháp lại, vẽ bùa niệm chú. Câu chú mà khi thượng sở, chúng ta thường nghe đọc.

“ TAM CHÂU BÁT-BỘ HỘ-PHÁP THIÊN-TÔN “.

Thật sự thì như vầy:

“ TAM THIÊN THẾ-GIẢI HỘ-PHÁP GIÁNG LÂM “.

Từ trước đến giờ các bậc tiền-bôùi của chúng ta đã để như nói trên nên không thể sửa cải được, phải để y như vậy.

Khi bái đàn rồi cả thay quì tụng kinh, còn Bần-Đạo tiïnh-niệm, mỗi câu kinh mấy em đọc vẫn dễ, vì thuộc mà đọc thôi, riêng Bần-Đạo mỗi câu kinh phải mật niệm, tụ hết cả nghĩa lý của nó dâng lên Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng. Rồi còn điều nầy rắc-rối hơn hết, hễ khi nào cả thảy tụng rồi bài kinh Chí-Tôn hoặc kinh Tam-giáo, khi Bần-Đạo thấy nín hết, buổi đó đem hết tinh-thần trụ lại, dâng lời niệm ấy vào Bát-Quái-Đài. Đến khi tất cả niệm ngũ nguyện cũng vậy, Bần-Đạo định tâm, dồn cả đức-tin biến thành huệ quang chiếu-diệu đem vào Bát-Quái-Đài rồi, đợi cho Bát-Quái-Đài trả lời khi ấy ở trong đó ánh-sáng tỏa ra, Bần-Đạo cuối đầu niệm thế cho cả thảy.

Còn dâng Tam-Bửu, Bần-Đạo hiểu cả nghĩa-lý của nó đang khi dâng bông, cả thảy hình-thể con-cái của Chí-Tôn  tức là Thánh-Thể của Ngài, trụ hết xác Thánh đó dâng cho Ngài đặng Ngài làm phương cứu thế. Đó là dâng bông,

Tới dâng rượu, cả thảy, khi dứt câu kinh, nín lặng hết, Bần-Đạo vận-dụng cả trí-não tinh-thần, đem đức-tin của cả thảy dâng vào Bát-Quái-Đài,

Tới dâng trà, là dâng cả linh-hồn cho Chí-Tôn. Bần-Đạo để cả tinh-thần trụ lại, đem limh-hồn của con-cái Chí-Tôn dâng cho Ngài,

Khi các người cầu nguyện, buổi cầu nguyện biết vậy thì cầu nguyện như vậy thôi, còn Bần-Đạo phải trụ hết tinh-thần định trở lại, đem cả lời cầu nguyện ấy đặng dâng cho Chí-Tôn và các Đấng Thiêng-Liêng,

Khi Chí-Tôn truyền cho pháp ấy, Bần-Đạo nghĩ rằng: đó là chiếu theo cổ pháp của nhà Phật buổi trước, nhứt là Thiền-Môn mỗi khi làm chay, thí của, cầu siêu, hay tuần-tự chi đều rước một vị Hòa-Thượng tru-trì đến. Không gì khác hơn là bí-pháp của Chí-Tôn trụ thần, Bần-Đạo dám chắc rằng không ai biết, họ tụng kinh như hát mà thôi, không ai để hết tinh-thần vào câu kinh, nên mấy thầy chùa có gõ mõ tụng kinh có ăn thua gì, trọng hệ là vị Hòa-Thượng trụ trì ngồi hành pháp, nhưng không hiểu họ có biết mà làm y theo đó hay không? Cái trọng-hệ ấy, nếu ai làm cho y, thì là trúng với bí-pháp. Tiểu-Đàn thì vậy.

Còn Đại-Đàn lại còn rối cho Hộ-Pháp hơn nữa, là  có ba ấn: Thượng Nguơn, Trung Nguơn, Hạ Nguơn, ấn ấy không phải do tay Hộ-Pháp không ? Khi đứng lên Ngai rồi bắt ấn Hộ-Pháp lấy cả tam bộ Thiêng-Liêng tức là sanh khí mà ta thấy trước mắt tỏa ra cùng khắp. Rồi đến trụ thần lại bao trùm cả trái đất này như vòng bao một trái cây gì vậy, để cái cuốn lên trên, đem dâng cho Chí-Tôn ngự. Kế dâng bông, bắt ấn Thượng Nguơn dưới đạp Ngưu-Đẩu, tay đưa Gián-Ma-Xử  lên hiệp với chữ Khí, đem Khí ấy đưa ra cả càn-khôn thế-giới. Aán Thượng-Nguơn làm chủ chữ Khí, đem Khí ấy hiệp hết cả Nguơn-khí đặng bao trùm vũ-trụ.

Đến Trung Nguơn bắt ấn Hiệp-Chưởng Biến-hóa, Gián-Ma-Xử để nằm gang, đuôi bên Thế, cán bên Đạo, ý nghĩa Đạo cầm cán đặng trị đời, Bắt ấn Hiệp-Chưởng, cầm cả cơ-pháp của vạn-vật biến-sanh đăng bảo-tồn không cho tương tranh, tự diệt nhau.

Tới Hạ Nguơn, tay tả thuộc dương để trên, tay hữu thuộc âm để dưới, rồi để Gián-Ma-Xử chúi xuống, trụ thầøn đem cả càn-khôn hiệp cả vạn-vật. Bắt ba ấn phải trụ thần, làm sao cho ấn ấy đừng thất pháp. Cho nên ban sơ, buổi Chí-Tôn mới giao cho Bần-Đạo tại Từ Lâm-Tự, cái khó là trí óc vẫn lo ra, vì không quen, không phải mình làm thầy phù, thầy pháp gì ổng giao cho học mãi làm không trúng. Vì cớ nên mới có quỉ lộng tại Tù-Lâm-Tự buổi nọ, các ấn khác của Hộ-Pháp có linh hay không mà quỉ lộng? Aáy là thiên cơ khiến vậy. Chí-Tôn mở Tam-Thâïp-Lục Động coi có phá nổi Ngài không? Có thể làm cho tiêu diệt nền Chánh-Giáo không ? Để cho chúng sanh thí-nghiệm mà thay quyền-năng vô tận của Ngài. Buổi nọ vì thời-gian ngắn-ngủi, nên công việc chưa rành-rẽ, vì không đủ thì giờ để chuyên-luyện, hoặc cho là chưa trọng hệ cho lắm, nên có điều sơ-lược, Đó là Thánh-ý của Đức Chí-Tôn muốn như vậy.

Trong một thời cúng, Bần-Đạo đã căn dặn nhiều phen trọng-hệ hơn hết, là khi dâng Tam-Bửu, dầu cho tinh-thần suốt buổi cúng nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi dâng Tam-Bửu, khuyên cả thảy định thần đặng mật niệm, dâng ba bửu trọng hệ cho Chí-Tôn, tức là giúp sức Bần-Đạo hành pháp dễ dàng một chút đó.

 

Tại Đền-Thánh Đêm rằm tháng 2 năm Mậu Tý (25-3-1948) - (LỄ THÁI-THƯỢNG)

Ý NGHĨA ĐI HOÁN ĐÀN (Cúng Đại-Đàn)

Nay Bần-Đạo định giảng tiếp, nhưng bị vụ hoán-đàn mà không cho vô, nên Bần-Đạo phải giảng nghĩa rõ vì sao mà không cho vô ấy, vậy có đứng lâu mõi chân xin cả thảy đừng phiền nghe ! .

Không có một điều Chí-Tôn để trong Pháp-giới của Ngài trong cửa Đạo nầy mà không có nghĩa lý. Ít nữa mình không biết thì phải tìm cho biết, coi tại sao như thầy chùa chạy kim-đàn vậy. Không biết phải hỏi, cả thảy nên biết rằng, không một điều gì trong nền Tôn-giáo nầy mà vô nghĩa-lý đa nghe ! .

Tại sao phải hoán-đàn, nam, nữ chen nhau ? Đó là bùa pháp-luân thường chuyển. Tại sao Chí-Tôn đêû bùa pháp-luân thường chuyển tại thế này, đặng chi vậy?  Hiện đã mãn Hạ-Nguơn tam-chuyển, bắt đầu Thượng-Nguơn tứ-chuyển ta gọi là khai nguơn nên phải để cho pháp-luân chuyển.

Ta đã biết thời Tiên-Thiên Khí, Hậu-Thiên Khí chuyển làm một mới đạt Đạo đặng. Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng-Đài nầy là Cửu Thiên Khai-Hóa, còn cung trên kia là Cung-Đạo, từ trước đến nay, mỗi người mãi miết tìm Đạo mà Chí-Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết, đi chín từng Trời để cho phần hồn đi cho cùng một Cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật, tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, bí-pháp gọi là đạt Đạo. Tại sao cả thảy không tìm hiểu, rồi không chịu vô hoán- đoàn, sợ mõi chân, chờ trong nầy thiên-hạ đi giáp rồi mới vô cúng mà thôi.

Cũng vì bởi không hoán-đàn là không đạt được thể-pháp đó không đủ theo pháp-giới của Chí-Tôn, nên người cầm pháp có phận-sự không cho vô tức là không cho làm loạn Đạo.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý mồng 9 tháng Giêng năm Mậu Tý (19-2-1948)

ĐẠO LÀ SỰ SỐNG TRONG CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ

Thưa cùng Chư Chức-sắc Thiên-Phong Nam, Nữ, Chư đạo-hữu, mấy em, mấy con Nam, Nữ, có mặt tại lễ đầu xuân là lễ Đức Chí-Tôn ! .

Ngày nay ta tính lại đã trót 23 năm Chí-Tôn đến cùng con cái của Ngài, cái hanh-phúc của nhơn-loại may duyên gặp hồi tận độ của Đức Chí-Tôn đáng lẽ tinh-thần loài người thoạt nghe thoạt thấy, tâm-linh buộc phải xu-hướng theo sau bước chân của Chí-Tôn. Tại sao ta phải hỏi vì cớ nào đã 23 năm mà nhơn-loại chưa hưởng được hồng-ân của Chí-Tôn chan-rưới nơi mặt thế này?

Bần-Đạo đã thuyết mấy kỳ trước : một nền chánh -giáo dầu bi-pháp, dầu thể-pháp phải có thiệt tướng như thế mới ra một nền chánh-giáo. Ngày nay là ngày Chí-Tôn đến cùng ta, kỷ-niệm này, bất tiêu bất diệt. Bần-Đạo đã thuyết vì cớ nào từ tạo thiên lập Địa đến giờ, nhơn-loại vẫn khư khư tầm đạo. Chúng ta chán thấy rằng, nhơn-loại trên địa-cầu nầy thay đổi nhiều lớp mà nay chúng ta còn tồn tại đây, theo Chơn-Pháp để lại tính ra từ đó đến nay biết bao nhiêu thay đổi, đáng lẽ nhơn-loại đã quên Chí-Tôn mà chớ, sao vẫn nhớ mãi mà thôi, bởi chẳng nhớ Ngài chẳng đặng, tại sao không nhớ Ngài không đặng ? Nhơn-loại đang đi tìm, khao-khát cái danh-từ, tên tuổi của Ngài. Các dân-tộc đang tìm  tòi vì biết nhìn Ngài là người chủ-quyền tạo-đoan Càn-khôn Thế-giới. Ai đã dạy họ, ai chỉ cho họ, ai buộc họ, mà họ biết chơn-lý chỗ nào mà theo, một điều là người nào cũng vẫn tìm-tôi mãi điều ấy mà thôi. Bần-Đạo không nói riêng về loài người, dầu vật loại vô tri vô giác hay hữu trí hữu giác cũng vẫn tìm Người mãi mãi. Ta thấy vật vô tri vô giác như đá, sắt là bất động vật, rõ-ràng không âm-thinh chỉ có sắc-tường ta thấy chắc tri-giác đã thế nào, Bần-Đạo xin hỏi đá tìm ai, kiếm ai mà cục này chồng chất lên cục kia, leo lên nhau mà thành ra hồn núi ? Đặng tìm kiếm khối sanh-quang của nó. Vật hữu sanh chúng ta thấy cây lúa mới cấy nó nằm nghiêng, sau khi sống nó đứng thẳng đầu lên. Hỏi nó tìm ai ? Tìm Đấng Tạo-đoan. Cây trong rừng hoặc trong vườn bị che khuất còn biết nghiêng mình nảy chồi đâm tược. Hỏi tìm ai ? Tìm Đấng Tọa-đoan. Aáy là vật vô-tri vô-giác, còn người tại sao bỏ không đặng, hễ không bỏ Đấng Tạo-đoan đặng thì phải tìm tôi mãi, gọi là tầm Đạo, Đạo là cơ-quan bí-mật làm cho Trời một người hiệp một trong sự sống của Càn-Khôn Vũ-trụ, nên con người vẫn đi tìm nguyên do sự sống ấy, xem thế tức là đi tìm Đạo đó. Chúng ta buổi mới sanh ra còn anh-hài không đủ trí-thức xét đóan, chúng ta đã thấy gì ? Thấy trước mắt vạn-vật hữu-sanh, đó chẳng qua là những bạn đồng sanh với chúng ta mà thôi. Khi được năm ba tuổi rồi, cả vạn-vật đối với sự sống của ta rất hữu tình như thế nào, ấy là mức đầu tiên làm cho tinh-thần con người tự tỉnh. Quan-niệm của vạn-vật đối với con người rất nên mật-thiết, dầu vật ấy hung tàn đối với con người tình thân-ái  giao-hảo vẫn liên-quan mật-thiết. Chúng ta đã thấy cọp, beo, sấu, hùm gấu làm cho ta sợ-sệt, sự hung-dữ của nó có thể hại sanh-mạng của ta được, nên mới kiên sợ như vậy. Ngoài ra còn vạn-vật đều có tình hữu-ái đối với ta “ Khuyển thủ dạ, kê tư thần, tầm thổ tư, phong nhưỡng mật ”. Ta thấy cả vạn-vật ấy đối với ta rất có cảm-tình, bởi lẻ đồng-sanh, như đứa con nít thấy con bướm đẹp-đẽ thì mê lắm, tìm bắt, đến khi gặp con ong chích thì sợ-sệt, mấy điều ấy làm cho con người tự tỉnh, đi tìm nguyên-do của sự sống ấy, đó là khởi bước đầu sự tầm Đạo.

Lớn lên chút nữa, biết ái-tình chung trong gia-đình hay xã-hội, biết thân danh chung. Phận-sự của người giữ  Đạo là giữ sự đồng sống trong khuôn-khổ xã-hội, tất nhiên tìm mối đồng sanh của cơ Tạo-đoan ấy, Thân danh ta đối với Xã-hội nhơn quần, ta thấy Xã-hội đối với ta như thế nào và ta phải đối lại như thế nào ? Thật sự là tìm phương thế đặng tôn sùng sự sống chung của nhau mà thôi. Vì sự sống của vạn-vật, của loài người sản-xuất do Đấng Tạo-đoan là Chí-Tôn, nên chữ Đạo nó liên-hệ mật-thiết với loài người thế nào thì nó liên-hệ mật-thiết với Chí-Tôn dường ấy, nên Ngài mới đến đặng thức-tỉnh chúng ta biết, hiểu. Ngài là chủ của sự sống, đến đem sự sống lại, trừ-diệt cho tiêu-tan ác-nghiệt. Ngài đem đến sự sống để trước mắt nhơn-loại, như nhắc-nhỡ họ phải tôn-sùng cái sống chung của nhau. Hễ tôn-sùng, tức nhiên phải nhìn Đấng Tạo-đoan đã ban cho chúng ta mạng sống, cho ta nhứt-điểm linh-quang, mới biết phân biệt hiền với ác, chánh với tà, để làm biểu-hiện cho con người thức giấc mê, tìm hiểu chơn-lý của sự sống như thế nào, đặng trở lộn lại sống theo tinh-thần của Thánh-Hiền hay sống theo tánh hung-bạo tàn-ác của con vật. Cốt yếu đem cái sống Thánh-Hiền ấy là cái sống của Chí-Tôn ban cho, là vật báu để trong mình, vật ấy quí-hóa không phải hèn-hạ.

Giờ đây Chí-Tôn đến mặt thế nầy, đặng làm cho nhơn-loại biết tôn-trọng sự sống ấy trong khuôn-khổ của Chí-Tôn định, hiệp tâm-lý trở lại làm một trong tình thân-ái đại-đồng. Chơn-pháp của Chí-Tôn đem đến với chúng ta đã 23 năm nay là vậy, nếu chúng ta đã mang danh-thể của Ngài, trước chúng ta chẳng tự mình lập phương-pháp làm kiểu-mẫu cho thiên-hạ nhìn Đạo Cao-Đài là Chánh-Giáo, thế nào làm khuôn-mẫu cho cả toàn tâm-lý loài người đỗ theo thì chúng ta thất-hiếu cùng Chí-Tôn lắm vậy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm rằm tháng Giêng năm Mậu Tý (24-2-2948)

THỂ CHẤT VÀ TÁNH-ĐỨC CÁC HẠNG KHÁCH TRẦN

Hôm nay, Bần-Đạo giảng về thể-chất và tánh-đức của các hạng khách trần, cốt yếu để dìu-dắt cả thảy quan-sát toàn thể Đạo.

Aáy là phương hay để chúng ta quan-sát được mỗi hạng khách-trần, trọng hệ nhứt là Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn tức nhiên là Hội-Thánh. Vả chăng, chúng sanh nhứt là nhơn-loại mỗi mỗi đều có đẳng cấp Thiêng-Liêng tùy theo sự tiến-hoá của chơn-linh họ, dầu tánh-chất hay hình-thể cũng tùy theo tiến-hóa của chơn-linh mà có riêng đặc-tánh, riêng về hình thể của họ, chúng ta ngó thấy phương pháp của cổ nhân xem tướng người, đoán tánh-chất, số mạng, cũng là nương theo đó.

Các hạng khách-trần, Bần-Đạo duy nói về đẳng cấp và tấn-hóa, nếu dám quả-quyết, nói hẳn rằng: mặt địa-cầu nầy có 2.700 triệu người mà buổi nầy khuyết-điểm bao nhiêu không biết, số ấy là trong thời thái-bình. Trong 2.700 triệu nhơn-sanh tức có 2.700 triệu tánh-đức, chúng ta không thể gì đoán xét đựơc nhưng chúng ta có thể chia khách-trần ra thành nhiều hạng:

- Một hạng trước là hạng trái-chủ, nghĩa là hạng thiếu nợ, hạng thiếu nợ là gì ? Là những người gây ra nhơn-quả đã nhiều. Luật nhơn-quả để họ vô hàng cùng khổ của các chơn-linh.

- Hạng thứ nhi là hạng tác-trái, nghĩa là người đã cho vay.

- Hạng thứ ba là hạng du-học, là các chơn-linh đến mặt địa-cầu tìm phương-pháp đặng học-hỏi, vì họ thiếu-thốn, đến đặng thâu-đoạt cái phần thiếu kia cho hay biết nhiều thêm đặng tấn-hóa về chơn-linh.

- Hạng thứ  tư là hạng ta-bà, du-bi, du-thực đến chơi rồi về, mà cái hạng ấy ít lắm, nếu có đi nữa thì phần nhiều chết yểu hết.

- Còn một hạng nữa là hạng thiên-mạng, hạng thiên-mạng là hạng chơn-linh cao-cấp tức nhiên đã đạt phẩm vị cao trọng, vâng mạng đến thi-hành lịnh của Ngọc-Hư-Cung hay của Lôi-Aâm-Tự.

Bây giờ Bần-Đạo mới chỉ rõ hạng trái-chủ là hạng thiếu nợ. Bần-Đạo quả-quyết rằng, nếu ngó thấy họ ta đoán được ngay. Cái thói nghèo hèn cùng khổ dầu đến đâu cung nghèo hèn, rán làm sang bao nhiêu cũng lộ cái nghèo hèn ấy, vì tánh-đức họ hiện ra hình dạng xấu-xa cho đến cách ăn mặc cũng vậy ; họ sợ thiếu nợ nhưng hại thay họ đã lo dêm lo ngày , chạy tảo chạy tần, lo sống đủ mọi phương-diện, nhưng chẳng phút nào họ được an-hưởng tinh-thần và tưởng-tượng rằng mình có hạnh-phúc. Có khi người trái-chủ ấy đầu-kiếp một lượt thì họ có phương-thế làm đặng trả, là may duyên cho họ lắm; nếu rủi người chủ-trái không đến thì họ phải đầu kiếp mãi tìm cho đặng người chủ nợ ấy, làm tôi mọi cho họ đặng trả nợ, ấy là một phương-pháp mà các chơn-linh hải-hùng sợ-sệt hơn hết. Tánh-đức họ là thường lo cho mình được lợi  mà thôi, nhưng không biết chừng nào đủ , đến nổi trong ý muốn làm có của cho lung, cho nhiều để dành ngừa đó đặng có phương-thế trả nợ , sợ có một điều là buổi muốn trả mà không trả nổi. Tâm-linh họ thúc-dục như vậy. Họ hà-tiện lắm, nhiều khi gặp được tình liên-hửu với chơn-linh nào mà họ gọi là chủ-trái đến , lạ-lùng thay, đối với cả toàn thiên-hạ không thương-yêu ai, mà nếu họ gặp người chủ-trái ấy dục họ thương-yêu, kính mến, chiều chuộng, bao nhiêu cũng đem dưng hết cho người ấy. Có nhiều khi không có của họ đem cả thân sanh họ đặng đền-trả nữa. Hạng thiếu nợ có tánh-đức đặc-biệt nhỏ nhen, chắc-mót, không tưởng đến ai khác hơn mình duy người chủ trái đến thì toàn cả cơ-nghiệp đều để lại cho người đó, dầu muốn dầu không , hay là không hay biết cũng do tay người đó phá-hoại hết sự nghiệp. Họ phát-hiện ra có tánh-chất buồn-bực quạu-quọ,  không yên-tâm cứ lo-lắng bậy-bạ nhứt là hình-ảnh của họ cùng khổ, bịnh-hoạn luôn và thường chịu phận đê-hèn. Đó là hạng có quả-kiếp.

Còn hạng chủ nợ có tính-cách đặc-biệt là không biết lo gì hết, lơ-lơ lửng-lửng,  ngày chí tối không biết đợi ai trả nợ, mà chắc mình có món nợ chúng sẽ trả, không lo gì cho họ cả, thả linh-binh du-hí du-thực, không biết gì ráo cứ ngơ-ngơ, ngửng-ngửng , không đông tới ai, mà cũng khong làm gì nên cho ai; mà khi nào chúng ta thuyết-đạo với họ thì họ biết xu-hướng , chịu nghe tưởng cái huyền-linh nầy sẽ giúp mình đắc lợi gì. Họ đi chùa, đi miểu cốt cầu danh nghe nơi nào linh-hiển, đem nhang đèn tới cầu tài cầu loại cho mình . Hình ảnh của họ, gương mặt bơ-bơ mà lúc nào cũng tự-tôn tự-đại , mình là chủ nợ dầu nợ nhiều hay nợ ít cũng là nhà giàu rồi, đặc sắc điều nầy là không sợ hao tài. Tánh-chất sợ tội, sợ quả báo mà không biết trọng mình, thoạt nghe đó, tin tưởng đó, nhưng không phải tin-tưởng đạo-đức mà chỉ tin nơi huyền-linh đặng cầu khẩn mà thôi, lại có tính-chất ngớ-ngẩn, trong mình không có tiền thì thôi, nếu có tiền mà ai nói vừa bụng thì móc đưa ra hết, có khi đưa rồi lại mắng người ta, đưa chẳng phải vì thiệt tâm mà đưa. Tánh chất của ngưòi trái chủ là vậy đó.

Bây giơ ønói đến hạng du-học , hạng du-học bình-thường cái gì cũng muốn biết, ham đọc sách vở kinh-luật, nhưng chỉ đọc qua-loa rồi bỏ , ưa kiếm hiểu, ua tọc-mạch hơn ai hết , cái gì cũng muốn hiểu, cái gì cũng muốn biết, có khi họ mơ-màng thì họ cũng muốn bỏ. Hạng du-học thì nhiều mà lạ lùng thay, phần nhiều không tín-ngưỡng , học cao đến đâu nếu đem đạo đức tinh thần mà nói , họ không biết gì hết, cứ cái chơn-lý họ tìm mãi mà thôi, chính mình họ, họ cũng chẳng biết họ là ai, nhưng cũng là hạng tự-tôn, tự-đại lắm, họ quyết-đoán trong óc họ rằng không ai hơn họ được , cho là mình khôn hơn thiên-hạ nên làm cao cách hơn ai. Gương mặt lúc nào đi cũng ngước lên, người ta gọi là mấy cậu “trịch bồ lương” mà thứ đó lại nhiều hơn hết.

Hạng ta-bà, nếu có thì chúng ta thấy liền, không động tới ai, không nói tới ai, cái sống, cái chết của họ cũng không cần biết, họ thường ở theo các chùa hoặc lên núi, một cỏi một mình, chịu thanh-tịnh mà thôi, còn đi chơi tìm lên non núi. Ta thấy trong các chùa chiền, họ bơ-vơ dộng chuông, gõ mõ rồi nam-mô lên, nam-mô xuống. Hạng ta-bà du-hí nầy sống trên cỏi trần nếu không vừa bụng thì thối lui về tức là chết.

Bây giờ các bạn muốn nghe hơn hết là hạng thiên-mạng. Hạng thiên-mạng, là hạng người không biết tầm lấy cho mình, chỉ lấy của mình lo cho thiên-hạ, không biết tôn-trọng hình hài của mình, chỉ tôn-trọng thiên-hạ, bởi vì hạng thiên-mạng cốt-yếu tìm cả năng-lực chỉ đạo cho thiên-hạ làm môi-giới tinh-thần, ấy là một phương-pháp giải-cứu cho đời và bảo-trọng thiên-ha đó. Tính-chất như Lục-Tổ bất-động , bất trần, bất cấu, bất nhiễm. Có nhiều người họ đên mà chưa  có phận-sự thì họ ngơ-ngơ ngửng-ngửng như khùng như điên. Aáy là khi chưa đắc thế, thien-hạ kêu là ba-trợn ba-nháng đó; một khi họ đắc thế rồi, quyết cứu độ thiên-hạ thay thế cho thiêng-liêng, vâng mạng lịnh Đức Chí-Tôn đến làm bạn với người đặng truyền-đạo, thâu con-cái của Chí-Tôn về một mối. Phần đó ta có thể xem-xet được trong thánh-thể của Đức Chí-Tôn.

Mấy em nếu có gặp người khùng khùng điên điên phải quyết-đoán là họ còn đợi thời và họ chưa tới thời đó thôi.

 

Tại Đền-Thánh đêm 26 tháng Giêng năm Mậu-Tý (5-31948)

VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP TRONG LIÊN-HIỆP PHÁP

Hôm nay có tin lành,  nên Bần Đạo lên giảng-giải cho toàn Đạo được hay biết.

Mới đây có tin vô-tuyến-điện cho hay rằng : Cựu Hoàng-Đế Bảo-Đại đã đem cho nước ta được độc-lập và thống-nhất, vì nước Pháp có tuyên-bố cho cả toàn cầu hay rằng đã chấp-nhận rồi, duy còn ký kết bản hiệp-ước với Pháp nữa là xong. Độc-lập trong Liên-hiệp Pháp có nghĩa là văn-hoá đã truyền-bá các nơi, nơi nào có người Pháp. Trên địa-cầu nầy người Pháp có nhiều thuộc-địa , ngoài ra văn-hoá Pháp cũng đã có ảnh-hưởng đến các nước không phải là thuộc địa Pháp. Vậy, các nước nào không liên-quan đến nước Pháp cũng có thể liên-hiệp với Pháp được. Liên hiệp Pháp là liên-hiệp các quốc-gia lại cho cường-liệt đặng bảo trọng cho các quốc-gia chung nhau, bởi vậy nên trong Liên-hiệp Pháp, mỗi nước đều được tự-chủ bình-đẳng có quyền-hạn như nhau , mặc dù người Pháp đã đề xướng, nhưng Pháp cũng chỉ là phần-tử trong đó. Thật sự như vậy.

Bần Đạo nói đây cốt-yếu để vào tâm-não cả con cái của Chí-Tôn. Bần Đao sau 5năm năm bị đồ-lưu nơi hải-ngoại được về, quyết-đoán đem cựu Hoàng-Đế Bảo-Đại về xứ đặng thương-thuyết tới độc lập cho nước nhà, Không phải hôm nay là việc tình-cờ mà quả-quyết đâu. Bần-Đạo xin nói rằng những hành-tàng mà ngày nay kết-liễu do Bần-Đạo đã biết trước từ năm 1927.

Bần-Đạo cốt-yếu nhức cho con-cái Đức Chí-Tôn để trong trí rằng :”Không giờ phút nào Chí-Tôn nói gì, hứa gì với con cái của Ngài mà thất tín, thất hứa, thế nào cũng kết-liễu mà thôi” .

Con cái của Ngài nếu đủ khôn-ngoan chịu khó ôn lại Thánh-giáo của Ngài từ trước, xem lại từ trang từ lời Thấnh-huấn thì hiểu ngay rằng không hề sai-suyển một mảy-may nào cả.

 

Tại Báo-ân-Từ thời ngọ ngày Rằm tháng 2 năm Mậu-Tý (1948).

ĐỂ CẢ ĐỨC TIN NƠI PHẬT-MẪU

Chúng ta luận một việc cần phải luận bàn cùng nhau, nên chúng ta tin chắc rằng Đức Phật-Mẫu là Mẹ-Sanh của chúng ta và cả vạn-vật, nếu chúng ta tin và biết chắc như vậy thì chúng ta phải để cả đức tin nơi Người , theo ý Bần-Đạo tưởng cái gì về xác thịt thi-hài nầy đều do Phật-mẫu đào-tạo ra cả.

Đức Đại-Từ-Phụ duy làm  cha của chơn-linh chúng ta mà thôi, như cha mẹ phàm nầy, ông cha duy có nhứt điểm tinh, còn huyết khí đều do bà mẹ đào-tạo mà có, Đức Chí-Tôn duy cho nhứt điểm linh, còn tạo nên trí não và xác thịt của ta ra hình-tướng là do tay của Phật-mẫu, hai cái quyền ấy rất cao-trọng hẻ khôn ngoan muốn cầu xin cho đăng siêu-thoát linh-hồn, không ai hơn là Chí-Tôn, còn về phần xác thịt nếu đau đớn khổ-sở, mỗi mỗi cái đều xin Mẹ thì chắc hơn hết.

Có nhiều điều ta đén xin Mẹ thì Mẹ cho, chớ còn xin Cha thì không được , phải vậy không ? Nhứt là phái nữ, tâm-hồn thường phải nương theo Phật-Mẫu một cách manh-mẽ hơn nữa, hoặc sanh con cũng được mạnh-giỏi hoặc chính thân-thể mình không được cường-tráng, hoặc đức tin còn yếu ớt sao không đến xin Mẹ, chỉ có Mẹ mới đủ quyền-năng ban ơn ấy cho; còn như mấy em nhỏ, đã có vợ chồng thì nên đến phụng-sự Đức Mẹ mà cầu xin cho sanh đặng con tốt, cho Đấng nào đến nơi cửa của  mình sẽ là một chơn-linh cao-siêu , đó là biết khôn đó chớ, nếu chúng ta quả quyết có điều ấy thì tự-nhiên sẽ có như vậy,

Bần-Đạo vẫn thấy nữ phái còn lạnh-nhạt điều ấy lắm.

 

Tại Đền-Thánh thời Tý đêm 19 tháng 02 Mậu-Tý (29-03-1948)

THIÊN-CUNG CỦA MỖI CON CÁI ĐỨC CHÍ-TÔN

Ngày hôm nay, Bần-Đạo giảng về Thiên-cung của mỗi con cái của Đức Chí-Tôn , Thiên-cung ấy, Chí-Tôn có nói rằng :

“Gia-tài của các con Thầy đã sắm sẵn”.

Gia-tài ấy tức là Thiên cung vậy.

Bần-Đạo nhớ lại buổi nọ , Đức Chí-Tôn biểu chuc Đại Thiên-Phong , nhut là những môn-đệ đầu tiên của Ngài bên Cửu-Trùng-Đài , nên ta kể những Vị ấy như là Thánh-Tông-Đồ của Đao Cao-Đài vậy: như là Trung, Trang, Tương, Thơ, Nương, Ca… đó là những Vị đến lúc ban-sơ khởi thể của nền Đạo . Chí-Tôn biểu : Các con phải lập họ hàng của mình, tức là biểu lập Thiên-cung tại thế. Thảm thay ! Hồng-ân ấy, Chí-Tôn liệng trong tay ma không biết nắm , tức-nhiên họ làm mất đạo-nghiệp của họ vậy.

Thiên-cung của chúng ta mà Đai Từ-Phụ gọi gia-tài dành để cho chúng ta, trừ ra đứa nào chê bỏ, Thầy mới đem cho đứa khác, Thiên-cung ấy là gì ? Là các nguyên-căn của Đức Chí-Tôn, là cơ-quan tạo-đoan Càn-Khôn vũ-trụ. Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn nói rằng : Đức Chí-Tôn buổi nọ có Thiên-cung riêng, Ngài dứt cả toàn Thiên-cung đó đến một chỗ chẳng có vật chi , rồi Ngài lấy dương-quang đặng Ngài biến-tướng ra và ban cho mỗi con vật một điểm linh,  tiếng Phạn goi là Monade, còn ta gọi là nhứt điểm linh, điểm linh ấy tấn-hoá vô-biên vô giới, đi từ vật-chất dến Phật-vị, thì trong con người đi biết bao nhiêu kiếp sống liên-quan mật-thiết cùng nhau, do mỗi kiếp sống để tạo thành một gia-tộc. Chúng ta sanh ở thế-kỷ nầy có ông, bà, cha, mẹ, anh,em, bạn tác, vợ chồng, con cái, cả các cơ-nghiệp hửu-hình của chúng ta tại thế nầy, sẽ trở nên cơ-nghiệp nơi cảnh vô-vi kia, đặng làm Thiên-cung của chúng ta.  Vậy Thiên-cung là gì ? Nếu chúng ta gọi là gia-tộc vô-hình thì phải gọi là xã-hội, do đại-nghiệp căn-bản của chúng ta lập-thành. Nếu chúng ta tưởng-tượng trở lộn lai do lời của Đức Chưởng-Đạo nói , thì Đức Chí-Tôn cũng vô một khuôn-luật ấy, nhưng Ngài đạt Pháp, nắm cả bí-mật vô-biên đặng tạo Càn-Khôn vũ-trụ riêng, chẳng khác như ta đã thấy tấn-tuồng hửu vi nơi mặt thế nầy, cũng làm con, làm cha, mà ta thấy cha ta tạo nghiệp thế nào, thì ta cũng bắt chước như thế ấy. Hình-trạng Đức Chí-Tôn đã làm thì ta sẽ làm theo, hay là ta đã làm rồi nơi cỏi vô-hình, Đức Chí-Tôn đã dành để cho ta mà ta chưa hề biết như vậy, ta chỉ biết giờ nầy mà thôi, đến khi bỏ xác thú rồi, trở lại cảnh vô-hình, mới biết là ta có đại-nghiệp.

Bởi vậy cho nên buổi sanh-tiền trong kiếp sông của ta đây: ăn để sống, tranh dành nhau để nuôi con thú, tức là thú hình của ta mà quên lảng cả đại-nghiệp.Không có thảm trạng nào hơn là ta quên mình hiểm-nguy, nên Chí-Tôn rất thảm khổ thấy ta chìm đắm trong trường đời. Ta thử tưởng-tượng như ta làm cha mẹ đương giũ đại-nghiệp cho con, phần hương-hoả đó rất vĩ-đại , trong thời buổi còn niên-thiếu cho nó đi ra ngoại-quốc du-học, rồi lúc ở ngoại quốc nó không đủ phương sanh sống, cái gia-nghiệp ấy nó chưa được hưởng mà không ai giúp đở, tự nó tìm kế làm thuê làm mướn với tài hay mà sống. Nếu nó sống với nghề hay nghiệp giỏi , với cái thiệt-tài của nó thì không nói gì, ngặc một nỗi nó không sống được theo phương-pháp quân-tử, nó phải hạ mình xuống đi ăn trộm ăn cướp, bạo tàn, điếm-đàng, lương-đối, làm đủ tội lõi với phương sống đê-hèn đó của đưa tiểu-nhơn, thì ta thử hỏi ông cha hay bà mẹ cầm cái đại-nghiệp ấy, sẽ đau đớn thương tâm như thế nào chớ ?

Thật ra Đức Chí-Tôn cũng dường đó, một đám nhơn-sanh chúng ta đây, Ông đã nói : của mỗi đứa con Ông còn giữ một đại-nghiệp, đại nghiệp ấy không phải của Ông cho, mà là của tự mình chúng ta tạo dựng, nhưng chúng ta lại nỡû quên phứt nó đi , để cho thân-thể ra hèn-tiện, khổ-não, tuân-chuyên, mà cái nghiệp kia ta lại không bảo trọng được. Nếu đương đầu với mạng sống mà ta không tự tỉnh, kiếm phương-pháp sống cho chí thành, rủi tìm cái sống theo quỉ-pháp, thử hỏi Đức Chí-Tôn đau đớn như thế nào nữa ? Thầy đã nói “gia tài của các con Thầy không bao giờ lấy cho kẻ khác, kỳ dư kẻ nào chê bỏ”. Nếu chúng ta thất-nghiệp cả của cải phụ-ấm do nơi ta đào tạo ấy mà ta trở bước hưởng lại không đựơc là tại nơi ta từ chối, tự ta quên mình mà tự bỏ cái đại-nghiệp ấy. Ta sống một trăm tuổi có nghĩa gì đâu ? Ví như mỗi phen có một đám xác đi qua, thì dường như người quá cố nhắc nhở ta một điều gì ? Người chết ấy nói với ta rằng “ Tôi đi đây là đến cảnh thiệt, còn quí ngài ở lại đó là cảnh giả đa nghe”. Phải sáng suốt đặng phân thiệt giả, mới bền giữ cơ-nghiệp thiêng-liêng, chớ đời sống phàm gian là khổ-hãi đa nghe !

Nhơn-loại bao giờ mới tỉnh cơn mơ mộïng tàn-ác mà tìm cho được cái sống thánh đức cao siêu ? Vì cớ cho nên mỗi đứa chúng ta, dầu lao-khổ, truân-chuyên, dầu nhiều phen bị khảo-đảo khổ-hạnh, mà dường như tinh-thần ta thấy khoái-lạc hơn nữa, là tại sao vậy ? Tại ta biết rằng sự khảo-đảo hình xác nầy không phương gì mà động chạm đến phạm-vi đại-nghiệp của ta kia đặng, bất quá là bóng dáng mà thôi, mà hễ không động đến được thì ta biết rằng ta có thể bảo thủ được, không sợ mất của Thiêng-Liêng ta đã sẵn có.

Nếu cả mấy em biết nghe theo chơn-lý vô-cùng vô-tận của thiêng-liêng hằng sống ấy, bảo-trọng được cái cảnh thiệt-tướng ấy là hay hơn là trọng cái sống của tính mơ-mộng. Mấy em chỉ nên sợ một người mà thôi, ngoài ra dưới thế-gian nầy không sợ ai hết. Kẻ nào có quyền thế thì chỉ có giết chết thân ta là hết chuyện. Còn các em, các con, phải sợ người mà chẳng những có giết thi-hài của mấy em, mấy con, mà còn tận-đọa tam-đồ chi-khổ, lại còn truất cả đại-nghiệp của mấy em và mấy con nữa, người ấy là Đại-Từ-Phụ vậy.

 

Tại Đền-thánh thời Tý đêm 21 tháng 2 năm Mậu Tý (31-03-48)

NHIỀU KẺ ĐƯỢC GỌI MÀ ÍT NGƯỜI ĐẾN

Nói về chữ hiếu thật là quá rộng-rãi bao-la, nên Nho-giáo nói không hết được. Ví như có câu rằng : quạt nồng ấm lạnh, nghĩa là khi cha mẹ nóng-nực thì quạt cho mát, khi cha mẹ lạnh thì đắp cho ấm, đó là câu nói để tỏ tâm-hiếu của con cái theo thế thường tình nhỏ mọn mà thôi, chớ đối với Phật-Mẫu không có một điều gì ta làm đặng đêøn công sanh thành dưỡng-dục của cha mẹ mà gọi là hiếu, bởi mình không phương thế trả cái hiếu ấy đặng bao giờ. Vì vậy mà sách Nho ta không hết được.

Aáy vậy, có hiếu  tức là phụng-sự cho cha mẹ đủ mọi phương diện theo hoàn-cảnh của mình. Làm con mà muốn nói mình có hiếu mà Oång mặc kệ Oång, mình mặc kệ mình, có khi cả đôi tháng hoặc suôát năm không thăm viếng, đợi tin chết đặng về để tang, bằng không chết thì thôi, Oâng Bà sống tự họ, mình sống tự mình.

Rủi nghe ai nói : ông Cha bị cảm nặng, bị rét sau chú nó cô nó không về thăm thì lại nói rằng : ” Tôi cũng lạnh gần chết tôi đây, nhà tôi ở xa, ổng lạnh Oång ở nhà, tôi đi đường xa đây tôi còn cảm nặng đau hơn Ổng nữa “ . Đối với cha mẹ mình phải báo hiếu trọn cả kiếp sanh cũng chưa vừa, càng khổ-não, khó-khăn chừng nào thì tâm hiếu ấy mới quí, mới trọng.

Đối với Chí-Tôn cũng thế, đêm hôm qua đi cúng chỉ có một ít người thôi, đó là tâm đạo theo Trời mưa nắng ! Lại đổ thừa đi mưa sợ cảm sổ mũi nhức đầu. Tội nghiệp Chí-Tôn rủi có lạnh không ai đến cho mà chờ, mà người chắc không lạnh nên không cầu lụy chi mình, chỉ mình không hưởng ơn riêng, sợ buổi trúc hồn là khổ-não.

Trong Thánh-giáo Gia-tô có câu chuyện như thế nầy: Đức Chúa Jésus Christ nói : Nhiều kẻ được kêu mà ít người đến “ (Il y a beaucoup d’ appelés mais peu de venus). ý nói rằng con cái của Đức Chí-Tôn thì nhiều mà hạng đặng siêu rỗi vẫn ít. Có người đó cũng có học-thức nghe vậy thức mình nói : “ Đấng Cứu-Thế đến siêu-rỗi thì siêu hết, chớ có lý nào kêu lại không đến, Thánh-giáo nói làm sao vậy chớ ? “ Coi bộ bất bình lắm.

Đến ngày lễ Đức Chúa giáng-sinh, tuyết trời lạnh lắm, mà anh ta làm cũng làm chức trùm hay cậu gì trong Đề-Thánh đó, nhưng đến buổi lễ thấy đền thờ trống hơn. Oâng cha mới kêu ông ta lại, vừa cười vừa nói rằng : “ Nhiều người kêu mà ít kẻ đến là vậy đó ”. Anh ta nhớ lại lời mình vấn nạn khi trước, bắt thẹn-thuồng mắc cở.

Nếu nền Đạo của Chí-Tôn phải tùng theo sự nồng lạnh mà thạnh hay suy, thì đây về sau, Bần-Đạo tưởng nếu trời mưa miết ắt diệt Đạo Cao-Đài nầy đặng có phải  ?

 

Tại Đền-Thánh đêm 23 tháng 2 năm Mậu-Tý (02-03-1948)

VẬN MẠNG CỦA NƯỚC VIỆT-NAM HIỆN-THỜI

Ngày nay Bần-Đạo hạ-san một lần nữa, bởi vấn-đề tương-lai, vận mạng của nước Việt-Nam chúng ta tới giai-đoạn rắc-rối không giải đặng cứu-vãn tình thế của nòi giống Việt-Nam, bằng chẳng vậy thì như trước mắt chúng ta thấy trường lưu-huyết vô lối mà tàn sát chúng sanh rồi đó. Khi Bần-Đạo bị đồ-lưu hải-ngọai (Madagascar) trở về thấy thời-cơ đang rối-rấm, cuộc cờ nước nhà đã làm vào lối bế-tắc không thể thắng được. Nhưng nhờ đức-tin vững-vàng nơi Đức Chí-Tôn mà Bần-Đạo tìm phương thế xóa bỏ bàn cờ nầy, sắp làm bàn cờ khác giao cho họ giành, nhưng họ đi thế nào mà tới đây lại bị bí nước nữa. Nước bí nầy thật khó gở, mà cũng theo đức-tin quá mạnh nơi Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo tìm giải-pháp đặng thí-nghiệm, đắc thành chăng là do nơi ở nhà cầu-nguyện cho giỏi, để tâm mỗi ngày đừng cho ra, đem cả tinh-thần thống-nhứt lại cầu-nguyện cho Bần-Đạo làm được đắc thành kết liễu.

Tấn tuồng nầy rắc-rối chẳng khác như Bần-Đạo nói bóng, rán tìm hiểu, trong gia-đình Ông cha cầm cái giấy nợ từ lâu mà đòi không đặng, nhà nghèo khổ, con cháu anh em tông-tộc rầu buồn, có một chú ba nài (cornac) cũng cha Hồ chú Nhẩn gì đó, đến dụ-dỗ nói rằng : có thể đủ tài năng đòi nợ, rồi thâu-đoạt giấy nợ đi, vị trưởng-tộc tính đòi đặng giao cho nó cái chủ-quyền đó, rồi ra khỏi nhà của mình, chú ba nài đòi không ăn thua gì cả, đáo-để nợ đòi không được mà trong tông-đường hao tốn tiền của mồ-hôi nước mắt nữa. Oâng trưởng-tộc mới tính về đòi lại, cái chú Ba nài kia nhồi-sọ cả tông-đường đó nghe lời của chú. Oâng trưởng-tộc muốn về thì chủ nợ nói  “Ông hỏi cả tông-đường của Oââng. Nếu nhìn cái quyền của Ông thì tôi trả cho”. Còn đối với tông-đường đó thì chú lại nói : “ coi chừng Oång về đòi rồi Oång lấy luôn một mình  Oång đa”. Hiện giờ phải giải-quyết làm sao cho người thiếu nợ phải trả, làm sao cho Ông trưởng-tộc đó minh-biện cho người phải trả, hai vấn đề đó Bần-Đạo cần giải-quyết trong chuyến đi nầy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm rằm tháng 3 năm Mậu-Tý (1948)

ĐÒI LẠI CHỦ-QUYỀN CỦA VIỆT-NAM

Sau khi Bần-Đạo đã làm xong phận sự đối với Quốc Việt-Nam, với chủng-tộc Việt-Nam y như Thánh-ý của Đức Chí-Tôn đã hứa hẹn từ trước, Bần-Đạo để lời cảm ơn toàn thể con cái của Ngài.

Chư Chức-Sắc Thiên-Phong Thánh-thể của Đức Chí-Tôn cũng vậy, và toàn đạo Nam Nữ cũng vậy, cả thẩy đều giúp Hộ-Pháp một cách huyền-bí, không phương gì tả đặng. Sự liễu-kết cho tương-lai Quốc-gia nòi giống nầy, quả quyết chắc-chắn do trong khối óc của Thánh-thể của Đức Chí-Tôn và toàn thể con cái của Ngài sản xuất đó vậy, có một điều lạ chướng mà Bần-Đạo không phương suy-nghiệm đặng, là khi Bần-Đạo hạ san với giải-pháp mới trong tay, cầm xuống kính thành thì Bần-Đạo tưởng rằng sẽ gặp điều khó khăn, không thể giải-quyết đặng với nhà chưởng-quyền của Đại-Pháp. Trái ngược lại, Bần-Đạo thấy một tinh-thần của một nòi giống công-chánh, đã hiển-nhiên hiện trước mắt Bần-Đạo, là người đã thấu-đáo việc mình đương hành-động và người ta đợi mình nói việc mình đang làm đó, mà mình lại không nói, không làm cho người ta hiểu. Có lạ gì, tình-trạng của một nước đã đánh tan quân chủ, lập nên dân-quyền làm đầu vạn-quốc, về Pháp-chánh ấy mà nguời ta tức tại sao toàn cả quốc-dân Pháp lại tự nhiên coi dân-chủ là trọng, mặc dù muốn hay không mà Pháp-Chánh buộc thì người ta phải tôn-sùng, thức là xu hường theo đó. Lại nữa vạn-quốc còn để mắt coi hành tàng của người ta là lẽ tự nhiên, đó là điệâu-nghệ sở-trường, họ muốn đến bảo-thủ mà khỏi mỉa-mai miệng thế, nhưng công-chánh của nhà chưởng-quyền nước Pháp sẵn có, chúng ta chỉ nhắc lại mà thôi. Đại nghiệp của nước Việt-nam người Pháp đã lấy trong tay của nhà vua, thì phải trả lại cho nhà vua, không thể trả lại cho ai khác đặng, mà ít nữa trả cũng có người đứng lên nói chớ. Người ta đợi mình nói, mà mình không nói, trái ngược lại Bần-Đạo đã đến giáp mặt và đã thấy thiên-hạ hưởng-ứng nhìn-nhận chánh-lý lời nói của mình là nước Pháp sẽ trả độc-lập và thống-nhứt cho nước Việt-Nam.

Lạ lùng thay ! Con đường khó mà thành dễ. Còn bây giờ tới đoạn đường mình tưởng dễ mà thành ra khó, là nhà vua của mình là Bảo-Đại chẩn-chờ chưa quyết-định, làm khó, trở ngại người ta, nghĩ cũng buồn cười, nhưng dù sao Chí-Tôn cũng đã định sẽ kết-liễu như Thánh-ý của Ngài, không khi nào sai-chạy đặng.

Bần-Đạo đã thường giảng rằng : dầu cá-nhân, dầu gia-đình, dầu quốc-gia xã-hội, dầu cho toàn-thể nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy phải chịu trong khuôn luật quả kiếp của tòa chánh-trị Ngọc-Hư Cùng, là tòa Tam-Giáo đang nắm quyền Càn-Khôn Thế-giái rất nghiêm khắc và oai quyền, oai-lực ấy vô đối, không quyền-năng nào đối thủ đặng. Trên quyền năng ấy có mấy vị Phật thuộc Cực-lạc Thế-Giới vì chủ quả kiếp, nên dù cho Chí-Tôn cũng không sửa cải định án của họ đăïng.

Ta thấy ngày nay, toàn quốc-dân Việt-Nam đương oằn-oại trong sự thống-khổ cốt-nhục tương-tàn, ta thử xét cao hơn nữa, thì ta thấy quả-kiếp dựng hình-tướng các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê tới ngày nay ta thấy giống-nòi Việt-Nam gây ra biết bao nhơn-quả. Ta xem cộng thử Việt Hớn mà đoán buổi sau nầy nào là Tây-Sơn, nào là Mã-Nguy, hễ có vay ắt có trả, tánh-tuồng ngày nay diễn lại là tấn-tuồng tổ-tiên đã làm hồi trước. Một Quốc-gia diệt Tây-Sơn thế nào, thì ngày nay cũng diễn lại y như thế ấy. Quả-kiếp đã xuất hiện rồi, ta trách ai, ta phiền ai, ta than khổ với ai, trước đã làm nay phải chịu ảnh-hưởng hay không cũng nguy khốn mà chớ.

Nếu Bần-Đạo không thủ pháp cho oai-nghiêm, thì cũng chẳng khỏi sự tranh-quyền đoạt-vị trong cửa đạo nầy. May thay ! Bần-Đạo có đủ oai-quyền xoay trở các quả kiếp ấy , làm cho Thánh-thể của Đức Chí-Tôn khỏi bợn nhơ quả-kiếp, mà tránh được Thiên-điều. Rồi đây, chúng ta mở mắt coi lịch-sử của Đời và lịch-sử của Đạo, cũng như hình với bóng, y như nhau không phương nào khác được.

 

Tại Đền-Thánh Đêm Mồng 1 tháng 4 năm Mậu-Tý (1948)

QUỐC-ĐẠO KIÊM TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO

NAM-PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN-PHONG

Bữa nay Bần-Đạo giảng một vấn-đề trọng yếu nhưng chẳng giảng một bữa mà đủ, nên cần phải tiếp tục nhiều lần, Bần-Đạo mới giảng dứt. Sau một buổi lễ cúng rồi, thì giờ lên giảng-đài rất ít. Bần-Đạo phải thúc nhặt lại là vì mỗi lần hành lễ rồi cả thảy đều mệt. Bần-Đạo sẽ liệu phương sắp-đặt lại là giảng trước giờ hành lễ. Theo trong bài thi của Đức Chí-Tôn gởi cho Hoàng-Đế Bảo-Đại có hai câu yếu-trọng cho nền Thánh-giáo. Chí-Tôn hơn hết là hai câu nầy :

“ Quốc-Đạo kiêm triêu thành Đại-Đạo

Nam-phong thử nhựt biến nhơn-phong”

Hai câu này chúng ta hiểu rằng, Đức Chí-Tôn muốn nói với Ngài Bảo-Đại nền Quốc-Đạo của Người, ngày nay đã thành Đại-Đạo, trong chữ Đại-Đạo bao trùm cả đức-tin loài người, câu thứ nhì “ Nam phong thử nhựt biến nhơn phong “ chữ phong không phải là gió, nó có nghĩa lý lắm ! phong đây là phong-tục, Chí-Tôn muốn nói phong-tục nước nhà của Người sẽ làm nền phong-hóa của loài người, hai câu ấy chúng ta nên đoán xét, suy-gẫm coi Đức Chí-Tôn vì thương mà quá lời không ? Thảng như Tôn-giáo nào kích-bác họ sẽ nói Chí-Tôn tự-tôn, tự-trọng, hay là họ có đức tin hơn nữa họ có thể bàn luận rằng :

Chí-Tôn vì quá thương mà nói. Vậy chúng ta thử coi nền Quốc-Đạo của chúng ta sẽ trở nên nền Tôn-giáo của toàn-cầu, chăng ? Và phong-hóa chúng ta có thể thay thế cho cả nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy chăng ? Chúng ta nên quan-sát, suy-gẫm rồi tưởng-tượng coi có thể đặng vậy không ? Có thể được và Bần-Đạo tin quả-quyết rằng nó phải như vậy đó. Tội nghiệp thay ! Một sắc dân đã từng bị nước Trung-Hoa khắc-phục, tuy chịu trong hoàng-đồ, chúng ta có một lịch-sử trong 4.000 năm tranh đấu, vẫn tự-do, độc-lập, không chịu tùng mạng lịnh của Trung-Hoa. Nước chúng ta như cái dải áo, còn Trung-Hoa như cáí áo, chúng ta không có lý lẽ gì từ-chối tinh-thần một sắc dân anh-dũng ấy, nó phải nương cái năng-lực ở chỗ nào ? Aáy là nương tinh-thần Đạo-Giáo nước nhà của nó, chúng ta phải chịu ảnh-hưởng trọng-hệ hơn hết của hai nền Tôn-giáo Trung-Hoa và Aán-Độ, Nho-giáo Trung-hoa dạy chúng ta tu cho được chi-thiện, chí-nhơn, Phật-giáo bên Aán-Độ dạy chúng ta tự tu đặng đạt đại-từ đại-bi. Hai cái khối tinh-thần hiệp lại nhau làm một nền Tôn-giáo, để được bảo-trọng tinh-thần quốc-tùy của mình.

Chí-Tôn đã nói cùng người Pháp : Từ thử một sắc dân ấy chỉ biết nô-lệ chưa biết vi-chủ, vì vậy mà ta đến bồi thường sự bất công ấy, Đạo-Giáo đã dạy chúng ta chi-thiện chí-nhơn, đại-từ đại-bi, tinh-thần đó vậy, hỏi vậy ngày nay chúng ta phải tùng hay chăng ? Tôi dám chắc giọt Cam-lồ ấy, tinh-thần loài ngươi đã khao-khát, để bảo-toàn sanh-mạng, bằng chẳng vậy thì nhơn-loại phải tự-diệt mà chớ.

Tại sao tự-diệt ? Chúng ta thấy trường hỗn-độn một nền văn-minh gồm có tinh-thần duy vật mạnh-mẽ mà chớ, cái chánh-sách của loài người chạy theo duy-vật đương-nhiên thì mặt địa-cầu chưa hòa-bình gì họ chỉ biết tranh sống với duy-vật, chớ chưa sống với tinh-thần chí-thành, cái quyền năng của Đạo-giáo Gia-tô mạnh-mẽ dường nào mà ngày nay phải thoái-bộ trước năng-lực của toàn-cầu, còn đạo-giáo mà đến thay thế đặng cái năng-lực ấy, rồi đây cũng chưa chắc quyết thắng tấn tuồng tương-lai, mà vật-chất sẽ dẫn đến con đường tử lộ không phương cứu-chữa, duy có Đức Chí-Tôn đến cứu loài người mà thôi.

May thay ! Trong nòi giống tổ-phụ chúng ta để lại một tủ thuốc, tủ thuốc ấy ngày nay lấy ra làm món thuốc cứu cả tinh-thần nhơn-loại trong toàn-cầu nầy và trong tủ thuốc thiêng-liêng đó để làm vị cứu sanh, tức nhiên là cái phương cứu khổ chẳng khi nào sai chạy. Nhưng vì chẳng đủ năng-lực để cứu-thế, đem hoàn thuốc hằng sống ấy bảo-tồn sanh mạng loài người.

 

Tại Đền-Thánh Đêm Mồng 5 tháng 4 năm Mậu-Tý (1948)

GIẢNG TIẾP CÂU THÁNH NGÔN

"QUỐC-ĐẠO KIM TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO"

Bần-Đạo ngày nay giảng tiếp câu Thánh-ngôn “ Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo” của Đức Chí-Tôn , giảng hôm kỳ lễ vừa rồi, Bần-Đạo để đại khái đề-mục cho toàn cả tiềm tàng thử coi nền Tôn-giáo của chúng ta sẽ biến tướng ra thành Đại-Đạo là chỗ nào ? Nó đã đem cái gì cho nhơn-loại về mặt tinh-thần Đạo-đức mà biến ra đại-đồng. Chúng ta đã ngó thấy nguyên-do Đạo-giáo bao giờ loài người phải chung họp lại với nhau, nào xã-hội, nào là gia-đình, dầu trong buổi ăn lông ở lổ loài người chẳng hề qua mặt luật thiêng-liêng đó đặng. Buổi ấy, tất cả có bí-pháp, hội-họp gia-đình; Đức Chí-Tôn duy có một mình, Ngài phân ra mới có Phật-Mẫu, Ngài phân ra đệ nhị quyền hiệp tại đệ nhứt quyền, chủ quyền-năng tạo ra Càn-Khôn vũ-trụ để lập gia-đình cho loài người đó vậy. Nhờ Chí-Tôn phân tánh là bí-pháp lập thành xã-hội đó, chúng ta đã hằng tưởng hiểu cả, loài cầm thú phải có hiệp lại mà biến sanh được, giải rõ là trống mái, đực cái hay nam nữ vậy, nó tương-liên trước mặt chúng ta, hoặc một cách âm-thầm bí-mật, vậy loài người bao giờ cũng có Xã-hội nhơn-quần, gia-đình, vì mặt luật buộc như vậy, lời chúng ta thường nói : “ chưa ai ở đất nẻ mà chun lên “. Mỗi cá nhân đều có nguyên do căn-bản. Hại thay ! Xã-hội bình-quyền tức nhiên mặt địa cầu ngày nay bị một quyền năng vật chất ấy nương với quyền năng tinh-thần mà loài người đạt đến địa vị cao trọng và đạt cơ mẩu nhiệm: của Tạo-đoan, đời có triết lý, khoa học làm cho đảo lộn tinh-thần, họ làm rồi họ tự kiêu là làm chủ cả cơ-quan bí-mật của loài người, tự khoe mình là trời;  tự kiêu, tự đắc, tự tôn, tự đại, chúng ta đã thấy họ tự chối mọi lẽ thiên nhiên. Ngày giờ nhân-loại xu-hướng theo phương-pháp vật hình, quyền-năng khoa-học, lý-thuyết quái-gỡ dị-đoan ấy, làm cho tinh-thần loài người ngu-xuẫn, cho rằng không Trời, không Đất, tức nhiên không Đạo, không người, không xã-hội, không gia-đình; sống như con vật chung hiệp với nhau đồng sống vậy thôi. Sống không quyền-lực tinh-thần vi-chủ, không thể nào nhơn-loại tự bảo-tồn cho dân chúng đặng mà tránh khỏi nạn tiêu-diệt, họ coi mạng sống của loài người là một vâït-dụng, để hưởng hanh-phúc sung-sướng, lường-gạt, buộc tinh-thần người làm nô-lệ cho vật hình, chúng ta thấy tấn tuồng nguy-ngập, xô đẩy loài người đi đến diệt-vong. Tổ phụ chúng ta sống từ Thượng-cổ đến nay 3.000 năm, một vị chí Thánh để lưu lại cho đời mực thước niêm luật xã-hội, nhơn-quần, Ngài định phải có gia-đình, có Tông-tổ, có xã-hội, Ngài lập pháp trọn trong điều ấy, từ thường dân chí Vương đế, không ai ra khỏi mặt luật.

Tổ-phụ chúng ta chịu Đạo-giáo để lại sự thờ phượng tông-tổ gia-đình chúng ta, tức nhiên thờ kẻ quá vãng, ta coi người chết như sống, chúng ta tôn-sùng mạng sống của con vái người, vì loài người là thiên-hạ là trời.

Chúng ta biết nhìn nhận Trời trên mặt địa-cầu, chúng ta biết thờ phượng Trời, thức nhiên thờ loài người đó vậy. Đạo-giáo chúng ta đêû lại 2.000 năm, vậy điều trọng-hệ là thờ Trời và thờ Người, buổi hổn độn nầy, nhơn-loại vì khoa học mà đi đến một đường tử lộ. Chúng ta cần đến đạo-giáo phô trương trên mặt địa cầu nầy cho nhơn-loại họ biết tự tỉnh để tru cả tánh loài người lại, hưởng hoàn thuốc cứu sanh mạng họ.

Bần-Đạo giảng lần trước, tiếp kỳ nầy kết luận là hườn thuốc thờ Trời và thờ Người, thản vạn loại phản phúc mà còn chối nữa thì chịu tận-diệt mà thôi.

 

Tại Đền Thánh Ngày 14 tháng 4 năm Mậu-Tý (1948)

GIẢNG TIẾP CÂU THÁNH NGÔN

"QUỐC-ĐẠO KIÊM TRIÊU THÀNH ĐẠI-ĐẠO

NAM-PHONG THỬ NHỰT BIẾN NHƠN-PHONG"

Hôm nay, Bần-Đạo giảng tiếp Thánh-ngôn của Thầy câu :

“ Quốc-đạo kim triêu thành Đại-đạo,

   Nam phong thử nhựt biến nhơn phong”.

Chúng ta quan sát coi nền Quốc đạo của chúng ta có phương thế gì để làm một nền Tôn-giáo cho toàn cầu ?

Đương nhiên bây giờ, cái tinh-thần của loài người chỉ xu-hướng theo trí thức đương nhiên của họ. Họ có thể được cái hành-vi bí-mật thiêng-liêng mà lập nên cơ giới phi-thường ở mặt địa-cầu nầy. Nhưng cái cơ-giới ấy do nơi hóa-công sản-xuất ra tâm-não của kẻ trí-thức thông-minh đặng bảo-vệ sanh-mạng của loài người và lập hanh-phúc cho loài người.

Trái ngược lại, những hạng trí-thức thông-minh ở trong thời-đại nầy, đều nảy sanh do một tâm lý khoa-học ấy trở lại tàn sát sanh mạng của loài người, đó là đến những cảnh bạo ngược. Hơn nữa, trước mắt chúng ta đã ngó thấy hai trận giặc trên hoàn cầu đã giết hại-nhau, nên hiện giờ trên mặt địa-cầu đã tự giết chết bao nhiêu mà kể.

Cái trí-thức tinh-thần ấy có làm gì cho đồng-bào và thời đại nầy đặng hanh-phúc chăng ? Trái lại, nó đem cho đời một tấn tuồng thống khổ trước mắt cả thảy. Bần-Đạo chỉ nhắc lại cho con cái của Đức Chí-Tôn thấy rõ, nhơn-loại hiện-nay đã xu-hướng theo hạng tri-thức tinh-thần khoa-học thì có kể đâu là thương chủng tộc, còn ngày nay đã gây ra biết bao tấn tuồng thê lương thảm-đạm, nhơn-loại hết yêu ái nhau, mà trái lại người với người họ đối nhau còn quá hơn thú dữ, người với người mà họ chưa biết tôn trọng mạng sống với nhau, họ lại đoạt mạng sống của nhau đặng tìm hanh-phúc.

Mặt địa-cầu nầy, sanh ra các đảng phái nào thì chỉ biết tương tàn tương-sát với nhau mà thôi, họ không kể gì là sanh mạng của con người, họ chỉ biết lấy xương cốt của loài người mà lập đài danh-dự của họ thôi. Cái mục đích bạo-tàn của họ, chúng ta đã thấy hiển nhiên trước mắt, cái thảm khổ của đời mà chưa hề có ai thấu rõ tâm-lý khổ-não của đời, đem lòng thương hại đến nhơn-sanh.

Từ Phật-giáo ra đời đến bây giờ , tinh-thần của loài mới biết thương hại cho nhau, một nơi nào có một tâm-hồn ưu-ái thì các Tôn-giáo đương nhiên trước kia là một huờn thuốc để cứu chữa cái bệnh thảm-khổ của loài người nơi mặt địa-cầu nầy, nhưng nay huờn thuốc cứu chữa ấy để tại mặt thế nầy, nó không thể trị đặng một bịnh tinh-thần, khoa-học đương nhiên của họ đã sản xuất trên mặt địa cầu nầy. Thử hỏi chúng ta có đem gì hanh-phúc cho họ không ? chúng ta chỉ biết đem lại cái nhơn-nghĩa mà lập nền hanh-phúc cho họ thôi.

Tuy vậy, nòi giống của chúng ta là một sắc dân chiến đấu, một sắc dân oanh-liệt, từ xưa tổ-phụ ta biết hiền lành, biết kính trọng, biết thương yêu, kính trọng mạng sống của loài người lắm, cái tánh thông-thái, cái tánh thông-minh của tổ-phụ của chúng ta sản xuất trong một nguồn cội từ lành, không điều gì đem đến trước mắt tổ-phụ của chúng ta, mà tổ-phụ chúng ta tìm tòi không đặng.

Nước Việt-Nam ở trong khoản đất phì nhiêu nên tổ phụ chúng ta biết trọng sanh mạng con cái của Trời, biết nhận nhơn loại là anh em, là cốt nhục, đồng chung mà ra, biết nhìn câu : “ Từ hải giai huynh đệ”; tổ-phụ ta biết yêu thương nhơn-loại, bất kỳ là một sắc dân nào, một nòi giống nào có trí-thức cao-minh làm cho loài người đặng hanh-phúc thì tổ-phụ ta kỉnh trọng tôn-thờ vậy. Một nền Tôn-giáo mà đến nước Việt-Nam  ta truyền bá thì tổ-phụ kỉnh trọng tôn sùng ngay. Nên mối Đạo nào vào nước Việt-Nam ta được kết quả mỹ-mãn. Lòng mộ Đạo của tổ-phụ ta trước kia lấy lương-thiệnlàm căn bản, lấy nhơn-nghĩa làm môi giới, cái sự tôn nghiêm của tổ-phụ từ thử hiển nhiên chúng ta đã ngó thấy.

Trong nước hiện giờ thì có các đạo-giáo thanh-liêm chánh-trực đang làm cha mẹ cho dân, cái tinh-thần tạo hanh-phúc cho dân, một trang anh-dũng biết bảo-trọng nền quốc túy, nâng-đỡ nước nhà, biết tôn-sùng nhơn-nghĩa, chúng ta đã ngó thấy các đạo-giáo của chúng ta đem cái nhơn-nghĩa làm huờn thuốc liệng vào tâm-lý của loài người là có thể tri đặng cái tinh-thần bạo ngược của họ.

Nhơn-loại vì quá ỷ tài sức nương theo cái tinh-thần khoa-học mà làm mất cái tinh-thần căn-bản nhơn-luân. Nên nay ta đem cái Đạo nhơn-nghĩa mà thức tĩnh loài người, đặng cho họ nhìn với nhau vì danh nhơn-nghĩa hầu thương yêu nhau, dắt nhau đi đến chủ-nghĩa đại-đồng.

Cái nền nhơn-nghĩa của chúng ta, nó có thể làm môi giới cho các chủng-tộc trên thế-giới, đạo nhơn-nghĩa của chúng ta là một căn bản của quốc-thể của nước Việt-Nam và có thể thành quốc-đạo được.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý mồng 5 tháng 5 năm Mậu-Tý (11-6-1948)

GIẢNG TIẾP CÂU THÁNH NGÔN

"NAM PHONG THỦ NHỰT BIẾN NHƠN PHONG"

Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp câu thánh-ngôn của Đức Chí-Tôn :

“ Nam phong thử nhựt biến nhơn phong”.

Bữa trước Bần-Đạo đã giải rõ đại công của nền nhơn luân phong-hóa của ta. Nay ta sưu-tầm căn-nguyên của Nam phong coi do đâu sản xuất. Bần-Đạo đã giảng là cốt-yếu muốn thực hành phong-hóa nhà Nam, phải do nơi Nho tông mà làm căn-bản.

Thời-kỳ nầy Chí-Tôn đến, lấy Nho-tông để chuyển-thế và thi-thố cho cả toàn-cầu vạn-quốc một triết lý tối-tân, đặng chỉnh dốn sửa đương những tệ-tục tồi-phong của nhơn-loại mà đem vào thánh-chất của con người. Đức Chí-Tôn đã tìm định đến đặng sửa đương. Vậy ta nên tìm hiểu Nho-tông là thể nào ?. Đã cho ta vật gì ? Có đủ phương tiện mà chuyển thế đặng chăng ? Trước hết ta phải biết trong tay ta có khí-cụ gì rồi mới có đủ can đảm xông pha ra chiến-trường quyết-thắng, tìm xem coi nhơn-loại đang thiếu thốn điều gì và xem coi nhơn-loại đang tìm kiếm vật gì, mà vật ấy chúng ta có hay không ?

Nói đến Nho-tông thì chẳng còn gì phải biện thuyết nữa; vì đã có chẳng biết bao nhiêu là hiền-môn, thánh-tích để lại từ thử. Kể từ ngày Đức Khổng-Phu-Tử giáng thế đã hai ngàn năm trăm năm, nếu ta suy xét cao xa hơn nữa thì ta thấy Đạo-Nho phát sanh từ vua Phục-Hi là tối cổ hơn hết. Ta không thể tìm đâu xa hơn nữa, duy biết rằng Đức Khổng-Phu-Tử học Nho của ông Châu-Công, đặng chỉnh đốn lại Đạo Nho, khi Ngài đến tại thế nầy vậy.

Đạo Nho đã làm được những gì ? Ta thấy Đạo Nho của chúng ta có Hội-Thánh mà Hội-Thámh ấy bí-ẩn khéo-léo lạ-lùng duy có một người có thể kiến-thiết quốc-phong của một nước mà thôi, chớ không đủ năng-lực chuyển cả tâm-lý toàn cầu được. Vì sự khuyết-điểm ấy, Đức Chí-Tôn mới đến lập Hội-Thánh, đền thờ của Ngài kêu là Cao-Đài, danh từ đó chỉ rõ đền thờ cao-trọng của Ngài tại thế nầy, tiếng Pháp gọi là Haute Éùglise (nghĩa là Đức tin cao-trọng).

Hỏi Hội-Thámh của Đạo khổng lập quốc thế nào ? Ta thấy Hội-Thámh của Đạo Khổng trong gia-đình làm gia-pháp biến sanh ra phong hóa gia nghiêm đó vậy. Người chưởng-quản gia-đình tức là giáo-sư Hội-Thánh của Đạo Khổng tức là ông cha, nên thiên hạ thường kêu là chủ-gia.

Trong hương-đảng có Hội-Thánh của hương-đảng, theo cổ tục thì Ông Hương-chủ là chủ của Hội-Thánh Hương-đảng, còn chức Hương-cả và đại Hương-cả là người ta mới bày ra sau đây mà thôi. Trong hương-lân ngày xưa, chức Hương-chủ là lớn hơn hết vậy. Khởi đầu trong gia-đình, rồi mới tới Hương-lâøn, rồi mới ra đến quốc-gia, người chủ của quốc-gia ấy là nhà Vua. Ôâng cha ta trong gia-đình, ông Hương-chủ trong Hương-thôn, ông Vua trong nước, cả ba người ấy giữ ba giềng mối đạo, phụng thờ ba Tôn-giáo. Tổng số ba Tôn-giáo ấy lại là Nho tông.

Ôâng cha trong nhà thì thờ tiên tằng tổ khảo của Tông môn, Ông là giáo-sư, là thầy cả trong gia-đình. Oâng Hương-chủ thì thờ chư thần tức là cả công thần vì nước mà hi-sanh tánh mạng, được nhà Vua ân tứ làm chủ Hương-làn, nên trong làng ta chỉ thấy có đình thờ thần thiên phu phụng tự mà thôi, nên ông Hương chủ là thầy Cả của làng. Nhà Vua thì thờ Đức Chí-Tôn tức là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, ta thấy sự tế tự đấng Chí-Tôn ấy lưu-truyền từ thời thượng cổ, nên hằng niên mới có tế Nam-giao, đó là tế Đức Chí-Tôn vậy.

Từ đời lập quốc đến giờ, trong phong-hóa nhà Nam không thấy lúc nào sơ thất sự phụng tự, nếu đoán chắc là thờ âøm-chất của tổ-tiên ta biết phụng thờ Đức Chí-Tôn, cái thâm tình ấy còn lưu truyền lại mà ngày hôm nay mà Ngài mới đến đặng đền bồi ân-nghĩa ấy lại có lẽ. Thế thì Ngài đến vì Tổ-tiên ta đã giao mối thâm-tình nồng-hậu, chớ chẳng phải vì sự tình cờ mà Ngài đến nước Việt-Nam này đâu. Trong phong-hóa của ta gồm có : Phong-hóa của nhà, phong-hóa của làng, phong-hóa của nước, tức là phong-hóa chung của Xã-hội nhơn-quần Việt-Nam ta đó. Bây giờ chúng ta khảo cứu coi Nho-Tông đối với xã-hội là gì ? tức nhiên ta thấy là luật-pháp, tuy rằng 86 năm nay bị ảnh-hưởng của văn-minh Aâu châu, chúng ta lãng quyên nền phong-hóa tốt đẹp của ta mặc dầu, nhưng tự cổ chí kim chưa nước nào có đặng.

Chí-Tôn đã đến, Đạo Nho có thất-thập-nhị Hiền và tam thiên đồ-đệ, Chí-Tôn lập Hội-Thánh có nhứt Phật, tam Tiên, tam thập lục Thánh, Thất-thập nhị hiền và tam-thiên đồ-đệ, rõ ràng là Hội-Thánh của Đạo Nho đó. Hiện giờ ta nhận thấy Ngài áp dụng nền chánh-trị của nhà Châu đặng lập chánh-trị của Đạo, làm cho cả cơ quan yếu thiết của Đạo Cao-Đài ra thiệt tướng, đặng đủ năng lực chuyển thế, ta không có gì mà nghi ngờ nữa cả.

Gia-nghiêm của ta lập thành do phong-hóa của tổ-phụ để lại có những gì ? Căn-bản gia-nghiêm hay gia pháp do nhơn-luân chỉ đạo, nên lấy nhơn-luân làm chuẩn đích, mà nói về nhơn-luân thì mỗi người đều biết. Khởi đoan là hôn-phối, việc vợ chồng đối với nhau để trọn quyền của ông chủ-gia định liệu là người chồng, sau quyền chủ gia ấy lại có quyền nội-trợ để cho người vợ, hai quyền ấy vô đối. Ta thấy lối 100 năm trước đây, quyền của cha bảo con chết cũng phải chết, không phải bất hiếu như ngày hôm nay của những kẻ học đòi theo lượn sống tự-do văn-minh vật-chất, còn trở lại muốn làm chủ cha mẹ. Không, Nho pháp không cho có quyền lực ấy bao giờ. Nho-pháp không chịu cho cái giọt máu, cái giọt máu khí-huyết, do vật ấy tạo hình, lại muốn làm chủ vật tạo đoan ra nó, như vậy là sai luật thiên-nhiên của Chí-Tôn dĩ định. Hỏi vậy cái quyền nắm Đạo nhơn-luân trong tay của ông cha ta quan-sát theo con mắt của đời văn-minh nầy thì nói là quyền áp-bức có phải? Hại thay ! Nếu quyền ấy không chỉnh đốn lại phong-hóa của con người đem vào khuôn-khổ thuần-phong mỹ-tục thì cả nhơn-loại trên mặt địa cầu nầy sẽ chạy theo hưởng ứng với sự tự-do mà đi đến địa vị con vật, là mất hết tính chất làm người đó. Tự do kết hôn, tự do định phận, không cần cha mẹ là những người đã trọn kiếâp sanh lịch-duyệt thế tình, mà sự lịch-duyệt ấy còn vốn thiếu ; nên ta hằng thấy cảnh tượng của sự tự do, định phận ấy đã làm bại-hoại thân hình, tâm-lý của con người tại thế thế nào rồi, điều ấy không chối cải được.

Bần-Đạo buổi ấu xuân bị ảnh-hưởng của tự-do, thấy sự kềm thúc của gia-nghiêm lấy làm khó chịu. Khi ấy Bần-Đạo đang học Pháp-văn. Lúc về thăm Ông thầy Nho, khi đến đó Ông mới tường thuật tình cảnh bối rối gia-đình của một vị quan viên bà con xa với Bần-Đạo. Vì vợ làm khổ tâm cho chồng là vị quan viên ấy, đến nỗi gia-đình phải tan nát. Oâng tường thuật câu chuyện này vừa xong thì lại than rằng: “ Hai thay! Vì buổi trước không phải cha mẹ định hôn, mà tự do kết-hôn nên ngày hôm nay mới ra đường ấy “. Thừa dịp ấy Bần-Đạo mới vấn-nạn Ông, Bần-Đạo hỏi rằng : gia pháp của ta nghiêm-khắc quá lẽ, đến sự chăn con như chúa ngục chăn tù, nếu không có quyền tự-do thì con sẽ tối-tăm ngu-dốt ? Ông lại trả lời rằng: ” không, không phải gia-pháp áp-bức làm cho con mất tự-do đâu, mà trái lại người đó có quyền lắm chớ, đến nỗi gia pháp định cho mẹ phải tùng con kia mà “ tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử “ Quyền của con còn có thể thế cho quyền của cha đựoc rồi, thì có áp bức chỗ nào đâu ? Chỉ có kềm-thúc tâm-tình của con cho nó đừng thương ai trước khi thương vị hôn phối của nó, để cho nó đầy đủ tình-ái mà thương người vợ tương-lai của nó vậy thôi. Muốn định hôn cho con thì trước hết cha mẹ đã lựa chọn tâm-lý của vị hôn thê coi có hòa hiệp với tâm-tình của con mình không, chứ chẳng phải xem-xét tánh đức mà thôi, mà cha mẹ là người lịch-lãm thế tình, nên thâm hiểu cả tâm tình của đôi lứa, dầu cho đôi lứa chưa biết nhau trước mà cũng có thể chung khổ cùng nhau, đồng-tâm đồng-chí thương yêu nhau đặng.

Đạo nhơn-luân khởi thủy từ hôn-nhơn, mà nho-phong đã định cho cha mẹ vi-chủ, nếu để cho đứa con vi chủ thì chỉ có hư mà thôi, mà gia-đình hư tức nhiên sẽ có ảnh-hưởng tới xã-hội vậy.

Đây là Bần-Đạo duy mới nói có gia-nghiêm mà thôi, vậy bây giờ chúng ta luận về tâm-lý. Sự hám-vọng tự-do quá lẽ, mà đưa tâm-lý con người đến mức khả ố, nguy-hiểm không thể tả được. Ta thấy nó gieo trên mặt địa cầu nầy một triết-lý vô lối là triết lý: vô phụ, vô quân, không quê-hương, không gia-đình, bởi vậy ta mới thấy thế tình con sanh ra ngỗ-nghịch, không tuân phụ-huấn. Thảng như ngoại nhơn có hỏi đến tại sao sao đã lớn, đã khôn, mà không biết nghe lời phụ-huấn cư-xử với đời vô đễ vô nhơn không còn tình thương nhơn-phẩm, thì chư đạo-hữu biết kẻ bất hiếu kia sẽ trả lời ra sao không ? Nó trả lời rằng : Tôi không xin họ sanh tôi, tôi không muốn họ sanh tôi, chẳng qua họ vì lỡ mà sanh tôi nên họ phải nuôi tôi đó thôi, Oâi ! Aân-đức thâm sanh thật không còn có nghĩa gì hết.

Những tệ-tục ấy nếu Đạo Cao-Đài không xuất hiện đặng chỉnh-đốn lại, sợ cả nhơn-loại trên mặt địa cầu nầy sẽ thành ra ác thú.

 

Tại Đền-Thánh  ngày 12 tháng 5 năm Mậu-Tý (18-6-1948)

BẢO THỦ THUẦN PHONG MỸ TỤC

Hôm nay, Bần-Đạo tiếp tục khảo-cứu phong hóa của dân-tộc Việt-Nam  đối với phong-hóa các dân-tộc khác, cốt yếu xem coi chúng ta có phương gì chỉnh-đốn đạo nhơn-luân của họ đặng ? Mấy kỳ trước Bần-Đạo đã giảng rằng : Đạo nhơn-luân khởi đoan do chồng vợ, có chồng vợ mới có cha con, có cha con mới có dân-tộc lập thành quốc-gia xã-hội.

Đương nhiên chúng ta thấy đạo nhơn-luân của các sắc dân trên mặt địa cầu buổi nầy đã nghiên-đổ và lung-lạc tất cả, nhất là bên Aâu-châu, đạo nhơn-luân của họ tồi-tệ là thường, Bần đạo thấy rất nên bại-hoại, từ thử đến giờ chưa ai nghe nói cha lấy con, anh lấy em, mà bên Aâu-châu thường có xãy ra điều ấy. Hại thay ! Trãi qua tám chục năm nay những tánh-tính yêu-nghiệt ấy lại truyền sang đến nòi giống chúng ta, ngày nay vẫn còn thấy tấn tuồng đó nửa, yêu-nghiệt đã biến tướng biểu sao thiên hạ không lọan được, Đạo nhơn-luân đã vậy, tinh thần của con người không biết phẩm-vị, nhơn-cách gì hết, nên hột giống ác nghiệt biến sanh ra mãi thôi. Thành-thử nhân-loại ngày nay quá bạo ngược, tương-tân tương-sát lẫn nhau, người đối với người còn giữ tợn hơn thú đối với thú nửa, vô nhơn vô đạo, cha không xứng phận cha, con chẳng biết đạo con, anh chẳng ra anh, em chẳng ra em, chồng không nên chồng, vợ không đáng vợ, nền luân-lý của nhơn loại trên măït đia-cầu  nầy không còn có khuôn-khổ gì hết. May thay ! Đạo nhơn-luân của tổ-phụ chúng ta lưu lại, dầu bị ảnh-hưởng của văn-minh ngoại-bang làm cho ô-uế đôi chút, nhưng nhờ Đức Chí-Tôn đến phổ truyền nền chơn-giáo của Ngài nơi đất Việt-Nam nầy, có thể còn sửa đương đặng và lại sẽ làm khuôn-mẫu cho toàn cả sắc dân nơi địa-cầu nầy bắt chước theo nữa.

Đạo làm chồng, chúng ta có gương xưa tích cũ, nhờ nơi Nho-tông rất oai-quyền, nghiêm-khắc, mặt luật của nó kềm chế tâm-lý của con người. Đạo Nhơn-luân của nhà Nho ta có cái vẽ đẹp thiên-nhiên, ai tiêm-nhiễm cũng đến sanh mê-mẫn, cảm-kích, vậy mới tạo tâm-lý theo Nho-tông làm hình-trạng tinh-thần Nho-đạo, khuôn tuồng đó duy ở Việt-Nam mới có, còn các Tôn-giáo khác hình-tướng lại biến ra làm khuôn-mẫu riêng trên sân khấu đời, nên đạo Nho-tông thâm-nhập vào cốt-thể của cả thảy con người đặng. Bao nhiêu gương để chỉnh đốn đạo nhơn-luân, cốt yếu làm con người biết đạo vợ chồng là trọng, đặng sửa đương cho nhau lập mình lên bực chí Thánh. Như thời xưa vợ chồng ông Châu-Công, Ngài là Tể-Tướng đầu triều mà bà vợ vẫn lo canh-cửi làm ăn nuôi mẹ chồng,  một vị mạng-phụ phu-nhơn mà cư-xử được như vậy thật đáng quý. Kịp đến khi Ông hồi hưu, buổi già cả vợ chồng đối với nhau như chủ khách. Nước ta lại có bà vợ của ông Phan-Thanh-Giản Ông xuất sĩ rồi bận việc triều-chánh luôn, hết khi ở Bắc rồi lại vào Trung, không mấy khi vào Nam. Bà mạng phụ ở nhà với cha mẹ chồng lo thủ hiếu thay thế cho chồng, xét ra thì gương ấy cả Châu-Aâu cũng chưa hề có vậy. Ngày giờ nào, gương mẫu tiết-liệt ấy trãi qua cho toàn phụ-nữ trên mặt địa-cầu nầy đồ theo, thì ngày ấy danh-thể của phái-nữ mới được trọng nễ, nhứt là phụ-nữ Cao-Đài cần phải làm cho đặng, hầu sửa đương nền phong-hóa của Việt-Nam trước đã.

Còn về sự tồi-tệ thì chúng ta hằng thấy tích xưa điển-cũ, như có câu : “ Đố phụ loạn gia “. Lạ lùng thay và khéo-léo thay ! Chẳng phải ở bọn Hàn Mặc hoặc thượng-lưu trí-thức, lại ở nơi một người đàn bà hạng thường, đủ khôn-ngoan đạo-đức có đủ hạnh-kiểm có thể sửa chồng nên phận được.

Xưa kia có người lính cầm lọng cho Yến-Tử là quan Tể-Tướng. Oâng nầy thì nhỏ người, còn chú lính cầm lọng thì to lớn kich-cợm. Oâng Yến-Tử tuy là Tể-Tướng đầu triều, nhưng con người có tánh cách nho-nhã, nề-nếp nhà quan, không kiêu-hãnh, gương mặt khiêm-hòa, còn chú lính cầm lọng lại vênh mày vênh mặt, bộ tướng tá nghinh-ngang, tưởng rằng không phải Yến-Tử mà chính anh ta là Tể-Tướng đầu triều mà chớ ! Lúc Tể-Tướng đi ngang qua, người vợ chú lính núp kẹt cửa thây vậy, nên khi về nhà mới đòi làm tờ để. Anh ta hỏi tại sao ? Người vợ nói rằng : “ Thiếp núp sau cửa, thiếp thấy chàng đi ngang, quan Tể-Tướng, Ngài thì nhỏ người mà gương mặt nho-nhã, tỏ vẻ hạ mình còn chàng thân hình to lớn mà chàng hiên-ngang coi trái mắt quá lẽ, vì thế, thiếp lấy làm hỗ-ngươi không thể ở với chàng nữa. Nhờ vậy, chú lính ấy biết cảm-hóa, sau sửa mình lập thân trong hàng ngũ quân binh lên đến bực Tướng. Aáy vậy, đạo nhơn-luân nếu biết giữ chặt, thì vợ có thể làm nên cho chồng, dạy chồng nên đạo được. Phụ-nữ Cao-Đài cũng thế đã hai mười năm nay tiêm-nhiễm đạo đức tinh-thần, tạo đầu óc tâm-não, vậy tìm phương dạy chồng thế nào !

Có nhiều hạng người được vinh-quang thì lên mặt phách-xấc, không nhớ đến cằn-bổn nên hạ của mình khi trước, phải biết rằng chúng ta ra đứng đợt với thiên-hạ được là nhờ Chí-Tôn tô mày vẻ mặt cho đó, hạng nầy rất nhiều, phụ-nữ nên để ý sửa dạy cho họ bớt tâm tự-kiêu đôi chút.

Đối với cha con, Nho-tông để lại nhiều vẻ đẹp của tổ-phụ chúng ta lưu-truyền đặng làm chuẩn-thằng mà sửa đương xã-hội và lập-quốc. Cha hiền mới sanh con thảo, con thảo là hôït giống để làm một nền móng tương-lai, tương-lai quý hóa không thể tả bởi Tiền-nho chúng ta đã nói :” Vua Nghiêu tìm ông Thuấn đặng truyền ngôi ; chẳng vì lẽ gì hơn là nghe danh ông Thuấn chí hiếu, mà một khi ta được chí hiếu rồi thì không gì sánh bằng. Có hiếu rồi mới có nghĩa, có trung, có cang, có trí, nghĩa là hễ có hiếu rồi thì có thể có đủ hết tính-đức khác.

Ngày xưa người ta tầm hiếu đến tận nơi thôn-lân, huyện phủ, tỉnh-lỵ, để hỏi thăm những gương hiếu-thuận. Người ta tìm hiếu tức là tìm hiền, do cái hiếu ấy suy đọ ra cái hiền của bực danh thần triều-chánh, mà muốn có hiếu thì cha phải có từ vậy. Bần-Đạo thấy quốc-dân Việt-Nam bị ảnh-hưởng của ngoại-quốc, con không cần cha, cha không biết đến con, tồi-phong tệ-tục ấy đã thấy rõ ràng trước mắt. Bởi vậy. Trong xã-hội có ba người quan trọng : Cha, Chủ, Chúa. Cha là ông chủ của một gia-đình, Chủ là ông chủ của một Hương -đảng, Chúa là Ông chủ của một nước, cả ba vị ấy làm dầu từ gia-đình lên xã-hội. Nếu quyền cha nắm không kham do người cha bất-lực. Truy căn-nguyên là do tự-do kết-hôn, chồng không phải chồng, vợ không phải vợ, cập-xách với nhau rồi tự-lập gia-đình, đạo nhơn-luân không có chỗ nào ràng-buộc, chẳng qua là chơi-hoa giởn nguyệt, không căn-bản gì hết, hiểu sao khi sanh con ra mà chúng lại không trở nên kẻ vô bổn. Nhứt là hạng Việt-Nam lai của ta là tối hại.

Bần-Đạo đã nói để cha mẹ định hôn, như thế có lợi hơn vì như ta vẫn thấy, cả kiếp sanh lúc còn nhỏ, cha mẹ còn đủ đến ông nội, ông cố cũng còn nữa, trộng một chút là ta vẫn còn thấy đông-đảo, đó là khi chưa biết khôn, khi đã khởi biết khôn ngoan thì ông nội đã đi đâu rồi, rồi cha mẹ đã già, mà mình cũng già nữa, trong lúc ông bà cha mẹ mật, mình cảm thấy cái quyền trong tâm-lý của mình cũng mất.

Cha mẹ là bực cao kỳ trí-thức, đáng kính, đáng tôn, khi cưới vợ cho con dầu cho chúng ta chưa có tình thương nồng-nàn đi nữa, nhưng thời gian qua chừng nào, nhứt là khi cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng đã khuất, thì nhận thấy ở chồng là hình-ảnh người cha của mình, còn chồng nhận thấy ở vợ là hình-ảnh mẹ của mình, nên được khuây khỏa tấm lòng và khắn-khít không lìa nhau là vì lẽ ấy. Nói gì trên bộc trong dâu, một đời nếu không có xảy ra điều gì thì thôi, còn nếu có xảy ra điều chí sanh phiền sanh giận, thì chừng ấy không phương thuốc gì trị được cả, tâm-lý phải chia lìa thì tình kia phải chia cách, mới dễ bỏ nhau thay chồng đổi vợ, con cái sanh ra thấy tấn-tuồng ấy tập tánh học theo, hiểu sao tương-lai không hư-hèn và tánh-đức không lạc-lầm phàm tâm lìa đạo đức. Làm cha mẹ nếu chúng ta biết tiền Nho đã đối với con người như thế nào, đến nổi trong một tông đường có đứa con nào ngổ-nghịch cha mẹ định tự bỏ thì chỉ nói ngoài cửa miệng, chớ chưa thấy ai từ con được bao giờ.

Nhớ lại, khi Bần-Đạo đi ngoài Qui-Nhơn, gặp một ông già tên là ông sáu Chèo, vì ông bán chèo nên mọi người kêu như vậy, vô nhà nhìn thấy bàn thờ ông bà không có treo tranh biển gì hết, chỉ để một câu đối, mà chỉ có một vế thôi :” Nhược niệm cửu-huyền chi bổn, khả năng tu-tỉnh ngộ thân “ nghĩa là “ Nhớ đến cửu-huyền thì phải rán gìn giữ thân mình “ Bần-Đạo thấy thờ có một câu mà không có sơn-thủy gì hết, lấy làm lạ hỏi thì ông nói : “ Một câu đó đủ nghĩa để dạy con cái biết tuân theo, thành tâm tu-chỉnh thì Cửu-huyền sẽ vinh-diệu, biết giữ thân mình không bịnh nhược thì sanh con sáng-láng mạnh-khỏe khôn-ngoan. Đời bây giờ thiên-hạ mê đường hoa-nguyệt phong-tình, sanh con lớn lên thành ho lao, ho-tổn hay tật-nguyền, có nhiều sắc dân sanh con thấy tàn-tật ghê khiết lắm, vì cớ mà mấy năm trước đày Hitler thi-hành chánh-sách của Đức Quốc-Xã xử-tử hay là thiến những kẻ tàn-tật, bịnh hoạn, lấy lý rằng kẻ ấy chẳng giúp-ích gì cho nước, chẳng những thêm một miệng ăn cho Xã-hội lại còn đi hại cho nòi-giống nữa, nên giết bỏ đi chỉ chừa lại những dàn đinh càng-tráng, nhưng vì Đức Quốc-Xã đã làm quá lẽ thành ra tàn-ác nghịch Đạo làm người.

Tổ-phụ chúng ta không thi-thố chánh-sách ấy, chỉ dùng tinh-thần đặng giữ con cho nó tránh khỏi sự bạc-nhược đã nói : mà nòi giống Việt-Nam nầy không bị tiêu-diệt là nhờ khéo giữ đạo nhơn-luân từ trước đó vậy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 19 tháng 5 năm Mậu-Tý (25-6-1948)

PHONG HÓA VIỆT-NAM ĐỐI VỚI PHONG HÓA CÁC DÂN-TỘC VẠN-QUỐC

(Tiếp theo)

Bần-Đạo giảng tiếp về khảo-cứu phong-hóa nước ta đối với Dân-tộc vạn-quốc.

Bần-Đạo đã giảng rằng trong Quốc gia Xã-hội của chúng ta có ba quyền: Cha, Chủ, Chúa. Ba quyền ấy cầm cả chánh-trị của nước nhà, có khác nhau chăng duy có nhỏ và lớn, chớ chánh-kiến vốn đồng với nhau. Ba quyền ấy làm nền-tảng cho phong-hóa chúng ta vậy.

Hôm nay, Bần-Đạo tiếp giảng về quyền làm cha và triều chánh của ông cha, tức là gia-đình liên quan thế nào đối với triều-chánh của làng và triều-chánh của nước.

Chúng ta thấy trong ba quyền ấy, duy có quyền chủ là trên hết, sau biến tướng đến quyền cha, quyền thầy : ấy là đạo Tam-Cang ; Phụ-tử, Sư-đệ, Quân-Thần, Bần-Đạo sẽ  giảng rành-mạch về quyền chúa ấy sau. Bây giờ Bần-Đạo giải rõ quyền cha mà thôi.

Vã chăng chúng ta để ý cho tận-tường xem coi xã-hội chúng ta thấy có điều đặc-sắc riêng biệt không giống với các xã-hội khác, là từ khi Đức Khổng-Phu-Tử hiệp ba quyền ấy làm Hội-Thánh của Ngài. Oâng cha tức là thầy của gia-đình, Ông chủ tức là ông thầy Cả của làng. Oâng vua chúa tức là ông thầy Cả của nước. Vì cớ nên hình trạng của ba quyền ấy Bần-Đạo nói rõ là lớn nhỏ khác nhau, mà chánh kiến vẫn là một. Trong gia-đình nếu ta không gọi là Ông cha thì gọi là Ông chúa của gia-đình, cầm đầu cái triều-chánh của Ông, bà vợ gia-đình, người ta còn gọi là nội-tướng tức là thủ-tướng của gia-đình, cả con cái là lục-bộ đài quan, tôi tớ hoặc những công nhân giúp việc trong gia-đình tức nhiên là toàn dân vậy.

Aáy vậy, gia-đình theo phong-hóa Việt-Nam ta rất trọng-hệ, Ông cha của gia-đình cũng như Ông chúa của nước vậy, nên xét ra đến cực-điểm phong-hóa của ta thì thấy tốt đẹp lạ-lùng, chỉ vì ta không quan-tâm đến thôi, nếu để ý ta sẽ vui hứng hạnh-phúc đặc biệt, bởi không có dân-tộc nào giống như chúng ta, kỳ dư nước Tàu cũng chịu một ảnh hưởng văn-minh như chúng ta mà cũng không đồng một vẻ hay là giảm bớt thì có. Trọng hệ là  gia-đình mới trọng. Vì cớ đạo làm cha, phong-hóa chúng ta kính trọng một cách vô đối. Đối với xã-hội, tổ-phụ chúng ta biết con cái lớn lên phải lập gia-thất, nên mới lưu truyền món hương-hỏa ấy. Lấy gia-pháp làm chủ đích, gia-pháp ấy biến ra gia-nghiêm, mà gia-nghiêm chặt-chịa kềm-thúc con cái chẳng có ý chi khác hơn là dụng oai-quyền đó mà tạo một vị chúa tương-lai cho gia-đình, nên tổ-phụ chúng ta trong mong điều trọng-hệ ấy mà hủy bỏ cả hành-tàng phụ-thuộc ở ngoài là cả sự sanh-hoạt của gia-đình, chỉ lo bảo thủ lấy tinh-thần làm cha tương-lai cho đúng giá trị của nó.

Lạ chi đối với nòi giống của chúnh ta thường nghe mọi người nói : “ Phụ có từ, tử mới hiếu “ mà Bần-Đạo đã nói rằng cả tánh-đức của con người đứng đầu trên hết là hiếu, Bần-Đạo cũng đã giảng, đời thượng cổ người ta đi tầm hiền chỉ do nơi hiếu, nên vua Nghiêu chọn ông Thuấn kế vị cho Ngài là vì ông Thuấn là bậc chí hiếu, tánh-đức hiếu ấy là cái năng-lực căn-bản của các tánh-đức khác, nó là tánh-đức của Đạo-đức tinh-thần và nó đi gần tánh chất của loài người. Con người đã có hiếu thì tánh-đức tốt đẹp khác đều là phụ thuộc, bởi vì khởi-đoan của tâm hiếu, không phải biến sanh một ngày, một bữa gì mà kể từ giọt sữa mẹ mà hiện ra làm căn-bản môi giơí cho các tánh-đức khác nảy-nở, mà ta đã thấy và định quyết rằng người đã làm được con hiếu thì thế nào cũng sẽ là cha từ. Mà hạng phụ từ rất tối cần, tối trọng cho xã-hội vậy.

Aáy vậy trong gia-đình phải có phụ-từ, mà tại sao cha phải từ ? Phương ngôn nói : “ Cha hiền sanh con thảo “ lại có câu : “ Hiếu thuận huờn sanh hiếu thuận tử, ngổ-nghịch huờn sanh ngổ-nghịch nhi” sách xưa truyện củ ta thấy còn lưu lại nhiều thành-tích rất quí hóa. Đứa bé thơ kia học ai trước hết ? Học cha mẹ nó. Trí óc non nớt của nó chưa có hình-trạng gì, bởi lúc sơ sanh không có điều gì ô-trược dính vào chung quanh nó, hỏi nó trông vào ai, dòm ai. Dòm cha bắt chước cha, dòm mẹ bắt chước mẹ, dòm anh em bắt chước anh em. Trong gia-đình nếu có gương cha lành, thì sự ấy huyền-bí thay ! Nó sẽ bắt chước như vậy, dầu buổi sơ sanh, đứa con chưa biết nghe, hiểu thấu đáo cho thấu lý, nhiều khi cha mẹ dạy nó không tuân, Bần-Đạo vẫn quả quyết rằng cái phụ-giáo và mẫu-giáo đó không mất, dầu có đứa con có lơ-lảng không nghe đi nữa, chớ rồi nó cũng hằng để vào tâm cái huyền diệu vô đoán ấy, chúng ta không thể tưởng-tượng được, khi cha mẹ khuất rồi, đứa con sẽ tìm-tàng cái giáo-hóa buổi sơ sanh ấy làm can gốc trong bản tâm của nó.

Làm người cha hiền không làm mất tự-do của con, trái lại còn trọng nữa, trong xã-hội chúng ta như vậy đó. Đừng thấy hình-trạng giáo-hóa bề ngoài lấy nghiêm trị làm căn-bản mà gọi rằng đối với nòi giống chúng tâch mẹ áp chế con làm mất tự-do của nó. Không phải như vậy đâu ! Có lẽ vì nhìn thấy tông-đường hư hoại, nên cha mới nghiêm trị con, đặng bảo thue tương-lai của tông-đường, chớ chẳng phải cố làm mất quyền tự do của con.

Bần-Đạo giảng tích nầy cho cả thảy nghe mà suy ngẫm, thì thấy nòi giống chúng ta vốn trọng sự tự do của con cái mà trọng một cách khéo léo.

Đời tiền Lê có Ông Thừa-Tướng đầu triều không có con. Hai Ông bà thường đến chùa nầy miễu kia cầu tự “ Nhơn hữu thiện niệm, thiên tất tùng chi” nên bà vợ hạ sanh được một đứa con trai. Quan Thừa-Tướng đã niên-cao kỷ-trưởng mà có một đứa con trai thì nỗi mừng vui đó không thể luận được. Người Nam mình hay ví trứng mỏng cũng không ví bằng cậu công-tử đó nữa. Từ khi nhỏ đến lớn, trong gia-đình đối với cậu thì ai cũng là tôi đòi nô-lệ hết. Hai ông bà cưng đáo-để, lớn lên rồi hễ thấy cưng lại thêm nhỏng-nhẻo, rồi du côn, rồi hoang-đàng, chi địa vô giáo-dục. Tấn tuồng xảy ra như vậy mà quan Thừa-Tướng và phu-nhân cũng không giám động tới, vì qua cưng còn ai giám động tới cậu nữa đâu, cậu muốn lên trời hay xuống đất chi cũng được.

Đến tuổi đi học, cho vào trường thì không ai chịu nổi, con các quan bị cậu đánh luôn, ngày nào cũng có mắng-vốn. Thấy tình-trạng như vậy, biết con mình bị cưng quá không ai động tới được. Đến khi trưởng thành 17, 18 tuổi, ôi thôi ! thanh lâu, tửu quán, trà đình, cờ bạc, không món nào mà cậu không có, ngoài ra còn du côn, du đảng, ai thấy gia-đình ấy mà không nói rằng do căn trước tạo nhiều quả nên nay phải thống khổ tinh-thần như vậy. Nhưng ông bà cũng vẫn cưng không động gì tới cậu công-tử cả, ông chỉ buồn than với ông bạn là quan Hình-Bộ Thượng-Thư rằng: Tôi có một đứa con mà con cầu, con khẩn nên nay mới ra cớ-đổi, thì ông bạn nói : “ Thưa quan Thừa-Tướng, nếu Ngài giao-quyền trọng vẹn cho tôi đem lịnh lang về ở với tôi đặng tôi giáo-hóa thử coi “. Quan Thừa-Tướng đã hết phương rồi, nên giao cho Ông bạn dạy-dỗ cũng không được gì hết, cậu công tử vẫn còn buông lung điếm đàng hơn nữa, nên ông định dùng oai quyền mà trị mới cho Quan Thừa-Tướng hay : “Tôi phải dụng quyền đối với lịnh lang mà đối với Ngài nữa, việc làm của tôi thế là nhẹ thể Ngài, nếu Ngài vui lòng như vậy, tôi mới sửa lịnh-lang đặng. Quan Thừa-Tướng chịu : Bạn làm sao giúp tôi được thì làm, vì tôi cùng đường, hết kế rồi, Quan Hình-Bộ Thượng-Thư thả cho cậu công-tử ra ngoài đánh lộn, giựt của, làm đủ thử, rồi bắt bỏ tù, lên án như các tội nhơn khác vậy. Vô khám cậu bị đánh khảo tra tấn chịu không thấu, thông tin về nhà cho Thừa-tướng hay. Ngài làm như tuồng cha đau lòng vì con, ra chịu tội trước triều đình, rồi Ngài và quan Hình-Bộ Thượng-Thư đến người nầy người nọ xin tha thứ, đi tới đâu dắt công-tử theo tới đó, cậu thấy khổ trạng như vậy nên lương-tâm tự hối, biết tội mình làm để lụy đến cha dừơng ấy.

Về nhà ông rước thầy cho đi học thêm nữa, vì cậu đã biết ăn-năn, sợ cha mẹ và chịu ở nhà không dám phóng-túng chơi-bời nữa. Nhưng, trong gia-đình cũng không chiều được cậu chỉ kiêng có cha mẹ thôi, ngoài ra không kể ai cả, nỗi giận là cậu đánh đập liền. Ông mới tính một phương kế, lấy cớ là con nhà trâm-anh, bắt cậu để móng tay, từ đó cậu ít khi ra ngoài chơi bời, mà cũng hết đánh thiên hạ nữa, là vì cũng bị lật móng tay hai ba lần gì đó, nên hoảng mà thuần nết lại. Đến khi triều-đình mở khoa mục, cậu nhờ trí thông-minh sáng-suốt lạ thường lại học giỏi nên chấm đậu Trạng nguyên. Nhà vua và cả mọi người biết tánh-đức của cậu trước như vậy mà nay được như vầy thì ai cũng mừng, trong gia-đình còn mừng hơn nữa. Thiết lễ tân-quan, khi vị tân quan vào bái lễ từ-đường, rồi trở ra hội-yến với các quan, quan Thừa tướng mới kêu con lại nói : ” ngày nay con đã vinh hiển rồi sẻ ra làm quan thì móng tay không để làm chi nữa, con đưa đây cho cha ”, ông cất tử-tế, đem vào bàn thờ tử đường, lấy giấy đỏ gói lại, bao ở ngoài một lớp hàng đỏ nữa, để bốn chữ  “Trấn tâm chi bửu ” nghĩa là của báu để trấn tâm, ông đưa lại cho con và dạy rằng : “ từ nay trở đi hoặc sau nầy con có kế chí cha làm đến đầu triều, vật trấn tâm chi bửu nầy cũng không nên rời con ”. Thì y như vậy, từ đó về sau, cậu con trai thăng quan tiến chức, kế được chí cha làm đếùn đầu triều, mà cái gói “ trấn tâm chi bửu” tức là móng tay vẫn còn luôn.

Bần-Đạo dám cả gan nói rằng : nhờ cái phụ giáo như vậy, mà triều chánh Việt-Nam ta mới bền-bỉ, và chắc-chắn rằng ngưòi đó là kẻ đem viên đá đầu tiên xây nền độc lập từ trước đến giờ, nhờ cái tinh-thần đó mà chúng ta đạt được tinh-thần độc lập ngày nay.

Phụ giáo rất cao kỳ quí-hóa. Nếu xét tường-tận như vậy thì ta chưa đáng phận làm chúa gia-đình. Trước khi tạo gia-đình , cần suy gẩm coi ta có xứng đáng làm chúa làm nội tướng chăng rồi sẽ tạo, cả khuôn-khổ tốt đẹp nòi-giống chúng ta đã xao lãng, nào giục tấn, nào cấp tiến, nào văn-minh, nào duy-tân đáo để thôi. Tấn-tuồng duy tân vật-chất đưa đến tồi-phong bại-tục, hiện giờ là hoàn thuốc quá độc hại vậy.

Phong-hóa tốt đẹp bị bôi dơ, hỏi vậy chúng ta ngày nay đây, ai dẫn đạo tinh-thần mà đã biết như vậy thì nên bỏ hay là phải cố thủ ? phải bảo-thủ cái thể chất toàn-hảo ấy là điều Chí-Tôn mong muốn hơn hết. Ngài không nở nói ra, mà Người trông cho chúng ta biết phục-hồi cái phong-hóa của tổ phu lưu lại, đặng tạo một văn-hóa tương lai cho toàn thể mặt địa cầu nầy vậy.

Nếu Ngài nói ra thì nòi giống Việt-Nam sẽ nói là Ngài thủ cựu hay là muốn phá hoại sự tự do của loài người và đời văn-minh vật chất nầy không thể không chỉ trích Chí-Tôn với lời lẻ ấy, nên Ngài không nói đó vậy.

  

Tại Đền Thánh Đêm 23 tháng 5 năm Mậu Tý (1948)

PHONG HÓA VIỆT-NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG TỘC KHÁC (tiếp theo)

Hôm nay Bần-Đạo tiếp-tục khảo-cứu nền phong-hóa của chủng tộc Việt-Nam  đối với các chủng-tộc khác.

Bần-Đạo đã giảng rỏ về đạo làm cha trong xã-hội của chúng ta đã tạo thành một nền phong-hóa đặc-sắc của nòi giống như thế nào rồi. Vậy, Bần-Đạo lần-lượt giảng tiếp về các quyền của cha, Bần-Đạo giảng về đạo và quyềncủa cha trước rồi sẽ giảng về Đạo và quyền của chủ, sau chót mới đạo và quyền của nhà vua tức là chúa.

Ai cũng biết điều trọng-yếu trong xã-hội Việt-Nam ta là tổ-phụ là nguồn cội của các Tôn-giáo, nên từ thượng-cổ tổ-phụ ta đã lưu lại cho nòi giống ta cái cảnh tượng là biết tôn trọng cửu huyền thất-tổ, dầu quá vãng hay hiện tiền cũng vậy, sự sùng-thượng ấy còn tồn-tại trong tâm-hồn mãi thôi, Nên Tôn-giáo chơn-thật ấy nó buột van-quốc nhìn nhận là một Tôn-giáo đặc sắc của một sắc dân chơn-thật hơn hết. Thế thì đạo nhơn-luân của chúng ta là do truyền nối hương hỏa của cựu-huyền thất-tổ đó vậy. Ta chảng cần luận chi sâu-xa hơn nữa, chỉ nói cái nợ máu thịt mà nòi giống Việt-Nam này xem mắc hơn các nòi giống khác trên mặt địa-cầu nầy. Vì bởi tiên-nho chúng ta đã lưu lại một lý-thuyết chánh-đáng chuyên-nghiệp để cảm tâm lý của nòi-giống chúng ta là “ Bất hiếu hửu tam vô hậu nhi kế đại”. Trọng hệ hơn hết của nền quốc-giáo Việt-Nam ta, là vô hậu kế đại, tức nhiên thêm vào cái nợ máu thịt mà ông bà ta để lại, nếu không đương nổi thì phải chịu thất hiếu với các tông-tộc, cửu-huyền thất-tổ. Thất hiếu trọn vẹn, mà đã thất hiếu rồi thì buổi tương lai về cõi hư-linh không ngó mặt ông bà ta đặng. Vì cớ, nên việc hôn nhân nơi nước ta có vẽ nghiêm khắc, truyền lại làm căn-bản Tôn-giáo  trong nước, dùng khuôn- khổ trọng nghiêm ấy đặng định-luật, thì ta chẳng còn ngạc nhiên, hỏi cớ sau luật nhơn-luân lại gắt gao như vậy ?

Xưa kia hể định luật hôn-phối với nhau thành vợ chồng rồi thì chủ hướng duy có một điều là nối truyền hương hỏa. Tiếng tục thường nói rằng : “ Dài dòng cả họ “ nên tông tộc nào dài dòng cả họ thì hạnh-phúc đáo để, trước phong-hóa mà đạo nhơn-luân phải gắt-gao; khi cưới vợ ba năm mà không sanh con trai nối hậu thì đàng trai đặng phép để bỏ và lập vị thứ. Tại sao ? Nếu người đàng ông cả gan vì thương vợ mà không chịu để bỏ thì mang tội bất hiếu với cửu-huyền thất-tổ, với cha mẹ kia.

Thấy đạo nhơn-luân của chúng ta trọng yếu dường ấy, mà hễ trọng yếu tức nhiên quyền cha vẫn là cái oai quyền cao trọng, quyền cha trong phong-hóa chúng ta, nếu con bất hiếu có thể lên án tử hình được, lên án với luật pháp hữu định, bởi vậy nên tổ-phụ ta nói “Quân-sử thần-tử, thần bất tử bất trung, phụ-sử tử-vong, tử-bất-vong bất-hiếu” ấy là luật nhơn-luân của ta như vậy đó.

Đối với các quốc gia, các nòi giống khác nhau, nếu có công kích thì họ nói đó là làm mất quyền tự do, mất nhơn-phẩm của con. Bần-Đạo giám chắc rằng họ thêm-thuồng lắm mà họ không làm được vì tình-trạng phong-hóa của ta, các nước Aâu-châu không thế đối đặng. Bần-Đạo giảng về cái quyền cha mà chính mắt Bần-Đạo trông thấy hiển nhiên là khi Bần-Đạo mới ra trường đi làm việc, đổùi xuống Cái-Nhum, có ông Kế-hiền ở làng Chánh-an, tên là Kế-hiền Kỷ làm một vị trưởng-tộc trong tông-đường, niên kỷ độ lối 55 tuổi. Khi ấy trong nhà thờ-đường làm lễ cúng Ông Cao-tằùng gì đó, mà lệ trong dòng họ, người nào đến giờ tế tự mà vắng mặt thì năm đó mất phần hương-hỏa. Sự nghiêm trị rất nhẹ-nhàng nhưng mực-thước, nên kẻ nào trong năm đó bị phạt ắt cất đầu không nổi, rồi chỉ có khóc lóc lén lúc vậy thôi nên cả thảy điều phải đến. Bần-Đạo tọc mạch theo coi nghe tiếng đồn mà đến, chớ trong tông-đường của Bần-Đạo gia-phong thì lại khác. Bởi biết ông Kế-hiền Kỷ còn theo nho lắm, trong lúc ấy Bần-Đạo ngạc nhiên thấy trong con cháu, dầu nhỏ, dầu lớn, dầu trọng dầu khinh, mỗi đứa điều đến một món, đi thôi rần-rộ, độ bảy giờ cúng thì lối 5 giờ đi rước ông Trưởng tộc, các con cháu xúm khiên ông, ba bốn chục người giành mà khiên, còn bao nhiêu đi sau kiệu, tới nhà thờ làm lễ nghinh tiếp. Ôâi-thôi ! Bần-Đạo tưởng nhà vua cũng không bằng. Vô tới giữa điện thờ, con cháu đem bộ áo của ông cố hay ông sơ gì đó mặt vô cho ông, bịt khăn và trao cho cây gậy. Bần-Đạo tưởng-tượng đó là ông vua, Ông chúa của gia-đình, rõ-ràng vậy.

Còn nếu biết ông trị nghiêm trong tông đường thế nào thì lại càng cảm mến hơn nữa, vì bởi từ thử chưa hề có một con cháu nhà nào đem nhau tới làng mà kiện thưa một việc chi cả, gia luật thật đáo đễ đẹp đẽ và nghiêm-khắc, như thế mà đã năm sáu đời truyền kế. Tộc phái không kể nội ngoại gì cũng kế nghiệp được. Trong tộc phái ấy có một bộ tông chi không sót một tên nào mà vẫn còn giữ vĩnh cửu luôn. Ngày giờ nầy các nước ngoại quốc kia nói nhà Nam ta bảo-thủ cổ-tục ấy, hỏi có ai làm đặng vậy chưa ? Nếu có được thì một phần ít thôi, mà cũng không có nữa. Tại sao ? Tại tiêm-nhiễm văn-hóa Aâu-châu rồi đem của quí liệng đi hốt của bỏ đem vào, tinh-thần đã đánh ra bạc-nhược, thô bỉ, chạy theo thuyết duy vật của văn-minh vật chất, quên hẳn khuôn-khổ tổ-nghiệp ta để lại rất đẹp dẽ vô cùng, thâu thập những vật không đáng giá, làm xáo trộn nền phong hóa tận-thiện tận-mỹ. Hỏi thử ngày giờ gần đây ta thấy cái hại trong nước là tại làm sao chăng ? Cả đạo nhơn-luân điên-đảo, biểu sao không trôm cướp loạn-lạc, giặc-giả tứ tung cho được !

Nền đạo nhơn-luân có đủ năng-lực bảo-trọng tương-lai quốc vận lại đem bỏ đi, lấy cái hoàn thuốc độc của thiên-hạ đưa cho, đã thiệt thòi mà cũng còn rán trướng cố lên mà nuốt, nuốt cho chết.

Quyền hạn của chúng ta, ngày nào chưa bảo-thủ cho toàn dân tộc được thì đừng mong gì vĩnh-cửu. Trái lại cần phải tô-điểm Nam-phong do tinh-thần tổ-phụ ta để lại làm căn-bản mới đủ sức-mạnh, đủ cường-liệt ngang hàng với toàn cầu van-quốc. Bằøng chăûng vậy thì đứng mong sớm hưởng, còn xa với lắm.

  

Tại Đền-Thánh Thời Tý Mồng 1 tháng 6 năm Mậu-Tý (7-7-1948)

PHONG-HÓA VIỆT-NAM ĐỐI VỚI CÁC CHỦNG-TỘC KHÁC (tiếp theo)

Chúng ta hôm nay tiếp tục khảo cứu nền phong-hóa của nước nhà ta đối với các dân-tộc toàn thiên-hạ.

Bần-Đạo đã giảng về chủ quyền thứ ba của xã-hội chúng ta, gọi là quyền giáo sư thứ ba theo đạo nho mà vị chủ quyền về đạo nhơn-luân hay là chủ quyền về gia-đình ấy tức là ông cha. Bần-Đạo đã giảng về đạo và quyền của người rồi, bây giờ tiếp giảng về ông chủ quyền thứ nhì của xã-hội. Ông chủ quyền thứ nhì mà cũng là giáo-sư văn-minh Nho giáo là ông chủ của hương-đảng. Bần-Đạo đã nói chức Đại Hương-cả hay kế-hiền là mới bày đặt sau nầy, chớ Nho-giáo chỉ định tới Hương-chủ là hết. Ta thấy rằng vị đó cầm quyền hương-thôn, mà thật ra người cũng là chủ-quyền của xã-hội. Ta để tâm nghiên cứu coi cái phong-hóa của đệ nhị chu- quyền nằm đó ra thế nào? Bần-Đạo xin nói trước rằng nó tốt đẹp không gì bì đặng, hại thay ! Ngày giờ nầy vì quốc-dân xu-hướng theo văn-minh tân thời muốn phế bỏ hủy hoại và cũng do bởi cớ nên Đức Thanh-Sơn để câu thi tự rằng :

“ Văn-hiến bốn ngàn năm có sẵn,

Chi cần di-chủng đến dàng công “.

Nền văn-hóa đạt được trải qua bốn ngàn năm, không cần ai dâng công tạo văn-hiến khác .

Đạo của vị chủ Hương-đảng là coi sóc sự sanh-hoạt của dân chúng trong thôn-hương, chẳng những nắm chủ quyền sự sanh hoạt mà còn nắm chủ quyền sự chết sống, cầm vân mạng cả thôn hương trong tay nữa. Đạo của người là Đạo-thường, lo phụng thờ tôn miếu của triều-đình . Các đình làng đương nhiên là công thần miếu, thờ những vị công thần bất kỳ nơi nào trong thôn quê đã xuất hiện những vị trung-quân ái-quốc, vị quốc vong-xu, tô điẻm giang-san, binh vực lợi quyền của xã-hội ; có công vĩ-đại với triều-đình, đến khi qui-liễu được nhà vua ân-tứ phong cho Thần vị. Đièu hay hơn hết là vị công-thần đạt-vị đó, lại được trong bổn thôn sanh quán của người thờ người. Sự khéo léo ta thấy hiển nhiên, vì cớ vì hương chủ trong thôn hương cần nhứt tạo hiền tài; nào là lập trường học, bố thí kẻ côi cúc không phương học vấn, nào là nâng đở các gia-đình hữu học. Khi đạt đặng khoa mục, khỏi làm xâu, bởi gọi hàng khóa-sĩ, Bần-Đạo xin nói rằng chưa nước nào đã làm như nước Nam ta, khi xuất sĩ vị tân khoa về quê gọi là bái tổ vinh, qui, lạy tạ mồ mã tông đường; ngày đó chẳng cần tả, sự vinh hiển vô đối của họ nên phương-pháp ấy giục tâm toàn quốc cố học, học đặng hành. Hại thay! Trong thôn hương nhiều nhặt-nhiệm nên cũng có sự hay mà cũng có sự giở, là kẻ nào bất tài thiếu học, hay có tính chất hèn kém, không đủ tinh-thần tế-thế an-bang; làm cục bứơu của xã-hội, nếu kẻ ấy không lập thân danh đặng thì duy có trốn mà đi chớ không giám ở trong làng mình nữa. Vì cớ cả quốc dân nôn-nả học-hành, chẳng phải học để lập thân danh mà thôi chỉ thấy khuôn khổ nghiêm-nghị, dìu-dắt chủ hướng người quân-tử dù tánh-đức tiểu nhơn mà ở trong làng cũng phải sửa nết lại.

Vị Hương-chủ có phận sự bảo vệ sinh-mạng nên theo đàng cựu thì trích quốc-gia làm công-điền, hồi cựu trào số đất công điền trong các đất đai của làng rất thặng, vì thuở ấy dân chưa có gia-nghiệp tư-bản. Những đất hoang vu, ông Hương-chủ khải mở thành công-điền, toàn thể dân đinh buộc họ duy có làm xâu mà thôi, mà chẳng phải làm xâu như bây giờ, người nào có làm xâu thì số lúa tư-sản của mình được hưởng trọn vẹn, người nào không làm sẽ bị trích mấy phần mười số lúa tư-bản của mình đó. Số sản-xuất những công-điền ấy chia làm ba phần; hai phần ba để vào công nho làng, môït phần ba nạp cho triều chánh của nhà vua, nên không có lấy thuế bằng tiền bạc. Nhà vua buổi nọ muốn thưởng công các quan duy có đong luá mà thôi, vị nào cao-cấp mấy hộc, trung cấp mấy hộc, hạ cấp mấy hộc; ngoài ra lương ấy nhà vua có phương pháp kêu là ban thưởng đặc-biệt về công nghiệp vĩ-đại, ân tứ cho ngựa bốn cập, sáu cập hay mười cập, hay xe đôi chục, năm chục mà thôi, sự khéo-léo của quốc-gia là giục tâm cho dân cày-cấy ngoài ra sự chăn-nuôi súc-vât, rồi vì sau nầy việc canh điền nặng-nề thì lại bày ra việc thưởng trâu bò thay thế cho đầu ngựa. Ngày xưa làm quan không ăn tiền chỉ lảnh lương nên tiếng tục gọi là “ ăn lương” là vậy.

Một phần ba số lương triều chánh thâu vào thì nhà vua dùng phát lương cho các quan, năm nào đặng mùa dư-giả thì làm kho dự -trữ, nơi các hương-đảng cũng đều phải vậy. Thảng  như  rủi năm nào thất-bát, dân đói khó, thì lập tức mở kho ấy phát cho dân gọi là chẫn-bần, mà đầu tiên đứng ra tế-chẩn là ông hương-chủ, khởi phát ở kho lúa của làng trước, khi nào thiếu mới thêm ở kho quốc-gia. Sự nông-nả chẳng phải tìm phương cho dân cày-cấy ruộng nương mà thôi, phải khuyến-khích chăn-nuôi súc vật, khuếch-trương các tiểu công nghệ trong làng, thức giục dân nuôi tằm dệt vải làm tơ lụa, các nghề thờ mộc, thợ rèn và các kỷ-nghệ nào hay khéo mà dân sở tại làm đặng, quyền ấy là quyền của ông chủ hương-đảng, còn ban Hội-Tề, hương-sư hương-hào v.v... đều là phụ thuộc vào triều-chánh của ông hương-chủ mà thôi.

Cái đạo của vị hương-chủ là thờ công-thần, mà là thờ mạng sống của toàn dân trong hương nữa, nên cổ -tục ấy lưu-truyền đến ngày hôm nay, sống cũng phải lo cho dân, mà chết cũng phải lo cho dân. Vì cớ đồ âm-công phải có sẵn. Hồi cựu-trào bất kỳ hạng nào, dầu là một vị quan hồi-hưu về ở trong làng cũng vậy, hễ khi có một đám tử,  toàn dân của làng đều có bổn phận tham-gia, dù cho quan đi nửa thì khi khiên đám, cũng phải đi không ai khỏi đặng.

Lại nữa, chẳng phải lo việc chết thôi, còn phải lập nhà thương, nhà nuôi trẻ em, trường học, cả cái khuôn-khổ văn-minh hương-đảng lưu lại ngày nay là do nơi chủ quyền của hương-chủ mà ra vậy.

Hồi lúc Bần-Đạo còn nhỏ, nhớ nhứt là khi xay lương, và giả lương, hễ lúa đem về kho rồi thì dân làng nhứt là phụ-nữ, xúm lại giả cho trắng đặng nạp về triều kêu là nạp lương, tục ấy mới bỏ trong thời gian gần đây. Mà xay lương thôi thì đô-hội, mệt-nhọc mà vui-vẻ lạ lùng. Không thể nói hết đặng, câu hò câu hát còn lưu lại trong dân-gian ngày hôm nay là do nguyên cội xay lương đó. Xay giả xong,1/3 nộp cho triều-đình, 2/3 để cho hương-đảng.

Còn một điều nữa là ở trong làng hễ có người nghèo-khổ cơ-hàn, thì hương-chủ dạy toàn dân làng phải bảo-vệ, hễ cưới vợ không được thì xúm nhau chung tiền lại giúp, cất nhà không nổi thì xúm nhau tạo nhà cho, khi có bênh-hoạn thì xúm nhau đến thăm viếng và giúp đỡ, tình liên-lạc mật thiết như côt-nhục, mà khuôn-tuồng đó ngày nay đã mất rồi. Vì chưng tư-lợi tư-kỷ nhiều quá mà cho tiêu-diệt hết lòng tương-ái tương-thân trong hương-đảng.

Ta thử nghĩ lại, một ông chủ cầm quyền xã-hội dường đó, chánh-sách còn bằng mấy công-sản, mà là cộng-sản tinh-thần, nên Quốc-gia chúng ta có cộng-sản thúc-nhặt tâm-lý làm khuôn phong-hóa chung sông cùng nhau, không cướp-bóc không tranh quyền đạt vị. Ơû trong làng, quyền làm chủ hương thôn ấy chỉ có truyền biểu mà thôi, dầu trong triều về đó ở mà dân không tín-nghiệm thì cũng không có quyền gì buộc dân đem mình lên đặng. Phần nhiều triều chánh sau nầy mới có tham-quan ô-lại, chớ thời xưa một người làm quan rất sợ điều đó lắm, là vì hễ đã mang danh tham-quan rồi thì về làng không ở với ai được, cả làng mạt-sát chịu không nỗi, cho nên cả cái bí-pháp hằng tâm gìn-giữ rất nhặt-nhiệm, kẻo buổi về già không chịu nỗi sự trích-điểm của thôn-lân, được vinh-quang chừng nào thì lại càng giũ-gìn tánh-đức. Trong làng mà vị nào vì dân, đủ tánh-đức nuôi dạy dân, thương dân như con đỏ thì dân-sanh cử lên, chớ không phải bầu-cử hốt-mớ, rồi đưa kẻ bất tài thất đức lên được, vì trong triều-chánh của ông hương-chủ ở dưới có bạn hội-tề, đi từ mức đào luyên-từ cấp, rồi mới lên đến hương-chủ thì đã sáng-suốt mực thước lắm rồi.

Ngoài ra nữa, còn một điều là trong hương-đảng coi chủ quyền ấy như ông tòa, đến bây giờ còn chức-tước mà quyền không phải vậy. Oâng chủ của làng làm tòa xử, hòa-giải dân-tình, nên không có tụng-cáo ra triều-đình bao giờ, hay là từ các án-tiết trọng-hệ, như cường-đồ, sát-mạng, mới thấu đến luật-hình triều chánh. Trong làng có điều gì chinh-tâm xich-mich với nhau thì ông chủ của làng xử trước, nếu bất-đồng đem nội-vụ ra nhà việc, hễ lỗi nhỏ thì nạp tiền câu-tra, tội lớn thì căn nọc đánh giữa làng, không đến nỗi chết mà hễ bị đánh rồi thì về nhà còn có nước mà trốn đi nơi khác, hoặc đóng cửa đi đâu đi lén-lút khổ-não lắm vì bị gièm pha nhạo-báng xấu-hỗ chịu không nổi. Còn nói về phụ-nữ nhứt là gia-đình con hát bè, hát bộ, thì có dọn mà đi luôn. Đến nghiêm-luật gái chửa hoang, đẻ lạnh thì cha ông, con cháu, đều bị đòi ra giũa làng hết thảy. Thứ vợ hổn với chồng, chồng hiếp vợ, con bất hiếu, em vô lễ với anh cũng vậy, đặng giữ nghiêm phong-hóa xã-hội do khởi đoan từ hương-đảng ra quốc-gia xã-hội.

Triều-đình cốt-yếu làm đầu đặng nắm giềng mối, chớ thật ra cầm quyền xã-hội là trong hương-đảng, mà quyền trong hương-đảng là của đệ nhị chủ-quyền, tức là quyền ông hương-chủ đó vậy.

 

Tại Đền-thánh Thời Tý Mồng 5 tháng 6 năm Mậu-Tý (11-7-1948)

PHƯƠNG-PHÁP TỔ-CHỨC XÃ-HỘI TRONG HƯƠNG-THÔN

VIỆT-NAM

Kỳ trước, Bần-Đạo đã giảng về đạo của vị chủ-quyền xã-hội chúng ta là ông chủ, nay tiếp thuyết về phương-pháp tổ-chức xã-hội ta trong hương-thôn là thế nào và ai cầm quyền ấy. Ta đã thấy Nho-đạo ta lấy gia-đình làm căn-bản, bước từ tiểu gia-đình là gia-tộc, lên đại gia-đình là quốc-gia, lại thấy sự khéo-léo trong gia-đình là phương-pháp thực-hành. Các phần-tử trong gia-tộc hiệp lại thành tông-đường, một gia-tộc nào đủ nhơn-nghĩa đạo-đức thì tông-đường đó, để mắt nông-nả cho có đủ phương-pháp thi-thố cả sở-năng của mình, bởi chỉ trông cậy nơi mình làm cho gia-đình đứng đợt được với thiên-hạ một cách vinh-diệu, mà hễ tông-đường được vinh-diệu, tức nhiên người đại-diện cho tông-đường ấy khi ra thay mặt cho tông-đường, đã đào-luyện trí-trức tinh-thần, sở-năng, sở-kiến, đặng thay thế tông-đường cho xứng-đáng trước luật quan phép nước. Trong hoàn-cảnh kiến thiết xã-hội là vậy. Làm đầu tông-đường được, tức nhiên trong hương-đảng đã để dành địa-vị cho danh-thể cao-trọng ấy rồi, thanh-niên thì vào hàng thành-đinh, niên-kỷ cao-trưởng thì vào hàng kỳ-lão, lãnh kiến-thiết hương-đảng, không bỏ một ai. Tuy vậy, ban Hội-tề có đông-đảo mặc dầu, nhưng Bần-Đạo đã nói rằng hội-tề bất quá là triều-chính của đệ-nhị chủ-quyền là ông hương-chủ trong hương-đảng vậy thôi.

Aáy vậy, trong hương-thôn có người nào xứng-đáng làm đầu hương-thôn, người ấy không lẽ triều-chính không biết đặng, nên danh-nghĩa trong hương-đảng liên-quan mật-thiết với triều-đình, mà hễ có liên-quan tức nhiên là địa-vị triều-đình sẽ dành để cho người cầm-quyền hương-đảng đó vậy.

Tổ-chức xã-hội chúng ta đi từ tiểu gia-đình lên đại gia-đình là quốc-gia, vì cớ nên Tiên-nho chúng ta, dầu cho đệ tam quyền là ông cha trong gia-đình, mà có tội đem ra giữa triều-chánh buộc tội là trị đạo bất-nghiêm, còn đệ-nhị chủ-quyền là trị dân không nghiêm cũng gọi là trị đạo bất-nghiêm. Hình phạt nặng-nề sẽ định-án cho ai chủ-quyền đệ-nhị và đệ-tam đó không phương chối-cải.

Cái đạo, nói tiếng đạo, mà người cầm quyền trị đạo phải thật-hành được đạo, đã không dễ, thì cầm quyền trị-đạo lại càng không dễ nữa. Phải làm thế nào thi-thố cho dân-sự trong bổn thôn thấy tâm-thánh của mình là thay thế đức Khổng Phu-Tử làm cha mẹ dân, mà chẳng vậy thôi, còn cầm -quyền làm thầy trong bổn thôn nữa mà chớ.

Tổ-chức xã-hội quốc-gia chúng ta không mắc-mỏ mà thật sự thì khó đáo-để. Thuở mà nòi giống nầy còn kêu cha là bố và mẹ là cái, kẻ nào đạt được vị bố-cái hương-đảng, tức là cha mẹ của hương-đảng, ấy là lời ban thưởng, tặng khen lớn-lao lắm vậy, tức nhiên đệ-nhị chủ-quyền là quyền của vị bố-cái hương-đảng là vinh-diệu hơn hết.

Aáy vậy, đệ-nhị chủ-quyền làm cha, làm thầy hương-thôn, ta suy-xét tưởng-tượng xem phận-sự ấy trọng-yếu như thế nào ? Coi dân như con đỏ, làng như cha mẹ dân thay-thế cho triều-đình, mà muốn nên phận cha mẹ dân thì vị chủ-quyền đó không tư tâm, tư-kỷ, hễ tư tâm tư-kỷ tức bốc-lột dân, trộm cướp của dân, hiếp-bức dân. Ta thấy phương-pháp đương-nhiên, hiện giờ còn giữ khuôn-khổ ấy, chỉ hại một điều là hương-đảng đương-nhiên xu-hướng tân-thời đã hết làm cha mẹ dân, dở thói tham-quan ô-lại, làm cục bướu làm mục ghẻ tâm-lý của dân. Vì cớ nên giá trị của đệ-nhị chủ quyền không còn năng-lực nữa, mà nếu không còn năng-lực tức là hết cầm quyền chuyển tâm-lý được, biểu thế nào ngăn cản được dân xu-hướng theo văn-minh mới, mà nhứt là nòi giông Việt-Nam này hay nghinh tàn yểm cựu lắm. Nếu không đủ biệt tài cầm cái khối báu do Chí-Tôn để lầim trao-đổi làm cho có giá-trị cứ do theo điều mới mẽ ấy thì chỉ có làm cha làm chủ bướng vậy thôi, nên cần phải biết sửa đương lại thì xã-hội nầy sẽ đứng đầu hơn hết. Tại mình làm chủ mà không biết của báu, khinh-miệt nên thiên-hạ không còn làm cha mẹ, bố cái hương đảng nữa, nên cái vinh-diệu của tiên-nho ta lưu lại đã bị bại-hoại thành hình tướng dị-hợm lắm rồi.

Vị chủ quyền hương-đảng của nhà nho ta, tuy là tư-tưởng tinh-thần rất đơn-sơ, nhưng nói ít mà làm nhiều, nên vị hương-chủ hồi cựu-trào lãnh làm chủ hương-đảng thì triều-đình phái một vị quan đến phong quyền cho và thường nói : “Triều chánh cầu xin một điều là vị hương-chủ làm sao cho xứng đáng phận sự cha mẹ của dân”

Trước ta đã thấy quyền làm cha mẹ trong gia-đình khó-khăn thế nào rồi, thì vị hương-chủ lên làm cha mẹ dân trong một làng, lời xưa thường gọi là bá tánh là vì bởi nhiều tông-đường hiệp lại mới thành một làng. Nên việc làm cha mẹ dân trong một làng không phải dễ, dân đói phải lo, dân rách phải lo, dân khổ phải lo, một tên dân đau khổ thì ông chủ-quyền thì phải ở bên mình như cha ở bên mình con vậy, cha nâng đỡ danh thể làm cho con nên thế nào, thì ông chủ-quyền của hương-thôn cũng phải làm nên cho dân thế ấy. Nghĩa là tâm-lý của ông cha cầm quyền gia-đình trị con thế nào ? thì ông chủ cầm quyền hương-lân trị dân cũng như cha trị con vậy.

Nếu từ trước đến giờ còn giữ được khuôn khổ tổ-chức của tổ-phụ để lại, thì Bần-Đạo tưởng chẳng hề thấy sự tồi phong đương nhiên, và cầm chắc sự thống khổ loạn-lạc chẳng hề có đặng. Ngày hôm nay, phong-hóa quốc-gia xã-hội ta không còn nguyên hình tướng nữa, đã thay đổi ra thô-tục gớm-ghiết quá chừng.

Đức lý Giáo-Tông lập Bàn Trị Sự, Ngài tập chức Chánh Trị-Sự và Phó-Trị-Sự, rồi Ngài lại biểu Bần-Đạo lập chức Thông-Sự. Ngài nói Phó-Trị-Sư ïlà Giáo-Tông em mà nơi làm có Giáo-Tông em thì tức nhiên phải có Hộ-Pháp em là Thông-Sự nữa chớ. Nếu sự tổ-chức hương-lân chưa phải cần yếu thì Đức Lý đã không làm như vậy. Ngài đặt chức Chánh-Trị-Sự tức là Ông chủ, đệ nhị quyền trong thôn-lân về phần đạo, hỏi vậy mơ-vọng của Đức Lý để Chánh-Trị-Sự làm gì? Đức Lý có ý đem qui cũ đạo vào đệ-nhị chủ-quyền, đặng phục-hồi lại y như trước. Ngài quyết-định hơn nữa là để vị Chức Sắc ấy nắm quyền Hội-Thánh tức là vào Thánh thể của Đức Chí-Tôn, nghĩa là dự-định đặng lên Lễ-Sanh, rồi lên Giáo-Hữu, tức là vào Thánh thể đó vậy. Muốn chỉnh đốn xã-hội lại, nên luôn dịp để một khuôn-khổ trị đạo cho dân sanh tỉnh giác, biết vật báu ấy mà gìn-giữ, tô điểm, làm cho xã-hội thôn-lân thêm xinh-lịch. Ýù muốn là vậy, mà thử hỏi Bàn Trị Sư toàn thể Quốc-gia ta ngày kia có đủ năng-lực và đủ tinh-thần đạo-đức để chỉnh-đốn xã-hội ta trong hường-thôn, lần-lần sửa lại theo tổ-chức tối-cổ của quốc-gia xã-hội ta trước được không ?

Bần-Đạo dám chắc rằng Đạo Cao-Đài làm đặng, và nhờ bàn tay của toàn-thể  quốc-dân Việt-Nam ta đó. Việc làm bất luận lâu hay mau, miễn đạt được thì thôi, Bần-Đạo sợ e một điều là đầu óc hình-thể ta thấy trước mắt, thay vì chỉnh-đốn đi ngược trở lại khuôn cũ, rồi lại còn xu-hướng theo tổ-chức xã-hội, làm diệt-vong phong-hóa ; thay vì cứu sống lại cái gia-tài, lại làm tiêu cả sự tốt đẹp thọ-hưởng đã bốn ngàn năm nay còn noi lại. Bần-Đạo mơ-ước một điều là toàn con cái của Đức Chí-Tôn trong hương-thôn tức là Bàn-Trị-Sự, biết phận-sự trọng-yếu của mình để đủ tinh-thần làm vừa theo thánh ý của Đức Lý Giáo-Tông và Đức Chí-Tôn. Bần-Đạo mong-mỏi cả thảy đem cái quí của tổ-phụ của chúng ta lưu lại chỉnh-đốn cho đẹp cho xinh đủ oai-quyền năng-lực, đặng ngày kia đem cho toàn các sắc dân khác đồ theo. Đương buổi nầy thiên-hạ đương thống-khổ tâm-hồn, nếu họ thấy chánh-sách của ta đạt được, họ sẽ lấy và đồ theo mà lấy trong tay Cao-Đài họ không thẹn mặt.

Cả thảy nam nữ nhớ lời căn-dặn, đặng khi thái bình trở lại , cho chỉnh đốn Bàn-Trị-Sự trong hương-thôn, để làm nền-móng tổ-chức quốc-gia ta sống lại đẹp-đẽ mỹ-mãn và cường-liệt, mà quốc-gia ta có đẹp-đẽ mỹ-mãn cường-liệt thì nhờ nơi hương-đảng tạo ra ; nếu mấy người tạo ra thô-bỉ thì sự kiến-thiết cũng thô-bỉ, hễ mấy người tạo ra đẹp-đẽ thì sự kiến-thiết đẹp-đẽ, mạnh-mẽ vì bởi khởi đầu đào tạo bằng một giống mạnh, thì cây lên mạnh, bằng một giống yếu thì cây sẽ lên yếu.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý, Mồng 9 tháng 6 năm Mậu-Tý (15-7-1948)

ĐỆ NHỨT CHỦ-QUYỀN CỦA XÃ-HỘI VIỆT-NAM

Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp về đệ nhứt chủ-quyền của xã-hội chúng ta. Bần-Đạo đã giảng kỳ rồi về đệ nhị chủ-quyền tức là chủ quyền hương-đảng, và đã giải rõ ràng cái phương-pháp kiến-thiết từ thử là lấy gia-đình làm căn-bản. Tiểu gia-đình là trong một nhà liên-quan với cả tông-đường gọi là họ, là tánh, trung gia-đình tức là tổ-chức trong hương-đảng của đệ nhị chủ-quyền, tới đệ-nhứt chủ-quyền làm đầu một đại gia-đình là một nước.

Ta đã tự hiểu Thánh-ý của Đức Chí-Tôn sanh ra nòi giống chúng ta, và đã tạo cả tinh-thần của nòi giống chúng ta, không biết chừng dìu-dắt tinh-thần để lập chánh-kiến quốc-gia, là lấy gia-đình làm căn-bổn. Ta thấy rõ-ràng Chí-Tôn muốn cho cả nhơn-loại chung hiệp cùng nhau làm một đại gia-đình toàn-cầu thế-giới sau nầy vậy, nếu Ngài định trước cho một quốc-dân của Ngài đến lấy tinh-thần đạo-đức làm một can-bổn cho cả tinh-thần đạo-đức toàn nhơn-loại, lấy cả quyền-năng lập quốc cho nước Việt-Nam, đặng làm khuôn-mẫu chuẩn đích tưương-lai lập chánh-trị toàn-cầu thiên-hạ mà chớ. Nếu không tự-tôn, ta cũng nhận thấy rằng điều tưởng-tượng ấy không lầm, bởi dầu muốn hay không, quyền-năng vô-hình cũng xô-đuổi dục-tấn các Dân-tộc vạn-quốc phải đi đến sự chung-hiệp vào đại gia-đình của toàn nhơn-loại mà thôi.

Aáy vậy, Bần-Đạo thuyết đệ nhứt chủ quyền do tổ-phụ chúng ta tổ-chức và lưu lại trong văn-hiếân tức là nhà vua. Đệ nhứt quyền là giáo-sư, là ông cha của cả nước. Không lạ gì, chúng ta cũng thấy như ông cha trong tiểu gia-đình kia vậy. Đức Khổng Phu-Tử nói : “Đạo trị dân không khác đạo trị gia-đình” ấy đạo của Ngài vậy. Chúng ta thấy trước khi lên cầm quyền vì một sơn-hà xã tắc, một nhà đương quyền tại vị, hay đã thoái-vị cũng vậy, các vì vương-đế thường có nói nơi cửa miệng hoặc di-chúc lại, bao giờ cũng mơ-ước cho người kế-vị xứng-đáng làm cha mẹ của nhơn-dân bá-tánh, văn-hiến của ta tuy đơn-sơ mà thâm-thúy lắm là nói ít mà làm nhiều, và sự khó-khăn trọng yếu chẳng thể  tưởng tượng được.

Bần-Đạo nhắc lại một lần nữa là buổi nòi giống An-Nam ta đây còn kêu cha là bố, mẹ là cái, mà vị đế-vương nào lên cầm-quyền được dân tặng là bố-cái, như Bố cái Đại-Vương, thì sự vinh-hiến của triều-chánh đó không luận đặng, mà sự vinh-hiến của Đế-Vương đó cũng chẳng tả được đối với lòng dân. Nói làm nhiều. Văn-hiến của ta do văn-hiến của Tàu châm-chế sửa-chữa lại, lấy của người làm của mình. Lấy căn-bản chánh-gốc của người ta làm của cải riêng của mình với tư cách đặc-biệt, tưởng không nước nào khéo leó hơn nước Việt-Nam ta vậy.

Ta thấy lời một vị Đế-Vương để lại cho con lên truyền kế cho mình như Hớn Chiêu-Liệt để lại Hậu-Chúa, có câu căn-dặn rằng : Nếu nhà cầm quyền nào mực-thước trị dân, biết tùng theo thì thiên-hạ thái-bình, quốc-thới dân-an, Hớn-Châu-Liệt sắc Hậu-Chúa viết :” Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi” (nghĩa là ông Hớn Chiêu-Liệt căn dặn con truyền kế rằng : đừng thấy lành nhỏ gọi nhỏ mà không làm, đừng thấy ác nhỏ gọi nhỏ mà làm). Vì Đế-vương biết rằng trong tay cầm sanh mạng quốc-gia, trị cả bá-tánh để lại cho con một di-ngôn bất-hủ. Nếu cả các Đế-vương trên mặt địa-cầu nầy, cầm sanh mạng quốc-gia biết lấy câu ấy làm  “trấn-tâm chi-bửu” cho mình, Bần-Đạo tưởng-chắc, nếu thi-hành cho đúng thì cả quốc-dân đó hạnh-phúc vô-cùng. Tổ-phụ chúng ta muốn trong nước ta, dân ta, tình của vua đối với dân như thế nào cho mực-thước, chơn-thật như cha đối với con, nếu vua đối được với dân như cha đối với con, tức nhiên lấy tình ái làm quyền hành, công chánh làm mực thước, tưởng không quốc-gia nào trên mặt địa-cầu nầy hưởng được hanh-phúc hơn nữa. Ta thấy tấn-tuồng ly-loạn do kẻ cầm quyền định vận-mạng cho nước, cho dân chỉ biết mình, không biết bá tánh. Thường nghe nói:  “Thiên hạ vi gia” hại một điều tuy vậy nhà vua ở với bá tánh như cha ở với con, nên có câu “ Thiên hạ vi gia” vậy nhà vua lấy thiên-hạ làm nhà, thương dân như thương con đỏ, trái lại họ lấy thiên-hạ làm tôi đòi của cải. Thay vì coi thiên-hạ như nhà như con, họ lại coi thiên-hạ như nô lệ, tư nghiệp của mình, tức là hiểu lầm khuôn khổ của tiên Nho ta đã quyết định vậy.

Tổ-chức thật khéo-léo làm sao, chính nhà vua cũng không thoát cái khuôn viên gia-đình. Nếu ngôi vua truyền-hiền thì chẳng nói chi, từ khi các vị Đế-vương truyền-tử đến giờ gia-đình vẫn ở bên cạnh họ, họ phải bảo trọng gia-đình trước nhứt bởi gia-đình của họ là đệ nhứt gia-đình trong quốc-gia. Ta thấy từ khi các quốc-gia nầy chẳng chịu ảnh-hưởng của Nho-tông mà lập quốc, đã trở nên suy đổi bởi nguyên căn nào, do trị gia bất-nghiêm ! Cho nên cổ truyền tai hại hơn hết là cái loạn trong cung tần, trong vòng hoàng-tộc mà sản xuất, đã hiển nhiên như vậy không chối cải được. Các vị vua trị gia bất-nghiêm, biểu không bại-hoại sao được, mà đệ nhứt gia-đình thất đạo có liên quan mật thiết đến cả toàn bá-tánh thất đạo. Nhà vua côt-yếu coi bá-tánh như con đỏ, coi nước nhà như đại gia-đình, giữ đạo nhơn-luân làm trọng hệ, đã có quyền sanh-sát, mà nếu quyền ấy không chuẩn thằng, biểu sao dân trong nước không thống-khổ. Khi sự thống khổ ấy dân chịu đựng nổi chăng nói chi, thảng như quá sức không chịu nổi được nữa, sanh loạn lên thì triều chánh và cả nước nhà phải nghiêng đổ.

Sự kiến-thiết quốc-gia lấy gia-đình làm gốc, ta không thể chối rằng không biết gia-đình ấy hay là từ bỏ đạo nhơn-luân duy có theo lối vô thần thì mới chối đạo nhơn-luân đặng, nếu không chối đạo nhơn-luân, tức không chối đạo gia-đình, mà không chối gia đình thì cũng không hề chối tương-lai vận-mạng của tổ-quốc mình được. Aáy vậy căn-bản của phong-hóa Việt-Nam ta do nơi đạo nhơn-luân, nơi gia-đình, phân làm ba hạng : “ Hạ, Trung và Thượng gia đình”; Thượng gia-đình là quốc-gia, trung gia-đình là hương-đảng, hạ gia-đình là tông đường, không có chi là lạ, là khó, nhưng căn nguyên ấy ta không sửa đổi đặng bởi ba bực hạ, trung, thượng của cơ tấn-hóa thế nào thì gia-đình cũng thế ấy. Cả Càn-Khôn có thượng giái, trung giái, hạ giái, mặt luật thiên nhiên của sự tiến hóa trật tự ấy không thể tiêu-hủy đặng.

Tổ-chức xã-hội của chúng ta khéo léo làm sao đâu, Bần-Đạo dám chắc rằng cao thượng hơn hết. Hại thay! Quốc dân ôm của báu trong tay mà không biết quí trọng, liệng rồi chạy theo ăn mót đồ bỏe của thiên-hạ, lấy làm của. Đức Chí-Tôn đến đặng thức tỉnh nhơn sanh, nên mới có câu Ngài nói với nhà vua : “Nam phong thử nhựt biến nhơn phong” là thêm ý rằng : tổ-phụ chúng bây để lại cho bây một phong-hóa, nó sẽ biến thành phong-hóa của toàn nhơn loại vậy.

Ngài cho biết rằng chúng ta vốn có của báu, mà của báu ấy thiên-hạ đang tìm kiếm đặng sống.

 

Tại Báo-Ân-Từ  Thời Ngọ rằm tháng 4 năm Mậu-Tý (23-5-1948)

Ý NGHĨA VỀ NHẠC “ NHẠC TẤU HUÂN THIÊN”

Có điều mầu nhiệm nên nay Bần-Đạo giảng về Lễ-Nhạc để tránh sự thất lễ khi vô hành lễ, vì không hiểu nghĩa lý, không biết thủ lễ theo phép cho y khuôn khổ khi “ Nhạc tấu Huân-Thiên”.

Bên Á-Đông, trong nền đạo Cao-Đài có trống, có chuông, còn bên Aâu-Châu có chuông mà không có trống là tại sao ? Tại sao Á-Đông dùng trống còn Aâu-Châu dùng chuông ? Trống âm-thinh của Đạo.

Thuở chưa có Càn-Khôn Vũ-Trụ, Đạo-giáo có dạy : Hai lằn nguơn-khí dụng lại nổ ra khối lửa, khối lửa ấy là ngôi Thái-Cực. Chủ ngôi Thái-Cực là Đức Chí-Tôn. Khi nào trời sét nổ, chúng ta nghe sao ? An-Nam mình kêu “ầm” còn theo Đạo-Pháp kêu “ùm”. Vì cớ phép Phật sửa lại là “úm” : úm ma ni bát rị hồng. Câu ấy đọc có nghĩa là nắm cả quyền năng vũ-trụ quản suất trong tay. Tiếng nổ ta nghe nó ra sao ? Khi nổ rồi còn nghe tiếng bay xa, nguyên căn của tiếng nổ là tiếng trống, còn giọng ngân là tiếng chuông. Aáy vậy, nguyên căn của Đạo-Giáo do bên Á-Đông nầy, có tiếng trống ngân bay qua Aâu-Châu, nên các Đạo-giáo Aâu-Châu đều là hưởng ứng theo Phật-Giáo mà Phật giáo xuất hiện nơi Á-Đông. Vì vậy mà các nền Tôn-giáo phụ thuộc đều không dùng theo nguyên tắc căn bản.

Còn tại sao khi vô làm lễ, lúc “ Nhạc tấu Huân-Thiên tức là lễ hiến dâng sự sống cho Đức Chí-Tôn là Thầy của cả Càn-Khôn vạn-vật, Bần-Đạo thường nhắc-nhở tất cả phải đứng ngay ngắn, nghiêm-chỉnh. Nhạc là hưởng ứng của cả khối sanh quang của Càn-Khôn vạn-vật đồng thinh. Nơi Á-Đông có câu “ Biểu thổ cách mộc thạch kim dử tự trước nãi bát âm”. Các vật vô năng mà nói đặng có trật-tự niêm luật hòa nhau là đạt-đạo, hiệp lại với tiếng kinh mình đọc là âm thinh, nghĩa là con người cùng vạn-vật đồng thinh hiến lễ. Nơi Ngọc-Hư-Cung có đối liền :”Bát hồn tư mặc ca Hoàng-Lão, vạn-vật đồng thinh niệm Chí-Tôn “.

Khi nhạc trổi, cả thảy phải im-lặng, hiến cả âm-thinh sự bí-mật ấy gọi là Phi-tướng-lễ chủ ý là trình tấu với Đức Chí-Tôn rằng: các con biết được mầu nhiêm căn-nguyên của cha lành muốn cho các con nối nghiệp theo một khuôn phép trường tồn. Lễ đó trọng hệ như đặng Tam-Bửu vậy. Bần-Đạo dặn một lần nữa : khi nào xướng “Nhạc tấu huân thiên” thì phải đứng bình tịnh, người nào có vô không kịp thì đứng ngoài mà thôi.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý đêm 19 tháng 5 năm Mậu-Tý (27-5-1948)

TÂN NỘI-CÁC QUỐC -GIA VIỆT NAM

Ngày hôm nay là ngày của Nội-Các Tân Chánh-Phủ toàn quốc đến tại Hương-Cảng, trình danh-sách đến cả Nội-Các cho Đức Bảo-Đại phê-chuẩn.

Toàn Đạo đều hiểu rõ tình-trạng hai năm nay, nước nhà và Dân-tộc Việt-Nam đã chịu thống-khổ dường nào. Họa nỗi-loạn khốc-liệt thế nào, cả nòi-giống đổ máu vô lối dường bao, hỏi do taị đâu ? Từ Trước Tổ-phụ chúng ta để lại một nền văn-hóa, phong-tục tối cổ, hiệp chúng ta lại thành Quốc-gia. Tiên-Nho cho rằng hoặc nhà vua, hoặc Triều-Chánh , hoặc toàn-dân của nước cầm quyền thống-trị. Văn-hóa tối cổ chúng ta từ trứơc có một khuôn-luật : Giữ Đạo để trị nước. Hễ loạn-lạc nước không bình-phục đặng là do toàn quốc-dân thất Đạo. Quốc-gia Việt-Nam thế nào thì  nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy cũng thế đó.

Nạn loạn-lạc hoàn-cầu, Bần-Đạo thuyết hôm qua chỉ rõ nguyên do nhơn-loại thất đạo mà nẩy sanh. Muốn cứu-vãn tình-thế Tiên nho buộc cả nhà vua và Triều-chánh dĩ chí toàn-dân phải ăn chay, nguyện, tế, gọi là lễ Nam-Giao.

May thay Tân Chánh-Phu tức nhiên Tân Nội-Các toàn-quốc lại thấu đáo điều ấy, nên khi Bần-Đạo ở Sài-Thành, chính mình Thủ Tướng Xuân đến nhà Bảo-Sanh-Quân cầu Bần-Đạo xin hành-lễ khẩn-nguyện Đức Chí-Tôn ban ân lành cho Quốc-dân Việt-Nam. Đã biết hiểu cơ bí-mật ấy tức nhiên chúng ta định họ học Đạo đặng. Một xa thơ đã bốn ngàn năm lịch-sử đi đến giai-đoạn khó-khăn nguy-hiểm, con đường qua rồi xa-thơ quay bánh lăn tới đâu, chúng ta dòm thấy toàn xương máu. Ngày nay đến đường vinh-quang trước mắt, cần yếu toàn dân biết Đạo trọng-hệ hơn là đường nào. Nhưng cả tâm đức của toàn quốc cố gắng tranh-đấu cho tương-lai, hạnh-phúc của nước nhà là những tay nhứt-định đẩy xa-thơ ấy tiến mãi mà thôi, mà được cùng chăng là do nơi tinh-thần đạo-đức của toàn quốc-dân đó vậy.

Hôm nay, chúng ta vì tương lai của tổ-quốc đặt nén hương lên Thiên-bàn thành khẩn Đức Chí-Tôn ban ân cho Tân Chánh-Phủ Việt-Nam, được thành-công mỹ-mãn.

  

Tại Đền-Thánh Thời tý đêm 23 tháng 4 năm Mậu Tý (5-6-1948)

VÂN MẠNG QUỐC-DÂN VIỆT-NAM

Nội sáng mai nầy là ngày định vận mạng tương-lai tiền-đồ Tổ-quốc cả nòi giống Việt-Nam của chúng ta vậy. Vì cớ nên đêm nay mới có cuộc lễ nầy, đặng cầu nguyện Đức Chí-Tôn cho được kết-liễu mỹ-mãn và đôi đàng lấy thật tâm hòa-giải, hầu vãn hồi trật-tự, an-ninh cho nước nhà.

Kỳ trước, khi Bần-Đạo ở Hồng-Kông về, Bần-Đạo có lên tòa giảng nầy nói rằng, cái khó chẳng phải do nơi Pháp nữa, mà lại do Việt-Nam ta, bao giờ cũng vậy, nhơn-tâm vẫn thế. Trải tám mươi năm lệ thuộc, chúng ta chịu thống-khổ tâm-hồn đã nhiều rồi, bây giờ chúng ta hẳn đòi lại, đòi cho kỳ được, và phải được mà thôi, nhứt quyết như vậy. Cả đồng chủng của chúng ta ngày nay tinh thần đã đến bực lão-thành rồi, chẳng còn ưng chịu nhục-nhã tâm-hồn như xưa nữa. Đòi, đòi đặng dùng ai là người yêu nước, thật tâm ái quốc, không phải nói trong cửa Đạo mà thôi nói tất cả mỗi cá-nhân trong xã-hội , nếu ai là người thật tâm ái-quốc, muốn lo lắng cho vân mệnh nước nhà, thì cần phải suy đi xét lại và nhận định sự tấn thối cho tường, mỗi mỗi việc gì cũng phải để trọn tâm nghiên-cứu cho thấu lý mới được. Định vận mạng cho một nước không phải là dễ, rất đổi việc làm cá nhân là việc nhỏ mà còn phải suy gẫm định tâm rồi mới quyết-đoán, để cả tinh-thần trí-thức đặng giả-quyết thay, huống chi cả vân mạng của một nòi giống thì cần phải kỹ lưỡng hơn nữa kia.

Hại thay ! những kẻ lãnh đạo kháng-chiến, trong buổi tinh-thần của một nước đã chịu tám mươi năm lệ-thuộc đang bồng-bột, mà những kẻ ấy ơ-hờ chẳng để hết tâm-hồn nghiên-cứu. Bần-Đạo nói thiệt, họ không ái-quốc chi hết, bất quá là một trường tranh-đấu đặng đoạt lợi-quyền mà thôi, nếu thật tâm ái-quốc thì họ đã giải- quyết xong rồi, cái quyền sở-hữu của mình là thiên-hạ thiếu nợ mình, thì mình đòi cần gì phải đánh lộn với họ, cứ chiếu giấy tờ mà ra đòi, nếu không trả thì kiện, chớ đánh kẻ thiếu nợ thì nó nổi khùng đánh lại, nó có chịu thua mình đâu, rồi nó không chịu trả mới làm sao nó ? Những kẻ lãûnh đạo ấy đã vô ý-thức chắc hẳn vậy. Vì bởi cớ mà Bần-Đạo đến giải-quyết vấn-đề của nòi giống chúng ta là duy có lấy cái quyền sở-hữu ấy đặng đòi mà thôi.

Lập lại một lần nữa, nếu Bần-Đạo không bị đồ-lưu nơi hải-ngoại, thì không cần phải đánh nhau. Bất chiến tự nhiên thành, nền chơn giáo sẽ đem nòi-giống ra khỏi sự thống-khổ như thời gian Juifs, Đức Chí-Tôn đã sai Jêsus Christ đến giải-khổ vậy. Nếu thiên-cơ không định dường ấy thì Đạo không có giá-trị gì hết. Tại sao ? Chí tôn đã đến cầm tinh-thần của nòi giống Việt-Nam bốn ngìn năm văn-hiến, đặng làm khí-cụ quyết-chiến với tinh-thần, coi có giải-thoát nòi giông Việt-Nam đặng chăng, coi có thắng được hay không cho toàn con cái của người ngó thấy.

Không phải dùng ngọn gươm, mũi súng mà quyết-đoán thiên-hạ đặng. Tại lực cường-liệt của gươm súng không quyết-định thắng thiên-hạ đặng, quyết hẳn như vậy. Ta nên lấy đó mà làm bài học và cho dân tộc Việt-Nam thấy rằng, chúng ta có một mãnh-lực còn mạnh hơn nguyên-tử lực nữa kìa, chẳng lực-lượng nào tàn-sát cùng động đến được là tinh-thần đó vậy. Bần-Đạo muốn cho nòi giống Việt-Nam thấy được lực lượng tinh-thần nhơn nghĩa, đạo-đức, đã thâu đoạt thắng lợi một cách vinh-diệu. Ta hãy để mắt xem và cả để cả đầu óc suy-nghiệm, coi hành-tàng của kẻ vô đạo, con loàn, tôi giặc kia, có thắng được tinh-thần của tổ- tiên Việt-Nam lưu lại đó hay chăng cho biết.

Ta mở mắt xem bên nào thắng, bên nào bại.

  

Tại Đền-Thánh Thời Tý đêm mông 9 tháng 5 năm Mậu-Tý (15-6-1948)

LỂ TIẾP RƯỚC ÔNG TỔNG-TRƯỞNG BỘ-PHÁP-QUỐC

HẢI-NGOẠI

Ngày hôm nay, Bần-Đạo đình sự khảo-cứu phong-hóa của nhà Nam ta về đạo nhơn-luân, đối với đạo nhơn-luân của cả nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy, để nói về buổi lễ hồi sáng nay tổ-chức với ý-nghĩa, chí hướng gì ?

Vả chăng Ông Chevance Bertin, là đại-diện của Tổng-Trưởng Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại, lãnh mạng lịnh của quan Tổng-Trưởng sang Đông-Dương đặng quan-sát tình hình liên-quan Việt-Pháp, tức là tình-hình đương-nhiên của nước nhà ta đối với nước Pháp. Aáy là một yếu-nhơn có thể làm phát-ngôn-viên, đặng đem sự thật trình bày cho dân-tộc Pháp hiểu biết tình-trạng hiện tại, nên Bần-Đạo đến tại Sài-thành, để có lời ước vọng cùng Ông quan sáu De Lafour là muốn gặp ông Chevance Bertin.

Thời buổi đương-nhiên nầy, chúng ta đừng để cho thiên-hạ có thể nói rằng, không hiểu tâm-lý của nòi giống Việt-Nam như thế nào, hễ gặp dịp là phô bày, nhứt là chúng ta là người đạo-đức, càng cần phải trải sự thật trắng ra trước mắt, cho người ta quyết-đoán.

Bần-Đạo vừa nói : Ông Chevance Bertin là một yếu-nhơn có thể làm phát-ngôn-viên cho Việt-Nam nơi nước Pháp. Ngài là một vị trung-tướng hồi hưu, nay làm chủ nhiệm tờ báo Climat, là tờ báo được quốc-dân Pháp tín-nhiệm. Bần-Đạo bày cuộc lễ hồi sáng, đặng nhờ toàn con cái của Đức Chí-Tôn nhứt tâm, nhứt đức, tỏ rõ thiệt-tướng, đạo-đức tinh-thần của chúng ta ngày nay như thế nào, cho Ngài ngó thấy mà thôi. Bần-Đạo dám chắc, không hề nói dối, đó là làm cho tinh-thần của Ngài để ý suy-nghĩ lắm vậy. Lạ gì, thế thường thiên-hạ hay nói (lời lặp lại của Đức Chúa jésus Christ) : mắt với mắt, răng với răng (oeil pour oeil dent pour dent) kẻ vô nhơn-tình mà mình lấy tánh-cách vô nhơn-tình ấy đối lại thì vẫn vô nhơn-tình mãi thôi, không khi nào thấu nhơn-tình đặng, lấy oán-hận mà trả lại sự oán-hận, thì nó vẫn còn mãi mãi. Trên mặt thế-gian chưa ai biết được quyền-năng tinh-thần đạo-đức, quyền-năng ấy vô đối, nếu ta biết nắm lấy nó trong tay, thì nó là cây gươm, nền Đạo gọi Huệ-kiếm. Đem tình-cảm đặng cảm-giác thiên-hạ, tấn-tuồng ấy Bần-Đạo đương làm đây với một chánh-sách, từ khi biết Đạo và ra đảm-nhiệm phận-sự thiêng-liêng của Chí-Tôn phú-thác. Bần-Đạo đã biết rõ sự bí-mật của cơ-chuyển-thế nầy và tánh-chất của loài người, thấu-đáo tận-tường rằng không bao giờ dùng cường-lực đặng đè nén, ép buộc tinh thần loài người, đặng đem vào thánh chất cho được. Muốn chuyể theo chánh-sách của Đức Chí-Tôn thì duy có lấy nhơn-đức đối với hung-bạo, lấy hiền đối với dữ, lấy tâm quảng-đại bạo-la khoan-dung tha thứ của Trời đát đối với tánh-đức hẹp-hòi của loài-người, lấy tâm bác-ái trải ra toàn tâm-lý loài người đặng trừ cái tánh gian-xảo, hung-tàn, quỉ-quyệt của họ. Nếu chúng ta đị theo được đúng như vậy, mới có thể xứng-đáng là kẻ thay mặt cho Đức Chí-Tôn cầm cơ chuyển-thế lại thế-gian nầy. 

Bần-Đạo đã làm đặng như vậy, và sẽ còn làm-nữa. Tình-trạng của chúng ta làm ngày hôm nay để cho thiên-hạ thấy tâm-đức chơn-thật của chúng ta đã trải trước mắt họ, thì họ cũng phải đối lại với ta chơn-thật như vậy.

Coi vậy mà ngoài mặt ta tinh-thần đương thanh-tịnh sẽ có giờ xao-xuyến, chớ thiên-lương tâm-lý vô đối trong phút giây tỉnh-giác và phút giây ấy có thể làm môi-giới cho ta tự tỉnh cả kiếp sống của mình.

Ta đã tìm phương tỉnh-giác thiên-hạ, Phật Thích-Ca có nói : “ Tự giác nhi giác tha” có giác tha, mới hiểu cuộc lễ ngày hôm nay không phải là bỏ, ngày mệt mỏi hôm nay không phải là một ngày vô ích và sự kết-quả tâm-tình của chúng ta đối với Đại-diện của nước Pháp đến viếng Tòa-Thánh vị ấy sẽ thấy và hiểu chúng ta, thì ảnh-hưởng đó một ngày sau mà là ngày gần đây thôi, sẽ đem đến cho Quốc-dân Việt-Nam những thắng lợi bất ngờ.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 5 năm Mậu-Tý (21-6-1948)

VÌ SAO HỘ-PHÁP CẦM QUYỀN NHỊ HỮU-HÌNH ĐÀI

Bần-Đạo lấy làm ngạc nhiên là từ khi khai đạo đến giờ Bần-Đạo chưa thấy kỳ đàn nào đẹp như kỳ đàn nầy. Nếu tất cả thấy được quyền diệu-pháp, điều mà mấy người không thể tưởng tượng được, vì từ khi mở đạo mới có lần đầu. Hay là tại chúng ta đồng thinh tụng kinh mà được như vậy chăng ? Aáy vậy, từ đây về sau, chúng ta vẫn làm y như kỳ nầy mãi mãi.

Hôm nay, Bần-Đạo xin tạm đình khảo-cứu nền phong-hóa của Việt-Nam đối với dân-tộc van quốc đặng thuyết một vấn-đề trọng yếu từ thử đến giờ chưa ai thố lộ. Ngày hôm kia, Bần-Đạo gặp Đức Lý Giáo-Tông vấn đáp cùng Ngài về một lý-thuyết tối trọng yếu trong nền Chánh-giáo của Đức Chí-Tôn Aáy vậy, xin cả thảy bình-tâm lắng nghe Bần-Đạo minh-thuyết và rán nhớ, bởi vì bài giảng Đạo hôm nay có điều bí-ẩn tiên-tri ấy kết-liễu cùng chăng không rõ, nhưng hiện giờ ta có thể đoán xét được.

Đức Lý Giáo-Tông có giáng cơ nói, giao quyền Cửu-Trùng trong tay Bần-Đạo đặng thống nhứt quyền hành chưởng-quản Nhị Hữu-Hình-Đài, ấy là do Ngọc-Hư-Cung quyết-định, tức là thiên-điều quyết-định vậy. Điều ấy Bần-Đạo lấy làm khó nghĩ, lấy trí mà tưởng tượng. Ngoài ra người nào khác hơn là Bần-Đạo thì không để ý, nhứt là khi chịu nhận đảm-nhiệm ấy làm cho tinh-thần Bần-Đạo kiếm hiểu vì cớ nào Ngài cho Bần-Đạo quyền thống nhứt, mà tìm kiếm không ra.

May thay ! Đức Lý Giáo-Tông đến, Bần-Đạo thú-thiệt xin Ngài nói rõ cho biết đôi việc nhỏ đặng chỉnh-đốn lại, và xin lỗi đặng vấn-nạn Ngài vấn-đề ấy. Bần-Đạo nói:

 “ - Bạch Ngài sự bí-mật ấy Ngài có thể cho tôi biết đôi chút đặng tôi mới an-tâm, an-trí được”.       

Ngài cười nói : “ Bần-Đạo vẫn biết trước thế nào Hiền-Hữu cũng vấn-nạn. Nhưng Bần-Đạo cũng đã cố-tâm để đối đáp lại cùng Hiền-Hữu. Trước kia muốn biết sự bí-mật ấy, chúng ta nên tìm hiểu Nhị Hữu-Hình-Đài là gì ? Bần-Đạo xin giải nghĩa : Cửu-Trùng-Đài là chơn-tướng của Cửu-Thiên Khai-Hóa tức là cơ hữu-vi của Càn-Khôn võ-trụ, do Cửu-Thiên Khai-Hóa tạo-thành.

Hỏi : Bởi quyền-năng nào tạo thành ?

Do nơi quyền-năng vô đối của Chí-Tôn. Pháp là thành-tướng ấy là do nơi Pháp từ thượng cổ đến giờ liênhiệp Vạn-Linh và Chí-Linh. Bởi vậy ta tìm đạo là côt-yếu tìm hiểu cái bí-pháp ấy như thế nào và có phương-thế gì làm cho ta đoạt đặng chăng ? Aáy vậy, Cửu-Trùng-Đài và Cửu-Thiên Khai-Hóa Tạo-đoan cả vạn-linh trong Càn-Khôn võ-trụ. Chúng ta ngước mặt lên trời, mắt ta thấy hằng-hà sa-số là địa-giới, ta gọi là sao, mỗi vì tinh-tú ấy là một quả địa-cầu có người ta ở, cho nên Đức Chí-Tôn mới nói rằng : Càn-Khôn võ-trụ nầy chứa đầy vạn-linh. Nói rõ hơn Cửu-Trùng-Đài là Đời.

Còn Hiệp-Thiên-Đài là pháp-giới tạo ra vạn-linh, nó là Đạo, rõ rệt như vậy.

Bây giờ Bần-Đạo hỏi tại cớ nào Ngài đến đây, cầm-quyền trị thế. Ta tìm hiểu cao sâu hơn nữa sự bí-mật ấy. Hiện thời chúng ta thấy gì ? Ta thấy đời đương phấn-khởi bồng-bột, tự-năng, tự-tạo, tự-đoán, tự-chủ, không còn đạo-đức gì hết. Đương nhiên có hai hình-tướng:

1/ Cộng-Sản tinh thần thể chất.

2/ Các Ban máy móc, cách-vật, hóa-học, tức thuộc hình-tượng thể-chất.

Hai hình-trạng ngày nay đối chọi nhau. Thảng ngày kia nó hiệp đồng lại, thì thể-chất ấy có hình lại có hồn-phách thì ta thử tưởng-tượng trên mặt địa-cầu nầy sẽ thế nào. Thể-chất thì lúc nào cũng xu-hướng theo thể tánh duy-vật mà thôi. Thảng các Tôn-giáo đương cầm tương-lai linh-hồn của loài người, trên mặt địa-cầu nầy không đủ năng-lực thì cả tài-năng thể-chất sẽ xô đuổi cả xác-thịt lẫn linh-hồn của con người đến chỗ tự-diệt. Aáy vậy, tinh-thần tức là đạo-đức, phải như thế nào đặng đối phó cho vừa sức lại thể-chất ấy. Đời bây giờ quá tấn-triển về hình thể, phải có cơ Đạo đủ năng-lực tỉnh-thức tâm-hồn của loài người và giữ -gìn dìu-dắt cho mới tồn-tại. Mà ta thấy các Tôn-giáo hiện-hữu tại địa-cầu nầy đã mất quyền. Điều đó quyết hẳn vậy ! Thiên-hạ tinh-thần đã loạn mà không ai cầm quyền điều-khiển nên tự-do sát-hại lẫn nhau.

Chí-Tôn đến, đến đặng cứu con cái của Người.

Người đã làm thế nào ? Chẳng có chi lạ. Người chỉ tăng cường đạo-đức làm giềng mối cho tâm-lý loài người đặng bảo tồn sanh-mạng cho cả nhơn-loại với phép duy-tâm thì Đời mới tồn-tại.

Người luận tới đó,  Bần-Đạo nói : “ Than ôi ! Đạo Cao-Đài đã hai mươi ba năm mà còn lẩn-quẩn trong nội-địa Việt-Nam, có đâu đu đảm-lực ra toàn-cầu đăng độ rỗi nhơn-sanh, e đặc-phận ấy quyết-định con đường của Đạo còn dài, còn sơ-cấp lương-lai vân-mạng loài người đương cấp-bách, làm thế nào chuyển-thế cho kịp đặng hoàn-tất đảm-nhiệm thiêng-liêng của mình”.

Ngài trả lời một câu rất hữu-duyên, chúng ta không thể tưởng-tượng được. Ngài nói rằng : “ Cái nhà máy xay, vốn nó không cấy, không gặt mà nó vẫn có gạo cho ra toàn nhơn-sanh ăn; Đạo Cao-Đài không ra khỏi nước mà có thể làm trọn phận-sự trọn vẹn đặng “.

Bần-Đạo hỏi câu ấy có ý-nghĩa thế nào ?

Ngài đáp; “Mối chơn-truyền của Đức Chí-Tôn đem Đạo đến tại thế là mối dây liên-lạc tương-quan cùng các Tôn-giáo trên thế-giới, đương-nhiên cầm-quyền nhơn-loại bởi không có giềng mối kết-liên với nhau thành ra chia rẽ, phân biệt trắng đen, hơn thế. Trận giặc Tôn-giáo trên địa-cầu hiện giờ ta thấy tại Aán-Độ và Palestine có thể nào làm cho các Tôn-giáo hiệp-đồng tâm-đức đặng chăng. Duy có năng-lực của Chí-Tôn tạo thành mối dây liên-hệ các Tôn-giáo cùng nhau đó thôi” .

Bần-Đạo vấn nữa : “Thảng các Tôn-Giáo ấy Chí-Tôn' đem dung-hòa đặng họ tương-hội cùng nhau, mà họ không nghe, thì ta mới làm sao ?”

Ngài nói : “Dầu đương nhiên họ không nghe, nhơn-sanh sẽ biết điều trọng- yếu ấy mà đòi hỏi thì họ phải chịu, chừng ấy nhơn-sanh buộc hiệp, phải hiệp, bằng chẳng vậy họ sẽ tự-diệt lấy họ.

“Aáy vậy, Đức Chí-Tôn định cho Hộ-Pháp cầm-quyền hai Đài, tức Thiên-điều quyết-định Đạo phải làm chủ của Đời, oai-quyền ấy sẽ cứu Đời khỏi tận-diệt”.

Vì cớ Ngài nói Thiên-điều trong tay Bần-Đạo là vậy đó.

  

Tại Báo Ân-Từ Thời-Ngọ ngày Rằm tháng 3 năm Mậu-Tý (1918)

QUẢ KIẾP CỦA DÂN-TỘC VIỆT-NAM

Cùng mấy chị mấy em, từ thử tới giờ chúng ta vẫn sống với đời, chúng ta thường thấy điều gì trái với nguyên-do, tức nhiên phải tìm cho thấu-đáo hoặc đoán cho được. Tinh-thần như đường may mà mũi kim không ăn vải, máy sẽ ắt có sứt mẻ chi đó, còn như xay bột thấy nghẹn không xuống thì biết thiếu nước, cái gì cũng có nguyên-do của nó, phải tìm cho biết hoặc đoán cho ra lẽ.

Hiện giờ có một việc dị-hợm là nước Pháp chịu trả tự-do độc lập thống-nhứt, trả trọn-vẹn mà từ thử đến giờ Pháp đã nói nếu chúng ta tự trị được, tự bảo-vệ được, nên biết chúng ta có thể đem hạnh-phúc lại cho nòi giống được thì người ta sẵn lòng hứa trả, sợ e cho mình không hưởng được hạnh-phúc mà còn nguy-khổ nữa, nên buộc người ta phải gánh cả trách-nhiêm đã tám chục năm qua còn lưu lại mối thâm tình của hai nòi giống. Hai nữa là quyền-lợi đã tự tạo trên tám chục năm còn lưu lại để mưu cầu sự sống chung với nhau cùng tạo hạnh-phúc chung cho hai dân-tộc. Nếu người ta sẳn lòng trả cho mình vi-chủ lấy thì có nhiều người lấy làm lạ, nhứt là hạng thượng-lưu trí-thức của Pháp, họ rất ngạc-nhiên rằng nước Pháp không hề cản-đảng, không hề từ-chối cho dân-tộc Việt-Nam thống-nhứt và độc-lập mà tại sao dân Việt-Nam lại còn đánh Pháp, họ hỏi như vậy đó ? Hồi nước Pháp muốn trả những điều đó cho tay khác, nghĩa là muốn đưa bướng cho rồi, nhưng sực nhớ lại là không phải chủ nên đòi, mà đòi mãi không lấy lại được, rồi vì sự hiểu lầm đó sanh lối lạ thường lắm vậy ! Bởi cái rối đó mà tôi bắt tội họ, họ không thể chối được. Họ lại nói thảng như lời của Pháp không cho mình thống-nhứt, không chịu trả nước cho mình thì mình sẽ giết họ chứ, bởi họ là kẻ thù. Tại sao trở lại giết nòi-giống của mình, gây nạn tương-tàn tương-sát lẫn nhau ? Nên họ cho đó là đảng cướp, đảng cướp ấy lợi-dụng danh-từ ái-quốc để giết người cướp của mà thôi.

Lạ-lùng thay ! Đêm hồi hôm tôi thuyết rõ tại quả kiếp của nòi-giống mà chúng ta ngày nay phải chịu hình khổ. Đời trước vay, đời sau phải trả, tấn tuồng đau thảm cốt-nhục tương tàn nầy còn nhiều nữa, vì buổi trước đã tạo nên hay lưu lại mà thôi, làm sao đoạn được, có phương gì đoạn được chăng ? có chứ.

Điều chướng-ngại hiện giờ là tôi tưởng phải khó-khăn về phía người Pháp, trái lại Đức Bảo-Đại làm khó người ta, làm cho đình-đãi cuộc thương-thuyết, mà một ngày chưa thương-thuyết, là một ngày nhơn-sanh chết chẳng biết bao nhiêu. Tại sao vậy ? Tại quả-kiếp chưa thường đủ, nhơn-sanh phải chết phải trả món nợ còn đang đòi, trả bằng máu,  bàêng con số sanh-mạng. Vì cớ mới có sự chứng-ngại lạ-lùng vừa nói. Mà nợ ấy đòi bằng sanh-mạng, bằng máu tức là đòi cốt-nhục của mấy bà đó chớ, không con cũng cháu hoặc con thân quyến. Đâu xúm lại cầu nguyện Đức Phật-Mẫu can thiệp giùm cho, sao thờ-ơ quá vậy ! Còn bên phái nam cũng vậy, không biết chừng, giọt máu chưa trả nợ nó còn ở trong mấy người, phải xúm nhau cầu nguyện.

 

 

về trang chủ