Ði đạo  Tam kỳ  Phổ độ

Tòa Thánh  Tây Ninh

 

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

BÍNH TUẤT- ĐINH HỢI (1946-1947)

 

QUYỂN-HAI (tiếp theo)

HỘI THÁNH  GIỬ BẢN QUYỀN

IN LẦN THỨ NHẤT

Năm Canh-tuất (1970)

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý đêm 24 tháng 5 năm Mậu-Tý (30-06-48)

ĐỨC CHÍ -TÔN HÀNH- PHÁP TẠI KIÊM-BIÊN

Bần-Đạo nhớ khi lên mở Hội-Thánh Ngoại-Giao trên Kiêm-Biên năm 1927, đặng truyền-giáo, Đức Chí-Tôn cho vị Phối-Sư Hương-Lự của chúng ta nay được thông-công cùng Ngài, nhờ nghe, nhờ thấy, truyền pháp cho Bần-Đạo .

Khi nọ, Chí-Tôn' biểu Bần-Đạo lại kệ “bàn viết” có một dãy nhựt-trình đặng rút ra hai tờ. Ngài lại dạy chúng ta  là bà Phối Sư Bẩy đứng bắt ấn, kế Bần-Đạo trãi hai ấn rồi, Bần-Đạo thưa: “Đã trải rồi”. Tức thì bà chị nhảy ngược lại, đạp hai tờ nhựt-trình. Bần-Đạo không hiểu nghĩa gì Đức Chí-Tôn biểu coi hai chơn có đạp cái gì. Bần-Đạo coi chơn trước giở lên là hình Tưởng Giới Thạch, đạp ngay trên đầu, còn chơn sau Bần-Đạo biểu giở nhón lên, coi thấy hình Roosevelt, quan Thổng-Thống cuẩ nước Mỹ đạp ngay ngực và miệng, Đức Chí-Tôn' nói với Bần-Đạo rằng:

“Một ngay kia Trung-Hoa sẽ thờ phụng Đạo đáo-để, còn nước Mỹ sẽ lãnh trách nhiệm đi truyền-Giáo toàn cầu”.

Ngày nay, chúng ta đã thấy tưởng chừng như Chí-Tôn' đã khiến mấy vị Phóng-Viên bên Mỹ đến lấy hình trọn vẹn của Đạo, đủ cả chi-tiết, kinh luật đem về xứ để truyền-bá, thì mấy vị nầy chẳng khác như Đức Tam-Tạng ngày xưa đến Aán-Độ thỉnh kinh, Bần-Đạo dám chắc sự bí-mật mà Bần-Đạo thấy Chí-Tôn hành-pháp buổi nọ, đã kết liễu ngày hôm nay.

Aáy vậy, chúng ta phải chịu nhọc một chút đặng nghinh tiếp họ, trong buổi lễ nầy.

(A) -Bần-Đạo tưởng khi những người có mặt ngồi tại đây hầu lễ nầy, biết chừng đâu, cũng sẽ được hạnh-phúc như đi truyền-giáo bên Mỹ sau này mà chớ.

Bần-Đạo để lời cảm ơn toàn cả nam nữ và các bí-pháp ấy chúng ta sẽ thấy Chí-Tôn làm thành tướng trong thời gian ngắn-ngủi sau đây.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 6 năm Mậu-Tý (1948)

CỦA-CẢI SỐ 1 CỦA CHÚNG TA TẠI THẾ NẦY

Đêm nay, Bần-Đạo giảng tiếp của-cải số 1 của chúng ta ở tại thế nầy, hôm nọ Bần-Đạo đã tả ba hình trạng của-cải của chúng ta thế nào rồi.

Đức Chí-Tôn Ngài dìu đường cho cả con cái của Ngài để đoạt đặng của-cải ấy, và chúng ta đi từ từ mà đến con đường đoạt cho đặng 3 thứ của. Chúng ta có thể làm đại-nghiệp cho chúng ta về hữu-hình và về Thiêng-Liêng.

Bây giờ Bần-Đạo chỉ nói về của-cải số 1, tức nhiên là của-cải hữu-vị của chúng ta, hôm nay Bần-Đạo đã tả cái sở-dụng của-cải hữu-vị của chúng ta. Số người nào biết tìm vạch gia-nghiệp ruộng đất cho họ, có các vật chi đã hưởng đựơc, đặng giúp ta sống về phần xác-thịt, thì trước khi chúng ta phải hiểu cái căn nguyên của nó trước đã, nó đã giúp cho ta những gì ? Nó giúp cho ăn-mặc, nó giúp cho ta tất cả phương-pháp sống về xác-thịt chúng ta, chỉ có bao nhiêu làm căn-bản. Nếu nói lý-luận theo căn-bản thì chúng ta là con vật mà thôi. Hình-thể của chúng ta có ngũ-tạng lục-phủ để sống, một con vật nó cũng có ngũ-tạng lục phủ nữa, như mình, đây thì con vật ăn cái gì thì mình ăn cái nấy, nó có hai thứ tiếp dưỡng, 1 là cái ăn gián-tiếp, 2 là cái ăn trực-tiếp, cái ăn gián-tiếp, là thứ như con trùn nó ăn đất mà sống, mà hại thay cái tiếp-dưỡng trực tiếp thì mạng sanh con người không được bền-bỉ vĩnh-viễn, còn cái ăn tiếp-dưỡng gián-tiếp là chúng ta ăn cỏ, cây, trái mà để dưỡng xác ta, nó đem lại cho ta cái tinh-ba dưỡng-khí vô-cùng, còn cái tiếp dưỡng trực-tiếp là sát sanh-mạng của vật-loại để thực nhục thì cái mạng-sanh của con người có định giới-hạn tu khó mà trường cửu được.

Như thảo-mộc phải thí-thân đặng nuôi-dưỡng cho các loài-vật mà thôi, thì ta phải ăn thảo-mộc mà chớ, còn một điều cao hơn nữa, nếu là thú vật thí thân để nuôi người thì phải thí thân đền trả cho đấng Tạo-đoan thử hỏi Đấng ấy có phải bắt chúng ta thí thân đền trả không ? Chắc-chắn không. Thì loài vật thí thân để nuôi cái mạng-sanh con người không có căn lý nào hết.

Con vật nó có hưởng được cái đặc-ân thảo-mộc để tiếp dưỡng đủ nuôi sanh-mạng của nó thì mình đâu có quyền đoạt mạng-sống của loài vật mà mà để nuôi mạng-sanh của mình.

Chúng ta đã ngó thấy hiển-nhiên thời-đại nầy họ chỉ sống cái phương sống của người mà họ sát hại sanh-vật, làm tương-tàn tương-sát với nhau. Cũng vì cái sống bạo-ngược mà chúng ta thâu-đoạt của cải đặng để vào cái thân-danh cuả chúng ta, có đất mà không biết trồng-tỉa thảo-mộc để nuôi mạng-sống của loài-người, nên Đức Chí-Tôn đã sắp-sẵn nơi mặt địa-cầu nầy, những căn-bản do nơi đất mà ra, để cho loài người nhờ đất mà sống. Cái lý-thuyết nầy chúng ta đã thấy hiển-nhiên trước mắt, không có một mảy-may gì mà lại chúng ta không sống nơi đất, Đức Chí-Tôn đã tạo cho chúng ta sống mà lại ban cho chúng ta có một quyền-năng để đổi cái sống của chúng ta nơi mặt đất nầy. Hại thay : chúng ta đổi đất có thể nuôi thiên-hạ được, cái của cải nơi mặt đất nầy có thể nuôi thiên-hạ đặng, không tranh dành với nhau mà sống, cái sống của chúng ta rất dễ-dàng, mà tại sao chúng ta tạo cái sống khó-khăn khổ-não mà thôi. Đức Chí-Tôn đã để bài học cho chúng ta thấy là Ngài không cho chúng ta cực-nhọc. Ngài biểu chúng ta trai-giới là cốt-yếu Ngài hiểu chúng ta đổi đất mà sống , hễ đào đất mà sống thì sống một cách đơn-sơ lắm. Đào đất để sống, xin ai thì khó mà xin đất vẫn dễ mà !… Nếu chúng ta hiểu-biết vì đất mà sống thì loài người vẫn nhìn nhau mà lo sống với nhau một cách hòa-giải vậy.

Nên thiên-hạ trông nơi đó mà sống, thì chúng ta cũng lấy nơi đó mà sống một cách giản-dị đàng-hoàng sống một cách siêng-năng thì không bao giờ đói, cái đó là do nơi làm biếng mà thôi. Trái lại họ không đào đất để mà sống, họ chỉ âm-mưu sang-đoạt của người, nên nay mới có những sự tranh-đua như thế.

Cái sống hữu-hình, Bần-Đạo để cho thấy đó mà kiếm sống. Còn cái của cải thiêng-liêng ấy tức-nhiên là thân-tộc của chúng ta, Ngài đã ban cho cha mẹ, vợ, con, anh, em, chúng ta cái của cải ấy mà chúng ta không thể nào kiếm đặng. Tấn-tuồng đói khổ là tại chúng ta không thể tìm đất mà sống, lại giết hại sanh-mạng con vật mà sống, rồi tranh-giành đoạt-lợi mà giết hại lẫn nhau cái sự khổ não đó đã lan-tràn trong xã-hội, những kẻ có cái bản-năng tranh-giành xô-xát với nhơn-loại thì nó sống một cách cô-độc khổ -não lắm, té bên mặt không ai đỡ, ngã bên trái không ai nâng. Đức Chí-Tôn đã sắp đặt cho loài người để sống mà không biết nương dựa theo đó để sống, lại tìm phương thế khác để sống cho đủ-đầy vật-chất, nên nay mới có thời kỳ loạn-lạc nầy mà tại chúng ta không biết tìm định cái nguồn-cội mà Đức Chí-Tôn đã dành sẵn cho loài người nơi mặt thế-gian nầy.

Hiện giờ cái hình-trạng căn-bản Thiêng-Liêng ấy mà chúng ta có thể nào đoạt đặng chăng ? Đức Chí-Tôn Ngài nói được lắm chớ, các người muốn đoạt được thì phải hợp thành một gia-tộc thì mới đoạt đặng của cải quí-báu Thiêng-Liêng ấy, cái của cải Thiêng-Liêng nó đã dành sẵn trong tay mọi người, mà ít có ai để ý đến, chúng ta chịu nghèo là do nơi mù-quáng không ngó thấy mà thôi. Aáy là cái khổ-tâm của bạn hữu-hình. Nếu cái khổ của bạn hữu-hình chúng ta đã được chấm-dứt thì chúng ta đã đoạt được tại mặt thế nầy đó vậy.

Còn cái điều thứ ba khi hôm Bần-Đạo đã tả hình-trạng của cải mà từ trước Tiên-Nho để lại câu:

-Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ

-Tích thơ dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng độc

-Bất như tích âm-đức ư minh-minh chi trung dĩ di tử tôn trường-cửu chi kế.

Nghĩa là : chứa vàng để lại cho con, biết con có bảo thủ được không ? Còn chứa sách để lại cho con, biết con có học hay không ? Chỉ chứa đức là con nó hưởng được mà thôi. Nếu không ở vào cửa Đạo thì không bao giờ tạo đức được, nên ngày nay Đức Chí-Tôn đến lập Đạo để cho các người lập đức nơi cửa Đạo Cao-Đài nầy đó vậy.

Chỉ có Đạo Cao-Đài để tạo đức cho các triệu người đặng hưởng, mà đức ấy của Đạo Cao-Đài làm thì không bao giờ mất. Tôi xin bảo-đảm không bao giờ mất.

 

Tại Đền-Thánh  Đêm 23 tháng 6 năm Mậu-Tý (29-7-1948)

LUẬT PHÁP VÀ QUYỀN ĐIỀU KHIỂN CÀN-KHÔN VŨ-TRỤ

Hôm nay Bần-Đạo giảng về “Luật-pháp và quyền-hành điều-khiển Càn-Khôn Vũ-trụ “.

Bài giảng hôm nay cốt nhứt là để cho cả thảy Thánh-thể Đức Chí-Tôn được thấu hiểu pháp-luật và quyền-hành Điều-khiển nơi cỏi Thiêng-Liêng, vậy cả chức-sắc Thiên-Phong Nam và Nữ, nên để ý cho lắm, phải để ý suy-đoán cho nhiều rồi mới nhận thấy thật là ngộ-nghĩnh. Chúng ta thấy Luật-pháp và quyền-hành trị Càn-Khôn Vũ-trụ đơn-sơ làm sao đâu. Cả tấn-tuồng đời chúng ta ngó thấy họ tạo Luật-pháp và quyền-hành đặng trị xã-hội, thật ra rối-rắm quá chừng, quá đổi, mà vẫn không thế gì trị an đặng, lại càng làm cho tinh-thần thiên-hạ thêm khó-khăn khổ não mà thôi. Còn Luật-pháp quyền hành Điều-khiển Càn-Khôn Vũ-trụ tức là Đạo, nên các nền Tôn-giáo nào không tùng ttheo Luật-pháp và quyền-hành ấy đặng trị tâm thiên-hạ, thì đó là tà-giáo, là tả-Đạo, là bàn-môn, chớ không phải là chánh-giáo. Chúng ta phải quan-sát những điều ấy trong thuyết-giáo của Bần-Đạo hôm nay, và Bần-Đạo sẽ nói rõ, vã chăng ta sống đây ta cũng nên cho biết quyền-hành và Luật-pháp đã trị-an Càn-Khôn võ-trụ như thế nào, rồi ta mới hiểu rằng : Cả Luật-pháp và quyền-hành Đạo-giáo cũng đều ở trong khuôn-khổ ấy mà ra, không có ngoài nữa đặng. Mà muốn tìm hiểu Luật-pháp ấy phải tìm đâu mà thấy và biết đặng ? Phải nơi chủ-quyền của cơ-thể tạo-đoan càn-khôn võ-trụ, tức là phải tìm ông chủ-quyền càn-khôn võ-trụ ấy, biết đặng ổng, biết năng-lực, tánh-chất của ổng, mới biểu Luật-pháp và quyền-hành của ổng. Đấng ấy là ai ? Là Đại Từ-Phụ chúng ta đây vậy.

Buổi nọ, Bần-Đạo vấn-nạn Đức Trưởng-Bạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn, Bần-Đạo hỏi :

“Quyền-năng và tâm-đức của Đức Chí-Tôn như thế nào ?”

 Ngài trả lời trong một câu pháp-văn, Bần-Đạo dịch như thế nầy :

  “Luật thương yêu, quyền và ngay chánh.

    Gần thiện-lương, xa lánh phàm tâm “

Hai câu thi có đủ cả ý-nghĩa rằng : Chúng ta nên suy đoán coi nguyên căn của nó là gì mà có năng-lực dữ-tợn mạnh-mẽ như thế ? Quyền-lực ấy chúng ta không tìm đâu xa, tìm nội trong châu-thân chúng ta thì đủ thấy. Hỏi mãnh thân nầy, xác-thịt sanh ra trong kiếp sống cả cơ-quan bí-mật đào-tạo hình-thể của chúng ta do bởi đậu mà có ? Có phải do nơi tình-ái của đôi đàng phụ-mẫu chúng ta mà sản-xuất chăng ? Nếu còn nghi-ngờ nữa thì ta cứ ngó vạn-vật tức vạn-linh kia, coi hình trạng nó là thế nào ?

Chim kết cánh, cây liền cành ; rất đổi là con vật mà cũng có tình-ái làm căn-bản hóa sanh cả vạn loại. Đức Chí-Tôn cũng sản-xuất trong tình-ái mà ra, đi từ tình-ái hèn-hạ dĩ chi tối cao-thượng, luật ấy duy có một mà thôi. Mặt luật chúng ta thấy khuôn-khổ là vậy, mà quyền-năng chúng ta ngó trở lộn lại trong gia-đình, coi cha mẹ chúng ta trị gia-đình  với quyền năng nào, hình luật nào ? Cha mẹ chúng ta chỉ trị chúng ta với một luật thương yêu, còn nếu đủ quyền hơn nữa cho chúng ta cúi đầu vàng hịu phu mạng, mẫu-mạng, thì thêm công-chánh, chúng ta mới cúi đầu vàng chịu. Nên hình-ảnh mặt luật thiên-nhiên tạo-đoan đã có sẵn trong gia-đình từ trước chúng ta không cần tìm-kiếm đâu cho xa chỉ coi trọng vạn-vật như loài thú, như đối với bầy gà mẹ và con coi con gà trống thương-yêu con như thế nào thì đủ hiểu để đoán-xét lắm.

Bây giờ hỏi : Trong càn-khôn võ-trụ nầy, nếu nói vạn-linh không hữu-tình thì là dối vậy. Chúng ta sanh ở những vạn-vật ấy, nếu chúng ta công-chánh thì thấy quả-quyết rằng : Cả vạn-vật điều hữu-tình đối với chúng ta tất cả. Tới sắt đá cỏ cây cũng thế. Cả thảy điều có tình, với chúng ta hết, nếu nó không có tình với chúng ta thì chúng ta không thể sống hạnh-phúc đặng. Chúng ta không thể chối cải điều ấy. Cái tình nó đối với chúng ta chẳng phải là tình-ái đặc-sắc mà là tình liên-quan càn-khôn võ-trụ đè nén nó xuống, buộc phải tuân mạng lệnh nên không phải là tình-ái đặc-sắc mà là tình ái của Chí-Tôn buộc nó phải tùng. Chúng ta đã ngó thấy như mặt trời cho chúng ta ánh-sáng ban ngày, mặt trăn cho chúng ta ánh-sáng ban đêm, cả vạn tượng tinh-tú chớp-nhoáng trên đầu ta, cả càn-khôn võ-trụ ấy đối với con người có cái tinh-thần vững-chắc. Nếu ngó lên mà không đủ học-thức để thấu-đáo cả vạn-tướng kia, cũng vẫn nó đối lại vớichúng ta mật-thiết hữu-tình. Mà ít nữa ta phải biết cái tình của nó đối với chúng ta mới thấu-đáo được.Bây giờ hỏi luật tình-ái Đức Chí-Tôn đễ trong lòng mỗi kẽ hữu sanh tại thế này, chúng ta không thể chối có phải con người mà đã có tình ái, thì lẽ cố nhiên con vật nó cũng có tình-ái như con người, nếu không có tình-ái thì không có sản-sanh nối-truyền tông-tổ nòi-giống đặng ; ấy đó là luật. Không ai mà đúng ngày giờ thời buổi của lẻ thiên-nhiên thì buột phải tuân theo mặt luật tình-ái ấy. Bần-Đạo không cần tả, nó cường-liệt phi-thường làm sao đâu, chúng ta đẻ mắt thấy một cặp uyên-ương kia tự-tử thà chết vì tình, chớ không chịu chia lìa yêu-ai. Hỏi khuôn luật nào mà biểu nó làm như thế vậy ? Aáy là khuôn luật tình-ái. Bần-Đạo lập lại một lần nữa, nếu không phải khuôn luật tình-ái vi-chủ thì vạn-vật trên mặt địa-cầu nầy không còn hữu-hiệu. Mặt địa-cầu nầy thế nào thì cả càn-khôn võ-trụ cũng thế ấy, vạn-vật trên địa-cầu nầy thế nào thì vạn-vật trên các vi tinh-đẩu khác cũng thế ấy. Aáy là luật thương yêu.

Bây giờ giảng tới quyền, quyền là công-chánh. Cơ-thể tạo-đoan chẳng vì một ai, chẳng quên ai, chẳng giận ai chẳng dọa ai, không thù-tạc ai, không bỏ rơi ai. Đã sanh vạn-vật thì vốn đồng sanh với chúng ta, chúng ta ngó thấy một kẻ ăn mày kia đui-mù, thiên-hạ không ai ngó tới, đi xin ăn, ai thấy nghèo-nàn đói khổ không chê bỏ, khi rẻ, gớm ghiết, nhưng còn con chó của người theo dắt đường lại vui vẽ trung-tin, biết thương thật tình với người, thì chúng ta nên để một dấu hỏi : Quá khôn- ngoan, càng linh-tâm thì lại còn nghi-hoặc mất cả tính-đức bổn-thiện sơ-sanh chăng!

Chúng ta ngó thấy cả vạn-vật nó không cho người nầy nhiều, cho người kia ít, nó nằm trên mặt-đất sẵn sàng do nơi chúng ta biết trọng nó hay không biết trọng nó; do mình lấy sự thương yêu của mình làm căn-bản mà dùng nó thì nó thì nó chỉ là một vật của mình dùng đó thôi. Một bầy thú kia dầu dữ thế nào: như cọp, beo, gấu, sư-tử, mà chúng ta có nuôi đặng nó, thì Bần-Đạo  quả-quyết rằng bất quá nó cũng như một con chó giữ nhà thôi. Trong càn-khôn võ-trụ nầy, nếu không có mực thước công-chánh Thiêng-Liêng thì sự sống của con người cũng như con vật, sẽ tranh sóâng tranh ăn mà phá-hoại, thì mặt dịa-cầu nầy không khi nào còn tồn tại đặng, nếu càn-khôn võ-trụ không công-chánh mực thước, địa-cầu nào muốn sống cho sáng-suốt tự-do chạy tìm ánh-sáng, thì địa-cầu nầy sẽ đụng với địa-cầu kia, mặt trăng, mặt trời không còn thể chất. Càn-khôn võ-trụ và quyền công-chánh đã định vậy, nếu biết tùng theo luật ấy trường-tồn, trái-nghịch là tiêu-diệt. Quan-sát luật pháp ấy, quyền-hành ấy, chung ta nhìn quả thiệt Đấng Tạo-đoan Càn-Khôn là chủ-quyền đó vậy. Ngộ-nghĩnh thay! Đấng Tạo-đoan Càn-Khôn võ-trụ, với pháp-luật ấy, khuôn-khổ ấy, ngày nay lại đến tạo Đạo cho chúng ta. Vậy Ngài lấy khuôn-khổ nào mà tạo Luật-pháp, và quyền-hành, Ngài để trong Thánh-Thể của Ngài ; hình-luật nào, phương-pháp đặng trị Đạo ? Tuy vậy, có Pháp-Chánh và Tân-luật, cốt để bình tâm thiên-hạ đặng để gỡ tội cho kẻ có tội-lỗi, phàm mà không có biết thú tội trước mặt Người và trước phép Thiêng-Liêng. Định Luật-pháp ấy cũng tỷ như sợi dây thiết-tỏa liệng xuống âm-quang cho kẻ tội nhơn nắm nó mà phăn về Thiêng-Liêng cựu cảnh ; chớ chưa phải chơn-luật và chơn-pháp.

Nếu nói từ nay Đức Chí-Tôn đến tạo dựng Thánh-thể của Ngài thì thật sự là pháp-chánh, nhưng chỉ có tạo Thánh-Thể của Ngài ở dưới thế nầy mà thôi, chớ quyền công chánh của Ngài là đã đào-tạo Thánh-Thể Thiêng-Liêng của Ngài, còn về mặt luật do Hội-Thánh lập-thành chớ không phải Ngài định luật.

Aáy vậy nếu chúng ta nói Tân-luật là phàm, thì quả thật nó là phàm, còn Thiên-luật của Chí-Tôn là thương yêu mới là Thánh mà thôi. Hỏi vậy, chớ Bần-Đạo nói đây có qua lời chăng ? Bần-Đạo xin đem bằng cớ ra liền.

 Từ ngày mở Đạo đến nay đã 23 năm, hình-trạng của Đạo lấy phương gì tạo nền chánh-trị của nó. Quyền-lực của đời thường nương súng đồng, gươm máy, khám tù mà đạt thành, còn Đạo làm thế nào cho có quyền mà lập nền chánh-trị Đạo ? Nói hẳn rằng, nếu không phải luật thương-yêu lập quyền cho Bần-Đạo ngày nay, Bần-Đạo ắt không còn đứng trên tòa-giảng nầy mà giảng Đạo. Nếu không có quyền công-chánh, Đạo Cao-Đài đã bị tiêu-diệt không sống tới ngày hôm nay đâu, bằng cớ hiển-nhiên là đó vậy.

Toàn Thánh-thể Đức Chí-Tôn Chí-Tôn nếu biết, thì nên nắm quyền-luật thiên-nhiên ấy, ngày giờ nào thiên-hạ được yêu-thương nhau nồng-nàn, thì giờ ấy quyền Đạo sẽ là quyền tối-thượng nơi mặt thế đó.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý đêm 24 tháng 6 năm Mậu-Tý (30-7-1948)

LỊCH-SỬ ĐỨC QUAN-THÁNH ĐẾ-QUÂN

Hôm nay là ngày via Đức Cái-Thiên Cổ-Phật Quan-Thánh Đế-Quân tức là Hớn-Thọ Đình-Hầu Quan-Vân-Trường nhà Hờn đời Tam-Quốc.

Một vị Hiển-Thánh đời Hớn, thời Tam-Quốc, ngày nay đạt phẩm-vị đến Tam-Trấn Oai-Nghiêm trong nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn, sự vinh-hiển cao trọng đó thấy giá-trị vô-đối. Với một Đấng Thiêng-Liêng mà lập được vị mình một cách oai-quyền vinh-hiển ta thường thấy rất ít, thảng có chăng trong nước Việt-Nam Ngài Trần-Hưng-Đạo gọi có thể đương đầu với Ngài được mảy-may chút-ít mà thôi, chớ phần đông từ thử đến giờ kể cả các nước Á-Đông nầy hiếm có. Vậy, ta nên khảo-cứu coi Ngài làm thế nào để đạt được thiên vị vinh-điệu đặc-biệt dường ấy.

Hớn-Thọ Đình-Hầu Quan-Vân-Trường buổi nọ là một vị tướng của Thục tức của Lưu-Bị. Ta thấy đại-nghĩa của Ngài trung-can nghĩa-khí của Ngài nhứt là về bằng hữu chi-giao, tình nghĩa đối với bạn hữu của Ngài, dám chắc dầu chúng ta dân tộc Việt-Nam hằng chịu ảnh-hưởng văn-hóa cuả Nho-tông, chưa có được người nào giống như Ngài vậy. Tâm trung-nghĩa chẳng vì sang mà theo Tào, chỉ chuộng Hớn ; nghĩa chẳng vì bạn buổi khổ não truân-chuyên mà phụ-rãy tình nhau ; trung và nghĩa ấy hi-hữu. Nói đến chí khí của Ngài, Bần-Đạo tưởng luận không hết : Ngài bất sát hạ mã chí nhơn. Truyện sách lưu lại rằng Ngài suýt bị Hạ-Hầu-Đôn giết vì nó biết cái sở yếu của Ngài mà lợi-dụng, nếu không Trương-Liêu đến cứu. Mỗi phen Ngài trở cây Yểm-nguyệt Thanh-Long-đao định vớt nhà nớ, thì nhà nớ nhảy xuống ngựa, chí-khí đó thế-gian hi-hữu. Hỏi Ngài lập chí với bộ sách Xuân-Thu mà thôi. Người sau có tặng cho Ngài đôi liễn : “ Chí tại Xuân-thu, công tại Hớn ; Trung đồng nhựt-nguyệt nghĩa đồng thiên “. Trọn đời Ngài không lúc nào rời bộ sách ấy, lúc nào cũng đọc lấy tinh-thần của sách suy-luận làm tinh-thần của mình.

Kể từ Đào-Viên kết tình bằng-hữu cùng nhau, từ thuở bần-hàn cho đến khi vinh-huê phú-quý sang trọng Ngài vẫn một mực không hề thay-đổi tâm-đức bao giờ. Tinh-thần của người ấy là tinh-thần đứng riêng biệt một mình một cảnh giới mà thôi. Thế gian khó tìm thấy một kiểu-vở thứ hai nữa đặng. Tinh-thần của Ngài có oai-quyền đặc-sắc, ta thử tìm coi Ngài làm sao mà đặng như vậy ? Nguơn-linh của Ngài là Xích-Long-Tinh. Buổi nọ dân Bắc-Hớn phạm thiên-điều bị Ngọc-Hư-Cung phạt hạn không cho mưa, đặng cho dân ấy phải đói. Dân làng biết mà cầu nguyện nơi Ngài cứu nạn. Ngài cũng thừa biết dân ấy bị thiên-điều hành-pháp, nhưng vì lòng ái-truất thương-sanh không nở để dân chết đói, nên Ngài làm mưa. Ngọc-Hư-Cung bắt tội sai Ngũ-Lôi trũ diệt. Ngài chạy trốn vào một cái chùa, nhờ ông thầy chùa lấy chuông úp lại. Vị Đạo nhơn có căn-dặn bổn Đạo trong chùa đừng ai dở chuông cho đến ngày nào Ngài hết nạn. Chư Đạo trong chùa tọc-mạch dở ra xem coi vật gì, thành thử Ngài phải chịu đầu kiếp, kiếp ấy là Hạng-Võ. Hạng-Võ thì ai cũng biết. Nếu ta quan-sát trong “ Trọng-Tương vấn Hớn “ thì rõ tiền-căn Hạng-Võ, hậu kiếp Quan-Công. Bởi Hớn-Bái-Công khi lập quốc rồi nghe lời Lã-Hậu diệt công thần giết Hàn-Tín. Aùn ấy nằm dười Phong-Đô mấy đời mà không ai xử đặng. Buổi ấy có thầy Trọng-Tương là học trò khó mà nghèo nhưng rất hiếu-hạnh. Cha chết Trọng-Tương cất nhà mồ thờ cha mà ở. Thường hay buồn thân trách phận biết mình hữu tài vô mạng nên viết một bài thi có ý than rằng :” Thiên địa hữu tư, thần minh bất công” dụng ý trách-điểm cái án nhà Hớn mà dưới Phong-Đô xử chưa có nổi. Vì vậy nên mắc tội phạm thượng, bị bắt hồn dẫn đến Phong-Đô, đem cho Thập-điện Diêm-quân vấn tội. Trọng-Tương bình tĩnh trả lời rằng : “ Nếu cho tôi ngồi làm Thập điện Diêm-Vương tôi xử án ấy cho mà coi”. Thập-diện Diêm-Vương bằng lòng. Ngài xử :” Tiền căn báo hậu kiếp, như Bành-Việt cho đầu kiếp làm Lưu-Bị, Anh-Bố làm Ngô-Tôn-Quyền, Hàn-Tin làm Tào-Tháo Hạng-Sư làm Nhan-Lương, Hạng-Bá làm Văn-Xủ, Hạng-Võ làm Quan-Công. Ta thấy hồi sáu tướng của Hạng-Võ đem lòng phản bội, đầu nhà Hớn rượt Hạng-Võ đến bến Ô-giang phải cắt đầu, trao cho Đình-Trưởng, chú là Hạng-Bá trở lại phản cháu đã đầu-lụy Hờn-Bái-Công còn trở lại phạt Sở. Tiền căn hậu kiếp vay trả, quả báo y nhiên. Có một điều lạ là với Lữ-Mông, oan-nghiệt có khác. Tiền kiếp của Lữ-mông là Ông thợ rèn, Quan-Vân-Trường đến mướn rèn Thanh-Long-đao với một kiểu-mẫu bí-mật mà Ngài không muốn có người thứ nhì biết đặng. Khi rèn xong. Ngài cầm ra sàn đi thử đường đao, chợt nghĩ đến điều ấy liền day lại vớt ông thợ rèn đứt đoạn. Oâng thợ rèn ấy sau đầu kiếp làm Lữ-Mông. Cho nên buổi Ngài xuất thần qui vị là trả cái ngày giết ông thợ rèn, là Lữ-Mông đầu kiếp trả báo giết Ngài.

Khi chơn-linh của Ngài xuất ngoại, Châu-Xương và Quan-Bình cũng tự-tử chết theo, ba người ấy bay giữa không trung, đi ngang ngôi chùa kêu ông thầy chùa là Phổ-Tịnh đòi ông nọ trả cái đầu, ông bèn lấy cái quạt gõ trên cửa tụng ba biến Vãng-sanh, Ngài hạ-giáng xuống tiếp đòi đầu nữa. Oâng nọ cười nói rằng :” Nhan-Lương, Văn-Xủ kia mới đòi đầu với ai ? Aáy là tiền căn báo hậu kiếp thôi chớ “. Đức Quan-Thánh Đế-Quân tỉnh ngộ, xin ông Phổ-Tịnh  cho Ngài ở đó đặng tu, Chơn-linh của Ngài nhờ ở nơi chùa đó mà hiển Thánh, Khi hiển Thánh rồi Ngài trừ tà biệt quỉ, cứu độ sanh-linh, và từ đó đến bâûy giờ không tái kiếp lần nào nữa, duy dụng cái quyền-hành Thiêng-Liêng mà hành Đạo thôi. Với quyền Thiêng-Liêng ấy mà Ngài lập được Phật-vị là Cái-Thiên Cổ-Phật, nhờ vạn-linh bầu-cử. Cho nên Đức Chí-Tôn mở Đạo là cơ quan hiệp nhứt vạn-linh, để Đấng ấy là một Trấn Oai nghiêm đặng làm quan Trạng sư cho vạn-linh đạt kiếp.

Bần-Đạo tưởng nếu có sự công chánh ở Tòa Hư-linh kia ta nên gọi điều ấy là điều công-chánh đệ nhứt mà Chí-Tôn quyết định vậy. Nên Hớn-Thọ Đình-Hầu lập thiêng-liêng vị với chơn-linh của mình đặng. Đó là chỉ rõ cho cả con cái cũa Thầy biết rằng không phải chết là hết, chết ấy là sống, mà cái sống nơi Thầy mới oai-quyền chơn-thật hơn cái sống hiện tại thế nầy.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý đêm 28 tháng 6 năm Mậu -Tý (3-8-48)

HỘI-THÁNH LÀ GÌ ?

Hôm nay Bần-Đạo giảng Hội-Thánh là gì ?

Bần-Đạo đã nhiều phen giảng-giải Hội-Thánh là Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn tức nhiên là xác-thịt của Ngài tại-thế. Aáy vậy chúng ta đặng may duyên, nên buổi thếù-kỷ thứ hai mươi là thế-kỷ hỗn-loạn, sa-ngã vào đường tội lỗi, sự tàn-ác của đời đương-nhiên chúng ta phải gớm sợ, Chí-Tôn lại đến đặng dìu con cái Ngài, tức là các nguyên nhân của Ngài tại thế, từ bấy lâu nay bị sa-ngã vào đường tội-lỗi. Ngài đến qui-hội cùng Ngài và chính mình Ngài đi tìm con-cái của Ngài mà thôi. Ngày đến chẳng phải một ngày một bữa mà cả mấy ngàn năm. Ngài giáng trần với sự đau-khổ nhọc-nhằn, những vẫn cam chịu. Ngài tìm phương-pháp để tận-độ chúng sanh, cơ tận-độ ấy chưa thành-tựu, họ còn bị kẹt vào vòng tội-lỗi tại thế nầy cửu nhị ức nguyên-nhân, Ngài đến gom về hết trong thời-kỳ ân-xá thứ ba nầy, chúng ta không dè ngày nay hưởng đặc-ân của Ngài, được nắm quyền-hành làm Thánh-Thể cho Ngài, tức nhiên là Ngài vậy. Chúng ta thấy mặt luật thiêng-nhiên dầu cao xa khổ-khăn đến đâu, xem cơ tương-đối ở hữu-hình cũng có thể hiểu được. Một ông cha đã tới gời qui-liễu, nhìn lại gia-đình sắp con đã nên gia-thất chỉ còn vài đứa nhỏ dại, chưa đủ chí khôn ; Ông cha ấy phải thống-khổ biết chừng nào, khi thấy đứa trẻ ấy bơ-vơ, nếu mình rũi chết hoàn cảnh ấy ông phải định thế nào, lẽ cố nhiên là Ông kêu người con trai lớn của Ông lại dặn-dò cặn-kẽ : khi cha có mất rồi thì con phải thương em con còn nhỏ, bảo trọng cho nó, tạo tương-lai hạnh-phúc cho nó. Người anh nghe cha di-chúc thì lo tìm phương dạy dỗ em thế nào cho nên người và đến một ngày kia các con ấy sẽ trở nên hiển-đạt đi rồi, thiết tưởng gia-đình ấy hạnh-phúc biết chừng nào. Hạnh-phúc hơn khi người cha ấy trông thấy con mình cao-sang vinh-hiển hơn mình.

Đức Chí-Tôn kỳ nầy muốn chính mình Ngài đến cứu-vớt con cái Ngài, nhưng Ngự-Mã-Quân của Ngài không cho Ngài đi, vì biết Ngài mỗi khi xuống thế phải chịu thống-khổ vô ngần, nên Ngự-Mã-Quân quyết-định đến thế cho Ngài. Chúng ta tưởng-tượng sự thế ấy nếu Chí-Tôn ưng chịu, thì Ngự-Mã-Quân phải hứa cứu-vớt hết cả con cái của Ngài và lại dặn : “Bây muốn thế Tao mà ở với con Tao thì Bây phải làm sao bảo-trọng chúng nó vẹn-toàn để đem về đông đủ cho Tao và phải đủ can-đảm và năng-lực thay thế Tao bên cạnh chúng nó. Nếu Bây không muốn cho Tao làm thì Bây phải làm như Tao mới đặng”. Tôi tưởng Ngự-Mã-Quân đến thế cho Ngài, phải lựa trọn trong hàng lương sanh con cái của Ngài để làm hình ảnh cho Ngài, như vậy Ngài mới chịu. Vì cớ Hội-Thánh là Thánh-Thể  của Đức Chí-Tôn, cho nên khi Ngài lập Pháp-Chánh-Truyền  cho Thánh-Thể của Ngài. Người anh cả ấy phải làm cha làm thầy trong khi Chí-Tôn vắng mặt. Ngặt một điều là mình không xứng đáng đó thôi, chớ không buổi nào Chí-Tôn  không công nhận và không chịu, một khi mình đã đủ đức-tánh thay thế cho Ngài. Nếu Thánh-Thể của Chí-Tôn  lại thế nầy mà day-dỗ, cứu-vớt con-cái của Ngài được toàn-vẹn y như ý-định của Ngài thì thiết-tưởng không có gì làm cho Ngài sướng bằng ! Aáy vậy, Hội-Thánh đầu Nam đầu Nữ, tức là hình-ảnh của Chí-Tôn, Chí-Tôn  giao cả đảm nhiệm làm cha và làm thầy, thì chúng-sanh làm thế nào mà không tôn-trọng như cha như thầy được.

Trong đám anh em chúng ta ngồi tại đây, cùng sắp em nhỏ trong kia cũng có vị Phật, Tiên giảng thế, nhưng còn chờ chúng ta lập vị cho nó, bởi nó còn khờ nên giao chúng ta giáo-hóa nó để một ngày kia chúng nó đạt đến tinh-thần cao-trọng đặng lãnh sứ mạng của Chí-Tôn  phú-thác. Vậy, ngày giờ nào chúng ta đủ quyền-năng vào địa-vị, tức nhiên chúng ta đã trọn Đạo đối với Chí-Tôn.

 

Tại Đền-Thánh Thời-Tý, mồng 1 tháng 5 năm Mậu-Tý (5-8-1948)

PHÁP-CHÁNH HIỆP-THIÊN LÀ  GÌ ?

VÀ HÌNH- LUẬT TAM-GIÁO LÀ GÌ ?

Từ thử đến giờ chúng ta thường quen gọi là Tòa Hiệp-Thiên-Đài hay là Tòa Tam-Giáo, nên đã 23 năm Đạo, mà chúng ta chưa biết chổ dốt của mình. Đức Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn buổi nọ giáng bút hỏi Bần-Đạo một câu bằng Pháp-văuwrrT

- Expliquez Eùtymologiquement Le Mot Tòa ? (Vậy chứ theo ngữ nguyên tiếng Tòa nghĩa là gì ?)

Bần-Đạo trả lời:

- Thưa Ngài, kêu Tòa là nơi để định án, xử tội kẻ phạm Luật-pháp “.

Ngài cười và nói :

- Trật, gọi Tòa là khi nào là Tòa nhà, hay Tòa lâu-đài gì đó, chớ tiếng Tòa không có định nghĩa về phương diện Pháp-Chánh cả “.

Bần-Đạo thừa dịp nhờ Ngài dạy nữa. Ngài nói:

-  Cái tiếng của Chí-Tôn đã đem đến đặt để nó khéo léo hay ho biết bao nhiêu, nghĩa-lý rất thâm-diệu mà tại sao lại không dùng, Đức Chí-Tôn đến lập Pháp-Chánh-Truyền, giao cho Hiệp-Thiên-Đài gìn-giữ. Trong đó có diệu-pháp của Chí-Tôn đến lập vị cho con cái của Người tại thế-gian nầy, Ngài mượn xác thịt của con cái Ngài tổng-hợp lại cho nó có trật-tự, có đẳng-cấp, tức nhiên là lập Thánh-Thể của Ngài, các phẩm-trật có liên-quan tới các phần-tử tức nhiên Hội-Thánh tổng-hợp là Thánh-Thể của Ngài, Ngài lập Chánh-Pháp-Truyền cốt ban quyền hành cho Thánh-Thể của Ngài, mà hể đạt quyền được, tức nhiên về với Ngài được. Aáy vậy, Pháp-Chánh-Truyền Hiệp-Thiên là phương định vị, lập quyền đặng hiệp một con cái của Chí-Tôn cùng Chí-Tôn vậy.

Tới hình luật Tam-giáo: Từ-thử Tam-giáo có Nho, Thích đạo, luật Tam-giáo có hữu-hình, có luật-hình, vì cứ nói án nên nói là phạm luật Thiên-Điều mà thôi. Luật hình ấy gồm cả tôn-chỉ của Tam-giáo đem đặt tại thế nầy cho thiên-hạ thật-hành, nhưng lần lần càng xa khuôn luật.

Aáy vậy, có hai phần :

-1) Pháp-Chánh Hiệp-Thiên.

-2) Hình-Luật Tam-giáo.

Tuy hai phần khác thể, nhưng cũng đều giao cho Hiệp-Thiên-Đài Chưởng-quản hết. Nếu muốn gọi cho trúng thì gọi Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài là đủ nghĩa.

Bần-Đạo giảng nghĩa: Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài là gì ? Cốt yếu của Đức Chí-Tôn đến thế ban quyền hành cho Thánh-Thể của Ngài, Ngài buộc quyền Thiêng-Liêng kia hễ con cái của Ngài đắc-phẩm hữu-vi ở dưới thế nầy được toàn-vẹn, thì cũng phải nhìn nhận phẩm ấy ở cõi hư-linh kia. Bần-Đạo tưởng nếu không phải tay của Chí-Tôn thì không ai có quyền buộc các Đấng cầm-quyền chánh-trị của Càn-Khôn Thế-giới là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, phải nghe theo như vậy bao giờ.

Ta cứ suy nghĩ : một ông cha thương con nói : Tao đến với con Tao. Tao định cho nó làm tể-tướng tại thế-gian nầy, thì cả triều-chánh phải nhìn nó là tể-tướng, chớ không phép cải, chỉ vâng mạng-linh tể-tướng của nó mà thôi. Thiết-tưởng nếu không phải nhà vua thì không ai hiểu như vậy mà dân phục lịnh. Nếu không phải Chí-Tôn đến lập giáo thì không ai đến đây mà có quyền buộc Cửu-Thiên Khai-Hóa nhìn-nhận Thánh-Thể của Ngài được. Tại sao Ngài giao cho Hiệp-Thiên-Đài ? nếu cả Pháp-Chánh đó không người cầm để thực hiện thì cả giá-trị lẫn thể-thống đều mất hết. Từ ngôi Giáo-Tông đến ngôi Đầu-Sư, giữa có ngôi Chưởng-Pháp, nếu không phải Pháp-Chánh do Hiệp-Thiên-đài nằm giữ thì họ tông lúng, tông hoài, tông mãi mãi làm cho loạn Đạo theo tấn thám-kịch, ta đã thấy diễn đi diễn lại nhiều lần, mà thử hỏi tại sao họ tông không được ? Là tại Hiệp-Thiên-đài cầm luật chắc chắn không cho loạn hàng thất thứ đặng. Họ tông mặc họ, Hiệp-Thiên-Đài cứ nắm giữ chặt chẽ, mà định phẩm cho con cái của Đức Chí-Tôn mà thôi. Nếu chẳng vậy, nghĩa là nếu Hiệp-Thiên-Đài để họ tự-do hành-động, thì phải đắc tội với Chí-Tôn, vì Chí-Tôn đã giao cho gìn giữ cái kho tàng đã định Thánh-Thể của Ngài định vị cho con cái của Ngài y như đã giao cho gìn giữ, cái kho tàng đã định chia cho đứa lớn bao nhiêu, đứa út bao nhiêu, rồi Hiệp-Thiên-Đài để cho người mạnh giựt-hành tài-sản của mấy người khác, hỏi vậy người lãnh lịnh đảm-nhiệm chia của ấy, sẽ bị ninh-phạt như thế nào ? Nếu không có người cầm giữ kho đó đặng phân-phát công bình cho con cái của Ngài thì sợ e thiên-hạ giựt-giành hết mà con cái của Ngài không hưởng đặng, gia tài để dành cho họ mà chớ. Aáy vậy, hàng-phẩm mà Pháp-Chánh đã định, cốt yếu hiệp con cái Chí-Tôn lại làm một cùng Ngài, mà muốn cho đặng hiệp cùng Ngài, thì Ngài để cho Hiệp-Thiên-Đài Chưởng-quản giữ gìn nghiêm-luật Pháp-Chánh đó. Một người về Đạo là Thượng-Phẩm cầm quyền Luật-Đạo định phẩm-vị ; một người về Thế tức là Thượng-Sanh đem con cái của Đức Chí-Tôn vào cửa Đạo, dìu-dắt con cái Ngài không ai đặng phép ngăn đường đón ngổ. Đại nghiệp của Chí-Tôn để lại mặt thế nầy cho toàn cả nhơn-loại, không ai có quyền giành hưởng một mình. Định-Luật như vậy mới là công-bình và chánh-đáng. Bần-Đạo lặp lại: Pháp-Chánh cốt yếu lập quyền cho con cái Đức Chí-Tôn, có hàng-phẩm, quyền-hành, thứ-tự, đẳng-cấp, giao cho Hiệp-Thiên-Đài sắp-đặt không cho loạn hàng thứ nhất, nếu loạn hàng thất thứ thì Đạo tiêu-diệt.

Bây giờ nói qua hình luật Tam-giáo : Đạo Cao-Đài không phải lấy nguơn-chất của Tam-giáo làm căn-bản, mà chỉ lọc-lượt chơn-truyền của các Tôn-giáo trên  địa-cầu nầy mà tổng hợp lại. Tại sao lại kêu hình-luật Tam-Giáo mà thôi ? bời ngày nay Tam-giáo qui-nhứt . Các Tôn-giáo trên thế-gian nầy thì nhiều mà không ngoài khuôn-viên của ba Đạo lớn, có thay đổi chăng là vì châm-chế bớt ngoại-dung, chớ bên trong đều do theo hình-luật đó.

Hình-luật Tam-giáo để định án chăng ? Thiên-hạ sẽ nói Đạo gì mà có Tòa-án ? Người ta lầm ! Vả chăng con người chỉ có quí ở cái Tâm và hạ sanh tại đây ít nữa phải có căn-duyên sao đó mà mình không biết đó thôi. Bần-Đạo dám chắc dầu một vị chí Phật đến tại thế-gian nầy mang thi-hài xác-thịt cũng quên hết tiền-kiếp, cửa huệ-quang bị bí lối, không tự biết mình, không tự hiểu phẩm-vị của mình, vì mang xác-phàm thì cái gì cũng phàm hết. Duy có Đấng toàn-năng, toàn-trị, toàn-thiện, toàn-mỹ là Chí-Tôn mới tránh khỏi chuyển-kiếp luân-hồi mà thôi. Ngoài ra không vị Phật nào tránh khỏi luân-hồi cả. Các chơn-hồn ở các cung, các động, hoặc ở Ngọc-Hư-Cung đến đây là có mạng-lịnh đến tạo hình-thể của Đức Chí-Tôn, đó là những vị Đại diện, còn tất cả bao nhiêu chúng-sanh đều có căn-nguyên, mà hễ có căn-nguyên tức nhiên là có tội, phải đến đây đặng trả quả-kiếp luân-hồi.

Chí-Tôn muốn cho con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao ? Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn gần, phải vì thương-mến kỉnh khen mà gần, vì đáng tôn-sùng yêu-aí mà gần. Hình-luật Tam-giáo là nước cam-lồ tắm-rửa linh buồn vậy. Chơn-truyền từ trước đến nay Chí-Tôn để lại mặt thế trên các Đạo Phật, Tiên, Thánh, là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi, nhứt là Công-Giáo có phép xưng tội là một bí-pháp. Ta nghĩ, có lẽ Đức Chúa Jésus Christ đã ban quyền cho những đại-diện của Ngài, tức là cầm-quyền Hội-Thánh có đủ năng-lực xá-tội, nhưng trong khi hai đàng là kẻ xá-tội và kẻ xưng tội, cũng có lẽ có người không thực tâm xưng tội, hoặc người không xứng đáng là người xá-tội. Nếu xét ra người đến xưng-tội và người xá-tội cũng đều là người phàm cả, chưa biết người nầy có xá-tội được cho người kia chăng ? Thảng không đủ quyền tha tội lại càng thêm mang tội hơn nữa. Hễ có tội tức có hình, có hình tức có phạt, có phạt phải thành án, mà án tiêu mới hết hạn. Nếu mình không tự hạ mình và không đủ can-đảm cung-khai thì chịu lấy. Biết mình có tội mà lại sợ nhục cái thanh danh phàm thể thì hóng cái phẩm-vị Thiêng-Liêng thì rất nên đáng tiếc. Nếu biết trọng linh-hồn thì không ngần-ngại gì, đến mấy vị đại Thiên-Phong cầm quyền Pháp-Chánh Hiệp-Thiên-Đài có trục-xuất đi nữa cũng không hại gì. Nếu mình biết ăn năng tự hối, tự tu thân tự giác tánh thêm nữa đặng đền tội, mình tu một mình dầu Hội-Thánh không biết tới, mình cũng vẫn tin rằng có Đức Chí-Tôn chứng lòng trọn hiếu với Đức Chí-Tôn, ngày kia về cửa Thiêng-Liêng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đẹp dạ hả lòng tiếp-rước trọng-thể hơn nhiều, người trọn gìn đạo-đức vì phẩm-trật đã cao-siêu từ trước giáng-sanh lập vị, danh-vị lập được của kẻ bình thường, đâu bằng của kẻ biết ăn-năn sám-hối. Thảng như bị trục-xuất mà mình tự biết lập vị mình, thế-gian không hiểu thì còn có Đức Chí-Tôn hiểu, lập tâm mà tu thì cửa Hư-Linh kia cũng không đóng được. Những kẻ ấy do Đức Chí-Tôn sắp đặt hàng thứ, nên Ngài đã nói :“ Cửa Hư-Linh không ưa kẻ tàn-bạo, lạ thay Thiêng-Liêng vị phần nhiều do những kẻ tàn-bạo phá cửa chun vô. Thảng như mình không đủ can-đảm chịu án mà mình tự tu sửa lấy mình được, dầu trong Đạo Cao-Đài đây không có hiểu biết thì Chí-Tôn cũng hiểu biết, anh em không hiểu mình mà ông cha mình hiểu mình là đủ rồi, sợ e mình quá phàm mà phải thất Đạo, phải luân hồi mãi mãi mà thôi.

Bần-Đạo dám nói rằng trong Càn-Khôn này, số hóa-nhân còn có ít hơn là nguyên-nhân bị đọa-trần, chịu luân-hồi chuyển kiếp đặng đền tội nhiều phen, chỉ vì quyến-luyến phàm chất, không đủ can-đảm thú tội trước Đức Chí-Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu không muốn đợi để thú tội với Đức Chí-Tôn thì hiện giờ vì biết mình có tội đến thú tội với chư Đại Thiên-Phong Hiệp-Thiên-Đài cầm quyền Pháp-Chánh đó đi, rồi quyết-chắc đã đền xong tội phạm ắt cửa Thiêng-Liêng cũng khó định nghiêm-hình, vì cớ cố-nhiên là một án chỉ có một hình.

Ngày giờ nào nhơn-sanh chưa có can-đảm thú tội của họ, thì cửa Hư-Linh vẫn còn chối họ mãi mãi.

 

Ngày 11-11 Giáp-Ngọ (1-1954)

ĐỨC HỘ-PHÁP DẠY

Nền Đạo đã thông-truyền Quốc-Tế, vậy phải văn hồi các bản sắc trong lành cho xứng danh là Thánh-Địa, hầu làm cái trụ-cốt tinh-thần cho nhơn-loại hướng về tin-tưởng.

ĐỨC HỘ-PHÁP NÓI:

- Cây cờ cứu-khổ của Đạo Cao-Đài là Thương-Yêu và Công-Chánh. Phải thực-hiện được hai điều ấy, thì Hòa-Bình và Hanh-Phúc mới đến với chúng ta được.

Tại Đền-Thánh Thời Tý Mồng 6 tháng 7 năm Mậu-Tý (9-8-1948)

ĐỨC TÁNH TRUNG HIẾU NGHĨA

Đêm nay. Bần-Đạo giảng ba chữ Trung Hiếu Nghĩa, bởi vì Trung. Hiếu. Nghĩa là biểu hiện một chơn tánh của linh-hồn cao-trọng,

Nhà Nho nói : “ Tánh tự tâm sanh “. Đó là lý thuyết của đạo Nho, chỉ có một điều là ta quan-sát có thể thấy hiện-tượng mà tả trạng-hình được, vì đạo Nho chưa phải là một Tôn-giáo huyền-bí. Còn Đức Chí-Tôn đến dạy ta biết rằng tánh là chơn-tướng của chơn-thần, còn tâm là chơn-tướng của chơn-linh. Chí-Tôn dạy : Tánh của mỗi chúng ta là hình-thể thứ nhì của ta. Hình-thể thứ nhứt là tâm tức là chơn-linh, thứ nhì là tánh tức là chơn-thần, thứ ba là xác phàm thú chất nầy. Chí-Tôn hỏi ; Tại sao từ trước đến giờ theo triết-lý đạo Nho lấy nghĩa “ Tánh tự tâm sanh” mà tả ra ? Bởi vì nó liên-quan mật thiết cùng nhau. Trong tâm mình như thế nào xuất tánh ra y như vậy. Nhà Nho thấy hiện tượng mà đặt tên, còn Chí-Tôn chỉ rõ cho biết : Chơn thần cũng tấn bộ như chơn-linh. Mỗi cá-nhân đều có hai năng-lực ấy có đủ quyền-năng đào-tậo ra hình-hài xác-thịt của ta. Một chơn-linh cao trọng tự nhiên có một chơn-thần cao-trọng, bởi cả hai vẫn đi đôi đồng đường với nhau, cùng tấn-triển trong con đường thánh-đức của Chí-Tôn, cả hai có liên-quan mật-thiết, nên hễ chừng nào đạt pháp đặng có đủ quyền năng định vận-mạng, nghiã là nó đã tấn-tới đúng mức rồi, dầu quyền của Ngọc-Hư-Cung cũng không còn lãnh hội nó nữa, quyền tự chủ đã đạt đặng như các cơ-quan hiển-vi tấn-triển tới mục-đích tới giới-định hiển-nhiên ta thấy nơi mặt thế đây vậy. Trong Đạo Giáo của Đức Chí-Tôn trích ra một hạng tiên, không còn chịu quyền của Ngọc-Hư-Cung định luật họ tự làm chủ họ, tạo y khuôn-khổ họ đã muốn. Họ tự ví chủ mà tạo hình thể ấy, bằng chẳng vậy thì con thú là xác phàm của họ, sẽ lôi kéo ràng buộc, phản hai họ, làm cho họ phải đọa-lạc. Còn như con thú nầy không còn quyền lôi kéo họ được thì họ mới đủ quyền năng vì chủ nó mà dục tấn trên con đường tận-thiện tận-mỹ, toàn trì toàn năng mà họ đã định đạt đến cùng tận sở hướng.

Chơn-thần là đệ nhị xác thân tạo hình bằng nguơn khí của bảy từng thiên. Bỏ tạo-hóa-Thiên là từng thứ chín, linh-hồn đến từng thứ 8 trụ thần quyết-định đến thế-gian nầy làm việc gì, kể từ từng thứ 7 mới tạo xác thân. Ta chia 7 từng làm bảy phách, Đạo-Giáo nói là 7 cái thi hài hữu-tướng, 6 cái thuộc về khí chất, cái thứ 7 là xác thú nầy đây, 7 từng có liên-quan lạ-lùng với thất-tình, Từng thứ 7,6,5 là 3 tình : Aùi, Hỉ, Lạc ; từng thứ tư là dục ; Từng thứ ba là Aùi ; Từng thứ nhì là Ố ; Từng thứ nhứt là Nộ ; Tới từng chót nầy thì xác thịt là hiện tượng của Nộ-giác.

Aáy vậy, Bần-Đạo chỉ rõ rằng ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa do ở tình ái, phát hiện đó là cái tình độc-nhứt có liên-quan mật thiết với chơn-linh. Ta thấy con nít sơ-sanh, thi-hài chưa biết vi-chủ, nó chỉ sống với chơn-linh mà thôi. Khởi đoan nó chỉ biết thương mến những kẻ gần-gủi như cha mẹ ; còn Chơn-thần để gìn-giữ nó, cho nó biết tìm cái sống, bảo tồn sanh mạng. Thật ra theo Đạo-Pháp, con nít từ 12 tuổi mới bị chịu ảnh-hưởng của xác-thịt, còn dưới 12 tuổi xác-thịt chưa có quyền. Ba tánh đức Trung, Hiếu, Nghĩa thuộc quyền năng của ái-tình mà ra nên gần-gũi với chơn-linh lắm, đến nổi ta thấy hình-trạng nó như kẻ sơ-sinh kia vậy ; Bần-Đạo vừa nói Trung, Hiếu, Nghĩa do nơi tình-ái xuất hiện ra tướng diện, nên nó gần Thánh, một khi giải-thể rồi lên từng thứ 7 là chắc-chắn được giải-thoat, đạt vị, bởi nó gần với Thánh.

Tại sao Trung ? Tại tình-ái cao thượng dồi-dào đối với quốc dân nòi-giống lên đến tột-độ, nó quá vĩ-đại. Nếu ta thấy một vị công-thần liều mạng sống đặng bảo vệ cho quốc dân, trung ấy chưa phải là trung với vua, mà trung với nước chớ ! Có điều vua là tượng trưng cho nước, nên trung với vua tức là trung với nước. Mà có trung đặng là vì quyền năng ái-chủng, ái-quốc nuôi trong tinh-thần nhiệt liệt, nên tình-ái ấy vì-chủ tinh-thần, cho nên ta thấy có kẻ vì trung dám hy-sinh tánh-mạng được là vì vậy.

Tới Hiếu. Tại sao có hiếu? Bởi các chơn-hồn sáng-suốt cao siêu đã có sẵn hai điều hiếu :

1) Hiếu với đấng Tạo-đoan chơn-linh

2) Hiếu với đấng Tạo-đoan  chơn-thần

Bởi có hiếu trước với hai đấng ầy, biết trọng hai quyền-năng tạo-hóa Chơn-linh và Chơn-thần thì tự nhiên phải biết nhìn  Đấng Tạo-hóa hình-hài của mình đồng thể chớ. Tâm hiếu tự nhiên mà xuất-hiện vì nó có sẵn, mà hễ có sẵn tâm hiếu tức nhiên phải là chơn-linh cao-trọng thấu-đáo được nguyên do đâu mình đến và là con của ai ? Đã hiểu rằng mình có hiếu với Đấng Tạo sanh Chơn-linh và Chơn-thần như thế nào rồi, thì đến hiếu với Đấng tạo sanh hình-hài đã sẵn có rồi vậy. Nên, hiếu không thể dạy được, hoặc có hiếu, hoặc không có hiếu mà thôi.

Bây giờ tới Nghĩa. Tại sao là có Nghĩa ? Taị sao Nghĩa lại hiện tướng tren tánh-đức của chơn-linh cao-trọng ? Nơi cỏi hư-linh mỗi người có một gia-tộc, một đại-nghiệp, anh em đông biết bao nhiêu, Bần-Đạo xin nhắc lại câu nầy cho toàn cả hiểu điều yếu trọng : Chẳng vì sự tình-cờ mà chúng ta được chung đứng trong lòng của Đức Chí-Tôn ngày nay đây. Biết đâu trong 24 chuyến thuyền Bát-nhã chở các nguyên nhân hạ trần đặng làm bạn và độ-rỗi các nguyên-nhân và quỉ-nhân, lại không có chúng ta ngồi chung trong đó. Đã từng chia đau sót khổ cùng nhau chẳng những trong thế-giới nầy mà trong các thế-giới khác nữa, đã từng chung sống cùng nhau, cái thâm-tinh vĩ-đại đã nhiều. Nếu cả thảy không nhớ lời nầy của Bần-Đạo đến khi linh-hồn xuất ngoại rồi, sẽ ân hận biết bao nhiêu mà chừng ấy đừng trách Bần-Đạo không chỉ trước. Không thương yêu nhau cho trọn nghĩa là lỗi tại mấy người đa, chớ không phải Bần-Đạo không nói. Ban sơ, nơi cỏi hư-linh thọ nhứt điểm linh đến thế nầy tạo ngôi vị, làm bạn với biết bao nhiêu chơn-linh khác, dầu nguyên do của mình là thảo-mộc hay thú cầm cũng phải có nhiều bạn, chừng nào đạt đến địa vị mới biết bạn nhiều. Người nghĩa ta có nhiều ở mặt thế nầy lo tìm người nghĩa đặng tương-liên cấu-hiệp tâm-tình trong cảnh khổ-não, truân-chuyên chịu hình thử- thách nầy.

Tìm mà vẫn lo ngại sự lầm, bất kỳ gặp ai, dầu là kẻ thù cũng tưởng là người nghĩa, nếu rũi ở bất nghĩa cùng nhau, về cõi thiêng-liêng sẽ hổ thẹn hối-hận muôn phần. Đối với nhơn-loại ta đã sẵn có cái đại nghĩa đó, đi tìm nghĩa tức là đi tiìm bạn, dầu nơi cỏi hư-linh hay tại thế, đại-nghĩa vẫn còn lưu lại, ta không từ chối được, cho nên hễ đi tìm nghĩa thì không còn phân biệt ai là người nghĩa, ai là người thù. Hỏi ta tìm nghĩa ở đâu ? Trước nhứt tìm thân-tộc anh em sau mởia toàn thiên-hạ được.

Bần-Đạo kết-luận : Trung, Hiếu, Nghĩa là ba tánh-chất của một vì Thánh, vì cớ nên Tiên Nho buổi trước tầm hiền thì duy lựa trong ba tánh-đức đó mà tìm thì ắt tìm đặng không lầm. Tại mặt thế nầy, thảng ta có gặp người như thế tức ta quyết-đoán chắc hẳn, là chơn-linh cao-trọng, chớ không phải người hèn-hạ phàm-phu, trái lại, kẻ nào phi-ân, bạc-nghĩa, bất-hiếu, bất-trung, là chơn-linh hạ tiện đi lần đến hoàn-cảnh thú bình và thú tính mà chớ.

     

Tại Đền-Thánh Đêm 9 tháng 7 năm Mậu-Tý (1949)

LUẬT TƯƠNG-ĐỐI HAY LÀ PHẢN-ẢNH CỦA HAI THÁI-CỰC CHƠN-THẬT

VÀ GIẢ-DỐI.

Cái hay của sự chơn-thật đối với cái dở của sự giả-dối, làm thế nào phân biệt?  trước khi giảng, muốn nói rõ hơn Bần-Đạo mời tất cả đi theo Bần-Đạo dùng phép hồi-quang phản-chiếu đem thần-trí ra ngoài thể-xác đặng quan-sát lại mình và hành-tàng của thế-nhân ra sao, mới quyết định điều hay lẽ dở của nó, giống như đám Thiên-Quân Ngự-Mã-Quân, ngồi trên lưng ngựa chiến-đấu về tinh-thần với mặt thế. Theo sau xe của Chí-Tôn, chúng là gò cương đứng lại bình-tỉnh, nghỉ-ngơi, giữa cảnh náo nhiệt của nhơn-loại sắp diễn và xuống ngựa xem rõ lại sự sanh-hoạt ấy đương nhiên ở vào mực độ nào, rồi ngẫm lại ta ở vào cảnh hư hay thiệt. Ta đàm luận vui vẻ cùng nhau sống, nhảy lên lưng ngựa nắm vững cương, thúc nó chạy theo kịp bước của Đức Chí-Tôn.

Phép hồi quang phản chiếu mà Bần-Đạo nói đây là tinh-thần thoát ra khỏi thể-xác, để quan sát trở lại hình-trạng thi thể của nó. Ta thấy gì ? Khởi đoan ta thấy ta sanh ra mặt thế, mang mảnh thi-hài (nguyên-căn của sự sống vật thể) lắm khi làm cho ta khó phân biệt được sự phải quấy, hoặc điều-hòa tâm-lý.

Vừa lọt khỏi lòng mẹ, chúng ta thấy miếng cơm vú sữa của bà mẹ, biết rằng bà sanh ta ra, nhận biết như vậy ta tự nhiên phải nương nơi bà mà sống, nếu ta không được bà nuôi dưỡng ắt ta phải chết, biết rõ như vậy nên đối với mẹ ta, có tình yêu-ái tự nhiên về luật Thiêng-Liêng đã định nên khi vắng mẹ ta thì nhớ, sự thương-yêu đối với mẹ là chơn.

Lớn lên chút nữa, hiểu rằng nếu không cha và mẹ thì không có ta cũng không biết tại sao mà biết ổng là cha, dầu trí khôn chưa đủ. Oâng chạy bửa cho mẹ nuôi thì ta hiểu ngay rằng nếu không ổng thì mẹ ta không đe ra được. Tự nhiên ta không thấy ổng nuôi nấng ẵm-bồng và nhiều khi không ngó tới mà ta vẫn biết ổng là cha ta, cũng trọng cũng thương yêu tự nhiên đó là chơn.

Thảng có kẻ nào nói mà mầy tự nhiên đẻ mầy ra, đừng kính đừng trọng ổng, hoặc nói mầy ở dưới đất nẻ chun lên, đó là giả, còn bảo đừng nhìn ổng đó là dối.

Lớn lên nữa, thấy mẹ đẻ em ra, cũng nhờ có ông cha ta kia, ta chia nhau một mảnh chiếu, đấp nhau một mảnh mền, nhịn nhau từ hột muối, từ ngọn rau, tình cảnh ấy không cần tả, có điều ta thấy hẳn nó kết-cấu khối tình-ái thiên-nhiên. Ngoài ra nếu cha khó, mẹ nghèo, anh em lao-khổ, lại chia đau khổ cùng nhau và biết chắc rằng cả thảy do mẹ sanh ra, biết nhau đồng-chung máu thịt đó là chơn.

Bây giờ có ai nói, anh em mầy không bằng tao, ta đối với mầy nhơn-nghĩa đầy đủ tình-cảm đặc-biệt tao đối với mầy, anh em mầy không có, đó là giả, biểu phản-nghịch lại anh em đừng nhìn nhau, nhà mầy, mầy ở, cơm mầy mầy ăn, đó là dối. Trọng chút nữa, cha đem đến trường, mình đương dốt lấy làm lạ, chữ viết cong-queo mà nghĩa-lý thâm-thúy, mình không biết đọc sao ông thầy giỏi hơn mình mà tự biết mình bơ vơ rồi nhờ ông đó, vậy mình trí-hóa mở-mang bỗng sanh ra thương-mến, ổng dạy mình biết nhiều quá nên phải kính trọng thương-yêu ấy là chơn.

Thảng có kẻ nào nói : cái ông đó mà biết caí gì, ổng nhồi-sọ mình cho ngu cho dại cho dại cho điên-cuồng. Không phải dạy-khôn mầy đâu mà mầy kính trọng, đó là giả. Nếu biểu phản-nghịch mà nói nay mầy giỏi hơn ổng đa, mầy hỏi thì ổng bí ngay, đừng kính trọng làm gì đó là dối.

Tới nữa, ngoài cha mẹ và thầy, ta thấy ông già mình không có dệt vải mà có áo mặc, hỏi ra thì ổng làm ra tiền mà may cho mình, nhà mình không có rèn mà mình có dao chặt củi, biết rằng ông già mình làm ra tiền mẹ mình mua, thấy không làm ruộng mà mình có cơm ăn, đó là ông già mình làm mướn lấy tiền mua gạo.

Aáy vậy ta mới biết rằng ta sống đây phải nương vào xã-hội, có những vật không phải mình làm được đã có kẻ khác làm, mình làm công lấy tiền mua sắm, sự sống có liên-quan mật-thiết lạ-lùng với chung-quanh mình, với những bạn đồng chung sống, nên cả quốc-dân yêu mến nhau, rồi quyết-định rằng : bao nhiêu người làm việc kia nuôi mình, người ta canh-gác giữ trộm cho mình yên-ổn, người ta đốn cây tạo nhà cho mình ở, cả thân-ân đó giục ta yêu-ái, kính-mến coi cả thảy toàn quốc-dân là phần-tử thân-mến của mình, đó là chơn.

Bây giờ có kẻ nói, nếu không có họ, mầy sẽ ăn nhiều hơn, tại có họ mầy bớt ăn lại mà còn phải thiếu, nhà mầy thì mầy ở nếu không có họ giành cây, không chừng mầy sẽ cất lâu-đài. Có họ không ích-gì, trái lại họ còn giành ăn với mầy, nói như vậy là dối, biểu nghịch họ và diệt họ, thì mình sẽ sống hanh-phúc hơn, đó là giả.

Tới nữa ta thấy luật gia-đình ở trong nước, một gia-đình không thể trọn trong hoàng-đồ được, phải nhiều gia-đình hợp lại gọi là bá-tánh, mà nhiều gia-đình chung hợp thì đất đai sẽ được mở-mang rộng hơn nước giàu dân mạnh. Vậy làm chủ đặng giữ-gìn đại-nghiệp đó cho trọn-vẹn phải ai mới được ? Một gia-đình không đủ, phải cả một Triều-Chánh, trên Triều-Chánh có một vị Chúa làm chủ đặng bảo trọng đại-Nghiệp ấy được vững tồn, cho nên vị Chúa ấy hay là Vua hoặc Tổng-Thống làm chủ các nước gìn-giữ quốc-thể giống-nòi của mình. Thảng như Hoàng-Đồ nầy bị tiêu-hủy thì mình sẽ ra thế nào ? Mình sẽ giống như Mán-Mọi nay ở chỗ nầy, mai đi chỗ khác tàn-sát nhau, xô đuổi nhau như dân-tộc Do-Thái ngày xưa, không quê-hương, không Tổ-Quốc, ăn nhờ ở đậu trên khắp mặt Địa-Cầu. Vậy chúng ta phải bảo-thủ Hoàng-Đồ của Tổ-Phụ ta đó là chơn. Bây giờ có kẻ hỏi : Tổ-phụ mầy đâu phải ở mặt đất nầy, Tổ-Phụ mầy không phải nội đây, cả Địa-cầu nầy cũng là Tổ-Quốc mầy được. Họ xúi mình đừng nhìn Tổ-Quốc mình, là giả. Nếu nói rằng : cả Chủng-Tộc nầy là kẻ thù-địch của mầy, họ đầy đọa mầy vào cảnh-khổ, họ sung-sướng tấm thân họ, đó là dối.

Cao hơn nữa ta thấy trên mặt Địa-Cầu nầy, nòi-giống nầy khác màu da với nòi-giống kia và có những Chủng-Tộc bất đồng ngôn-ngữ, xong cái cười cái khóc vốn như nhau, trạng-hình đều giống, mà tiếng nói coi đó chỉ là định-ngôn đặng để hiểu nhau thôi. Không phải duy có điều đó mà buộc mình đứng nhìn nhơn-loại đồng căn-bản, phải coi nhau là bạn đồng-sanh đặng kính-trọng lẫn nhau. Hễ là bạn đồng-sanh tức-nhiên liên-quan mật-thiết nhau, như trong gia-đình vậy. Một gia-đình nào ràn-rát, sanh-sản con cháu đông đảo và có phương sống đầy-đủ gia-đình, đó là vui vẻ. Nếu trong gia-đình nào rủi-ro con cháu hay họ hàng chết thì trong thấy ai-bi lạ-lùng, một Ông cha vì con chết có thể chết theo được, sự thảm khổ đó vô-đối. Ta kính-trọng mạng sanh của tất cả dị nghĩa đồng-sanh, rồi ta nghĩ-suy cho thấu-đáo thấy bổn-phận của ta là bảo trọng mạng sanh anh em của ta khỏi phải đổ nước mắt, phận sự ta đối với cảnh tượng đó là chơn.

Bây giờ có kẻ nói cả sanh-mạng trên mặt địa-cầu nầy không quan-trọng, mầy có thể là chủ được thì đoạt-quyền làm chủ, giá trị mạng sanh không có nghĩa gì đâu. Cả sanh-mạng ấy là lợi khí để mầy dùng làm bá-chủ thiên-hạ chẳng có tình-cảm gì cả, đó là giả-dối.

Đứng về tinh-thần, mặc tình tấn tuồng giả-dối và chơn-thật, hiện tại diễn ra, nếu chúng ta biết lấy tâm linh tự chủ mà quyết-đoán, quan-sát trong kiếp sống của xã-hội nhơn-quần thì không ai gạt-gẫm ta đặng. Ta phân biệt được cái dở cái hay thì ta sẽ làm chủ nó đặng.

Bây nói rằng tinh-thần đã biết phân-biệt hình trạng vật thể, mà lại nói cả thế-gian duy nhờ sự giả-dối mà sống như Tào-Tháo đoạt nghiệp Hớn cũng nhờ giả-dối. Khổng-Minh thắng Châu-Công-Cẩn cũng nhờ giả-dối, đó là Á-Đông. Còn bên Châu-Aâu nói nhờ Machievel giả-dối mà nước Ý mới tồn tại, đó là mộng-mị, không phải chơn-thật không một người nào, một cơ nghiệp nào sản-xuất trong sự giả-dối mà tồn tại được.

Trí ta sáng-suốt sẽ thấy và hiểu như vậy, thảng như những người mà thiên-hạ cho rằng : Nhờ sự giả-dối mới làm nên đại-nghiệp nơi mặt địa-cầu nầy thì Bần-Đạo nói có lẽ như Hoàng-nghiệp Romain hay Tần-Thủy-Hoàng ngày nay đã còn chi nói thử ? Nếu quả-nhiên sự giả-dối tạo nên những sự nghiệp đó thì quyết-định chẳng còn tồn-tại bởi sự nghiệp đó do sự giả-dối xô ngã, đài Tần, đảnh Hớn ngày nay lưu lại những gì ? Nếu cơ nghiệp vĩ-đại tạo thành nhờ trí óc xảo-trá thì nó cũng theo sự xảo-trá ấy mà tiêu-diệt.

Xem lại tinh-thần, các Đạo-Giáo, như Gia-Tô, Khổng-Tử, Lão-Tử, Thích-Ca, không dùng một lưỡi gươm một ngọn súng mà cầm chắc qui-nghiệp, dầu không làm được bá-chủ cả Địa-Cầu trọn-vẹn, mà qui-nghiệp ấy vẫn còn tồn-tại là sao ? Là tại thực hiện được sự chơn thật và nương sự chơn thật ấy mà tạo nghiệp, thì nghiệp ấy mới được vĩnh-cửu trường tồn.

Trong Đạo Cao-Đài ngày nay cũng vậy, tại sao Bần-Đạo còn dám ngồi tại đây làm tôi-tớ cho con-cái của Đức Chí-Tôn, để tạo nghiệp cho họ mà Bần-Đạo quả-quyết làm đặng ? Là biết trong cảnh nguy-vong kia, họ tưởng nhảy ra với quyền-năng của Đạo nầy có thể diệt trở lại Bần-Đạo, họ quyên nơi đây là Tòa-Thánh, là nơi Đức Chí-Tôn đến nhứt định lập ngôi-vị của Ngài trong mọi sự cố-gắng của con cái của Ngài, tượng nên tinh-thần vững-chắc thì ai có đủ quyền-năng nào mà được diệt được. Bởi thế họ không diệt được nên dầu khổ thế nào, Bần-Đạo quyết chống xem ngày tàn cuộc.

Họ làm thử, ít nữa phải dòm lại ngược coi, khi họ lấy năng lực của đạo ra làm năng lực riêng của mình có còn tồn-tại được chăng ? chắc-chắn rằng không. Bởi vậy trong buổi loạn Đạo người nầy, người nọ tìm đủ phương-thế diệt trừ đảng-phái. Bần-Đạo đã nhận định được nên mới hỉểu họ cứ việc làm đi, rồi sẽ thấy cái ngày của sự chơn giả xuất-hiện. Tấn-tuồng đó đã rõ-rệt lắm, Bần-Đạo nói thật rằng : Năng-lực mà họ đem ra ngày nay thi thố với Tòa-Thánh, ngày kia mấy em và mấy con sẽ đắc thắng. Họ sẽ làm mọi không cơm cho mấy em và mấy em vì lẽ sống của họ thiếu sự bảo-trọng cho chơn-thật thì chết rồi cũng buông rơi sự-nghiệp vào tay mấy em mà thôi.

Sự chơn-thật của Chí-Tôn bao giờ cũng tồn-tại sự chơn là một năng lực tinh-thần, không tinh-thần nào đối chọi đặng. Ngay giờ nào Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn biết bảo trọng sự chơn-thật cho toàn Đạo, thì không có năng lực nào thắng nổi quyền-hành Thánh-Thể của Ngài đặng.

 

HUẤN-TỪ LỄ MÃN KHÓA HẠNH-ĐƯỜNG

Ngày 12 tháng 7 năm Mậu-Tý (1948)

Đáp từ hai bài diễn-văn của hai vị Lễ-Sanh Tân-Phong Phạm-Hải-Tống, Đinh-Công-Cự.

Qua lấy làm hân-hạnh thấy được tinh-thần tấn-hóa của toàn thể mấy em, mấy con tưởng chừng như không chi thỏa-mãn hơn. Từ 23 năm Đạo mà Qua trông-cậy hơn hết, là thấy mấy em tấn-hóa về Đạo-Đức tinh-thần thì không có mùi-vị nào ngon hơn tưởng như mình đương thêm-thuồng món ăn, dầu ra dầu củ mà khi thêm ăn cũng ngon lành mà chớ.

Qua thêm cái món ăn mà mấy em vừa cho Qua ăn đó, vì Qua nghe nó ngon làm sao, Qua để lời khen hai em đó. Ngoài ra Qua xin giải-nghĩa cho mấy em biết phận sự của mình rồi mới hiểu được phặn của chúng Qua tức là của toàn Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, có vậy mới phân định được nhiệm-vụ trọng yếu tương lai như thế nào, các cơ-quan đương nhiên cố tâm giáo-hóa mấy em, mấy con, là một điều trọng-yếu hơn-hết, không làm điều ấy không đặng, tại sao không làm không đặng ? Là tại không lẽ đại-nghiệp của Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, tức toàn Hội-Thánh từ thử đến giờ, mà mấy anh của Qua kế tiếp, mấy Qua đã biết bao nhiêu mồ-hôi, bao nhiêu nước mắt, đã chịu bao nhiêu khổ-não xác-thịt lẫn tinh-thần, chỉ mong ước có một điều là đại-nghiệp Thiêng-Liêng nầy được tồn-tại, cả thảy đều biết rằng : Không có ai lột da mà sống đời, trước Qua thì sau tới kế nghiệp đặng trường-tồn, ngày nay phận-sự của mấy Qua dìu-dắt mấy em, mấy con, đó là cả đại-nghiệp tinh-thần, mà trước khi giao, phải lựa, phải chọn, cho có người xứng phận bảo-thủ vững-vàng đại nghiệp đó mới phải.

Ngày nay đứng trước mấy em. Qua lấy làm đau lòng mà nói, biết nói ra mấyem sẽ gán mà sự thật buộc lòng phải nói. Đạo chưa đủ gì hết, mười phần Đạo kể cả hữu-hình hay Thiêng-Liêng, về mặt vật chất hay mặt tinh-thần, chúng ta đi chưa được hai phần mười, sự thật là vậy.

Ngày kia tới phiên mấy em, cầm vận mạng của Đạo, cầm quyền-hành của Đạo, chừng đó mấy em sẽ thấy rõ, càng ngày càng tấn triển mãi, nền Đạo của chúng ta có phận sự khó-khăn hơn hết là, đảm-nhiệm đứng ra dung-hòa tâm-lý tín-ngưỡng của nhơn-loaị. Phải đối phó với các Tôn-giáo hiện-hữu trên mặt địa-cầu . Thiên-hạ ai cũng phải nhìn-nhận, ai cũng biết rõ rằng các Tôn-giáo ngày nay, đã lầm lạc, đã thất chơn-truyền, tinh-thần nhơn chũng đương tìm kiếm một mãnh lực tinh-thần nào chan chứa tâm đức có thể làm cho mình thõa-mãn, ngày giờ nầy họ đương tiềm-tàng, họ vẫn còn thiếu, vẫn còn khao-khát, họ đói kém tinh-thần, họ còn đói kém tín-ngưỡng. Ta thấy Đức Chí-Tôn đến tạo Đạo Cao-Đài tại mặt thế này, Ngài mới lập Hội-Thánh, đặng làm Thánh-Thể của Ngài. Bởi Ngài muốn chung sống với con cái Ngài, câu ấy giá trị như thế nào, mấy em rán tìm hiểu, ngay nay dầu phẩm nào, dầu một vị trí Phật, như Phâït Thích-Ca kia nữa, đến lập Giáo, đáng lẽ Đạo Phật vững chắc lắm vậy, đặng làm tâm-lý nền móng cho toàn nhơn-loại, Qua dám nói rõ rằng, kể các Tôn-giáo hay không Tôn-giáo nào chơn-chánh bằng Đạo Phật, mà Phật-Giáo còn mất năng-lực cứu-thế độ nhân, chỉ có ở Á-Đông đây, còn phía Aâu Châu thiên-hạ đương tiềm-tàng quan-sát triết-lý cứu-khổ, Qua nói thiệt đạo-đức tinh thần của các Tôn-giáo chưa làm thõa-mãn tâm-lý của loài người, họ còn đương thêm-thuồng khao-khát.

Ta thử hỏi Chí-Tôn Ngài muốn chính mình Ngài đến với con cái của Ngài, là ý tứ gì vậy ? Ngài đến như là phương-pháp chót, hơn thua gì cũng tự ở nơi Ngài mà thôi,

Ngài nói :  Thầy quyết đến với các con, nếu các con lập đạo không thành thì chính mình Thầy phải tái kiếp, họa may chăng, một mình Thầy mới đủ quyền-năng làm tinh-thần loài người, chỉ đặng an-ủi và thõa-mãn, Thần cũng có, Thánh cũng có, Tiên cũng có. Ngài đã sai đi đủ hết, nhưng tinh-thần nhơn-loại vẫn còn đớn đau khao-khát, lòng hoài-vọng cho nên mới đến giai đoạn nầy.

Đồ-đệ của ông là Thần, Thánh, Tiên, Phật nơi Ngọc-Hư-Cung đã cầu khẩn xin Người đừng giáng-thế, nếu như người không đến, ta thử hỏi có ai lập Đạo nên đặng cho đời chăng ? Chí-Tôn đã nói : Nếu các con lập không thành thì Thầy phải giáng-thế. Đã can ổng thì mình phải làm cho được, xét ra các phần tử của mấy em ở trong Thánh-Thể là ổng vậy, mấy Anh thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn trong phần tử của ổng định, biết đâu khi ta cầu khẩn ngăn cản tái-kiếp của Chí-Tôn mà ta không hay biết nên phải đứng vào Thánh-Thể của Ngài.

Qua nói đây không chừng phạm thượng, Qua muốn tạo mấy em thành ông Trời ở tại mặt thế nầy, nếu mấy em thành ông Trời được, đó là điều sở vọng đệ nhứt của Qua hơn hết, sự bí mật đó không nên nói là mấy em có thể làm Trời được. Phải làm được Qua biết chắc làm được, buổi nầy không làm được sau nầy cũng sẽ làm được, ngày giừo nào Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến cỏi trần thay thế cho hình-ảnh Đức Chí-Tôn, họ đến với thánh-tâm toàn vẹn thì chừng ấy sẽ quả-quyết làm được.

Chúng ta đây bất quá là kẻ mở đường mở lối mà thôi, chớ không phải là vai tuồng chánh. Chánh vai là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đến ngày giờ định họ sẽ đến, biết đâu họ không có mặt trong mấy em, Qua không biết em nào, song Qua biết rằng đã có, vì trước đã có, thì sau cũng phải có, Qua đây không biết mà mấy em cũng không biết, chỉ tới thời buổi Chí-Tôn phân-định thì chư vị đó sẽ hiện ra, chúng ta không thấu-đáo được Thánh-ý của Đức Chí-Tôn, cũng không rõ nguyên-căn của ai được, nhưng biết rằng, bổn phận phải đào-tạo mãi cho thành Thánh-Thể của Đức Chí-Tô, tức là tạo ông Trời tại thế nầy cho ra tướng, nếu không có ông Trời tại thế gian nầy chúng ta sẽ khổ-não, thế gian sẽ bị tiêu-diệt, vì con đường tấn-hóa về vật-hình sẽ sô-đẩy nhơn-loại đi đến đầu chưa biết, mặt địa-cầu nầy nhơn-loại sẽ mất bảy hai tám phần mười, nếu Đạo không thành chơn-giáo.

Qua vừa thuyết minh cho mấy em biết trách-vụ thiêng-liêng trọng-hệ hơn hết chẳng phải Qua mà thôi, cả mấy em cũng bị lời hăm-he của Đức Chí-Tôn , luôn cả đoàn hậu-tấn của chúng ta nữa, đời đời không cùng, đàn anh của mấy Qua, đến mấy Qua đây rồi đến mấy em, nếu đứa nào trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn thất phận thì Ổng sẽ đến, mà hể Oång đến kẻ nào đương cầm-quyền không đủ năng-lực, mà buộc Oång phải đến đó, kẻ ấy bị hành-phạt, từ xưa đến nay không một đấng chơn-hồn nào không ghê-sợ.

Vậy chúng ta phải biết điều nên lẽ hư, làm thế nào cho Thánh-Thể Đức Chí-Tôn đặng gần con cái của Ngài, con đường đó mấy Anh của Qua đã đi, Qua đương đi và mấy em sẽ đi, ngày giờ nào mấy em tìm phương thế bảo-trọng cầm vững vận-mạng của Đạo tức là làm thõa-mãn sở-vọng của Chí-Tôn đó vậy ; đều đó mấy em phải tự lập mình mỗi ngày, tự hỏi mình, đảm đương nhiệm-vụ đặng chăng, và mãi cố-gắng trau mình cho nên phận, Qua tưởng muốn thì phải được, rán hết sức mình ắt làm đặng, vì ta quyết đoán rằng có Chí-Tôn giúp ta thành tựu.

Phương ngôn Pháp có câu  “Aide-toi le ciel t' aidera” và Tiên-Nho chúng ta nói “Tận nhơn lực trí thiêng mạng” điều nầy hiển-nhiên chơn thật lạ lùng chúng ta ráng cố gắng hết sức mình thì Chí-Tôn mới ban cho cái huyền-linh của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng được, mấy em nhận biết điều ấy, chúng ta do Chí-Tôn kêu gọi đặng gầy-dụng, ta phải cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa. Mấy em nhớ, Đạo của mấy em chúng Qua đã tao dựng cho mấy em đặng ngày kia mấy em tiếp theo Chơn-truyền Luật-Pháp thay thế cho mấy qua đặng truyền- nghiệp cho hậu tấn.

Pháp nói “Chaque soldat un bâøton de maréchal dans son sacoche” nghĩa là: mỗi tên lính điều có cây giãn của Ông Thống-Chế trong bị của họ, Qua nói rằng : mỗi vị Tín-đồ đều có cái mão của Giáo-Tông và Hộ-Pháp đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu nền Đạo.

Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy em, khi Qua đã già vô tịnh-thất ãn-dưỡng tinh-thần, mà mấy đặng mấy em ở dưới bước lên ngồi địa-vị cao-trọng của Đạo, nếu Qua được hưởng Hạnh-phúc thấy như vậy thì vui sướng của Qua vô cùng tận.

     

Tại Trí Giác-Cung Ngày 17 tháng 7 Mậu-Tý (1948)

CHA MẸ PHẢI NÊU GƯƠNG TỐT CHO CON NOI THEO

Sắp nhỏ là tương-lai đất-nước chúng nó tốt xấu nên hư đều do nơi mấy bà mẹ đào-tạo. Bài giảng hồi hôm qua đã Bần-Đạo nói rõ ràng : đảm-nhiệm sự giáo hóa tương-lai tinh-thần  tâm lý là phần mấy em, lớn nhỏ cũng vậy, còn sắp con gái phải chăm nom giữ nề-nếp. Qua muốn đứa nào cũng có đôi bạn chồng vợ tử tế rồi sanh con cái, phải biết dạy dỗ đặng tạo đời; nên hay hư tương-lai của nòi giống chủng-tộc là “ do mấy bà mẹ”.

Trẻ con sơ sanh bắt chước cha mẹ nhiều hơn hết, gia-đình nào mà không tôn trọng nhau gây gổ bất-hòa khi-rẻ nhau là gương xấu cho con đó, ở đây chúng ta chịu khổ thì thái-bình thầy-trò còn chung sống cùng nhau hợp quần với nhau, sự khổ nào cũng chia xẻ ra thành bớt đi, còn ngoài đời họ sống hiu-quạnh cô-độc họ còn khổ nhiều nữa, xem như giống vật đừng nói chi hơn cái bọn kiến nhọt kết-bè lại, con vật khác vô đó còn phải chạy thay, huống hồ chi giống người, nếu biết kết bè lại  mà sống , anh ngã em đỡ, em té anh nâng, thân cô-độc giữa đời kia nó còn thê thảm lắm lắm.

Mấy em than nghèo, mấy em chưa ăn củ súng, củ-nầng mới ăn khoai thôi, các em ở đây nhờ quân-đội bảo-vệ sống yên-ổn rán đặng nuôi nhau cần nhứt là khéo sắp đặt.

Mấy em ở đây yên phận đó là hạnh-phúc nhiều rồi, còn nơi khác trải hai năm qua họ sống sợ-sệt kinh khủng nhiều nữa.

 

Ngày 16 và 17 tháng 7 năm Mậu-Tý (1948)

LỄ KHÁNH-THÀNH ĐỀN-THỜ PHẬT-MẪU

TẠI TRƯỜNG QUI-THIỆN

Đức Hộ-Pháp vào Đền-Thờ làm lễ Phật-Mẫu Linh-Vị Chư-Thánh Bach-Vân và Cửu-vị Nữ-Phật xong lên lầu triều-bái Đức Chí-Tôn , xem lầu chuông và lầu trống. Đức Ngài trở ra, cả đoàn rước đến Hộ-Pháp Tỉnh-Đường nghỉ-ngơi, trước mặt Bàn Cai-Quản Trường Qui-Thiện và Chư-Vị cầm quyền Hội-Thánh Phước-Thiện.

Đức Ngaiø nói : Cơ-quan nầy thuộc về Phước-Thiện, nhưng đào-tạo ra đây riêng- biệt cho những người Phạm-Môn ngày trước. Bởi muốn giữ trọn-vẹn đường tu trong lúc loạn-động mà không căn-bản, cơ Thảo-Đường lập không xong, nên khiến cho Trứ về đây đặng tiếp-tục lập cho thành.

Nguyên gốc của nó tại Phú-Mỹ hồi lập Trường Qui-Thiện tâm-thần của Đạo bị Anh Đốc-Phủ Ca làm cho náo-động loạn thần không biết được con đường phải đi, nhứt là tội-nghiệp cho Nữ-phái cần độ-rỗi họ trở lại, cho nên Trường Qui-Thiện, cốt-yếu qui-tựu cả Nữ-Phái lại đặng gìn-giữ  nguyên bổn chơn-truyền của mình.

Ở nhà trong thời kỳ Nhật-Bổn, Trứ đã có làm rối không tùng ai hết, kế nhà đương-quyền Quan-Sứ Pháp viết giấy hỏi vậy Qui-Thiện có phải của Đạo hay không, mà chứa-chấp Việt-Minh và họ nhứt định đốt : sự thật cũng có chứa họ, mà vụ nầy phát-giác là do nhơn-viên dọ-thám biết rõ mà điềm-chỉ, chừng Bần-Đạo gởi thơ trả lời Trường Qui-Thiện của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ Độ và dưới quyền chỉ- huy của Bần-Đạo, họ mới buôn tha khỏi tàn-phá, tới sau nữa, Bần-Đạo biểu Đại-Tá Phương chiết ra một bộ-đội gìn-giữ.

Bần-Đạo nói nhờ Hội-Thánh nhờ Quân-Đôïi là vậy, vì trước khi Bần-Đạo về, nhà binh Pháp cũng có hỏi Hội-Thánh nhìn-nhận Trường nầy là của đạo, nên mới còn đến ngày nay vậy. Thánh-Thể Đức Chí-Tôn duy có một không hai, nếu chia rẻ là tức nhiên Tả-Đạo Bàn-Môn, mà Tả-Đạo do trước mắt xem thấy, biết bao nhiêu họ chia-rẽ ra, hỏi ngày nay làm nên trò gì đâu ? Họ chia-rẽ họ sẽ chết, không chết cũng tiêu-hủy.

Hội-Thánh duy có một, dầu biến ra trăm hình, ngàn trạng cũng huờn lại chỉ có một chủ-quyền là Thánh-Thể Đức Chí-Tôn đó thôi, hễ tâm-lý muốn tạo ra đây đặng phân chia sẽ tiêu-diệt nghe không, ngọn lữa muốn hai lần tiêu-hủy Trường-Qui-Thiện là do nguyên căn Trứ muốn chia rẽ, cái hại ấy cho tinh-thần của Trứ đây, không phải Qua nói : Thánh Màng về nói những điều em dự-định làm, những ý-nghĩ em dự định-thực-hành.

Trứ, Qua hiểu em hơn hết, thầy Em hiểu Em mà, không lẽ Phối-Thánh-Màng cáo-gian cho Em, nó nói hết công chuyện với Qua, ở nhà Em đã làm gì, và còn muốn làm gì nữa, tôi dặn một lần nữa vì Đạo của Chí-Tôn có một, ai muốn phân-chia lực-lượng của Ngài thì bị tiêu-diệt, chẳng những tiêu-diệt mà thôi, mà còn phải xuống Phong-đô đền tội nữa. Đạo biến ra trăm hình ngàn tướng vẫn dưới một chủ-quyền của Chí-Tôn .

Vậy Trường-Qui-Thiện đặt dưới quyền Hội-Thánh Phước-Thiện, Trứ từ đây lãnh trách-nhậm chức Đốc-trường, không còn gọi là Chủ trường, Trường nầy Bàn-Cai-Quản làm đầu, Bàn-Cai-Quản là chủ trường, tất cả tùng dưới quyền Hội-Thánh Phước-Thiện chưa hề rời Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài vậy.

Thật ra quyền Hội-Thánh Phước-Thiện về Hiệp-Thiên-Đài Pháp-Chánh gì- giữ chơn truyền, Phước-Thiện lo giáo-hóa nhơn-sanh, còn Cửu-Trùng, Đài có Hành-Chánh giữ tài-sản của Đạo. Vậy Phước-Thiện, Trường-Qui-Thiện nầy duy để lo giáo-hóa chúng-sanh làm ra của mà thôi, chẳng đặng thâu của cái một ai hết, làm ra bấy nhiêu dùng bấy nhiêu, kỳ dư có ai thật hảo-tâm hỷ-cúng mới thâu vào sở của trường, rồi phải phúc sự cho Hội-Thánh Phước-Thiện hay biết liền. Từ đấy về sau sở-phí huê-lợi gì của trường Qui-Thiện cũng phải chạy tờ phúc cho Hội-Thánh biết rõ, sổ bộ của trường tuy riêng biệt, nhưng phải do Hội-Thánh cầm.

Tôi lập lại cấm : đi tới xin thiên-hạ, làm được thì làm, không thì thôi nghe chưa ?, ngày kia Qua về nhà Tịnh rồi Qua cũng lập ra cơ-quan Tịnh-thất cho Nam, Nữ mà lập rồi cũng để dưới quyền Hội-Thánh . Mấy em thấy từ thử Thầy mấy em làm nô-lệ cho Đạo, tạo ra bao nhiêu của cải, mà vẫn cúi đầu trước Hội-Thánh , bởi quyền Hội-Thánh là quyền thiêng liêng của Chí-Tôn để tại mặt thế, nếu phân chia thì bị tiêu diệt, mà còn bị Phong đô dòm ngó nữa.

Lập lại lần nữa cả thảy phải nhớ đa nghe !. Trứ lần nầy là lần chót. Qua nói với em, Em không nghe thì chịu lấy trước mặt Bàn-Cai-Quản, trước mặt Hội-Thánh Phước-Thiện làm chứng. Từ đây kêu là Đốc-Học Trường của mấy em đây, chúng ta làm đổ mồ-hôi nước mắt mới tồn-tại đặng dây.

Em trung-thành với Qua, em thương Qua thế nào Qua biết lắm, nhưng đầu óc em dị-hợm lắm. Qua đây còn phục Hội-Thánh mà chống thì tiêu-hủy đa. Trứ nói : Bạch Thầy khi Thầy về con có làm tờ thú tội với Thầy rằng : con không tùng Hội-Thánh Saigon vì lòng con nghi-ngờ đó thôi. Tại sao em nghi-ngờ sự chơn-giả, Qua biết rằng trong mười phần giả đó cũng có hai phần thiệt, dầu trong đám đó đều là kẻ lạ hết mà có một vị Giáo-Hữu hay là Giáo-Sư trong đó, Qua không dám nói là giả nữa. Thảng như họ làm không nên thì vị Giáo-Sư hay là Giáo-hữu đó sẽ chịu tội trước tòa Tam-Giáo Bát-Quái-Đài.

Em nên nhớ đây không ai đầu-cáo em đâu, Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng, Phước-Thiện cũng vậy, người đầu-cáo em là Phối-Thánh Màng.

Chúng em biết tại sao lập cơ-quan ở Saigon không ? Là vì Qua bị Pháp bắt, nên họ đòi Thầy họ về, cái khối oán dẫy-đầy kêu gọi toàn-thể đứng dậy đó, mà làm chứng rằng họ làm có kết-quả đó vậy. Trứ bạch Thầy : Vì Thầy ở bển có một mình, còn bên này làm sợ có hại cho Thầy chăng ? Nên con không tán-thành.

Nếu vậy em không biết quyền của Chí-Tôn ra thế nào sao ? Qua biết chúng bắt mà ngồi đây cho nó bắt, nếu quả có sự gì hại đừng tu.

Bàn-Cai-Quản ra mời Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài vào đây : “Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài vào ! Thưa cùng chư -vị chức-sắc Cửu-Trùng-Đài, Trường-Qui-Thiện của Hiệp-Thiên-Đài trình cho Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài được biết về chánh-qui của Đạo, cơ-quan nầy không phải tư riêng phải tùng y luật-lệ của Hội-Thánh Cửu-Trùng, Hiệp-Thiên. Thảng ngày kia nó đi ngoài chơn-truyền Pháp-Chánh thì hai đài có quyền giải-tán.

Ngày nay tôi trình nó ra mặt công-khai của Đạo thuộc Hiệp-Thiên-Đài Chưởng Quản, thảng ngày kia có phạm pháp-luật hoặc chẳng noi theo chơn-truyền của Đại-Đạo tự lập tôn-chỉ khác, chúng ta có quyền giải tán.

Đức Hộ-Pháp dứt lời thì nhạc trổi và Đồng-nhi ca-mừng ơn Đức Ngài, trong lúc ấy Bàn-Cai-Quản và Đạo-sở vào lạy mừng. Ngài nói: các em biết các em lạy Qua, Qua nguyện làm sao không ? Qua nguyện với Đức Chí-Tôn rằng : các em con, chúng lạy đó là lạy Thầy chớ không phải lạy con, Thầy ban ơn cho chúng nó.

 

Tại Cửu-Long-Đài Hồi 4 giờ Ngày rằm tháng 8 Mậu-Tý (1948)

LỄ HỘI-YẾN DIÊU-TRÌ

Cũng như mọi năm, chúng ta làm lễ Đức Phật-Mẫu Diêu-Trì tưởng khi cả thảy trong Đạo ngó thấy Bần-Đạo mặc Tiểu-Phục đứng trước Cửu-Long Đài đều thấy làm lạ.

Thưa cùng cả-thảy các bạn đồng-sanh, trước mặt PhậtMẫu, Bần-Đạo thường nói : Người chỉ biết con-cái của người mà thôi, không phân đẳng-cấp chẳng luận sang bên.

Thưa cùng các bạn nam nữ, chúng ta ở giữa trường đời này, chịu thống khổ tâm-hồn mọi nỗi, nhà Phật gọi cảnh trần nầy là khổ hải. Chúng ta ngó thấy hiện-tượng trước mắt nhiều lẽ bất công, kiếp sống chúng ta sanh ra trong xã-hội nhơn quần nầy, ta thấy cái tương quan nó làm cho chúng ta nhiều nỗi khổ-não, buồn thảm hơn là ngày vui của hanh-phúc. Bần-Đạo cũng như thấy các bạn thấy lẽ bất công, tinh-thần ta chịu thống-khổ nhau như nào phân biệt sang bên đẳng-cấp. Chúng ta đã thấy trường đời tranh-đấu nhau, sang kiếp hèn, giàu hiếp nghèo, mạnh hiếp yếu, trí hiếp ngu, đã quên hết tình bạn đồng-sanh, tức nhiên chúng ta đứng giữa trần-hoàn nầy đồng chịu thảm-khổ như nhau, ta thường hỏi : Chúng ta có phương gì tìm mưu-chước đặng an-ủi tâm-hồn ta chăng ? Dầu cho mảnh hình-thể cũng thế, mà tâm-hồn cũng thế, chúng ta quá chịu thống-khổ rồi. Ta tìm phương an-ủi tâm-hồn, ta không thể tìm được nơi bạn đồng-sanh, chúng ta phải tìm một nơi an-ủi Thiêng-Liêng cho tâm-hồn chúng ta chăng ? Chỉ khác hơn là chúng ta về trong lòng của bà mẹ sinh sản thi-hài và chơn-thần chúng ta.

Các bạn có biết Phật-Mẫu là ai ? Ngài dùng bảy guơn khi tạo chơn-thần ta, tức nhiên tạo phách ta. Nhà Phật gọi là thất phách. Kỳ thật khí-phách ấy làm chơn-thần, tức là nhị xác-thân chúng ta, khi chúng ta bỏ xác trần, xác Thiêng-Liêng ấy vẫn còn tồn-tại. Hình-hài thay-đổi đặng, văn-hóa của ta mỗi kiếp mỗi tăng thêm, Nhà Phật có nói : nó có thể tấn tới hoặc trở lại hay đứng chừng mà thôi. Mỗi linh-hồn đều mơ-ước tấn-tới mãi, tới đạt địa-vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Nếu ngày nào ta tận thiện, tận mỹ và linh-hồn ta có thể đạt vị đặng thì Phật-Mẫu đủ quyền-năng binh-vực con-cái của Người nơi cỏi Hư-Linh vậy.

Aáy vậy chúng ta có thể gởi tâm-hồn dầu mặt thế, khi chúng ta quá-vãng trở về nơi ấy, chúng ta chỉ sống đặng làm phận-sự làm người, mà làm người chẳng phải dễ nữa. Nhưng chúng ta biết quyền-năng vô-hình định hồn cao cả, có thể cầm mực-thước công bình không hề sai chạy được là Đại-Từ-Phụ.

Bây giờ chúng ta thống-khổ tâm-hồn, ta tìm nơi đâu an-ủi ? Không có nơi nào khác hơn là chúng ta về cùng bà Mẹ Thiêng-Liêng chúng ta.

Thưa cùng các bạn đồng-sanh, sang hèn, giàu có thế nào cũng mặc. Người chỉ biết con-cái của Người mà thôi. Dầu cho vạn-vật, hễ đồng-sanh với một bà Mẹ Thiêng-Liêng vẫn được coi đồng một mực. Bởi vì tình thương của bà Mẹ chẳng có thế gì phân-biệt thương ghét, trọng khinh. Aáy vậy Đức Phật-Mẫu là một Đấng đem công bình tâm-lý an-ủi con cái của Người. Người nói : những điều bất công trước mắt con, vẫn là kiếp sanh ngắn-ngủi mà thôi. Mà chỉ trước mắt mẹ mới đủ quyền đem sự công chánh vì lòng Mẹ thương yêu mà thôi.

Aáy vậy, một Đấng gieo mảnh tâm-lý nhơn-sanh lấy luật thương-yêu làm căn-bản. Nếu thảng có bạn đồng-sanh biết thương-yêu con-cái của Người vậy, thì những điều bất công trước mắt chúng ta, và chúng ta biết lòng thương-yêu vô-tận đối với các chủng-tộc, các sanh-mạng của con-cái Người âý là chúng ta trọn Đạo. Sức hợp tinh-thần tự an-ủi lấy để được an-vui, chịu cho đoạt khổ, rồi chúng ta chia khổ với nhơn-loại, cầm quyền thế tài tình để rải truyền thêm ra nữa, cho cả thảy chủng-tộc biết thương-yêu nhau như một nòi-giống. Đem tình thương-yêu ấy gieo truyền khắp dân-tộc trên mặt địa-cầu nầy, tôi tưởng sự bất công chúng ta ngó thấy giữa xã-hội nhơn-quần nầy tự nhiên sẽ tiêu-diệt, ấy là tinh thần diệt trừ hung-ác bạo-tàn của đời đó vậy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm rằm tháng 8 năm Mậu-Tý (1948)

LỄ TRUNG-THU

Kỳ nầy chúng ta đình-bộ trên đường dục-tấn của chúng ta, là con đường Thiêng-Liêng hằng sống tại Cửu-Thiên Khai-Hóa, Kỳ tới Bần-Đạo giảng tiếp.

Nhơn dịp ngày nay nhằm lễ Trung-Thu tức là lễ Hội-Yến-Diêu-Trì-Cung là một cuộc lễ trọng-yếu trong nền Tôn-giáo của Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo lấy triết-lý vì cớ nào ngày nay Đức Phật-Mẫu đến cùng chúng ta. Trong triết-lý ấy do nguyên-nhân của nó là phép an-ninh trật-tự đối với cơ Tạo-đoan Càn-Khôn Vũ-trụ.

Phải chăng chúng ta thường muốn định Khảo-cứu một triết-lý chí thật cao-siêu, chúng ta có một phương-pháp hay ho hơn hết là chúng ta tìm từ cái nhỏ thấu-đáo đến cái lớn.

Trong phép an-ninh trật-tự đối với Tạo-đoan Càn-Khôn Vũ-trụ không ngoài khuôn-khổ gia-đình, chúng ta quan-sát hình-tướng phép an-ninh trật-tự đối với cơ Tạo-đoan trong gia-đình thế nào thì cơ Tạo-đoan Càn-Khôn Vũ-trụ cũng trong khuôn-khổ ấy mà thôi.

Chúng ta ngày nay thấy gì ? Chúng ta ngó thấy cha mẹ chúng ta trước hết sanh ta ra, chẳng phải một mình chúng ta, thấy xung-quanh hoặc anh em đồng sanh hay là anh em trong thân-tộc của chúng ta. Trong buổi sơ-sanh, chúng ta còn niên-thiếu, còn ngu-khờ, chúng ta chưa biết an-ninh trật-tự. Chúng ta quan-sát dầu anh em một nhà, đứa út còn bú chưa biết tôn-sùng anh cả thế nào, nó chỉ biết mầy tao, mi tớ với nhau mà thôi. Kỳ dư chúng ta biết chút đỉnh khôn-ngoan, chúng ta biết lễ-phép. Cha mẹ mời khởi sự dạy: mầy là anh thứ mấy, mầy là chị thứ mấy, mầy thứ mấy trong gia-đình. Sắp-đặt có trật-tự, thượng-hạ phân-minh. Nói cho cùng nữa nếu an-ninh trật-tự không có trong gia-đình thượng-hạ bất phân, tôi tưởng trong gia-pháp loạn hàng thất thứ thì không thể  nào bảo trọng nhau được. Nhờ khuôn-viên của Tông-Đường để lại phải có trật-tự an-ninh ấy sản-xuất khi chúng ta đã đạt khôn-ngoan, bằng chẳng vậy thì một gia-đình vĩ-đại hay một Quốc-gia nào không định-quyết an-ninh thì có tạo nghiệp bao nhiêu cũng nghiêng-đỗ mà thôi.

Vì cớ chúng ta ngó thấy nhơn-loại đạt đến địa-vị nầy là tinh-thần đã đi đến một địa-điểm quá cao rồi, họ thường tưởng có trật-tự an-ninh, nhưng đương nhiên bây giờ toàn-thể các sắc dân trong hoàn cầu không còn quyền-năng nào nắm giữ tư-tưởng họ được nữa. Họ tưởng họ chắc làm vậy được không ? Họ chẳng qua khuôn-viên Luật-pháp bao giờ. Dầu cho họ có muốn nghiêng-đổ thế nào thì các Quốc-gia có quyền vi-chủ định đoạt chẳng hề khi nào hủy-diệt nó đặng. Họ đem các lý-thuyết tra vào là đả-đảo giai cấp đủ thứ hết, tranh nhau đồng sống. Bao nhiêu tấn-tuồng ấy vẫn chưa ra khỏi khuôn luật an-ninh trật-tự.

Hỏi cả một nước cường-liệt đứng ra đề-xướng tiêu-hủy giai-cấp, nước ấy có an-ninh trật-tự chăng ? không mà, không có an-ninh trật-tự  thì tức nhiên không có Chánh-quyền nắm trong tay nghĩa là không có nền Chánh-trị.

Chúng ta thấy họ không thế gì đánh đổ được, bởi họ đánh đổ Chánh-Phủ bao nhiêu thì trong nước lại càng loạn-lạc và tiêu-diệt với nhau mà thôi. Chúng ta ngó thấy cái nhỏ, chúng ta tưởng tượng cái lớn là Càn-Khôn Vũ-trụ. Về mặt tinh-thần cũng vậy, khuôn-luật an-ninh trật-tự vẫn phải được tôn-trọng. Nếu khuôn-luật ấy bị đả-đảo, tiêu-hủy thì địa-cầu nầy đụng với địa-cầu kia, mặt trời nầy đụng với mặt trời kia, thì cả Càn-Khôn Vũ-trụ nầy hư -hoại hết.

Hình-thể trên mặt thế-gian, nếu không có trật-tự an-ninh, nếu có loài khỉ nào tương-đương với loài người thì dám chắc loài người chưa thắng được. Đối với một sắc dân nào còn lạc hậu thì không khi nào định quyền-năng được, để tự trong tâm-lý họ biến ra mà thôi, họ phấn đấu tương-tàn tiêu-diệt với nhau mà chớ. Đó là về hình-thể.

Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn đến, trước hết Ngài mở ra cơ bút dạy bằng Thánh-Giáo, khi Ngài chưa đến thì đã có Phật-Mẫu đến với chúng ta lập thành khuôn-khổ một mực, dầu cho cơ-quan nào “ dĩ tiểu vi đại “ cũng vậy. Bà mẹ phàm chúng ta sản-xuất nuôi dưỡng ta thế nào thì Phật-Mẫu cũng thế ấy, Bà mẹ chẳng bao giờ muốn đưa con kia xưng mình có quyền định cho mẹ và người mẹ cũng không muốn một ông cha nào mà buộc con mình phải chiều lòn theo như ý ổng buộc phải có. Nhiều khi chúng ta thấy một đứa con trong gia-đình kia, nếu người anh cả vinh-quang phú-quí, quyền tước cao-sang về tới nhà lại hiếp đáp đàn em buộc phải tôn-sùng, thì bà mẹ chẳng hề vui lòng bao giờ. Bà cũng chỉ biết đó là một đứa con của bà mà thôi, ngoài ra bà không biết gì khác hơn nữa.

Buộc trong gia-đình có đẳng-cấp, có lớn, có nhỏ, mà thôi, chớ bà chẳng hề khi nào chịu cho ai áp-bức con cái.

Trong cửa Đạo Cao-Đài có hai đền thờ : một đền thờ, ta ngó thấy trật-tự hàng-ngũ, bởi từ nguyên-căn tâm-hồn của chơn-linh chúng ta đều có trong hàng Phẩm Cửu-Thiên Khai-Hóa cả. Quí phái như thế ! Còn một đền thờ nữa, thờ Phật-Mẫu tức là mẹ của chúng ta, thì cái quí-phái của chúng ta không con giá-trị gì nữa. Đến Phật-Mẫu không muốn cả Chức-Sắc Thiên-Phong đi đến đền thờ của Người và Người nhứt định không chịu điều ấy, vậy phẩm-tước và giai-cấp đối với Phật-Mẫu không có giá-trị, vì Phật-Mẫu không muốn đứa nào áp-bức đứa nào cả, hành tàn như vậy bị tiêu diệt.

Đó khuôn-khổ bình-đẳng cuả một cộng-sản, thiên-hạ muốn bắt chước cộng-sản mà cộng-sản nào được như nơi cửa Đạo Cao-Đài. Trong cửa Đạo Cao-Đài khác hơn là các cơ-quan tương-đương với nhau mà ta thấy, dù ai muốn tìm con đường đi nào, trong cửa Đạo Cao-Đài nầy đều có, chúng ta duy biết uyển chọn quyết-định con đường phải đi mãi thôi.

Con đường sanh sống của chúng ta không bờ bến, không gì ngăn-cản về tinh-thần hoặc tự-do của nó được. Trên cửa Thiêng-Liêng Càn-Khôn thế-giới thế nào thì con đường tinh-thần của con Người cũng thế ấy, không thế nào đi cho cùng tận.

 

Tại Đền-Thánh Đêm Mồng 9 tháng 7 năm Mậu-Tý (1948)

ĐỨC HỘ-PHÁP ĐI SÀI-GÒN VỀ NỀN ĐỘC-LẬP VIỆT-NAM

Bần-Đạo để lời cảm ơn toàn thể con cái của Đức Chí-Tôn.

Trong mấy ngày Bần-Đạo ra đi, toàn thể ở nhà đã để tâm cầu-nguyện cùng Đức Đại-Từ-Phụ cho Bần-Đạo đi kỳ nầy đặng kết-quả, mà kỳ nầy có điều trọng-yếu hơn hết là ta đã đạt vọng đặng, vị Đại-diện nước Pháp là Quan Thượng-Sứ Bollaert đứng giữa công chúng tuyên-bố rằng : Nước Việt-Nam độc-lập.

Ngày giờ nầy Chánh-Phủ Việt-Nam đang hiệp trí lo thương-thuyết đặng thiệt-hiện vấn-đề độc-lập của nước Việt-Nam. Chúng ta hãy suy-nghĩ và xét lại coi hai mươi mấy năm trước, Chí-Tôn đến truyền giáo mở nền  Chơn-Đạo của Ngài có nghĩa-lý gì ? Ngày nay đạt vọng này có nghĩa-lý gì ? Mà cả nòi-giống chúng ta phải chịu cảnh tương-tàn tương sát lẫn nhau mới đạt vọng đặng ? Đã theo chơn Chí-Tôn 23 năm có lẽ chúng ta tinh-thần sáng-suốt, minh-mẫn hơn thiên-hạ tìm-hiểu đặng chớ ? có thể  họ đã đưa trọn nền độc-lập nơi tay nòi-giống chúng ta, mà chúng ta phải để mắt coi cả nòi-giống chúng ta còn nồi da xáo thịt còn đổ máu nữa không ? Thảng như còn duy-trì tấn-tuồng ấy nữa là tại oan-gia nghiệt-chướng của nòi-giống Việt-Nam nầy vậy.

Hại thay ! Cái nền độc-lập mà ngày nay ta đạt vọng đó, nó lại kết-liễu thành-tựu trong tay của Đạo mới là kỳ cho chớ ! Toàn thể Quốc-Dân Việt-Nam và nước Pháp đã tự hiểu rằng : sự kết-liễu thành-tựu được chăng là chỉ do Đạo Cao-Đài mà thôi. Nghĩ có một điều trong nhơn-loại cái cảnh tranh quyền, tranh thế, các đảng-phái tương-tàn tương-sát lẫn nhau, làm cho nòi-giống đổ máu, nên họ giao-quyền sở-hữu lại cho mình để  thí-nghiệm coi mình có đủ tài năng, lực-lượng cương-quyết cầm độc-lập hiện tại được chăng cho biết.

Cả con cái Chí-Tôn nên lấy tương-lai nầy làm một vấn-đề trọng yếu đặng học, nếu con cái Chí-Tôn ai đạt đặng huệ tánh chút đỉnh, định tâm kiếm hiểu thấu lý coi tại sao có tương-tàn, tương-sát đổ máu rồi mới đạt vọng được như vậy. Có chi lạ, Bần-Đạo xin giải-rõ cho biết : Đạo mở từ năm 1926. Hồi đó cộng-sản có nghĩa-lý gì trong nước. Đức Chí-Tôn cầm cơ đi khắp hết kêu gọi cả Quốc-Dân Việt-Nam đi trong quyền-lực của Ngài ; Nâng-đỡ bảo-trọng lấy quyền-năng tinh-thần của chủng-tộc làm ngon Huệ-Kiếm đặng giải-ách nô-lệ cho Quốc-Dân Việt-Nam. Mà Quốc-dân Việt-Nam đã trả lời với Ngài thế nào ? Họ đối đãi rất lãnh-đạm chớ chi nòi-giống Việt-Nam biết nghe lời của Ngài thì không có tai-nạn ngày nay.

Hại thay ! Chủ-hướng của nòi-giống Việt-Nam trở lại xu-hướng theo tinh-thần tàn-ác hơn là theo tinh-thần Đạo-đức, bảo sao không nảy-sanh cảnh tương tàn đổ-máu được.

Một đàng cộng-sản, một đàng Cao-Đài cũng trong một nước. Đáng lẽ nền độc-lập của nước Việt-Nam chúng ta đã đòi được hồi buổi đó rồi, mà phải ngưng hoãn đến ngày giờ nầy. Nòi-giống đã bị trị, oan-gia nghiệt-chướng làm mê-mẫn tinh-thần thành ra ngu-dốt tàn-sát nhau, đổ máu vì nhau mà không tự biết ! Bần-Đạo nói thiệt, Đại-Từ-Phụ hồng-oai mà cũng hồng-từ, Ngài mở kỳ ân xá thứ ba nầy giao quyền Giáo Chủ cho Bần-Đạo phổ-độ chúng sanh mà nếu chúng sanh còn tàn-hại nhau nữa thì Bần-Đạo sẽ nói đáng kiếp ! Rồi bỏ mà thôi, nhưng giờ buổi nầy chúng ta đã tỉnh mộng, đâu còn mê-muội nữa, mắt coi cả tài tình đảm-nhiệm lịch-sử 4.000 năm mỹ-mãn, ngày hôm nay có thành-tựu được không cho biết. Người ta bảo mình làm sao được thì làm đừng đổ thừa tại người ta cầm giữ. Nếu làm không thành-tựu thì hay hơn phải tự-vận cả nòi-giống cho chết hết.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 17 tháng 8 năm Mậu-Tý (DL 20-09-1948)

NHƠN-TÌNH THẾ-SỰ ĐỐI VỚI NHƠN-TÌNH ĐẠO-ĐỨC

Hôm nay chúng ta đình dục tấn trên con đường Thiêng-Liêng hằng sống, ngày mai Bần-Đạo sẽ giảng tiếp. Đêm nay Bần-Đạo giảng về vấn-đề trọng-yếu nhất, cả toàn mấy em, mấy con Nam, Nữ hậu tấn của chúng Qua, mấy em biết định-phận mấy em thế nào tạo tâm-đức đặng ngày kia cầm giềng mối cho Đạo.

Bần-Đạo đem nhơn-tình thế-sự để đối với nhơn-tình đạo-đức, hai điều mấy em sẽ thấy Qua để đó, trải qua trước mắt lấy trí thông minh của mấy em mà xét-đoán nên hư đặng định-quyết phận mình. Vả chăng chúng ta ngó thấy nhơn-tình thế-thái của con đường đời đã trải qua, dầu đặng lịch-lãm nhơn-tình, chúng ta ngó thấy nhơn-tình thế nào ? Nhiều khi nhơn-tình lãnh-đạm, mà dục tấn tinh-thần chúng ta thêm lên, là cốt yếu về tâm-tấn đó vậy. Nhiều khi tinh-thần chúng ta ngó thấy không trọng-hệ gì lắm, bất quá trong gia-đình không sao, tình bè-bạn cũng thế, tình hương-lân trong xã-hội cũng thế,hễ phải thì đối phải, còn quấy thì đối quấy. Thường tình như thế mà kẻ vĩ-nhân nào có tinh-thần hoạt-bát tự chủ mình đặng, nhơn-tình dù lãnh-đạm hay bạc-bẽo cứ giữ mực-thước đặng đối-phó cùng đời. Tinh-thần ấy mới ra người quân-tử mới khác với thế-thường. Vì thế thường, phải trả phải, quấy trả quấy. Có một điều ngộ nghĩnh hơn hết dầu chi chi cũng có phương-pháp bình-tâm cho họ, mỗi khi thi-thố hành-tàng chi vô đạo-đức, vô nhơn-nghĩa thì họ tự tỉnh, tự thẹn lấy họ. Chúng ta ngó thấy rằng : những kẻ tiểu nhơn dù tìm phương tạo vinh-hiển thế nào, sự tiểu-nhơn của kẻ ấy không thể gì chối cải đặng.

Hại thay ! tinh-thần của nhơn-tình thế-thái, không ai tìm-tòi, không ai bươi-móc đem chơn lý cho chúng ta ngó thấy, chẳng hề khi nào phương-pháp tiểu-nhân dầu dấu thiên-hạ một ngày không thấy, hai ngày không thấy, dầu dấu thế-gian thế nào cũng lòi ra, không phương dấu đặng, che đặng. Vì thế xã-hội Quốc-Dân nào cũng thế, họ được bền vững đứng trong xã-hội, cùng nhau mưu-chước quỷ-quyệt thế nào cũng chẳng làm quá lòng của người, hễ làm quá lòng người thì có phản-động lực, nhờ vậy mà nhơn-quần xã-hội mới tồn-tại được. Nhơn-tình thế-thái có điều mầu-nhiệm như thế, bao giờ chúng ta cũng sợ miệng lưỡi của người, phải giữ tánh-đức theo thế thường nhơn-tình đạo-đức.

Bây giờ đến nhơn-tình đạo-đức. Chúng ta đừng tranh theo mặt đời. Buổi trước, khi Đạo Cao-Đài chưa khai mở chúng ta thấy cả tính-đức nhơn-tình buổi đó thế nào ? Bần-Đạo không phải đứng trên tòa-giảng nầy để công-kích , không lẽ mấy em không thấy, mấy em thấy phần nhiều hạng niên thiếu họ vô chùa miểu, đốt giấy vàng-bạc đặng họ mua chuộc tài-lợi, họ đến lo-lót như lo-lót một Ông Quan đời kia vậy. Các Đấng đâu có dùng mà họ tìm phương hối-lộ. Nếu thảng có tính-chất nhơn-tình đạo-đức, bất quá họ chung hiệp nào là tổ-chức Tôn-giáo, nào là định lập-trường đặng nương theo bóng Tôn-giáo. Nhơn-tình buổi trước như vậy.

Bây giờ Bần-Đạo luận từ ngày Đức Chí-Tôn đến mở Đạo Cao-Đài, ngày nay Bần-Đạo nhờ nương theo bóng từ bi của Ngài đi theo bén gót Ngài từ 23 năm nay. Bần-Đạo chung chia đau-thảm cùng con cái của Ngài, thảm khổ cũng có, mà vui hứng cũng có, buồn vui lẫn-lộn với nhau, nhứt là đàn anh của cgúng ta buổi nọ, niên cao kỷ-trưởng, khi nghe tiếng gọi của Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn, họ quyết đem mảnh thân phàm của họ dâng-hiến làm tế vật của Ngài, dầu làm tay chơn cho Ngài, vì cớ mà bản hòa-ước của họ đối với cả nhơn-hồn nguyên-nhân là họ lãnh sứ-mạng thiêng-liêng vậy. Bần-Đạo chẳng cần đứng trên tòa-giảng khai công-nghiệp các bậc tiền-bối của chúng ta, họ không cần, và e nói ra mấy em buồn nhiều, toàn-thể Đạo cũng vậy. Trong trường thảm-khổ, cũng có kẻ trọn hiếu cùng Đức Chí-Tôn, trọn trung cùng Hội-Thánh. Nhờ vậy mà Ngài tạo Thánh-Thể của Ngài. Tội-nghiệp thay trong một trường đồng hèn thân danh, đồng hèn xác thịt, mỗi mỗi đều thất thế bởi nòi-giống còn nô-lệ, nước nhà chưa biết tự-do, tự chủ là gì, làm cho họ hổ-thẹn. Đó là tâm-đức buổi ban sơ vì đạo vì đời, thì mảnh thân tạo nên đại-nghiệp đầu tiên cho nước Việt-Nam, tạo cho nòi-giống Việt-Nam trước hết, nhưng bởi họ rủi sanh ra thi-hài người Việt-Nam, máu-mủ Việt-Nam. Còn có hạng nữa, tưởng mình có phương vi chủ đặng, cũng làm cũng tạo vậy, nhưng tinh-thần còn chật-hẹp, không nương quyền-năng vô-tận, tự mình lấy quyền năng sở-hữu của mình mà làm. Bần-Đạo thấy cần thuyết minh điều đó. Họ tự tạo phương-pháp như một cái kho để bảo trọng gia-đình họ, họ tạo quyền-năng cho họ mà thôi. Buổi nọ trong trường hợp nào cũng có người chia rẻ, tham-sân đủ lẽ, tranh phương đủ điều đến lúc đó Bần-Đạo thấy hết. Không ai lỗi, không ai phải, không ai nên, không ai hư mà qua khỏi mắt Bần-Đạo được. Đời sống của họ còn hiện tượng nơi cỏi Thiêng-Liêng hằng sống của Đức Chí-Tôn, dầu họ rủi phận không đặng về ngồi vào lòng Đức Chí-Tôn, thì họ cũng lưu lại cho gia tộc con cái của họ. Cái đại-nghiệp đó họ tạo đám con cái ấy, Bần-Đạo chứng-chắc nó ngâm được giọt sữa của tổ-tiên nó. Biết đâu đại-nghiệp hậu hữu sau nầy của Đạo không phải tự tay mấy đứa trẻ còn tồn-tại đây thọ hưởng. Họ biết không phải làm cho họ hưởng. Bần-Đạo nói họ để lại đại-nghiệp cho Đạo, cho Hội-Thánh nuôi hết con cháu họ, họ ham quyền, ham lợi rốt cuộc cũng nuôi mấy em nhỏ khôn lớn mà thôi. Thật sự mấy em nhỏ nếu nuôi bằng phương pháp tiểu-nhơn chúng nó sẽ gớm-ghiết đều nó không nói ra. Chớ những người trung hiếu cùng Đức Chí-Tôn sẽ được chúng nó tôn-nghinh trong vinh-hiển lắm.

Chúng nó ôm được cái gia-tài của Ông Cha nó để lại đod, ngày kia nó sẽ ngồi trên thiên-hạ, nó sẽ vi-chủ loài người. Trong hai lẽ đó, cả thảy suy-gẫm muốn lựa chọn lẽ nào thì lựa.

 

Tại Đền-Thánh Về việc đi SaiGon, ngày 27-08 Mậu-Tý (1948)

VIỆT-NAM ĐỘC-LẬP TRONG LIÊN-HIỆP-PHÁP

Chánh-Phủ mời Bần-Đạo ngày mai xuống kinh-thành Saigon nữa.

Khi nay Bần-Đạo có nghe Thượng-Sứ Pháp tuyên-bố trên máy truyền-thanh giữa quần-chúng đông-đảo, Ngài đọc diễn-văn nói : “ Nền độc-lập Việt-Nam trong Liên-Hiệp Pháp được tuyên-bố cho toàn-thể Quốc-Dân Việt-Nam, do nơi tay Ngài giao trả lại cho nước ta, đã trả rồi không ai lấy lại nữa “. Nước Việt-Nam từ đây được trọn quyền độc-lập. Ngài tuyên-bố quả quyết như vậy. Cả Chánh-quyền nội bộ của Ngài sẽ giao cho Việt-Nam. Theo lời tiên-tri của Đức Lý có câu : “ Khải ca định-vận tại thu phân”. Quả vậy. Nên hay chăng do sức mình mơ-ước thể nào tạo cho nòi-giống, với tinh-thần, nghị-lực, đặng cầm vận-mạng toàn cả nước vậy.

Toàn Đạo ở nhà cũng nên cầu-nguyện xin Đức Từ-Phụ điều ấy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm Mồng 3 tháng 9 năm Mậu-Tý (1948)

ĐỨC HỘ-PHÁP THUYẾT MINH SAU KHI HỘI ĐÀM VỚI THƯỢNG-SỨ PHÁP

Có lẽ trong kỳ Bần-Đạo đến Sàigòn,  ở nhà cả thảy đợi tin và trông Bần-Đạo về, đặng nghe về tương-lai của nước nhà.

Bần-Đạo để lời cảm ơn toàn Đạo đã kết tâm cầu nguyện với Đại Từ-Phụ. Nam, Nữ lưỡng phái hết mấy em, mấy con cũng vậy.

Cốt yếu Bần-Đạo đến Sài-thành kỳ nầy là do Quan Thượng-Sứ mới Bần-Đạo, vì Ngài sắp về Pháp, Ngài từ vị của Ngài không còn làm Thượng-sứ nơi xứ nầy nữa. Thạnh-tình của Ngài đối với Bần-Đạo có chỗ cao-kỳ nên mới Bần-Đạo đến đó sở-định, chúng ta nên biết có lạ chi, dầu cho một gia-đình kia cũng lấy nhỏ mà luận lớn. Như một Ông Trưởng-Tộc họ nầy nếu tự nhiên có liên-lạc chi với họ khác, khi phải đối đầu quyền lợi chung cho tông-môn hai họ, không phải một mình ông quyết-định đặng. Bởi hai họ đương đầu với nhau, tưởng chẳng cần tả lại, hai Ông Trưởng-Tộc bị khảo-dượt, phải có đủ tài sáng-suốt, đủ chơn-chánh minh-mẫn quyết-đoán cho chơn-lý mới thỏa-hiệp đối họ đặng. Như thế mới khỏi sự trắc-trở bên họ kia.

Bây giờ đây cũng vậy, ai cũng vì quyền-lợi tranh đấu cho đặng phần lợi hơn. Chính Bần-Đạo có thấy tấn-tuồng ấy, biết nó khó khăn lắm. Có điều lạ chướng hơn hết là tới giờ phút nầy mà Nhơn-sanh chưa chơn-thật, điều thiệt họ không dám nói, lại đem ra nói dối, mê-hoặc tinh-thần quốc-dân, làm cho cả thảy đều hoang-mang.

May thay ! chúng ta vô cửa tịnh của Đức Chí-Tôn được ngồi trên Đài Trí-Giác, thâu đặng mảy may huệ tánh của mình, ta thấy rõ ràng một trường gạt gẫm giả dối, trước mắt không có gì chơn thật. Bởi trường kháng chiến, đòi độc-lập thống nhất, đòi cho lấy được, tới chừng chúng trả không ai dám lãnh cả, họ làm mờ-mịt, vì không đủ tài-đức chơn thành để đảm-nhiệm trách vụ mình. Đòi quyền sở-hữu độc-lập thống-nhứt người ta hiểu có nhơn tài ra nắm Chánh-quyền đi. Đừng nói chi tới địa-vị tối-cao, quyền-hành tối-trọng, hàng Tham-biện, Chủ-tịch ngày nay chưa tìm được người ngồi đủ cho mấy tỉnh là tại sao ? Tại có bao nhiêu nhơn-tài xúm nhau giết hết cho Chánh-sách độc-tài. Ngày nay tới lúc đảm-nhiệm vai-tuồng trọng-hệ, cầm vận-mạng nước nhà mà không có người dám nắm Chánh-quyền.

Chúng ta thấy chẳng khác nào một cuộc cúng-tế, ông Chánh Bái mời các họ đến nhà thờ rồi mạnh ai nấy ngó, ngó đông, ngó tây, nấu cơm không biết, làm heo làm bò, bửa củi xách nước không ai biết, chỉ ngồi gây lộn với nhau. Tấn tuồng đó sẽ đến với chung ta, như hiện nay muốn cứu vãn tình-thế mà trong ngoài trông thuận, cả toàn thể không ai đủ tài quyết đoán đặng. Tới phút yếu-trọng nầy, cũng do đầu óc trong nhà mà ra, mà chỉ cùng nhau gây lộn, đánh lộn thôi, hiển-nhiên như vậy. Bần-Đạo xuống đó để nghe hai tiếng chuông đế quan sát tấn-tuồng sự thật thế nào. Lại nữa tâm-tu duy có nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn cho Bần-Đạo làm được việc mà từ thử đến giờ không ai làm. Họ nói mấy người lai Pháp là thức-dân. Hỏi thử ai thực-dân ? Nói mấy người Tây-Lai. Máu mủ họ phân nửa Pháp phân nửa Việt thì cũng tội-nghiệp cho họ. Nếu lấy công-chánh định quyết là tại mình gây oán. Hạng thực dân có chăng là hồi trước, khi có Pháp mới đến đây, lúc ban sơ đem binh chiếm  đoạt Việt-Nam, còn ngày nay đám thưc-dân đó lại của Việt-Nam, cái rối là do đàn-bà Việt-Nam sanh họ ra mà họ dòm thấy mẹ nghèo nàn cha thì sang-trọng vinh hiển. Cũng như đứa con trong nhà thấy cha có bánh nhiều hơn tức phải bỏ má. Oâng cha họ có đủ tài-đức đủ quyền bảo-vệ họ, họ bợ dỡ nương theo đặng sống. Làm mẹ bất tài thì chúng phải nương sống theo cha, có gì là lạ. Sống một cách vinh hiển mà chính mình họ vẫn không biết thực-dân là gì ? Họ phân trần với Bần-Đạo như vầy “ Tình-trạng của chúng tôi như vầy mà lên án chúng tôi là thực-dân chúng tôi không biết làm thế nào “ mà nói họ thưc-dân hỏi vậy mình chửi ai ? Tức nhiên chửi nòi-giống mình, bởi họ là người Việt-Nam, cứ ghét, cứ xô đuổi họ thì tài nào thỏa-hiệp chủng-tộc được.

Thử hỏi lại, tại nơi mình cả. Chính Bần-Đạo thấy tấn-tuồng ấy không phải là số ít, vì đã bao nhiêu năm giao quyền công-dân trong tay, lãnh đảm nhiệm mà họ không thi-thố. Nếu họ không đi đến phận sự họ thì tội họ chịu. Thật ra cả thảy đều không dám, họ cảm-xúc đến nước nhà, khi Bần-Đạo đi ra về họ than nói “ Từ thử tới giờ tôi muốn nghe được lời an-ủi của mẹ chúng tôi” thế mà từ bấy lâu quốc-dân gây oán, chác hờn làm cho tan-rả khối thân-ái, thành ra khó đặng hòa nhau. Nếu thảng tai-nạn nầy xẩy ra là do mọi sự chia rẻ.

Muốn cứu-vãn tình thế thì phải tìm phương bồi-bổ tình thân-ái rồi ngày kia mới giải-quyết được tương-lai vận-mạng của chủng-tộc nước nhà ta đó.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng 9 năm Mậu-Tý (1948)

SỰ ĐIỀU-HÒA CÀN-KHÔN VÕ-TRỤ

Bần-Đạo ngày nay đình giảng cuộc dục tấn của chúng ta trong đường thiêng-liêng hẳng sống, đặng minh-thuyết một đề-mục trọng-yếu liên-quan cả Đạo-Giáo của đời. Bần-Đạo thuyết con đường điều-hòa của Càn-Khôn Võ-Trụ  tức nhiên là khôn-luật tạo-đoan cả Càn-Khôn Võ-Trụ vạn-vật hữu-hình ta ngó thấy đây vậy.

Vả chăng hễ hòa mới hiệp, hiệp mới có định, mà hễ có định mới có an. Bằng chẳng vậy sẽ có phản động lực. Hễ không hòa tức giục cho phản nghịch, hễ nghịch phải ly, mà ly, tức nhiên động, hễ động tức nhiên phải loạn. Dầu cho chúng ta quan- sát về Đạo-Lý-Học. Triết-Lý-Học, Tâm-Lý-Học, Cách-Trí-Học, ta thấy quả-quyết cả cơ-quan tạo-đoan hữu-hình trước mắt ta, nếu không tùng khuôn-luật điều-hòa, Bần-Đạo tưởng Càn-Khôn Võ-Trụ nầy đã tiêu-diệt. Dầu cho về Đạo-Lý-Học, ta ngó thấy khởi đầu nếu cái khối ngươn-linh của Đức Chí-Tôn không hòa-hiệp với ngươn-âm của Phật-Mẫu, thì Thái-Cực chưa ra tướng, hễ Thái-Cực chưa ra tướng tức nhiên Càn-Khôn Võ-Trụ nầy không có gì hết.

Chúng ta ngó thấy hành-tàng tạo-đoan trước mắt ta là sự điều-hòa trong thân- thể. Và Triết-Lý Đạo-Giáo ta biết rằng : nếu ta không đoạt đặng bảy khối sanh-quang Thiêng-Liêng kia đặng tạo thành xác thịt thì ta không có. Ta không sanh ở đây, nói gần hơn nữa nếu nhứt điểm tinh-thần của cha ta không hiệp với huyết bổn của mẹ ta, thì tức nhiên không có sự hiệp-hòa cả khôn-luật tạo-đoan như trong bài thuyết-pháp của Bần-Đạo hôm nay.

Aáy vậy chúng ta nương nơi hòa khi đặng hay chăng ? cả cơ bí mật của ta dầu cả hình-thể tạo-đoan ta ngó thấy con vật trước mắt ta, nếu không hòa thì không có sanh, không hòa chắc có thể tạo-đoan không có nam, nữ, cốt yếu sanh nam, nữ đặng hiệp-hòa nhau tức nhiên sanh-sản loài người, ngoài ra nữa ta đã ngó thấy, nếu như không có điển-lực điều-hòa do Thiêng-Liêng định, tức nhiên Bần-Đạo dám chắc chưa có thành Đạo. Bởi có ai thuận với ai đâu. Các chủng tộc cũng nương theo khuông-luật hiệp-hòa ấy mới tồn tại, mới hiệp-chủng được. Về triết-lý học chúng ta ngó thấy nhiều phản-ảnh nó không có thế gì in nhau được. Hễ hiểu đặng quyền-năng của Đạo tỷ như : lữa và nước hai món ấy không thế gì gần nhau được như chúng ta thấy máy tàu, trước khi đã tìm ra năng-lực của nước, hiểu được như hơi nước, nó sẽ có cái quyền-lực xô-đẩy cả sức nặng 30.000 tấn ; quả nhiên trước mắt chúng ta thấy, hiện tượng không thế chối đặng. Lại nữa cái điển lực thiên-nhiên, ta thấy khí âm dụng với khí dương thành ra sấm -sét, lửa sét ấy do hơi điển âm dụng với điển dương biến ra khối lửa. Nó mạnh thế nào chúng ta ngó thấy không thế gì tưởng-tượng được. Đem điển âm để riêng ra cách bức điển dương hai cái đụng nhau giữ dội lắm. Ta thấy năng-lực của hơi nước thế nào tức nhiên ngày nay ta thấy không thua gì điển-lực. Bây giờ, ta có phương pháp thâu đặng, thâu nhỏ lại làm ngọn đèn sáng suốt.

Cả tình-trạng Quốc-gia xã-hội hay là Đạo-Giáo Thiêng-nhiên cũng vậy. Cái khuôn-luật hòa là cái khuôn-luật để tạo ra Càn-Khôn Võ-Trụ . Có nhiều cơ-quan phản khắc nhau ta có quyền năng làm cho họ hiệp lại, thì cơ-quan tạo-đoan nắm trong tay, cũng như chúng ta ngó thấy không thế tưởng-tượng hai khối chung-hiệp nhau đặng làm ra ngọn lửa. Ngọn lửa ấy nó soi-sáng trong gia-đình hiện-tượng.

Bây giờ Xã-Hội nhơn-quần trên mặt địa-cầu nầy, ta ngó thấy đời loạn-lạc tàn-bạo cùng nhau tại sao ? Tại nơi cơ thể hữu-hình không làm thõa-mãn tâm lý loài người từ thử đến giờ. Tinh-thần ấy, chỉ có nương theo Đạo-Giáo và biết nhẫn-nại, biết định hướng, biết tự chủ, biết định phận, trong thân sống ta. Ngày nay Đạo-Giáo trên mặt địa-cầu nầy hết quyền-năng vị-chủ hoàn-cảnh quá khổ-não của laòi người. Đời thảm-khổ càng tấn-tới, thấy cái sống càng khó khăn, nền văn-minh càng tiến, lên một bước thì khối thảm-khổ của laòi người càng thêm nữa. Hỏi đương-nhiên bây giờ ngó các chủng-tộc đối nại nhau tranh sống với nhau, phản-khắc nhau. Bần-Đạo đã nói hồi nãy, nếu không hòa nhau đặng tất nhiên phải nghịch, lẻ nghich tức nhiên phải ly, hễ ly tức nhiên phải xao-động, hễ xao động tức có loạn-lạc.

Bây giờ hỏi muốn tìm giải-pháp để cứu tình-thế chúng ta, để thử tinh-thần trí-não, suy-đoán xem, ta thấy rằng : không hòa mới có nghịch mới có ly, như không đồng tâm đồng chí, đồng sống cùng nhau thì tức nhiên có xao-động. Bần-Đạo nói cả Vạn-Quốc đó vậy. Động tức nhiên phải loạn.

Bây giờ muốn tìm phương-pháp trị loạn đặng, phải phương chiêu-an, nó đương động, mình phải giải-thoát, nó đương ly cách, mình tìm phương hội-hiệp. Bây giờ nó đương nghịch, mình tìm phương pháp hòa nó vậy. Phương-pháp đó tìm được không ? trước Đức Chí-Tôn chưa đến mở Đạo, chúng ta nói chắc chưa thế gì tìm được hoàn thuốc cứu-thế đó. Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, chính Ngài thấy nỗi khốn khổ của laòi người, vì loạn lạc tự diệt nhau, Ngài đem hoàn thuốc phục-sinh, hoàn thuốc cứu laòi người, tức nhiên Ngài đem Đạo-Giáo chơn-truyền của Ngài là đem cái hòa-khí để tại mặt địa-cầu nầy. Mà hòa-khí ấy nó lan-tràn ra, nó bao trùm cả mặt địa-cầu nầy hết, chính bịnh loạn kia do sự bất hòa mà ra, nếu đem hoàn thuốc hòa trị nghịch, tức nhiên hết loạn, thì phải an.

Vì cớ Bần-Đạo dám quả-quyết : nếu ta muốn tìm mối Đạo chơn-chánh, mắt ta thấy đương nhiên bây giờ các nền Tôn-giáo không điều-hòa tâm-lý thiên-hạ, lại giục loạn tinh-thần thiên-hạ tức nhiên là không thế gì tồn-tại được.

Đạo Cao-Đài ngày nay là một nền Tôn-giáo đem hòa-khí cứu-vãn tình thế. Bần-Đạo xin nhắc lại là căn dặn lưu tâm đến những lời chí-thiết của Đức Chí-Tôn, hễ một hành-tàng nào của chúng ta làm cho tâm-lý con người phải rối-loạn, ly-tán, ngỗ-nghịch tức nhiên phạm tội Thiêng-Liêng. Đừng tưởng rẻ, bởi nó xô-đẩy loài người trong trường chiến, và sẽ có cơ-quan tàn diệt nhau không dứt, không cứu chữa đặng, thì chúng ta sẽ là tội nhơn đệ nhứt của nhơn-loại vậy.

Ngọn Bạch-Ký của Đức Chí-Tôn tức ngọn cờ Cao-Đài phải định an cho Vạn-quốc toàn mặt địa-cầu nầy, làm cho hòa thuận nhau, mới xứng đáng một nền Tôn-giáo chính mình Đức Chí-Tôn đến tạo đó vậy.

 

8 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 10 năm Mậu-Tý (1948)

LỄ CẦU-SIÊU CHIẾN-SĨ TRẬN-VONG

Ngày nay là ngày cầu nguyện cho các Thánh Tử-Đạo tức là ngày lễ các Thánh.

Nguyên-căn ngày nay là khi Đức Chúa Jêsus Christ giáng sanh có tiên-trí rằng Chúa cứu-thế sẽ ra đời làm chủ tinh thần thiên-hạ, các vị Vua-Chúa ác sợ mất quyền tìm cách giết Chúa. Nhưng vì đã lánh khỏi, chúng biết ngày sanh, vì oán-hờn, mà deo-đuổi bắt con nít đẻ trùng ngày với Đức-Chúa mà giết. Kẻ bị giết ngày ấy điều đặng hiển-Thánh vì Chúa mà chết thay thế cho Chúa, nên Thiên-Chúa-Giáo lấy ngày ấy làm ngày kỷ-niệm các chiến-sỉ trận-vong, các Chiến Sĩ ấy hy-sinh cho quốc-gia, vì nước nhà, vì nòi-giống, vì nhơn-loại ho không tiếc mạng sống, đứng lên để mưu hạnh-phúc cho toàn-cầu gầy dựng lạ Quốc-gia.

Aáy là các Thánh vô tội đã hy-sinh tạo hạnh-phúc cho toàn thiên-hạ cho kẻ khác hưởng, bởi thế ngày nay chúng ta nên hội-hiệp nhau lại làm lễ cho long trọng mà cầu-siêu cho các chiến-sĩ đã hy-sinh bảo vệ sanh mạng tồn-tại của thiên-hạ. Ngày nay là ngày trọng-yếu, mà lại là ngày lễ của Chính Phủ chọn-lựa. Chúng ta nên để tâm cầu-nguyện đặng tỏ rằng người sống không bao giờ quên kẻ chết, và kẻ chết cùng người sống vẫn có một quan-niệm chung thờ một chủ-nghĩa, duy có chết là cái chết và cái sống, ngoài ra không ai phân biệt được, mà nếu không phân biệt được thì nhơn loại có một mà thôi. Tinh-thần vẫn một, sự phân biệt đó là tại tâm-lý phàm phân chia, chớ tinh-thần không phân màu sắc dân-tộc nào hết, chỉ có một quê-hương chung là cõi Thiêng-Liêng hẳng sống, có một đấng Chúa tể là Tròi

Cả thảy chúng ta ngày nay chung hiệp lại để cầu-nguyện cho các bạn ta hay người ân của ta để cho các Đấng linh-hồn đặng siêu-thăng. Và chúng ta cũng hiến trọn cả thi-hài nầy cho Chí-Tôn, thì bất kỳ cầu chuyện chi, ta làm sự gì tức là dâng cho Ngài cả. Xin Chư Chức Sắc Thiêng Phong và Chư Chức-Việc Đạo-Hữu phải thành tâm hiến lễ cho Chí-Tôn như chúng ta dành mãnh thân mìn cho Ngài vậy.

Đức HỘ-PHÁP nói :

Người thật tâm ái-quốc, dầu đối với việc nhỏ-mọn bao nhiêu mà ích nước lợi dân cũng cố làm, còn trái lại cảnh nghộ đã đem đến cho đặng danh cao lợi lớn đi nữa, mà nghịch với quyền lợi và tôn thương cho Quốc-thể cũng không làm.

 

Tại Tháp Đức Quyền Giáo-Tông

Vào 8 giờ sáng ngày 13 tháng 10 năm Mậu-Tý (1948)

LỄ KỶ-NIỆM ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG

Ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ-niệm Đức quyền Giáo-Tông. Chơn-linh của Ngài cả toàn con cái của Đức Chí-Tôn nam, nữ, điều biết là chơn-linh Đức Lý-Ngưng-Vương. 14 năm qua chúng ta chịu tâm-tang nơi lòng, vì mất một vị mà Đức Chí-Tôn chọn lựa, một vị Đại-Tiên đến mở cơ-quan cứu thế cho đời. Chúng ta tưởng niệm lại trong buổi sanh-tiền của Ngài, Ngài đào-tạo cho thành nền chơn-giáo Cao-Đài; Ngài đã chịu bao khổ-hạnh. Giữa thế kỷ 20 nầy, tâm-lý nhơn-sanh thất đạo, đem một cái hòa-bình nêu cao lên làm trung-tâm điểm cho tinh-thần Đạo-Đức nơi cõi Á-Đông, đã mõi tay gióng trống Lôi-Ââm, reo chuông Bạch-Ngọc, mà nhơn-loại giả vờ điếc đui không biết cơ quan cứu-thế là gì hết. Đem cái khối sanh-quang phục sống cho họ trong chốn tử-địa sắp tới đây, mà họ chưa tỉnh-ngộ đặng lo bảo-trọng sanh-mạng, biểu sao kẻ đại-diện cảu Đức Chí-Tôn thuở sanh-tiền không bị thiên-hạ khinh-rẽ ; Vì tâm-lý chia-rẽ đó, ngày nay có nạn tàn-sát tiêu diệt nhau. Ta nhớ lại, 14 năm Ngài đã khuất dạng, tạo dựng được cho khối tinh-thần thống-nhất cả lương-tri của toàn con cái Đức Chí-Tôn . Còn cả thảy hình ảnh nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn chưa có hiện-diện gì hết. Cũng vì chịu thâm tình ấy, Bần-Đạo ra gánh-vác trách-nhiệm  nặng-nề trong buổi nền chơn-giáo Càn-Khôn phải chiến-đấu đặng đem sự chơn-thật, đặng đem công lý gieo vào tinh-thần loài người. Biết bao nhiêu lực-lượng đối-phương đã thống-nhứt lại với nhau đặng toan diệt Đạo. Trong 14 năm khuất bóng Ngài, Bần-Đạo chịu khổ-hạnh 6 năm đồ-lưu, còn trụ lực lượng đặng tạo hình-thể nền chơn-giáo chỉ có 8 năm mà thôi. Bao giờ cũng vậy, năng-lực tinh-thần chẳng có lực-lượng hữu-bình nào tiêu-diệt nó đặng. Nhờ âm điệu điều-hòa trong khuông-luật mà ngày nay Đạo Cao-Đài đã nên hình-tướng, đã đứng giữa hoàn-vũ nầy một cách vinh-quang. Nhờ lẽ chơn-thật của nó, không có lưỡi gươm bén nào trị tinh-thần đặng, thì không có lực-lượng nào đè nén đặng. Nó phải thẳng đời để cứu đời. Một nền chơn-giáo cao-thàm tinh-thần đường nầy sẽ bất-tiêu, bất-diệt. Nhờ ơn đầu tiên của Ngài khai-mở, chúng ta hãy cúi đầu cầu-nguyện và cảm tạ ơn Ngài.

 

Tại Đền-Thánh Đêm Rằm tháng 10 năm Mậu-Tý (1948)

LỄ HẠ-NGUƠN MẬU-TÝ (1948)

Kỳ lễ Hạ-Ngươn nầy nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn đã đặng 21 tuổi. Trong thời gian 24 năm, nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn đã trãi qua biết bao nhiêu nỗi khó-khăn thiên-chuyển, buồn có, khóc có, vui có, vinh có, hận có, trong 21 năm cả thảy Thánh-Thể của Ngài và toàn con cái và toàn con cái của Ngài nam, nữ đã chịu biết bao nhiêu khổ-hạnh, đã chịu biết bao nhiêu nỗi thê-lương, buồn thảm; chúng ta dòm lại ngày nay, cái nền Chánh-Giáo Đức Chí-Tôn cho nòi giống chúng ta đã thành-tựu rồi đó. Chúng ta suy-đoán coi nó có đặng giá-trị mà chúng ta đã mua chuộc trong 24 năm trường chăng ?

Hồi tưởng, nếu chúng ta công tâm, nhất là cho cái lương-tri, nghĩa là lấy cái trí-não xét-đoán, thì chúng ta biết nhìn nhận rằng : với cái đại-nghiệp Thiêng-Liêng đường ấy, một cái cơ-quan trọng yếu đã độ được toàn thể quốc-dân, về phần xác và phần hồn, mà đòi chuộc cái khổ-hạnh của chúng ta thì không có nghĩa lý gì hết. Chúng ta xem lại, lấy công tâm suy-đoán, những khổ-hạnh của các vị Giáo-Chủ từ trước, vàng mạng-lịnh của Đức Chí-Tôn , đến tạo Đạo cứu Đời chẳng phải chịu khổ-não về phần hồn mà thôi, về phần xác của họ cũng bị đọa-đày thảm-thiết.

Còn nói về nhục thì thôi ? không vị nào không khổ-nhục chơn-linh, đó chúng ta nhìn thấy Chí-Tôn không có thiếu nợ chúng ta bao giờ ? Bởi vì Ngài không khi nào thiếu nợ con cái của Ngài, dầu tình cũng vậy, Ngài chỉ biết cho mà không biết hưởng, từ thử đến giờ chưa có kẻ phàm nào đã đem tinh-thầnỉtí não, tâm hồn dùng làm tôi-tớ cho Ngài mà bị lỗ lã bao giờ chỉ đặng lời mà thôi, thế-gian người ta thường nói chúng ta chết là hết. Chúng ta thử suy-đoán, với một kẻ đã đem trọn kiếp sanh mình làm con tế-vật cứu-thế như Đức Chúa Jesus-Christ đem thân ra chịu khổ-hạnh truyền-giáo thật ra chỉ vỏn-vẹn có hai năm thôi, kế bị dân Do-Thái đóng đinh trên cây Thánh-Giá như kẻ thường tình kia. Một Đấng Quân-Vương, một đấng chủ-trương bấùt-kỳ là xã-hội nào hay là một cơ-đồ nào, đối với một tội đường ấy, có thể nói đến đấng Jésus-Christ hồi còn sanh-tiền đi truyền-giáo cho dân lại bị khổ-nhục, nhứt là bị bắt-buộc mãi trong vòng tù-tội, nỗi khổ-hạnh cái nào mà Ngài không có, cho đến Ngài chịu chết trên cây Thánh-Giá, Ngài chưa biết buổi nào là hạnh-phúc trong kiếp-sanh của Ngài hết, Ngài chết trên cây Thánh-Giá với mảnh thân tù và tội tử hình.

Chỉ có Đức Jésus-Christ có cho một đấng thiếu nợ mà thôi, mà đấng ấy là Đức Chí-Tôn là Đại Từ-Phụ là Thầy của chúng ta ngày nay đó vậy. Có một đấng đó thiếu nợ tiền-khiên, mà đã hai ngàn năm Đạo Thánh Gia-Tô làm chủ tâm-lý cả toàn thiên-hạ trên khắp mặt địa-cầu nầy, còn cái vinh-diệu của Ngài ôi ! Vô đối, buổi nọ Ngài nói: “Con chim có tổ, con chồn có hang” mà con người nầy chỉ bởi theo nghiệp đời mà Ngài không kiếm được chổ để gối đầu. Chúng ta thấy lời than của Ngài thì biết đời chẳng ai ngèo nàn hơn Đức Chúa Jésus-Christ. Ngày nay hiển-nhiên trước mắt chúng ta thấy vinh quang vô đối của Ngài, về mặt xác-thịt và linh-hồn làm Chúa cả gần toàn mặt địa-cầu nầy. Hỏi nợ ấy ai trả đặng, chỉ có người đó cho, là người đó trả, với một kiếp-sanh vinh-diệu, sang-trọng oai-quyền.

Từ thử đến giờ dưới thế-gian Đức Chí-Tôn chưa cho người nào khác nữa. Aáy vậy một đấng không từ chối cái nợ của mình, với kẻ chết mà đã 2.000 năm vẫn tiếp- tục đền-bồi cái nợ ấy ; đấng ấy chẳng khi nào phụ rãy cái Thánh-Thể  của Ngài, và con cái của Ngài. Bần-Đạo biết hẳn vậy hằng khuyên chúng ta giữ Đạo-Đức tinh-thần đặng làm tôi-tớ của Ngài, vì có bao nhiêu đó mà thôi, Đấng ấy không hề chịu nợ tình với chúng ta. Trong 24 năm tạo nên hình tướng nền Đạo, tạo dựng đền thờ tối cao tối trọng nơi thế-gian nầy, thì Ngài không hề phụ rãy bao giờ.

Bần-Đạo nói không nợ tình nhỏ nào đối với Ngài mà bị mất không được đền-bù lại, trong 24 năm chúng ta làm tôi làm môn-đệ cho Ngài, chúng ta chỉ có một điều duy nhứt là hiến dâng cả thi-hài ta làm con tế vật cho Ngài, đặng Ngài dùng từ-tâm ân-xá cho toàn nhân-loại đã gây tội-tình với Ngài từ buổi tạo-thiêng lập-địa tới giờ ta sẽ đạt được hồng ân của Ngài là ân xá lần thứ  hai, trên mặt địa-cầu nầy vậy.

Nếu kỳ ân-xá ấy đạt được, thì nạn tương-tàn, tương sát với nhau mới tránh khỏi. Nếu ký ân xá ấy đạt không được thì có một trường quyết chiến thảm-khổ, sẽ trãi qua trước mắt chúng ta mà từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa hề có.

 

Ngày Rằm tháng Giêng năm Ất-Mùi (1955)

ĐỨC HỘ-PHÁP THUYẾT TRONG DỊP LỄ THIÊU XÁC

CÁC THÁNH-TÔNG-ĐỒ

Kẻ nào hiếp các con là hiếp Thầy, mà hiếp được Thầy là một việc không dễ dàng gì vậy.

Ngày kia, khi Đạo Cao-Đài đã mạnh-mẽ tràn-lan khắp năm châu. Lúc ấy thế-giới sẽ đua nhau về đây thỉnh ngọc xá-lợi của Liệt-Thánh về chiêm-ngưỡng cũng sẽ không kém gì cuộc cung-nghinh xá-lợi Phật của thế-giới ngày nay vậy.

 

Tại Đền-Thánh thời Tý  Đêm mồng 1 tháng 11 năm Mậu-Tý (DL. 01.12.1948)

MÓN ĂN CỦA LINH-HỒN

Kỳ nầy Bần-Đạo đình thuyết về sự dục tấn của các Linh-Hồn chúng ta trên Con đường Thiêng-Liêng hằng sống, đặng thuyết về một vấn-đề cần-yếu nhứt có ảnh hưởng yếu-trọng đến phần hồn chúng ta.

Thời-gian Bần-Đạo để chơn trở về Đền-Thánh, Bần-Đạo chú trọng một điều,  chẳng những chú trọng mà thôi mà còn buộc cả Chức-Sắc phải đi cúng tại Đền-Thánh. Lý-do ấy thế nào Bần-Đạo xin thuyết-minh cho toàn cả hiểu biết, rồi mới rõ cái huyền-bí bí-mật phương-tu của mình hầu gắng công lo tu thêm nữa.

Ai cũng thường nói mình tìm Đạo, Đạo đã để trước mắt mình, nói quả quyết hơn Đạo để nơi mình, của mình. Aáy vậy là vật Chí-Tôn đem đến trong tay của kẻ làm chủ-quyền sở-hữu nó.

Bần-Đạo nhớ khi nền Đạo mới phôi-thai, ban sơ xuống tại Thủ-Đức ở trót 7 tháng trường, nhờ ơn đức của Giáo-Tông dìu-dắt, giáng bút giáo-hóa, buổi chưa rõ thông chơn-lý của Đạo, còn mập-mờ, tìm hiểu, nhiều khi vì sự ham muốn biết, đã vấn nạn Ngài nhiều điều quá đáng, như ngày hôm nay và tương-lai nếu ai xúi hỏi nữa, chắc Bần-Đạo không dám. Có một phen Ngài đến dạy Bần-Đạo. Ngài than : cái tâm-lý nhơn-loại đương-nhiên đã khiếm-khuyết đạo-đức tinh-thần, vì cớ trường đời hỗn-loạn, hàng trí thức hoặc tu-niệm tiềm-tàng thấu-đáo, muốn tìm phương hay sửa-chữa, cứu-vãn tình-thế của đời. Hại thay, buổi ấy Đạo-Giáo lu-lờ, thiên-lương hết tồn-tại, làm thế nào mà nhơn-loại  biết chủ-định quyền-hành mình đặng tự-lập, tự-trị lấy mình. Cả thảy chỉ biết tự-lập tự trị mình thì mới mong hiểu được huyền-bí bí-mật. Tự sửa mình mỗi cá nhân, đến xã-hội, đến cả nhơn-loại biết sự trọng mình được thì cứu-vãn tình-thế nguy ngập tàn-diệt nầy được.

Hại thay ! tấn-tuồng ta thấy trước mắt, thiên-hạ bị nạn chiến-tranh tàn-diệt do nguyên-lý của nó là tinh-thần nhơn-loại thiếu đạo-đức, vì thiếu đạo-đức nên vật dục mới xô đẩy họ tìm phương sống, tìm hanh-phúc trong phương sống ấy. Hanh-phúc không có hình-dáng, tạo hanh-phúc chỉ tưởng đâu diệt nhau đặng bảo-thủ phương sống của mình, chẳng khác nào như con vật chỉ biết giành sống với nhau, ngoài ra tranh-giành đặng bảo-thủ mạng sống không còn biết đạo-đức nhơn-nghĩa gì hết. Giờ phút nầy đương nhiên tấn-tuồng nguy-khốn cả toàn nhơn-loại, do nguyên-lý tinh-thần đạo-đức, không tồn-tại, chẳng phải không tồn tại mà thôi, họ lại còn từ chối cái tinh-thần đạo-đức nên không còn giá-trị đối với họ. Vì cớ Chí-Tôn đến tạo Đạo.

Bần-Đạo nhận thấy cả sự bạc-nhược tinh-thần, đương thế-kỷ hai mươi nầy, văn-minh khoa-học giục-thúc nhơn-loại mở cả tinh-thần trí-não đến cực-điểm, họ tưởng có thể vi-chủ cả sanh-mạng họ mà chớ. Cũng có kẻ đầu có học-thức như Phan-Thanh Giản hồi đi sứ sang Pháp-Triều thấy cả nền văn-minh phát khởi đến huyền vi tư tưởng. Ngài là người văn-học trí-sĩ của nước Nam ta, đến cũng phải sợ-sệt, nhận rằng nền văn-minh đã đến mức cao cực-độ. Ngài dâng sớ cho nhà vua, nói một câu nói dường nầy quá lẽ :

-    Dĩ nghệ tề-thiên địa

-    Chỉ nhượng tử-sanh tạo-hóa quyền.

Ngài nói rằng : Cái quyền hành vi-chủ, duy vật chẳng nhượng quyền tạo hóa, chỉ có chết sống mới nhượng cho quyền tạo-hóa mà thôi. Thành thử mình thấy văn-chương khoa-học đương nhiên làm chủ tư-tưởng của con người.

Hại thay ! nếu khoa-học mà dìu-dắt tâm-lý nhân-sanh đến đạo-đức tinh-thần thì may biết bao, trái ngược lại văn-minh ấy chỉ giục thúc phương-sống vật-chất, họ tìm hạnh-phúc trong cái sống vật hình, vì cớ Đạo-Giáo mất quyền. Bần-Đạo tưởng người khác hơn Bần-Đạo cũng lưu-ý đến điều ấy, nên đã vẫn-nạn Đức Lý Giáo-Tông. Hỏi rằng : đương thế kỷ hai mươi nầy văn-minh cực-điểm đã đi quá cao rồi, đem đạo-đức tinh-thần làm thuyết cứu thế, sợ e chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn-loại còn bảo-thủ được khối thiên-lương biết xu-hướng đạo-đức, tinh-thần đạo đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiễm phân nên hột giống mới mọc đặng, còn thế-kỷ hai mươi nầy là thời kỳ văn-minh vật-chất, nếu đem đạo-đức ra làm môi-giới, cữu-vãn tình-thế cho đời, e vô hiệu-quả.

Ngài than ! nói quyết đoán rằng : “ Theo lẽ Hiền-Hữu nói nhơn-loại ngày giờ nầy không cần đạo-đức có phải ?”.

Bần-Đạo trả lời :” Thật vậy, nhơn-loại buổi nầy không cần đạo-đức, chỉ tìm hanh-phúc nơi văn-minh khoa-học cũng có thể được chớ ?”.

Ngài cười :” Văn-minh khoa-học chỉ nuôi phần xác-thịt họ mà thôi, con phần linh-hồn dám chắc họ sẽ đói “.

Bần-Đạo vấn nạn : “ Tại sao Ngài nói linh-hồn đói, linh-hồn có ăn sao mà đói ?”.

Phải, phải có vật-thực đặng bảo dưỡng nó như thi-hài vậy, nếu không vật-thực nó sẽ tiều-tụy rồi chết mà chớ.

Luôn đó Ngài lấy triết-lý cao-siêu mà dạy Bần-Đạo trong một con người có ba xác-thân gọi là tam hồn và bảy vía gọi là thất-phách liên hệ mật-thiết cùng nhau. Đương-nhiên trong thân-thể của mỗi người có ba xác thân ấy cần  bảo dưỡng mới tồn-tại được. Vì cớ Đức Chí-Tôn cho biết, trí-thức và linh-hồn trọng-yếu do căn nguyên của sự sanh-hoạt của nó định cái ngã-tướng cho ta. Ba xác-thân ấy phải nuôi mới sống, mới tồn-tại như xác-thịt thể-hình ta vậy. Đạo-Giáo là tinh, phải ẩm-thực, tinh mới sống, xác-thịt giữa là xác-thân trí-thức tinh-thần ta thấy con người chẳng phải tìm món ngon vật lạ đặng bảo-thủ xác-thân, còn coi hát, nhảy đầm, vui chơi, cờ-bạc, hút-sách tưởng là tìm món ăn cho trí-thức đặng bảo-dưỡng, mà không biết rằng đó là hại cho trí-thức.

Bây giờ tới linh-hồn cũng phải có vật-thực cho nó chớ. Vật-thực là cả triết-lý cao-siêu tồn-tại đấy. Đệ-nhị xác-thân gọi là khí, Chí-Tôn gọi là chơn-thần, nó làm trung gian cho xác và hồn, hễ lương năng thì nó bảo-thủ xác-thịt thể-hình, còn lương-trí nó tìm vật-thực nuôi linh-hồn. Ta nuôi linh-hồn bằng gì ? Vật thực nuôi sống xác-thịt, còn linh-hồn sống đặng là nhờ đạo-đức tinh-thần đó vậy. Ta tu tức là ta tìm phương bảo-trọng cho tồn-tại đạo-đức tinh-thần đặng nuôi linh-hồn hầu đạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật dìu-dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực-lượng quyền năng giong-ruổi trên con đường Thiêng-Liêng  hằng sống.

Đạo-đức tìm nơi đâu mà có đặng ? Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng-Liêng hằng sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng-Liêng tức là cửa đạo, buổi ăn của linh-hồn là buổi ta vô Đền-thờ cùng đấy. Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Đền-thờ là bị luật buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh-hồn ăn vậy, Bần-Đạo tưởng thấy trong trí cần phải buộc cả thảy đi cúng, vì trong thâm-tâm Bần-Đạo định cho mấy người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê, đưa cho gói bánh nói thứ ăn chẳng đặng, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo, cả quần mà mua ăn.

Giờ phút nầy phái Nữ chưa biết mùi ngon của món ăn cho linh-hồn. Ngày giờ nào cả thảy bíêt mùi của nó, ngày giờ ấy có đến ít nữa với những kẻ biết hoặc đói khát dữ tợn kia mới biết ăn ngon. Phàm đói cho lung ăn mới ngon. Nhưng coi chừng Bần-Đạo khuyên một điều, đừng để quá đói mà chết đa. Hại thay vật ăn của linh-hồn có quyền năng Thiêng-Liêng vô tận, giúp ta giải bày cái ác như là cởi áo, chớ không phải mặc chật như dính vào da, rồi ngay giờ thoát xác, tinh-thần thế quyền Thiêng-Liêng lột từ miếng đau-đớn linh-hồn chẳng biết bao nhiêu, chừng đó có ăn năng rồi biết sợ.

Không có một điều gì mà Chí-Tôn định trong chơn giáo của Ngài, dầu Bí-pháp, dầu Thể-pháp mà vô ích đâu. Đấng ấây là Đấng tưng-tíu, yêu-ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều không cần ích mà con của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày Khai Đạo, Kinh-kê, lễ-bái, sư chi sắp đặt về đạo-đức cũng chính Chí-Tôn tạo thành, không phải do các Đấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó, Ngài mới buộc. Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần-Đạo bó-buộc nghiêm-khắc có lẽ những kẻ biếng-nhác cũng phàn nàn lén-lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần-Đạo nơi Thiêng-Liêng Bần-Đạo sẽ hỏi các bạn coi khi con ở thế Bần-Đạo buộc cả thảy đi cúng là có tội hay có công. Công hay tội ngày giờ ấy Bần-Đạo hỏi rồi chúng ta sẽ có một tấn-tuồng tâm-lý ngộ-nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết lẽ nên hư.

Ngày nay, giờ phút nầy, Bần-Đạo đứng lại giảng-đài nầy để lời khuyên nhủ : còn biếng nhác quá ! Xác thịt đã hư rồi đến linh-hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn-năn quá muộn.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý đêm Mồng 9 tháng 11 năm Mậu-Tý (DL. 09-12-1948)

NĂNG-LỰC TINH-THẦN ĐẠO-ĐỨC

Hôm nay Bần-Đạo định thuyết con đường dục tấn của chúng ta nơi cỏi Thiêng-Liêng Hằng-sống.

Có một vấn-đề trọng-yếu do một trường ngôn-luận tại cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, cho nên ngày nay Bần-Đạo thuyết về “năng-lực của tinh-thần Đạo-đức”.  Cái sở-năng của mình cũng như cái huyền-bí vô cùng tận của Càn-Khôn Võ-Trụ, bởi vì nó sản-xuất do tánh đức di-truyền của ngươn linh mỗi người chúng ta, cho nên con đường dục-tấn trí-thức của toàn nhơn-loại trong Càn-Khôn Võ-Trụ với cơ quan hữu-hình tức là xác-thịt họ đối lạ phần vô-vi, tức là ngươn-linh trong Càn-Khôn Võ-Trụ chưa có mức hữu-định, còn dục-tấn mãi. Sự dục-tấn ấy Thiêng-Liêng đã định phân ghi một cái mức cho bước đi mỗi người, mức dục-tấn ấy là mức thần, Thánh, Tiên, Phật rồi đến Trời là cuối-cùng. Các năng lực đó đã để lại một trường ngôn-luận kịch liệt tại Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa. Sở-năng của mỗi người không đồng nhau địa-điểm các chơn-linh không đồng phẩm, mà không đồng phẩm tức không đồng vị, mà không đồng-vị nhau tức là khác tánh chất. Cho nên không người nào giống tánh chất người nào, mỗi chơn-linh có địa-vị riêng tư của mình, địa- vị ấy tạo thành do phương-tu của mỗi người đạt đặng. Bởi không giống nhau như thế mới nảy sanh một trường hổn-loạn.

Nếu cả nhơn-loại trên địa-cầu nầy biết được đặc-điểm của địa-vị mình, Bần-Đạo dám chắc mỗi người sẽ tự hiểu, tự trọng, tự an theo địa-vị của mình, thì không hề có trường tranh-đấu vĩ-đại như ta đang thấy ngày nay. Nếu Staline biết địa-điểm của mình thì không cần chiến-đấu với Marshall với Truman cầm chắc, nếu Hitler biết đặc-điểm của mình, địa-vị chơn-linh của mình thật đứng nơi nào chưa hề nghich với Churchill, Reynaud đến nổi có trận giặc thế-giới chiến-tranh thứ nhì.

Hay biết chẳng chỉ hơn bực tự giác kia, biết mình biết người, tự giác mình đặng, tức hiểu địa-vị của mình đến đặc-điểm nào, mới an phận thủ thường, mới sử  vẹn đời sống của mình đặng. Người đủ biết đặc-điểm địa-vị chơn-linh của mình đứng vào phẩm-vị nào thì thủ thường tự an, tự lạc, dầu cuộc sống có đảo-lộn thế nào đi nữa, đủ chủ-định tinh-thần mình, không ai làm cho ngã nỗi, ấy là các chơn-linh biết tự-chủ một cách đặc-sắc vậy. Nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa có nhiều chơn-linh ấy về đặng. Thật không có chơn-linh nào dưới thế-gian nầy không muốn tu. Có kẻ đổ thừa tại đời sống đa-đoan, nào vợ, nào con, nào của cải, nào tiền bạc, nào ruộng-nương đủ thừa thôi đủ thứ, cả đến Chức-tước quyền-hành.  Muốn tu ngặt không có bề-thế tu đặng. Sự thật cũng có nhiều chơn-linh muốn-tu ; thật tâm muốn mà không làm được. Cũng có kẻ không thể rời cái nhà mình, thậm chí đến không rời cái bà vợ của mình ra được, rồi ngày về Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa khóc-lóc thảm-thiết, bào-chữa lấy mình, nói : “tôi muốn tu lắm song tình đời còn dính-dấp” hỏi các Đấng trọn lành nơi bạn, ai đã buộc ràng cho bạn trong khuôn khổ ấy, chẳng qua do tiền-căn báo hậu-kiếp, bạn đã làm, bạn phải gánh lấy. Không lẽ, như bạn mượn lúa của người ta ăn mùa trước, rồi mùa sau không trả, nói rằng không thiếu nợ. Bạn muốn tu mà không tu được tại kiếp sanh nầy, xác-thịt bị lên án tử hình hữu-định, tu không được nguyên-do tại bạn đã làm, bạn phải chịu, không còn cượng-lý gì nữa, ấy là cái nợ của buổi sanh tiền.

Nếu mình nókie “tôi không biết nguyên-căn mối nợ mà tôi mắc, vì không biết nên trong kiếp sanh tôi không nhìn nó” thì các đấng ấy không ngần-ngại gì dở Thiên-thơ cho mình được thấy quả-kiếp đó mình đào tạo.

Lại chối nữa ! “con vợ tôi tại sao nó khó lòng quá, bước ra một bước đường là nó ghen, không cho tôi tu-hành gì hết” tới chừng dở thiên-thơ ra thì đây : kiếp trước chú mày làm vợ cũng vậy, kiếp trước chú mày làm vợ, còn vợ chú mày làm chồng, tấn tuồng vay trả mà thôi. Không tu được là do quả kiếp lôi kéo không cho chú mày tu, tại nghiệp-chướng của chú mầy, tu rồi ai trả quả cho chú mầy đã tạo trước đây. Trong thiên-thơ nợ cựu, nợ tân lút đầu, mà cửa hư-linh tức cửa Hiệp-Thiên Hành-Hóa. Các đấng trọn lành chưa hề mở miệng chối tội là nhờ ở năng-lực tinh-thần của họ, nếu quả nhiên năng-lực tinh-thần không có, thì Chí-Tôn ngày nay chưa đến mặt thế nầy, đặng tuyển-chọn cả lương-sanh tức là các chơn linh hữu-căn hữu-kiếp, đặng tạo hình thể của Ngài. Nếu quả nhiên năng-lực tinh-thần  không có gì thì Đạo Cao-Đài ngày nay không nên lập ra.

Ta thấy có một hạng Đại-Giác, mà giống bên lành hay bên dữ, bên thiên-lương hay bên quỉ-quyền cũng vậy, đều có một năng-lực tinh-thần đặc-sắc của họ. Bằng cớ hiển-nhiên trước mắt ! làm đảo-lộn toàn-cầu khiến cho nhơn-loại phải điên-đảo tận diệt, do đầu-óc của một người là Hiler, rồi chúng ta còn thấy một bằng cớ nữa quá sức tưởng-tượng là lực-lượng cộng-sản đương tàn-hại cả mặt đời buổi nầy, làm đảo-lộn cả tinh-thần của con người. Hitler đảo-loạn toàn nhơn-loại nhờ nương mãnh lực của ngọn gươm mũi súng, cọâng-sản đảo-lộn tinh-thần nhơn-loại với lý-thuyết Cộng-sản của nó, người đào tạo ra thuyết ấy là Karl Marx. Chỉ có một người mà thôi. Cái năng-lực tinh-thần của một người còn có thể làm cho nhơn-loại an-toàn hạnh-phúc hay tự diệt lấy mình đặng, huống hồ chi Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn do tự Ngài đến chọn , Bần-Đạo dám chắc nếu ngày nào các bạn về đến Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, các đấng trọn lành hỏi các bạn đủ năng lực và xứng phận chăng, chắc các bạn không bao giờ dám nói : không. Vì nếu không thì ra sự lựa-chọn của Chí-Tôn lầm-lạc sao ? Quả-quyết Chí-Tôn không hề lầm bao giờ.

Bần-Đạo nói : Năng-lực của một chơn-linh đại-giác còn có thể làm cho toàn-cầu đảo-ngược, thì năng-lực tinh-thần của Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, nếu nói năng-lực đó là của toàn con cái của Ngài hiệp lại tất đoạt được quyền-năng mãnh-liệt huyền-diệu ấy, thì lo gì Thánh-Thể của Ngài không tận độ thiên-hạ đặng. Không có gì nghi kỵ nữa, Bần-Đạo quyết-đoán phải đặng, hoặc lâu, hoặc mau, hoặc chầy, hoặc kíp, Thánh-Thể của Ngài tức là Hội-Thánh sẽ làm chủ tinh-thần thiên-hạ.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 24 tháng 11 năm Mậu-Tý (dl 24-12-1984)

VÍA ĐỨC CHÚA JESUS-CHRIST

1948 năm trước, lúc nầy có một vị Chí-Tôn giáng trần giáo Đạo tại Tây-phương, vị Chí-Tôn an-bang tế-thế mang xác phàm lập giáo để một cái nền văn-minh vĩ-đại cho nhơn-loại, tính ra được 1948 năm.

Trước buổi Đức Thích ca gần qui-liễu Ananđa và A-Nan Ca-Diếp đến bên Ngài khóc-lóc hỏi Ngài rằng : Thầy qui-vị rồi ai dạy chúng con, Đức Thích Ca nói : Có một Đấng đến sau ta, oai-quyền hơn ta nữa. Đức Phật Thích-Ca đã nói một vị Tây-Phương Giáo-Chủ Jésus-Christ đó vậy. Aáy là một đàn anh đã thông-trí cho nhơn-loại biết người em kế vị của mình sắp đến, Ngài có nói trước còn oai-quyền hơn ta nữa, thì thật quả vậy.

Khi Đức Chúa Jésus-Christ giáng-sanh ở Tây-Phương gần thọ hình, các vị Thánh-Tông-Đồ tức nhiên là môn-đệ của Ngài than rằng : Nếu Thầy thọ hình ai dạy chúng con ? Ngài nói cần yếu ta phải đi, cần yếu ta phải về với Cha ta, ta phải về đặng an vui, rồi sau nầy sẽ có một người đến cùng các ngươi đặng an-ủi dạy-dỗ các ngươi nhiều điều huyền-vi bí mật.

Đức Phật Tích-Ca nói sau nầy Đấng ấy còn oai-quyền hơn ta nữa, Đấng ấy tức nhiên là Tây-Phương Giáo-Chủ Jésus-Christ và chúa đã cho nhơn-loại hay : sau đạo-Thánh Gia-Tô có Đạo Cao-Đài xuất hiện đó vậy.

Có một đấng chơn-linh tam-thế Chí-Tôn , nhơn-loại đều biết tánh danh đó. Nhứt-thế : Brahma Phật, tức nhiên là tạo-hóa, nhị thế Civa Phật tức nhiên tấn-hóa, tam-thế Christna Phật tức nhiên bảo-tồn, đấng trọn quyền bảo tồn ấy là lòng ái-truất thương sanh vậy

Vì cớ cho nên Đức Jésus-Christ thương nhơn-loại một cách nồng-nàn thâm-thúy, Ngài đã ngó thấy nhứt Kỳ Phổ-Độ nhơn-loại ký hòa-ước với Chí-Tôn mà đã hội ước, nên phạm Thiên-điều, nhơn quả nhơn-loại gớm ghiết, do nhơn-quả ấy mà tội tình nhơn-loại lưu-trữ đến ngày nay, Thánh giáo gọi “tội tổ-tông” chính mình Ngài đến, đến với một xác-thịt phàm-phu, Ngài đến giơ tay để ký đệ-nhị hòa-ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng đấng Cha lành của họ tức nhiên là Đức Chí-Tôn là Đại-Từ-Phụ chúng ta ngày nay đó vậy.

Đấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn-loại đã đẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế-vật đặng chuộc tội-tình cho nhơn-loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị hòa-ước cho nhơn-loại, nó làm cho Ngài thế nào ? do tay Ngài ký tờ hòa-ước với Chí-Tôn , nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự-giá. Hai chân của đấng ấy bị trước nhơn-loại dìu đường hắng-sống cho họ, rồi hai chân của đấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá, còn trái tim yêu-ái nhơn-sanh vô-hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn-loại, một tình-ái vô-biên ấy để lại cho laòi người một tôn-chỉ yêu-ái. Tôn chỉ nhìn nhơn-loại là anh em cốt-nhục và khuyên-nhủ nhơn-loại coi nhau như đồng-chủng, năm 1948 nhơn-loại không tầm Giáo-lý của Ngài nữa, chắc-chắn như vậy. Bần-Đạo nói quả-quyết rằng, nhơn-loại đã quên hắn Ngài rồi đó. Cho đến ngày nay cả toàn nhơn-loại trên địa-cầu nầy, không chịu nghe lời Ngài, không theo bước của Ngài, nên nạn tương-tàn tương sát lẫn nhau sắo diễn ra gần đây, nhưng nếu chứng nào toàn cả nhơn-loại biết tôn-sùng nhau, vì tình cốt-nhục, thì cái nạn tương-tàn tương-sát trên mặt địa-cầu nầy sẽ không có nữa. Hai tấn-tuồng, hai thảm-trạng như thế có thể đưa nhơn-loại đến chỗ tiêu-diệt mà chớ, vì nhơn-loại không biết nghe, đấng ấy đã lấy máu-thịt của mình làm con tế-vật dàng hiến cho Đức Chí-Tôn, để cầu xin tha tội cho nhơn-loại. Nhơn-loại sẽ mất Đức vì không nghe theo đấng cứu-thế, đấng ấy đã bảo anh em phải  yêu-ái lẫn nhau, sống cùng nhau cho chọn vẹn kiếp sanh. Trái ngược lại đệ nhị hòa ước kia đã ký kết với Đức Chí-Tôn bị nhơn loại bội ước nữa, vì bội ước mà bảo sao nhơn-loại không bị tội-tình mắt-mỏ sao được ?

Đêm nay là nhờ hiển-thánh anh linh của đấng cứu-thế, đấng đã để lòng ưu ái vô-tận mong cứu-vãn tình-thế nguy-ngập, lấy cả tình-ái ấy làm phương giải khổ cho nhơn-loại .

Chúng ta để tâm cầu nguyện cùng Ngài, để Ngài mở con mắt Thiêng-Liêng cho chúng-sanh đặng nhìn thấy cái chơn tánh của kiếp sống họ nơi nào, đừng mê-muội đừng ngu-dốt, lấy tinh-thần sáng suốt bỏ cái lục-đục thất-tình đầy tội-ác nầy

Muốn tránh các nạn tương-tàn tương-sát kia, muốn cứu-rổi lấy họ, hầu làm cái nạn tiêu-diệt kia được thoát khỏi ấy là lưòi cầu-nguyện của chúng ta đêm nay đó.

Đức Chúa Jésus-Christ đã láy máu thịt đặng chuộc tội Chí-Tôn loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu-ái vô biên của Đức Chí-Tôn mà tha tội cho nhơn-loại đó vậy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 23 tháng 11 năm Mậu-Tý (1948)

BÁC-ÁI CÔNG-BÌNH

Ngày nay chúng ta đình bộ nơi cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa đặng quan-sát cuộc thiệt-chiến, chẳng khác nào như  Gia-cát qua Ngô, quan-sát quân Ngô vậy.

Từ hôm trước tới nay, Bần-Đạo thuyết-minh những điều vấn nạn của các chơn-linh siêu-thoát nhưng thiếu đạo-đức tinh-thần, kiếm tìm cho đủ triết-lý đặng học, đặng để phổ-độ họ. Chúng ta ngó thấy các Đấng Trọn lành nơi cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa chưa thể thắng họ đặng. Cho nên đêm nay tưởng lại kỳ nầy là kỳ chót, kỳ nầy trọn yếu hơn hết, bởi họ vấn nạn về quyền-năng của tín-ngưỡng và luật-điều của các vị Giáo-Chủ để lại thế-gian nầy. Vấn nạn kịch-liệt. Chúng ta nên để ý, nhứt là Chư Chức -Sắc Thiên Phong nam, nữ càng phải để ý cho lắm.

Kỳ trước Bần-Đạo đã giảng, tại chỗ nhiều Tôn-giáo làm cho nhơn tâm bất nhứt, hôm nay họ công-kích về luật-điều. Họ hỏi: Nếu Tôn-giáo có khuôn hữu-định, chiếu theo khuôn-khổ thiên-định, trái lại các vị Giáo-Chủ lập Giáo bất đồng tánh cách nhau. Vị nầy nói nầy vị kia nói khác, phản-khắc nhau biểu sao tâm-lý nhơn-sanh không chia-rẽ ? Bởi không thống nhứt mà ra. Ta thử quan-sát lại coi đạo pháp, đạo-luật mấy vị Giáo-Chủ ấy vẫn có một phương-pháp kích-bác nhau, phản đối nhau, không đồng tâm đồng-đức nhau, không đồng tánh, không đồng tư-tưởng đạo-đức tinh-thần, biểu sao nhơn-loại không chia rẻ, mà chia-rẻ tức nhiên giục-loạn, làm cho mặt đời loạn-lạc, sự loạn-lạc ngày nay cũng vì lẽ ấy.

Các Đấng ở cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa cười nói : “ Các Ngài nghĩ thử coi tánh-đức của các chủng-tộc trên mặt địa-cầu nầy không giống tâm-lý tinh-thần. Đừng nói chi Vạn Quốc, trong một quốc-gia, một nòi giống, tánh-đức nhơn-sanh còn không đồng thay. Không gì khác lạ, các Ngài buộc Phật Thích-Ca Mâu-Ni người Aán-Độ lập Giáo tại xứ-sở Aán-Độ của Ngài, thì Ngài có đồng-tánh đồng-tâm  với sắc dân nào khác với Ngài được, nhưng Đạo Phật vẫn truyền-bá làm chủ tinh-thần khắp Á-Đông, hỏi do đâu ? Do nơi bác-ái và công bình. Những phương-pháp của các vị Giáo-Chủ lập-pháp-luật trong các Tôn-giáo, cốt yếu mở đường chỉ nẻo cho nhơn-loại đi liên-hiệp cùng chơn-tướng và chơn-pháp của đạo-Giáo tức nhiên là tín-ngưỡng, thờ người và thờ trời, Luật-pháp duy có bác-ái công-bình mà thôi. Đức Phật Thích-Ca nếu nói Ngài không bác-ái công bình thì đạo-Giáo không công-bình sao ? Nếu giờ nầy chúng ta không thành Phật thì Đạo Phật không thành sao ? hỏi Đấng ấy lập Giáo trên nền-tảng nào ? có phải nền-tảng bác-ái chăng ? Nếu không bác-ái công-bình, Phật chưa hề đem triết lý cao-siêu làm chủ tinh-thần nhơn-loại đặng. Chúng ta đây ai lo phận-sự nấy, lại còn giành hơn thua nữa có đâu ép mình như Phật chưa hề hạ mình nâng-đỡ tinh-thần nhơn-loại dường ấy.

Đức Lão-Tử thấy loài người không biết địa-điểm tinh-thần mình, không biết chơn-tướng tinh-thần mình để nơi nào định vị cho có giá-trị. Ngài sanh tại Trung-Hoa tâm-lý nhơn-sanh không biết phẩm-giá tinh-thần của con người là gì, đến đổi tâm-lý con người buổi ấy sa-đọa không biết phẩm-vị mình nơi nào, không biết tôn-trọng phẩm-vị đó nên đọa xuống thú chất vật-loại, nếu không vì bác-ái, từ-bi thức-tỉnh nhơn-loại cho biết phẩm-vị tối cao của họ, đừng làm con vật nữa. Nếu không phải vì tâm bác-ái công-bình thì không hề Ngài lập-giáo dường ấy. Ngày nay không phải nơi dân Á-Đông nầy thôi, mà cả Aâu-Châu cũng vậy, biết rõ triết-lý Đạo-Đức cao-siêu của Ngài, người ta theo chẳng biết bao nhiêu.

Các Ngài xác định về mặt tinh-thần, lấy cả tinh-thần siêu-thoát của các Ngài ngó lại coi có phải tinh-thần luật-pháp của Tiên-Giáo chỉ do bác-ái công-bình mà lập đặng chăng ? Phương-pháp tạo ra có hình-tướng ấy cốt-yếu nâng-đỡ tinh-thần nhơn-loại đến mục-đích cao thượng là bác-ái công-bình vậy.

Đạo Nho do Đức Khổng-Tử lập tại Trung-Hoa. Tại sao có đạo Nho? Tại Ngài lấy nhơn-luân buổi nọ điên-đảo cũng như Đức Lão-Tử thấy nhơn-phẩm suy-đồi, không còn giá-trị. Tâm-lý nhơn-sanh buổi ấy mắt hẳn cái giá-trị nhơn-loại, nên tự mình xuống làm vật loại đem Nho-Giáo định Luật-pháp xã-hội trị Đạo nhơn-luân làm căn-bản. Hễ mình biết mình tức nhiên biết Thiên-Đạo, biết Thiên-đạo mới tùng thiên-lý, tức nhiên tùng Thiêng-Liêng vô hình, Ngài không nói danh Chí-Tôn là ngôi Chủ-tể là phẩm tối cao tối trọng của Đạo, chỉ lấy mặt luật bác-ái và pháp công-bình đặng định sống cho nhơn-loại, định sống cho cả nhơn-quần xã-hội, định sống cho cả các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu nầy dầu Luật-pháp của Ngài trái hẳn phong-hóa nhơn-loại một đôi nơi trên mặt địa-cầu, nhưng nhờ tinh-thần đạo-đức làm môi-giới, từ giờ nầy toàn vạn-quốc lưu-ý lấy đó đặng chỉnh-đốn quốc-thể mình. Vì cớ cho nên lập đạo Cao-Đài, Chí-Tôn tiên-tri rằng: Đạo Cao-Đài là cơ báo-hiệu cho vạn-quốc hay trước rằng. Thời kỳ Nho Tông chuyển thế đã đến.

Nói tới đạo Thánh của Đấng Chirst tức Công Giáo, nếu người không bác-ái từ bi, không hề đem xác-thịt mình làm còn tế vật dâng hiến cho Chí-Tôn đặng cầu-siêu rồi, xin tha thứ tội-tình cho loài người, đó là người đến đem lòng thương yêu của mình ra làm tiêu-chuẩn cho đời bắt chước. Vì cớ nên Công-Giáo làm chủ tinh-thần một phần lớn nhơn-loại là đặng lắm vậy. Nếu như các Ngài còn chối-cãi, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẻo mà các Ngài còn chối không tùng con đường của nhơn-loại đi, là con đường tín-ngưỡng Trời và Người đặng dìu-dắt nhơn-loại trong luật thương yêu và pháp công-chánh, đến trước mặt Tòa Tam-Giáo đặng cầu rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng. Dầu có cượng-lý bao nhiêu các Ngài cũng không chối sự chơn-thật đó đặng. Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển-nhiên là đạo Cao-Đài đã xuất-hiện, Đức Chí-Tôn đã đến, chính mình Ngài đến mở đạo 24 năm trường nay. Ngài đã ký-kết với nhơn-loại bản hòa-ước thứ ba. Hai hòa-ước kỳ trước nhơn-loại đã phản bội, không giũ sở tín của mình vì cớ cho nên phải thất đạo, nhơn-loại đi trong con đường diệt-vong tương-tranh, tương-sát nhau. Vì lòng bác-ái từ-bi Chí-Tôn đến kỳ hòa-ước thứ ba nữa để trong luật-điều. Chúng ta thấy các đấng Thiêng-Liêng chỉ tấm tượng Tam-Thánh biểu nhơn-loại tín-ngưỡng;  Thiên-thượng, thiên-hạ (Dieu et Humanité) về luật có bác-ái, pháp có công-bình, ngoài ra dầu Luật-pháp muôn ngàn hình-tướng, Hội-Thánh đạo Cao-Đài dìu-dẫn tâm-lý nhơn-sanh, chỉ-dẫn họ vô mặt tối-cao là luật bác-ái và vô một nền chơn pháp tối trọng là pháp công bình.

Luật-pháp của đạo Cao-Đài, ngoài ra luật bác-ái và pháp công-bình, tất cả luật điều khác, đều là phương-pháp lấy giả tạo chơn mà thôi.

Kỳ tới Bần-Đạo sẽ giảng về quyền-năng hiệu-nghiệm của luật bác-ái và pháp công-bình.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 30 tháng 11 năm Mậu-Tý (1948)

ĐẠI HÙNG ĐẠI LỰC ĐẠI TỪ-BI

Đêm nay Bần-Đạo giảng câu triết-lý đại-từ, đại-bi. Câu triết-lý ấy nguyên bổn của nó do nơi Minh-đường, Minh-Sư đã thuyết giáo, chúng ta chẳng biết Minh-Đường Minh-Sư họ có phương-pháp chi mà luyện hay lắm, sự triết-lý đã truyền-giáo một cách vững chắc, chúng ta cũng nhìn nhận có nhiều chơn-lý đặc-sắc, tưởng-tượng ra câu thường-ngữ khi thuyết-pháp họ thuyết-pháp nơi câu đại-hùng, đại-lực, đại từ-bi. Thật vậy các người tu, nếu không có đức tin dường đó thì không có thể gì thành Đạo đặng. Triét-lý nhà Phật từ tạo thiên lập địa đến giờ đã tạo ra biết bao nhiêu Đấng đã thừa-hành mạng lịnh Phật-giáo, đang hành-hóa chúng-sanh nơi mặt thế-gian nầy, nếu không có tánh-đức ấy chẳng hề khi nào lập giáo đặng, Đại-lực, câu ấy có lẽ để một phương ngôn-luận, công-lý của một mối đạo mình tu phải có một đức tin hùng dũng mới đặng. Bần-Đạo nói, nếu không có tánh-đức hùng-dũng chẳng hề khi nào thắng khảo-đảo đặng. Cả thảy con-cái của Đức Chí-Tôn đều biết từ ngày mở đạo đến giờ, một trường khảo-đảo kịch-liệt, từ ngày đạo mới phôi-thai đến giờ, nếu không có tinh-thần hùng dũng của con cái Đức Chí-Tôn cương-quyết lập đạo cho thành, “cương-quyết phải thắng” vì tổng số cả tinh-thần hùng-dũng của con cái Đức Chí-Tôn, nên ngày nay nền Đạo mới ra thiệt-tướng như vậy.

Bần-Đạo ngồi quan-sát lại, quan sát từ buổi thô-sơ triết-lý do những điều Đức Chí-Tôn tìm Chánh-Lý, Ngài đến cầm cây viết Thiêng-Liêng lựa chọn đem vô Thánh-Thể của Ngài, những kẻ ấy thất đạo, vì nguyên do buổi trước, Bần-Đạo thấy quả-quyết và dám chắc như thế, nếu Bần-Đạo vạch ra thì toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn cũng ngó thấy Bần-Đạo, mà những kẻ thất đạo, không theo dõi bước Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn là do nhút-nhát sợ-sệt, bạc-nhược, sợ cường-quyền, sợ luật đối-phương mãnh-liệt, họ chưa có chí hùng-dũng quyết tranh-đấu quyết thắng nên họ thất đạo, cái thất đạo của họ là thiếu chí hùng-dũng, là tại nơi họ nhút-nhát, bạc-nhược. Tinh-thần hùng-dũng chẳng phải nơi cửa đạo mà thôi, ngoài đời cũng vậy, bực vĩ-nhân đã tạo thời cải thế từ thượng cổ đến giờ, nếu không có tinh-thần hùng-dũng thì phải bị làn sóng đời lôi cuốn như một dề bèo trôi giữa dòng sông kia vậy. Đức Chí-Tôn có một quyền-năng đặc-sắc để nơi địa-vị của mình, nhưng họ thiếu chí hùng-dũng và cương-quyết. Bần-Đạo chỉ bằng cớ hiển-nhiên là khi Đức Phật Thích-Ca còn Thái-tử có kẻ nghe Ngài bổn-tánh là một vị Thánh, nên đến xin con mắt của Ngài, Ngài dám móc con mắt cho kẻ ấy, nếu không có chí hùng-dũng cương-quyết, tưởng chưa có người nào nơi mặt thế-gian nầy làm đặng như Ngài, khi Ngài đạt đến địa-vị Thiên-Phẩm, tức nhiên Ngài ngồi luyện đạo, đương tịnh luyện dưới gốc Bồ-Đề, có một vị Vương-hầu đi săn, rượt theo con nai, con nai chạy ngang gần chỗ Ngài ngồi, nó tách qua nơi khác, vị Vương-hầu ấy rượt đến không thấy con nai, chỉ thấy Ngài ngồi dưới gốc Bồ-Đề mà thôi. Vị Vương-hầu ấy mới hỏi Ngài có thấy con nai chạy ngang qua đây không ? Ngài suy-nghĩ nếu ta chỉ chỗ thì vị hung-thần nầy giết nó, thì ta có liên-quan tới sát sanh, nếu ta nói không thấy thì ta nói dối tốt hơn thì ta làm thinh, Ngài nhứt-định làm thinh.

Vị hung-thần ấy nỗi giận nhiếc-mắng Ngài, dầu cho Ông Thầy tu đi nữa, nhưng Ông là một người dân của tôi, ở trong nước của tôi, tức nhiên Ông là tôi-tớ của tôi. Nếu tôi hỏi tiếng nữa mà Ông không trả lời, tôi sẽ chặt cánh tay mặt của Ông. Tôi hỏi Ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không ? Ngài quyết-định không trả lời. Ngài làm thinh không trả lời. Vị hung thần ấy liền chặt rớt cánh tay mặt của Ngài, xong rồi nói : tôi hỏi tiếng nữa mà Ông làm thinh thì tôi chặt cánh tay trái của Ông. Ông có thấy con nai chạy ngang qua đây không ? Ngài làm thinh. Vị hung thần ấy liền chặt cánh tay trái của Ngài, vị hung thần ấy nói : nếu tôi hỏi lần nữa mà Ông không nói, tôi sẽ chặt đầu Ông. Ngài vẫn suy nghĩ ta đã chịu chặt hai tay rồi, có lẽ đâu ta sợ chết mà phải nói, nên Ngài cương-quyết làm thinh luôn. Vị hung thần ấy liền chặt đầu Ngài, Ngài xuất chơn-hồn của Ngài ra ngoài thể-phách, kế có một bánh xe lửa, chụp lên đầu Ngài đốt Ngài, vì quyền Ngọc-Hư-Cung định-án Ngài tự sát. Đã bị chặt hai cánh tay rồi, còn đầu mà không nói thấy, tức nhiên mình tự-vận, mà bánh xe lửa ấy nóng nảy làm sao, không thể nói được khổ-não của Ngài ! cái khổ-não ấy, Ngài mới suy-nghĩ. Nếu bánh xe lửa nầy rớt trên đầu ai cũng chịu không nỗi. Ngài suy-nghĩ, ta đã chịu chặt tay, chặt đầu, bị đốt mà chịu nỗi, nên Ngài cầu-nguyện để cho Ngài chịu tất cả hình phạt ấy. Ngài vừa cầu nguyện, vừa tưởng-tượng thì bánh xe lửa này bay đi, nếu Ngài không có tinh-thần hùng-dũng thì không thể gì làm được.

Đức Thích-Ca đã làm được, khi nào đạt-vị tại thành “Kabi-kanla” tức là xứ-sở quê-hương của Ngài.

Quốc-Vương trị-an thiên-hạ nơi ấy là cha của Ngài bắt tội Ngài bỏ nhà đi tu là bất-hiếu, nếu làm con như kẻ thường-tình trở về nói đi tìm Đạo chắc Ngài không nở bắt tội, mà ông cha côt-yếu, muốn thấy Phật nên mới làm như vậy mà thôi.

Ngài truyền cho thiên-hạ biết, nếu gặp Đức Phật Thích-Ca thì bắt đem về cho Ngài lên án tử-hình.

Chừng Ngài nghe nói lên án tử-hình ấy, đức Thích-Ca liền ra chịu án tử-hình. Ngài nói án tử-hình ấy để một mình con xin chịu thôi. Con tín-đồ của con xin cha tha-thứ để cho nó tu. Nếu không có tinh-thần hùng-dũng chưa ai làm được như Phật Thích-Ca vậy.

Noi một chí khí hùng-dũng về tinh-thần của Đức Lão-Tử. Từ hồi ở nơi Thơ-Viện nhà Châu bị đuổi, lên xe trâu mà về Còn-Lôn-Sơn, đi thì có một mảnh áo, một con trâu ra khỏi dinh nhà Châu. Nếu không có chí hùng-dũng chưa dễ gì đương làm một vị Đại-Quan Triều nhà Châu, từ nơi dinh nhà Châu ra đi chỉ có một mảnh áo với một con trâu mà về Còn-Lôn-Sơn đặng.

Đức Khổng Phu-tử đã châu-lưu lục-quốc bất kỳ nơi nào cũng bị thiên-hạ biếm-nhẻ, chê-bai, bắt dọa cho đến khúc trở về nước Lỗ, khi về Ngài còn cần-cù dạy học trò. Ngài làm quan đến bực Tể-Tướng và làm quan đến Gián-Nghị đại-Phu mà vẫn còn cần-cù dạy học. Nếu Ngài không có chí hùng-dũng thì không thể gì làm như vậy đặng.

Như Đức Chúa Jésus-Christ khi ngài đã chết trên cây Thánh-Giá, chúng đóng đinh trên cây Thánh-Giá mà quân vô đạo đứng dưới cây Thánh-Giá kêu Ngài nhiếc-mắng Ngài, nói Ngài là con Đức Chúa-trời quyền-năng vô biên cứu cả thiên-hạ đặng, dầu người cứu thử người trước coi, người làm sao xuống đặng bốn cây đinh đóng hai tay hai chân của người đó coi. Ngài chỉ ngó lên Trời cầu nguyện Thưa Cha xin Cha tha tội tình cho chúng nó. Nếu Chúa không có chí hùng-dũng thì chưa có tinh-thần thần ấy. Mohamed lập ra Đạo Hồi-Hồi bị xô đuổi, bị bắt nhốt khám trốn chui, trốn nhủi, mà không buổi nào thất chi.

Noi một Đấng mà chúng ta thường biết là Huệ-Năng, khi thầy đi tu, đi học đường thấy một đàn-bà lõa-thể nằm chết ở lề đường. Kẻ tầm thường có lẽ nhắm mắt đi ngang qua chổ đó, vì theo đạo-giáo nên Ngài lật một chiếc giày ra đậy chổ lõa-thể rồi Ngài mới đi. Nếu Ngài không có can-đảm và hùng-dũng chưa chắc Ngài đã làm  đặng.

Giờ phút nầy chúng ta chỉ một người làm cho thiên-hạ đảo-lộn thành một trường ngôn-luận cả toàn thể hoàn-cầu là Galania-Davis dám đến giữa hội Vạn-Quốc hỏi rằng : Hòa-Bình thế-giới,  các Ngài dám bảo-đảm không ? Tôi cốt-yếu là một công dân đệ nhứt của Quốc-tế đến hỏi các Ngài dám bảo-đảm Hòa-Bình thế- giới không ? Nếu không có chi hùng-dũng thì anh Galania Davis chưa hề làm được.

Còn nhiều phương nữa nếu không có chí hùng-dũng, có đại-lực thì chưa làm được. Hùng dũng được, tức nhiên theo lẽ phải, có hùng có lực phải từ-bi. Nếu muốn vào hàng Thánh-đức phải đi ngan qua cửa từ-bi. Hễ Đạo có hành-tàng thì lấy từ-bi làm căn-bản, còn hung-tàn thì đi theo cái hung, tức báo đời chớ không phải cứu đời.

Đức Chúa Jésus-Christ cứu đời có nhiều đại-từ, đại-bi, đại-lực.

Các nhà đạo-giáo đi đến cửa mà vô không đặng thì trở qua tả-đạo bàn-môn, còn đi thuận chiều thì là đại từ-bi, qua được tức nhiên theo chiều của Đức Chí-Tôn mà đôi khi còn đi qua thiên-lý, thiên-số, và thiên-tánh tức nhiên là chơn-tánh, tức nhiên là chơn-đạo. Nếu chơn-đạo không biết giữ thì thì đại-hùng đại-lực sẽ biến thành đại-ác tả-đạo bàn-môn.

Đương nhiên bây giờ Hiler, Mussolini, Lénine và Staline nó do đại-hùng đại-lực đại-ác chớ không có đại từ-bi thì nó nghịch chiều đó vậy.

Kết-luận, cả con cái Chí-Tôn thầy một trường-hợp nào bất-chánh thì quan-sát cái trạng thái của nền Chánh-Giáo Đức Chí-Tôn đã cho hay trước, nó có đại-hùng đại-lực rồi nó phải đi trong con đường đại từ bi, coi chừng có con đường nào đi qua đại-ác của nó, cả thảy điều đứng lên làm một bức tường thiên-nhiên gây thành một bức tường huyền-diệu của Đức Chí-Tôn đặng cản-ngăn che cho Ngài, cái nền Tôn giáo của Ngài đừng cho đi vào đường đại-ác.

Tương lai thay đổi, phải mở con mắt Thiêng-Liêng, lấy tinh-thần toàn-thể, dầu Chức-Sắc Thiên-Phong hay tín-đồ cũng vậy, con mắt phải mở. Con mắt ấy là Huệ-Nhãn phải mở cho rõ-ràng minh-mẫn đặng coi chừng thay đổi nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn vĩnh-cửu trường-tồn, đừng để ngày sau đổ-sụp mà ân-hận.

 

Tại Đền-Thánh thời Tý Đêm Rằm tháng chạp năm Mậu-Tý (1948)

LUẬT-QUYỀN

Kỳ thuyết-pháp trước, Bần-Đạo đã có một dấu hỏi : ”Đạo Cao-Đài có thế đem hạnh-phúc cho nhơn-loại, tạo hòa-bình, làm cho đại-đồng thiên-hạ đặng chăng?  ” .

Đã đặt dấu hỏi, tức nhiên phải trả lời.

Chúng ta chẳng nên mờ-ám chỉ biết tin nơi Đức Chí-Tôn mà thôi, mà phải biết Ngài đến tạo nền Tôn-giáo cốt yếu là đến kỳ hòa-ước với nhơn-sanh, tạo hạnh-phúc cho nhơn-sanh và làm cho thiên-hạ hưởng đặng thái-bình nơi mặt địa-cầu 68 nầy, tức nhiên chúng ta dám quả-quyết và để đức-tin chắc-chắn rằng thế nào cũng thành-tựu, nhứt là có quyết-đoán của anh Cả Thiêng-Liêng chúng ta là Đức-Lý Giáo-Tông đã nói :

Đức-tin một khối tượng nên hình,

Đã hiệp Vạn Linh với Chí-Linh.

Nghĩa là Đạo Cao-Đài đã thành, nhưng từ từ đi lên cho đến cái địa-cảnh vô đối của nó.

Ta đã biết Chí-Tôn đến ký hòa-ước của nhơn-sanh, nhứt là các liệt-cường ký với nhau, khoản nầy, khoản nọ, khoản kia, đủ thứ, ký không biết mấy khảon. Với Đức Chí-Tôn chỉ có 2 khoản thôi.

1­­.- Luật : thương yêu, Ngài định luật cho chúng ta là thương yêu, không phải thương-yêu nhơn-loại mà thôi, mà phải thương yêu toàn cả Vạn-Linh nữa.

2.- Còn Quyền : Ngài chỉ định là quyền công-chánh.

Từ thử, ta chưa thấy cái hòa ước nào đơn sơ như thế, mà nó có oai-quyền làm sao ? Không thế gì thật hiện đặng, dầu cho tận thế, loài người cũng chưa thật-hiện ra đặng, chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời-gian ta không quyết-định, ta chỉ lấy lương-tri, tức là lấy trí-tri tìm hiểu chơn tướng Đạo Cao-Đài làm thế nào mà đem hạnh-phúc cho nhơn-loại hưởng được, và tạo hòa-bình cho thiên-hạ đại-đồng thế giới. Chúng ta lấy tri-tri tìm hiểu thôi.

Chúng ta thấy quyền-năng của luật thương yêu thế nào ? Tấng tuồng đời hiển-hiện từ khi có lòai người đến giờ. Nếu không nhờ sức mạnh-mẽ vô-biên của luật thương yêu ấy thì Đức Phật Thích-Ca chưa có lập giáo thành tướng được. Khi Ngài đến Résu, luyện pháp tuyệt thực, có người theo Ngài, 4 người không phải theo làm môn-đệ, mà theo đặng coi Phật có đạt-pháp đặng chăng. Đến chừng Ngài từ trên ngọn núi tuột xuống núi, Ngài ăn uống lại, mấy người đợi ở chân núi thấy như vậy, cho rằng Ngài đã qui-phàm rồi, không đạt pháp chi hết, 4 người chê bỏ đi. Tới chừng Ngài đi thuyết-giáo, Ngài tìm 4 người ấy, bốn người biết Ngài là chơn-thật mới theo. Trong bốn người mà chỉ có 2 người trọng yếu hơn hết, rồi đến ngày cuối- cùng còn có một người đạt đặng Phật-Giáo thôi.

Đạo Tiên, Đức Lão-Tử có một người Môn-đệ và một đứa ở là Tứ-Giáp biết Đạo của Ngài, duy có ông Doãn-Hĩ theo Đức Lão-Tử, đạt-pháp truyền-giáo mà Đạo Tiên còn tồn-tại đến ngày nay.

Đạo Khổng-Phu-Tử, tuy vẫn còn có Tam Thập Lục Thánh, Thất Thập Nhị-Hiền, mà cả thảy Đức Khổng-Phu-Tử, chưa chắc người nào đạt Đạo đặng. Duy có một người mà thôi, Thầy Sâm. Bằng cớ là buỏi chung qui Ngài kêu Sâm nói : “ Sâm hồ ngô đạo, nhứt dĩ quán chi” ( Đạo ta chỉ một người biết mà thôi ).

Đức Chúa Jésus-Christ có nửa người môn-đệ thôi, bởi Ông Pierre chối Chúa ba lần, đến khi ăn-năn khóc-lóc với bà Maria mà xưng tội mình.

Mahomet có một người môn-đệ phụ-nữ mà Đạo Hồi-Hồi đã thành vậy.

Chúng ta suy-đoán chỉ thấy có thương-yêu. Duy có một người thương hoặc nửa người thương mà các vị Giáo-Chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt thế nầy.

Chúng ta xét lại thấy Đạo Cao-Đài còn hạnh-phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiều hơn thiên-hạ rồi. Cái thiên-tướng của nền Chơn-Giáo Đức Chí-Tôn đã hiện tượng, do quyền năng vô-đối của Ngài mà đạt được, mà trong các vị thừa mạng-lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó, Bần-Đạo kiếu lỗi toàn con cái của Ngài, không phải là tự-kiêu hay tự-đắc, chính tay Bần-Đạo có một phần khá lắm, Vì cớ Bần-Đạo rủ toàn thể chúng ta dùng phép  “Hồi-quang phản-chiếu” đặng định tướng-diện của mình, cốt-yếu là một phần-tử trong nền Chơn-Giáo, hễ mình định được chơn tướng của mình, tổng số các chơn-tưóng đó làm chơn-tướng của Đạo.

Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài được nên hình-trạng trọn vẹn, tức là hình tướng thương-yêu vô-tận, nó nên hình có nét đẹp thiên-nhiên là nhờ vẽ với cây viết thương yêu. Trước Đức Chí-Tôn đến cầm cây viết  thương yêu mà viết nét Thiêng-Liêng cho cả Thánh-Thể của Ngài đồ theo nét thương yêu ấy đặng tạo nên hình-trạng, thành-tướng một khối thương yêu. Ta không có mơ-mộng và không lường gạt tâm-lý nhơn-sanh, trước mắt mọi người đều thấy, hỏi do quyền-năng nào tạo thành quyền lực ngày nay ? Quyền Đạo ngày nay do luật thương yêu mà thành tướng, vậy đã do luật thương-yêu thành-tướng thì không có quyền-năng nào tàn-phá cho đặng. Nó có sợ chăng là luật thù-hận. May thay cả lực lượng thù-hận cũng không xung-đột được, bởi có bàn tay Thiêng-Liêng gạt thù-hận ra khỏi rồi.

Nó nên hình bởi sự thương yêu, trưởng-thành trong sự thương-yêu, bởi hình-chất của thương-yêu, hễ càng ngày càng lớn lên, càng tráng-kiện, nó sẽ làm chúa cả thù-hận, và quyền-năng thù hận không hề xăm-lấn nó được. Nói quả-quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù-hận ra, khi các phe-đảng dùng quyền lực chiếm ngôi-vị của Chí-Tôn để tại mặt thế nầy, Bần-Đạo đã cản-đảm dùng quyền của Bần-Đạo đánh ngã ra hết, đặng bảo trọng hình tướng Thiêng-Liêng của Đạo, Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều. Bần-Đạo gánh lấy thù-hận ấy đặng bảo-tồn hình-thể của Chí-Tôn cho trọn thương- yêu. Bần-Đạo dùng can đảm gánh lấy cả thù-hận của thiên-hạ mà bảo-tồn khối thương-yêu của Chí-Tôn vô-đối, không cho hoen ố, nhơ-bợn. Tại sao mà Bần-Đạo dám thí mình gánh-vác thù-hận đặng bảo-trọng nó ? bởi biết nó là chúa cả hình-ảnh của quyền trị-thế tương-lai, nó là thầy thiên-hạ đặng trị thế, nếu không toàn-vẹn, nó lưu lại kiểu-vở thô-bỉ nhơ-nhớp, thì không thế gì làm thầy thiên-hạ đặng.

Các chi-phái buổi nọ dùng cường-quyền mà đoạt vị, không lẽ Bần-Đạo là Hộ-Pháp, nắm giữ Chơn-Truyền trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước, để lưu lại cho nền Chơn-Giáo của Chí-Tôn sao ? May thay, quyền ấy chưa xung-đột được Chánh-Giáo của Chí-Tôn: nó đã bại trận, bởi Thánh-Thể của Ngài có người cầm luật-pháp oai-nghiêm, tức là cầm cây Huệ-Kiếm trong tay đặng gìn-giữ nền Tôn-giáo nên hình được, nó nên được tức tạo cho thiên hạ được. Nó đã tạo oai-quyền của nó thành tướng đặng thì tạo quyền cho nhơn-sanh nơi mặt địa-cầu này về tương lai đặng.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 23 tháng Chạp năm Mậu-Tý ( 1949 )

TÌM HÒA-BÌNH VÀ HẠNH-PHÚC

Đêm nay là thời chót của đêm cúng Chung Niên năm Mậu-Tý, chúng ta lấy ngày 23 là ngày Hiệp Thiên đó vậy.

Ngày nay Bần-Đạo không thuyết đạo mà thuyết thời cuộc đặng quan sát cả năm của chúng ta, ngày nay đến bước nào, nhứt là về Quốc Gia Việt-Nam .

Nghe được truyền thanh dường như Pháp đã chịu lời yêu-cầu của Đức Bảo-Đài trả độc-lập và thống nhất của nước Việt-Nam lại cho Quốc-Dân Việt-Nam , có lẽ Bảo-Đại sẽ hồi-loan. Về sở-vọng của quốc-dân Việt-Nam, liên-kết trong 80 năm và ước-vọng của quốc-dân Việt-Nam đang thõa-mãn vậy.

Ta tìm lụng lại coi thế gì nó giúp cho tương-lai kiến-thiết quốc-gia Việt-Nam đắc-lực hay không đắc-lực. Chúng ta cứ quan-sát xem hành-tàng định cuộc thế, bàn thử tương lai của chúng ta, có một điều Bần-Đạo tưởng rất cần rất bổ-ích, cái khuôn-luật tạo-đoan đã gọi rằng vạn-vật tối linh tức nhiên mạng-sanh trọng hệ nơi mặt thế- gian nầy, bởi vì mạng-sanh là thể của vạn-năng tối-linh thành tưóng, bởi vậy cho nên có một khuôn-luật đặc-biệt. Nơi ấy làm như đã vô kuôn-luật  thiên nhiên để vay trả. Chúng ta thấy năm nào lúc mưa gió dữ-dội, thì loài kiến nó làm ổ trên cây nó tha trứng gát lên nhành cây cao, nó có khiếu-linh, hễ lụt thì hang ổ hư hết, đường như tâm-linh của nó, bảo-sanh của nó cho hay trước đặng nó tìm phương-thế tự-vệ mạng-sanh của nó. Bần-Đạo ngó thấy nữa, tỷ như loài ong mà ngày mai ổ nó sẽ bị phá, bị đốt, bị lấy mật, thì nó hay trước, đêm đó hai phần ong đi trước.

Chúng ta còn ngó thấy nữa, khi chúng ta cỡi con ngựa đi trong đường vắng, thảng như có cọp, hay mãnh-thú gì đón đặng bắt người cỡi và nó, khi đi gần tới chổ đó mà người cỡi hiểu biết thì tránh được vì nó không chịu đi hay nó đi qua đường khác, vì nó biết lánh mạng của nó đi tớâi khuôn-luật . Ta đây cũng vậy, khi nào ta có tai-nạn gì hại đến mạng-sanh của ta, đường tâm-linh của ta cho biết trước, điều ấy có hiển-nhiên của mỗi người, được thấu-đáo đến cái nguy-hại đến mỗi cá-nhân cũng vậy.

Bần-Đạo thường nói lấy nhỏ mà đoán lớn, cả Vạn quốc nhơn-loại trên hoàn-cầu lúc nầy cũng vậy, dường như tâm-linh của họ cho biết trước cái nạn nguy biến tự diệt nơi mặt địa-cầu nầy, Nếu họ chia-rẻ tương-tàn, tương sát với nhau, không phải buổi nầy mà thôi, mà về tương-lai nữa.

Khi chưa có trân giặc thứ nhất họ đã lập Vạn-quốc liên-mình để bảo-vệ hòa-bình thiên-hạ.

Hỏi cái hung-tàn bạo ngược của đời có nghĩa-lý gì không ? Nhưng lấy tâm-lý công-chánh định coi chúng ta ngó thấy, nhờ có Hội Vạn-Quốc liên-minh mà hòa-bình mới còn duy-trì đến ngày nay. Nếu không có hội Vạn-Quốc liên-minh bảo-vệ hòa-bình thì trận giặc thứ ba khởi chiến trước rồi. Bây giờ dường như thiên-hạ đã ngó thấy cái tai-nạn, nhơn-loại ngó thấy hình-tướng, hiện hình xuất tướng mà thôi.

Chúng ta ngó thấy cả toàn-cầu Vạn-Quốc  liên-minh dầu có đổi tên nhưng cái tướng của nó vẫn-còn là nhỏ, cơ-quan ấy là cơ-quan cứu thế . Nếu không có nó thì nhơn-loại đã đi đến con đường tự-diệt, không còn quyền-năng nào ngăn-cản bước nguy-hiểm của nó được.

Vì cớ chúng ta thấy,nó xuất hiện trước cũng như vị Thánh Gandhi chống cây gậy mặc một tấm chăn đi khắp cùng thiên-hạ kêu gọi bác-ái từ-bi đặng định tâm thiên-ha: lấy đạo-đức làm căn-bản đặng cứu-vãn cái nạn tương-tàn, tương-sát của nhơn-loại, bảo-vệ hai chữ hòa-bình trong khuôn-khổ đạo-đức.

Ngài đã làm bên xứ Aán-Độ, tôi tưởng sự làm của Ngài với sự làm của Đức Chí-Tôn đi đôi với nhau. Đức Chí-Tôn không trước Ngài, mà Ngài cũng không trước Chí-Tôn, ngoài ra cũng không phải ảnh-hưởng cho vị Thánh Gandhi.

Tìm hiểu nhơn-loại để tự-giác mình, còn nhiều bậc trí-thức cao-siêu hơn nhơn-loại, cầm vận-mạng các quốc-gia trù tính kế-hoạch đặng bảo-vệ hòa-bình và bảo-tồn sanh-mạng cho loài người tức là bảo-tồn sanh-mạng cho nhơn-loại.

Chúng ta ngó thấy tại đền Chaillot, cả Vạn-quốc tìm đủ phương-chước để bảo-vệ hòa-bình mà họ còn thất-bại nữa mà chớ. Chúng ta ngó thấy nạn phân-chia tâm-lý nhơn-loại hiện giờ làm gì ? Chúng ta có ba mãnh-lực, mãnh-lực tư-bản, mãnh-lực cộng-sản và mãnh-lực đạo-đức.

Cộng sản nói rằng: của sở-hữu nơi mặt địa-cầu đủ nuôi nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy. Nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy có ít nữa 2.500 triệu người. Của-cải trên mặt địa-cầu nầy có thể nuôi họ đặng. Nhưng của-cải phải chia đều với nhau, không ai hơn, không ai kém.

Nếu muốn chia phải làm, phải có sản-xuất mới chia được. Luật chia đã đành không chánh-thật, mà nó không làm thì của đâu mà chia, người làm người không thì chia sao được. Giựt ăn chớ chia cái gì. Cái thuyết cao-siêu lắm mà hàmh-tàng thì trái hẳn với chơn-lý.

Một đàng Tư-bản nói làm cho nhiều, làm dư-giã, để của cho nhiều tức thiên-hạ sống hanh-phúc, mà nếu có luật buộc thiên-hạ chia của, mà kẻ không làm đặng chia của, ở không mà đặng ăn là bất-công, giờ toàn cả thiên-hạ phải làm, làm cho qua sở vọng của loài người thì sống vô cùng hanh-phúc. Có một điều làm ra rồi người làm coi giữ quyền lợi của mình không cho thiên-hạ hưởng, thành ra thuyết hay mà sự làm trái bản chơn-lý nữa. Hai thuyết ấy tương-đương với nhau, chiến-đấu một cách kịch-liệt thành ra hai khối Nga và Mỹ.

Bây giờ còn thuyết đạo-đức có hơi khác hơn hai thuyết kia, Bần-Đạo tưởng không cần để của cho nhiều mà làm giàu, vì nghĩa-lý của Đạo, mình biết khổ với nhau, biết-thiếu thốn cùng nhau, hoạn-nạn có nhau, mình biết tùy thế tùy thời, dầu không có của mà gìn luật thương-yêu, bảo-vệ nhau tuy nghèo mà nó còn gìn-giữ đặng. Duy có hiệp cả nhơn-loại, thông-trí cả tâm-lý tinh-thần loài người như một gia-đình kia. Nhơn-loại ngày giờ nào mà biết yêu-ái nhau, biết bảo-vệ nhau như trong gia-đình của các Ngài, đó mới gọi là hanh-phúc ; làm việc có kẻ mạnh người yếu, kẻ bịnh, người già không thể làm hơn kẻ tráng kiện được. Người bạc-nhược không thể để cho phận-sự nặng nề trong đó được. Nếu suy ra biết bao nhiêu sự bất-công. Duy có tình thương-yêu nồng-nàn mới tạo hanh-phúc chung mà thôi. Tạo hanh-phúc chung cho nhau về mặt tinh-thần hay mặc xác-thịt cũng thế, con người thỏa-mãn đặng về phương sống của mình với tâm-tình thương-yêu thì mới hạnh-phúc, còn ngoài ra dám chắc mạng sống con người không khi nào hoàn-toàn hạnh-phúc. Bởi vì thản như mình đương mạnh đây nhưng đi đâu đó rủi đạp nhằm cái gai cũng đủ đau-đớn rồi, đương-nhiên như thế mà phải chịu cảnh ăn không ngồi rồi cũng là mất hanh-phúc kiếp sống, con người ta không khi nào hưởng trọn hạnh-phúc, duy có đau khổ thêm thì có chớ không có hạnh-phúc gì đâu mà mơ-vọng.

Hỏi thử trong kiếp sống của chúng ta có giờ phút nào có hanh-phúc chăng ? Tìm thử trong kiếp-sống kiếm lụng lại coi, hạnh-phúc bao nhiêu ? rồi xem tổng-số lại coi được cái gì có hạnh-phúc, coi đó được hanh-phúc chăng ? Oâi ! Chỉ thấy cảnh khổ, cũng như ra ngoài bãi sa-mạc kia muốn có giọt nước Cam-Lồ rải xuống trong khi nắng-hạ, vậy thì hanh-phúc cho nhơn-loại không khác. Nếu có hanh-phúc hay chăng thì như Bần-Đạo đã nói, làm người phải biết yêu-ái với nhau, biết tôn-trọng nhau, biết bảo-vệ sự sống còn cho nhau ấy mới là hanh-phúc. Ngoài ra thì cũng như câu cá trên ngọn cây không hanh-phúc gì hết.

CHUNG

MỤC LỤC

1.- Thánh thơ của Đức THƯỢNG-SANH       

2.- Lời tựa của Ngài HIẾN-PHÁP

3.- Lời trần thuyết của Ban-Tốc-Ký   

4.- Hoàn thuốc phục-sinh hòa-bình

5.- Ngày xuân là ngày phục-sinh của vạn-vật

6.- Huấn-từ buổi tiệc đầu xuân ?    

7.- Quyền năng của nền Tôn-giáo

8.- Quyền năng của nền Tôn-giáo (tiếp theo)

9.- Khi vô đền Thánh phải bỏ hết phàm tâm    

10.- Liên-quan con cái Đức Chí-Tôn đối với Ngài

11.-Hộ-Pháp Hành-Pháp mỗi khi vô cúng Đàn  

12.- Ý nghĩa đi hoán đàn ?

13.- Đạo là sự sống trong Càn-Khôn Vũ-trụ   

14.- Thể chất và tính đức của khách trần

15.- Việt-Nam độc-lập trong liên-hiệp Pháp      

16.- Để cả Đức Tin nơi Phật-Mẫu        

17.- Thiên cung của mỗi con cái Chí-Tôn          

18.- Nhiều kẻ được gọi mà ít người đến   

19.- Vận mạng của đất nước Việt-Nam hiện thời  

20.- Đòi lại chủ-quyền của Việt-Nam   

21.- Quốc Đạo kim triều thành Đại-Đạo   

22.- Quốc Đạo kim triêu thành Đại-Đạo (tiếp theo)         

23.- Quốc Đạo kim triều thành Đại-Đạo (tiếp theo)         

24.- Nam-phong thử nhựt biến nhơn-phong         

25.- Bảo-thủ thuần-phong mỹ-tục       

26.- Phong-hóa Việt-Nam đối với các chủng-tộc khác    

27.- Phong-hóa Việt-Nam đối với các chủng-tộc khác (tiếp theo)  

28.- Phong-hóa Việt-Nam đối với các chủng-tộc khác (tiếp theo)  

29.- Phương-pháp tổ-chức xã-hội trong hương-thôn Việt-Nam   

30.- Đệ nhứt chủ-quyền của xã-hội Việt-Nam  

31.- Ýù-nghĩa về nhạc tấu huân thiên  

32.- Tân nội-các quốc-gia Việt-Nam

33.- Lễ tiếp rước ông Tổng-Trưởng Bộ Pháp-Quốc Hải Ngoại    

34.- Vì sao Đức Hộ-Pháp cầm quyền nhị Hữu Hình Đài  

35.- Quả kiếp của dân-tộc Việt-Nam

36.- Đức Chí-Tôn hành-pháp tại Kiêm-Biên       

37.- Của cải của chúng ta tại thế nầy  

38.- Luật-pháp và quyền điều-khiển Càn-Khôn Vũ-trụ

39.- Lịch-sử  Đức Quan Thánh Đế Quân   

40.- Hội-Thánh là gì ?

41.- Pháp-chánh Hiệp-Thiên là gì ?    

42.- Đức tánh Trung-Hiếu-Nghĩa. ?

43.- Luật tương-đối của hai thái-cực chơn thật và giả-dối         

44.- Huân-từ lễ mãn-khóa Hạnh-Đường       

45.- Cha mẹ phải noi gương tốt cho trẻ con  

46.- Lễ khánh thành điền thờ Phật-Mẫu tại Qui-Thiện   

47.- Lễ Hội-Yến Diêu-Trì ?  

48.- Lễ Trung-Thu ?

49.- Đức Hộ-Pháp đi Saigon về rèn độc-lập Việt-Nam

50.- Nhơn tình thế-sự đối với nhơn-tình Đạo-Đức

51.- Việt-Nam độc-lập trong Liên-Hiệp-Pháp

52.- Đức Hộ-Pháp thuyết minh khi hội-đàm cùng Thượng-sứ  Pháp

53.- Sự điều-hòa Càn-Khôn võ-trụ

54.- Lễ cầu-siêu cho chiến-sĩ trận-vong       

55.- Lễ kỷ-niệm Đức quyền Giáo-Tông       

56.- Lễ hạ Nguơn năm Mậu-Tý (1945)         

57.- Món ăn của linh-hồn ?   

58.- Năng lực tinh-thần Đạo-Đức

59.- Vía Đức Chúa Jésus Christ ?    

60.- Bác-ái và công-bình ?

61.- Đại hùng đại lực đại từ bi ?      

62.- Luật và Quyền

63.- Tìm hòa-bình và hạnh-phúc ?

 

 

về trang chủ