Ðại
đạo Tam
kỳ
Phổ độ
Tòa Thánh
Tây Ninh
-------o0o-------
LỜI
THUYẾT ĐẠO
CỦA
ĐỨC
HỘ-PHÁP
Năm
BÍNH
TUẤT- ĐINH HỢI (1946-1947)
QUYỂN-HAI (tiếp theo)
HỘI
THÁNH GIỬ BẢN QUYỀN
IN
LẦN THỨ NHẤT
Năm
Canh-tuất (1970)
ĐỨC CHÍ -TÔN HÀNH- PHÁP TẠI KIÊM-BIÊN
Bần-Đạo nhớ khi lên mở Hội-Thánh Ngoại-Giao
trên Kiêm-Biên năm 1927, đặng truyền-giáo, Đức
Chí-Tôn cho vị Phối-Sư Hương-Lự của chúng
ta nay được thông-công cùng Ngài, nhờ nghe, nhờ
thấy, truyền pháp cho Bần-Đạo .
Khi nọ, Chí-Tôn' biểu Bần-Đạo lại kệ
“bàn viết” có một dãy nhựt-trình đặng rút
ra hai tờ. Ngài lại dạy chúng ta là bà Phối
Sư Bẩy đứng bắt ấn, kế Bần-Đạo trãi hai
ấn rồi, Bần-Đạo thưa: “Đã trải rồi”.
Tức thì bà chị nhảy ngược lại, đạp hai tờ
nhựt-trình. Bần-Đạo không hiểu nghĩa gì Đức
Chí-Tôn biểu coi hai chơn có đạp cái gì. Bần-Đạo
coi chơn trước giở lên là hình Tưởng Giới
Thạch, đạp ngay trên đầu, còn chơn sau Bần-Đạo
biểu giở nhón lên, coi thấy hình Roosevelt, quan
Thổng-Thống cuẩ nước Mỹ đạp ngay ngực và
miệng, Đức Chí-Tôn' nói với Bần-Đạo rằng:
“Một
ngay kia Trung-Hoa sẽ thờ phụng Đạo đáo-để,
còn nước Mỹ sẽ lãnh trách nhiệm đi truyền-Giáo
toàn cầu”.
Ngày
nay, chúng ta đã thấy tưởng chừng như Chí-Tôn'
đã khiến mấy vị Phóng-Viên bên Mỹ đến lấy
hình trọn vẹn của Đạo, đủ cả chi-tiết,
kinh luật đem về xứ để truyền-bá, thì mấy
vị nầy chẳng khác như Đức Tam-Tạng ngày xưa
đến Aán-Độ thỉnh kinh, Bần-Đạo dám chắc
sự bí-mật mà Bần-Đạo thấy Chí-Tôn hành-pháp
buổi nọ, đã kết liễu ngày hôm nay.
Aáy vậy, chúng ta phải chịu nhọc một
chút đặng nghinh tiếp họ, trong buổi lễ nầy.
(A) -Bần-Đạo tưởng khi những người có
mặt ngồi tại đây hầu lễ nầy, biết chừng
đâu, cũng sẽ được hạnh-phúc như đi truyền-giáo
bên Mỹ sau này mà chớ.
Bần-Đạo để lời cảm ơn toàn cả nam
nữ và các bí-pháp ấy chúng ta sẽ thấy Chí-Tôn
làm thành tướng trong thời gian ngắn-ngủi sau
đây.
Tại
Đền-Thánh Đêm 14 tháng 6 năm Mậu-Tý (1948)
CỦA-CẢI
SỐ 1 CỦA CHÚNG TA TẠI THẾ NẦY
Đêm nay, Bần-Đạo giảng tiếp của-cải
số 1 của chúng ta ở tại thế nầy, hôm nọ
Bần-Đạo đã tả ba hình trạng của-cải của
chúng ta thế nào rồi.
Đức Chí-Tôn Ngài dìu đường cho cả con
cái của Ngài để đoạt đặng của-cải ấy,
và chúng ta đi từ từ mà đến con đường đoạt
cho đặng 3 thứ của. Chúng ta có thể làm đại-nghiệp
cho chúng ta về hữu-hình và về Thiêng-Liêng.
Bây giờ Bần-Đạo chỉ nói về của-cải
số 1, tức nhiên là của-cải hữu-vị của chúng
ta, hôm nay Bần-Đạo đã tả cái sở-dụng của-cải
hữu-vị của chúng ta. Số người nào biết tìm
vạch gia-nghiệp ruộng đất cho họ, có các vật
chi đã hưởng đựơc, đặng giúp ta sống về
phần xác-thịt, thì trước khi chúng ta phải hiểu
cái căn nguyên của nó trước đã, nó đã giúp
cho ta những gì ? Nó giúp cho ăn-mặc, nó giúp
cho ta tất cả phương-pháp sống về xác-thịt
chúng ta, chỉ có bao nhiêu làm căn-bản. Nếu nói
lý-luận theo căn-bản thì chúng ta là con vật
mà thôi. Hình-thể của chúng ta có ngũ-tạng lục-phủ
để sống, một con vật nó cũng có ngũ-tạng
lục phủ nữa, như mình, đây thì con vật ăn
cái gì thì mình ăn cái nấy, nó có hai thứ tiếp
dưỡng, 1 là cái ăn gián-tiếp, 2 là cái ăn trực-tiếp,
cái ăn gián-tiếp, là thứ như con trùn nó ăn
đất mà sống, mà hại thay cái tiếp-dưỡng trực
tiếp thì mạng sanh con người không được bền-bỉ
vĩnh-viễn, còn cái ăn tiếp-dưỡng gián-tiếp
là chúng ta ăn cỏ, cây, trái mà để dưỡng xác
ta, nó đem lại cho ta cái tinh-ba dưỡng-khí vô-cùng,
còn cái tiếp dưỡng trực-tiếp là sát sanh-mạng
của vật-loại để thực nhục thì cái mạng-sanh
của con người có định giới-hạn tu khó mà
trường cửu được.
Như thảo-mộc phải thí-thân đặng nuôi-dưỡng
cho các loài-vật mà thôi, thì ta phải ăn thảo-mộc
mà chớ, còn một điều cao hơn nữa, nếu là
thú vật thí thân để nuôi người thì phải thí
thân đền trả cho đấng Tạo-đoan thử hỏi Đấng
ấy có phải bắt chúng ta thí thân đền trả
không ? Chắc-chắn không. Thì loài vật thí thân
để nuôi cái mạng-sanh con người không có căn
lý nào hết.
Con vật nó có hưởng được cái đặc-ân
thảo-mộc để tiếp dưỡng đủ nuôi sanh-mạng
của nó thì mình đâu có quyền đoạt mạng-sống
của loài vật mà mà để nuôi mạng-sanh của
mình.
Chúng ta đã ngó thấy hiển-nhiên thời-đại
nầy họ chỉ sống cái phương sống của người
mà họ sát hại sanh-vật, làm tương-tàn tương-sát
với nhau. Cũng vì cái sống bạo-ngược mà chúng
ta thâu-đoạt của cải đặng để vào cái thân-danh
cuả chúng ta, có đất mà không biết trồng-tỉa
thảo-mộc để nuôi mạng-sống của loài-người,
nên Đức Chí-Tôn đã sắp-sẵn nơi mặt địa-cầu
nầy, những căn-bản do nơi đất mà ra, để cho
loài người nhờ đất mà sống. Cái lý-thuyết
nầy chúng ta đã thấy hiển-nhiên trước mắt,
không có một mảy-may gì mà lại chúng ta không
sống nơi đất, Đức Chí-Tôn đã tạo cho chúng
ta sống mà lại ban cho chúng ta có một quyền-năng
để đổi cái sống của chúng ta nơi mặt đất
nầy. Hại thay : chúng ta đổi đất có thể nuôi
thiên-hạ được, cái của cải nơi mặt đất
nầy có thể nuôi thiên-hạ đặng, không tranh
dành với nhau mà sống, cái sống của chúng ta
rất dễ-dàng, mà tại sao chúng ta tạo cái sống
khó-khăn khổ-não mà thôi. Đức Chí-Tôn đã để
bài học cho chúng ta thấy là Ngài không cho chúng
ta cực-nhọc. Ngài biểu chúng ta trai-giới là
cốt-yếu Ngài hiểu chúng ta đổi đất mà sống
, hễ đào đất mà sống thì sống một cách đơn-sơ
lắm. Đào đất để sống, xin ai thì khó mà xin
đất vẫn dễ mà !… Nếu chúng ta hiểu-biết
vì đất mà sống thì loài người vẫn nhìn nhau
mà lo sống với nhau một cách hòa-giải vậy.
Nên thiên-hạ trông nơi đó mà sống, thì
chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản-dị
đàng-hoàng sống một cách siêng-năng thì không
bao giờ đói, cái đó là do nơi làm biếng mà
thôi. Trái lại họ không đào đất để mà sống,
họ chỉ âm-mưu sang-đoạt của người, nên nay
mới có những sự tranh-đua như thế.
Cái sống hữu-hình, Bần-Đạo để cho thấy
đó mà kiếm sống. Còn cái của cải thiêng-liêng
ấy tức-nhiên là thân-tộc của chúng ta, Ngài
đã ban cho cha mẹ, vợ, con, anh, em, chúng ta cái
của cải ấy mà chúng ta không thể nào kiếm
đặng. Tấn-tuồng đói khổ là tại chúng ta không
thể tìm đất mà sống, lại giết hại sanh-mạng
con vật mà sống, rồi tranh-giành đoạt-lợi mà
giết hại lẫn nhau cái sự khổ não đó đã lan-tràn
trong xã-hội, những kẻ có cái bản-năng tranh-giành
xô-xát với nhơn-loại thì nó sống một cách
cô-độc khổ -não lắm, té bên mặt không ai đỡ,
ngã bên trái không ai nâng. Đức Chí-Tôn đã sắp
đặt cho loài người để sống mà không biết
nương dựa theo đó để sống, lại tìm phương
thế khác để sống cho đủ-đầy vật-chất,
nên nay mới có thời kỳ loạn-lạc nầy mà tại
chúng ta không biết tìm định cái nguồn-cội
mà Đức Chí-Tôn đã dành sẵn cho loài người
nơi mặt thế-gian nầy.
Hiện giờ cái hình-trạng căn-bản Thiêng-Liêng
ấy mà chúng ta có thể nào đoạt đặng chăng
? Đức Chí-Tôn Ngài nói được lắm chớ, các
người muốn đoạt được thì phải hợp thành
một gia-tộc thì mới đoạt đặng của cải quí-báu
Thiêng-Liêng ấy, cái của cải Thiêng-Liêng nó
đã dành sẵn trong tay mọi người, mà ít có ai
để ý đến, chúng ta chịu nghèo là do nơi mù-quáng
không ngó thấy mà thôi. Aáy là cái khổ-tâm của
bạn hữu-hình. Nếu cái khổ của bạn hữu-hình
chúng ta đã được chấm-dứt thì chúng ta đã
đoạt được tại mặt thế nầy đó vậy.
Còn cái điều thứ ba khi hôm Bần-Đạo
đã tả hình-trạng của cải mà từ trước Tiên-Nho
để lại câu:
-Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất
năng thủ
-Tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất
năng độc
-Bất như tích âm-đức ư minh-minh chi trung
dĩ di tử tôn trường-cửu chi kế.
Nghĩa là : chứa vàng để lại cho con, biết
con có bảo thủ được không ? Còn chứa sách
để lại cho con, biết con có học hay không ? Chỉ
chứa đức là con nó hưởng được mà thôi. Nếu
không ở vào cửa Đạo thì không bao giờ tạo
đức được, nên ngày nay Đức Chí-Tôn đến
lập Đạo để cho các người lập đức nơi cửa
Đạo Cao-Đài nầy đó vậy.
Chỉ có Đạo Cao-Đài để tạo đức cho
các triệu người đặng hưởng, mà đức ấy
của Đạo Cao-Đài làm thì không bao giờ mất.
Tôi xin bảo-đảm không bao giờ mất.
Tại
Đền-Thánh Đêm 23 tháng 6 năm Mậu-Tý (29-7-1948)
LUẬT
PHÁP VÀ QUYỀN ĐIỀU KHIỂN CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ
Hôm
nay Bần-Đạo giảng về “Luật-pháp và quyền-hành
điều-khiển Càn-Khôn Vũ-trụ “.
Bài giảng hôm nay cốt nhứt là để cho
cả thảy Thánh-thể Đức Chí-Tôn được thấu
hiểu pháp-luật và quyền-hành Điều-khiển nơi
cỏi Thiêng-Liêng, vậy cả chức-sắc Thiên-Phong
Nam và Nữ, nên để ý cho lắm, phải để ý suy-đoán
cho nhiều rồi mới nhận thấy thật là ngộ-nghĩnh.
Chúng ta thấy Luật-pháp và quyền-hành trị Càn-Khôn
Vũ-trụ đơn-sơ làm sao đâu. Cả tấn-tuồng đời
chúng ta ngó thấy họ tạo Luật-pháp và quyền-hành
đặng trị xã-hội, thật ra rối-rắm quá chừng,
quá đổi, mà vẫn không thế gì trị an đặng,
lại càng làm cho tinh-thần thiên-hạ thêm khó-khăn
khổ não mà thôi. Còn Luật-pháp quyền hành Điều-khiển
Càn-Khôn Vũ-trụ tức là Đạo, nên các nền Tôn-giáo
nào không tùng ttheo Luật-pháp và quyền-hành ấy
đặng trị tâm thiên-hạ, thì đó là tà-giáo,
là tả-Đạo, là bàn-môn, chớ không phải là
chánh-giáo. Chúng ta phải quan-sát những điều
ấy trong thuyết-giáo của Bần-Đạo hôm nay, và
Bần-Đạo sẽ nói rõ, vã chăng ta sống đây ta
cũng nên cho biết quyền-hành và Luật-pháp đã
trị-an Càn-Khôn võ-trụ như thế nào, rồi ta
mới hiểu rằng : Cả Luật-pháp và quyền-hành
Đạo-giáo cũng đều ở trong khuôn-khổ ấy mà
ra, không có ngoài nữa đặng. Mà muốn tìm hiểu
Luật-pháp ấy phải tìm đâu mà thấy và biết
đặng ? Phải nơi chủ-quyền của cơ-thể tạo-đoan
càn-khôn võ-trụ, tức là phải tìm ông chủ-quyền
càn-khôn võ-trụ ấy, biết đặng ổng, biết
năng-lực, tánh-chất của ổng, mới biểu Luật-pháp
và quyền-hành của ổng. Đấng ấy là ai ? Là
Đại Từ-Phụ chúng ta đây vậy.
Buổi nọ, Bần-Đạo vấn-nạn Đức Trưởng-Bạo
Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn, Bần-Đạo hỏi :
“Quyền-năng
và tâm-đức của Đức Chí-Tôn như thế nào ?”
Ngài
trả lời trong một câu pháp-văn, Bần-Đạo dịch
như thế nầy :
“Luật thương yêu, quyền và ngay chánh.
Gần thiện-lương, xa lánh phàm tâm “
Hai câu thi có đủ cả ý-nghĩa rằng : Chúng
ta nên suy đoán coi nguyên căn của nó là gì mà
có năng-lực dữ-tợn mạnh-mẽ như thế ? Quyền-lực
ấy chúng ta không tìm đâu xa, tìm nội trong châu-thân
chúng ta thì đủ thấy. Hỏi mãnh thân nầy, xác-thịt
sanh ra trong kiếp sống cả cơ-quan bí-mật đào-tạo
hình-thể của chúng ta do bởi đậu mà có ? Có
phải do nơi tình-ái của đôi đàng phụ-mẫu
chúng ta mà sản-xuất chăng ? Nếu còn nghi-ngờ
nữa thì ta cứ ngó vạn-vật tức vạn-linh kia,
coi hình trạng nó là thế nào ?
Chim kết cánh, cây liền cành ; rất đổi
là con vật mà cũng có tình-ái làm căn-bản hóa
sanh cả vạn loại. Đức Chí-Tôn cũng sản-xuất
trong tình-ái mà ra, đi từ tình-ái hèn-hạ dĩ
chi tối cao-thượng, luật ấy duy có một mà thôi.
Mặt luật chúng ta thấy khuôn-khổ là vậy, mà
quyền-năng chúng ta ngó trở lộn lại trong gia-đình,
coi cha mẹ chúng ta trị gia-đình với quyền
năng nào, hình luật nào ? Cha mẹ chúng ta chỉ
trị chúng ta với một luật thương yêu, còn nếu
đủ quyền hơn nữa cho chúng ta cúi đầu vàng
hịu phu mạng, mẫu-mạng, thì thêm công-chánh,
chúng ta mới cúi đầu vàng chịu. Nên hình-ảnh
mặt luật thiên-nhiên tạo-đoan đã có sẵn trong
gia-đình từ trước chúng ta không cần tìm-kiếm
đâu cho xa chỉ coi trọng vạn-vật như loài thú,
như đối với bầy gà mẹ và con coi con gà trống
thương-yêu con như thế nào thì đủ hiểu để
đoán-xét lắm.
Bây giờ hỏi : Trong càn-khôn võ-trụ nầy,
nếu nói vạn-linh không hữu-tình thì là dối
vậy. Chúng ta sanh ở những vạn-vật ấy, nếu
chúng ta công-chánh thì thấy quả-quyết rằng
: Cả vạn-vật điều hữu-tình đối với chúng
ta tất cả. Tới sắt đá cỏ cây cũng thế. Cả
thảy điều có tình, với chúng ta hết, nếu nó
không có tình với chúng ta thì chúng ta không thể
sống hạnh-phúc đặng. Chúng ta không thể chối
cải điều ấy. Cái tình nó đối với chúng ta
chẳng phải là tình-ái đặc-sắc mà là tình
liên-quan càn-khôn võ-trụ đè nén nó xuống, buộc
phải tuân mạng lệnh nên không phải là tình-ái
đặc-sắc mà là tình ái của Chí-Tôn buộc nó
phải tùng. Chúng ta đã ngó thấy như mặt trời
cho chúng ta ánh-sáng ban ngày, mặt trăn cho chúng
ta ánh-sáng ban đêm, cả vạn tượng tinh-tú chớp-nhoáng
trên đầu ta, cả càn-khôn võ-trụ ấy đối với
con người có cái tinh-thần vững-chắc. Nếu ngó
lên mà không đủ học-thức để thấu-đáo cả
vạn-tướng kia, cũng vẫn nó đối lại vớichúng
ta mật-thiết hữu-tình. Mà ít nữa ta phải biết
cái tình của nó đối với chúng ta mới thấu-đáo
được.Bây giờ hỏi luật tình-ái Đức Chí-Tôn
đễ trong lòng mỗi kẽ hữu sanh tại thế này,
chúng ta không thể chối có phải con người mà
đã có tình ái, thì lẽ cố nhiên con vật nó
cũng có tình-ái như con người, nếu không có
tình-ái thì không có sản-sanh nối-truyền tông-tổ
nòi-giống đặng ; ấy đó là luật. Không ai mà
đúng ngày giờ thời buổi của lẻ thiên-nhiên
thì buột phải tuân theo mặt luật tình-ái ấy.
Bần-Đạo không cần tả, nó cường-liệt phi-thường
làm sao đâu, chúng ta đẻ mắt thấy một cặp
uyên-ương kia tự-tử thà chết vì tình, chớ
không chịu chia lìa yêu-ai. Hỏi khuôn luật nào
mà biểu nó làm như thế vậy ? Aáy là khuôn luật
tình-ái. Bần-Đạo lập lại một lần nữa, nếu
không phải khuôn luật tình-ái vi-chủ thì vạn-vật
trên mặt địa-cầu nầy không còn hữu-hiệu.
Mặt địa-cầu nầy thế nào thì cả càn-khôn
võ-trụ cũng thế ấy, vạn-vật trên địa-cầu
nầy thế nào thì vạn-vật trên các vi tinh-đẩu
khác cũng thế ấy. Aáy là luật thương yêu.
Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công-chánh.
Cơ-thể tạo-đoan chẳng vì một ai, chẳng quên
ai, chẳng giận ai chẳng dọa ai, không thù-tạc
ai, không bỏ rơi ai. Đã sanh vạn-vật thì vốn
đồng sanh với chúng ta, chúng ta ngó thấy một
kẻ ăn mày kia đui-mù, thiên-hạ không ai ngó tới,
đi xin ăn, ai thấy nghèo-nàn đói khổ không chê
bỏ, khi rẻ, gớm ghiết, nhưng còn con chó của
người theo dắt đường lại vui vẽ trung-tin,
biết thương thật tình với người, thì chúng
ta nên để một dấu hỏi : Quá khôn- ngoan, càng
linh-tâm thì lại còn nghi-hoặc mất cả tính-đức
bổn-thiện sơ-sanh chăng!
Chúng ta ngó thấy cả vạn-vật nó không
cho người nầy nhiều, cho người kia ít, nó nằm
trên mặt-đất sẵn sàng do nơi chúng ta biết
trọng nó hay không biết trọng nó; do mình lấy
sự thương yêu của mình làm căn-bản mà dùng
nó thì nó thì nó chỉ là một vật của mình
dùng đó thôi. Một bầy thú kia dầu dữ thế
nào: như cọp, beo, gấu, sư-tử, mà chúng ta có
nuôi đặng nó, thì Bần-Đạo quả-quyết rằng
bất quá nó cũng như một con chó giữ nhà thôi.
Trong càn-khôn võ-trụ nầy, nếu không có mực
thước công-chánh Thiêng-Liêng thì sự sống của
con người cũng như con vật, sẽ tranh sóâng tranh
ăn mà phá-hoại, thì mặt dịa-cầu nầy không
khi nào còn tồn tại đặng, nếu càn-khôn võ-trụ
không công-chánh mực thước, địa-cầu nào muốn
sống cho sáng-suốt tự-do chạy tìm ánh-sáng,
thì địa-cầu nầy sẽ đụng với địa-cầu
kia, mặt trăng, mặt trời không còn thể chất.
Càn-khôn võ-trụ và quyền công-chánh đã định
vậy, nếu biết tùng theo luật ấy trường-tồn,
trái-nghịch là tiêu-diệt. Quan-sát luật pháp
ấy, quyền-hành ấy, chung ta nhìn quả thiệt Đấng
Tạo-đoan Càn-Khôn là chủ-quyền đó vậy. Ngộ-nghĩnh
thay! Đấng Tạo-đoan Càn-Khôn võ-trụ, với pháp-luật
ấy, khuôn-khổ ấy, ngày nay lại đến tạo Đạo
cho chúng ta. Vậy Ngài lấy khuôn-khổ nào mà tạo
Luật-pháp, và quyền-hành, Ngài để trong Thánh-Thể
của Ngài ; hình-luật nào, phương-pháp đặng
trị Đạo ? Tuy vậy, có Pháp-Chánh và Tân-luật,
cốt để bình tâm thiên-hạ đặng để gỡ tội
cho kẻ có tội-lỗi, phàm mà không có biết thú
tội trước mặt Người và trước phép Thiêng-Liêng.
Định Luật-pháp ấy cũng tỷ như sợi dây thiết-tỏa
liệng xuống âm-quang cho kẻ tội nhơn nắm nó
mà phăn về Thiêng-Liêng cựu cảnh ; chớ chưa
phải chơn-luật và chơn-pháp.
Nếu nói từ nay Đức Chí-Tôn đến tạo
dựng Thánh-thể của Ngài thì thật sự là pháp-chánh,
nhưng chỉ có tạo Thánh-Thể của Ngài ở dưới
thế nầy mà thôi, chớ quyền công chánh của
Ngài là đã đào-tạo Thánh-Thể Thiêng-Liêng của
Ngài, còn về mặt luật do Hội-Thánh lập-thành
chớ không phải Ngài định luật.
Aáy vậy nếu chúng ta nói Tân-luật là phàm,
thì quả thật nó là phàm, còn Thiên-luật của
Chí-Tôn là thương yêu mới là Thánh mà thôi.
Hỏi vậy, chớ Bần-Đạo nói đây có qua lời
chăng ? Bần-Đạo xin đem bằng cớ ra liền.
Từ ngày mở Đạo đến nay đã 23 năm,
hình-trạng của Đạo lấy phương gì tạo nền
chánh-trị của nó. Quyền-lực của đời thường
nương súng đồng, gươm máy, khám tù mà đạt
thành, còn Đạo làm thế nào cho có quyền mà
lập nền chánh-trị Đạo ? Nói hẳn rằng, nếu
không phải luật thương-yêu lập quyền cho Bần-Đạo
ngày nay, Bần-Đạo ắt không còn đứng trên tòa-giảng
nầy mà giảng Đạo. Nếu không có quyền công-chánh,
Đạo Cao-Đài đã bị tiêu-diệt không sống tới
ngày hôm nay đâu, bằng cớ hiển-nhiên là đó
vậy.
Toàn Thánh-thể Đức Chí-Tôn Chí-Tôn nếu
biết, thì nên nắm quyền-luật thiên-nhiên ấy,
ngày giờ nào thiên-hạ được yêu-thương nhau
nồng-nàn, thì giờ ấy quyền Đạo sẽ là quyền
tối-thượng nơi mặt thế đó.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý đêm 24 tháng 6 năm Mậu-Tý
(30-7-1948)
LỊCH-SỬ
ĐỨC QUAN-THÁNH ĐẾ-QUÂN
Hôm
nay là ngày via Đức Cái-Thiên Cổ-Phật Quan-Thánh
Đế-Quân tức là Hớn-Thọ Đình-Hầu Quan-Vân-Trường
nhà Hờn đời Tam-Quốc.
Một
vị Hiển-Thánh đời Hớn, thời Tam-Quốc, ngày
nay đạt phẩm-vị đến Tam-Trấn Oai-Nghiêm trong
nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn, sự vinh-hiển
cao trọng đó thấy giá-trị vô-đối. Với một
Đấng Thiêng-Liêng mà lập được vị mình một
cách oai-quyền vinh-hiển ta thường thấy rất
ít, thảng có chăng trong nước Việt-Nam Ngài Trần-Hưng-Đạo
gọi có thể đương đầu với Ngài được mảy-may
chút-ít mà thôi, chớ phần đông từ thử đến
giờ kể cả các nước Á-Đông nầy hiếm có.
Vậy, ta nên khảo-cứu coi Ngài làm thế nào để
đạt được thiên vị vinh-điệu đặc-biệt dường
ấy.
Hớn-Thọ Đình-Hầu Quan-Vân-Trường buổi
nọ là một vị tướng của Thục tức của Lưu-Bị.
Ta thấy đại-nghĩa của Ngài trung-can nghĩa-khí
của Ngài nhứt là về bằng hữu chi-giao, tình
nghĩa đối với bạn hữu của Ngài, dám chắc
dầu chúng ta dân tộc Việt-Nam hằng chịu ảnh-hưởng
văn-hóa cuả Nho-tông, chưa có được người nào
giống như Ngài vậy. Tâm trung-nghĩa chẳng vì
sang mà theo Tào, chỉ chuộng Hớn ; nghĩa chẳng
vì bạn buổi khổ não truân-chuyên mà phụ-rãy
tình nhau ; trung và nghĩa ấy hi-hữu. Nói đến
chí khí của Ngài, Bần-Đạo tưởng luận không
hết : Ngài bất sát hạ mã chí nhơn. Truyện sách
lưu lại rằng Ngài suýt bị Hạ-Hầu-Đôn giết
vì nó biết cái sở yếu của Ngài mà lợi-dụng,
nếu không Trương-Liêu đến cứu. Mỗi phen Ngài
trở cây Yểm-nguyệt Thanh-Long-đao định vớt
nhà nớ, thì nhà nớ nhảy xuống ngựa, chí-khí
đó thế-gian hi-hữu. Hỏi Ngài lập chí với bộ
sách Xuân-Thu mà thôi. Người sau có tặng cho Ngài
đôi liễn : “ Chí tại Xuân-thu, công tại Hớn
; Trung đồng nhựt-nguyệt nghĩa đồng thiên “.
Trọn đời Ngài không lúc nào rời bộ sách ấy,
lúc nào cũng đọc lấy tinh-thần của sách suy-luận
làm tinh-thần của mình.
Kể từ Đào-Viên kết tình bằng-hữu cùng
nhau, từ thuở bần-hàn cho đến khi vinh-huê phú-quý
sang trọng Ngài vẫn một mực không hề thay-đổi
tâm-đức bao giờ. Tinh-thần của người ấy là
tinh-thần đứng riêng biệt một mình một cảnh
giới mà thôi. Thế gian khó tìm thấy một kiểu-vở
thứ hai nữa đặng. Tinh-thần của Ngài có oai-quyền
đặc-sắc, ta thử tìm coi Ngài làm sao mà đặng
như vậy ? Nguơn-linh của Ngài là Xích-Long-Tinh.
Buổi nọ dân Bắc-Hớn phạm thiên-điều bị
Ngọc-Hư-Cung phạt hạn không cho mưa, đặng cho
dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu nguyện
nơi Ngài cứu nạn. Ngài cũng thừa biết dân ấy
bị thiên-điều hành-pháp, nhưng vì lòng ái-truất
thương-sanh không nở để dân chết đói, nên
Ngài làm mưa. Ngọc-Hư-Cung bắt tội sai Ngũ-Lôi
trũ diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa,
nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại. Vị Đạo
nhơn có căn-dặn bổn Đạo trong chùa đừng ai
dở chuông cho đến ngày nào Ngài hết nạn. Chư
Đạo trong chùa tọc-mạch dở ra xem coi vật gì,
thành thử Ngài phải chịu đầu kiếp, kiếp ấy
là Hạng-Võ. Hạng-Võ thì ai cũng biết. Nếu ta
quan-sát trong “ Trọng-Tương vấn Hớn “ thì
rõ tiền-căn Hạng-Võ, hậu kiếp Quan-Công. Bởi
Hớn-Bái-Công khi lập quốc rồi nghe lời Lã-Hậu
diệt công thần giết Hàn-Tín. Aùn ấy nằm dười
Phong-Đô mấy đời mà không ai xử đặng. Buổi
ấy có thầy Trọng-Tương là học trò khó mà
nghèo nhưng rất hiếu-hạnh. Cha chết Trọng-Tương
cất nhà mồ thờ cha mà ở. Thường hay buồn
thân trách phận biết mình hữu tài vô mạng nên
viết một bài thi có ý than rằng :” Thiên địa
hữu tư, thần minh bất công” dụng ý trách-điểm
cái án nhà Hớn mà dưới Phong-Đô xử chưa có
nổi. Vì vậy nên mắc tội phạm thượng, bị
bắt hồn dẫn đến Phong-Đô, đem cho Thập-điện
Diêm-quân vấn tội. Trọng-Tương bình tĩnh trả
lời rằng : “ Nếu cho tôi ngồi làm Thập điện
Diêm-Vương tôi xử án ấy cho mà coi”. Thập-diện
Diêm-Vương bằng lòng. Ngài xử :” Tiền căn
báo hậu kiếp, như Bành-Việt cho đầu kiếp làm
Lưu-Bị, Anh-Bố làm Ngô-Tôn-Quyền, Hàn-Tin làm
Tào-Tháo Hạng-Sư làm Nhan-Lương, Hạng-Bá làm
Văn-Xủ, Hạng-Võ làm Quan-Công. Ta thấy hồi sáu
tướng của Hạng-Võ đem lòng phản bội, đầu
nhà Hớn rượt Hạng-Võ đến bến Ô-giang phải
cắt đầu, trao cho Đình-Trưởng, chú là Hạng-Bá
trở lại phản cháu đã đầu-lụy Hờn-Bái-Công
còn trở lại phạt Sở. Tiền căn hậu kiếp vay
trả, quả báo y nhiên. Có một điều lạ là với
Lữ-Mông, oan-nghiệt có khác. Tiền kiếp của
Lữ-mông là Ông thợ rèn, Quan-Vân-Trường đến
mướn rèn Thanh-Long-đao với một kiểu-mẫu bí-mật
mà Ngài không muốn có người thứ nhì biết đặng.
Khi rèn xong. Ngài cầm ra sàn đi thử đường đao,
chợt nghĩ đến điều ấy liền day lại vớt
ông thợ rèn đứt đoạn. Oâng thợ rèn ấy sau
đầu kiếp làm Lữ-Mông. Cho nên buổi Ngài xuất
thần qui vị là trả cái ngày giết ông thợ rèn,
là Lữ-Mông đầu kiếp trả báo giết Ngài.
Khi chơn-linh của Ngài xuất ngoại, Châu-Xương
và Quan-Bình cũng tự-tử chết theo, ba người
ấy bay giữa không trung, đi ngang ngôi chùa kêu
ông thầy chùa là Phổ-Tịnh đòi ông nọ trả
cái đầu, ông bèn lấy cái quạt gõ trên cửa
tụng ba biến Vãng-sanh, Ngài hạ-giáng xuống tiếp
đòi đầu nữa. Oâng nọ cười nói rằng :”
Nhan-Lương, Văn-Xủ kia mới đòi đầu với ai
? Aáy là tiền căn báo hậu kiếp thôi chớ “.
Đức Quan-Thánh Đế-Quân tỉnh ngộ, xin ông Phổ-Tịnh
cho Ngài ở đó đặng tu, Chơn-linh của Ngài nhờ
ở nơi chùa đó mà hiển Thánh, Khi hiển Thánh
rồi Ngài trừ tà biệt quỉ, cứu độ sanh-linh,
và từ đó đến bâûy giờ không tái kiếp lần
nào nữa, duy dụng cái quyền-hành Thiêng-Liêng
mà hành Đạo thôi. Với quyền Thiêng-Liêng ấy
mà Ngài lập được Phật-vị là Cái-Thiên Cổ-Phật,
nhờ vạn-linh bầu-cử. Cho nên Đức Chí-Tôn mở
Đạo là cơ quan hiệp nhứt vạn-linh, để Đấng
ấy là một Trấn Oai nghiêm đặng làm quan Trạng
sư cho vạn-linh đạt kiếp.
Bần-Đạo
tưởng nếu có sự công chánh ở Tòa Hư-linh kia
ta nên gọi điều ấy là điều công-chánh đệ
nhứt mà Chí-Tôn quyết định vậy. Nên Hớn-Thọ
Đình-Hầu lập thiêng-liêng vị với chơn-linh
của mình đặng. Đó là chỉ rõ cho cả con cái
cũa Thầy biết rằng không phải chết là hết,
chết ấy là sống, mà cái sống nơi Thầy mới
oai-quyền chơn-thật hơn cái sống hiện tại thế
nầy.
HỘI-THÁNH LÀ GÌ ?
Hôm
nay Bần-Đạo giảng Hội-Thánh là gì ?
Bần-Đạo đã nhiều phen giảng-giải Hội-Thánh
là Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn tức nhiên là
xác-thịt của Ngài tại-thế. Aáy vậy chúng ta
đặng may duyên, nên buổi thếù-kỷ thứ hai mươi
là thế-kỷ hỗn-loạn, sa-ngã vào đường tội
lỗi, sự tàn-ác của đời đương-nhiên chúng
ta phải gớm sợ, Chí-Tôn lại đến đặng dìu
con cái Ngài, tức là các nguyên nhân của Ngài
tại thế, từ bấy lâu nay bị sa-ngã vào đường
tội-lỗi. Ngài đến qui-hội cùng Ngài và chính
mình Ngài đi tìm con-cái của Ngài mà thôi. Ngày
đến chẳng phải một ngày một bữa mà cả mấy
ngàn năm. Ngài giáng trần với sự đau-khổ nhọc-nhằn,
những vẫn cam chịu. Ngài tìm phương-pháp để
tận-độ chúng sanh, cơ tận-độ ấy chưa thành-tựu,
họ còn bị kẹt vào vòng tội-lỗi tại thế
nầy cửu nhị ức nguyên-nhân, Ngài đến gom về
hết trong thời-kỳ ân-xá thứ ba nầy, chúng ta
không dè ngày nay hưởng đặc-ân của Ngài, được
nắm quyền-hành làm Thánh-Thể cho Ngài, tức nhiên
là Ngài vậy. Chúng ta thấy mặt luật thiêng-nhiên
dầu cao xa khổ-khăn đến đâu, xem cơ tương-đối
ở hữu-hình cũng có thể hiểu được. Một ông
cha đã tới gời qui-liễu, nhìn lại gia-đình
sắp con đã nên gia-thất chỉ còn vài đứa nhỏ
dại, chưa đủ chí khôn ; Ông cha ấy phải thống-khổ
biết chừng nào, khi thấy đứa trẻ ấy bơ-vơ,
nếu mình rũi chết hoàn cảnh ấy ông phải định
thế nào, lẽ cố nhiên là Ông kêu người con
trai lớn của Ông lại dặn-dò cặn-kẽ : khi cha
có mất rồi thì con phải thương em con còn nhỏ,
bảo trọng cho nó, tạo tương-lai hạnh-phúc cho
nó. Người anh nghe cha di-chúc thì lo tìm phương
dạy dỗ em thế nào cho nên người và đến một
ngày kia các con ấy sẽ trở nên hiển-đạt đi
rồi, thiết tưởng gia-đình ấy hạnh-phúc biết
chừng nào. Hạnh-phúc hơn khi người cha ấy trông
thấy con mình cao-sang vinh-hiển hơn mình.
Đức Chí-Tôn kỳ nầy muốn chính mình Ngài
đến cứu-vớt con cái Ngài, nhưng Ngự-Mã-Quân
của Ngài không cho Ngài đi, vì biết Ngài mỗi
khi xuống thế phải chịu thống-khổ vô ngần,
nên Ngự-Mã-Quân quyết-định đến thế cho Ngài.
Chúng ta tưởng-tượng sự thế ấy nếu Chí-Tôn
ưng chịu, thì Ngự-Mã-Quân phải hứa cứu-vớt
hết cả con cái của Ngài và lại dặn : “Bây
muốn thế Tao mà ở với con Tao thì Bây phải
làm sao bảo-trọng chúng nó vẹn-toàn để đem
về đông đủ cho Tao và phải đủ can-đảm và
năng-lực thay thế Tao bên cạnh chúng nó. Nếu
Bây không muốn cho Tao làm thì Bây phải làm như
Tao mới đặng”. Tôi tưởng Ngự-Mã-Quân đến
thế cho Ngài, phải lựa trọn trong hàng lương
sanh con cái của Ngài để làm hình ảnh cho Ngài,
như vậy Ngài mới chịu. Vì cớ Hội-Thánh là
Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, cho nên khi Ngài
lập Pháp-Chánh-Truyền cho Thánh-Thể của Ngài.
Người anh cả ấy phải làm cha làm thầy trong
khi Chí-Tôn vắng mặt. Ngặt một điều là mình
không xứng đáng đó thôi, chớ không buổi nào
Chí-Tôn không công nhận và không chịu, một
khi mình đã đủ đức-tánh thay thế cho Ngài.
Nếu Thánh-Thể của Chí-Tôn lại thế nầy mà
day-dỗ, cứu-vớt con-cái của Ngài được toàn-vẹn
y như ý-định của Ngài thì thiết-tưởng không
có gì làm cho Ngài sướng bằng ! Aáy vậy, Hội-Thánh
đầu Nam đầu Nữ, tức là hình-ảnh của Chí-Tôn,
Chí-Tôn giao cả đảm nhiệm làm cha và làm thầy,
thì chúng-sanh làm thế nào mà không tôn-trọng
như cha như thầy được.
Trong đám anh em chúng ta ngồi tại đây,
cùng sắp em nhỏ trong kia cũng có vị Phật, Tiên
giảng thế, nhưng còn chờ chúng ta lập vị cho
nó, bởi nó còn khờ nên giao chúng ta giáo-hóa
nó để một ngày kia chúng nó đạt đến tinh-thần
cao-trọng đặng lãnh sứ mạng của Chí-Tôn
phú-thác. Vậy, ngày giờ nào chúng ta đủ quyền-năng
vào địa-vị, tức nhiên chúng ta đã trọn Đạo
đối với Chí-Tôn.
Tại
Đền-Thánh Thời-Tý, mồng 1 tháng 5 năm Mậu-Tý
(5-8-1948)
PHÁP-CHÁNH
HIỆP-THIÊN LÀ GÌ ?
VÀ HÌNH- LUẬT TAM-GIÁO LÀ GÌ ?
Từ thử đến giờ chúng ta thường quen
gọi là Tòa Hiệp-Thiên-Đài hay là Tòa Tam-Giáo,
nên đã 23 năm Đạo, mà chúng ta chưa biết chổ
dốt của mình. Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm
Chơn-Nhơn buổi nọ giáng bút hỏi Bần-Đạo một
câu bằng Pháp-văuwrrT
-
Expliquez Eùtymologiquement Le Mot Tòa ? (Vậy chứ
theo ngữ nguyên tiếng Tòa nghĩa là gì ?)
Bần-Đạo
trả lời:
-
Thưa Ngài, kêu Tòa là nơi để định án, xử
tội kẻ phạm Luật-pháp “.
Ngài
cười và nói :
-
Trật, gọi Tòa là khi nào là Tòa nhà, hay Tòa
lâu-đài gì đó, chớ tiếng Tòa không có định
nghĩa về phương diện Pháp-Chánh cả “.
Bần-Đạo
thừa dịp nhờ Ngài dạy nữa. Ngài nói:
-
Cái tiếng của Chí-Tôn đã đem đến đặt để
nó khéo léo hay ho biết bao nhiêu, nghĩa-lý rất
thâm-diệu mà tại sao lại không dùng, Đức Chí-Tôn
đến lập Pháp-Chánh-Truyền, giao cho Hiệp-Thiên-Đài
gìn-giữ. Trong đó có diệu-pháp của Chí-Tôn
đến lập vị cho con cái của Người tại thế-gian
nầy, Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng-hợp
lại cho nó có trật-tự, có đẳng-cấp, tức
nhiên là lập Thánh-Thể của Ngài, các phẩm-trật
có liên-quan tới các phần-tử tức nhiên Hội-Thánh
tổng-hợp là Thánh-Thể của Ngài, Ngài lập Chánh-Pháp-Truyền
cốt ban quyền hành cho Thánh-Thể của Ngài, mà
hể đạt quyền được, tức nhiên về với Ngài
được. Aáy vậy, Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên
là phương định vị, lập quyền đặng hiệp
một con cái của Chí-Tôn cùng Chí-Tôn vậy.
Tới hình luật Tam-giáo: Từ-thử Tam-giáo
có Nho, Thích đạo, luật Tam-giáo có hữu-hình,
có luật-hình, vì cứ nói án nên nói là phạm
luật Thiên-Điều mà thôi. Luật hình ấy gồm
cả tôn-chỉ của Tam-giáo đem đặt tại thế
nầy cho thiên-hạ thật-hành, nhưng lần lần càng
xa khuôn luật.
Aáy vậy, có hai phần :
-1) Pháp-Chánh Hiệp-Thiên.
-2) Hình-Luật Tam-giáo.
Tuy hai phần khác thể, nhưng cũng đều giao
cho Hiệp-Thiên-Đài Chưởng-quản hết. Nếu muốn
gọi cho trúng thì gọi Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài
là đủ nghĩa.
Bần-Đạo giảng nghĩa: Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài
là gì ? Cốt yếu của Đức Chí-Tôn đến thế
ban quyền hành cho Thánh-Thể của Ngài, Ngài buộc
quyền Thiêng-Liêng kia hễ con cái của Ngài đắc-phẩm
hữu-vi ở dưới thế nầy được toàn-vẹn, thì
cũng phải nhìn nhận phẩm ấy ở cõi hư-linh
kia. Bần-Đạo tưởng nếu không phải tay của
Chí-Tôn thì không ai có quyền buộc các Đấng
cầm-quyền chánh-trị của Càn-Khôn Thế-giới
là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải nghe theo
như vậy bao giờ.
Ta cứ suy nghĩ : một ông cha thương con nói
: Tao đến với con Tao. Tao định cho nó làm tể-tướng
tại thế-gian nầy, thì cả triều-chánh phải
nhìn nó là tể-tướng, chớ không phép cải, chỉ
vâng mạng-linh tể-tướng của nó mà thôi. Thiết-tưởng
nếu không phải nhà vua thì không ai hiểu như
vậy mà dân phục lịnh. Nếu không phải Chí-Tôn
đến lập giáo thì không ai đến đây mà có quyền
buộc Cửu-Thiên Khai-Hóa nhìn-nhận Thánh-Thể
của Ngài được. Tại sao Ngài giao cho Hiệp-Thiên-Đài
? nếu cả Pháp-Chánh đó không người cầm để
thực hiện thì cả giá-trị lẫn thể-thống đều
mất hết. Từ ngôi Giáo-Tông đến ngôi Đầu-Sư,
giữa có ngôi Chưởng-Pháp, nếu không phải Pháp-Chánh
do Hiệp-Thiên-đài nằm giữ thì họ tông lúng,
tông hoài, tông mãi mãi làm cho loạn Đạo theo
tấn thám-kịch, ta đã thấy diễn đi diễn lại
nhiều lần, mà thử hỏi tại sao họ tông không
được ? Là tại Hiệp-Thiên-đài cầm luật chắc
chắn không cho loạn hàng thất thứ đặng. Họ
tông mặc họ, Hiệp-Thiên-Đài cứ nắm giữ chặt
chẽ, mà định phẩm cho con cái của Đức Chí-Tôn
mà thôi. Nếu chẳng vậy, nghĩa là nếu Hiệp-Thiên-Đài
để họ tự-do hành-động, thì phải đắc tội
với Chí-Tôn, vì Chí-Tôn đã giao cho gìn giữ
cái kho tàng đã định Thánh-Thể của Ngài định
vị cho con cái của Ngài y như đã giao cho gìn
giữ, cái kho tàng đã định chia cho đứa lớn
bao nhiêu, đứa út bao nhiêu, rồi Hiệp-Thiên-Đài
để cho người mạnh giựt-hành tài-sản của
mấy người khác, hỏi vậy người lãnh lịnh
đảm-nhiệm chia của ấy, sẽ bị ninh-phạt như
thế nào ? Nếu không có người cầm giữ kho đó
đặng phân-phát công bình cho con cái của Ngài
thì sợ e thiên-hạ giựt-giành hết mà con cái
của Ngài không hưởng đặng, gia tài để dành
cho họ mà chớ. Aáy vậy, hàng-phẩm mà Pháp-Chánh
đã định, cốt yếu hiệp con cái Chí-Tôn lại
làm một cùng Ngài, mà muốn cho đặng hiệp cùng
Ngài, thì Ngài để cho Hiệp-Thiên-Đài Chưởng-quản
giữ gìn nghiêm-luật Pháp-Chánh đó. Một người
về Đạo là Thượng-Phẩm cầm quyền Luật-Đạo
định phẩm-vị ; một người về Thế tức là
Thượng-Sanh đem con cái của Đức Chí-Tôn vào
cửa Đạo, dìu-dắt con cái Ngài không ai đặng
phép ngăn đường đón ngổ. Đại nghiệp của
Chí-Tôn để lại mặt thế nầy cho toàn cả nhơn-loại,
không ai có quyền giành hưởng một mình. Định-Luật
như vậy mới là công-bình và chánh-đáng. Bần-Đạo
lặp lại: Pháp-Chánh cốt yếu lập quyền cho
con cái Đức Chí-Tôn, có hàng-phẩm, quyền-hành,
thứ-tự, đẳng-cấp, giao cho Hiệp-Thiên-Đài
sắp-đặt không cho loạn hàng thứ nhất, nếu
loạn hàng thất thứ thì Đạo tiêu-diệt.
Bây giờ nói qua hình luật Tam-giáo : Đạo
Cao-Đài không phải lấy nguơn-chất của Tam-giáo
làm căn-bản, mà chỉ lọc-lượt chơn-truyền
của các Tôn-giáo trên địa-cầu nầy mà tổng
hợp lại. Tại sao lại kêu hình-luật Tam-Giáo
mà thôi ? bời ngày nay Tam-giáo qui-nhứt . Các
Tôn-giáo trên thế-gian nầy thì nhiều mà không
ngoài khuôn-viên của ba Đạo lớn, có thay đổi
chăng là vì châm-chế bớt ngoại-dung, chớ bên
trong đều do theo hình-luật đó.
Hình-luật Tam-giáo để định án chăng ?
Thiên-hạ sẽ nói Đạo gì mà có Tòa-án ? Người
ta lầm ! Vả chăng con người chỉ có quí ở cái
Tâm và hạ sanh tại đây ít nữa phải có căn-duyên
sao đó mà mình không biết đó thôi. Bần-Đạo
dám chắc dầu một vị chí Phật đến tại thế-gian
nầy mang thi-hài xác-thịt cũng quên hết tiền-kiếp,
cửa huệ-quang bị bí lối, không tự biết mình,
không tự hiểu phẩm-vị của mình, vì mang xác-phàm
thì cái gì cũng phàm hết. Duy có Đấng toàn-năng,
toàn-trị, toàn-thiện, toàn-mỹ là Chí-Tôn mới
tránh khỏi chuyển-kiếp luân-hồi mà thôi. Ngoài
ra không vị Phật nào tránh khỏi luân-hồi cả.
Các chơn-hồn ở các cung, các động, hoặc ở
Ngọc-Hư-Cung đến đây là có mạng-lịnh đến
tạo hình-thể của Đức Chí-Tôn, đó là những
vị Đại diện, còn tất cả bao nhiêu chúng-sanh
đều có căn-nguyên, mà hễ có căn-nguyên tức
nhiên là có tội, phải đến đây đặng trả
quả-kiếp luân-hồi.
Chí-Tôn muốn cho con cái của Ngài nên Thánh
thì phải làm sao ? Phải đem cả thảy vô đây,
tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn
gần, phải vì thương-mến kỉnh khen mà gần,
vì đáng tôn-sùng yêu-aí mà gần. Hình-luật Tam-giáo
là nước cam-lồ tắm-rửa linh buồn vậy. Chơn-truyền
từ trước đến nay Chí-Tôn để lại mặt thế
trên các Đạo Phật, Tiên, Thánh, là phương để
gội rửa linh-hồn mà thôi, nhứt là Công-Giáo
có phép xưng tội là một bí-pháp. Ta nghĩ, có
lẽ Đức Chúa Jésus Christ đã ban quyền cho những
đại-diện của Ngài, tức là cầm-quyền Hội-Thánh
có đủ năng-lực xá-tội, nhưng trong khi hai đàng
là kẻ xá-tội và kẻ xưng tội, cũng có lẽ
có người không thực tâm xưng tội, hoặc người
không xứng đáng là người xá-tội. Nếu xét
ra người đến xưng-tội và người xá-tội cũng
đều là người phàm cả, chưa biết người nầy
có xá-tội được cho người kia chăng ? Thảng
không đủ quyền tha tội lại càng thêm mang tội
hơn nữa. Hễ có tội tức có hình, có hình tức
có phạt, có phạt phải thành án, mà án tiêu
mới hết hạn. Nếu mình không tự hạ mình và
không đủ can-đảm cung-khai thì chịu lấy. Biết
mình có tội mà lại sợ nhục cái thanh danh phàm
thể thì hóng cái phẩm-vị Thiêng-Liêng thì rất
nên đáng tiếc. Nếu biết trọng linh-hồn thì
không ngần-ngại gì, đến mấy vị đại Thiên-Phong
cầm quyền Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài có trục-xuất
đi nữa cũng không hại gì. Nếu mình biết ăn
năng tự hối, tự tu thân tự giác tánh thêm nữa
đặng đền tội, mình tu một mình dầu Hội-Thánh
không biết tới, mình cũng vẫn tin rằng có Đức
Chí-Tôn chứng lòng trọn hiếu với Đức Chí-Tôn,
ngày kia về cửa Thiêng-Liêng chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật, đẹp dạ hả lòng tiếp-rước trọng-thể
hơn nhiều, người trọn gìn đạo-đức vì phẩm-trật
đã cao-siêu từ trước giáng-sanh lập vị, danh-vị
lập được của kẻ bình thường, đâu bằng
của kẻ biết ăn-năn sám-hối. Thảng như bị
trục-xuất mà mình tự biết lập vị mình, thế-gian
không hiểu thì còn có Đức Chí-Tôn hiểu, lập
tâm mà tu thì cửa Hư-Linh kia cũng không đóng
được. Những kẻ ấy do Đức Chí-Tôn sắp đặt
hàng thứ, nên Ngài đã nói :“ Cửa Hư-Linh không
ưa kẻ tàn-bạo, lạ thay Thiêng-Liêng vị phần
nhiều do những kẻ tàn-bạo phá cửa chun vô.
Thảng như mình không đủ can-đảm chịu án mà
mình tự tu sửa lấy mình được, dầu trong Đạo
Cao-Đài đây không có hiểu biết thì Chí-Tôn
cũng hiểu biết, anh em không hiểu mình mà ông
cha mình hiểu mình là đủ rồi, sợ e mình quá
phàm mà phải thất Đạo, phải luân hồi mãi
mãi mà thôi.
Bần-Đạo dám nói rằng trong Càn-Khôn này,
số hóa-nhân còn có ít hơn là nguyên-nhân bị
đọa-trần, chịu luân-hồi chuyển kiếp đặng
đền tội nhiều phen, chỉ vì quyến-luyến phàm
chất, không đủ can-đảm thú tội trước Đức
Chí-Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu
không muốn đợi để thú tội với Đức Chí-Tôn
thì hiện giờ vì biết mình có tội đến thú
tội với chư Đại Thiên-Phong Hiệp-Thiên-Đài
cầm quyền Pháp-Chánh đó đi, rồi quyết-chắc
đã đền xong tội phạm ắt cửa Thiêng-Liêng
cũng khó định nghiêm-hình, vì cớ cố-nhiên là
một án chỉ có một hình.
Ngày giờ nào nhơn-sanh chưa có can-đảm
thú tội của họ, thì cửa Hư-Linh vẫn còn chối
họ mãi mãi.
Ngày
11-11 Giáp-Ngọ (1-1954)
ĐỨC
HỘ-PHÁP DẠY
Nền
Đạo đã thông-truyền Quốc-Tế, vậy phải văn
hồi các bản sắc trong lành cho xứng danh là Thánh-Địa,
hầu làm cái trụ-cốt tinh-thần cho nhơn-loại
hướng về tin-tưởng.
ĐỨC
HỘ-PHÁP NÓI:
-
Cây cờ cứu-khổ của Đạo Cao-Đài là Thương-Yêu
và Công-Chánh. Phải thực-hiện được hai điều
ấy, thì Hòa-Bình và Hanh-Phúc mới đến với
chúng ta được.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý Mồng 6 tháng 7 năm Mậu-Tý
(9-8-1948)
ĐỨC TÁNH TRUNG HIẾU NGHĨA
Đêm nay. Bần-Đạo giảng ba chữ Trung Hiếu
Nghĩa, bởi vì Trung. Hiếu. Nghĩa là biểu hiện
một chơn tánh của linh-hồn cao-trọng,
Nhà Nho nói : “ Tánh tự tâm sanh “. Đó
là lý thuyết của đạo Nho, chỉ có một điều
là ta quan-sát có thể thấy hiện-tượng mà tả
trạng-hình được, vì đạo Nho chưa phải là
một Tôn-giáo huyền-bí. Còn Đức Chí-Tôn đến
dạy ta biết rằng tánh là chơn-tướng của chơn-thần,
còn tâm là chơn-tướng của chơn-linh. Chí-Tôn
dạy : Tánh của mỗi chúng ta là hình-thể thứ
nhì của ta. Hình-thể thứ nhứt là tâm tức là
chơn-linh, thứ nhì là tánh tức là chơn-thần,
thứ ba là xác phàm thú chất nầy. Chí-Tôn hỏi
; Tại sao từ trước đến giờ theo triết-lý
đạo Nho lấy nghĩa “ Tánh tự tâm sanh” mà
tả ra ? Bởi vì nó liên-quan mật thiết cùng nhau.
Trong tâm mình như thế nào xuất tánh ra y như
vậy. Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên,
còn Chí-Tôn chỉ rõ cho biết : Chơn thần cũng
tấn bộ như chơn-linh. Mỗi cá-nhân đều có hai
năng-lực ấy có đủ quyền-năng đào-tậo ra
hình-hài xác-thịt của ta. Một chơn-linh cao trọng
tự nhiên có một chơn-thần cao-trọng, bởi cả
hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng
tấn-triển trong con đường thánh-đức của Chí-Tôn,
cả hai có liên-quan mật-thiết, nên hễ chừng
nào đạt pháp đặng có đủ quyền năng định
vận-mạng, nghiã là nó đã tấn-tới đúng mức
rồi, dầu quyền của Ngọc-Hư-Cung cũng không
còn lãnh hội nó nữa, quyền tự chủ đã đạt
đặng như các cơ-quan hiển-vi tấn-triển tới
mục-đích tới giới-định hiển-nhiên ta thấy
nơi mặt thế đây vậy. Trong Đạo Giáo của Đức
Chí-Tôn trích ra một hạng tiên, không còn chịu
quyền của Ngọc-Hư-Cung định luật họ tự làm
chủ họ, tạo y khuôn-khổ họ đã muốn. Họ
tự ví chủ mà tạo hình thể ấy, bằng chẳng
vậy thì con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi
kéo ràng buộc, phản hai họ, làm cho họ phải
đọa-lạc. Còn như con thú nầy không còn quyền
lôi kéo họ được thì họ mới đủ quyền năng
vì chủ nó mà dục tấn trên con đường tận-thiện
tận-mỹ, toàn trì toàn năng mà họ đã định
đạt đến cùng tận sở hướng.
Chơn-thần là đệ nhị xác thân tạo hình
bằng nguơn khí của bảy từng thiên. Bỏ tạo-hóa-Thiên
là từng thứ chín, linh-hồn đến từng thứ 8
trụ thần quyết-định đến thế-gian nầy làm
việc gì, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân.
Ta chia 7 từng làm bảy phách, Đạo-Giáo nói là
7 cái thi hài hữu-tướng, 6 cái thuộc về khí
chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây, 7 từng
có liên-quan lạ-lùng với thất-tình, Từng thứ
7,6,5 là 3 tình : Aùi, Hỉ, Lạc ; từng thứ tư
là dục ; Từng thứ ba là Aùi ; Từng thứ nhì
là Ố ; Từng thứ nhứt là Nộ ; Tới từng chót
nầy thì xác thịt là hiện tượng của Nộ-giác.
Aáy vậy, Bần-Đạo chỉ rõ rằng ba tánh
đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở tình ái, phát hiện
đó là cái tình độc-nhứt có liên-quan mật thiết
với chơn-linh. Ta thấy con nít sơ-sanh, thi-hài
chưa biết vi-chủ, nó chỉ sống với chơn-linh
mà thôi. Khởi đoan nó chỉ biết thương mến
những kẻ gần-gủi như cha mẹ ; còn Chơn-thần
để gìn-giữ nó, cho nó biết tìm cái sống, bảo
tồn sanh mạng. Thật ra theo Đạo-Pháp, con nít
từ 12 tuổi mới bị chịu ảnh-hưởng của xác-thịt,
còn dưới 12 tuổi xác-thịt chưa có quyền. Ba
tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa thuộc quyền năng
của ái-tình mà ra nên gần-gũi với chơn-linh
lắm, đến nổi ta thấy hình-trạng nó như kẻ
sơ-sinh kia vậy ; Bần-Đạo vừa nói Trung, Hiếu,
Nghĩa do nơi tình-ái xuất hiện ra tướng diện,
nên nó gần Thánh, một khi giải-thể rồi lên
từng thứ 7 là chắc-chắn được giải-thoat,
đạt vị, bởi nó gần với Thánh.
Tại sao Trung ? Tại tình-ái
cao thượng dồi-dào đối với quốc dân nòi-giống
lên đến tột-độ, nó quá vĩ-đại. Nếu ta thấy
một vị công-thần liều mạng sống đặng bảo
vệ cho quốc dân, trung ấy chưa phải là trung
với vua, mà trung với nước chớ ! Có điều vua
là tượng trưng cho nước, nên trung với vua tức
là trung với nước. Mà có trung đặng là vì quyền
năng ái-chủng, ái-quốc nuôi trong tinh-thần nhiệt
liệt, nên tình-ái ấy vì-chủ tinh-thần, cho nên
ta thấy có kẻ vì trung dám hy-sinh tánh-mạng được
là vì vậy.
Tới Hiếu. Tại sao có hiếu? Bởi các chơn-hồn
sáng-suốt cao siêu đã có sẵn hai điều hiếu
:
1) Hiếu với đấng Tạo-đoan chơn-linh
2) Hiếu với đấng Tạo-đoan chơn-thần
Bởi có hiếu trước với hai đấng ầy,
biết trọng hai quyền-năng tạo-hóa Chơn-linh và
Chơn-thần thì tự nhiên phải biết nhìn Đấng
Tạo-hóa hình-hài của mình đồng thể chớ. Tâm
hiếu tự nhiên mà xuất-hiện vì nó có sẵn,
mà hễ có sẵn tâm hiếu tức nhiên phải là chơn-linh
cao-trọng thấu-đáo được nguyên do đâu mình
đến và là con của ai ? Đã hiểu rằng mình có
hiếu với Đấng Tạo sanh Chơn-linh và Chơn-thần
như thế nào rồi, thì đến hiếu với Đấng
tạo sanh hình-hài đã sẵn có rồi vậy. Nên,
hiếu không thể dạy được, hoặc có hiếu, hoặc
không có hiếu mà thôi.
Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao là có Nghĩa
? Taị sao Nghĩa lại hiện tướng tren tánh-đức
của chơn-linh cao-trọng ? Nơi cỏi hư-linh mỗi
người có một gia-tộc, một đại-nghiệp, anh
em đông biết bao nhiêu, Bần-Đạo xin nhắc lại
câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng :
Chẳng vì sự tình-cờ mà chúng ta được chung
đứng trong lòng của Đức Chí-Tôn ngày nay đây.
Biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bát-nhã chở
các nguyên nhân hạ trần đặng làm bạn và độ-rỗi
các nguyên-nhân và quỉ-nhân, lại không có chúng
ta ngồi chung trong đó. Đã từng chia đau sót khổ
cùng nhau chẳng những trong thế-giới nầy mà
trong các thế-giới khác nữa, đã từng chung sống
cùng nhau, cái thâm-tinh vĩ-đại đã nhiều. Nếu
cả thảy không nhớ lời nầy của Bần-Đạo
đến khi linh-hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận
biết bao nhiêu mà chừng ấy đừng trách Bần-Đạo
không chỉ trước. Không thương yêu nhau cho trọn
nghĩa là lỗi tại mấy người đa, chớ không
phải Bần-Đạo không nói. Ban sơ, nơi cỏi hư-linh
thọ nhứt điểm linh đến thế nầy tạo ngôi
vị, làm bạn với biết bao nhiêu chơn-linh khác,
dầu nguyên do của mình là thảo-mộc hay thú cầm
cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến
địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa
ta có nhiều ở mặt thế nầy lo tìm người nghĩa
đặng tương-liên cấu-hiệp tâm-tình trong cảnh
khổ-não, truân-chuyên chịu hình thử- thách nầy.
Tìm mà vẫn lo ngại sự lầm, bất kỳ gặp
ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa,
nếu rũi ở bất nghĩa cùng nhau, về cõi thiêng-liêng
sẽ hổ thẹn hối-hận muôn phần. Đối với
nhơn-loại ta đã sẵn có cái đại nghĩa đó,
đi tìm nghĩa tức là đi tiìm bạn, dầu nơi cỏi
hư-linh hay tại thế, đại-nghĩa vẫn còn lưu
lại, ta không từ chối được, cho nên hễ đi
tìm nghĩa thì không còn phân biệt ai là người
nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta tìm nghĩa ở đâu
? Trước nhứt tìm thân-tộc anh em sau mởia toàn
thiên-hạ được.
Bần-Đạo kết-luận : Trung, Hiếu, Nghĩa
là ba tánh-chất của một vì Thánh, vì cớ nên
Tiên Nho buổi trước tầm hiền thì duy lựa trong
ba tánh-đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không
lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người
như thế tức ta quyết-đoán chắc hẳn, là chơn-linh
cao-trọng, chớ không phải người hèn-hạ phàm-phu,
trái lại, kẻ nào phi-ân, bạc-nghĩa, bất-hiếu,
bất-trung, là chơn-linh hạ tiện đi lần đến
hoàn-cảnh thú bình và thú tính mà chớ.
LUẬT TƯƠNG-ĐỐI HAY LÀ PHẢN-ẢNH CỦA HAI
THÁI-CỰC CHƠN-THẬT
VÀ GIẢ-DỐI.
Cái
hay của sự chơn-thật đối với cái dở của
sự giả-dối, làm thế nào phân biệt? trước
khi giảng, muốn nói rõ hơn Bần-Đạo mời tất
cả đi theo Bần-Đạo dùng phép hồi-quang phản-chiếu
đem thần-trí ra ngoài thể-xác đặng quan-sát
lại mình và hành-tàng của thế-nhân ra sao, mới
quyết định điều hay lẽ dở của nó, giống
như đám Thiên-Quân Ngự-Mã-Quân, ngồi trên lưng
ngựa chiến-đấu về tinh-thần với mặt thế.
Theo sau xe của Chí-Tôn, chúng là gò cương đứng
lại bình-tỉnh, nghỉ-ngơi, giữa cảnh náo nhiệt
của nhơn-loại sắp diễn và xuống ngựa xem rõ
lại sự sanh-hoạt ấy đương nhiên ở vào mực
độ nào, rồi ngẫm lại ta ở vào cảnh hư hay
thiệt. Ta đàm luận vui vẻ cùng nhau sống, nhảy
lên lưng ngựa nắm vững cương, thúc nó chạy
theo kịp bước của Đức Chí-Tôn.
Phép hồi quang phản chiếu mà Bần-Đạo
nói đây là tinh-thần thoát ra khỏi thể-xác,
để quan sát trở lại hình-trạng thi thể của
nó. Ta thấy gì ? Khởi đoan ta thấy ta sanh ra mặt
thế, mang mảnh thi-hài (nguyên-căn của sự sống
vật thể) lắm khi làm cho ta khó phân biệt được
sự phải quấy, hoặc điều-hòa tâm-lý.
Vừa lọt khỏi lòng mẹ, chúng ta thấy miếng
cơm vú sữa của bà mẹ, biết rằng bà sanh ta
ra, nhận biết như vậy ta tự nhiên phải nương
nơi bà mà sống, nếu ta không được bà nuôi
dưỡng ắt ta phải chết, biết rõ như vậy nên
đối với mẹ ta, có tình yêu-ái tự nhiên về
luật Thiêng-Liêng đã định nên khi vắng mẹ
ta thì nhớ, sự thương-yêu đối với mẹ là
chơn.
Lớn lên chút nữa, hiểu rằng nếu không
cha và mẹ thì không có ta cũng không biết tại
sao mà biết ổng là cha, dầu trí khôn chưa đủ.
Oâng chạy bửa cho mẹ nuôi thì ta hiểu ngay rằng
nếu không ổng thì mẹ ta không đe ra được.
Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm-bồng
và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng
là cha ta, cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên
đó là chơn.
Thảng có kẻ nào nói mà mầy tự nhiên
đẻ mầy ra, đừng kính đừng trọng ổng, hoặc
nói mầy ở dưới đất nẻ chun lên, đó là giả,
còn bảo đừng nhìn ổng đó là dối.
Lớn lên nữa, thấy mẹ đẻ em ra, cũng
nhờ có ông cha ta kia, ta chia nhau một mảnh chiếu,
đấp nhau một mảnh mền, nhịn nhau từ hột muối,
từ ngọn rau, tình cảnh ấy không cần tả, có
điều ta thấy hẳn nó kết-cấu khối tình-ái
thiên-nhiên. Ngoài ra nếu cha khó, mẹ nghèo, anh
em lao-khổ, lại chia đau khổ cùng nhau và biết
chắc rằng cả thảy do mẹ sanh ra, biết nhau đồng-chung
máu thịt đó là chơn.
Bây giờ có ai nói, anh em mầy không bằng
tao, ta đối với mầy nhơn-nghĩa đầy đủ tình-cảm
đặc-biệt tao đối với mầy, anh em mầy không
có, đó là giả, biểu phản-nghịch lại anh em
đừng nhìn nhau, nhà mầy, mầy ở, cơm mầy mầy
ăn, đó là dối. Trọng chút nữa, cha đem đến
trường, mình đương dốt lấy làm lạ, chữ viết
cong-queo mà nghĩa-lý thâm-thúy, mình không biết
đọc sao ông thầy giỏi hơn mình mà tự biết
mình bơ vơ rồi nhờ ông đó, vậy mình trí-hóa
mở-mang bỗng sanh ra thương-mến, ổng dạy mình
biết nhiều quá nên phải kính trọng thương-yêu
ấy là chơn.
Thảng có kẻ nào nói : cái ông đó mà biết
caí gì, ổng nhồi-sọ mình cho ngu cho dại cho
dại cho điên-cuồng. Không phải dạy-khôn mầy
đâu mà mầy kính trọng, đó là giả. Nếu biểu
phản-nghịch mà nói nay mầy giỏi hơn ổng đa,
mầy hỏi thì ổng bí ngay, đừng kính trọng làm
gì đó là dối.
Tới nữa, ngoài cha mẹ và thầy, ta thấy
ông già mình không có dệt vải mà có áo mặc,
hỏi ra thì ổng làm ra tiền mà may cho mình, nhà
mình không có rèn mà mình có dao chặt củi, biết
rằng ông già mình làm ra tiền mẹ mình mua, thấy
không làm ruộng mà mình có cơm ăn, đó là ông
già mình làm mướn lấy tiền mua gạo.
Aáy vậy ta mới biết rằng ta sống đây
phải nương vào xã-hội, có những vật không
phải mình làm được đã có kẻ khác làm, mình
làm công lấy tiền mua sắm, sự sống có liên-quan
mật-thiết lạ-lùng với chung-quanh mình, với
những bạn đồng chung sống, nên cả quốc-dân
yêu mến nhau, rồi quyết-định rằng : bao nhiêu
người làm việc kia nuôi mình, người ta canh-gác
giữ trộm cho mình yên-ổn, người ta đốn cây
tạo nhà cho mình ở, cả thân-ân đó giục ta
yêu-ái, kính-mến coi cả thảy toàn quốc-dân
là phần-tử thân-mến của mình, đó là chơn.
Bây giờ có kẻ nói, nếu không có họ,
mầy sẽ ăn nhiều hơn, tại có họ mầy bớt
ăn lại mà còn phải thiếu, nhà mầy thì mầy
ở nếu không có họ giành cây, không chừng mầy
sẽ cất lâu-đài. Có họ không ích-gì, trái lại
họ còn giành ăn với mầy, nói như vậy là dối,
biểu nghịch họ và diệt họ, thì mình sẽ sống
hanh-phúc hơn, đó là giả.
Tới nữa ta thấy luật gia-đình ở trong
nước, một gia-đình không thể trọn trong hoàng-đồ
được, phải nhiều gia-đình hợp lại gọi là
bá-tánh, mà nhiều gia-đình chung hợp thì đất
đai sẽ được mở-mang rộng hơn nước giàu dân
mạnh. Vậy làm chủ đặng giữ-gìn đại-nghiệp
đó cho trọn-vẹn phải ai mới được ? Một gia-đình
không đủ, phải cả một Triều-Chánh, trên Triều-Chánh
có một vị Chúa làm chủ đặng bảo trọng đại-Nghiệp
ấy được vững tồn, cho nên vị Chúa ấy hay
là Vua hoặc Tổng-Thống làm chủ các nước gìn-giữ
quốc-thể giống-nòi của mình. Thảng như Hoàng-Đồ
nầy bị tiêu-hủy thì mình sẽ ra thế nào ? Mình
sẽ giống như Mán-Mọi nay ở chỗ nầy, mai đi
chỗ khác tàn-sát nhau, xô đuổi nhau như dân-tộc
Do-Thái ngày xưa, không quê-hương, không Tổ-Quốc,
ăn nhờ ở đậu trên khắp mặt Địa-Cầu. Vậy
chúng ta phải bảo-thủ Hoàng-Đồ của Tổ-Phụ
ta đó là chơn. Bây giờ có kẻ hỏi : Tổ-phụ
mầy đâu phải ở mặt đất nầy, Tổ-Phụ mầy
không phải nội đây, cả Địa-cầu nầy cũng
là Tổ-Quốc mầy được. Họ xúi mình đừng
nhìn Tổ-Quốc mình, là giả. Nếu nói rằng :
cả Chủng-Tộc nầy là kẻ thù-địch của mầy,
họ đầy đọa mầy vào cảnh-khổ, họ sung-sướng
tấm thân họ, đó là dối.
Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Địa-Cầu
nầy, nòi-giống nầy khác màu da với nòi-giống
kia và có những Chủng-Tộc bất đồng ngôn-ngữ,
xong cái cười cái khóc vốn như nhau, trạng-hình
đều giống, mà tiếng nói coi đó chỉ là định-ngôn
đặng để hiểu nhau thôi. Không phải duy có điều
đó mà buộc mình đứng nhìn nhơn-loại đồng
căn-bản, phải coi nhau là bạn đồng-sanh đặng
kính-trọng lẫn nhau. Hễ là bạn đồng-sanh tức-nhiên
liên-quan mật-thiết nhau, như trong gia-đình vậy.
Một gia-đình nào ràn-rát, sanh-sản con cháu đông
đảo và có phương sống đầy-đủ gia-đình,
đó là vui vẻ. Nếu trong gia-đình nào rủi-ro
con cháu hay họ hàng chết thì trong thấy ai-bi
lạ-lùng, một Ông cha vì con chết có thể chết
theo được, sự thảm khổ đó vô-đối. Ta kính-trọng
mạng sanh của tất cả dị nghĩa đồng-sanh, rồi
ta nghĩ-suy cho thấu-đáo thấy bổn-phận của
ta là bảo trọng mạng sanh anh em của ta khỏi
phải đổ nước mắt, phận sự ta đối với
cảnh tượng đó là chơn.
Bây giờ có kẻ nói cả sanh-mạng trên mặt
địa-cầu nầy không quan-trọng, mầy có thể
là chủ được thì đoạt-quyền làm chủ, giá
trị mạng sanh không có nghĩa gì đâu. Cả sanh-mạng
ấy là lợi khí để mầy dùng làm bá-chủ thiên-hạ
chẳng có tình-cảm gì cả, đó là giả-dối.
Đứng về tinh-thần, mặc tình tấn tuồng
giả-dối và chơn-thật, hiện tại diễn ra, nếu
chúng ta biết lấy tâm linh tự chủ mà quyết-đoán,
quan-sát trong kiếp sống của xã-hội nhơn-quần
thì không ai gạt-gẫm ta đặng. Ta phân biệt được
cái dở cái hay thì ta sẽ làm chủ nó đặng.
Bây nói rằng tinh-thần đã biết phân-biệt
hình trạng vật thể, mà lại nói cả thế-gian
duy nhờ sự giả-dối mà sống như Tào-Tháo đoạt
nghiệp Hớn cũng nhờ giả-dối. Khổng-Minh thắng
Châu-Công-Cẩn cũng nhờ giả-dối, đó là Á-Đông.
Còn bên Châu-Aâu nói nhờ Machievel giả-dối mà
nước Ý mới tồn tại, đó là mộng-mị, không
phải chơn-thật không một người nào, một cơ
nghiệp nào sản-xuất trong sự giả-dối mà tồn
tại được.
Trí ta sáng-suốt sẽ thấy và hiểu như
vậy, thảng như những người mà thiên-hạ cho
rằng : Nhờ sự giả-dối mới làm nên đại-nghiệp
nơi mặt địa-cầu nầy thì Bần-Đạo nói có
lẽ như Hoàng-nghiệp Romain hay Tần-Thủy-Hoàng
ngày nay đã còn chi nói thử ? Nếu quả-nhiên
sự giả-dối tạo nên những sự nghiệp đó thì
quyết-định chẳng còn tồn-tại bởi sự nghiệp
đó do sự giả-dối xô ngã, đài Tần, đảnh
Hớn ngày nay lưu lại những gì ? Nếu cơ nghiệp
vĩ-đại tạo thành nhờ trí óc xảo-trá thì nó
cũng theo sự xảo-trá ấy mà tiêu-diệt.
Xem lại tinh-thần, các Đạo-Giáo, như Gia-Tô,
Khổng-Tử, Lão-Tử, Thích-Ca, không dùng một lưỡi
gươm một ngọn súng mà cầm chắc qui-nghiệp,
dầu không làm được bá-chủ cả Địa-Cầu trọn-vẹn,
mà qui-nghiệp ấy vẫn còn tồn-tại là sao ? Là
tại thực hiện được sự chơn thật và nương
sự chơn thật ấy mà tạo nghiệp, thì nghiệp
ấy mới được vĩnh-cửu trường tồn.
Trong Đạo Cao-Đài ngày nay cũng vậy, tại
sao Bần-Đạo còn dám ngồi tại đây làm tôi-tớ
cho con-cái của Đức Chí-Tôn, để tạo nghiệp
cho họ mà Bần-Đạo quả-quyết làm đặng ? Là
biết trong cảnh nguy-vong kia, họ tưởng nhảy
ra với quyền-năng của Đạo nầy có thể diệt
trở lại Bần-Đạo, họ quyên nơi đây là Tòa-Thánh,
là nơi Đức Chí-Tôn đến nhứt định lập ngôi-vị
của Ngài trong mọi sự cố-gắng của con cái
của Ngài, tượng nên tinh-thần vững-chắc thì
ai có đủ quyền-năng nào mà được diệt được.
Bởi thế họ không diệt được nên dầu khổ
thế nào, Bần-Đạo quyết chống xem ngày tàn
cuộc.
Họ làm thử, ít nữa phải dòm lại ngược
coi, khi họ lấy năng lực của đạo ra làm năng
lực riêng của mình có còn tồn-tại được chăng
? chắc-chắn rằng không. Bởi vậy trong buổi
loạn Đạo người nầy, người nọ tìm đủ phương-thế
diệt trừ đảng-phái. Bần-Đạo đã nhận định
được nên mới hỉểu họ cứ việc làm đi,
rồi sẽ thấy cái ngày của sự chơn giả xuất-hiện.
Tấn-tuồng đó đã rõ-rệt lắm, Bần-Đạo nói
thật rằng : Năng-lực mà họ đem ra ngày nay thi
thố với Tòa-Thánh, ngày kia mấy em và mấy con
sẽ đắc thắng. Họ sẽ làm mọi không cơm cho
mấy em và mấy em vì lẽ sống của họ thiếu
sự bảo-trọng cho chơn-thật thì chết rồi cũng
buông rơi sự-nghiệp vào tay mấy em mà thôi.
Sự chơn-thật của Chí-Tôn bao giờ cũng
tồn-tại sự chơn là một năng lực tinh-thần,
không tinh-thần nào đối chọi đặng. Ngay giờ
nào Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn biết bảo trọng
sự chơn-thật cho toàn Đạo, thì không có năng
lực nào thắng nổi quyền-hành Thánh-Thể của
Ngài đặng.
HUẤN-TỪ
LỄ MÃN KHÓA HẠNH-ĐƯỜNG
Ngày
12 tháng 7 năm Mậu-Tý (1948)
Đáp
từ hai bài diễn-văn của hai vị Lễ-Sanh Tân-Phong
Phạm-Hải-Tống, Đinh-Công-Cự.
Qua lấy làm hân-hạnh thấy được tinh-thần
tấn-hóa của toàn thể mấy em, mấy con tưởng
chừng như không chi thỏa-mãn hơn. Từ 23 năm Đạo
mà Qua trông-cậy hơn hết, là thấy mấy em tấn-hóa
về Đạo-Đức tinh-thần thì không có mùi-vị
nào ngon hơn tưởng như mình đương thêm-thuồng
món ăn, dầu ra dầu củ mà khi thêm ăn cũng ngon
lành mà chớ.
Qua thêm cái món ăn mà mấy em vừa cho Qua
ăn đó, vì Qua nghe nó ngon làm sao, Qua để lời
khen hai em đó. Ngoài ra Qua xin giải-nghĩa cho mấy
em biết phận sự của mình rồi mới hiểu được
phặn của chúng Qua tức là của toàn Thánh-Thể
Đức Chí-Tôn, có vậy mới phân định được
nhiệm-vụ trọng yếu tương lai như thế nào,
các cơ-quan đương nhiên cố tâm giáo-hóa mấy
em, mấy con, là một điều trọng-yếu hơn-hết,
không làm điều ấy không đặng, tại sao không
làm không đặng ? Là tại không lẽ đại-nghiệp
của Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, tức toàn Hội-Thánh
từ thử đến giờ, mà mấy anh của Qua kế tiếp,
mấy Qua đã biết bao nhiêu mồ-hôi, bao nhiêu nước
mắt, đã chịu bao nhiêu khổ-não xác-thịt lẫn
tinh-thần, chỉ mong ước có một điều là đại-nghiệp
Thiêng-Liêng nầy được tồn-tại, cả thảy đều
biết rằng : Không có ai lột da mà sống đời,
trước Qua thì sau tới kế nghiệp đặng trường-tồn,
ngày nay phận-sự của mấy Qua dìu-dắt mấy em,
mấy con, đó là cả đại-nghiệp tinh-thần, mà
trước khi giao, phải lựa, phải chọn, cho có
người xứng phận bảo-thủ vững-vàng đại nghiệp
đó mới phải.
Ngày nay đứng trước mấy em. Qua lấy làm
đau lòng mà nói, biết nói ra mấyem sẽ gán mà
sự thật buộc lòng phải nói. Đạo chưa đủ
gì hết, mười phần Đạo kể cả hữu-hình hay
Thiêng-Liêng, về mặt vật chất hay mặt tinh-thần,
chúng ta đi chưa được hai phần mười, sự thật
là vậy.
Ngày kia tới phiên mấy em, cầm vận mạng
của Đạo, cầm quyền-hành của Đạo, chừng
đó mấy em sẽ thấy rõ, càng ngày càng tấn triển
mãi, nền Đạo của chúng ta có phận sự khó-khăn
hơn hết là, đảm-nhiệm đứng ra dung-hòa tâm-lý
tín-ngưỡng của nhơn-loaị. Phải đối phó với
các Tôn-giáo hiện-hữu trên mặt địa-cầu .
Thiên-hạ ai cũng phải nhìn-nhận, ai cũng biết
rõ rằng các Tôn-giáo ngày nay, đã lầm lạc,
đã thất chơn-truyền, tinh-thần nhơn chũng đương
tìm kiếm một mãnh lực tinh-thần nào chan chứa
tâm đức có thể làm cho mình thõa-mãn, ngày giờ
nầy họ đương tiềm-tàng, họ vẫn còn thiếu,
vẫn còn khao-khát, họ đói kém tinh-thần, họ
còn đói kém tín-ngưỡng. Ta thấy Đức Chí-Tôn
đến tạo Đạo Cao-Đài tại mặt thế này, Ngài
mới lập Hội-Thánh, đặng làm Thánh-Thể của
Ngài. Bởi Ngài muốn chung sống với con cái Ngài,
câu ấy giá trị như thế nào, mấy em rán tìm
hiểu, ngay nay dầu phẩm nào, dầu một vị trí
Phật, như Phâït Thích-Ca kia nữa, đến lập Giáo,
đáng lẽ Đạo Phật vững chắc lắm vậy, đặng
làm tâm-lý nền móng cho toàn nhơn-loại, Qua dám
nói rõ rằng, kể các Tôn-giáo hay không Tôn-giáo
nào chơn-chánh bằng Đạo Phật, mà Phật-Giáo
còn mất năng-lực cứu-thế độ nhân, chỉ có
ở Á-Đông đây, còn phía Aâu Châu thiên-hạ đương
tiềm-tàng quan-sát triết-lý cứu-khổ, Qua nói
thiệt đạo-đức tinh thần của các Tôn-giáo
chưa làm thõa-mãn tâm-lý của loài người, họ
còn đương thêm-thuồng khao-khát.
Ta thử hỏi Chí-Tôn Ngài muốn chính mình
Ngài đến với con cái của Ngài, là ý tứ gì
vậy ? Ngài đến như là phương-pháp chót, hơn
thua gì cũng tự ở nơi Ngài mà thôi,
Ngài nói : Thầy quyết đến với các con,
nếu các con lập đạo không thành thì chính mình
Thầy phải tái kiếp, họa may chăng, một mình
Thầy mới đủ quyền-năng làm tinh-thần loài
người, chỉ đặng an-ủi và thõa-mãn, Thần cũng
có, Thánh cũng có, Tiên cũng có. Ngài đã sai đi
đủ hết, nhưng tinh-thần nhơn-loại vẫn còn
đớn đau khao-khát, lòng hoài-vọng cho nên mới
đến giai đoạn nầy.
Đồ-đệ của ông là Thần, Thánh, Tiên,
Phật nơi Ngọc-Hư-Cung đã cầu khẩn xin Người
đừng giáng-thế, nếu như người không đến,
ta thử hỏi có ai lập Đạo nên đặng cho đời
chăng ? Chí-Tôn đã nói : Nếu các con lập không
thành thì Thầy phải giáng-thế. Đã can ổng thì
mình phải làm cho được, xét ra các phần tử
của mấy em ở trong Thánh-Thể là ổng vậy, mấy
Anh thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn trong phần
tử của ổng định, biết đâu khi ta cầu khẩn
ngăn cản tái-kiếp của Chí-Tôn mà ta không hay
biết nên phải đứng vào Thánh-Thể của Ngài.
Qua nói đây không chừng phạm thượng, Qua
muốn tạo mấy em thành ông Trời ở tại mặt
thế nầy, nếu mấy em thành ông Trời được,
đó là điều sở vọng đệ nhứt của Qua hơn
hết, sự bí mật đó không nên nói là mấy em
có thể làm Trời được. Phải làm được Qua
biết chắc làm được, buổi nầy không làm được
sau nầy cũng sẽ làm được, ngày giừo nào Chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật đến cỏi trần thay thế
cho hình-ảnh Đức Chí-Tôn, họ đến với thánh-tâm
toàn vẹn thì chừng ấy sẽ quả-quyết làm được.
Chúng ta đây bất quá là kẻ mở đường
mở lối mà thôi, chớ không phải là vai tuồng
chánh. Chánh vai là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
đến ngày giờ định họ sẽ đến, biết đâu
họ không có mặt trong mấy em, Qua không biết
em nào, song Qua biết rằng đã có, vì trước đã
có, thì sau cũng phải có, Qua đây không biết
mà mấy em cũng không biết, chỉ tới thời buổi
Chí-Tôn phân-định thì chư vị đó sẽ hiện
ra, chúng ta không thấu-đáo được Thánh-ý của
Đức Chí-Tôn, cũng không rõ nguyên-căn của ai
được, nhưng biết rằng, bổn phận phải đào-tạo
mãi cho thành Thánh-Thể của Đức Chí-Tô, tức
là tạo ông Trời tại thế nầy cho ra tướng,
nếu không có ông Trời tại thế gian nầy chúng
ta sẽ khổ-não, thế gian sẽ bị tiêu-diệt, vì
con đường tấn-hóa về vật-hình sẽ sô-đẩy
nhơn-loại đi đến đầu chưa biết, mặt địa-cầu
nầy nhơn-loại sẽ mất bảy hai tám phần mười,
nếu Đạo không thành chơn-giáo.
Qua vừa thuyết minh cho mấy em biết trách-vụ
thiêng-liêng trọng-hệ hơn hết chẳng phải Qua
mà thôi, cả mấy em cũng bị lời hăm-he của
Đức Chí-Tôn , luôn cả đoàn hậu-tấn của chúng
ta nữa, đời đời không cùng, đàn anh của mấy
Qua, đến mấy Qua đây rồi đến mấy em, nếu
đứa nào trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn thất
phận thì Ổng sẽ đến, mà hể Oång đến kẻ
nào đương cầm-quyền không đủ năng-lực, mà
buộc Oång phải đến đó, kẻ ấy bị hành-phạt,
từ xưa đến nay không một đấng chơn-hồn nào
không ghê-sợ.
Vậy chúng ta phải biết điều nên lẽ hư,
làm thế nào cho Thánh-Thể Đức Chí-Tôn đặng
gần con cái của Ngài, con đường đó mấy Anh
của Qua đã đi, Qua đương đi và mấy em sẽ đi,
ngày giờ nào mấy em tìm phương thế bảo-trọng
cầm vững vận-mạng của Đạo tức là làm thõa-mãn
sở-vọng của Chí-Tôn đó vậy ; đều đó mấy
em phải tự lập mình mỗi ngày, tự hỏi mình,
đảm đương nhiệm-vụ đặng chăng, và mãi cố-gắng
trau mình cho nên phận, Qua tưởng muốn thì phải
được, rán hết sức mình ắt làm đặng, vì
ta quyết đoán rằng có Chí-Tôn giúp ta thành tựu.
Phương ngôn Pháp có câu “Aide-toi le ciel
t' aidera” và Tiên-Nho chúng ta nói “Tận nhơn
lực trí thiêng mạng” điều nầy hiển-nhiên
chơn thật lạ lùng chúng ta ráng cố gắng hết
sức mình thì Chí-Tôn mới ban cho cái huyền-linh
của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng
được, mấy em nhận biết điều ấy, chúng ta
do Chí-Tôn kêu gọi đặng gầy-dụng, ta phải
cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa.
Mấy em nhớ, Đạo của mấy em chúng Qua đã tao
dựng cho mấy em đặng ngày kia mấy em tiếp theo
Chơn-truyền Luật-Pháp thay thế cho mấy qua đặng
truyền- nghiệp cho hậu tấn.
Pháp nói “Chaque soldat un bâøton de maréchal
dans son sacoche” nghĩa là: mỗi tên lính điều
có cây giãn của Ông Thống-Chế trong bị của
họ, Qua nói rằng : mỗi vị Tín-đồ đều có
cái mão của Giáo-Tông và Hộ-Pháp đội trước
trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy
em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết
rồi là diệt tiêu nền Đạo.
Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn,
khi thấy xuất hiện trong mấy em, khi Qua đã già
vô tịnh-thất ãn-dưỡng tinh-thần, mà mấy đặng
mấy em ở dưới bước lên ngồi địa-vị cao-trọng
của Đạo, nếu Qua được hưởng Hạnh-phúc thấy
như vậy thì vui sướng của Qua vô cùng tận.
Tại
Trí Giác-Cung Ngày 17 tháng 7 Mậu-Tý (1948)
CHA MẸ PHẢI NÊU GƯƠNG TỐT CHO CON NOI THEO
Sắp nhỏ là tương-lai đất-nước chúng
nó tốt xấu nên hư đều do nơi mấy bà mẹ đào-tạo.
Bài giảng hồi hôm qua đã Bần-Đạo nói rõ ràng
: đảm-nhiệm sự giáo hóa tương-lai tinh-thần
tâm lý là phần mấy em, lớn nhỏ cũng vậy, còn
sắp con gái phải chăm nom giữ nề-nếp. Qua muốn
đứa nào cũng có đôi bạn chồng vợ tử tế
rồi sanh con cái, phải biết dạy dỗ đặng tạo
đời; nên hay hư tương-lai của nòi giống chủng-tộc
là “ do mấy bà mẹ”.
Trẻ con sơ sanh bắt chước cha mẹ nhiều
hơn hết, gia-đình nào mà không tôn trọng nhau
gây gổ bất-hòa khi-rẻ nhau là gương xấu cho
con đó, ở đây chúng ta chịu khổ thì thái-bình
thầy-trò còn chung sống cùng nhau hợp quần với
nhau, sự khổ nào cũng chia xẻ ra thành bớt đi,
còn ngoài đời họ sống hiu-quạnh cô-độc họ
còn khổ nhiều nữa, xem như giống vật đừng
nói chi hơn cái bọn kiến nhọt kết-bè lại,
con vật khác vô đó còn phải chạy thay, huống
hồ chi giống người, nếu biết kết bè lại
mà sống , anh ngã em đỡ, em té anh nâng, thân
cô-độc giữa đời kia nó còn thê thảm lắm
lắm.
Mấy em than nghèo, mấy em chưa ăn củ súng,
củ-nầng mới ăn khoai thôi, các em ở đây nhờ
quân-đội bảo-vệ sống yên-ổn rán đặng nuôi
nhau cần nhứt là khéo sắp đặt.
Mấy em ở đây yên phận đó là hạnh-phúc
nhiều rồi, còn nơi khác trải hai năm qua họ
sống sợ-sệt kinh khủng nhiều nữa.
Ngày
16 và 17 tháng 7 năm Mậu-Tý (1948)
LỄ KHÁNH-THÀNH ĐỀN-THỜ PHẬT-MẪU
TẠI
TRƯỜNG QUI-THIỆN
Đức
Hộ-Pháp vào Đền-Thờ làm lễ Phật-Mẫu Linh-Vị
Chư-Thánh Bach-Vân và Cửu-vị Nữ-Phật xong lên
lầu triều-bái Đức Chí-Tôn , xem lầu chuông
và lầu trống. Đức Ngài trở ra, cả đoàn rước
đến Hộ-Pháp Tỉnh-Đường nghỉ-ngơi, trước
mặt Bàn Cai-Quản Trường Qui-Thiện và Chư-Vị
cầm quyền Hội-Thánh Phước-Thiện.
Đức Ngaiø nói : Cơ-quan nầy thuộc về
Phước-Thiện, nhưng đào-tạo ra đây riêng- biệt
cho những người Phạm-Môn ngày trước. Bởi muốn
giữ trọn-vẹn đường tu trong lúc loạn-động
mà không căn-bản, cơ Thảo-Đường lập không
xong, nên khiến cho Trứ về đây đặng tiếp-tục
lập cho thành.
Nguyên gốc của nó tại Phú-Mỹ hồi lập
Trường Qui-Thiện tâm-thần của Đạo bị Anh
Đốc-Phủ Ca làm cho náo-động loạn thần không
biết được con đường phải đi, nhứt là tội-nghiệp
cho Nữ-phái cần độ-rỗi họ trở lại, cho nên
Trường Qui-Thiện, cốt-yếu qui-tựu cả Nữ-Phái
lại đặng gìn-giữ nguyên bổn chơn-truyền
của mình.
Ở nhà trong thời kỳ Nhật-Bổn, Trứ đã
có làm rối không tùng ai hết, kế nhà đương-quyền
Quan-Sứ Pháp viết giấy hỏi vậy Qui-Thiện có
phải của Đạo hay không, mà chứa-chấp Việt-Minh
và họ nhứt định đốt : sự thật cũng có chứa
họ, mà vụ nầy phát-giác là do nhơn-viên dọ-thám
biết rõ mà điềm-chỉ, chừng Bần-Đạo gởi
thơ trả lời Trường Qui-Thiện của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ Độ và dưới quyền chỉ- huy của
Bần-Đạo, họ mới buôn tha khỏi tàn-phá, tới
sau nữa, Bần-Đạo biểu Đại-Tá Phương chiết
ra một bộ-đội gìn-giữ.
Bần-Đạo nói nhờ Hội-Thánh nhờ Quân-Đôïi
là vậy, vì trước khi Bần-Đạo về, nhà binh
Pháp cũng có hỏi Hội-Thánh nhìn-nhận Trường
nầy là của đạo, nên mới còn đến ngày nay
vậy. Thánh-Thể Đức Chí-Tôn duy có một không
hai, nếu chia rẻ là tức nhiên Tả-Đạo Bàn-Môn,
mà Tả-Đạo do trước mắt xem thấy, biết bao
nhiêu họ chia-rẽ ra, hỏi ngày nay làm nên trò
gì đâu ? Họ chia-rẽ họ sẽ chết, không chết
cũng tiêu-hủy.
Hội-Thánh duy có một, dầu biến ra trăm
hình, ngàn trạng cũng huờn lại chỉ có một
chủ-quyền là Thánh-Thể Đức Chí-Tôn đó thôi,
hễ tâm-lý muốn tạo ra đây đặng phân chia sẽ
tiêu-diệt nghe không, ngọn lữa muốn hai lần
tiêu-hủy Trường-Qui-Thiện là do nguyên căn Trứ
muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh-thần của
Trứ đây, không phải Qua nói : Thánh Màng về
nói những điều em dự-định làm, những ý-nghĩ
em dự định-thực-hành.
Trứ, Qua hiểu em hơn hết, thầy Em hiểu
Em mà, không lẽ Phối-Thánh-Màng cáo-gian cho Em,
nó nói hết công chuyện với Qua, ở nhà Em đã
làm gì, và còn muốn làm gì nữa, tôi dặn một
lần nữa vì Đạo của Chí-Tôn có một, ai muốn
phân-chia lực-lượng của Ngài thì bị tiêu-diệt,
chẳng những tiêu-diệt mà thôi, mà còn phải
xuống Phong-đô đền tội nữa. Đạo biến ra
trăm hình ngàn tướng vẫn dưới một chủ-quyền
của Chí-Tôn .
Vậy Trường-Qui-Thiện đặt dưới quyền
Hội-Thánh Phước-Thiện, Trứ từ đây lãnh trách-nhậm
chức Đốc-trường, không còn gọi là Chủ trường,
Trường nầy Bàn-Cai-Quản làm đầu, Bàn-Cai-Quản
là chủ trường, tất cả tùng dưới quyền Hội-Thánh
Phước-Thiện chưa hề rời Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
vậy.
Thật ra quyền Hội-Thánh Phước-Thiện về
Hiệp-Thiên-Đài Pháp-Chánh gì- giữ chơn truyền,
Phước-Thiện lo giáo-hóa nhơn-sanh, còn Cửu-Trùng,
Đài có Hành-Chánh giữ tài-sản của Đạo. Vậy
Phước-Thiện, Trường-Qui-Thiện nầy duy để
lo giáo-hóa chúng-sanh làm ra của mà thôi, chẳng
đặng thâu của cái một ai hết, làm ra bấy nhiêu
dùng bấy nhiêu, kỳ dư có ai thật hảo-tâm hỷ-cúng
mới thâu vào sở của trường, rồi phải phúc
sự cho Hội-Thánh Phước-Thiện hay biết liền.
Từ đấy về sau sở-phí huê-lợi gì của trường
Qui-Thiện cũng phải chạy tờ phúc cho Hội-Thánh
biết rõ, sổ bộ của trường tuy riêng biệt,
nhưng phải do Hội-Thánh cầm.
Tôi lập lại cấm : đi tới xin thiên-hạ,
làm được thì làm, không thì thôi nghe chưa ?,
ngày kia Qua về nhà Tịnh rồi Qua cũng lập ra
cơ-quan Tịnh-thất cho Nam, Nữ mà lập rồi cũng
để dưới quyền Hội-Thánh . Mấy em thấy từ
thử Thầy mấy em làm nô-lệ cho Đạo, tạo ra
bao nhiêu của cải, mà vẫn cúi đầu trước Hội-Thánh
, bởi quyền Hội-Thánh là quyền thiêng liêng
của Chí-Tôn để tại mặt thế, nếu phân chia
thì bị tiêu diệt, mà còn bị Phong đô dòm ngó
nữa.
Lập lại lần nữa cả thảy phải nhớ
đa nghe !. Trứ lần nầy là lần chót. Qua nói
với em, Em không nghe thì chịu lấy trước mặt
Bàn-Cai-Quản, trước mặt Hội-Thánh Phước-Thiện
làm chứng. Từ đây kêu là Đốc-Học Trường
của mấy em đây, chúng ta làm đổ mồ-hôi nước
mắt mới tồn-tại đặng dây.
Em trung-thành với Qua, em thương Qua thế
nào Qua biết lắm, nhưng đầu óc em dị-hợm lắm.
Qua đây còn phục Hội-Thánh mà chống thì tiêu-hủy
đa. Trứ nói : Bạch Thầy khi Thầy về con có
làm tờ thú tội với Thầy rằng : con không tùng
Hội-Thánh Saigon vì lòng con nghi-ngờ đó thôi.
Tại sao em nghi-ngờ sự chơn-giả, Qua biết rằng
trong mười phần giả đó cũng có hai phần thiệt,
dầu trong đám đó đều là kẻ lạ hết mà có
một vị Giáo-Hữu hay là Giáo-Sư trong đó, Qua
không dám nói là giả nữa. Thảng như họ làm
không nên thì vị Giáo-Sư hay là Giáo-hữu đó
sẽ chịu tội trước tòa Tam-Giáo Bát-Quái-Đài.
Em nên nhớ đây không ai đầu-cáo em đâu,
Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng, Phước-Thiện cũng vậy,
người đầu-cáo em là Phối-Thánh Màng.
Chúng em biết tại sao lập cơ-quan ở Saigon
không ? Là vì Qua bị Pháp bắt, nên họ đòi Thầy
họ về, cái khối oán dẫy-đầy kêu gọi toàn-thể
đứng dậy đó, mà làm chứng rằng họ làm có
kết-quả đó vậy. Trứ bạch Thầy : Vì Thầy
ở bển có một mình, còn bên này làm sợ có
hại cho Thầy chăng ? Nên con không tán-thành.
Nếu vậy em không biết quyền của Chí-Tôn
ra thế nào sao ? Qua biết chúng bắt mà ngồi đây
cho nó bắt, nếu quả có sự gì hại đừng tu.
Bàn-Cai-Quản ra mời Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
vào đây : “Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài vào ! Thưa
cùng chư -vị chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, Trường-Qui-Thiện
của Hiệp-Thiên-Đài trình cho Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài
được biết về chánh-qui của Đạo, cơ-quan nầy
không phải tư riêng phải tùng y luật-lệ của
Hội-Thánh Cửu-Trùng, Hiệp-Thiên. Thảng ngày
kia nó đi ngoài chơn-truyền Pháp-Chánh thì hai
đài có quyền giải-tán.
Ngày nay tôi trình nó ra mặt công-khai của
Đạo thuộc Hiệp-Thiên-Đài Chưởng Quản, thảng
ngày kia có phạm pháp-luật hoặc chẳng noi theo
chơn-truyền của Đại-Đạo tự lập tôn-chỉ
khác, chúng ta có quyền giải tán.
Đức Hộ-Pháp dứt lời thì nhạc trổi
và Đồng-nhi ca-mừng ơn Đức Ngài, trong lúc ấy
Bàn-Cai-Quản và Đạo-sở vào lạy mừng. Ngài
nói: các em biết các em lạy Qua, Qua nguyện làm
sao không ? Qua nguyện với Đức Chí-Tôn rằng
: các em con, chúng lạy đó là lạy Thầy chớ
không phải lạy con, Thầy ban ơn cho chúng nó.
Tại
Cửu-Long-Đài Hồi 4 giờ Ngày rằm tháng 8 Mậu-Tý
(1948)
LỄ HỘI-YẾN DIÊU-TRÌ
Cũng
như mọi năm, chúng ta làm lễ Đức Phật-Mẫu
Diêu-Trì tưởng khi cả thảy trong Đạo ngó thấy
Bần-Đạo mặc Tiểu-Phục đứng trước Cửu-Long
Đài đều thấy làm lạ.
Thưa cùng cả-thảy các bạn đồng-sanh,
trước mặt PhậtMẫu, Bần-Đạo thường nói
: Người chỉ biết con-cái của người mà thôi,
không phân đẳng-cấp chẳng luận sang bên.
Thưa cùng các bạn nam nữ, chúng ta ở giữa
trường đời này, chịu thống khổ tâm-hồn mọi
nỗi, nhà Phật gọi cảnh trần nầy là khổ hải.
Chúng ta ngó thấy hiện-tượng trước mắt nhiều
lẽ bất công, kiếp sống chúng ta sanh ra trong
xã-hội nhơn quần nầy, ta thấy cái tương quan
nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ-não, buồn
thảm hơn là ngày vui của hanh-phúc. Bần-Đạo
cũng như thấy các bạn thấy lẽ bất công, tinh-thần
ta chịu thống-khổ nhau như nào phân biệt sang
bên đẳng-cấp. Chúng ta đã thấy trường đời
tranh-đấu nhau, sang kiếp hèn, giàu hiếp nghèo,
mạnh hiếp yếu, trí hiếp ngu, đã quên hết tình
bạn đồng-sanh, tức nhiên chúng ta đứng giữa
trần-hoàn nầy đồng chịu thảm-khổ như nhau,
ta thường hỏi : Chúng ta có phương gì tìm mưu-chước
đặng an-ủi tâm-hồn ta chăng ? Dầu cho mảnh
hình-thể cũng thế, mà tâm-hồn cũng thế, chúng
ta quá chịu thống-khổ rồi. Ta tìm phương an-ủi
tâm-hồn, ta không thể tìm được nơi bạn đồng-sanh,
chúng ta phải tìm một nơi an-ủi Thiêng-Liêng
cho tâm-hồn chúng ta chăng ? Chỉ khác hơn là chúng
ta về trong lòng của bà mẹ sinh sản thi-hài và
chơn-thần chúng ta.
Các bạn có biết Phật-Mẫu là ai ? Ngài
dùng bảy guơn khi tạo chơn-thần ta, tức nhiên
tạo phách ta. Nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ
thật khí-phách ấy làm chơn-thần, tức là nhị
xác-thân chúng ta, khi chúng ta bỏ xác trần, xác
Thiêng-Liêng ấy vẫn còn tồn-tại. Hình-hài thay-đổi
đặng, văn-hóa của ta mỗi kiếp mỗi tăng thêm,
Nhà Phật có nói : nó có thể tấn tới hoặc
trở lại hay đứng chừng mà thôi. Mỗi linh-hồn
đều mơ-ước tấn-tới mãi, tới đạt địa-vị
Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu ngày nào ta tận
thiện, tận mỹ và linh-hồn ta có thể đạt vị
đặng thì Phật-Mẫu đủ quyền-năng binh-vực
con-cái của Người nơi cỏi Hư-Linh vậy.
Aáy vậy chúng ta có thể gởi tâm-hồn dầu
mặt thế, khi chúng ta quá-vãng trở về nơi ấy,
chúng ta chỉ sống đặng làm phận-sự làm người,
mà làm người chẳng phải dễ nữa. Nhưng chúng
ta biết quyền-năng vô-hình định hồn cao cả,
có thể cầm mực-thước công bình không hề sai
chạy được là Đại-Từ-Phụ.
Bây giờ chúng ta thống-khổ tâm-hồn, ta
tìm nơi đâu an-ủi ? Không có nơi nào khác hơn
là chúng ta về cùng bà Mẹ Thiêng-Liêng chúng
ta.
Thưa cùng các bạn đồng-sanh, sang hèn, giàu
có thế nào cũng mặc. Người chỉ biết con-cái
của Người mà thôi. Dầu cho vạn-vật, hễ đồng-sanh
với một bà Mẹ Thiêng-Liêng vẫn được coi đồng
một mực. Bởi vì tình thương của bà Mẹ chẳng
có thế gì phân-biệt thương ghét, trọng khinh.
Aáy vậy Đức Phật-Mẫu là một Đấng đem công
bình tâm-lý an-ủi con cái của Người. Người
nói : những điều bất công trước mắt con, vẫn
là kiếp sanh ngắn-ngủi mà thôi. Mà chỉ trước
mắt mẹ mới đủ quyền đem sự công chánh vì
lòng Mẹ thương yêu mà thôi.
Aáy vậy, một Đấng gieo mảnh tâm-lý nhơn-sanh
lấy luật thương-yêu làm căn-bản. Nếu thảng
có bạn đồng-sanh biết thương-yêu con-cái của
Người vậy, thì những điều bất công trước
mắt chúng ta, và chúng ta biết lòng thương-yêu
vô-tận đối với các chủng-tộc, các sanh-mạng
của con-cái Người âý là chúng ta trọn Đạo.
Sức hợp tinh-thần tự an-ủi lấy để được
an-vui, chịu cho đoạt khổ, rồi chúng ta chia khổ
với nhơn-loại, cầm quyền thế tài tình để
rải truyền thêm ra nữa, cho cả thảy chủng-tộc
biết thương-yêu nhau như một nòi-giống. Đem
tình thương-yêu ấy gieo truyền khắp dân-tộc
trên mặt địa-cầu nầy, tôi tưởng sự bất
công chúng ta ngó thấy giữa xã-hội nhơn-quần
nầy tự nhiên sẽ tiêu-diệt, ấy là tinh thần
diệt trừ hung-ác bạo-tàn của đời đó vậy.
Tại
Đền-Thánh Đêm rằm tháng 8 năm Mậu-Tý (1948)
LỄ
TRUNG-THU
Kỳ nầy chúng ta đình-bộ trên đường
dục-tấn của chúng ta, là con đường Thiêng-Liêng
hằng sống tại Cửu-Thiên Khai-Hóa, Kỳ tới Bần-Đạo
giảng tiếp.
Nhơn dịp ngày nay nhằm lễ Trung-Thu tức
là lễ Hội-Yến-Diêu-Trì-Cung là một cuộc lễ
trọng-yếu trong nền Tôn-giáo của Đức Chí-Tôn,
Bần-Đạo lấy triết-lý vì cớ nào ngày nay Đức
Phật-Mẫu đến cùng chúng ta. Trong triết-lý ấy
do nguyên-nhân của nó là phép an-ninh trật-tự
đối với cơ Tạo-đoan Càn-Khôn Vũ-trụ.
Phải chăng chúng ta thường muốn định
Khảo-cứu một triết-lý chí thật cao-siêu, chúng
ta có một phương-pháp hay ho hơn hết là chúng
ta tìm từ cái nhỏ thấu-đáo đến cái lớn.
Trong phép an-ninh trật-tự đối với Tạo-đoan
Càn-Khôn Vũ-trụ không ngoài khuôn-khổ gia-đình,
chúng ta quan-sát hình-tướng phép an-ninh trật-tự
đối với cơ Tạo-đoan trong gia-đình thế nào
thì cơ Tạo-đoan Càn-Khôn Vũ-trụ cũng trong khuôn-khổ
ấy mà thôi.
Chúng ta ngày nay thấy gì ? Chúng ta ngó thấy
cha mẹ chúng ta trước hết sanh ta ra, chẳng phải
một mình chúng ta, thấy xung-quanh hoặc anh em đồng
sanh hay là anh em trong thân-tộc của chúng ta. Trong
buổi sơ-sanh, chúng ta còn niên-thiếu, còn ngu-khờ,
chúng ta chưa biết an-ninh trật-tự. Chúng ta quan-sát
dầu anh em một nhà, đứa út còn bú chưa biết
tôn-sùng anh cả thế nào, nó chỉ biết mầy tao,
mi tớ với nhau mà thôi. Kỳ dư chúng ta biết
chút đỉnh khôn-ngoan, chúng ta biết lễ-phép.
Cha mẹ mời khởi sự dạy: mầy là anh thứ mấy,
mầy là chị thứ mấy, mầy thứ mấy trong gia-đình.
Sắp-đặt có trật-tự, thượng-hạ phân-minh.
Nói cho cùng nữa nếu an-ninh trật-tự không có
trong gia-đình thượng-hạ bất phân, tôi tưởng
trong gia-pháp loạn hàng thất thứ thì không thể
nào bảo trọng nhau được. Nhờ khuôn-viên của
Tông-Đường để lại phải có trật-tự an-ninh
ấy sản-xuất khi chúng ta đã đạt khôn-ngoan,
bằng chẳng vậy thì một gia-đình vĩ-đại hay
một Quốc-gia nào không định-quyết an-ninh thì
có tạo nghiệp bao nhiêu cũng nghiêng-đỗ mà thôi.
Vì cớ chúng ta ngó thấy nhơn-loại đạt
đến địa-vị nầy là tinh-thần đã đi đến
một địa-điểm quá cao rồi, họ thường tưởng
có trật-tự an-ninh, nhưng đương nhiên bây giờ
toàn-thể các sắc dân trong hoàn cầu không còn
quyền-năng nào nắm giữ tư-tưởng họ được
nữa. Họ tưởng họ chắc làm vậy được không
? Họ chẳng qua khuôn-viên Luật-pháp bao giờ.
Dầu cho họ có muốn nghiêng-đổ thế nào thì
các Quốc-gia có quyền vi-chủ định đoạt chẳng
hề khi nào hủy-diệt nó đặng. Họ đem các lý-thuyết
tra vào là đả-đảo giai cấp đủ thứ hết,
tranh nhau đồng sống. Bao nhiêu tấn-tuồng ấy
vẫn chưa ra khỏi khuôn luật an-ninh trật-tự.
Hỏi cả một nước cường-liệt đứng
ra đề-xướng tiêu-hủy giai-cấp, nước ấy có
an-ninh trật-tự chăng ? không mà, không có an-ninh
trật-tự thì tức nhiên không có Chánh-quyền
nắm trong tay nghĩa là không có nền Chánh-trị.
Chúng ta thấy họ không thế gì đánh đổ
được, bởi họ đánh đổ Chánh-Phủ bao nhiêu
thì trong nước lại càng loạn-lạc và tiêu-diệt
với nhau mà thôi. Chúng ta ngó thấy cái nhỏ,
chúng ta tưởng tượng cái lớn là Càn-Khôn Vũ-trụ.
Về mặt tinh-thần cũng vậy, khuôn-luật an-ninh
trật-tự vẫn phải được tôn-trọng. Nếu khuôn-luật
ấy bị đả-đảo, tiêu-hủy thì địa-cầu nầy
đụng với địa-cầu kia, mặt trời nầy đụng
với mặt trời kia, thì cả Càn-Khôn Vũ-trụ nầy
hư -hoại hết.
Hình-thể trên mặt thế-gian, nếu không
có trật-tự an-ninh, nếu có loài khỉ nào tương-đương
với loài người thì dám chắc loài người chưa
thắng được. Đối với một sắc dân nào còn
lạc hậu thì không khi nào định quyền-năng được,
để tự trong tâm-lý họ biến ra mà thôi, họ
phấn đấu tương-tàn tiêu-diệt với nhau mà chớ.
Đó là về hình-thể.
Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn đến, trước hết
Ngài mở ra cơ bút dạy bằng Thánh-Giáo, khi Ngài
chưa đến thì đã có Phật-Mẫu đến với chúng
ta lập thành khuôn-khổ một mực, dầu cho cơ-quan
nào “ dĩ tiểu vi đại “ cũng vậy. Bà mẹ
phàm chúng ta sản-xuất nuôi dưỡng ta thế nào
thì Phật-Mẫu cũng thế ấy, Bà mẹ chẳng bao
giờ muốn đưa con kia xưng mình có quyền định
cho mẹ và người mẹ cũng không muốn một ông
cha nào mà buộc con mình phải chiều lòn theo như
ý ổng buộc phải có. Nhiều khi chúng ta thấy
một đứa con trong gia-đình kia, nếu người anh
cả vinh-quang phú-quí, quyền tước cao-sang về
tới nhà lại hiếp đáp đàn em buộc phải tôn-sùng,
thì bà mẹ chẳng hề vui lòng bao giờ. Bà cũng
chỉ biết đó là một đứa con của bà mà thôi,
ngoài ra bà không biết gì khác hơn nữa.
Buộc trong gia-đình có đẳng-cấp, có lớn,
có nhỏ, mà thôi, chớ bà chẳng hề khi nào chịu
cho ai áp-bức con cái.
Trong cửa Đạo Cao-Đài có hai đền thờ
: một đền thờ, ta ngó thấy trật-tự hàng-ngũ,
bởi từ nguyên-căn tâm-hồn của chơn-linh chúng
ta đều có trong hàng Phẩm Cửu-Thiên Khai-Hóa
cả. Quí phái như thế ! Còn một đền thờ nữa,
thờ Phật-Mẫu tức là mẹ của chúng ta, thì
cái quí-phái của chúng ta không con giá-trị gì
nữa. Đến Phật-Mẫu không muốn cả Chức-Sắc
Thiên-Phong đi đến đền thờ của Người và
Người nhứt định không chịu điều ấy, vậy
phẩm-tước và giai-cấp đối với Phật-Mẫu
không có giá-trị, vì Phật-Mẫu không muốn đứa
nào áp-bức đứa nào cả, hành tàn như vậy bị
tiêu diệt.
Đó khuôn-khổ bình-đẳng cuả một cộng-sản,
thiên-hạ muốn bắt chước cộng-sản mà cộng-sản
nào được như nơi cửa Đạo Cao-Đài. Trong cửa
Đạo Cao-Đài khác hơn là các cơ-quan tương-đương
với nhau mà ta thấy, dù ai muốn tìm con đường
đi nào, trong cửa Đạo Cao-Đài nầy đều có,
chúng ta duy biết uyển chọn quyết-định con đường
phải đi mãi thôi.
Con đường sanh sống của chúng ta không
bờ bến, không gì ngăn-cản về tinh-thần hoặc
tự-do của nó được. Trên cửa Thiêng-Liêng Càn-Khôn
thế-giới thế nào thì con đường tinh-thần của
con Người cũng thế ấy, không thế nào đi cho
cùng tận.
Tại
Đền-Thánh Đêm Mồng 9 tháng 7 năm Mậu-Tý (1948)
ĐỨC
HỘ-PHÁP ĐI SÀI-GÒN VỀ NỀN ĐỘC-LẬP VIỆT-NAM
Bần-Đạo
để lời cảm ơn toàn thể con cái của Đức
Chí-Tôn.
Trong mấy ngày Bần-Đạo ra đi, toàn thể
ở nhà đã để tâm cầu-nguyện cùng Đức Đại-Từ-Phụ
cho Bần-Đạo đi kỳ nầy đặng kết-quả, mà
kỳ nầy có điều trọng-yếu hơn hết là ta đã
đạt vọng đặng, vị Đại-diện nước Pháp
là Quan Thượng-Sứ Bollaert đứng giữa công chúng
tuyên-bố rằng : Nước Việt-Nam độc-lập.
Ngày giờ nầy Chánh-Phủ Việt-Nam đang hiệp
trí lo thương-thuyết đặng thiệt-hiện vấn-đề
độc-lập của nước Việt-Nam. Chúng ta hãy suy-nghĩ
và xét lại coi hai mươi mấy năm trước, Chí-Tôn
đến truyền giáo mở nền Chơn-Đạo của Ngài
có nghĩa-lý gì ? Ngày nay đạt vọng này có nghĩa-lý
gì ? Mà cả nòi-giống chúng ta phải chịu cảnh
tương-tàn tương sát lẫn nhau mới đạt vọng
đặng ? Đã theo chơn Chí-Tôn 23 năm có lẽ chúng
ta tinh-thần sáng-suốt, minh-mẫn hơn thiên-hạ
tìm-hiểu đặng chớ ? có thể họ đã đưa
trọn nền độc-lập nơi tay nòi-giống chúng ta,
mà chúng ta phải để mắt coi cả nòi-giống chúng
ta còn nồi da xáo thịt còn đổ máu nữa không
? Thảng như còn duy-trì tấn-tuồng ấy nữa là
tại oan-gia nghiệt-chướng của nòi-giống Việt-Nam
nầy vậy.
Hại thay ! Cái nền độc-lập mà ngày nay
ta đạt vọng đó, nó lại kết-liễu thành-tựu
trong tay của Đạo mới là kỳ cho chớ ! Toàn
thể Quốc-Dân Việt-Nam và nước Pháp đã tự
hiểu rằng : sự kết-liễu thành-tựu được
chăng là chỉ do Đạo Cao-Đài mà thôi. Nghĩ có
một điều trong nhơn-loại cái cảnh tranh quyền,
tranh thế, các đảng-phái tương-tàn tương-sát
lẫn nhau, làm cho nòi-giống đổ máu, nên họ
giao-quyền sở-hữu lại cho mình để thí-nghiệm
coi mình có đủ tài năng, lực-lượng cương-quyết
cầm độc-lập hiện tại được chăng cho biết.
Cả con cái Chí-Tôn nên lấy tương-lai nầy
làm một vấn-đề trọng yếu đặng học, nếu
con cái Chí-Tôn ai đạt đặng huệ tánh chút đỉnh,
định tâm kiếm hiểu thấu lý coi tại sao có
tương-tàn, tương-sát đổ máu rồi mới đạt
vọng được như vậy. Có chi lạ, Bần-Đạo xin
giải-rõ cho biết : Đạo mở từ năm 1926. Hồi
đó cộng-sản có nghĩa-lý gì trong nước. Đức
Chí-Tôn cầm cơ đi khắp hết kêu gọi cả Quốc-Dân
Việt-Nam đi trong quyền-lực của Ngài ; Nâng-đỡ
bảo-trọng lấy quyền-năng tinh-thần của chủng-tộc
làm ngon Huệ-Kiếm đặng giải-ách nô-lệ cho
Quốc-Dân Việt-Nam. Mà Quốc-dân Việt-Nam đã
trả lời với Ngài thế nào ? Họ đối đãi rất
lãnh-đạm chớ chi nòi-giống Việt-Nam biết nghe
lời của Ngài thì không có tai-nạn ngày nay.
Hại thay ! Chủ-hướng của nòi-giống Việt-Nam
trở lại xu-hướng theo tinh-thần tàn-ác hơn là
theo tinh-thần Đạo-đức, bảo sao không nảy-sanh
cảnh tương tàn đổ-máu được.
Một đàng cộng-sản, một đàng Cao-Đài
cũng trong một nước. Đáng lẽ nền độc-lập
của nước Việt-Nam chúng ta đã đòi được hồi
buổi đó rồi, mà phải ngưng hoãn đến ngày
giờ nầy. Nòi-giống đã bị trị, oan-gia nghiệt-chướng
làm mê-mẫn tinh-thần thành ra ngu-dốt tàn-sát
nhau, đổ máu vì nhau mà không tự biết ! Bần-Đạo
nói thiệt, Đại-Từ-Phụ hồng-oai mà cũng hồng-từ,
Ngài mở kỳ ân xá thứ ba nầy giao quyền Giáo
Chủ cho Bần-Đạo phổ-độ chúng sanh mà nếu
chúng sanh còn tàn-hại nhau nữa thì Bần-Đạo
sẽ nói đáng kiếp ! Rồi bỏ mà thôi, nhưng giờ
buổi nầy chúng ta đã tỉnh mộng, đâu còn mê-muội
nữa, mắt coi cả tài tình đảm-nhiệm lịch-sử
4.000 năm mỹ-mãn, ngày hôm nay có thành-tựu được
không cho biết. Người ta bảo mình làm sao được
thì làm đừng đổ thừa tại người ta cầm giữ.
Nếu làm không thành-tựu thì hay hơn phải tự-vận
cả nòi-giống cho chết hết.
Tại
Đền-Thánh Đêm 17 tháng 8 năm Mậu-Tý (DL 20-09-1948)
NHƠN-TÌNH
THẾ-SỰ ĐỐI VỚI NHƠN-TÌNH
ĐẠO-ĐỨC
Hôm
nay chúng ta đình dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng
hằng sống, ngày mai Bần-Đạo sẽ giảng tiếp.
Đêm nay Bần-Đạo giảng về vấn-đề trọng-yếu
nhất, cả toàn mấy em, mấy con Nam, Nữ hậu tấn
của chúng Qua, mấy em biết định-phận mấy em
thế nào tạo tâm-đức đặng ngày kia cầm giềng
mối cho Đạo.
Bần-Đạo đem nhơn-tình thế-sự để đối
với nhơn-tình đạo-đức, hai điều mấy em sẽ
thấy Qua để đó, trải qua trước mắt lấy trí
thông minh của mấy em mà xét-đoán nên hư đặng
định-quyết phận mình. Vả chăng chúng ta ngó
thấy nhơn-tình thế-thái của con đường đời
đã trải qua, dầu đặng lịch-lãm nhơn-tình,
chúng ta ngó thấy nhơn-tình thế nào ? Nhiều khi
nhơn-tình lãnh-đạm, mà dục tấn tinh-thần chúng
ta thêm lên, là cốt yếu về tâm-tấn đó vậy.
Nhiều khi tinh-thần chúng ta ngó thấy không trọng-hệ
gì lắm, bất quá trong gia-đình không sao, tình
bè-bạn cũng thế, tình hương-lân trong xã-hội
cũng thế,hễ phải thì đối phải, còn quấy
thì đối quấy. Thường tình như thế mà kẻ
vĩ-nhân nào có tinh-thần hoạt-bát tự chủ mình
đặng, nhơn-tình dù lãnh-đạm hay bạc-bẽo cứ
giữ mực-thước đặng đối-phó cùng đời. Tinh-thần
ấy mới ra người quân-tử mới khác với thế-thường.
Vì thế thường, phải trả phải, quấy trả quấy.
Có một điều ngộ nghĩnh hơn hết dầu chi chi
cũng có phương-pháp bình-tâm cho họ, mỗi khi
thi-thố hành-tàng chi vô đạo-đức, vô nhơn-nghĩa
thì họ tự tỉnh, tự thẹn lấy họ. Chúng ta
ngó thấy rằng : những kẻ tiểu nhơn dù tìm
phương tạo vinh-hiển thế nào, sự tiểu-nhơn
của kẻ ấy không thể gì chối cải đặng.
Hại thay ! tinh-thần của nhơn-tình thế-thái,
không ai tìm-tòi, không ai bươi-móc đem chơn lý
cho chúng ta ngó thấy, chẳng hề khi nào phương-pháp
tiểu-nhân dầu dấu thiên-hạ một ngày không
thấy, hai ngày không thấy, dầu dấu thế-gian
thế nào cũng lòi ra, không phương dấu đặng,
che đặng. Vì thế xã-hội Quốc-Dân nào cũng
thế, họ được bền vững đứng trong xã-hội,
cùng nhau mưu-chước quỷ-quyệt thế nào cũng
chẳng làm quá lòng của người, hễ làm quá lòng
người thì có phản-động lực, nhờ vậy mà
nhơn-quần xã-hội mới tồn-tại được. Nhơn-tình
thế-thái có điều mầu-nhiệm như thế, bao giờ
chúng ta cũng sợ miệng lưỡi của người, phải
giữ tánh-đức theo thế thường nhơn-tình đạo-đức.
Bây giờ đến nhơn-tình đạo-đức. Chúng
ta đừng tranh theo mặt đời. Buổi trước, khi
Đạo Cao-Đài chưa khai mở chúng ta thấy cả tính-đức
nhơn-tình buổi đó thế nào ? Bần-Đạo không
phải đứng trên tòa-giảng nầy để công-kích
, không lẽ mấy em không thấy, mấy em thấy phần
nhiều hạng niên thiếu họ vô chùa miểu, đốt
giấy vàng-bạc đặng họ mua chuộc tài-lợi,
họ đến lo-lót như lo-lót một Ông Quan đời
kia vậy. Các Đấng đâu có dùng mà họ tìm phương
hối-lộ. Nếu thảng có tính-chất nhơn-tình đạo-đức,
bất quá họ chung hiệp nào là tổ-chức Tôn-giáo,
nào là định lập-trường đặng nương theo bóng
Tôn-giáo. Nhơn-tình buổi trước như vậy.
Bây giờ Bần-Đạo luận từ ngày Đức
Chí-Tôn đến mở Đạo Cao-Đài, ngày nay Bần-Đạo
nhờ nương theo bóng từ bi của Ngài đi theo bén
gót Ngài từ 23 năm nay. Bần-Đạo chung chia đau-thảm
cùng con cái của Ngài, thảm khổ cũng có, mà
vui hứng cũng có, buồn vui lẫn-lộn với nhau,
nhứt là đàn anh của cgúng ta buổi nọ, niên
cao kỷ-trưởng, khi nghe tiếng gọi của Thiêng-Liêng
của Đức Chí-Tôn, họ quyết đem mảnh thân phàm
của họ dâng-hiến làm tế vật của Ngài, dầu
làm tay chơn cho Ngài, vì cớ mà bản hòa-ước
của họ đối với cả nhơn-hồn nguyên-nhân là
họ lãnh sứ-mạng thiêng-liêng vậy. Bần-Đạo
chẳng cần đứng trên tòa-giảng khai công-nghiệp
các bậc tiền-bối của chúng ta, họ không cần,
và e nói ra mấy em buồn nhiều, toàn-thể Đạo
cũng vậy. Trong trường thảm-khổ, cũng có kẻ
trọn hiếu cùng Đức Chí-Tôn, trọn trung cùng
Hội-Thánh. Nhờ vậy mà Ngài tạo Thánh-Thể của
Ngài. Tội-nghiệp thay trong một trường đồng
hèn thân danh, đồng hèn xác thịt, mỗi mỗi đều
thất thế bởi nòi-giống còn nô-lệ, nước nhà
chưa biết tự-do, tự chủ là gì, làm cho họ
hổ-thẹn. Đó là tâm-đức buổi ban sơ vì đạo
vì đời, thì mảnh thân tạo nên đại-nghiệp
đầu tiên cho nước Việt-Nam, tạo cho nòi-giống
Việt-Nam trước hết, nhưng bởi họ rủi sanh
ra thi-hài người Việt-Nam, máu-mủ Việt-Nam. Còn
có hạng nữa, tưởng mình có phương vi chủ đặng,
cũng làm cũng tạo vậy, nhưng tinh-thần còn chật-hẹp,
không nương quyền-năng vô-tận, tự mình lấy
quyền năng sở-hữu của mình mà làm. Bần-Đạo
thấy cần thuyết minh điều đó. Họ tự tạo
phương-pháp như một cái kho để bảo trọng gia-đình
họ, họ tạo quyền-năng cho họ mà thôi. Buổi
nọ trong trường hợp nào cũng có người chia
rẻ, tham-sân đủ lẽ, tranh phương đủ điều
đến lúc đó Bần-Đạo thấy hết. Không ai lỗi,
không ai phải, không ai nên, không ai hư mà qua
khỏi mắt Bần-Đạo được. Đời sống của
họ còn hiện tượng nơi cỏi Thiêng-Liêng hằng
sống của Đức Chí-Tôn, dầu họ rủi phận không
đặng về ngồi vào lòng Đức Chí-Tôn, thì họ
cũng lưu lại cho gia tộc con cái của họ. Cái
đại-nghiệp đó họ tạo đám con cái ấy, Bần-Đạo
chứng-chắc nó ngâm được giọt sữa của tổ-tiên
nó. Biết đâu đại-nghiệp hậu hữu sau nầy
của Đạo không phải tự tay mấy đứa trẻ còn
tồn-tại đây thọ hưởng. Họ biết không phải
làm cho họ hưởng. Bần-Đạo nói họ để lại
đại-nghiệp cho Đạo, cho Hội-Thánh nuôi hết
con cháu họ, họ ham quyền, ham lợi rốt cuộc
cũng nuôi mấy em nhỏ khôn lớn mà thôi. Thật
sự mấy em nhỏ nếu nuôi bằng phương pháp tiểu-nhơn
chúng nó sẽ gớm-ghiết đều nó không nói ra.
Chớ những người trung hiếu cùng Đức Chí-Tôn
sẽ được chúng nó tôn-nghinh trong vinh-hiển lắm.
Chúng nó ôm được cái gia-tài của Ông
Cha nó để lại đod, ngày kia nó sẽ ngồi trên
thiên-hạ, nó sẽ vi-chủ loài người. Trong hai
lẽ đó, cả thảy suy-gẫm muốn lựa chọn lẽ
nào thì lựa.
Tại
Đền-Thánh Về việc đi SaiGon, ngày 27-08 Mậu-Tý
(1948)
VIỆT-NAM
ĐỘC-LẬP TRONG LIÊN-HIỆP-PHÁP
Chánh-Phủ
mời Bần-Đạo ngày mai xuống kinh-thành Saigon
nữa.
Khi nay Bần-Đạo có nghe Thượng-Sứ Pháp
tuyên-bố trên máy truyền-thanh giữa quần-chúng
đông-đảo, Ngài đọc diễn-văn nói : “ Nền
độc-lập Việt-Nam trong Liên-Hiệp Pháp được
tuyên-bố cho toàn-thể Quốc-Dân Việt-Nam, do nơi
tay Ngài giao trả lại cho nước ta, đã trả rồi
không ai lấy lại nữa “. Nước Việt-Nam từ
đây được trọn quyền độc-lập. Ngài tuyên-bố
quả quyết như vậy. Cả Chánh-quyền nội bộ
của Ngài sẽ giao cho Việt-Nam. Theo lời tiên-tri
của Đức Lý có câu : “ Khải ca định-vận
tại thu phân”. Quả vậy. Nên hay chăng do sức
mình mơ-ước thể nào tạo cho nòi-giống, với
tinh-thần, nghị-lực, đặng cầm vận-mạng toàn
cả nước vậy.
Toàn Đạo ở nhà cũng nên cầu-nguyện xin
Đức Từ-Phụ điều ấy.
Tại
Đền-Thánh Đêm Mồng 3 tháng 9 năm Mậu-Tý (1948)
ĐỨC
HỘ-PHÁP THUYẾT MINH SAU KHI HỘI ĐÀM VỚI THƯỢNG-SỨ
PHÁP
Có
lẽ trong kỳ Bần-Đạo đến Sàigòn, ở nhà
cả thảy đợi tin và trông Bần-Đạo về, đặng
nghe về tương-lai của nước nhà.
Bần-Đạo để lời cảm ơn toàn Đạo đã
kết tâm cầu nguyện với Đại Từ-Phụ. Nam,
Nữ lưỡng phái hết mấy em, mấy con cũng vậy.
Cốt yếu Bần-Đạo đến Sài-thành kỳ
nầy là do Quan Thượng-Sứ mới Bần-Đạo, vì
Ngài sắp về Pháp, Ngài từ vị của Ngài không
còn làm Thượng-sứ nơi xứ nầy nữa. Thạnh-tình
của Ngài đối với Bần-Đạo có chỗ cao-kỳ
nên mới Bần-Đạo đến đó sở-định, chúng
ta nên biết có lạ chi, dầu cho một gia-đình
kia cũng lấy nhỏ mà luận lớn. Như một Ông
Trưởng-Tộc họ nầy nếu tự nhiên có liên-lạc
chi với họ khác, khi phải đối đầu quyền lợi
chung cho tông-môn hai họ, không phải một mình
ông quyết-định đặng. Bởi hai họ đương đầu
với nhau, tưởng chẳng cần tả lại, hai Ông
Trưởng-Tộc bị khảo-dượt, phải có đủ tài
sáng-suốt, đủ chơn-chánh minh-mẫn quyết-đoán
cho chơn-lý mới thỏa-hiệp đối họ đặng. Như
thế mới khỏi sự trắc-trở bên họ kia.
Bây giờ đây cũng vậy, ai cũng vì quyền-lợi
tranh đấu cho đặng phần lợi hơn. Chính Bần-Đạo
có thấy tấn-tuồng ấy, biết nó khó khăn lắm.
Có điều lạ chướng hơn hết là tới giờ phút
nầy mà Nhơn-sanh chưa chơn-thật, điều thiệt
họ không dám nói, lại đem ra nói dối, mê-hoặc
tinh-thần quốc-dân, làm cho cả thảy đều hoang-mang.
May thay ! chúng ta vô cửa tịnh của Đức
Chí-Tôn được ngồi trên Đài Trí-Giác, thâu
đặng mảy may huệ tánh của mình, ta thấy rõ
ràng một trường gạt gẫm giả dối, trước
mắt không có gì chơn thật. Bởi trường kháng
chiến, đòi độc-lập thống nhất, đòi cho lấy
được, tới chừng chúng trả không ai dám lãnh
cả, họ làm mờ-mịt, vì không đủ tài-đức
chơn thành để đảm-nhiệm trách vụ mình. Đòi
quyền sở-hữu độc-lập thống-nhứt người
ta hiểu có nhơn tài ra nắm Chánh-quyền đi. Đừng
nói chi tới địa-vị tối-cao, quyền-hành tối-trọng,
hàng Tham-biện, Chủ-tịch ngày nay chưa tìm được
người ngồi đủ cho mấy tỉnh là tại sao ? Tại
có bao nhiêu nhơn-tài xúm nhau giết hết cho Chánh-sách
độc-tài. Ngày nay tới lúc đảm-nhiệm vai-tuồng
trọng-hệ, cầm vận-mạng nước nhà mà không
có người dám nắm Chánh-quyền.
Chúng ta thấy chẳng khác nào một cuộc
cúng-tế, ông Chánh Bái mời các họ đến nhà
thờ rồi mạnh ai nấy ngó, ngó đông, ngó tây,
nấu cơm không biết, làm heo làm bò, bửa củi
xách nước không ai biết, chỉ ngồi gây lộn
với nhau. Tấn tuồng đó sẽ đến với chung ta,
như hiện nay muốn cứu vãn tình-thế mà trong
ngoài trông thuận, cả toàn thể không ai đủ
tài quyết đoán đặng. Tới phút yếu-trọng nầy,
cũng do đầu óc trong nhà mà ra, mà chỉ cùng nhau
gây lộn, đánh lộn thôi, hiển-nhiên như vậy.
Bần-Đạo xuống đó để nghe hai tiếng chuông
đế quan sát tấn-tuồng sự thật thế nào. Lại
nữa tâm-tu duy có nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn
cho Bần-Đạo làm được việc mà từ thử đến
giờ không ai làm. Họ nói mấy người lai Pháp
là thức-dân. Hỏi thử ai thực-dân ? Nói mấy
người Tây-Lai. Máu mủ họ phân nửa Pháp phân
nửa Việt thì cũng tội-nghiệp cho họ. Nếu lấy
công-chánh định quyết là tại mình gây oán.
Hạng thực dân có chăng là hồi trước, khi có
Pháp mới đến đây, lúc ban sơ đem binh chiếm
đoạt Việt-Nam, còn ngày nay đám thưc-dân đó
lại của Việt-Nam, cái rối là do đàn-bà Việt-Nam
sanh họ ra mà họ dòm thấy mẹ nghèo nàn cha thì
sang-trọng vinh hiển. Cũng như đứa con trong nhà
thấy cha có bánh nhiều hơn tức phải bỏ má.
Oâng cha họ có đủ tài-đức đủ quyền bảo-vệ
họ, họ bợ dỡ nương theo đặng sống. Làm mẹ
bất tài thì chúng phải nương sống theo cha, có
gì là lạ. Sống một cách vinh hiển mà chính
mình họ vẫn không biết thực-dân là gì ? Họ
phân trần với Bần-Đạo như vầy “ Tình-trạng
của chúng tôi như vầy mà lên án chúng tôi là
thực-dân chúng tôi không biết làm thế nào “
mà nói họ thưc-dân hỏi vậy mình chửi ai ? Tức
nhiên chửi nòi-giống mình, bởi họ là người
Việt-Nam, cứ ghét, cứ xô đuổi họ thì tài
nào thỏa-hiệp chủng-tộc được.
Thử hỏi lại, tại nơi mình cả. Chính
Bần-Đạo thấy tấn-tuồng ấy không phải là
số ít, vì đã bao nhiêu năm giao quyền công-dân
trong tay, lãnh đảm nhiệm mà họ không thi-thố.
Nếu họ không đi đến phận sự họ thì tội
họ chịu. Thật ra cả thảy đều không dám, họ
cảm-xúc đến nước nhà, khi Bần-Đạo đi ra
về họ than nói “ Từ thử tới giờ tôi muốn
nghe được lời an-ủi của mẹ chúng tôi” thế
mà từ bấy lâu quốc-dân gây oán, chác hờn làm
cho tan-rả khối thân-ái, thành ra khó đặng hòa
nhau. Nếu thảng tai-nạn nầy xẩy ra là do mọi
sự chia rẻ.
Muốn cứu-vãn tình thế thì phải tìm phương
bồi-bổ tình thân-ái rồi ngày kia mới giải-quyết
được tương-lai vận-mạng của chủng-tộc nước
nhà ta đó.
Tại
Đền-Thánh Đêm 14 tháng 9 năm Mậu-Tý (1948)
SỰ
ĐIỀU-HÒA CÀN-KHÔN VÕ-TRỤ
Bần-Đạo
ngày nay đình giảng cuộc dục tấn của chúng
ta trong đường thiêng-liêng hẳng sống, đặng
minh-thuyết một đề-mục trọng-yếu liên-quan
cả Đạo-Giáo của đời. Bần-Đạo thuyết con
đường điều-hòa của Càn-Khôn Võ-Trụ tức
nhiên là khôn-luật tạo-đoan cả Càn-Khôn Võ-Trụ
vạn-vật hữu-hình ta ngó thấy đây vậy.
Vả chăng hễ hòa mới hiệp, hiệp mới
có định, mà hễ có định mới có an. Bằng chẳng
vậy sẽ có phản động lực. Hễ không hòa tức
giục cho phản nghịch, hễ nghịch phải ly, mà
ly, tức nhiên động, hễ động tức nhiên phải
loạn. Dầu cho chúng ta quan- sát về Đạo-Lý-Học.
Triết-Lý-Học, Tâm-Lý-Học, Cách-Trí-Học, ta
thấy quả-quyết cả cơ-quan tạo-đoan hữu-hình
trước mắt ta, nếu không tùng khuôn-luật điều-hòa,
Bần-Đạo tưởng Càn-Khôn Võ-Trụ nầy đã tiêu-diệt.
Dầu cho về Đạo-Lý-Học, ta ngó thấy khởi đầu
nếu cái khối ngươn-linh của Đức Chí-Tôn không
hòa-hiệp với ngươn-âm của Phật-Mẫu, thì Thái-Cực
chưa ra tướng, hễ Thái-Cực chưa ra tướng tức
nhiên Càn-Khôn Võ-Trụ nầy không có gì hết.
Chúng ta ngó thấy hành-tàng tạo-đoan trước
mắt ta là sự điều-hòa trong thân- thể. Và Triết-Lý
Đạo-Giáo ta biết rằng : nếu ta không đoạt
đặng bảy khối sanh-quang Thiêng-Liêng kia đặng
tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh
ở đây, nói gần hơn nữa nếu nhứt điểm tinh-thần
của cha ta không hiệp với huyết bổn của mẹ
ta, thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khôn-luật
tạo-đoan như trong bài thuyết-pháp của Bần-Đạo
hôm nay.
Aáy vậy chúng ta nương nơi hòa khi đặng
hay chăng ? cả cơ bí mật của ta dầu cả hình-thể
tạo-đoan ta ngó thấy con vật trước mắt ta,
nếu không hòa thì không có sanh, không hòa chắc
có thể tạo-đoan không có nam, nữ, cốt yếu
sanh nam, nữ đặng hiệp-hòa nhau tức nhiên sanh-sản
loài người, ngoài ra nữa ta đã ngó thấy, nếu
như không có điển-lực điều-hòa do Thiêng-Liêng
định, tức nhiên Bần-Đạo dám chắc chưa có
thành Đạo. Bởi có ai thuận với ai đâu. Các
chủng tộc cũng nương theo khuông-luật hiệp-hòa
ấy mới tồn tại, mới hiệp-chủng được. Về
triết-lý học chúng ta ngó thấy nhiều phản-ảnh
nó không có thế gì in nhau được. Hễ hiểu đặng
quyền-năng của Đạo tỷ như : lữa và nước
hai món ấy không thế gì gần nhau được như
chúng ta thấy máy tàu, trước khi đã tìm ra năng-lực
của nước, hiểu được như hơi nước, nó sẽ
có cái quyền-lực xô-đẩy cả sức nặng 30.000
tấn ; quả nhiên trước mắt chúng ta thấy, hiện
tượng không thế chối đặng. Lại nữa cái điển
lực thiên-nhiên, ta thấy khí âm dụng với khí
dương thành ra sấm -sét, lửa sét ấy do hơi điển
âm dụng với điển dương biến ra khối lửa.
Nó mạnh thế nào chúng ta ngó thấy không thế
gì tưởng-tượng được. Đem điển âm để riêng
ra cách bức điển dương hai cái đụng nhau giữ
dội lắm. Ta thấy năng-lực của hơi nước thế
nào tức nhiên ngày nay ta thấy không thua gì điển-lực.
Bây giờ, ta có phương pháp thâu đặng, thâu nhỏ
lại làm ngọn đèn sáng suốt.
Cả tình-trạng Quốc-gia xã-hội hay là Đạo-Giáo
Thiêng-nhiên cũng vậy. Cái khuôn-luật hòa là
cái khuôn-luật để tạo ra Càn-Khôn Võ-Trụ .
Có nhiều cơ-quan phản khắc nhau ta có quyền năng
làm cho họ hiệp lại, thì cơ-quan tạo-đoan nắm
trong tay, cũng như chúng ta ngó thấy không thế
tưởng-tượng hai khối chung-hiệp nhau đặng làm
ra ngọn lửa. Ngọn lửa ấy nó soi-sáng trong gia-đình
hiện-tượng.
Bây giờ Xã-Hội nhơn-quần trên mặt địa-cầu
nầy, ta ngó thấy đời loạn-lạc tàn-bạo cùng
nhau tại sao ? Tại nơi cơ thể hữu-hình không
làm thõa-mãn tâm lý loài người từ thử đến
giờ. Tinh-thần ấy, chỉ có nương theo Đạo-Giáo
và biết nhẫn-nại, biết định hướng, biết
tự chủ, biết định phận, trong thân sống ta.
Ngày nay Đạo-Giáo trên mặt địa-cầu nầy hết
quyền-năng vị-chủ hoàn-cảnh quá khổ-não của
laòi người. Đời thảm-khổ càng tấn-tới, thấy
cái sống càng khó khăn, nền văn-minh càng tiến,
lên một bước thì khối thảm-khổ của laòi
người càng thêm nữa. Hỏi đương-nhiên bây giờ
ngó các chủng-tộc đối nại nhau tranh sống với
nhau, phản-khắc nhau. Bần-Đạo đã nói hồi nãy,
nếu không hòa nhau đặng tất nhiên phải nghịch,
lẻ nghich tức nhiên phải ly, hễ ly tức nhiên
phải xao-động, hễ xao động tức có loạn-lạc.
Bây giờ hỏi muốn tìm giải-pháp để cứu
tình-thế chúng ta, để thử tinh-thần trí-não,
suy-đoán xem, ta thấy rằng : không hòa mới có
nghịch mới có ly, như không đồng tâm đồng
chí, đồng sống cùng nhau thì tức nhiên có xao-động.
Bần-Đạo nói cả Vạn-Quốc đó vậy. Động
tức nhiên phải loạn.
Bây giờ muốn tìm phương-pháp trị loạn
đặng, phải phương chiêu-an, nó đương động,
mình phải giải-thoát, nó đương ly cách, mình
tìm phương hội-hiệp. Bây giờ nó đương nghịch,
mình tìm phương pháp hòa nó vậy. Phương-pháp
đó tìm được không ? trước Đức Chí-Tôn chưa
đến mở Đạo, chúng ta nói chắc chưa thế gì
tìm được hoàn thuốc cứu-thế đó. Ngày nay
Đức Chí-Tôn đã đến, chính Ngài thấy nỗi
khốn khổ của laòi người, vì loạn lạc tự
diệt nhau, Ngài đem hoàn thuốc phục-sinh, hoàn
thuốc cứu laòi người, tức nhiên Ngài đem Đạo-Giáo
chơn-truyền của Ngài là đem cái hòa-khí để
tại mặt địa-cầu nầy. Mà hòa-khí ấy nó lan-tràn
ra, nó bao trùm cả mặt địa-cầu nầy hết, chính
bịnh loạn kia do sự bất hòa mà ra, nếu đem
hoàn thuốc hòa trị nghịch, tức nhiên hết loạn,
thì phải an.
Vì cớ Bần-Đạo dám quả-quyết : nếu
ta muốn tìm mối Đạo chơn-chánh, mắt ta thấy
đương nhiên bây giờ các nền Tôn-giáo không
điều-hòa tâm-lý thiên-hạ, lại giục loạn tinh-thần
thiên-hạ tức nhiên là không thế gì tồn-tại
được.
Đạo Cao-Đài ngày nay là một nền Tôn-giáo
đem hòa-khí cứu-vãn tình thế. Bần-Đạo xin
nhắc lại là căn dặn lưu tâm đến những lời
chí-thiết của Đức Chí-Tôn, hễ một hành-tàng
nào của chúng ta làm cho tâm-lý con người phải
rối-loạn, ly-tán, ngỗ-nghịch tức nhiên phạm
tội Thiêng-Liêng. Đừng tưởng rẻ, bởi nó xô-đẩy
loài người trong trường chiến, và sẽ có cơ-quan
tàn diệt nhau không dứt, không cứu chữa đặng,
thì chúng ta sẽ là tội nhơn đệ nhứt của nhơn-loại
vậy.
Ngọn Bạch-Ký của Đức Chí-Tôn tức ngọn
cờ Cao-Đài phải định an cho Vạn-quốc toàn
mặt địa-cầu nầy, làm cho hòa thuận nhau, mới
xứng đáng một nền Tôn-giáo chính mình Đức
Chí-Tôn đến tạo đó vậy.
8
giờ sáng ngày mồng 2 tháng 10 năm Mậu-Tý (1948)
LỄ CẦU-SIÊU CHIẾN-SĨ TRẬN-VONG
Ngày
nay là ngày cầu nguyện cho các Thánh Tử-Đạo
tức là ngày lễ các Thánh.
Nguyên-căn ngày nay là khi Đức Chúa Jêsus
Christ giáng sanh có tiên-trí rằng Chúa cứu-thế
sẽ ra đời làm chủ tinh thần thiên-hạ, các
vị Vua-Chúa ác sợ mất quyền tìm cách giết
Chúa. Nhưng vì đã lánh khỏi, chúng biết ngày
sanh, vì oán-hờn, mà deo-đuổi bắt con nít đẻ
trùng ngày với Đức-Chúa mà giết. Kẻ bị giết
ngày ấy điều đặng hiển-Thánh vì Chúa mà chết
thay thế cho Chúa, nên Thiên-Chúa-Giáo lấy ngày
ấy làm ngày kỷ-niệm các chiến-sỉ trận-vong,
các Chiến Sĩ ấy hy-sinh cho quốc-gia, vì nước
nhà, vì nòi-giống, vì nhơn-loại ho không tiếc
mạng sống, đứng lên để mưu hạnh-phúc cho
toàn-cầu gầy dựng lạ Quốc-gia.
Aáy là các Thánh vô tội đã hy-sinh tạo
hạnh-phúc cho toàn thiên-hạ cho kẻ khác hưởng,
bởi thế ngày nay chúng ta nên hội-hiệp nhau lại
làm lễ cho long trọng mà cầu-siêu cho các chiến-sĩ
đã hy-sinh bảo vệ sanh mạng tồn-tại của thiên-hạ.
Ngày nay là ngày trọng-yếu, mà lại là ngày lễ
của Chính Phủ chọn-lựa. Chúng ta nên để tâm
cầu-nguyện đặng tỏ rằng người sống không
bao giờ quên kẻ chết, và kẻ chết cùng người
sống vẫn có một quan-niệm chung thờ một chủ-nghĩa,
duy có chết là cái chết và cái sống, ngoài ra
không ai phân biệt được, mà nếu không phân
biệt được thì nhơn loại có một mà thôi. Tinh-thần
vẫn một, sự phân biệt đó là tại tâm-lý phàm
phân chia, chớ tinh-thần không phân màu sắc dân-tộc
nào hết, chỉ có một quê-hương chung là cõi
Thiêng-Liêng hẳng sống, có một đấng Chúa tể
là Tròi
Cả thảy chúng ta ngày nay chung hiệp lại
để cầu-nguyện cho các bạn ta hay người ân
của ta để cho các Đấng linh-hồn đặng siêu-thăng.
Và chúng ta cũng hiến trọn cả thi-hài nầy cho
Chí-Tôn, thì bất kỳ cầu chuyện chi, ta làm sự
gì tức là dâng cho Ngài cả. Xin Chư Chức Sắc
Thiêng Phong và Chư Chức-Việc Đạo-Hữu phải
thành tâm hiến lễ cho Chí-Tôn như chúng ta dành
mãnh thân mìn cho Ngài vậy.
Đức
HỘ-PHÁP nói :
Người thật tâm ái-quốc, dầu đối với
việc nhỏ-mọn bao nhiêu mà ích nước lợi dân
cũng cố làm, còn trái lại cảnh nghộ đã đem
đến cho đặng danh cao lợi lớn đi nữa, mà nghịch
với quyền lợi và tôn thương cho Quốc-thể cũng
không làm.
LỄ KỶ-NIỆM ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG
Ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ-niệm Đức
quyền Giáo-Tông. Chơn-linh của Ngài cả toàn con
cái của Đức Chí-Tôn nam, nữ, điều biết là
chơn-linh Đức Lý-Ngưng-Vương. 14 năm qua chúng
ta chịu tâm-tang nơi lòng, vì mất một vị mà
Đức Chí-Tôn chọn lựa, một vị Đại-Tiên đến
mở cơ-quan cứu thế cho đời. Chúng ta tưởng
niệm lại trong buổi sanh-tiền của Ngài, Ngài
đào-tạo cho thành nền chơn-giáo Cao-Đài; Ngài
đã chịu bao khổ-hạnh. Giữa thế kỷ 20 nầy,
tâm-lý nhơn-sanh thất đạo, đem một cái hòa-bình
nêu cao lên làm trung-tâm điểm cho tinh-thần Đạo-Đức
nơi cõi Á-Đông, đã mõi tay gióng trống Lôi-Ââm,
reo chuông Bạch-Ngọc, mà nhơn-loại giả vờ điếc
đui không biết cơ quan cứu-thế là gì hết. Đem
cái khối sanh-quang phục sống cho họ trong chốn
tử-địa sắp tới đây, mà họ chưa tỉnh-ngộ
đặng lo bảo-trọng sanh-mạng, biểu sao kẻ đại-diện
cảu Đức Chí-Tôn thuở sanh-tiền không bị thiên-hạ
khinh-rẽ ; Vì tâm-lý chia-rẽ đó, ngày nay có
nạn tàn-sát tiêu diệt nhau. Ta nhớ lại, 14 năm
Ngài đã khuất dạng, tạo dựng được cho khối
tinh-thần thống-nhất cả lương-tri của toàn
con cái Đức Chí-Tôn . Còn cả thảy hình ảnh
nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn chưa có hiện-diện
gì hết. Cũng vì chịu thâm tình ấy, Bần-Đạo
ra gánh-vác trách-nhiệm nặng-nề trong buổi
nền chơn-giáo Càn-Khôn phải chiến-đấu đặng
đem sự chơn-thật, đặng đem công lý gieo vào
tinh-thần loài người. Biết bao nhiêu lực-lượng
đối-phương đã thống-nhứt lại với nhau đặng
toan diệt Đạo. Trong 14 năm khuất bóng Ngài, Bần-Đạo
chịu khổ-hạnh 6 năm đồ-lưu, còn trụ lực
lượng đặng tạo hình-thể nền chơn-giáo chỉ
có 8 năm mà thôi. Bao giờ cũng vậy, năng-lực
tinh-thần chẳng có lực-lượng hữu-bình nào
tiêu-diệt nó đặng. Nhờ âm điệu điều-hòa
trong khuông-luật mà ngày nay Đạo Cao-Đài đã
nên hình-tướng, đã đứng giữa hoàn-vũ nầy
một cách vinh-quang. Nhờ lẽ chơn-thật của nó,
không có lưỡi gươm bén nào trị tinh-thần đặng,
thì không có lực-lượng nào đè nén đặng. Nó
phải thẳng đời để cứu đời. Một nền chơn-giáo
cao-thàm tinh-thần đường nầy sẽ bất-tiêu,
bất-diệt. Nhờ ơn đầu tiên của Ngài khai-mở,
chúng ta hãy cúi đầu cầu-nguyện và cảm tạ
ơn Ngài.
Kỳ
lễ Hạ-Ngươn nầy nền Chánh-Giáo của Đức
Chí-Tôn đã đặng 21 tuổi. Trong thời gian 24 năm,
nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn đã trãi qua
biết bao nhiêu nỗi khó-khăn thiên-chuyển, buồn
có, khóc có, vui có, vinh có, hận có, trong 21 năm
cả thảy Thánh-Thể của Ngài và toàn con cái
và toàn con cái của Ngài nam, nữ đã chịu biết
bao nhiêu khổ-hạnh, đã chịu biết bao nhiêu nỗi
thê-lương, buồn thảm; chúng ta dòm lại ngày
nay, cái nền Chánh-Giáo Đức Chí-Tôn cho nòi giống
chúng ta đã thành-tựu rồi đó. Chúng ta suy-đoán
coi nó có đặng giá-trị mà chúng ta đã mua chuộc
trong 24 năm trường chăng ?
Hồi tưởng, nếu chúng ta công tâm, nhất
là cho cái lương-tri, nghĩa là lấy cái trí-não
xét-đoán, thì chúng ta biết nhìn nhận rằng :
với cái đại-nghiệp Thiêng-Liêng đường ấy,
một cái cơ-quan trọng yếu đã độ được toàn
thể quốc-dân, về phần xác và phần hồn, mà
đòi chuộc cái khổ-hạnh của chúng ta thì không
có nghĩa lý gì hết. Chúng ta xem lại, lấy công
tâm suy-đoán, những khổ-hạnh của các vị Giáo-Chủ
từ trước, vàng mạng-lịnh của Đức Chí-Tôn
, đến tạo Đạo cứu Đời chẳng phải chịu
khổ-não về phần hồn mà thôi, về phần xác
của họ cũng bị đọa-đày thảm-thiết.
Còn nói về nhục thì thôi ? không vị nào
không khổ-nhục chơn-linh, đó chúng ta nhìn thấy
Chí-Tôn không có thiếu nợ chúng ta bao giờ ?
Bởi vì Ngài không khi nào thiếu nợ con cái của
Ngài, dầu tình cũng vậy, Ngài chỉ biết cho mà
không biết hưởng, từ thử đến giờ chưa có
kẻ phàm nào đã đem tinh-thầnỉtí não, tâm hồn
dùng làm tôi-tớ cho Ngài mà bị lỗ lã bao giờ
chỉ đặng lời mà thôi, thế-gian người ta thường
nói chúng ta chết là hết. Chúng ta thử suy-đoán,
với một kẻ đã đem trọn kiếp sanh mình làm
con tế-vật cứu-thế như Đức Chúa Jesus-Christ
đem thân ra chịu khổ-hạnh truyền-giáo thật
ra chỉ vỏn-vẹn có hai năm thôi, kế bị dân
Do-Thái đóng đinh trên cây Thánh-Giá như kẻ thường
tình kia. Một Đấng Quân-Vương, một đấng chủ-trương
bấùt-kỳ là xã-hội nào hay là một cơ-đồ
nào, đối với một tội đường ấy, có thể
nói đến đấng Jésus-Christ hồi còn sanh-tiền
đi truyền-giáo cho dân lại bị khổ-nhục, nhứt
là bị bắt-buộc mãi trong vòng tù-tội, nỗi
khổ-hạnh cái nào mà Ngài không có, cho đến
Ngài chịu chết trên cây Thánh-Giá, Ngài chưa
biết buổi nào là hạnh-phúc trong kiếp-sanh của
Ngài hết, Ngài chết trên cây Thánh-Giá với mảnh
thân tù và tội tử hình.
Chỉ có Đức Jésus-Christ có cho một đấng
thiếu nợ mà thôi, mà đấng ấy là Đức Chí-Tôn
là Đại Từ-Phụ là Thầy của chúng ta ngày nay
đó vậy. Có một đấng đó thiếu nợ tiền-khiên,
mà đã hai ngàn năm Đạo Thánh Gia-Tô làm chủ
tâm-lý cả toàn thiên-hạ trên khắp mặt địa-cầu
nầy, còn cái vinh-diệu của Ngài ôi ! Vô đối,
buổi nọ Ngài nói: “Con chim có tổ, con chồn
có hang” mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp
đời mà Ngài không kiếm được chổ để gối
đầu. Chúng ta thấy lời than của Ngài thì biết
đời chẳng ai ngèo nàn hơn Đức Chúa Jésus-Christ.
Ngày nay hiển-nhiên trước mắt chúng ta thấy
vinh quang vô đối của Ngài, về mặt xác-thịt
và linh-hồn làm Chúa cả gần toàn mặt địa-cầu
nầy. Hỏi nợ ấy ai trả đặng, chỉ có người
đó cho, là người đó trả, với một kiếp-sanh
vinh-diệu, sang-trọng oai-quyền.
Từ thử đến giờ dưới thế-gian Đức
Chí-Tôn chưa cho người nào khác nữa. Aáy vậy
một đấng không từ chối cái nợ của mình,
với kẻ chết mà đã 2.000 năm vẫn tiếp- tục
đền-bồi cái nợ ấy ; đấng ấy chẳng khi nào
phụ rãy cái Thánh-Thể của Ngài, và con cái
của Ngài. Bần-Đạo biết hẳn vậy hằng khuyên
chúng ta giữ Đạo-Đức tinh-thần đặng làm tôi-tớ
của Ngài, vì có bao nhiêu đó mà thôi, Đấng
ấy không hề chịu nợ tình với chúng ta. Trong
24 năm tạo nên hình tướng nền Đạo, tạo dựng
đền thờ tối cao tối trọng nơi thế-gian nầy,
thì Ngài không hề phụ rãy bao giờ.
Bần-Đạo nói không nợ tình nhỏ nào đối
với Ngài mà bị mất không được đền-bù lại,
trong 24 năm chúng ta làm tôi làm môn-đệ cho Ngài,
chúng ta chỉ có một điều duy nhứt là hiến
dâng cả thi-hài ta làm con tế vật cho Ngài, đặng
Ngài dùng từ-tâm ân-xá cho toàn nhân-loại đã
gây tội-tình với Ngài từ buổi tạo-thiêng lập-địa
tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài
là ân xá lần thứ hai, trên mặt địa-cầu
nầy vậy.
Nếu kỳ ân-xá ấy đạt được, thì nạn
tương-tàn, tương sát với nhau mới tránh khỏi.
Nếu ký ân xá ấy đạt không được thì có một
trường quyết chiến thảm-khổ, sẽ trãi qua trước
mắt chúng ta mà từ tạo thiên lập địa đến
giờ chưa hề có.
Ngày
Rằm tháng Giêng năm Ất-Mùi (1955)
ĐỨC
HỘ-PHÁP THUYẾT TRONG DỊP LỄ
THIÊU XÁC
CÁC
THÁNH-TÔNG-ĐỒ
Kẻ
nào hiếp các con là hiếp Thầy, mà hiếp được
Thầy là một việc không dễ dàng gì vậy.
Ngày kia, khi Đạo Cao-Đài đã mạnh-mẽ
tràn-lan khắp năm châu. Lúc ấy thế-giới sẽ
đua nhau về đây thỉnh ngọc xá-lợi của Liệt-Thánh
về chiêm-ngưỡng cũng sẽ không kém gì cuộc
cung-nghinh xá-lợi Phật của thế-giới ngày nay
vậy.
MÓN ĂN CỦA LINH-HỒN
Kỳ
nầy Bần-Đạo đình thuyết về sự dục tấn
của các Linh-Hồn chúng ta trên Con đường Thiêng-Liêng
hằng sống, đặng thuyết về một vấn-đề cần-yếu
nhứt có ảnh hưởng yếu-trọng đến phần hồn
chúng ta.
Thời-gian Bần-Đạo để chơn trở về Đền-Thánh,
Bần-Đạo chú trọng một điều, chẳng những
chú trọng mà thôi mà còn buộc cả Chức-Sắc
phải đi cúng tại Đền-Thánh. Lý-do ấy thế
nào Bần-Đạo xin thuyết-minh cho toàn cả hiểu
biết, rồi mới rõ cái huyền-bí bí-mật phương-tu
của mình hầu gắng công lo tu thêm nữa.
Ai cũng thường nói mình tìm Đạo, Đạo
đã để trước mắt mình, nói quả quyết hơn
Đạo để nơi mình, của mình. Aáy vậy là vật
Chí-Tôn đem đến trong tay của kẻ làm chủ-quyền
sở-hữu nó.
Bần-Đạo nhớ khi nền Đạo mới phôi-thai,
ban sơ xuống tại Thủ-Đức ở trót 7 tháng trường,
nhờ ơn đức của Giáo-Tông dìu-dắt, giáng bút
giáo-hóa, buổi chưa rõ thông chơn-lý của Đạo,
còn mập-mờ, tìm hiểu, nhiều khi vì sự ham muốn
biết, đã vấn nạn Ngài nhiều điều quá đáng,
như ngày hôm nay và tương-lai nếu ai xúi hỏi
nữa, chắc Bần-Đạo không dám. Có một phen Ngài
đến dạy Bần-Đạo. Ngài than : cái tâm-lý nhơn-loại
đương-nhiên đã khiếm-khuyết đạo-đức tinh-thần,
vì cớ trường đời hỗn-loạn, hàng trí thức
hoặc tu-niệm tiềm-tàng thấu-đáo, muốn tìm
phương hay sửa-chữa, cứu-vãn tình-thế của
đời. Hại thay, buổi ấy Đạo-Giáo lu-lờ, thiên-lương
hết tồn-tại, làm thế nào mà nhơn-loại biết
chủ-định quyền-hành mình đặng tự-lập, tự-trị
lấy mình. Cả thảy chỉ biết tự-lập tự trị
mình thì mới mong hiểu được huyền-bí bí-mật.
Tự sửa mình mỗi cá nhân, đến xã-hội, đến
cả nhơn-loại biết sự trọng mình được thì
cứu-vãn tình-thế nguy ngập tàn-diệt nầy được.
Hại thay ! tấn-tuồng ta thấy trước mắt,
thiên-hạ bị nạn chiến-tranh tàn-diệt do nguyên-lý
của nó là tinh-thần nhơn-loại thiếu đạo-đức,
vì thiếu đạo-đức nên vật dục mới xô đẩy
họ tìm phương sống, tìm hanh-phúc trong phương
sống ấy. Hanh-phúc không có hình-dáng, tạo hanh-phúc
chỉ tưởng đâu diệt nhau đặng bảo-thủ phương
sống của mình, chẳng khác nào như con vật chỉ
biết giành sống với nhau, ngoài ra tranh-giành
đặng bảo-thủ mạng sống không còn biết đạo-đức
nhơn-nghĩa gì hết. Giờ phút nầy đương nhiên
tấn-tuồng nguy-khốn cả toàn nhơn-loại, do nguyên-lý
tinh-thần đạo-đức, không tồn-tại, chẳng phải
không tồn tại mà thôi, họ lại còn từ chối
cái tinh-thần đạo-đức nên không còn giá-trị
đối với họ. Vì cớ Chí-Tôn đến tạo Đạo.
Bần-Đạo nhận thấy cả sự bạc-nhược
tinh-thần, đương thế-kỷ hai mươi nầy, văn-minh
khoa-học giục-thúc nhơn-loại mở cả tinh-thần
trí-não đến cực-điểm, họ tưởng có thể
vi-chủ cả sanh-mạng họ mà chớ. Cũng có kẻ
đầu có học-thức như Phan-Thanh Giản hồi đi
sứ sang Pháp-Triều thấy cả nền văn-minh phát
khởi đến huyền vi tư tưởng. Ngài là người
văn-học trí-sĩ của nước Nam ta, đến cũng phải
sợ-sệt, nhận rằng nền văn-minh đã đến mức
cao cực-độ. Ngài dâng sớ cho nhà vua, nói một
câu nói dường nầy quá lẽ :
- Dĩ nghệ tề-thiên
địa
- Chỉ nhượng tử-sanh
tạo-hóa quyền.
Ngài nói rằng : Cái quyền hành vi-chủ,
duy vật chẳng nhượng quyền tạo hóa, chỉ có
chết sống mới nhượng cho quyền tạo-hóa mà
thôi. Thành thử mình thấy văn-chương khoa-học
đương nhiên làm chủ tư-tưởng của con người.
Hại thay ! nếu khoa-học mà dìu-dắt tâm-lý
nhân-sanh đến đạo-đức tinh-thần thì may biết
bao, trái ngược lại văn-minh ấy chỉ giục thúc
phương-sống vật-chất, họ tìm hạnh-phúc trong
cái sống vật hình, vì cớ Đạo-Giáo mất quyền.
Bần-Đạo tưởng người khác hơn Bần-Đạo cũng
lưu-ý đến điều ấy, nên đã vẫn-nạn Đức
Lý Giáo-Tông. Hỏi rằng : đương thế kỷ hai
mươi nầy văn-minh cực-điểm đã đi quá cao rồi,
đem đạo-đức tinh-thần làm thuyết cứu thế,
sợ e chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng
trước hai ngàn năm có lẽ nhơn-loại còn bảo-thủ
được khối thiên-lương biết xu-hướng đạo-đức,
tinh-thần đạo đức buổi ấy dường như gặp
một mảnh ruộng có nhiễm phân nên hột giống
mới mọc đặng, còn thế-kỷ hai mươi nầy là
thời kỳ văn-minh vật-chất, nếu đem đạo-đức
ra làm môi-giới, cữu-vãn tình-thế cho đời,
e vô hiệu-quả.
Ngài than ! nói quyết đoán rằng : “ Theo
lẽ Hiền-Hữu nói nhơn-loại ngày giờ nầy không
cần đạo-đức có phải ?”.
Bần-Đạo trả lời :” Thật vậy, nhơn-loại
buổi nầy không cần đạo-đức, chỉ tìm hanh-phúc
nơi văn-minh khoa-học cũng có thể được chớ
?”.
Ngài cười :” Văn-minh khoa-học chỉ nuôi
phần xác-thịt họ mà thôi, con phần linh-hồn
dám chắc họ sẽ đói “.
Bần-Đạo vấn nạn : “ Tại sao Ngài nói
linh-hồn đói, linh-hồn có ăn sao mà đói ?”.
Phải, phải có vật-thực đặng bảo dưỡng
nó như thi-hài vậy, nếu không vật-thực nó sẽ
tiều-tụy rồi chết mà chớ.
Luôn đó Ngài lấy triết-lý cao-siêu mà
dạy Bần-Đạo trong một con người có ba xác-thân
gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất-phách
liên hệ mật-thiết cùng nhau. Đương-nhiên trong
thân-thể của mỗi người có ba xác thân ấy
cần bảo dưỡng mới tồn-tại được. Vì cớ
Đức Chí-Tôn cho biết, trí-thức và linh-hồn
trọng-yếu do căn nguyên của sự sanh-hoạt của
nó định cái ngã-tướng cho ta. Ba xác-thân ấy
phải nuôi mới sống, mới tồn-tại như xác-thịt
thể-hình ta vậy. Đạo-Giáo là tinh, phải ẩm-thực,
tinh mới sống, xác-thịt giữa là xác-thân trí-thức
tinh-thần ta thấy con người chẳng phải tìm món
ngon vật lạ đặng bảo-thủ xác-thân, còn coi
hát, nhảy đầm, vui chơi, cờ-bạc, hút-sách tưởng
là tìm món ăn cho trí-thức đặng bảo-dưỡng,
mà không biết rằng đó là hại cho trí-thức.
Bây giờ tới linh-hồn cũng phải có vật-thực
cho nó chớ. Vật-thực là cả triết-lý cao-siêu
tồn-tại đấy. Đệ-nhị xác-thân gọi là khí,
Chí-Tôn gọi là chơn-thần, nó làm trung gian cho
xác và hồn, hễ lương năng thì nó bảo-thủ
xác-thịt thể-hình, còn lương-trí nó tìm vật-thực
nuôi linh-hồn. Ta nuôi linh-hồn bằng gì ? Vật
thực nuôi sống xác-thịt, còn linh-hồn sống
đặng là nhờ đạo-đức tinh-thần đó vậy.
Ta tu tức là ta tìm phương bảo-trọng cho tồn-tại
đạo-đức tinh-thần đặng nuôi linh-hồn hầu
đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật dìu-dẫn bảo
trọng lấy nó để có đủ lực-lượng quyền
năng giong-ruổi trên con đường Thiêng-Liêng
hằng sống.
Đạo-đức tìm nơi đâu mà có đặng ? Tức
nhiên tìm nơi cửa Thiêng-Liêng hằng sống mới
có, mà tìm nơi cửa Thiêng-Liêng tức là cửa
đạo, buổi ăn của linh-hồn là buổi ta vô Đền-thờ
cùng đấy. Ta không thấy mùi của nó tức chưa
hưởng được, tưởng vô Đền-thờ là bị luật
buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh-hồn
ăn vậy, Bần-Đạo tưởng thấy trong trí cần
phải buộc cả thảy đi cúng, vì trong thâm-tâm
Bần-Đạo định cho mấy người chưa biết mùi
của nó, cũng như kẻ nhà quê, đưa cho gói bánh
nói thứ ăn chẳng đặng, rồi khi đã biết mùi
rồi bán cả áo, cả quần mà mua ăn.
Giờ phút nầy phái Nữ chưa biết mùi ngon
của món ăn cho linh-hồn. Ngày giờ nào cả thảy
bíêt mùi của nó, ngày giờ ấy có đến ít nữa
với những kẻ biết hoặc đói khát dữ tợn
kia mới biết ăn ngon. Phàm đói cho lung ăn mới
ngon. Nhưng coi chừng Bần-Đạo khuyên một điều,
đừng để quá đói mà chết đa. Hại thay vật
ăn của linh-hồn có quyền năng Thiêng-Liêng vô
tận, giúp ta giải bày cái ác như là cởi áo,
chớ không phải mặc chật như dính vào da, rồi
ngay giờ thoát xác, tinh-thần thế quyền Thiêng-Liêng
lột từ miếng đau-đớn linh-hồn chẳng biết
bao nhiêu, chừng đó có ăn năng rồi biết sợ.
Không có một điều gì mà Chí-Tôn định
trong chơn giáo của Ngài, dầu Bí-pháp, dầu Thể-pháp
mà vô ích đâu. Đấng ấây là Đấng tưng-tíu,
yêu-ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều
không cần ích mà con của Ngài nói rằng không
muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày Khai Đạo,
Kinh-kê, lễ-bái, sư chi sắp đặt về đạo-đức
cũng chính Chí-Tôn tạo thành, không phải do các
Đấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần
yếu, hữu ích chi chi đó, Ngài mới buộc. Vì
cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần-Đạo bó-buộc
nghiêm-khắc có lẽ những kẻ biếng-nhác cũng
phàn nàn lén-lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp
mặt Bần-Đạo nơi Thiêng-Liêng Bần-Đạo sẽ
hỏi các bạn coi khi con ở thế Bần-Đạo buộc
cả thảy đi cúng là có tội hay có công. Công
hay tội ngày giờ ấy Bần-Đạo hỏi rồi chúng
ta sẽ có một tấn-tuồng tâm-lý ngộ-nghĩnh với
nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết lẽ nên
hư.
Ngày nay, giờ phút nầy, Bần-Đạo đứng
lại giảng-đài nầy để lời khuyên nhủ : còn
biếng nhác quá ! Xác thịt đã hư rồi đến linh-hồn,
phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn-năn quá
muộn.
Tại
Đền-Thánh Thời Tý đêm Mồng 9 tháng 11 năm Mậu-Tý
(DL. 09-12-1948)
NĂNG-LỰC TINH-THẦN ĐẠO-ĐỨC
Hôm
nay Bần-Đạo định thuyết con đường dục tấn
của chúng ta nơi cỏi Thiêng-Liêng Hằng-sống.
Có một vấn-đề trọng-yếu do một trường
ngôn-luận tại cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, cho nên
ngày nay Bần-Đạo thuyết về “năng-lực của
tinh-thần Đạo-đức”. Cái sở-năng của mình
cũng như cái huyền-bí vô cùng tận của Càn-Khôn
Võ-Trụ, bởi vì nó sản-xuất do tánh đức di-truyền
của ngươn linh mỗi người chúng ta, cho nên con
đường dục-tấn trí-thức của toàn nhơn-loại
trong Càn-Khôn Võ-Trụ với cơ quan hữu-hình tức
là xác-thịt họ đối lạ phần vô-vi, tức là
ngươn-linh trong Càn-Khôn Võ-Trụ chưa có mức
hữu-định, còn dục-tấn mãi. Sự dục-tấn ấy
Thiêng-Liêng đã định phân ghi một cái mức cho
bước đi mỗi người, mức dục-tấn ấy là mức
thần, Thánh, Tiên, Phật rồi đến Trời là cuối-cùng.
Các năng lực đó đã để lại một trường ngôn-luận
kịch liệt tại Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa. Sở-năng
của mỗi người không đồng nhau địa-điểm
các chơn-linh không đồng phẩm, mà không đồng
phẩm tức không đồng vị, mà không đồng-vị
nhau tức là khác tánh chất. Cho nên không người
nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn-linh
có địa-vị riêng tư của mình, địa- vị ấy
tạo thành do phương-tu của mỗi người đạt
đặng. Bởi không giống nhau như thế mới nảy
sanh một trường hổn-loạn.
Nếu cả nhơn-loại trên địa-cầu nầy
biết được đặc-điểm của địa-vị mình,
Bần-Đạo dám chắc mỗi người sẽ tự hiểu,
tự trọng, tự an theo địa-vị của mình, thì
không hề có trường tranh-đấu vĩ-đại như ta
đang thấy ngày nay. Nếu Staline biết địa-điểm
của mình thì không cần chiến-đấu với Marshall
với Truman cầm chắc, nếu Hitler biết đặc-điểm
của mình, địa-vị chơn-linh của mình thật đứng
nơi nào chưa hề nghich với Churchill, Reynaud đến
nổi có trận giặc thế-giới chiến-tranh thứ
nhì.
Hay biết chẳng chỉ hơn bực tự giác kia,
biết mình biết người, tự giác mình đặng,
tức hiểu địa-vị của mình đến đặc-điểm
nào, mới an phận thủ thường, mới sử vẹn
đời sống của mình đặng. Người đủ biết
đặc-điểm địa-vị chơn-linh của mình đứng
vào phẩm-vị nào thì thủ thường tự an, tự
lạc, dầu cuộc sống có đảo-lộn thế nào đi
nữa, đủ chủ-định tinh-thần mình, không ai
làm cho ngã nỗi, ấy là các chơn-linh biết tự-chủ
một cách đặc-sắc vậy. Nơi Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa có nhiều chơn-linh ấy về đặng. Thật
không có chơn-linh nào dưới thế-gian nầy không
muốn tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa-đoan,
nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc,
nào ruộng-nương đủ thừa thôi đủ thứ, cả
đến Chức-tước quyền-hành. Muốn tu ngặt
không có bề-thế tu đặng. Sự thật cũng có
nhiều chơn-linh muốn-tu ; thật tâm muốn mà không
làm được. Cũng có kẻ không thể rời cái nhà
mình, thậm chí đến không rời cái bà vợ của
mình ra được, rồi ngày về Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa
khóc-lóc thảm-thiết, bào-chữa lấy mình, nói
: “tôi muốn tu lắm song tình đời còn dính-dấp”
hỏi các Đấng trọn lành nơi bạn, ai đã buộc
ràng cho bạn trong khuôn khổ ấy, chẳng qua do
tiền-căn báo hậu-kiếp, bạn đã làm, bạn phải
gánh lấy. Không lẽ, như bạn mượn lúa của
người ta ăn mùa trước, rồi mùa sau không trả,
nói rằng không thiếu nợ. Bạn muốn tu mà không
tu được tại kiếp sanh nầy, xác-thịt bị lên
án tử hình hữu-định, tu không được nguyên-do
tại bạn đã làm, bạn phải chịu, không còn
cượng-lý gì nữa, ấy là cái nợ của buổi
sanh tiền.
Nếu mình nókie “tôi không biết nguyên-căn
mối nợ mà tôi mắc, vì không biết nên trong
kiếp sanh tôi không nhìn nó” thì các đấng ấy
không ngần-ngại gì dở Thiên-thơ cho mình được
thấy quả-kiếp đó mình đào tạo.
Lại chối nữa ! “con vợ tôi tại sao nó
khó lòng quá, bước ra một bước đường là
nó ghen, không cho tôi tu-hành gì hết” tới chừng
dở thiên-thơ ra thì đây : kiếp trước chú mày
làm vợ cũng vậy, kiếp trước chú mày làm vợ,
còn vợ chú mày làm chồng, tấn tuồng vay trả
mà thôi. Không tu được là do quả kiếp lôi kéo
không cho chú mày tu, tại nghiệp-chướng của
chú mầy, tu rồi ai trả quả cho chú mầy đã
tạo trước đây. Trong thiên-thơ nợ cựu, nợ
tân lút đầu, mà cửa hư-linh tức cửa Hiệp-Thiên
Hành-Hóa. Các đấng trọn lành chưa hề mở miệng
chối tội là nhờ ở năng-lực tinh-thần của
họ, nếu quả nhiên năng-lực tinh-thần không
có, thì Chí-Tôn ngày nay chưa đến mặt thế nầy,
đặng tuyển-chọn cả lương-sanh tức là các
chơn linh hữu-căn hữu-kiếp, đặng tạo hình
thể của Ngài. Nếu quả nhiên năng-lực tinh-thần
không có gì thì Đạo Cao-Đài ngày nay không nên
lập ra.
Ta thấy có một hạng Đại-Giác, mà giống
bên lành hay bên dữ, bên thiên-lương hay bên quỉ-quyền
cũng vậy, đều có một năng-lực tinh-thần đặc-sắc
của họ. Bằng cớ hiển-nhiên trước mắt ! làm
đảo-lộn toàn-cầu khiến cho nhơn-loại phải
điên-đảo tận diệt, do đầu-óc của một người
là Hiler, rồi chúng ta còn thấy một bằng cớ
nữa quá sức tưởng-tượng là lực-lượng cộng-sản
đương tàn-hại cả mặt đời buổi nầy, làm
đảo-lộn cả tinh-thần của con người. Hitler
đảo-loạn toàn nhơn-loại nhờ nương mãnh lực
của ngọn gươm mũi súng, cọâng-sản đảo-lộn
tinh-thần nhơn-loại với lý-thuyết Cộng-sản
của nó, người đào tạo ra thuyết ấy là Karl
Marx. Chỉ có một người mà thôi. Cái năng-lực
tinh-thần của một người còn có thể làm cho
nhơn-loại an-toàn hạnh-phúc hay tự diệt lấy
mình đặng, huống hồ chi Thánh-Thể của Đức
Chí-Tôn do tự Ngài đến chọn , Bần-Đạo dám
chắc nếu ngày nào các bạn về đến Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa, các đấng trọn lành hỏi các bạn đủ
năng lực và xứng phận chăng, chắc các bạn
không bao giờ dám nói : không. Vì nếu không thì
ra sự lựa-chọn của Chí-Tôn lầm-lạc sao ? Quả-quyết
Chí-Tôn không hề lầm bao giờ.
Bần-Đạo nói : Năng-lực của một chơn-linh
đại-giác còn có thể làm cho toàn-cầu đảo-ngược,
thì năng-lực tinh-thần của Thánh-Thể Đức Chí-Tôn,
nếu nói năng-lực đó là của toàn con cái của
Ngài hiệp lại tất đoạt được quyền-năng
mãnh-liệt huyền-diệu ấy, thì lo gì Thánh-Thể
của Ngài không tận độ thiên-hạ đặng. Không
có gì nghi kỵ nữa, Bần-Đạo quyết-đoán phải
đặng, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc chầy, hoặc
kíp, Thánh-Thể của Ngài tức là Hội-Thánh sẽ
làm chủ tinh-thần thiên-hạ.
VÍA ĐỨC CHÚA JESUS-CHRIST
1948
năm trước, lúc nầy có một vị Chí-Tôn giáng
trần giáo Đạo tại Tây-phương, vị Chí-Tôn
an-bang tế-thế mang xác phàm lập giáo để một
cái nền văn-minh vĩ-đại cho nhơn-loại, tính
ra được 1948 năm.
Trước buổi Đức Thích ca gần qui-liễu
Ananđa và A-Nan Ca-Diếp đến bên Ngài khóc-lóc
hỏi Ngài rằng : Thầy qui-vị rồi ai dạy chúng
con, Đức Thích Ca nói : Có một Đấng đến sau
ta, oai-quyền hơn ta nữa. Đức Phật Thích-Ca đã
nói một vị Tây-Phương Giáo-Chủ Jésus-Christ
đó vậy. Aáy là một đàn anh đã thông-trí cho
nhơn-loại biết người em kế vị của mình sắp
đến, Ngài có nói trước còn oai-quyền hơn ta
nữa, thì thật quả vậy.
Khi Đức Chúa Jésus-Christ giáng-sanh ở Tây-Phương
gần thọ hình, các vị Thánh-Tông-Đồ tức nhiên
là môn-đệ của Ngài than rằng : Nếu Thầy thọ
hình ai dạy chúng con ? Ngài nói cần yếu ta phải
đi, cần yếu ta phải về với Cha ta, ta phải
về đặng an vui, rồi sau nầy sẽ có một người
đến cùng các ngươi đặng an-ủi dạy-dỗ các
ngươi nhiều điều huyền-vi bí mật.
Đức Phật Tích-Ca nói sau nầy Đấng ấy
còn oai-quyền hơn ta nữa, Đấng ấy tức nhiên
là Tây-Phương Giáo-Chủ Jésus-Christ và chúa đã
cho nhơn-loại hay : sau đạo-Thánh Gia-Tô có Đạo
Cao-Đài xuất hiện đó vậy.
Có một đấng chơn-linh tam-thế Chí-Tôn
, nhơn-loại đều biết tánh danh đó. Nhứt-thế
: Brahma Phật, tức nhiên là tạo-hóa, nhị thế
Civa Phật tức nhiên tấn-hóa, tam-thế Christna
Phật tức nhiên bảo-tồn, đấng trọn quyền
bảo tồn ấy là lòng ái-truất thương sanh vậy
Vì cớ cho nên Đức Jésus-Christ thương nhơn-loại
một cách nồng-nàn thâm-thúy, Ngài đã ngó thấy
nhứt Kỳ Phổ-Độ nhơn-loại ký hòa-ước với
Chí-Tôn mà đã hội ước, nên phạm Thiên-điều,
nhơn quả nhơn-loại gớm ghiết, do nhơn-quả ấy
mà tội tình nhơn-loại lưu-trữ đến ngày nay,
Thánh giáo gọi “tội tổ-tông” chính mình Ngài
đến, đến với một xác-thịt phàm-phu, Ngài
đến giơ tay để ký đệ-nhị hòa-ước đặng
dìu dắt chúng sanh trở về cùng đấng Cha lành
của họ tức nhiên là Đức Chí-Tôn là Đại-Từ-Phụ
chúng ta ngày nay đó vậy.
Đấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của
nhơn-loại đã đẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại
mặt thế nầy làm con tế-vật đặng chuộc tội-tình
cho nhơn-loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị hòa-ước
cho nhơn-loại, nó làm cho Ngài thế nào ? do tay
Ngài ký tờ hòa-ước với Chí-Tôn , nên hai tay
của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự-giá.
Hai chân của đấng ấy bị trước nhơn-loại
dìu đường hắng-sống cho họ, rồi hai chân của
đấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá,
còn trái tim yêu-ái nhơn-sanh vô-hạn ấy bị một
mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài,
lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn-loại,
một tình-ái vô-biên ấy để lại cho laòi người
một tôn-chỉ yêu-ái. Tôn chỉ nhìn nhơn-loại
là anh em cốt-nhục và khuyên-nhủ nhơn-loại coi
nhau như đồng-chủng, năm 1948 nhơn-loại không
tầm Giáo-lý của Ngài nữa, chắc-chắn như vậy.
Bần-Đạo nói quả-quyết rằng, nhơn-loại đã
quên hắn Ngài rồi đó. Cho đến ngày nay cả
toàn nhơn-loại trên địa-cầu nầy, không chịu
nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên
nạn tương-tàn tương sát lẫn nhau sắo diễn
ra gần đây, nhưng nếu chứng nào toàn cả nhơn-loại
biết tôn-sùng nhau, vì tình cốt-nhục, thì cái
nạn tương-tàn tương-sát trên mặt địa-cầu
nầy sẽ không có nữa. Hai tấn-tuồng, hai thảm-trạng
như thế có thể đưa nhơn-loại đến chỗ tiêu-diệt
mà chớ, vì nhơn-loại không biết nghe, đấng
ấy đã lấy máu-thịt của mình làm con tế-vật
dàng hiến cho Đức Chí-Tôn, để cầu xin tha tội
cho nhơn-loại. Nhơn-loại sẽ mất Đức vì không
nghe theo đấng cứu-thế, đấng ấy đã bảo anh
em phải yêu-ái lẫn nhau, sống cùng nhau cho chọn
vẹn kiếp sanh. Trái ngược lại đệ nhị hòa
ước kia đã ký kết với Đức Chí-Tôn bị nhơn
loại bội ước nữa, vì bội ước mà bảo sao
nhơn-loại không bị tội-tình mắt-mỏ sao được
?
Đêm nay là nhờ hiển-thánh anh linh của
đấng cứu-thế, đấng đã để lòng ưu ái vô-tận
mong cứu-vãn tình-thế nguy-ngập, lấy cả tình-ái
ấy làm phương giải khổ cho nhơn-loại .
Chúng ta để tâm cầu nguyện cùng Ngài,
để Ngài mở con mắt Thiêng-Liêng cho chúng-sanh
đặng nhìn thấy cái chơn tánh của kiếp sống
họ nơi nào, đừng mê-muội đừng ngu-dốt, lấy
tinh-thần sáng suốt bỏ cái lục-đục thất-tình
đầy tội-ác nầy
Muốn tránh các nạn tương-tàn tương-sát
kia, muốn cứu-rổi lấy họ, hầu làm cái nạn
tiêu-diệt kia được thoát khỏi ấy là lưòi
cầu-nguyện của chúng ta đêm nay đó.
Đức Chúa Jésus-Christ đã láy máu thịt
đặng chuộc tội Chí-Tôn loài người. Giờ phút
nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền
hành yêu-ái vô biên của Đức Chí-Tôn mà tha
tội cho nhơn-loại đó vậy.
BÁC-ÁI CÔNG-BÌNH
Ngày nay chúng ta đình bộ nơi cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa đặng quan-sát cuộc thiệt-chiến, chẳng
khác nào như Gia-cát qua Ngô, quan-sát quân Ngô
vậy.
Từ hôm trước tới nay, Bần-Đạo thuyết-minh
những điều vấn nạn của các chơn-linh siêu-thoát
nhưng thiếu đạo-đức tinh-thần, kiếm tìm cho
đủ triết-lý đặng học, đặng để phổ-độ
họ. Chúng ta ngó thấy các Đấng Trọn lành nơi
cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa chưa thể thắng họ đặng.
Cho nên đêm nay tưởng lại kỳ nầy là kỳ chót,
kỳ nầy trọn yếu hơn hết, bởi họ vấn nạn
về quyền-năng của tín-ngưỡng và luật-điều
của các vị Giáo-Chủ để lại thế-gian nầy.
Vấn nạn kịch-liệt. Chúng ta nên để ý, nhứt
là Chư Chức -Sắc Thiên Phong nam, nữ càng phải
để ý cho lắm.
Kỳ trước Bần-Đạo đã giảng, tại chỗ
nhiều Tôn-giáo làm cho nhơn tâm bất nhứt, hôm
nay họ công-kích về luật-điều. Họ hỏi: Nếu
Tôn-giáo có khuôn hữu-định, chiếu theo khuôn-khổ
thiên-định, trái lại các vị Giáo-Chủ lập
Giáo bất đồng tánh cách nhau. Vị nầy nói nầy
vị kia nói khác, phản-khắc nhau biểu sao tâm-lý
nhơn-sanh không chia-rẽ ? Bởi không thống nhứt
mà ra. Ta thử quan-sát lại coi đạo pháp, đạo-luật
mấy vị Giáo-Chủ ấy vẫn có một phương-pháp
kích-bác nhau, phản đối nhau, không đồng tâm
đồng-đức nhau, không đồng tánh, không đồng
tư-tưởng đạo-đức tinh-thần, biểu sao nhơn-loại
không chia rẻ, mà chia-rẻ tức nhiên giục-loạn,
làm cho mặt đời loạn-lạc, sự loạn-lạc ngày
nay cũng vì lẽ ấy.
Các Đấng ở cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa cười
nói : “ Các Ngài nghĩ thử coi tánh-đức của
các chủng-tộc trên mặt địa-cầu nầy không
giống tâm-lý tinh-thần. Đừng nói chi Vạn Quốc,
trong một quốc-gia, một nòi giống, tánh-đức
nhơn-sanh còn không đồng thay. Không gì khác lạ,
các Ngài buộc Phật Thích-Ca Mâu-Ni người Aán-Độ
lập Giáo tại xứ-sở Aán-Độ của Ngài, thì
Ngài có đồng-tánh đồng-tâm với sắc dân
nào khác với Ngài được, nhưng Đạo Phật vẫn
truyền-bá làm chủ tinh-thần khắp Á-Đông, hỏi
do đâu ? Do nơi bác-ái và công bình. Những phương-pháp
của các vị Giáo-Chủ lập-pháp-luật trong các
Tôn-giáo, cốt yếu mở đường chỉ nẻo cho nhơn-loại
đi liên-hiệp cùng chơn-tướng và chơn-pháp của
đạo-Giáo tức nhiên là tín-ngưỡng, thờ người
và thờ trời, Luật-pháp duy có bác-ái công-bình
mà thôi. Đức Phật Thích-Ca nếu nói Ngài không
bác-ái công bình thì đạo-Giáo không công-bình
sao ? Nếu giờ nầy chúng ta không thành Phật thì
Đạo Phật không thành sao ? hỏi Đấng ấy lập
Giáo trên nền-tảng nào ? có phải nền-tảng
bác-ái chăng ? Nếu không bác-ái công-bình, Phật
chưa hề đem triết lý cao-siêu làm chủ tinh-thần
nhơn-loại đặng. Chúng ta đây ai lo phận-sự
nấy, lại còn giành hơn thua nữa có đâu ép mình
như Phật chưa hề hạ mình nâng-đỡ tinh-thần
nhơn-loại dường ấy.
Đức Lão-Tử thấy loài người không biết
địa-điểm tinh-thần mình, không biết chơn-tướng
tinh-thần mình để nơi nào định vị cho có giá-trị.
Ngài sanh tại Trung-Hoa tâm-lý nhơn-sanh không biết
phẩm-giá tinh-thần của con người là gì, đến
đổi tâm-lý con người buổi ấy sa-đọa không
biết phẩm-vị mình nơi nào, không biết tôn-trọng
phẩm-vị đó nên đọa xuống thú chất vật-loại,
nếu không vì bác-ái, từ-bi thức-tỉnh nhơn-loại
cho biết phẩm-vị tối cao của họ, đừng làm
con vật nữa. Nếu không phải vì tâm bác-ái công-bình
thì không hề Ngài lập-giáo dường ấy. Ngày
nay không phải nơi dân Á-Đông nầy thôi, mà cả
Aâu-Châu cũng vậy, biết rõ triết-lý Đạo-Đức
cao-siêu của Ngài, người ta theo chẳng biết bao
nhiêu.
Các Ngài xác định về mặt tinh-thần, lấy
cả tinh-thần siêu-thoát của các Ngài ngó lại
coi có phải tinh-thần luật-pháp của Tiên-Giáo
chỉ do bác-ái công-bình mà lập đặng chăng ?
Phương-pháp tạo ra có hình-tướng ấy cốt-yếu
nâng-đỡ tinh-thần nhơn-loại đến mục-đích
cao thượng là bác-ái công-bình vậy.
Đạo Nho do Đức Khổng-Tử lập tại Trung-Hoa.
Tại sao có đạo Nho? Tại Ngài lấy nhơn-luân
buổi nọ điên-đảo cũng như Đức Lão-Tử thấy
nhơn-phẩm suy-đồi, không còn giá-trị. Tâm-lý
nhơn-sanh buổi ấy mắt hẳn cái giá-trị nhơn-loại,
nên tự mình xuống làm vật loại đem Nho-Giáo
định Luật-pháp xã-hội trị Đạo nhơn-luân
làm căn-bản. Hễ mình biết mình tức nhiên biết
Thiên-Đạo, biết Thiên-đạo mới tùng thiên-lý,
tức nhiên tùng Thiêng-Liêng vô hình, Ngài không
nói danh Chí-Tôn là ngôi Chủ-tể là phẩm tối
cao tối trọng của Đạo, chỉ lấy mặt luật
bác-ái và pháp công-bình đặng định sống cho
nhơn-loại, định sống cho cả nhơn-quần xã-hội,
định sống cho cả các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu
nầy dầu Luật-pháp của Ngài trái hẳn phong-hóa
nhơn-loại một đôi nơi trên mặt địa-cầu,
nhưng nhờ tinh-thần đạo-đức làm môi-giới,
từ giờ nầy toàn vạn-quốc lưu-ý lấy đó đặng
chỉnh-đốn quốc-thể mình. Vì cớ cho nên lập
đạo Cao-Đài, Chí-Tôn tiên-tri rằng: Đạo Cao-Đài
là cơ báo-hiệu cho vạn-quốc hay trước rằng.
Thời kỳ Nho Tông chuyển thế đã đến.
Nói tới đạo Thánh của Đấng Chirst tức
Công Giáo, nếu người không bác-ái từ bi, không
hề đem xác-thịt mình làm còn tế vật dâng hiến
cho Chí-Tôn đặng cầu-siêu rồi, xin tha thứ tội-tình
cho loài người, đó là người đến đem lòng
thương yêu của mình ra làm tiêu-chuẩn cho đời
bắt chước. Vì cớ nên Công-Giáo làm chủ tinh-thần
một phần lớn nhơn-loại là đặng lắm vậy.
Nếu như các Ngài còn chối-cãi, dầu cho chỉ
muôn đường ngàn nẻo mà các Ngài còn chối không
tùng con đường của nhơn-loại đi, là con đường
tín-ngưỡng Trời và Người đặng dìu-dắt nhơn-loại
trong luật thương yêu và pháp công-chánh, đến
trước mặt Tòa Tam-Giáo đặng cầu rỗi, tôi
dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng.
Dầu có cượng-lý bao nhiêu các Ngài cũng không
chối sự chơn-thật đó đặng. Nếu các Ngài
muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển-nhiên
là đạo Cao-Đài đã xuất-hiện, Đức Chí-Tôn
đã đến, chính mình Ngài đến mở đạo 24 năm
trường nay. Ngài đã ký-kết với nhơn-loại bản
hòa-ước thứ ba. Hai hòa-ước kỳ trước nhơn-loại
đã phản bội, không giũ sở tín của mình vì
cớ cho nên phải thất đạo, nhơn-loại đi trong
con đường diệt-vong tương-tranh, tương-sát nhau.
Vì lòng bác-ái từ-bi Chí-Tôn đến kỳ hòa-ước
thứ ba nữa để trong luật-điều. Chúng ta thấy
các đấng Thiêng-Liêng chỉ tấm tượng Tam-Thánh
biểu nhơn-loại tín-ngưỡng; Thiên-thượng,
thiên-hạ (Dieu et Humanité) về luật có bác-ái,
pháp có công-bình, ngoài ra dầu Luật-pháp muôn
ngàn hình-tướng, Hội-Thánh đạo Cao-Đài dìu-dẫn
tâm-lý nhơn-sanh, chỉ-dẫn họ vô mặt tối-cao
là luật bác-ái và vô một nền chơn pháp tối
trọng là pháp công bình.
Luật-pháp của đạo Cao-Đài, ngoài ra luật
bác-ái và pháp công-bình, tất cả luật điều
khác, đều là phương-pháp lấy giả tạo chơn
mà thôi.
Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng về quyền-năng
hiệu-nghiệm của luật bác-ái và pháp công-bình.
Tại
Đền-Thánh Đêm 30 tháng 11 năm Mậu-Tý (1948)
ĐẠI
HÙNG ĐẠI LỰC ĐẠI TỪ-BI
Đêm
nay Bần-Đạo giảng câu triết-lý đại-từ, đại-bi.
Câu triết-lý ấy nguyên bổn của nó do nơi Minh-đường,
Minh-Sư đã thuyết giáo, chúng ta chẳng biết Minh-Đường
Minh-Sư họ có phương-pháp chi mà luyện hay lắm,
sự triết-lý đã truyền-giáo một cách vững
chắc, chúng ta cũng nhìn nhận có nhiều chơn-lý
đặc-sắc, tưởng-tượng ra câu thường-ngữ
khi thuyết-pháp họ thuyết-pháp nơi câu đại-hùng,
đại-lực, đại từ-bi. Thật vậy các người
tu, nếu không có đức tin dường đó thì không
có thể gì thành Đạo đặng. Triét-lý nhà Phật
từ tạo thiên lập địa đến giờ đã tạo ra
biết bao nhiêu Đấng đã thừa-hành mạng lịnh
Phật-giáo, đang hành-hóa chúng-sanh nơi mặt thế-gian
nầy, nếu không có tánh-đức ấy chẳng hề khi
nào lập giáo đặng, Đại-lực, câu ấy có lẽ
để một phương ngôn-luận, công-lý của một
mối đạo mình tu phải có một đức tin hùng
dũng mới đặng. Bần-Đạo nói, nếu không có
tánh-đức hùng-dũng chẳng hề khi nào thắng khảo-đảo
đặng. Cả thảy con-cái của Đức Chí-Tôn đều
biết từ ngày mở đạo đến giờ, một trường
khảo-đảo kịch-liệt, từ ngày đạo mới phôi-thai
đến giờ, nếu không có tinh-thần hùng dũng của
con cái Đức Chí-Tôn cương-quyết lập đạo cho
thành, “cương-quyết phải thắng” vì tổng
số cả tinh-thần hùng-dũng của con cái Đức
Chí-Tôn, nên ngày nay nền Đạo mới ra thiệt-tướng
như vậy.
Bần-Đạo ngồi quan-sát lại, quan sát từ
buổi thô-sơ triết-lý do những điều Đức Chí-Tôn
tìm Chánh-Lý, Ngài đến cầm cây viết Thiêng-Liêng
lựa chọn đem vô Thánh-Thể của Ngài, những
kẻ ấy thất đạo, vì nguyên do buổi trước,
Bần-Đạo thấy quả-quyết và dám chắc như thế,
nếu Bần-Đạo vạch ra thì toàn cả con cái của
Đức Chí-Tôn cũng ngó thấy Bần-Đạo, mà những
kẻ thất đạo, không theo dõi bước Thiêng-Liêng
của Đức Chí-Tôn là do nhút-nhát sợ-sệt, bạc-nhược,
sợ cường-quyền, sợ luật đối-phương mãnh-liệt,
họ chưa có chí hùng-dũng quyết tranh-đấu quyết
thắng nên họ thất đạo, cái thất đạo của
họ là thiếu chí hùng-dũng, là tại nơi họ nhút-nhát,
bạc-nhược. Tinh-thần hùng-dũng chẳng phải nơi
cửa đạo mà thôi, ngoài đời cũng vậy, bực
vĩ-nhân đã tạo thời cải thế từ thượng cổ
đến giờ, nếu không có tinh-thần hùng-dũng thì
phải bị làn sóng đời lôi cuốn như một dề
bèo trôi giữa dòng sông kia vậy. Đức Chí-Tôn
có một quyền-năng đặc-sắc để nơi địa-vị
của mình, nhưng họ thiếu chí hùng-dũng và cương-quyết.
Bần-Đạo chỉ bằng cớ hiển-nhiên là khi Đức
Phật Thích-Ca còn Thái-tử có kẻ nghe Ngài bổn-tánh
là một vị Thánh, nên đến xin con mắt của Ngài,
Ngài dám móc con mắt cho kẻ ấy, nếu không có
chí hùng-dũng cương-quyết, tưởng chưa có người
nào nơi mặt thế-gian nầy làm đặng như Ngài,
khi Ngài đạt đến địa-vị Thiên-Phẩm, tức
nhiên Ngài ngồi luyện đạo, đương tịnh luyện
dưới gốc Bồ-Đề, có một vị Vương-hầu đi
săn, rượt theo con nai, con nai chạy ngang gần chỗ
Ngài ngồi, nó tách qua nơi khác, vị Vương-hầu
ấy rượt đến không thấy con nai, chỉ thấy
Ngài ngồi dưới gốc Bồ-Đề mà thôi. Vị Vương-hầu
ấy mới hỏi Ngài có thấy con nai chạy ngang qua
đây không ? Ngài suy-nghĩ nếu ta chỉ chỗ thì
vị hung-thần nầy giết nó, thì ta có liên-quan
tới sát sanh, nếu ta nói không thấy thì ta nói
dối tốt hơn thì ta làm thinh, Ngài nhứt-định
làm thinh.
Vị hung-thần ấy nỗi giận nhiếc-mắng
Ngài, dầu cho Ông Thầy tu đi nữa, nhưng Ông là
một người dân của tôi, ở trong nước của
tôi, tức nhiên Ông là tôi-tớ của tôi. Nếu
tôi hỏi tiếng nữa mà Ông không trả lời, tôi
sẽ chặt cánh tay mặt của Ông. Tôi hỏi Ông
có thấy con nai chạy ngang qua đây không ? Ngài
quyết-định không trả lời. Ngài làm thinh không
trả lời. Vị hung thần ấy liền chặt rớt cánh
tay mặt của Ngài, xong rồi nói : tôi hỏi tiếng
nữa mà Ông làm thinh thì tôi chặt cánh tay trái
của Ông. Ông có thấy con nai chạy ngang qua đây
không ? Ngài làm thinh. Vị hung thần ấy liền chặt cánh tay trái
của Ngài, vị hung thần ấy nói : nếu tôi hỏi
lần nữa mà Ông không nói, tôi sẽ chặt đầu
Ông. Ngài vẫn suy nghĩ ta đã chịu chặt hai tay
rồi, có lẽ đâu ta sợ chết mà phải nói, nên
Ngài cương-quyết làm thinh luôn. Vị hung thần
ấy liền chặt đầu Ngài, Ngài xuất chơn-hồn
của Ngài ra ngoài thể-phách, kế có một bánh
xe lửa, chụp lên đầu Ngài đốt Ngài, vì quyền
Ngọc-Hư-Cung định-án Ngài tự sát. Đã bị chặt
hai cánh tay rồi, còn đầu mà không nói thấy,
tức nhiên mình tự-vận, mà bánh xe lửa ấy nóng
nảy làm sao, không thể nói được khổ-não của
Ngài ! cái khổ-não ấy, Ngài mới suy-nghĩ. Nếu
bánh xe lửa nầy rớt trên đầu ai cũng chịu
không nỗi. Ngài suy-nghĩ, ta đã chịu chặt tay,
chặt đầu, bị đốt mà chịu nỗi, nên Ngài
cầu-nguyện để cho Ngài chịu tất cả hình phạt
ấy. Ngài vừa cầu nguyện, vừa tưởng-tượng
thì bánh xe lửa này bay đi, nếu Ngài không có
tinh-thần hùng-dũng thì không thể gì làm được.
Đức Thích-Ca đã làm được, khi nào đạt-vị
tại thành “Kabi-kanla” tức là xứ-sở quê-hương
của Ngài.
Quốc-Vương trị-an thiên-hạ nơi ấy là
cha của Ngài bắt tội Ngài bỏ nhà đi tu là bất-hiếu,
nếu làm con như kẻ thường-tình trở về nói
đi tìm Đạo chắc Ngài không nở bắt tội, mà
ông cha côt-yếu, muốn thấy Phật nên mới làm
như vậy mà thôi.
Ngài truyền cho thiên-hạ biết, nếu gặp
Đức Phật Thích-Ca thì bắt đem về cho Ngài lên
án tử-hình.
Chừng Ngài nghe nói lên án tử-hình ấy,
đức Thích-Ca liền ra chịu án tử-hình. Ngài
nói án tử-hình ấy để một mình con xin chịu
thôi. Con tín-đồ của con xin cha tha-thứ để
cho nó tu. Nếu không có tinh-thần hùng-dũng chưa
ai làm được như Phật Thích-Ca vậy.
Noi một chí khí hùng-dũng về tinh-thần
của Đức Lão-Tử. Từ hồi ở nơi Thơ-Viện
nhà Châu bị đuổi, lên xe trâu mà về Còn-Lôn-Sơn,
đi thì có một mảnh áo, một con trâu ra khỏi
dinh nhà Châu. Nếu không có chí hùng-dũng chưa
dễ gì đương làm một vị Đại-Quan Triều nhà
Châu, từ nơi dinh nhà Châu ra đi chỉ có một
mảnh áo với một con trâu mà về Còn-Lôn-Sơn
đặng.
Đức Khổng Phu-tử đã châu-lưu lục-quốc
bất kỳ nơi nào cũng bị thiên-hạ biếm-nhẻ,
chê-bai, bắt dọa cho đến khúc trở về nước
Lỗ, khi về Ngài còn cần-cù dạy học trò. Ngài
làm quan đến bực Tể-Tướng và làm quan đến
Gián-Nghị đại-Phu mà vẫn còn cần-cù dạy học.
Nếu Ngài không có chí hùng-dũng thì không thể
gì làm như vậy đặng.
Như Đức Chúa Jésus-Christ khi ngài đã chết
trên cây Thánh-Giá, chúng đóng đinh trên cây Thánh-Giá
mà quân vô đạo đứng dưới cây Thánh-Giá kêu
Ngài nhiếc-mắng Ngài, nói Ngài là con Đức Chúa-trời
quyền-năng vô biên cứu cả thiên-hạ đặng,
dầu người cứu thử người trước coi, người
làm sao xuống đặng bốn cây đinh đóng hai tay
hai chân của người đó coi. Ngài chỉ ngó lên
Trời cầu nguyện Thưa Cha xin Cha tha tội tình
cho chúng nó. Nếu Chúa không có chí hùng-dũng
thì chưa có tinh-thần thần ấy. Mohamed lập ra
Đạo Hồi-Hồi bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám
trốn chui, trốn nhủi, mà không buổi nào thất
chi.
Noi một Đấng mà chúng ta thường biết
là Huệ-Năng, khi thầy đi tu, đi học đường
thấy một đàn-bà lõa-thể nằm chết ở lề
đường. Kẻ tầm thường có lẽ nhắm mắt đi
ngang qua chổ đó, vì theo đạo-giáo nên Ngài lật
một chiếc giày ra đậy chổ lõa-thể rồi Ngài
mới đi. Nếu Ngài không có can-đảm và hùng-dũng
chưa chắc Ngài đã làm đặng.
Giờ phút nầy chúng ta chỉ một người
làm cho thiên-hạ đảo-lộn thành một trường
ngôn-luận cả toàn thể hoàn-cầu là Galania-Davis
dám đến giữa hội Vạn-Quốc hỏi rằng : Hòa-Bình
thế-giới, các Ngài dám bảo-đảm không ? Tôi
cốt-yếu là một công dân đệ nhứt của Quốc-tế
đến hỏi các Ngài dám bảo-đảm Hòa-Bình thế-
giới không ? Nếu không có chi hùng-dũng thì anh
Galania Davis chưa hề làm được.
Còn nhiều phương nữa nếu không có chí
hùng-dũng, có đại-lực thì chưa làm được.
Hùng dũng được, tức nhiên theo lẽ phải, có
hùng có lực phải từ-bi. Nếu muốn vào hàng
Thánh-đức phải đi ngan qua cửa từ-bi. Hễ Đạo
có hành-tàng thì lấy từ-bi làm căn-bản, còn
hung-tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ
không phải cứu đời.
Đức Chúa Jésus-Christ cứu đời có nhiều
đại-từ, đại-bi, đại-lực.
Các nhà đạo-giáo đi đến cửa mà vô không
đặng thì trở qua tả-đạo bàn-môn, còn đi thuận
chiều thì là đại từ-bi, qua được tức nhiên
theo chiều của Đức Chí-Tôn mà đôi khi còn đi
qua thiên-lý, thiên-số, và thiên-tánh tức nhiên
là chơn-tánh, tức nhiên là chơn-đạo. Nếu chơn-đạo
không biết giữ thì thì đại-hùng đại-lực
sẽ biến thành đại-ác tả-đạo bàn-môn.
Đương nhiên bây giờ Hiler, Mussolini, Lénine
và Staline nó do đại-hùng đại-lực đại-ác
chớ không có đại từ-bi thì nó nghịch chiều
đó vậy.
Kết-luận, cả con cái Chí-Tôn thầy một
trường-hợp nào bất-chánh thì quan-sát cái trạng
thái của nền Chánh-Giáo Đức Chí-Tôn đã cho
hay trước, nó có đại-hùng đại-lực rồi nó
phải đi trong con đường đại từ bi, coi chừng
có con đường nào đi qua đại-ác của nó, cả
thảy điều đứng lên làm một bức tường thiên-nhiên
gây thành một bức tường huyền-diệu của Đức
Chí-Tôn đặng cản-ngăn che cho Ngài, cái nền
Tôn giáo của Ngài đừng cho đi vào đường đại-ác.
Tương lai thay đổi, phải mở con mắt Thiêng-Liêng,
lấy tinh-thần toàn-thể, dầu Chức-Sắc Thiên-Phong
hay tín-đồ cũng vậy, con mắt phải mở. Con mắt
ấy là Huệ-Nhãn phải mở cho rõ-ràng minh-mẫn
đặng coi chừng thay đổi nền Chánh-Giáo của
Đức Chí-Tôn vĩnh-cửu trường-tồn, đừng để
ngày sau đổ-sụp mà ân-hận.
LUẬT-QUYỀN
Kỳ
thuyết-pháp trước, Bần-Đạo đã có một dấu
hỏi : ”Đạo Cao-Đài có thế đem hạnh-phúc
cho nhơn-loại, tạo hòa-bình, làm cho đại-đồng
thiên-hạ đặng chăng? ” .
Đã đặt dấu hỏi, tức nhiên phải trả
lời.
Chúng ta chẳng nên mờ-ám chỉ biết tin
nơi Đức Chí-Tôn mà thôi, mà phải biết Ngài
đến tạo nền Tôn-giáo cốt yếu là đến kỳ
hòa-ước với nhơn-sanh, tạo hạnh-phúc cho nhơn-sanh
và làm cho thiên-hạ hưởng đặng thái-bình nơi
mặt địa-cầu 68 nầy, tức nhiên chúng ta dám
quả-quyết và để đức-tin chắc-chắn rằng
thế nào cũng thành-tựu, nhứt là có quyết-đoán
của anh Cả Thiêng-Liêng chúng ta là Đức-Lý Giáo-Tông
đã nói :
Đức-tin một khối tượng nên hình,
Đã hiệp Vạn Linh với Chí-Linh.
Nghĩa là Đạo Cao-Đài đã thành, nhưng từ
từ đi lên cho đến cái địa-cảnh vô đối của
nó.
Ta đã biết Chí-Tôn đến ký hòa-ước của
nhơn-sanh, nhứt là các liệt-cường ký với nhau,
khoản nầy, khoản nọ, khoản kia, đủ thứ, ký
không biết mấy khảon. Với Đức Chí-Tôn chỉ
có 2 khoản thôi.
1.- Luật : thương yêu, Ngài
định luật cho chúng ta là thương yêu, không phải
thương-yêu nhơn-loại mà thôi, mà phải thương
yêu toàn cả Vạn-Linh nữa.
2.- Còn Quyền : Ngài chỉ định là quyền
công-chánh.
Từ thử, ta chưa thấy cái hòa ước nào
đơn sơ như thế, mà nó có oai-quyền làm sao ?
Không thế gì thật hiện đặng, dầu cho tận
thế, loài người cũng chưa thật-hiện ra đặng,
chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng
thành, nhưng thời-gian ta không quyết-định, ta
chỉ lấy lương-tri, tức là lấy trí-tri tìm hiểu
chơn tướng Đạo Cao-Đài làm thế nào mà đem
hạnh-phúc cho nhơn-loại hưởng được, và tạo
hòa-bình cho thiên-hạ đại-đồng thế giới.
Chúng ta lấy tri-tri tìm hiểu thôi.
Chúng ta thấy quyền-năng của luật thương
yêu thế nào ? Tấng tuồng đời hiển-hiện từ
khi có lòai người đến giờ. Nếu không nhờ
sức mạnh-mẽ vô-biên của luật thương yêu ấy
thì Đức Phật Thích-Ca chưa có lập giáo thành
tướng được. Khi Ngài đến Résu, luyện pháp
tuyệt thực, có người theo Ngài, 4 người không
phải theo làm môn-đệ, mà theo đặng coi Phật
có đạt-pháp đặng chăng. Đến chừng Ngài từ
trên ngọn núi tuột xuống núi, Ngài ăn uống
lại, mấy người đợi ở chân núi thấy như
vậy, cho rằng Ngài đã qui-phàm rồi, không đạt
pháp chi hết, 4 người chê bỏ đi. Tới chừng
Ngài đi thuyết-giáo, Ngài tìm 4 người ấy, bốn
người biết Ngài là chơn-thật mới theo. Trong
bốn người mà chỉ có 2 người trọng yếu hơn
hết, rồi đến ngày cuối- cùng còn có một người
đạt đặng Phật-Giáo thôi.
Đạo Tiên, Đức Lão-Tử có một người
Môn-đệ và một đứa ở là Tứ-Giáp biết Đạo
của Ngài, duy có ông Doãn-Hĩ theo Đức Lão-Tử,
đạt-pháp truyền-giáo mà Đạo Tiên còn tồn-tại
đến ngày nay.
Đạo Khổng-Phu-Tử, tuy vẫn còn có Tam Thập
Lục Thánh, Thất Thập Nhị-Hiền, mà cả thảy
Đức Khổng-Phu-Tử, chưa chắc người nào đạt
Đạo đặng. Duy có một người mà thôi, Thầy
Sâm. Bằng cớ là buỏi chung qui Ngài kêu Sâm nói
: “ Sâm hồ ngô đạo, nhứt dĩ quán chi” ( Đạo
ta chỉ một người biết mà thôi ).
Đức Chúa Jésus-Christ có nửa người môn-đệ
thôi, bởi Ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi
ăn-năn khóc-lóc với bà Maria mà xưng tội mình.
Mahomet có một người môn-đệ phụ-nữ
mà Đạo Hồi-Hồi đã thành vậy.
Chúng ta suy-đoán chỉ thấy có thương-yêu.
Duy có một người thương hoặc nửa người thương
mà các vị Giáo-Chủ đã lập thành Tôn-giáo tại
mặt thế nầy.
Chúng ta xét lại thấy Đạo Cao-Đài còn
hạnh-phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận
quả-quyết thì được có ba người, mà ba người
tức nhiều hơn thiên-hạ rồi. Cái thiên-tướng
của nền Chơn-Giáo Đức Chí-Tôn đã hiện tượng,
do quyền năng vô-đối của Ngài mà đạt được,
mà trong các vị thừa mạng-lịnh của Ngài đã
vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó, Bần-Đạo
kiếu lỗi toàn con cái của Ngài, không phải là
tự-kiêu hay tự-đắc, chính tay Bần-Đạo có
một phần khá lắm, Vì cớ Bần-Đạo rủ toàn
thể chúng ta dùng phép “Hồi-quang phản-chiếu”
đặng định tướng-diện của mình, cốt-yếu
là một phần-tử trong nền Chơn-Giáo, hễ mình
định được chơn tướng của mình, tổng số
các chơn-tưóng đó làm chơn-tướng của Đạo.
Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài được nên
hình-trạng trọn vẹn, tức là hình tướng thương-yêu
vô-tận, nó nên hình có nét đẹp thiên-nhiên
là nhờ vẽ với cây viết thương yêu. Trước
Đức Chí-Tôn đến cầm cây viết thương yêu
mà viết nét Thiêng-Liêng cho cả Thánh-Thể của
Ngài đồ theo nét thương yêu ấy đặng tạo nên
hình-trạng, thành-tướng một khối thương yêu.
Ta không có mơ-mộng và không lường gạt tâm-lý
nhơn-sanh, trước mắt mọi người đều thấy,
hỏi do quyền-năng nào tạo thành quyền lực ngày
nay ? Quyền Đạo ngày nay do luật thương yêu mà
thành tướng, vậy đã do luật thương-yêu thành-tướng
thì không có quyền-năng nào tàn-phá cho đặng.
Nó có sợ chăng là luật thù-hận. May thay cả
lực lượng thù-hận cũng không xung-đột được,
bởi có bàn tay Thiêng-Liêng gạt thù-hận ra khỏi
rồi.
Nó nên hình bởi sự thương yêu, trưởng-thành
trong sự thương-yêu, bởi hình-chất của thương-yêu,
hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng-kiện,
nó sẽ làm chúa cả thù-hận, và quyền-năng thù
hận không hề xăm-lấn nó được. Nói quả-quyết
Bần-Đạo đã đánh tan thù-hận ra, khi các phe-đảng
dùng quyền lực chiếm ngôi-vị của Chí-Tôn để
tại mặt thế nầy, Bần-Đạo đã cản-đảm
dùng quyền của Bần-Đạo đánh ngã ra hết, đặng
bảo trọng hình tướng Thiêng-Liêng của Đạo,
Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần-Đạo gánh
lấy thù-hận ấy đặng bảo-tồn hình-thể của
Chí-Tôn cho trọn thương- yêu. Bần-Đạo dùng
can đảm gánh lấy cả thù-hận của thiên-hạ
mà bảo-tồn khối thương-yêu của Chí-Tôn vô-đối,
không cho hoen ố, nhơ-bợn. Tại sao mà Bần-Đạo
dám thí mình gánh-vác thù-hận đặng bảo-trọng
nó ? bởi biết nó là chúa cả hình-ảnh của
quyền trị-thế tương-lai, nó là thầy thiên-hạ
đặng trị thế, nếu không toàn-vẹn, nó lưu
lại kiểu-vở thô-bỉ nhơ-nhớp, thì không thế
gì làm thầy thiên-hạ đặng.
Các chi-phái buổi nọ dùng cường-quyền
mà đoạt vị, không lẽ Bần-Đạo là Hộ-Pháp,
nắm giữ Chơn-Truyền trong tay đây, mà để cho
nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa
từ trước, để lưu lại cho nền Chơn-Giáo của
Chí-Tôn sao ? May thay, quyền ấy chưa xung-đột
được Chánh-Giáo của Chí-Tôn: nó đã bại trận,
bởi Thánh-Thể của Ngài có người cầm luật-pháp
oai-nghiêm, tức là cầm cây Huệ-Kiếm trong tay
đặng gìn-giữ nền Tôn-giáo nên hình được,
nó nên được tức tạo cho thiên hạ được.
Nó đã tạo oai-quyền của nó thành tướng đặng
thì tạo quyền cho nhơn-sanh nơi mặt địa-cầu
này về tương lai đặng.
TÌM HÒA-BÌNH VÀ HẠNH-PHÚC
Đêm
nay là thời chót của đêm cúng Chung Niên năm
Mậu-Tý, chúng ta lấy ngày 23 là ngày Hiệp Thiên
đó vậy.
Ngày nay Bần-Đạo không thuyết đạo mà
thuyết thời cuộc đặng quan sát cả năm của
chúng ta, ngày nay đến bước nào, nhứt là về
Quốc Gia Việt-Nam .
Nghe được truyền thanh dường như Pháp
đã chịu lời yêu-cầu của Đức Bảo-Đài trả
độc-lập và thống nhất của nước Việt-Nam
lại cho Quốc-Dân Việt-Nam , có lẽ Bảo-Đại
sẽ hồi-loan. Về sở-vọng của quốc-dân Việt-Nam,
liên-kết trong 80 năm và ước-vọng của quốc-dân
Việt-Nam đang thõa-mãn vậy.
Ta tìm lụng lại coi thế gì nó giúp cho
tương-lai kiến-thiết quốc-gia Việt-Nam đắc-lực
hay không đắc-lực. Chúng ta cứ quan-sát xem hành-tàng
định cuộc thế, bàn thử tương lai của chúng
ta, có một điều Bần-Đạo tưởng rất cần
rất bổ-ích, cái khuôn-luật tạo-đoan đã gọi
rằng vạn-vật tối linh tức nhiên mạng-sanh trọng
hệ nơi mặt thế- gian nầy, bởi vì mạng-sanh
là thể của vạn-năng tối-linh thành tưóng, bởi
vậy cho nên có một khuôn-luật đặc-biệt. Nơi
ấy làm như đã vô kuôn-luật thiên nhiên để
vay trả. Chúng ta thấy năm nào lúc mưa gió dữ-dội,
thì loài kiến nó làm ổ trên cây nó tha trứng
gát lên nhành cây cao, nó có khiếu-linh, hễ lụt
thì hang ổ hư hết, đường như tâm-linh của
nó, bảo-sanh của nó cho hay trước đặng nó tìm
phương-thế tự-vệ mạng-sanh của nó. Bần-Đạo
ngó thấy nữa, tỷ như loài ong mà ngày mai ổ
nó sẽ bị phá, bị đốt, bị lấy mật, thì
nó hay trước, đêm đó hai phần ong đi trước.
Chúng ta còn ngó thấy nữa, khi chúng ta cỡi
con ngựa đi trong đường vắng, thảng như có
cọp, hay mãnh-thú gì đón đặng bắt người cỡi
và nó, khi đi gần tới chổ đó mà người cỡi
hiểu biết thì tránh được vì nó không chịu
đi hay nó đi qua đường khác, vì nó biết lánh
mạng của nó đi tớâi khuôn-luật . Ta đây cũng
vậy, khi nào ta có tai-nạn gì hại đến mạng-sanh
của ta, đường tâm-linh của ta cho biết trước,
điều ấy có hiển-nhiên của mỗi người, được
thấu-đáo đến cái nguy-hại đến mỗi cá-nhân
cũng vậy.
Bần-Đạo thường nói lấy nhỏ mà đoán
lớn, cả Vạn quốc nhơn-loại trên hoàn-cầu
lúc nầy cũng vậy, dường như tâm-linh của họ
cho biết trước cái nạn nguy biến tự diệt nơi
mặt địa-cầu nầy, Nếu họ chia-rẻ tương-tàn,
tương sát với nhau, không phải buổi nầy mà
thôi, mà về tương-lai nữa.
Khi chưa có trân giặc thứ nhất họ đã
lập Vạn-quốc liên-mình để bảo-vệ hòa-bình
thiên-hạ.
Hỏi cái hung-tàn bạo ngược của đời
có nghĩa-lý gì không ? Nhưng lấy tâm-lý công-chánh
định coi chúng ta ngó thấy, nhờ có Hội Vạn-Quốc
liên-minh mà hòa-bình mới còn duy-trì đến ngày
nay. Nếu không có hội Vạn-Quốc liên-minh bảo-vệ
hòa-bình thì trận giặc thứ ba khởi chiến trước
rồi. Bây giờ dường như thiên-hạ đã ngó thấy
cái tai-nạn, nhơn-loại ngó thấy hình-tướng,
hiện hình xuất tướng mà thôi.
Chúng ta ngó thấy cả toàn-cầu Vạn-Quốc
liên-minh dầu có đổi tên nhưng cái tướng của
nó vẫn-còn là nhỏ, cơ-quan ấy là cơ-quan cứu
thế . Nếu không có nó thì nhơn-loại đã đi
đến con đường tự-diệt, không còn quyền-năng
nào ngăn-cản bước nguy-hiểm của nó được.
Vì cớ chúng ta thấy,nó xuất hiện trước
cũng như vị Thánh Gandhi chống cây gậy mặc một
tấm chăn đi khắp cùng thiên-hạ kêu gọi bác-ái
từ-bi đặng định tâm thiên-ha: lấy đạo-đức
làm căn-bản đặng cứu-vãn cái nạn tương-tàn,
tương-sát của nhơn-loại, bảo-vệ hai chữ hòa-bình
trong khuôn-khổ đạo-đức.
Ngài đã làm bên xứ Aán-Độ, tôi tưởng
sự làm của Ngài với sự làm của Đức Chí-Tôn
đi đôi với nhau. Đức Chí-Tôn không trước Ngài,
mà Ngài cũng không trước Chí-Tôn, ngoài ra cũng
không phải ảnh-hưởng cho vị Thánh Gandhi.
Tìm hiểu nhơn-loại để tự-giác mình,
còn nhiều bậc trí-thức cao-siêu hơn nhơn-loại,
cầm vận-mạng các quốc-gia trù tính kế-hoạch
đặng bảo-vệ hòa-bình và bảo-tồn sanh-mạng
cho loài người tức là bảo-tồn sanh-mạng cho
nhơn-loại.
Chúng ta ngó thấy tại đền Chaillot, cả
Vạn-quốc tìm đủ phương-chước để bảo-vệ
hòa-bình mà họ còn thất-bại nữa mà chớ. Chúng
ta ngó thấy nạn phân-chia tâm-lý nhơn-loại hiện
giờ làm gì ? Chúng ta có ba mãnh-lực, mãnh-lực
tư-bản, mãnh-lực cộng-sản và mãnh-lực đạo-đức.
Cộng sản nói rằng: của sở-hữu nơi mặt
địa-cầu đủ nuôi nhơn-loại trên mặt địa-cầu
nầy. Nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy có ít
nữa 2.500 triệu người. Của-cải trên mặt địa-cầu
nầy có thể nuôi họ đặng. Nhưng của-cải phải
chia đều với nhau, không ai hơn, không ai kém.
Nếu muốn chia phải làm, phải có sản-xuất
mới chia được. Luật chia đã đành không chánh-thật,
mà nó không làm thì của đâu mà chia, người
làm người không thì chia sao được. Giựt ăn
chớ chia cái gì. Cái thuyết cao-siêu lắm mà hàmh-tàng
thì trái hẳn với chơn-lý.
Một đàng Tư-bản nói làm cho nhiều, làm
dư-giã, để của cho nhiều tức thiên-hạ sống
hanh-phúc, mà nếu có luật buộc thiên-hạ chia
của, mà kẻ không làm đặng chia của, ở không
mà đặng ăn là bất-công, giờ toàn cả thiên-hạ
phải làm, làm cho qua sở vọng của loài người
thì sống vô cùng hanh-phúc. Có một điều làm
ra rồi người làm coi giữ quyền lợi của mình
không cho thiên-hạ hưởng, thành ra thuyết hay
mà sự làm trái bản chơn-lý nữa. Hai thuyết
ấy tương-đương với nhau, chiến-đấu một cách
kịch-liệt thành ra hai khối Nga và Mỹ.
Bây giờ còn thuyết đạo-đức có hơi khác
hơn hai thuyết kia, Bần-Đạo tưởng không cần
để của cho nhiều mà làm giàu, vì nghĩa-lý của
Đạo, mình biết khổ với nhau, biết-thiếu thốn
cùng nhau, hoạn-nạn có nhau, mình biết tùy thế
tùy thời, dầu không có của mà gìn luật thương-yêu,
bảo-vệ nhau tuy nghèo mà nó còn gìn-giữ đặng.
Duy có hiệp cả nhơn-loại, thông-trí cả tâm-lý
tinh-thần loài người như một gia-đình kia. Nhơn-loại
ngày giờ nào mà biết yêu-ái nhau, biết bảo-vệ
nhau như trong gia-đình của các Ngài, đó mới
gọi là hanh-phúc ; làm việc có kẻ mạnh người
yếu, kẻ bịnh, người già không thể làm hơn
kẻ tráng kiện được. Người bạc-nhược không
thể để cho phận-sự nặng nề trong đó được.
Nếu suy ra biết bao nhiêu sự bất-công. Duy có
tình thương-yêu nồng-nàn mới tạo hanh-phúc chung
mà thôi. Tạo hanh-phúc chung cho nhau về mặt tinh-thần
hay mặc xác-thịt cũng thế, con người thỏa-mãn
đặng về phương sống của mình với tâm-tình
thương-yêu thì mới hạnh-phúc, còn ngoài ra dám
chắc mạng sống con người không khi nào hoàn-toàn
hạnh-phúc. Bởi vì thản như mình đương mạnh
đây nhưng đi đâu đó rủi đạp nhằm cái gai
cũng đủ đau-đớn rồi, đương-nhiên như thế
mà phải chịu cảnh ăn không ngồi rồi cũng là
mất hanh-phúc kiếp sống, con người ta không khi
nào hưởng trọn hạnh-phúc, duy có đau khổ thêm
thì có chớ không có hạnh-phúc gì đâu mà mơ-vọng.
Hỏi thử trong kiếp sống của chúng ta có
giờ phút nào có hanh-phúc chăng ? Tìm thử trong
kiếp-sống kiếm lụng lại coi, hạnh-phúc bao
nhiêu ? rồi xem tổng-số lại coi được cái gì
có hạnh-phúc, coi đó được hanh-phúc chăng ?
Oâi ! Chỉ thấy cảnh khổ, cũng như ra ngoài bãi
sa-mạc kia muốn có giọt nước Cam-Lồ rải xuống
trong khi nắng-hạ, vậy thì hanh-phúc cho nhơn-loại
không khác. Nếu có hanh-phúc hay chăng thì như
Bần-Đạo đã nói, làm người phải biết yêu-ái
với nhau, biết tôn-trọng nhau, biết bảo-vệ
sự sống còn cho nhau ấy mới là hanh-phúc. Ngoài
ra thì cũng như câu cá trên ngọn cây không hanh-phúc
gì hết.
CHUNG
MỤC
LỤC
1.-
Thánh thơ của Đức THƯỢNG-SANH
2.-
Lời tựa của Ngài HIẾN-PHÁP
3.-
Lời trần thuyết của Ban-Tốc-Ký
4.-
Hoàn thuốc phục-sinh hòa-bình
5.-
Ngày xuân là ngày phục-sinh của vạn-vật
6.-
Huấn-từ buổi tiệc đầu xuân ?
7.-
Quyền năng của nền Tôn-giáo
8.-
Quyền năng của nền Tôn-giáo (tiếp theo)
9.-
Khi vô đền Thánh phải bỏ hết phàm tâm
10.- Liên-quan con cái Đức Chí-Tôn đối
với Ngài
11.-Hộ-Pháp Hành-Pháp mỗi khi vô cúng
Đàn
12.-
Ý nghĩa đi hoán đàn ?
13.-
Đạo là sự sống trong Càn-Khôn Vũ-trụ
14.- Thể chất và tính đức của khách
trần
15.- Việt-Nam độc-lập trong liên-hiệp
Pháp
16.- Để cả Đức Tin nơi Phật-Mẫu
17.- Thiên cung của mỗi con cái Chí-Tôn
18.- Nhiều kẻ được gọi mà ít người
đến
19.- Vận mạng của đất nước Việt-Nam
hiện thời
20.- Đòi lại chủ-quyền của Việt-Nam
21.- Quốc Đạo kim triều thành Đại-Đạo
22.- Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo
(tiếp theo)
23.- Quốc Đạo kim triều thành Đại-Đạo
(tiếp theo)
24.- Nam-phong thử nhựt biến nhơn-phong
25.- Bảo-thủ thuần-phong mỹ-tục
26.- Phong-hóa Việt-Nam đối với các chủng-tộc
khác
27.- Phong-hóa Việt-Nam đối với các chủng-tộc
khác (tiếp theo)
28.- Phong-hóa Việt-Nam đối với các chủng-tộc
khác (tiếp theo)
29.- Phương-pháp tổ-chức xã-hội trong
hương-thôn Việt-Nam
30.- Đệ nhứt chủ-quyền của xã-hội
Việt-Nam
31.- Ýù-nghĩa về nhạc tấu huân thiên
32.- Tân nội-các quốc-gia Việt-Nam
33.- Lễ tiếp rước ông Tổng-Trưởng
Bộ Pháp-Quốc Hải Ngoại
34.- Vì sao Đức Hộ-Pháp cầm quyền nhị
Hữu Hình Đài
35.- Quả kiếp của dân-tộc Việt-Nam
36.- Đức Chí-Tôn hành-pháp tại Kiêm-Biên
37.- Của cải của chúng ta tại thế nầy
38.- Luật-pháp và quyền điều-khiển Càn-Khôn
Vũ-trụ
39.- Lịch-sử Đức Quan Thánh Đế Quân
40.-
Hội-Thánh là gì ?
41.-
Pháp-chánh Hiệp-Thiên là gì ?
42.-
Đức tánh Trung-Hiếu-Nghĩa. ?
43.-
Luật tương-đối của hai thái-cực chơn thật
và giả-dối
44.-
Huân-từ lễ mãn-khóa Hạnh-Đường
45.-
Cha mẹ phải noi gương tốt cho trẻ con
46.-
Lễ khánh thành điền thờ Phật-Mẫu tại Qui-Thiện
47.-
Lễ Hội-Yến Diêu-Trì ?
48.-
Lễ Trung-Thu ?
49.-
Đức Hộ-Pháp đi Saigon về rèn độc-lập Việt-Nam
50.-
Nhơn tình thế-sự đối với nhơn-tình Đạo-Đức
51.-
Việt-Nam độc-lập trong Liên-Hiệp-Pháp
52.-
Đức Hộ-Pháp thuyết minh khi hội-đàm cùng
Thượng-sứ Pháp
53.-
Sự điều-hòa Càn-Khôn võ-trụ
54.-
Lễ cầu-siêu cho chiến-sĩ trận-vong
55.-
Lễ kỷ-niệm Đức quyền Giáo-Tông
56.-
Lễ hạ Nguơn năm Mậu-Tý (1945)
57.-
Món ăn của linh-hồn ?
58.-
Năng lực tinh-thần Đạo-Đức
59.-
Vía Đức Chúa Jésus Christ ?
60.-
Bác-ái và công-bình ?
61.-
Đại hùng đại lực đại từ bi ?
62.-
Luật và Quyền
63.-
Tìm hòa-bình và hạnh-phúc ?
|