Ði đạo  Tam kỳ  Phổ độ

Tòa Thánh  Tây Ninh

 

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

NĂM KỶ-SỬU & CANH-DẦN

QUYỂN 3

HỘI-THÁNH GIỬ BẢN-QUYỀN

 

IN LẦN THỨ NHỨT

NĂM GIÁP-DẦN

(1974)

 

 

LỜI TỰA

 

Những bài Thuyết-Đạo trong quyển sách này là lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ-Pháp, Một vị Giáo-Chủ của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, một bậc vĩ-nhân của thế-hệ, nên một Uûy-Ban sưu-tầm và biên-tập thành-lập có Đức Thượng-Sanh chấp thuận, để xúc-tiến việc sưu-tầm và biên-tập đã có kết-quả mỹ-mãn, nên Uûy-Ban đem ra ấn-hành cho toàn đạo được lãnh-hội lời vàng tiếng ngọc nói trên.

Trong Ban Đạo-Sử của Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ đã có sẵn một Thư-Viện tàng-trữ các loại kinh-sách cổ-kim và Đông Tây cho các nhà khảo-cứu và toàn đạo có thêm tài-liệu, những quyển “Lời Thuyết-Đạo” của Đức HỘ-PHÁP sẽ lưu-trữ vào Thư-Viện nầy để chư độc-giả đến xem .

Đức Hộ-Pháp là một trong những vị tiền-bối khai-sáng nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, đã thực-hiện trước hết chủ-thuyết Tam-Lập :

- Lập Đức,

- Lập Công,

- Lập Ngôn.

Về lập Đức, thì Đức Ngài là người đầu tiên đã nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng mà khai-sáng mối Đạo cho toàn sanh-chúng được chung hưởng hồng-ân của Đức Chêi- Tôn, (Ngọc-Hoàng Thượng-Đế).

Về lập Công, thì Đức Ngài vừa lập đức  vừa lập công trong việc khai-sáng. Từ cái không làm ra cái có, bắt gió nắn hình tạo thành một đại-nghiệp Đạo ở cỏi thế nầy. Nếu ngài không phải là một đại-đức thì làm sao thành-công được ?

Về lập Ngôn, thì Đức Ngài lưu lại lời vàng tiếng ngọc trong các bài thuyết-đạo mà chúng ta đang thưởng-thức và còn nhiều lời giáo-huấn cao-siêu khác nữa mà chư qui độc-giả và toàn Đạo nên lưu-ý.

Nhơn-danh Hiến-Pháp Hiệp-Thiên-Đài kiêm Trưởng-ban Đạo-sử, tôi xin trân-trọng giới-thiệu cùng độc-giả bốn-phương quyển-sách quí-giá nầy đáng được lưu-niệm mãi-mãi.

Trân trọng kính chào.

Hiến Pháp TRƯƠNG-HỮU-ĐỨC.

 

LỜI TRẦN THUYẾT

Mỗi lần ly-loạn là mỗi lần thư-tịch  bị làm mồi cho khói lữa…

Nhìn vào lịch-sử những vụ “PHẦN THƯ” những vụ chiếm đoạt thư tịch đã xảy ra như một hệ-luận trước những biến-cố, Tình-trạng nầy đã kéo dài qua các thời- đại, ấy là biện pháp của những kẻ mạnh nhằm vào mục-đích thực-hiện chánh sách ngu-dân và đồng hóa triệt-để.

Những kinh-nghiêm đau thương âý là nguyên-nhân thúc-đẩy chúng tôi cố-gắng thực-hiện công-việc sưu-tầm những tài-liệu nầy.

Chúng tôi nghĩ rằng : “Nếu tài liệu kinh-sách chỉ được tập-trung tàng-trữ vào một chổ, tránh sao cho khỏi bị hủy-diệt khi kẻ cường-quyền đến cướp phá”. Do đó chúng tôi quyết định quây ra làm nhiều bản đề gởi đến, và ký-thác vào những bậc có tâm-hồn trung-kiên với Đạo, những người dám chết để bảo-tồn những tiếng nói của những Đấng thay Trời dạy Đạo.

Nếu một mai thời cuộc lại biến-thiên, có thể các cuộc  “PHẦN THƯ” lại tái diễn thì thiết tưởng trong số tài-liệu này vẫn còn có nhiều người nhiệt-tâm gìn-giữ được vẹn toàn.

Đây không phải là việc làm của một cá-nhân hay một đoàn thể nhưng là một sự đóng góp chung của những người vô danh, nguyện đem hết năng lực của mình để phụng-sự cho lý-tưởng bảo-tồn truyền-thống giáo-lý của Đạo. Trong khi quyển tài-liệu này đến tay quí vị thì cũng đã có người quá hăng-say trong công việc thực-hiện lý-tưởng mà phải lao tâm kiệt sức hóa ra người thiên-cổ.

Việc làm của chúng tôi không phải là một ý-nghĩ  nông-nổi của một sớm một chiều, nhưng là một hoài-bảo trong suốt thời-gian ly-loạn. Chúng tôi hằng cầu nguyện ĐỨC CHÍ -TÔN và PHẬT-MẪU ban-bố phước lành cho chúng tôi sớm gặp nhịp may để thực-hiện hoài-bảo ấy.

Ngày nay chân trời đã rạng-tỏ, ý nguyện đã đắc thành.

Chúng tôi xin hiến dâng tròn vẹn cho Hội-Thánh tất cả những tài-liệu mà chúng tôi đã ghi chép, góp-nhặt sau bao nhiêu năm theo đuổi mục-đích bảo-tồn những lời vàng tiếng ngọc của ĐỨC HỘ - PHÁP.

Từ đây, bản-quyền này sẽ tùy thuộc hoàn-toàn của Hội-Thánh. Kính xin Hội-Thánh cho kiểm-duyệt và ấn-hành, để cho mọi người đều được nghe lời dạy dỗ đầy yêu-ái của ĐỨC HỘ-PHÁP , đã dành cho toàn-thể chúng sanh trong thời-gian Đức Ngài còn tại thế.

Tòa-Thánh, ngày 28  tháng 8  năm  Bính-Ngọ

(DL. 12 - 10 - 1966)

BAN TỐC - KÝ

 

Đền-Thánh đêm 30 tháng Chạp năm Mậu-Tý rạng 1 tháng Giêng Kỷ-Sửu

 (DL. 28-01-1949)

GIẢI PHÁP CỨU-THẾ CỦA

ĐẠO CAO-ĐÀ

Đêm nay là đêm giao thừa, năm cũ bước qua năm mới. Năm Mậu-Tý đã qua năm Kỷ-Sửu đến, Bần-Đạo nhân danh Đức Lý Giáo-Tông để lời cầu chúc cho toàn Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn và của con-cái của Ngài nam và nữ. Chúng ta đã vui hiệp với nhau trong đêm nay, tưởng cả tinh-thần con-cái Đức Chí-Tôn buổi đầu năm đã hiến cho Đức Chí-Tôn trọn ba món báu là cả xác thịt mình trí não mình và linh-hồn mình đặng làm khí-cụ cho Đại-Từ-phụ tận-độ chúng-sanh.

Đêm nay cũng như những đêm 21 năm về trước. Chúng ta vẫn để tâm-trí tinh-thần, tâm-đức làm con vật hy-sinh để trên bàn thờ thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn mong Ngài tha-thứ toàn tội lỗi cho nhơn-loại, và năm nào cũng thấy hữu-hạnh nhơn-loại đã đặng khoan-dung tha-thứ. Chẳng phải tha-thứ cho nước Việt-Nam mà thôi, chúng ta còn cầu xin tội-tình cho nhơn-loại và miệt-mài xin cho nhơn-loại đặng hanh-phúc ấy là phận-sự của chúng ta đó vậy, và căn-sinh của ta biểu ta rằng : sống đặng làm phận-sự làm tối yếu tối-trọng của Đức Chí-Tôn làm thành hay chưa mà thôi.

Một năm qua chúng ta đã ngó thấy không có đem hanh-phúc cho nhơn-loại mãy-may nào hết, chỉ thêm áo-não cho nhơn-loại mà thôi, cả vạn-quốc dầu Aâu, Á cũng vậy, đương sống trong một cảnh-tượng hồi-hộp không biết nạn chiến-tranh sẽ tới buổi nào. Bần-Đạo nếu không lầm thì khi nãy đã hành-pháp trên liên-đài, Hộ-Pháp thấy đặng yếu trọng năm kế là năm Kỷ-Sửu Đạo sẽ còn vẻ-vang hơn nữa, còn có một phương-pháp đặng làm hữu ích cho nhơn-loại mà chớ.

Chúng ta biết đặng mình có đặc-ân Đức Chí-Tôn chúng ta đi tầm lấy đặc-ân ấy đặng chan-rưới cho toàn thể nhơn-loại trước. Chúng ta muốn cả nhơn-loại hưởng đặc-ân như chúng ta đã tưởng. Chúng ta có một điều là, cầu xin cho toàn thể quốc-dân Việt-Nam là một sắc dân mà Đức Chí-Tôn đã tuyển chọn làm con tin của Ngài đặng cứu độ vạn-linh. Chúng ta cầu-nguyện xin cho một đặc-ân riêng mà đặc-ân ấy chúng ta không xin gì khác hơn là tâm yêu-ái vô tận của họ.

Nhơn-loại phải trở lộn lại tinh-thần yêu-ái với nhau, bảo-vệ mạng sanh của nhau mới tồn tại được, ngoài ra không có một phương-pháp nào giải-quyết nạn tương tàn tương sát của nhơn-loại nơi mặt địa-cầu nầy mà chớ. Chúng ta nên lấy nhỏ mà đoán lớn, cả một cơ quan phản-trắc làm cho thiên-hạ đảo-huyền đầu trong nước Việt-Nam cũng vậy hay toàn mặt địa-cầu nầy và giữa vạn-quốc cũng vậy, chỉ có hai tiếng mà thôi, tiếng  ”ừ”  và tiếng ”không” . tiếng ừ có thể bảo-tồn toàn nhơn-loại đặng,  nói tiếng không đủ làm cho giặc-giã chiến-tranh, nhơn-loại tự-diệt.

Hỏi cái miệng lưỡi của toàn nòi giống Việt-Nam nầy có thể xin họ tiếng ừ đặng không ? Có chớ ! Con người có cùng nước rồi, bất-kỳ là cơ-quan hành tàng nào, nên hư có mức định của nó. Họ thấy cái hư không lẽ họ không chế-ngự nó.

Nghĩ lộn lại con người bao giờ cũng vậy, không khi nào đặng trọn lành, đặng trọn lành có một mà thôi, là Đức Đại-Từ-Phụ của chúng ta đó vậy. Cả thảy con người trong Càn-Khôn Vũ-trụ nầy không ai trọn lành, Đại-Từ-Phụ cầm cây viết thiêng-liêng vẽ hai chữ trọn lành đặng họ vẽ theo, đồ theo bắt chước theo kiểu vở của Ngài mà lần vào bực trọn lành. Các Đấng thiêng-liêng cầm quyền bảo-vệ vạn-linh nơi cung Hiệp-thiên hành-hóa, nói tới chúng ta tưởng-tượng họ được trọn lành. Tỷ thí lộn lại với Đại-Từ-Phụ vẫn có một, chúng ta đây cũng vậy, làm là học-đòi theo Chí-Tôn, bắt chước theo Ngài đồ theo kiểu vở của Ngài tưởng đâu chẳng phải trọn đặng, nhưng chúng ta cố tâm vẽ thử sẽ hay. Các cơ-quan chánh-trị đạo nong-nả để tâm suy-gẫm kiếm trong phương-pháp học đòi theo, vẽ theo, đặng xem thật hư mà quyết-định, vẽ theo cho ra tướng trọn lành của chúng ta , nếu chúng ta vẽ được chúng ta sẽ cứu thế.

Ngài thấy tinh-thần trọn-lành ấy coi có tồn-tại hiện hữu ma định thế giải nguy, giải-quyết đặng bảo-tồn sanh-mạng của vạn-linh, nhứt là nhơn-loại.

Chúng ta đồ đặng chăng ? Theo tầm khuôn-khổ đạo-giáo của Đức Chí-Tôn mà lập thành thì đặng cái sở-vọng của chúng ta, điều làm đặng duy chúng ta cần-cù mài-miệt cố gắng thì sẽ làm đặng.

Hại thay ! nếu không trọn lành ấy, Đức Chí-Tôn để quyền nơi tay của nhơn-loại. Trong thời-kỳ nguyên-tử nầy, nếu có con người điên kia cầm trái bom nguyên-tử liệng xuống đất cũng có thể giết tất cả sanh-mạng con người. Duy có thằng điên kia mới làm nổ trái bom nguyên-tử  nơi mặt địa-cầu nầy để tiêu diệt cả nhơn-loại mà thôi.

Phải trọn lành, trọn lành bảo-vệ sanh-mạng của vạn-linh. Như là sanh-mạng của nhơn-loại. Nhưng tinh-thần của nhơn-loại đã đạt đến địa-điểm đạo-giáo, nên Chí-Tôn giao mạng sống và mạng chết nơi tay của họ, họ có quyền sanh hay sát, cũng do họ. Đức Chí-Tôn đã giao trong tay họ quyền đặc-biệt ấy. Họ phải khôn-ngoan, hiển-hách chí linh cũng như chí-linh kia họ mới bảo-vệ sanh-mạng của họ đặng.

Nếu họ còn mờ ám không biết vi chủ cả sanh-mạng mình thì cơ-quan tự diệt họ trong năm đầu ngón tay của họ. Hỏi vậy bí-mật thiêng-liêng kia đã để cho họ đạt đến Tiên, Phật vị, hình ảnh tối thượng tối cao kia phải chiếu ảnh ra chiếu tướng của nó đã đạt đặng. Trong vạn-quốc nắm được báu vô giá là nguyên tử, thay vì để cho nó được trường-sanh bất tử, mà trái ngược lộn lại là món tận diệt với nhau.

Bí-pháp tiên-gia nắm trong tay, mà mặt luật vô đối kia họ thi hành không đúng, tâm đức của họ không lập Phật vị cho họ, thì cả vạn pháp cả tinh-thần trí-não vô biên của họ sẽ biến làm một ngọn gươm bén đặng tiêu-diệt lại họ mà chớ.

Họ đã đặng hình Chí-Tôn để cho họ đạt đặng vạn-pháp tiên-gia hiện tướng ra nơi mặt thế nầy. Nhơn-loại đã nắm vạn-pháp tiên-gia, làm chủ sanh tử của mình. Nếu họ không thể đạt Phật vị của họ thì họ sẽ tự diệt lại họ mà chớ.

Bần-Đạo tưởng Chí-Tôn đến cứu thế, dám chắc chưa đến đó. Phải có một giải pháp. Ngài đến hiệp cả giải-pháp mà chúng ta tạo chưa nên hình.

Giải-pháp cứu thế là giải-pháp của đạo mà có. Chúng ta có thể tạo ra giải-pháp đặng cứu thế. Nếu đặng hay chăng là do nơi tâm đức của toàn con cái của Ngài trong cửa đạo nầy đó vậy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 8 tháng Giêng năm Kỷ-Sửu (1949)

 NHƠN-LOẠI PHẢI TÌM

 PHƯƠNG THUỐC TRƯỜNG SANH LÀ LUẬT THƯƠNG YÊU

Ngày nay là ngày Lễ vía Đức-Từ-Phụ tức nhiên là Đức Chí-Tôn đó vậy.

Ta thử xét 24 năm đạo Cao-Đài đã mở, mở do nơi tay ai ? Do chính tay của Đại-Từ-Phụ đến mở đó vậy. Nếu chúng ta nói rằng : Trót 24 năm Đức Cha Lành của chúng ta đã chung sống với chúng ta, tôi tưởng nếu chúng ta tưởng-tượng việc ấy cũng không quá đáng.

Thử nghĩ cái hạnh-phúc mà chúng ta đã hưởng đặc-ân của Đức Cha Lành ấy. Chúng ta xét lại coi Ngài đến chung lộn với chúng ta để làm gì ? Bần-Đạo tưởng cả thảy con-cái của Ngài đều phải hiểu và quyết đoán đặng.

Ngài đến với một lời hứa hẹn rất thiết-yếu, mà chính Ngài đến đặng chuyển pháp xây cơ chuyển thế Ngài đã hứa quả quyết nhơn-loại sẽ là một ; một về loài giống, một về xã-hội, một về Tôn-giáo. Lời hứa hẹn ấy nếu chúng ta không có đủ đức-tin vững-vàng, hay chúng ta không quyết chắc cái tay quyền-năng vô biên ấy có thể làm đặng, một người nào, một đấng nào dám cả gan nói điều ấy. Chúng ta dám chắc cả thảy đều để dấu hỏi nghi-hoặc. Nếu chúng ta nghi thì chúng ta phải kiếm thôi.

Bây giờ cả con-cái của Ngài xin lỗi với Đức Cha Lành, rồi làm khách bàng-quang tính thử cái lời ấy có kết-quả chăng ? Chúng ta đã ngó thấy và dám chắc biết rằng, không có một vật loại nào, một tinh-thần nào mà gầy dựng một cơ-quan hữu-hình trong Càn-Khôn Vũ-trụ mà ra ngoài quyền-lực của vài điều ấy. Chúng ta đã chán biết, chúng ta bất quá là xin lỗi Ngài đặng làm kẻ phàm kia xét đoán thử coi Ông Trời nói vậy mà có thể làm đặng chăng cho biết. Làm bàng-quang lấy lý trí đoán thử coi lời hứa rất khó-khăn, lời hứa rất trọng-yếu, trong buổi nhơn-loại đang hoang-mang, dở sống dở chết, có thể chúng ta cũng nên tọc-mạch kiếm-hiểu thử coi, cả cơ-quan chuyển thế ấy quả nhiên đặng, tức nhiên nó có ảnh hưởng tối-yếu, tối-trọng của cơ huyền-vi bí-mật cứu-khổ của Đức Chí-Tôn đó vậy.

Lạ chi chúng ta vạn-vật hữu-hình từ trong vật loại côn-trùng thảo-mộc. Cả thảy chúng ta không luận về toàn thể của nó, dầu cho các phần-tử trong vạn loại ấy nó có quyền năng tinh-thần đặc-biệt của nó. Chúng ta thử đoán xét một vật vô tri, vô giác, có thể chúng ta tưởng-tượng vật vô hồn vô giác là đá kia mà nó cũng còn có giá-trị. Thứ đá có ngọc, ngọc có thể định giá-trị đặc-biệt trong tông-môn. Ngọc đó là chúa của đá. Chúa của đá ấy để làm gì ? Để làm giá-trị của đá, để định giá trị của đá.

Bây giờ nói đến loài kim-khí kể từ chì, kẻm, sắt, dĩ chi cho tới bạc, vàng, cũng có vàng là chúa của kim-khí và có giá-trị đặc-biệt đặng định giá-trị của kim-khí.

Trong vạn-vật. Bần-Đạo không cần nói nhiều, dầu cho loài người loài thú cũng thế. Thấy trong ổ kiến, ổ mối, hay ổ ong kia, chúng ta cũng ngó thấy có con chúa, cả thảy đều phải tuân theo con chúa ấy, nó có quyền-năng tuyệt-đối đặng định mạng của nó, vi chủ mạng sống của nó, nó làm chủ xã-hội nó, đặng nó định giá-trị của loài ong, loài kiến.

Luận tới loài người, chúng ta thấy toàn-thể xã-hội sự chê khen, nào là từ bỏ vương quyền, đế quyền, thì nhơn-loại cũng phải chịu dưới quyền thông-trị nào mới tồn tại được.

Nếu gọi dân trị, thì để thiệt dân đi đánh đổ giai cấp như thuyết cộng-sản thì cả thảy là dân đi, lập trường-quan lại mà làm chi ? Thành thử  đánh đổ giai-cấp là thuyết quái-gở, lý-thuyết dở sống dở chết. Chúng ta ngó lộn lại dầu cho Quốc-gia xu-hướng về dân-trị đi nữa, thì các vị Giám-Quốc hay các vị Thủ-hiến quyền áp-bức của họ còn hơn đế-vương mà chớ, bất quá thêm duyên, thêm tánh làm cho thiên-hạ tin mình đó là lòe con mắt thiên-hạ, không có chánh lý, sự thật là gì hết.

Bây giờ trong xã hội nầy, chúng ta ngó thấy đảo-lộn hai quyền-hành khác nhau, đương tranh quyết nhau là quyền-hành đế chủ và dân chủ.

Nếu chúng ta thấy đầu óc suy-đoán thì hai cái như một, không cái nào hơn cái nào, cũng như một hình bóng, một khuôn-khổ với nhau, lấy công lý lóc con mắt của cơ-quan trị-thế. Dầu cho là đế-quyền hay là dân quyền cũng là một phương-pháp áp-bức thiên-hạ mà thôi. Bởi cân công chánh nơi mặt thế nầy không có. Nếu có thì Đức Chí-Tôn không đến kỳ hòa ước với nhơn-sanh. Luật thương-yêu mới có cân công-chánh mà thôi thành thử chơn luật nơi mặt thế-gian nầy cũng không có.

Aáy vậy, hiện giờ nhơn-loại đang kiếm gì ? kiếm cân công-chánh, kiếm luật thương-yêu, kiếm ở đâu ? Luật thương-yêu ấy Chí-Tôn đã ban-bố mà nhơn-loại chưa tìm được. Nhơn-loại đương khao-khát mà chớ. Quyền công-chánh thì do nơi nấy không có, dầu trong tay đế-quyền, hay dân-quyền cũng không có.

Đức Chí-Tôn Ngài đến do tay Ngài ký một hòa-ước với một sắc dân nô-lệ, sắc dân hèn mọn, đặng Ngài nài-nĩ xin cho đặng hai điều trọng-yếu làm cho nhơn-loại đặng sống tồn-tại là luật thương-yêu và quyền công-chánh.

Ngài đã ký, Ngài đã hứa với Thánh-Thể Ngài, tức nhiên là cả quốc-dân nầy đặng tạo ra hình-ảnh luật thương-yêu. Nếu cả quốc-dân Việt-Nam lấy quyền công-chánh làm thành tướng ra, rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm một thuốc cứu sanh-mạng của nhơn-loại đó vậy.

Bần-Đạo và toàn con-cái của Ngài nhờ phương thuốc của Ngài mà tạo ra cửa đạo Cao-Đài đó vậy. Giờ phút nầy phải thật-hành không thế gì không thành. Mà nó sẽ thành hình trong nầy thì chúng ta ngó thấy ở ngoài toàn cầu, vạn-quốc đều thay hình, đổi dạng, đổi cả chơn tướng của nó cho phù hạp và đủ phương thế thọ hưởng hườn thuốc cứu sanh của Ngài. Tức nhiên toàn cầu xu-hướng, làm cho nhơn-loại thống-nhứt lại làm một, chúng ta ngó thấy bằng cớ rõ-ràng trận giặc thứ nhứt cả vạn-quốc đều xúm nhau đặt Hội Vạn-Quốc Liên-Minh, rồi trận giặc thứ nhì nầy, vạn-quốc cũng chưa bỏ nó và còn kiếm phương thế tăng-cường nó nữa. Hỏi vậy, Vạn-quốc Liên-minh là gì ? Là cơ-quan hiệp chung nhơn-loại làm một vậy.

Đức Chí-Tôn nói :

“Nhơn-loại sẽ một về nòi-giống, một xã-hội, một về Tôn-giáo”, tôi tưởng không xa đó vậy. Tại sao Đức Chí-Tôn phải làm phương thuốc ấy đặng chi ? Đặng chưa cho họ uống, đặng họ phục sanh lại, không họ sẽ đi đến con đường diệt-vong của họ vậy

 

Tại Đền-Thánh Đêm 14 tháng Giêng năm Kỷ-Sửu (1949)

 LONG-HOA HỘI LÀ GÌ ?

Nay đã ngày rằm Thượng-Nguơn năm Kỷ-Sửu. Vậy Bần-Đạo nhắc lại cho toàn cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn và toàn con-cái của Ngài nhớ rằng : Bần-Đạo xin thuyết minh, gần mãn Hạ-Nguơn tam chuyển, khởi đầu Thượng-Nguơn tứ chuyển, mỗi một Nguơn, là 12 ngàn năm, 30 ngàn năm của đệ-tam chuyển. Vì cớ cho nên kinh Phật, sấm truyền của nhà Phật hay là Thánh-Giáo của Gia-Tô đã tiên-tri rằng : Mãn tam-chuyển tức nhiên của Thượng-Nguơn tứ-chuyển sẽ có Long-Hoa-Hội. Hay theo Thánh-Giáo Gia-Tô đã nói rằng: Có một thời kỳ xử đoán cuối cùng của Đức Chí-Tôn nơi mằt địa-cầu 68 nầy.

Long-Hoa-Hội là gì ? Long-Hoa-Hội là một ngày, một buổi khảo lựa của toàn thể các chơn hồn dầu quỉ-vị hay là trong thần-vị cũng vậy, định khoa-mục của mình đặng lập vị thiêng-liêng.

Chúng ta hiểu rằng : mỗi chuyển tức nhiên là mỗi khoa-mục, hễ cuối một chuyển tức nhiên Hạ-Nguơn là ngày định vị của các đảng linh-hồn. Thánh-Giáo Gia-Tô đã nói rằng : Ngày xét đoán cuối cùng (Jugement Général) mà kỳ thật là ngày định vị cho các chư Phật đó vậy.

Bởi thế cho nên trong kinh của Đức Phật-Mẫu có nói : khoa-mục của thiên-vị lập vị của mình là kỳ Long-Hoa-Hội nầy, chúng ta đã chán biết thế thường hễ mình học, dầu giỏi hay dở mà tới ngày thi, tức nhiên là ngày điểm bài vở của chúng ta, dầu cho biết chắc mình đủ tài khoa-mục, có đủ phần phước đâu đặng, nhưng bây giờ cũng lo ngại hồi-hộp mà thôi.

Toàn thể chúng sanh tức nhiên nhơn-loại trên mặt địa-cầu nầy, giờ phút nầy tinh-thần họ chẳng khác gì một cá-nhân kia vậy, họ phải lo sợ hồi-hộp, không biết định phận đậu rớt thế nào và trong khoa-mục ấy chúng ta có đậu hay chăng, chúng ta đã ngó thấy thiên-hạ lo sợ hồi-hộp, mà không lo sợ cái gì ?

Ôi ! còn một trường náo-nhiệt chúng ta đã ngó thấy một cảnh tương-tàn tương-sát, giặc-giã chiến-tranh, thiên-tai, nghiệt-chướng, nhưng có cuộc ấy chăng ? Có chi lạ hơn là trát đòi hầu của Tòa thiêng-liêng kia vậy.

Một cái quả kiếp nhơn-loại dầu ở Á-Đông hay Aâu-Châu cũng vậy, nếu chúng ta để tâm nghiên-cứu, quan-sát tận-tường chúng ta ngó thấy cả hình luật quả kiếp luân hồi quyền-năng vô-đối của cảnh thiêng-liêng hằng-sống.

Quyền thiêng-liêng hằng-sống đã cầm quyền như mặt Càn-Khôn Vũ-trụ kia, chúng ta không mảy-may gì sợ rớt không mảy-may gì bất công, giờ phút nầy chúng ta thấy ở Aâu-Châu sanh ra một trường biến-loạn náo-nhiệt, chưa biết có tránh khỏi trận giặc thứ ba nầy chăng ? Rồi chúng ta xem lại lịch-sử nhơn-loại mà chúng ta thấy quả-quyết họ trả quả báo một cách chánh đáng, kiếm lại coi đất Aâu-Châu là nòi giống Aria là nòi giống của Aán-Độ đã chiếm-đoạt toàn-diện. Dân bổn xứ, đoạt cả nước của người ta, sát hại không biết bao nhiêu sanh mạng, tấn tuồng có vay thì phải có trả. Giờ phút mà xử-đoán cuối cùng nầy, họ phải trả quả kiếp ấy, đặng định phận họ mới đặng. Tuy chúng ta đã ngó thấy, đừng ngó đâu xa, nước Việt-Nam chúng ta đây cũng thế, bởi ngày định xử cuối cùng không sót một án-tiết nào hết, phải trả mà thôi, trả đặng định phận cho nhơn-loại mới được.

Nếu không trả vốn lời nhơn-loại không định phận được, thì tấn tuồng quỉ-vị, Phật-Vị bất công kia không phương gì định vị cho các đẳng chơn-hồn, mà chính cửa thiêng-liêng hằng-sống muốn cho có một mực thước, chánh đáng tức nhiên phải xử, phải xử án cuối cùng mới được.

Nước Việt-Nam ta đương tương-tàn, tương-sát, có lạ chi hơn là tiền án Tây Sơn đối với nhà vua, cái trậân đó mà Tây Sơn thế nào thì tấn tuồng ấy phải vay trả đến ngày nay. Có trả chớ nếu không trả thì nợ ấy, vẫn còn không thể gì định vị cho nước Việt-Nam nầy đặng.

Chúng ta chỉ mừng có một điều là : chúng ta thấy trả nợ đặng, có thể trả nợ đặng là chúng ta thấy nợ giàu sang vinh-hiển đến trước mắt chúng ta. Chúng ta thấy trước kia hễ trả xong mối nợ tức nhiên là cái vinh-quang giàu có sang-trọng đứng trước mắt chúng ta kia, sự đó ngó thấy rồi bất quá là Đức Chí-Tôn để cho chúng ta gội rửa cho sạch quả kiếp đặng Ngài tạo địa-vị quí trọng một địa-vị vô đối Ngài dành để cho nòi-giống Việt-Nam mà thôi.

Hạ-Nguơn phải chuyển Thượng-Nguơn, Thượng-Nguơn là gì ? Tức nhiên là Xuân-Nguơn chúng ta đang ngưỡng-vọng.

Ngày nay giờ phút nầy cái Xuân-Nguơn cả toàn nhơn-loại nhứt là nòi-giống của chúng ta đã tôn-sùng mà trước đã chịu ảnh-hưởng từ thượng-cổ đến giờ thế nào, thì tôi tượng hình bóng một quyền-năng vô-đoán của cơ tứ chuyển.

Nay qua thượng-nguơn đây có lẽ lập vị cho một sắc dân mà Đức Chí-Tôn đã dành để làm con tin của Ngài là  kẻ đồng bước của Ngài, đặng dìu dắt cả toàn nhơn-loại đi đến con đường hạnh-phúc vô-đối đó vậy. Cũng như Đức Chí-Tôn dành để ngôi vị cho nước Việt-nam ngày nay vậy. Aáy vậy chúng ta đoan rằng: Trong thượng xuân-nguơn năm Kỷ-sửu nầy chắc hẳn rằng: nó sẽ đem lại cho nòi giống Việt-nam một hạnh-phúc mà chúng ta không thể tưởng-tượng được,

 

Đền Thánh đêm 23 tháng giêng năm Kỷ-sửu (1949)

ĐẠO CAO-ĐÀI HY-SINH VÌ CHỦ-NGHĨ

Ngày mai nầy, Bần Đạo phải xuống Sài-thành một phen nữa, đặng giải-quyết một vấn-đề trọng-yếu là chấm-dứt cuộc đỏ máu Việt Pháp.

Một nền tôn-giáo mà chúng ta theo đây phải có tinh-thần ddawc-biệt của nó, mà chỉ có tinh-thần ấy mới đủ oai quyền đảm-nhiệm trách-vụ nặng-nề của nó mà thôi. Bần-Đạo đã nói rằng: nó đem cơ-quan cứu thế để tại mặt thế nầy duy sở-vọng của Bần-Đạo định nó phải có phương-pháp để chứng tỏ rằng nó đủ quyền-năng cứu thế, thì nó mới có giá-trị và lý-do tồn-tại. Bằng chẳng vậy, thì Đạo Cao-Đài bất-quá là một thuyết mộng-ảo mà thôi;

Có lẽ toàn cả con-cái Đức Chí-Tôn cũng còn nhớ, cái ngày mà Bần-Đạo ở Hải-Đảo trở về đây sau năm năm bị đồ-lưu nơi hải-ngoại, mới bước chân về nước thì Bần-Đạo đã thấy cơ thảm-loạn, xã-tắc đảo-huyền nhà vua bị cưởng-bức mà phải thoái-vị, bỏ cả đại-nghiệp 4.000 năm của tổ-tiên để lại.

Thảm thay ! Khi Bần-Đạo vắng mặt toàn cả con-cái Chi-Tôn hy-sinh tính-mạng, vì Đạo, vì Đời mà phải tuyệt-mạng. Cả một đoàn hậu tấn trung quân ái quốc , vì hiếu với Chí-Tôn, vì trung với Hội-Thánh hy-sinh cả xương máu mà tranh-thủ độc-lập lại cho nước nhà thành-tựu, đáng lẽ cái cơ-thể do sự hy-sinh đó mà đoạt được  thì phải tồn-tại để nơi tay chúng nó hưởng mãi mãi sự hạnh-phúc ấy mới đáng chớ ! Nhưng mà hại thay ! Vừa tạo thành thì vừa bị đoạt lại làm cho mất cả lập-trường, làm cho con cái Chí-Tôn phải chịu dưới ách nô-lệ lại một phen nữa, mà sự tai hại ấy do bởi đâu ? Ai ai cũng đều dư hiểu. Như thế mà nước Việt-nam lai còn phải mang một cái ơn trọng của nước Pháp trước mặt quốc-tế và quốc-tế cũng đã nhìn nhận rằng nước Pháp hy-sinh mạng sống nơi đất Việt-nam nầy để giải ách cọng-sản cho nước nhà ta. Ôi ! Nếu các bạn có đọc báo Pháp-văn thì các bạn đã thấy bài ai-điếu của quan Tổng-trưởng Pháp-quốc hải-ngoại rằng họ đem con cái của họ hy-sinh tánh-mạng đặng giải ách cho đất nước Việt-nam ta, cho nòi giống Việt-nam ta. Dầu thiệt dầu không mà toàn cầu đều nghe cái đại-nghĩa của nước Pháp đã làm đối với nước Việt-nam ta vậy.

Các bạn cũng biết rằng một nền tôn-giáo tượng-trưng hồn nước Việt-nam buổi nầy , đã được địa-vị trong tâm-hồn của toàn thiên-hạ ở địa-cầu 68 nầy mà duy có một vị đại-diện của tôn-giáo ấy là Bần-Đạo đây, nên buộc phải chịu một phen thử thách đáo-để , Bần-Đạo suy nghĩ nếu Bần-Đạo không đủ đạo-đức đặng cứu vãn tình-thế nguy-ngập , thì ít nữa Bần-Đạo cũng phải có phương chi chớ chẳng lẽ khoanh tay ngồi ngó cái tai nạn gớm ghê của nhân-loại . Vì lẽ ấy mà Bần-Đạo phải buộc mình áp-dụng phương-pháp thọ khổ nhục đặng day-trở theo thời cuộc mà cứu vãn tình thế và cũng vì lẽ ấy mà Bần-Đạo phải nghe theo đoàn hậu tấn, tận-trung báno-quốc là để cho chúng nó hy-sinh vì chủ-nghĩa.

Nay thời kỳ ấy đã qua nên Bần-Đạo thú-thật, Bần-Đạo nhất định hưu-chiến đôi bên Việt cũng như Pháp không ai có quyền nào giết lẫn nhau nữa.

Bần-Đạo quyết định hưu-chiến và Bần-Đạo quyết định theo sở hành của mình cho đến cùng, dầu là đôi bên không nghe, Bần-Đạo cũng dám đem sanh mạng của Bần-Đạo mà đổi chọn cho đặng chấm-dứt tai-nạn tàn-sát giữa đôi bên Việt và Pháp.

Từ đây Bần-Đạo tuyên-bố tranh-đấu cho cuộc đổ máu ấy phải dứt tuyệt, nhứt định không cho đổ máu nữa.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 18 tháng 2 năm Kỷ-Sửu (1949)

(Vía QUAN-ÂM BỒ TÁT)

 ĐỨC QUAN-ÂM THỂ HIỆN CHO

TỪ-HÒA VÀ NHẪN-NẠI

Hôm nay là ngày Vía Đức Quan-Aâm Bồ-Tát, Bần-Đạo đã thường nói nơi cửa thiêng-liêng hằng-sống, Đức Quan-Âm Bồ-Tát là một Đấng ở trong gia-tộc sang trọng oai quyền hơn hết. Cái nguyên căn của Đức Quan-Âm Bồ-Tát do nơi pháp-thân của Từ-Hàng sản-xuất. Quan-Aâm đến thời đó chỉ rõ cho chúng ta biết nguyên-căn của mình, Quan-Aâm là cái thời gian của luật tạo Càn-Khôn thế-giới, ấy là một chơn-linh rất cao trọng đó vậy, cũng như Đức Lý-Thái-Bạch là một chơn-linh của ánh sáng. Hào-Quang Thái-Cực khi đã hiện ra tức nhiên là Đức Lý-Giáo-Tông.

Đức Quan-Âm Bồ-Tát đã cầm quyền Nhứt trấn Oai-nghiêm chẳng cần luận-thuyết, cả thảy cùng đều biết cái quyền oai của Ngài vĩ-đại như thế nầy, nhứt là phái nữ nên để ý bài giảng nầy cho lắm. Vả chăng, thời gian chúng ta, sẽ nói thời gian mà thôi, chúng ta phải kiên nhẫn và từ-hòa, nếu chúng ta hấp-tấp hay lật-đật, thì chẳng hề khi nào chúng ta để thời gian đến trước mặt chúng ta đặng.

Chơn-linh của Người tức nhiên thể tánh của Người, chứng tỏ rằng : một Đấng đã có 25 kiếp ở trong trái địa-cầu 68 nầy, và có đảm nhận trọng-trách lớn-lao hơn hết, là buổi trái địa-cầu nầy nó chưa có thoát xác của nó, là nó đầu kiếp lụng lại cho tới đệ tứ chuyển ngày nay. Đức Quan-Âm Bồ-Tát đã cầm quyền điều-khiển trong Càn-Khôn Vũ-trụ nầy từ thử đến giờ đã 25 kiếp.

Ngài đã đầu thai thế-gian nầy mấy kiếp, vì có tánh đức từ-hòa và tinh-thần đạo-pháp mà thôi, tỷ như Bạch-Vân Hòa-Thượng, Bạch-Vân là ai ? Bạch-Vân là Ngài, ngày nay Ngài ở trong cửa đạo, trong một cơ-quan trọng-yếu của Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy.

Bạch-Vân Hòa-Thượng kiếp trước là Đức Quan-Âm Bồ-Tát đầu kiếp ở bên nước Tàu trước, rồi mới đầu kiếp ở bên xứ Việt-Nam, ta kêu là Thanh-Sơn Đạo-Sĩ tức-nhiên là Trạng-Trình đó vậy, Thanh-Sơn Đao-sĩ dầu kiếp bên Pháp là Ralagode Bourgall, 52 kiếp có một kiếp trọng-hệ có thâm tình với nòi-giống Việt-Nam ta hơn hết, chúng ta có hanh-phúc lắm, mới được Ngài đầu kiếp ở trong nước hai lần, lần thứ nhứt đầu kiếp làm người đàn bà tức nhiên Thị-Kính, chúng ta đã biết Quan-Aâm là ai rồi. Bởi vậy cho nên buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ nầy Đức Chí-Tôn đã chọn lựa một Đấng cao trọng cho đến mặt địa-cầu 68 nầy, có lẽ chúng ta đều biết danh Ngài hết, nhứt là Ngài lựa một đấng có thâm tình với nòi-giống chúng ta hơn hết, cái tánh đức từ-hòa yêu-ái của Ngài, chúng ta đừng kiếm Đức Quan-Âm đâu xa hơn là Thị-Kính. Kiếm cái đức Thị-Kính thế nào, thì tánh đức trạng-thái của Quan-Aâm như thế ấy, tánh đức của Ngài là từ-hòa nhẫn-nhục, hiền-lương, ân-tha mọi điều oan-khúc, chịu nổi thắng nổi thời-gian là Đức Quan-Aâm. Đức Quan-Aâm Chơn-linh của Ngài là thời gian cho nên tánh đức của Ngài không bao giờ thối tâm ngã lòng hay bật-rật, gấp-rút, lật-đật. Bà là người điềm tỉnh, bởi thế cho nên Bà đầu kiếp người ta vu-oan đủ mọi điều, nhưng tánh đức từ-hòa nhẫn-nại của Bà vẫn chịu nổi đủ phương diện khổ-não và oan-khúc, chịu nối thế tình ấy là một vị Trạng-Sư đắc lức và oai-quyền nơi cảnh thiêng-liêng hằng-sống bảo-vệ cả nữ phái vậy. Chúng ta lấy làm hanh-phúc lắm Bần-Đạo lấy làm mơ-vọng và Bần-Đạo nói quả-quyết rằng : rất hanh-phúc cho chơn-linh kẻ nào được gia-tộc của Ngài, gia-tộc vinh-hiển tối cao tối trọng trên cửa thiêng-liêng hằng-sống, dầu bên cửa Thiên-Oai hay là bên Cực-Lạc thế giới cũng thế.

Bần-Đạo nói quả-quyết rằng : Ngài là một Đấng Phật-Mẫu yêu-ái hơn hết, tôn-trọng hơn hết.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 27 tháng 2 năm Kỷ-Sửu (1949

TÔN-GIÁO VÀ ĐẢNG-PHÁI

PHÂN BIỆT NHAU THẾ NÀO ?

Nước nhà nòi-giống của Việt-Nam ta sẽ tới một giai đoạn trọng-yếu là giai đoạn định-quyết vận-mạng của nó, cho nên đêm nay Bần-Đạo đình nghỉ giảng cuộc giục tấn trên đường thiêng-liêng hằng-sống, đặng giảng về Tôn-giáo và Đảng-Phái phân biệt nhau thế nào.

Bần-Đạo đã thấy sự ơ-thờ của toàn thể Quốc-Dân Việt-Nam trong thời buổi nầy, sự ơ-thờ ấy làm cho tâm thần hoang-mang không chủ-định đặng quyết hẳn hành-tàng của chúng ta, đối với nòi-giống nước nhà, hoang-mang không biết giá-trị của nền Tôn-Giáo và giá-trị của Đảng-Phái ra sao, đặng định giá-trị của mỗi cơ-quan, ta phải nhận xét cho tận tường phân biệt, trọng khinh thì mới có định-quyết giá-trị của nó đặng.

Buổi xưa kia mấy ông thấy ông mấy bà cao kỷ-trưởng, họ mua một cái võng họ đếm võng mấy con, mua hàng họ quan-sát kỹ-lưỡng đếm từ sợi, coi mình gì, hàng hay the hay lãnh, xem-xét một cách dè-dặt rồi mới mua, còn buổi sau nầy con người thờ-ơ, không tìm tòi giá-trị của nhơn vật hình tướng, có lạ chi đâu một nền Tôn-Giáo nó đặc-biệt, khác hẳn với Đảng-Phái, ta thấy hai hình-tượng khác nhau Tôn-Giáo là tinh thần của nhơn-loại, trên mặt địa-cầu nầy chủ hướng định thân mình vào cơ-quan giải khổ cho mình, do nơi tinh-thần của nhơn-loại, nó đòi hỏi sự thiếu-thốn của nó, mới sản-xuất ra nền Tôn-Giáo.

Tỷ như bên Aâu-Châu buổi Đạo Môùise để lại cho dân Hébreux là dân Do-Thái ngày nay, trải qua mấy thế-kỷ mới bày ra các Đảng-Phái khác nhau, các Đảng-Phái ấy phân chia bốn năm Chi-phái làm loạn-lạc tinh-thần của Quốc-Dân. Tinh-thần của Quốc-Dân mà không thống nhứt được, tức nhiên sanh loạn cho cơ thể hữu-hình của nền chánh-trị, do đó sắc dân cầm đầu tinh-thần đã loạn, thành ra tinh-thần của các sắc dân ở Aâu-Châu cũng loạn hết, rồi họ tìm-tòi tìm lời tiên tri nói rằng : Sẽ có Đấng cứu thế đến, họ trông đợi, họ đòi hỏi cho đến ngày có Đức Chúa Jésus Christ đến làm chủ tinh-thần họ.

Cũng như bên Aán-Độ nền Tôn-Giáo tối cổ chia ra nhiều Đảng-Phái, lát nữa Bần-Đạo sẽ tỏ tại sao Tôn-Giáo lại chia ra Đảng-Phái. Bởi chia ra nhiều Đảng-Phái cho nên các sắc dân Aán-Độ là nước đã nắm chủ-quyền tinh-thần đạo-đức buổi nọ, tinh-thần chia nhiều Đảng-Phái thì xã-hội chia nhiều đẳng cấp, làm cho thống khổ nhơn-sanh chẳng biết bao nhiêu, dân một nước mà coi như thù nghịch, ngày giờ nầy ta thấy đám dân Intouchables nghĩa bất khả dụng chạm vẫn còn làm cho xã-hội Aán-Độ khổ chẳng biết bao nhiêu, rồi họ tìm tòi lời tiên-tri nói sẽ có Phật đến, có nhiều kẻ tu hành họ trông đợi, họ hối hả, họ giục thúc, có người thì đứng một chơn đến cả đời, kẻ thì trồng chuối ngược, người khác nằm trên chông gai, đặng đợi Phật đến họ mới thôi hành xác, họ đợi thì sẽ có Đấng đến lập Tôn-Giáo.

Còn Đạo Cao-Đài ngày nay tại sao mà có ? Bởi vì văn-minh duy-vật tăng-tiến quá sức tưởng-tượng của loài người làm cho cả tinh-thần của loài người phải xu-hướng, tức nhiên họ xu-hướng theo con vật của họ mà  bỏ phận làm người, họ mặc kệ nhơn-sanh, vì lo cho hình-thể nhiều quá, họ sang-trọng sung-sướng không kể tâm hồn ra gì, họ xu-hướng duy-vật, họ phản duy-tâm, làm cho nhơn-loại mất cả phẩm cách, không đáng phận làm con người nữa, cả Vạn-Quốc trên địa-cầu này, nhìn thấy sự nguy-hiểm trên bước đường tương-lai, nên nhơn-loại mơ mộng tìm phương-pháp định phẩm tặng vi chủ vật hình nhục thể của họ. Nhơn-loại mơ-mộng tiềm-tàng, vì đó xuất hiện Tôn-Giáo Cao-Đài ngày nay. Tôn-Giáo là cả tinh-thần của nhơn-loại đòi hỏi mà thành tượng.

Bây giờ nói các Đảng-Phái, nói Đảng-Phái Tôn-Giáo trước, sẽ nói đến Đảng-Phái Quốc-Sự sau, ta thấy các Đảng-Phái của Gia-Tô-Giáo như : Saint Bernardin Jésuites, Dominicaine các Đảng-Phái ấy nương nơi gốc Đạo Thiên-Chúa mà thành-lập, như Đạo Tiên có hai người đặc-sắc trọng-yếu, là hai môn-đệ của Đức Lão-Tử là Dương-Châu, Mặc-Địch. Dương-Châu là chủ-trương thuyết tồn-tâm, còn Mặc-Địch chủ-trương thuyết siêu-phàm. Trong Khổng-Giáo có nhiều thuyết khác nhau, như Khổng-Cấp tức là cháu Khổng Phu-Tử thọ giáo với Ông nội mà nêu ra thuyết trung-dung, còn Mạnh-Tử là học trò của Tử-Tư lại lấy thuyết nhơn-nghĩa làm căn-bản, thành ra hai thuyết hai Đảng-Phái. Đạo Cao-Đài khai sanh đã 24 năm, bởi tinh-thần quá mạnh-mẽ, nên các Đảng-Phái biến tướng rất mau ra đủ thứ, nào là Tiên-Thiên, Ban-Chỉnh-Đạo v.v... người ta thấy ảnh-hưởng của Đạo Cao-Đài mà làm ra các Chi-Phái. Bây giờ nói về các Đảng-Phái Quốc-Sự, nó cũng nương theo Đạo mà ra, các Đảng-Phái chính-trị trong toàn thể nhơn-loại, phần nhiều bên Aâu-Châu chịu ảnh-hưởng của Thiên-Chúa-Gaío mà thành tượng. Cũng như bên Á-Đông nầy, ta thấy các Đảng-Phái, đừng nói chi xa, gần đây ta thấy có Phật-Giáo Hòa-Hão, phái đi tu tại gia ta thấy Minh-Sư, Minh-Đường v.v... đều có ảnh-hưởng của Phật-Giáo mà thành tượng mà ra. Đạo Cao-Đài giờ phút này nó bị 12 phái ở Hậu-Giang hiệp nhứt, ở bưng biền kháng-chiến vì Quốc-Sư đó.

Tình trạng của Chi-Phái khác với Tôn-Giáo, Tôn-Giáo làm mẹ. Chi-Phái là con, do nơi tinh-thần của Tôn-Giáo sản xuất. Bần-Đạo thấy trong cửa Đạo Cao-Đài nầy, con cái Đức Chí-Tôn còn ơ-thờ lắm, để ý coi họ có biết giá-trị của họ không, mà Bần-Đạo lấy làm buồn, thấy họ bỏ mẹ chạy theo con họ còn dốt quá.

Bây giờ nói về Quốc-Gia  đương-nhiên thiên-hạ thấy các Đảng-Phái tương-tranh làm cho loạn-lạc giặc-giả tai-nạn do các Đảng-Phái đem lại đủ thứ, nào Cộng-Sản-Đảng, Việt-Nam Quốc-Dân Đảng, các Đảng-Phái Quốc-Sự càng nhiều làm cho nước nhà thêm biến loạn, Đảng-Phái nào cũng quyết tương-tranh để trong-óc ý nghĩa thâu đoạt lực-lượng làm bá chủ của nước, lại còn có kẻ dám cả gan xưng Vương, xưng Đế, cái mộng đó là cái mộng nhà thương Biên-Hòa đa ! Chúng ta thử tìm coi tại sao họ không định-quyết giá-trị, ai trọng, ai khinh nhà Vua xuất hiện lập nền Vương Đạo đã 4.000 năm, tượng hình đó sản xuất do nơi Đạo, nó là hiện tượng của Nho-Tông của Đạo, nói là Đạo đó chớ, còn Đảng-Phái kia bất quá là Đảng-Phái mà thôi, chỗ nào trọng khinh đã thấy rõ-rệt rồi, dầu cho các Đảng-Phái có tranh Vương quyền của Bảo-Đại, Bần-Đạo dám quả quyết không thể gì họ thắng đặng. Thiên-hạ tưởng Bảo-Đại về đây sẽ loạn.

Bần-Đạo dám chắc rằng : Ngài về đây đứa con nít cũng theo nữa, nếu cả nguyện ước của toàn thể Quốc-Dân mong-mỏi mà Ngài đạt vọng được, Ngài về đây ai cũng theo, bởi giá-trị hai đàng rõ-ràng khác nhau, một bên là do tướng diện của Đạo vi chủ, còn một bên các Đảng tranh quyền đoạt vị, bất quá những tấn tuồng Thái Sư soán Ngôi Vua mà ta thường nghe thấy, rốt cuộc rồi cũng sụp mão, cũng chết, chớ làm gì được, để cho phép họ gây ra hoang-mang thì vô lý quá, thiên kiến quá, phải biết giá-trị mình đặng định-quyết.

Bởi cớ bên nầy ngồi nghe tin vô-tuyến-điện nói Đức Hộ-Pháp đem vấn đề Việt-Nam ra bàn tán hoang mang, Bần-Đạo chỉ cười thầm.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 22 tháng 5 năm Kỷ-Sửu (1949)

 ĐỨC CHƯỞNG-ĐẠO NGUYỆT-TÂM CHƠN-NHƠN

(VICTOR-HUGO)

Đức Victor-Hugo tự xưng là Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn là một Đấng thiêng-liêng tại Quảng-Hàn-Cung. Khi tái kiếp Ngài sanh tại thành Besancon Pháp-Quốc nhằm ngày 26-02-1802, Ngài từ trần tại Paris ngày 22-05-1885, hưởng thọ được 83 tuổi.

Từ buổi Đạo khai tại Tần-Quốc, thì giáng cơ với danh hiệu là Chưởng-Đạo Nguyệt-Tâm. Chưởng-Quyền Hội-Thánh Ngoại-Giáo, Ngài là một nhà thi-sĩ trứ-danh của nước Pháp trong thế-kỷ thứ 19, lúc còn thiếu thời Ngài thường châu-lưu ở nước Italie (Ý Đại-Lợi), ở nước Espagne (Tây-Ban-Nha) kế trở về Paris. Khi lên 10 tuổi thì Ngài đã sẵn có tài thi-văn đến lúc trưởng-thành thì những văn-từ thi phú Ngài làm đều là những tác-phẩm lỗi-lạc hoạt-bát tình-tứ cao thâm, nên trong trường đời Ngài đã nổi danh là thi-bá, đứng đầu trong các bậc kỳ-nhân trong thời buổi ấy. Lần hồi nên tuổi của Ngài đã nêu danh nơi Hàn-Lâm-Viện và Ngài trở nên một Đại Công-Thần danh dự của Pháp-Triều buổi ấy.

Đến sau cuộc cách-mạng 1848 tại nước Pháp. Ngài đắc-cử vào Hạ-Nghị-Viện lớn lao để bảo-tồn nền chánh-trị và Luật-pháp trong nước. Lúc Ngài lãnh trách-nhiệm trọng-yếu ấy, Ngài đã lắm phen trổ tài hùng-biện và binh-vực quyền-lợi cho dân Pháp với những lẽ công-chánh nhứt là sự tự-do. Nước Pháp trong buổi ấy chưa yên, nên cách 3 năm sau ngày 02-12-1851 lại có  cuộc nội biến. Ngài phải buộc lòng từ giã Paris ra Ngoại-Quốc, mãi đến năm 1870 nagỳ 4-9 Ngài mới trở lại trường chánh-trị. Lúc đó Ngài đặng 68 tuổi, từ ấy đến sau Ngài đã đem hết nhiệt-tâm mà chuyên lo cầu-mẫn vì nước vì dân cho đến ngày qui-vị.

Trong kiếp sanh của Ngài rất vinh-diệu cho nước Pháp ngoài những chuyện sử thi-văn kiệt-tác đối với quê-hương dân-tộc Pháp, Ngài còn để dấu trong trường chánh-trị một danh thể bất-thủ. Vì vậy mà khi Ngài qui-vị, đám táng Ngài rất long-trọng, quan-cữu và linh-vị đặng hưởng đặc-ân của nước Pháp để vào Công-Thần-Miếu (Panthéon).

Aáy vậy thật là một vĩ-nhân là một Đại Công-Thần nước Pháp đó vậy. Bần-Đạo cũng nên cho toàn đạo hiểu rồi đừng lầm tưởng chúng ta ngày nay đương tôn-sùng lễ bái kỷ-niệm một vị vĩ-nhân Công-Thần của Pháp như trên đã nói đó là tôn-sùng người Pháp.

Nghĩ vì Ngài cũng có công-trình khai đạo từ sơ khai thọ mạng lịnh Đức Chí-Tôn lãnh quyền Chưởng-Đạo cầm đầu Hội-Thánh Ngoại-Giao. Ngài thường giáng cơ giáo-hóa và phong Thánh cho chư Chức-Sắc Ngoại-Giao, huống chi chúng ta ngày nay cả thảy đều đặng hiểu biết tiền kiếp của Ngài trước kia tái kiếp nước Pháp thì Ngài đã có một kiếp sanh tại nước Việt-Nam là Đức Nguyễn-Du là một nhà Thi-Sĩ, tác-phẩm truyện kim Vân-Kiều mà ngày nay cả thế-giới đều nhận bản tác-phẩm ấy là vô giá, nhứt là chúng ta dân-tộc Việt-Nam càng vinh-hạnh hơn hết.

 

Tại Đền-Thánh Thời-tý, Mồng 5 tháng 6 Kỷ-Sửu (1949)

LUẬT ĐẠO LIÊN-QUAN TỚI LUẬT ĐỜI

Đêm nay Bần-Đạo thuyết Đạo có liên-quan với Thể-Pháp tức nhiên nói rõ luật Đạo có liên-quan với luật Đời.

Ta thấy cơ-quan Tạo-Đoan Càn-Khôn Võ-trụ là cơ-quan của Đức Chí-Tôn đã phụng sự Vạn-Linh về Chơn-Pháp, vậy điều đó Bần-Đạo đã thuyết rồi, thuyết ấy Bần-Đạo nói rằng : đất phải hy-sinh đặng phụng-sự thảo-mộc, nghĩa là phải hy-sinh đặng nuôi cây, cây hy-sinh với thú, tức nuôi thú, mà loài người đứng đầu thú mà thôi.

Vì cớ nên cổ luật buộc nói thú phải hy-sinh phụng-sự cho người, phụng-sự không đi quá mức hy-sinh đặng nuôi người, một lẽ vì lầm hiểu chơn-pháp nhơn-sanh lầm-lạc.

Bây giờ tới mức nữa, người phải hy-sinh phụng-sự cho Trời chắc cả thảy đều nhớ cổ-luật. Thượng-Cổ khi tế Trời thì đem người ra giết, rồi thiêu người như thú vật, tế sống loài người thời-hạn cổ-luật ấy khá lâu đã dùng tế-vật hiến cho Đức Chí-Tôn, nên Bần-Đạo chiếu theo sử thì đã có từ bốn chục nghìn năm, trước pháp-luật ấy thử nghĩ coi số nhơn mạng buổi nọ phải đem ra làm tế-vật đặng tế Đức Chí-Tôn.

Mới đây trước lịch sử  6.000 năm đời Vua Jacob, trước 6.000 năm theo Đạo-luật của dân Hébreux (Do-Thái) luật giết người lúc hy-sinh dâng con người làm của tế Trời, vẫn còn vậy.

Hỏi Đức Chí-Tôn có như vậy chăng ? Đức Chí-Tôn đòi hỏi như vậy chăng ? Bần-Đạo dám chắc, không.

Vì chính mình Ngài tạo Vạn-Linh, phụng-sự cho Vạn-Linh, có lẽ nào cho nhơn-loại lấy sanh mạng làm tế vật đặng tế Ngài bao giờ, ta thấy phụng-sự Vạn-Linh, luật ấy đi từ vật-loại đến nhơn-loại, tức nhiên nhờ ta thấy con ong có một ong chúa phụng-sự, phụng-sự  đến đâu nó làm chúa vẫn có quyền chúa vì cớ nên nhiều phận sự sanh-sản nòi giống duy-nhứt của nó mà thôi.

Như hồi thượng-cổ  trước đây 150.000 năm, loài người cũng vậy, cũng một khuôn-luật vậy, Đạo-pháp còn để lại ta gọi Đấng vi-chủ, các sắc dân tiếng phạn gọi Manu. Hiện giờ con ong con mối Chúa cũng vậy, nó phụng-sự cho cả ổ mối hơn ai hết. Bởi chính mình mối chúa nó phải sản-xuất cả chủng-tộc mối trong ổ đó.

Ta ngó thấy các triều-chính trong xã-hội nhơn quần, lập nền chánh-trị có tương liên với quốc-dân do một khuôn khổ, dân chúng chịu một pháp-luật, luật pháp ấy muốn ai thi hành phải có Triều-chính tức nhiên chính mình nhà Vua phải phụng-sự quần-linh, là phụng-sự  trong quốc-dân vậy. Mà một mình Vua trị toàn thể lê-dân không kham, nên phải lập Triều-chính là từ bực tể-tướng dĩ-chí đến bực Phủ, Huyện, hiệp lại thành Chánh-trị, quốc-gia thay thế hình ảnh của Vua đặng phụng-sự quốc-dân mà thôi.

Ta thấy từ vật-loại như mối chúa, ong chúa, là chúa cả loài mối, chúa của loài ong, phụng-sự của nó cũng phải lập ra có Triều-chính mới cầm phương-pháp để phụng-sự được, còn nhà Vua lập Triều-chính để làm gì ? tức nhiên là biến thân ra muôn, ngàn, triều đặng phụng-sự  cho lê-dân một nước mới được. Bây giờ Đức Chí-Tôn phụng-sự, Ngài phụng-sự cho cả Vạn-Linh toàn thiên-hạ, Ngài phải làm thế nào, Ngài dùng phương-pháp nào, phụng-sự Vạn-Linh nầy, Ngài lấy Vạn-Linh phụng-sự cho Vạn-Linh, Ngài lấy đất nuôi cây, lấy cây nuôi thú, lấy thú nuôi người không lạ gì, lấy thú đặng phụng-sự cho người, Ngài dùng căn-bản ấy đặng phụng-sự . như một Ông Vua lập Triều-Chánh dùng dân phụng-sự cho dân, một khuôn khổ mà thôi, Đức Chí-Tôn ngày giờ nầy đến lập Đạo tức nhiên Ngài muốn phụng-sự nhơn-sanh nơi địa-cầu 68 nầy.

Aáy vậy, ta thấy mối chúa vì phụng-sự loài mối mới làm chúa mối. Con ong chúa vì phụng-sự  loài ong mới làm chúa của ong. Nhà Vua vì phụng-sự quốc-dân mới làm Vua.

Nên Đức Chí-Tôn vì phụng-sự Vạn-Linh mới làm Trời, Ngài lập Triều-chánh là Hội-Thánh tức là Thánh-Thể của Ngài, muốn Thánh-Thể của Ngài đủ quyền phụng-sự chính mình Ngài lập và cho quyền đặc-biệt thành thể Ngài là phần tử của Ngài, tức là Ngài vậy.

Ngài lấy Triều-chánh trên Thiên-Cung thế nào, Ngài lập thánh thể dưới nầy cũng y như thế ấy, như thế ta thấy Thánh-Thể tức nhiên Hội-Thánh có đủ các phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tại thế không phải mơ-mộng. Ngài chỉ dùng công-nghiệp của người mà phải đền trả bồi-thường.

Vậy Đức Chí-Tôn đến cậy nhơn-sanh làm Thánh-Thể của Ngài. Ngài phải bồi-thường, phải trả mắc cho người, người ta mới phụng-sự cho Ngài trả bằng cách đến ký hòa-ước với loài người nhứt là với dân-tộc Việt-Nam nầy trước đã, nếu các người thay thế cho Tôi phụng-sự  con-cái Tôi, Tôi có phụng-sự lập vị Thần, Thánh, Tiên, Phật cho các người chịu không ? Nếu các người chịu làm tôi cho con-cái Tôi, cho vừa sức. Tôi muốn, cho vừa sở ý Tôi định, thì Tôi sẽ trả mắt cho mấy người, vì công ấy Tôi thường lại ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật, tức nhiên Tôi đem đưa cơ-quan giải-thoát nơi tay mấy người, mấy người đạt được nơi thế nầy thế nào, nơi cõi vô hình Tôi cũng không chối cải.

Bởi chính mình Ngài cậy làm tôi-tớ cho con cái Ngài tại thế nầy, Ngài mới đem Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật đưa cho ta.

Nếu chúng ta đạt được, khi trở về cõi hư-linh Chư-Thần, Thánh, Tiên, Phật và Đức Chí-Tôn không hề chối cải mà chẳng có quyền luật nào định cải được phẩm-vị của chúng ta do phụng-sự Vạn-Linh mà lập được tại thế nầy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm Rằm tháng 6 năm Kỷ-Sửu (1949)

CÁI ÁN TỬ-HÌNH BẤT CÔNG CỦA XÃ-HỘI

Nhân đương thuyết về sự tương-khắc của Thế-Đạo và Chơn-Đạo, trong cơ-quan phụng-sự Vạn-Linh, Bần-Đạo ngày nay thừa dịp ấy thuyết về vấn-đề án tử-hình của các xã-hội nhơn-quần đã dùng trị thế với một phương-pháp phi-pháp. Bằng cớ là Đức Chí-Tôn đã phú-thác cho Bần-Đạo đảm nhiệm rất khó-khăn và rất trọng-yếu. Ngài căn-dặn nhiều phen làm thế nào trừ cho được cái án tử-hình, do xã-hội giết người một cách phi-pháp và nơi nào cây cờ đạo trương lên bất kỳ nước nào, xứ nào, phải làm sao cho được bóng cờ ấy trở nên Thánh-Địa, tức nhiên không có quyền-hành nào xâm-phạm nó đặng bảo-vệ sanh-mạng nhơn-loại cả mặt địa-cầu, tưởng lại ta thi-thố có kết-quả cùng chăng tại đó ta đã để một dấu hỏi ?.

Đương nhiên Bần-Đạo thi thố phụng-sự đối với Đức Chí-Tôn để phụng-sự nhơn-loại. Buổi Bần-Đạo ở hải-ngoại về, khi ở Madagascar có quen biết hai người thân-sĩ giống dân Malgache hai vị thân-sĩ ấy vì tội phiến-loạn tức vận-động phục-quốc của họ, bị Pháp triều lên án tử-hình. Bần-đạo đánh điên-văn xin huỷ án tử-hinh ấy, hoặc thay bằng án nào khác hơn là án giết người. May thay ! nước Pháp là nước cầm quyền được văn-minh chiếu-diệu nơi địa-cầu nầy, ai cũng biết, lại là nước đề xướng nhơn-quyền. Ngày nay, Bần-Đạo hữu hạnh thấy vụ án tử-hình ấy được đem xử lại.

Lại nữa, khi Bần-Đạo hội kiến cùng Cựu-Hoàng Bảo-Đại tại Đà-Lạt trước khi về có để lại cho Người một bức cẩm-nang, công việc hành-tàng phục quốc trong bức cẩm-nang, vấn-đề đầu tiên hơn hết là bỏ án tử-hình, và toàn xá các tù-nhơn. Tại sao Đức Chí-Tôn phải căn-dặn Bần-Đạo hủy bỏ án tử-hình, và tranh-đấu đến kỳ-cùng cho kết-liễu điều ấy. Bởi nó phi-pháp không có quyền-năng nào hơn mặt địa-cầu nầy, hay là Càn-Khôn Vũ-trụ đặng làm chúa mạng sống của Vạn-Linh, cả cái chi mình làm vi-chủ nhứt định xài nó. Dùng nó, mình là chủ quyền đặng, cái chi không phải mình vi-chủ mình cướp đoạt là có tội, mạng sanh không phải mình là vi-chủ, Đức Thượng-Đế vi-chủ. Duy Đức Thượng-Đế có quyền định sống chết, ngoài cái quyền của Đức Thượng-Đế tức Đức Chí-Tôn là Đại-Từ-Phụ của chúng ta thì không có quyền nào định chết sống cho ta được, chết sống ấy không phải là mình định được. Lại nữa ta biết con người sanh ra nơi cõi thế nầy có xu hướng :

1.- Là trả quả.

2.- Là học hỏi.

3.- Là lập vị.

Đi đến đặng trả quả tức là làm đầy-tớ cho đời, học hỏi tức là học trò của đời, còn đến lập vị, tức là đến làm học trò khó của đời.

Nếu nói từ thử đến giờ có ông chủ nào có quyền giết đầy-tớ phi-pháp chăng ? không có, dầu cho con vật như con ngựa kia rủi mắc chứng không chịu cỡi, ta cho kéo xe, không kéo xe được ta tập nó cày, chớ không phải nó không được việc gì rồi đem giết. Con người đến thế nầy cũng vậy, làm đầy-tớ trả quả do nơi căn-quả về trí-thức tinh-thần họ không đủ để bảo-vệ thiên-lương của họ, ngoài ra phương-pháp giáo-hóa ấy nhơn-sanh nơi mặt địa-cầu nầy còn có nhiều điều mâu-thuẫn nếu như một người nào không được chí-thiện, chí-nhơn, ta thử hỏi : Ai là người trên mặt địa-cầu nầy dám nói mình là chí-thiện, chí-nhơn chăng ?

Đức Chúa Jésus-Christ tức là Gia-Tô Giáo-Chủ nói : “Nul n’est parfait ici bas seul notre Père au delà des Cieux qui est parfait”. Không ai dưới thế nầy được toàn-mỹ toàn-thiện, chỉ có Đức Cha ta trên Thiên-Cung mà thôi.

Một cơ-quan tại thế nếu nói các chơn-linh, mang xác phàm đặng học hỏi, họ đã học bài gì ở thế-gian, ta chỉ thấy nước nầy tranh sống với nước kia, mạnh hiếp yếu, giàu hiếp nghèo, cả sự bất-công nơi mặt địa-cầu đã dẫy-đầy không phương thế gì giải cho hết trong khi nước mình hơn nước người ta, đưa binh-khí trong tay, xúi giết nhau, quen thói giết rồi, chúng giết người lại đem ra giết chính mình, đem cái giết ra dạy nó làm, rồi trở lại giết nó.

Giờ phút nào chánh-trị nơi mặt địa-cầu biết cung-kính mạng sanh nhơn-loại đồng thể thì đừng dạy nhơn-loại dữ, Thánh-nhơn đã có nói :

- “ Thánh” bất giáo nhi thiện,

- “ Hiền” giáo nhi hậu thiện.

- “ Ngu” giáo diệc bất thiện.

 Rồi hỏi lại: “ Bất giáo nhi thiện phi thánh nhi hà, giáo nhi hậu thiện phi hiền nhi hà, giáo diệc bất thiện phi ngu nhi hà”ø.

Nhơn-sanh nơi mặt địa-cầu nầy vẫn nhiều từng hạng, từng lớp, biểu sao kẻ ngu làm Thần, Thánh được, kẻ dại biết phương-pháp cơ-quan trị thế được, đương-nhiên ta thấy phương-pháp giáo dân  một cách phi-pháp biểu sao không dữ, không tàn-ác nhơn-sanh buổi nầy do ông thầy xã-hội nhơn-quần dạy họ dữ, tới chừng họ dữ, đem họ giết phi-pháp, dạy hiền đi, giờ phút nào dạy hiền mà họ còn dữ chừng đó mới giết họ chớ !

Quái-dị thay ! Đạo Đời vẫn tương khắc điều thiệt hại ấy do họ muốn lập quyền, giành quyền giáo-hóa nhơn-sanh họ cũng ngăn đạo giáo, họ giành quyền giáo-hóa trong tay để họ dạy thiên-hạ dữ, hỏi đem ra mặt công-lý của tòa lương-tâm Đạo kiện Đời thử coi ? Tại sao họ giành quyền dạy người ta dữ !

Giết người ta rồi chừng ấy giữa tòa lương-tâm họ sẽ trả lời thế nào ? Bần-Đạo nói quả-quyết giờ phút nào còn một hơi thở cuối cùng, Bần-Đạo cũng nhứt định chiến-đấu cho tiêu hủy cái án tử-hình của nhơn-loại.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 1 tháng 7 năm Kỷ-Sửu (1949)

 TÒA-THÁNH LÀ TẤM GƯƠNG SOI RỌI ĐỨC-TIN

Đêm  nay cũng khá đông như Bần-Đạo để đợi đôi ba phen coi thử, nếu quả như con cái Đức Chí-Tôn siêng-năng biết lo-liệu học-hỏi đạo-đức. Bần-Đạo sẽ thuyết về bí-pháp, để đợi kỳ giảng nữa coi. Bần-Đạo thuyết về Tòa-Thánh đối với Chi Phái Đạo, và các Đảng-Phái Đời. Chúng ta đã phải đến giai đoạn phải ra gánh-vác đảm-nhiệm trọng-trách đặng nâng đời, đặng dung-hòa Tôn-Giáo, đảm-nhiệm ấy không dễ gì làm, nếu tinh-thần chúng ta không quyết-đoán định phận mình cho quả-quyết, vả chăng Tòa-Thánh là nơi Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, cầm quyền Đạo-Giáo, về mặt Đạo giá-trị của nó thiên-hạ định đặng là do nơi hành-tàng của toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn, tức toàn Thánh-Thể của Ngài vậy.

Bần-Đạo còn nhớ lại buổi mới mở Đạo tại Tây-Ninh nầy, về một lời quả-quyết của Đức Chí-Tôn, đã hứa với chúng-sanh Ngài quyết hẳn rằng : Chi chi cũng tại Tây-Ninh nầy mà thôi, bất kỳ dầu thể-pháp hay là bí-pháp, dầu cả hình-trạng Đạo-Giáo hay tướng-diện của nền Tôn-Giáo của Ngài xuất hiện đều do nơi nầy mà thôi.

Buổi ấy ai cũng phân-vân, Bần-Đạo cũng vậy, mà chắc con-cái Đức Chí-Tôn cũng như Bần-Đạo, buổi nọ nềân chơn-truyền của Chí-Tôn chưa ra thiệt-tướng, bởi xuất-hiện nhằm thời buổi đó, khó mà định hình thể được là vì quyền-đời đương cường-liệt ép bức, về quyền Đạo các nền Tôn-Giáo đương thời đủ năng-lực đủ oai-quyền có thể diệt-tiêu nó đặng mà chớ, lại nữa cả con-cái Ngài buổi nọ không bao nhiêu, Đạo mới mở ra nên còn thiểu số, phần nhiều là những kẻ thường nhơn nghèo khó mấy tay cầm giềng mối Đạo buổi ban-sơ cũng bơ-vơ không biết lập phận mình, chính Bần-Đạo buổi nọ khi nghe Đức Chí-Tôn nói chi-chi cũng tại Tòa-Thánh nầy mà thôi, ngó lại thấy hiện-tượng của Đạo nghèo đến nước không phương thế làm chùa để mượn Từ-Lâm-Tự của nhà Thiền tức của Hòa-Thượng Giác-Hải làm mới nữa chừng họ muốn cho mượn đặng lợi dụng mình làm cho xong, xuất của ra làm, chừng mở Đạo vừa xong quyền Đời quyền Đạo xúm lại đè-nén muốn hạ nhục làm cho rẻ giá-trị, đòi chùa lại, đuổi đi, thật vậy họ đuổi đi phải đi cấp thời, mua được đất Long-Thành ngó lại toàn rừng già thú dữ đầy cọp beo đủ thứ, như thế ấy mà nói cái chi cũng tại Tòa-Thánh Tây-Ninh nầy mà thôi. Nếu buổi ấy ai đức-tin không vững-chắc còn có nước trốn mà đi, một phần đã từ bỏ Đạo vì lẽ ấy, còn những người có đức-tin một chút nói rằng ở coi, coi họ làm sao tương-lai sẽ như thế nào ? Nếu nên thì mình theo, bằng không nên thì đả-đảo rồi bỏ đi. Như vậy mà vẫn còn một đám người nữa vì thương chúng-sanh kính trọng con-cái Đức Chí-Tôn đem đức-tin để trọn vẹn nơi Ngài lo-lắng cho tương-lai của nhơn-sanh, tự hỏi : nếu lời hứa của Đức Chí-Tôn không thành-tựu thì Đạo Cao-Đài thành sao đặng, vì cớ, những kẻ ấy đem tất cả nhiệt-huyết của mình đặng cứu dân, lời hứa của Đức Chí-Tôn đem cả đức-tin thực-hiện cho thành-tựu mong mỏi cứu tình thế, thấy khổ nhơn-loại mà hy-sinh tạo nghiệp, Bần-Đạo ngó lại hai mươi mấy năm rồi biết bao nhiêu sanh-mạng về gởi rừng nầy nơi nước độc bệnh-chướng, nhìn lại Thánh-Địa biết bao nhiêu mồ-mã biết bao nhiêu xương-máu.

Lớp nào còn sống thì làm nô-lệ cho Đời đặng tạo nghiệp cho Đạo, hình trạng thành tướng ngày nay là do giọt máu mồ hôi nước mắt của con-cái Chí-Tôn, tạo ra đó vậy, vì cớ, buổi ban-sơ Đạo hèn-hạ bị ép-bức hiếp-đáp, đòi kiếm thế ra trước luật hình nên mới có tấn tuồng chi-phái nổi lên đủ thứ hết, mấy người biết chi-phái ấy là gì không ? Là những kẻ chạy non, Bần-Đạo muốn nói những kẻ đó, đã chạy, mình cầm lại sao đặng, chạy đi đâu thì chạy. Họ tạo ra chi-phái, họ nói quả quyết ông Trời ở đây không phải ông Trời của họ. Họ nhứt định tạo ra một ông Trời riêng rồi sau đến mình phải chịu đóng cửa đặng cho thiên-hạ quyềân thị-nhục chưởi mắng, đóng cửa đặng đào tạo những em út có tâm-hồn nhẫn-nại, ngày nay nghiệp Đạo ra thế nầy có lại 24 năm mấy em làm xong chuyện đó, nghiệp Đạo giờ phút nầy đã cao-trọng rồi đa, đã quá lắng mực thiên-hạ khi rẻ, dường như đã đến đài vinh-quang, đài vinh-quang ấy tưởng lập ra vững-chắc rồi không còn sợ ai nữa, chẳng những không sợ mà thôi mà có thể làm chủ cả Đạo và Đời nữa. Mấy em, Bần-Đạo đứng trước giảng-đài nầy thừa lịnh Đức Chí-Tôn, làm Anh cả mấy em để lời tâm-huyết dặn rằng : Buổi mấy em bị áp-bức mấy em sợ phải bảo-vệ tức là phải tranh-đấu, giờ phút nầy mấy em mạnh rồi có đủ oai-quyền có đủ năng-lực nên bỏ phương-pháp tranh-đấu ấy đi, trải lớp từ-bi ra đặng độ thế. Qua cho mấy em biết thiên-hạ, không cần tranh-đấu nữa, lấy từ-bi mà đối với Đảng-Phái một lỗi hai lầm, ngày nay ăn-năn trở lại mấy em nhớ rằng Đền-Thờ nầy là Đền-Thờ chung của toàn con-cái Đức Chí-Tôn, không phải của riêng mâùy em tuy hữu công đào-tạo, nhưng không phải mấy em làm chủ, toàn con-cái Đức Chí-Tôn làm chủ, người ta về đừng có bạc-đãi khi rẻ mích lòng Đức Chí-Tôn, trái ngược lại nam cũng vậy, nữ cũng vậy, lấy tình ái vô cực của Đức Chí-Tôn, lấy hình-ảnh đại-Từ-Bi an-ủi họ, nhường nơi ăn chỗ ở cho họ, đặng họ cứu-vãng chúng-sanh về phần hồn ấy là lời tâm-quyết. Qua cầu xin nơi mấy em đối với các Đảng-Phái Quốc-Sự. Đạo của mấy em như : cây cao mát-mẻ, như nước suối trong-veo tinh-khiết, họ cũng muốn trú ngụ cho mát-mẻ tâm-hồn, họ đến nương bóng nơi mấy em đặng lập thanh-danh của họ, mấy em nên từ-bi, bác-ái, nâng-đỡ họ, cả em út can-đảm hy-sinh mạng sống để bảo-vệ tài-lợi của họ không kể công, họ đến nương Đạo với sự che chở của mấy em, mấy em cho họ nương đặng cho họ lập thân danh họ sẽ giúp lại mấy em tạo thời cải thế, đừng có bạc-bẽo với họ, nương dựa một ngày một bửa hay bao lâu, uống nước phải biết nhơn biết nghĩa cho họ hiểu. Dầu Đế-Vương chi nghiệp không giữ nhơn-đạo thì không giá-trị gì hết, biểu họ coi gương mấy em đối với họ thế nào thì Tòa-Thánh đối với chúng-sanh giờ nầy cũng thế, giờ phút nầy họ hân-hạnh, tinh-thần nhân-đạo ngày kia họ sẽ mưu ích lợi cho thân-danh họ.

 

Tại Đền-Thánh ngày Rằm tháng 7 năm Kỷ-sửu (1949).

ĐỨC THƯỢNG-ĐẾ

ĐẾN CÙNG CON-CÁI NGƯỜI ĐỜI ĐỜI

Đêm nay Bần-Đạo lấy làm vui thấy kỳ đàn này được đông-đảo, ít ra phải sốt-sắng như vậy, chớ nếu ba kỳ lễ mà ai cũng siêng năng thì Bần-Đạo sẽ khởi giảng Bí-Pháp, kỳ nầy mới có hai còn giảng một kỳ thứ ba.

Hôm nay Bần-Đạo giảng vấn-đề trọng yếu với thời buổi nầy cốt ý để con-cái Đức Chí-Tôn biết lập-trường của mình đối với cơ thể đời, đương-nhiên trong giờ phút khó-khăn nầy là Đạo Cao-Đài đối với Quốc-Tế tức đối với Vạn-Quốc.

Vả chăng, con-cái, Đức Chí-Tôn, nam nữ nhỏ lớn chẳng hiểu rằng Đạo Cao-Đài không những một Tôn-Giáo mà thôi, nó là Tôn-Giáo của các nền Tôn-Giáo, không phải Đạo mà thôi mà là Đại-Đạo, tiếng Đại-Đạo không phải chúng ta muốn mà đặng, chính Đức Chí-Tôn muốn mới đặng.

Từ trước đến giờ toàn nhơn-sanh không biết Đại-Đạo là gì ? Ngài để trong tay chúng sanh đặng chăng mấy ngàn năm rồi, ngày nay Ngài đến, con-cái Đức Chí-Tôn đều biết rằng nền Đại-Đạo nầy chính tay Đức Chí-Tôn sáng-lập, chính Hộ-Pháp giáng trần cầm quyền Bí-Pháp. Bần-Đạo nhớ một nền Tôn-Giáo, như Đạo Thiên-Chúa khi Đức Jésus-Christ ban quyền cho ông Thánh Pierre, nói trước một câu, đã lập quyền cho Thiên-Chúa-Giáo khoảng 2.000 năm không có quyền nào đánh đổ cho nao-núng. Đức Chúa Jésus hỏi các môn-đệ vậy chớ Saint-Jean-Baptiste là ai ? Các môn-đệ trả lời là Ông Thánh tiên-tri. Đức Chúa hỏi ta là ai ? Các môn-đệ đều nói : Chúa là Ông Thánh tiên-tri như Ông Saint-Jean-Baptiste, chỉ có Ông Thánh Pierre nói : thiên-hạ nói chi thì nói, ta đây quả-quyết Chúa là Đấng Chúa cứu-thế, là Chí-Tôn giáng-sanh vậy. Đức Chúa Jésus dạy các môn-đệ Ngài trước mặt Ông Pierre, phần điều ấy không phải xác thịt nầy nói, của chính nguơn linh nầy nói. Tên Pierre, nghĩa là đá , trên cục đá nầy ta tạo đền thờ của ta, cửa địa ngục kia không qua đặng, ấy vậy Đức Chúa Jésus đã đưa cho Ông Thánh Pierre mà đến giờ phút nầy chưa có quyền nào làm cho nao-núng vẫn còn tồn-tại mãi.

Đạo Cao-Đài ngày nay do Đức Chí-Tôn đến, Ngài nói ta đến ở cùng các ngươi, ta sống cùng các ngươi, ta đem chơn-pháp đến cho các ngươi đặng giải thoát, ta sẽ tận-độ chúng-sanh cứu-vớt chúng-sanh một lần nữa, ta quyết-định ở với con-cái ta đời-đời chẳng cùng đến thất ức niên. Ngài ở với con-cái của Ngài nên Ngài mới đến mà thôi, các lương-sanh tức là các chơn-hồn, hữu căn hữu kiếp đã tiền căn ở  nơi Ngài mà ra, nơi thân hình Thiêng-liêng vô-tận của Ngài mà đến gồm lại làm Thánh-Thể của Ngài tức là Hội-Thánh ngày nay vậy. Ngài hứa với con-cái Ngài đời-đời kiếp-kiếp. Thử hỏi câu ấy của Đức Chí-Tôn đối với nền Tôn-Giáo nầy có thể sánh quyền hành Đức Chúa Jésus-Christ ban cho Ông Thánh buổi nọ với Ngài đến ban cho ta, ta cần coi trọng khinh thể nào thì biết nền Đạo Cao-Đài thực-hiện Trời Người hiệp một đồng trị mới có cơ-quan giải-thoát chúng-sanh đặng. Đạo Cao-Đài là gồm hết các Tôn-Giáo như trên đã nói thì phải thế nào, cho nên Thánh-Thể Chí-Tôn phải thật hiện là Ông Trời tại thế-gian nầy.

Làm Ông Trời không phải dể làm, có làm Ông Trời đặng, mới có phương dìu-dắt cả con-cái Đức Chí-Tôn đến đại-đồng thế-giái, điều mà thiên-hạ mơ ước, thiên-hạ đã ngưỡng vọng, thiên-hạ đã tin cậy, giờ phút nầy đã thấy Vạn-Quốc nhứt là ở Aâu-Châu, muốn đi tìm tới con đường giải-thoát, con đường ấy tranh-đấu tàn hại, giặc-giả chiến tranh nguyên do thế nào ? Nguyên do tại tinh-thần nhơn-sanh ngày nay bất nhứt thất lạc tức nhiên tinh-thần hết vi chủ rồi, giờ nầy nhơn-loại khắp hoàn-cầu tự nạp mình vào vòng nô-lệ cho xác thân mà nó tham muốn tàn ác, với xác-thịt ta không thể làm thỏa-mãn đặng, họ sợ lắm, họ sợ cái xác-thịt họ biết tinh-thần, biết quyền hành của đạo vi chủ họ, biết giờ nầy xác-thịt vi chủ sẽ dắt họ  xô đẩy đến cảnh tự diệt, trước mắt họ sợ lắm. Mà hại thay ! Họ sợ giặc rồi bí quyết của họlà tăng cường tức là làm cho tột bực cường-liệt, họ dùng binh khí vô cùng tàn-ác tưởng bảo-vệ hòa-bình, ai ngờ trái ngược lại ta không thế gì lấy khôn-ngoan tưởng-tượng được, sợ giặc lại muốn giặc, sợ chết họlại tầm phương chết, lấy phương-pháp chết mà tìm sống tìm sao đặng ? Tại sao?  Giờ phút nầy đại chiến thứ ba xảy tới là do mất tín-nhiệm với nhau mà có giặc thất tín, nhơn-loại đã thất tín với nhau nhiều rồi, vô đạo-đức nhiều rồi, nên có phương-pháp chân đạo, có tâm-tính chơn-chất chính nơi cửa Đạo có phương-pháp giải thoát dễ-dàng.

Hại thay ! Họ lần-quẩn không ngó ra bởi Vạn-Quốc không ai tin ai cả, ta thấy nơi gia-đình từ lời nói con-cái tới lời nói cha mẹ làm họ không tín nhiệm nhau, huống chi là toàn cầu. Một gia-đình mà không chuẩn-thắng, không có Đạo-Giáo kèm giữ, gia pháp cho công-chánh, yêu-ái. Gia-đình còn loạn-lạc thay, huống chi là toàn-cầu trong giờ nầy xã-hội tạo nhiều lẽ bất công đối với nhơn-loại vì muôn ngàn thế kỷ tạo sự bất công càng chồng-chất nhơn tâm bất nhứt lẽ bất công càng ngày càng thêm, không thấy giảm, biểu sao không phát ra phản động lực để phản đối sự bất lực của xã-hội, nên mới có tấn-tuồng thống-khổ tương-tàn tương-sát. Chủng-tộc khác với nhau tương-tàn đã đành, đến cùng chung chủng-tộc còn sát hại nhau vì cớ có cơ-quan tự diệt.

Ngày giờ nào Đạo Cao-Đài đủ quyền-năng tinh-thần đem công-chánh và yêu-ái làm thuốc trị bịnh, bịnh ấy tưởng đã bất trị, ngày ấy mới hòa-bình thiên-hạ và đại-đồng thế-giới, ta tự hỏi : Đạo Cao-Đài làm đặng chớ ? Hiện giờ các nước nào cũng tìm giữ linh-hồn các bậc tài-tình thượng-lưu trí-thức thông-minh. Thấy nguy hiểm tưởng tượng lại tìm phương giải ách họ đang tìm như thầy bói mò. Cách tìm phương giải thoát chúng-sanh giờ phút này Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh thấy Đạo Cao-Đài đưa ra cho họ thấy tuy vẫn ước-mơ, mắt họn dòm thấy tượng hình cứu-khổ giải-thoát của nó. Thiên-hạ đã thấy, Bần-Đạo chắc con đường đi đến sẽ cứu thiên-hạ và giải-thoát có ngày quyết dọn cho họ đi đến, duy có điều trọng-yếu là Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn phải làm sao đáng Ông Trời tại thế nầy mới được.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 18 tháng Năm Kỷ-Sửu (1949)

(Vía ĐỨC LÝ-ĐẠI-TIÊN)

CÔNG-NGHIỆP CỦA ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG

Đêm nay ngày Vía Đức Lý-Đại-Tiên, tức nhiên Đấng cầm quyền Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm nơi cõi Thiên-Cung. Bần-Đạo giảng giải nhơn dịp ngày lễ của Ngài, Bần-Đạo cũng nên nhắc công nghiệp của Ngài, đã cầm quyền Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm, còn phải chịu vì Đạo, buộc mình kiêm luôn chức Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn.

Bần-Đạo nhớ lại lúc ban sơ nền Đạo mới phôi-thai nền chính-trị Đạo không có chi hết. Bần-Đạo đã bị uy-quyền ép-chế thành thử buổi ấy chưa biết giá-trị của mình lãnh xứ mạng nơi Đức Chí-Tôn là gì hết, mà dám chịu lãnh quyền tước, khi chịu mang cái quyền tước trong mình thì thời buổi không có làm gì được hết.

Vì buổi ấy Đạo còn yếu ớt, non-nớt bạc-nhược, chẳng có đem lại mảy-may năng-lực gì cả, biết bao phen Đức Lý-Đại-Tiên giáo-hóa khuyên-lơn. Ngài chỉ có để lời ngọt dịu dạy bảo khuyên-răn. Thánh Giáo dẫy đầy mà họ không biết tìm hiểu gì hết, chính mình họ, họ cũng không biết giá-trị của họ là gì, Ngài đếùn cầm quyền định Đạo. Ngài cầm quyền Nhứt-Trấn Oai-Nghiêm. Vì thương Đức Chí-Tôn nồng-nàn đáo để mà vâng lịnh của Ngài cầm quyền Giáo-Tông Đại-Đạo mà hễ động đến vị Chức-Sắc Thiên-Phong, nam nữ nào thì Đức Chí-Tôn than phiền, trách trừng-răn biểu mình đừng làm chinh lòng với nhau. Thánh-Giáo Đức Chí-Tôn không coi mà cứ toàn mưu phá Đạo, hiện giờ có vài vị Chức-Sắc Bần-Đạo không nói tên, nghe lời Đức. Lý răn phạt thì Đức Chí-Tôn buồn, đến đổi Ngài hờùn mà làm bài thi như vầy :

Con khổ mà cha sướng đặng nào,

Ai từng cắt ruột lại không đau.

Chia quyền lại sợ quyền chia lại,

Muốn liệng cho xa mảnh đế bào.

Vì giận Đức-Lý nầy phạt một mình con thảm Ngài sướng đặng sao. Thật sự Bần-Đạo biết thời buổi ấy Đức Chí-Tôn và Anh Cả chúng ta bất hòa với nhau. Bần-Đạo buổi nọ không biết gì hết, chưa biết phận sự mình là gì không biết làm sao ra cho thật-hiện được, không biết quyền hành gì hết, duy có biết lý-thuyết chớ không biết thi-thố gì được cả.

Buổi nọ Đức Chí-Tôn sợ Bần-Đạo nghe lời theo Đức-Lý mỗi phen chấp bút thì Ngài đều can gián. Chi chi con cũng nghe lời Thầy, đừng có nghe Thái Bạch nghe con. Khi đó rất đáo-để cho Bần-Đạo nếu không nghe lời Ngài, để vậy mãi, thì tiêu-diệt không thể tránh khỏi, nhứt là nội loạn, còn ngoài thì Đảng-Phái phá rối nền chơn-pháp của Đức Chí-Tôn, Ngài đến chỉ cho Bần-Đạo thấy cái cảnh nguy-biến của nền Đạo như thế đó. Cảnh tượng của mỗi người như thế đó. Ngài biểu Bần-Đạo phải nghe lời Ngài thì mới cứu-vãn tình-thế, bằng không thì tiêu-diệt nền chánh-trị Đạo buổi đó, không có mạnh mẽ duy nhứt gì cả. Bên nầy là lời giáo-huấn của Đức Chí-Tôn, bên kia là lời dạy của Anh Cả hai bên không biết đường nào mà đi, làm cho Bần-Đạo ngơ- ngẩn trong sáu tháng trường, cứ thơ-thẩn đi tới đi lui nơi rừng thiên-nhiên mà suy-nghĩ, làm cho Bần-Đạo bối rối cả đầu óc.

Đức Lý đến chỉ công chuyện như vầy rồi thăng, kế Đức Chí-Tôn đến biểu đừng nghe lời, làm Bần-Đạo lưng chừng, túng thế, Ngài nắm Bần-Đạo ngồi trên bàn từ 9 giờ tối đến 4 giờ khuya, Ngài không cho đi đâu hết, buộc phải nghe lời Ngài viết nói đủ lẽ nguy tướng của Đạo, nếu không quyết định thì đi khỏi nền Đạo Cao-Đài trước tốt hơn, Bần-Đạo thấy chỉ đủ lý-lẽ quả nhiên buộc phải nghe lời, nghe lời rồi Ngài mừng quá nhiều, mà Bần-Đạo không hiểu không biết tại sao Ngài mừng, vì nghe lời thọ-pháp quyền-năng thiêng-liêng đó vậy.

Trong đó có 3 Đài, có ba người chủ nắm vững.

1.- Bát-Quái-Đài, dưới quyền Đức Chí-Tôn, Ngài Chúa cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng Vạn-Linh, chính Ông chủ Bát-Quái-Đài là Đức Chí-Tôn.

2.- Cửu-Trùng-Đài là quyền Giáo-Tông làm chủ Hội-Thánh.

3.- Hiệp-Thiên-Đài là quyền Hộ-Pháp làm chủ.

Ba Ông chủ ấy, có hai Ôâng nầy, Cửu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài, nếu riêng ta không có thể gì dâng sớ cho Bát-Quái-Đài, tức nhiên quyền Chí-Tôn ở nơi Bát-Quái-Đài, hai Đài Cửu-Trùng và Hiệp Thiên hiệp nhứt là quyền Chí-Tôn tại thế nầy, không có một quyền nào cai-quản cãi qua quyền Bát-Quái-Đài được.

Có lần Bần-Đạo nghe lời Đức Lý thì Đại-Từ-Phụ thất-vọng thấy tội nghiệp Ngài quá đổi, Đức Đại-Từ-Phụ tính không thể gì bảo-trọng mấy đứa kia được, biết Đức Lý nhứt định đuổi những kẻ tà tâm ra khỏi nền Tôn-Giáo, Đại-Từ-Phụ biết không thể gì biến sanh chi phái, nếu nảy sanh chi-phái rồi thì không phương cứu vãn và trị loạn được, thì nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn không có giá-trị gì hết, Bần-Đạo vừa nghe lời Đức Lý, Đức Chí-Tôn không đếùn chừng ba tháng. Khi Đức Chí-Tôn giáng cho làm lễ đăng-điện tái quyền Giáo-Tông lại chính mình Ngài đòi Đức Lý đến, Đức Lý xin từ chức Giáo-Tông. Ôi thôi ! Buổi ấy rất biến đổi, đến chừng Ngài triệu hồi Đức Lý trở lại, rồi Đức Chí-Tôn không thể gì phản-kháng với Ngài nữa, Ngài thường nhắc cả toàn Hội-Thánh Hiệp-Thiên và Cửu-Trùng làm lễ đăng-điện cho long-trọng khi Ngài tái nhậm phận sự rồi Ngài lên ngôi vị của Ngài, Ngài cầm cơ viết : Tôi tưởng không có vị Vua Chúa nào viết được bài diễn-văn như Ngài ; trong Thánh Ngôn Hiệp-Tuyển có 4 câu thi của Ngài rất ngộ nghĩnh.

“Cửu tử kim triêu đắc phục-hườn,

Hạnh phùng Thiên-mạng đạo khai nguơn.

Thế trung kỵ tử hà tri tửù,

Tử giả hà tồn chủ “tịch hương”

Cửu tử kim triêu đắc phục-hườn” là cảnh trần ta chết đã lâu rồi, mà hôm nay ta được phục sanh lại thánh-thể của Đức Chí-Tôn.

Hạnh phùng Thiên-mạng đạo khai nguơn”  là còn hanh-phúc đặng Thiên-mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến ? Bần-Đạo đã thuyết cuối Hạ-nguơn tam chuyển khởi Thượng nguơn tứ  chuyển Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ.

Thế trung kỵ tử hà tri tửù” thế-gian sợ chết mà không biết cái chết là gì, chính Ngài hỏi rồi nói.

Tử giả hà tồn chủ “tịch hương” là tịch của nữ phái, nữ phái là nguồn sống của nhơn-loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của nữ phái nghĩa gì ? Cầm cái giống của thế-gian nầy chi ?

Bây giờ nói đến quyền hạn của Ngài, chính tay Ngài cầm bút viết :

Ánh Thái-Cực biến sanh Thái-Bạch

Hiện Kim-Tinh trọng trách Linh-Tiêu

Quyền-năng vưng thửa Thiên-Triều,

Càn-Khôn thế-giái dắt-diù Tinh-Quân.

AÙnh Thái-Cực biến sanh Thái-Bạch” là buổi Thái-Cực vừa nổ hiện ra ánh sáng Thái-Cực, chính là Ngài, duy Đức Chí-Tôn cầm pháp, xin cả thảy nhớ nghe khi Đức Chí-Tôn cầm pháp hiện ra hai lằn Hạo nhiên-khí đụng lại với nhau nổ, tức nhiên trái khối lửa đó tạo Càn-Khôn Vũ-trụ ánh sáng Thái-Cực đó là Ngài.

Hiện Kim-Tinh trọng trách Linh-Tiêu” là các cung đẩu trên mặt địa-cầu nầy đều hưởng ánh sáng vi chủ và điều-khiển là Ngài.

Quyền-năng vưng thửa Thiên-Triều” là quyền-năng vưng lịnh của Thiên-điều.

Càn-Khôn thế-giái dắt-diù Tinh-Quân”là các cung đẩu trong Càn-Khôn thế-giái nầy có Ngài vi chủ hết thảy.

Tinh-quân thọ sắc thuở  Phong-thần,

Cho đến Đường-triều mới biến thân.

Thái-Bạch Kim-Tinh đang trị thế,

Trường-Canh trích-tử đến thăm trần,

Động-đình thi rượu đong muôn đấu,

Bồng-Dảo Câu-Tiên nắm một cần.

Vâng lịnh Ngọc-Hư nay xuống thế,

Tam-Kỳ độ-rỗi các nguyên-nhân.

Tinh-quân thọ sắc thuở  Phong-thần” là Ngài đoạt ngôi-vị cùng quyền hành của Ngài có  sắc phong thiệt hiện hồi đời Phong-thần.

Cho đến Đường-triều mới biến thân” là đến đời Đường Ngài mới biến thân.

Thái-Bạch Kim-Tinh đang trị thế” là vị nguyên-linh ấy cầm quyền trị thế. “Trường-Canh trích-tử đến thăm trần”

“Động-đình thi rượu đong muôn đấu

là nơi Động Đình hỏi đến Ngài thì thiên-hạ đều biết danh Ngài hết.

Bồng-Đảo Câu-Tiên nắm một cần” là nơi Bồng-Đảo Ngài cầm Thiên-Thai cho Khổng-Giáo.

Vâng lịnh Ngọc-Hư nay xuống thế” là buổi Đại-Đạo Tam-Kỳ khai mở đây Ngài thọ linh Ngọc-Hư đến trị Đạo.

Tam-Kỳ độ-rỗi các nguyên-nhân” là chín mươi hai ức nguyên-nhân, thì Tam-Kỳ này Ngài độ rỗi.

Bần-Đạo quên nói các tiên-tri của Ngài rất ngộ-nghĩnh, thời buổi ấy Ngài đến dạy biểu Bần-Đạo nghe lời, nếu hiền-hữu không nghe lời, ngày kia cái tai-họa ấy tiêu-diệt hay đoạt Đạo thì hiền-hữu gánh trách nhiệm ấy nặng nề trước cả. Bần-Đạo buổi nọ không hiểu gì cả. Bần-Đạo nói toàn Thánh-Thể Đức Chí-Tôn cả triệu con người cớ sao một mình Bần-Đạo gánh vác. Nói tiên-tri ấy là thời giờ Ngài giao quyền Giáo-Tông nầy cho Bần-Đạo chưởng quản luôn Cửu-Trùng Đài, nếu không nghe lời thì Bần-Đạo gánh hết. Nếu không nghe lời Ngài buổi nọ thì gánh nẩy giao lại cho ai ? Như giờ phút nầy có nên bỏ, chớ không thể sống với Đạo.

Bần-Đạo xin nói thế-gian nầy cầm quyền trị cơ-quan chính-trị-đạo nào hay định-luật trước dưới Bát-Đạo Nghị-Định lập nên chính-trị của nước như Ngài, Bần-Đạo chưa ngó thấy Đức Lý ra Bát-Đạo Nghị Định mà Ngài lập trọn vẹn hết, chúng ta cũng nên tôn-sùng đáng kính, đáng sợ quá đổi Đấng cứu Đạo như thế, Bần-Đạo cũng khen kính Người ấy cho đến ngày tận thế.

Nếu Bần-Đạo Cao-Đài còn mãi mãi thì công-nghiệp Đức Lý Giáo-Tông vẫn còn tồn-tại tâm trí nhơn-sanh luôn luôn.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 27 tháng 8 năm Kỷ-Sửu (1949)

(Vía Đức KHỔNG-PHU TỬ)

 TRIẾT-LÝ TRỜI NGƯỜI ĐỒNG-TRỊ

Hôm nay ngày lễ của Đức Khổng-Phu-Tử, tức là Đức Đại-Thần Chư Thánh Văn-Tuyên-Vương chuyển giáo đạo Nho. Đạo-sử của Ngài Bần-Đạo đã thường thuyết lập đi lập lại không ít, vì đêm nay là ngày lễ của Ngài, Bần-Đạo thuyết về triết-lý Trời Người đồng-trị.

Chúng ta đã ngó thấy Ngài là tiền-bối của Đức Chúa Jésus-Christ mà Ngài ít đặng hanh-phúc hơn Jésus-Christ; năm trăm năm về trước cái thuyết của Ngài, tâm-lý nhơn-loại buổi ấy chưa có nạp dụng đặng, lại nữa Ngài đến cái danh-từ một nhà triết-lý mà thôi. Ngài không có hân-hạnh không có can-đảm đến với danh-từ con-cái Đức Chí-Tôn cũng như Jésus-Christ, vì cớ lý-thuyết vẫn có một, nhưng giáo đạo của Ngài không có hanh-phúc hơn Jésus-Christ đó vậy. Ngài chỉ có làm chứng rằng có một Đấng thống-trị của Càn-Khôn thế-giái, đấng ấy Ngài để danh hiệu là “Nhứt-Đại” mà thôi, tức nhiên là “Thiên” mà Ngài không nói ra như Jésus-Christ. Ngài chỉ làm chứng rằng có một đấng tối cao mà thôi, thất-bại của Ngài là vì lẽ đó. Đắc thế của Jésus-Christ nói quả-quyết nhơn-loại có Ông Cha, mà Ông Cha ấy là Chúa-Tể Càn-Khôn Vũ-trụ đắc thế của Jésus-Christ là vậy.

Nếu chúng ta biết lấy theo triết-lý-học thì chúng ta nên lấy cái gương của một nhà đại-gia tư-tưởng, nhà đại-gia triết-lý-học là Descartes người nói ; “Je pense done je suis” (tôi tưởng là tôi đó vậy) con người là một động-vật ở nơi mặt địa-cầu nầy, chúng ta ngó thấy hiện-hữu phải vận-hành phải xao-động, bởi nó là động-vật, nó phải hoạt-động, nếu không hoạt-động thì chết. Trong cơn đương hoạt-động có hai phần đặc-biệt :

1.- Hoạt-động về thi-hài xác-thịt, tức nhiên như thân-thể chúng ta giờ phút nầy vậy, mỗi ngày chúng ta phải hoạt-động mới có sống, bằng không hoạt-động thì chết luật Tạo-Đoan quả nhiên vậy.

2.- Còn cái hoạt-động nữa, hoạt-động vô hình chúng ta không thể thấy được mà chúng ta nhìn quả quyết có hoạt-động về tinh-thần trí-thức. Vì cớ hai cái hoạt-động của con người chia ra hai phần.

1.- Hoạt-động về phần Đời

2.- Hoạt-động về phần Đạo.

Là vì cái thi-hài phàm tục này nó là con vật, nó phải hoạt-động theo con vật, hoạt-động theo giác-thể của nó, nó chưa biết hoạt-động theo chơn-linh. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn tạo nên hình-tướng nó, để tạo nơi mình nó. Ngài còn sắp đặt một kỷ-cương để cho tinh-thần nó vi chủ hình-hài của nó, còn đêû cho thân-thể nó vi chủ tâm- hồn của nó, nó sẽ ngây-cuồng ngu dại, nó sẽ đi đến chỗ tự-diệt nó mà thôi. Bởi vậy chúng ta ngó thấy hai phần Đạo đặc biệt ấy, chúng ta buộc phải nhìn về phần Đời chúng ta, chúng ta phải chung sống cùng xã-hội nhơn-quần, tức nhiên sống theo khuôn-khổ quốc-gia dân-tộc ấy, nên luật khuôn-khổ quyết định hơn hết. Nếu trên cái sống ấy, sống theo trên kia chúng ta thấy, chúng ta phải nhìn có một đấng cầm quyền trị về  phần tâm hồn, trí-não chúng ta. Đấng đến giờ phút này đến ở cùng chúng ta, nhìn chúng ta là con-cái của Ngài, Ngài đến với một danh-từ là Thầy của chúng ta, mà chẳng phải làm Thầy mà thôi, còn làm Cha nữa.

Chúng ta tưởng-tượng lụng lại, để tinh-thần bình-tĩnh suy-xét từ thử đến giờ coi các sắc-dân nào trên mặt địa-cầu nầy đặng hanh-phúc dường ấy chăng ?

Hai ngàn năm về trước Đức Khổng-Phu-Tử  đến Tạo-Đoan không đạt được thuyết qúy-báu cao trọng ấy, cũng do nơi duyên-cớ, chúng ta tưởng Ngài đến tình-cờ, không có gì là tình cờ trên mặt địa-cầu nầy hết, không phải tình-cờ mà Ngài đến.

Ngài đến trong đời chiến-quốc tức nhiên trong buổi ly-loạn (không có buổi nào trên mặt địa-cầu này chịu ly-loạn bằng nước Trung-Hoa buổi nọ) đời chiến-quốc Ngài đến trong buổi ly-loạn, thiên-hạ đương chiến-đấu với nhau, giành phương sống của mình, lấn quyền thế trong lục-quốc phân tranh không ai nhường ai, tranh sống với nhau một cách kịch-liệt Ngài mới đến. Aáy vậy Ngài đến không phải tình-cờ, nếu chúng ta tưởng tình-cờ thì đấng cầm cân Thiêng-Liêng nơi cõi Hư-Linh hằng sống chẳng có hay sao ? Bằng cớ hiển nhiên là Chúa Jésus-Christ cũng đến lập Đạo của Đức Chí-Tôn như Ngài trong buổi ly-loạn. Buổi mà La-Mã làm bá-chủ, các sắc dân bị chinh-phục quật-cường chiến-đấu để giải ách nô lệ của mình, buổi ấy cũng là chiến-quốc vậy. Hai người đến không phải là tình-cờ mà đến đâu. Cũng một thuyết với nhau đem Đạo-Lý cứu-vãn nhơn-loại, mỗi phen nhơn-loại chịu thống khổ về tâm-não dường nào thì có Đấng Từ-Bi độ tận đưa tay ra cứu với họ luôn luôn, đặng mà cứu khổ, nhơn-loại mãi mãi không bao giờ sơ-sót hết, chúng ta quan-sát tận tường thời buổi nào, các vị Giáo-Chủ đến giáo-đạo đều cớ lý-do hết.

Nếu như không có Đấng cầm quyền-năng trị tâm-lý tinh-thần nhơn-loại thì chưa chắc có ai làm nổi. Cái thi-hài của nhơn-loại tức nhiên thân thể còn tồn-tại được để quyết-định tương-lai của nhơn-loại đương nhiên, hai cái lý-thuyết duy-tâm và duy-vật. Ngày giờ nào hai thuyết ấy tương hòa đặng thì chúng ta ngó thấy cơ-quan giải-thoát đặng. Ngày giờ nào Người, Trời hiệp một cùng nhau đồng trị với nhau tức nhiên Người trị thế, Trời trị hồn.

Hai Đấng cầm quyền thế-gian này cõi Hư-Linh hằng-sống hiệp với nhơn-loại mới được hanh-phúc, tương-lai mới được vững-chắc và tồn-tại.

Bằng chẳng vậy con đường chiến-đấu đặng sống của họ, họ sẽ xô đẩy họ đến con đường tự-diệt.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 7 tháng 4 năm Kỷ-Sửu (1949)

 LỄ VÍA ĐỨC PHẬT-TỔ THÍCH CA MÂU-NI

 BÀ NỮ ĐẦU-SƯ LÂM-HƯƠNG-THANH

Đêm nay là Vía Đức Phật-Tổ Thích-Ca Mâu-Ni mà cũng là ngày vía Chị Cả của chúng ta là Bà Nữ Đầu-Sư Lâm-Hương-Thanh, chẳng biết ngẫu nhiên hay tiền định mà Bà Nữ Đầu-Sư qui-liễu nhằm ngày Vía Đức Phật Thích-Ca. Theo Bần-Đạo hiểu biết tưởng những người ái-mộ Đạo Phật nồng-nàn hơn hết. Chúng ta có thể nói rằng : Bà Đầu-Sư cũng là người đứng trong đầu sổ của thiên-hạ vậy. Trước ngày Đức Chí-Tôn chưa mở Đạo, Bà Đầu-Sư duy có biết Đạo Phật mà thôi, chính miệng của Người thuật lại với Bần-Đạo. Từ bé Người đã để tâm ham mộ Đạo Phật không biết có quyền-năng lạ-lùng của Đức Chí-Tôn tiền định hay chăng, mỗi khi niệm câu chú của Phật để tồn tại, thì Đức Chí-Tôn Ngài đứng trong nhà Phật, gọi là Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giái, Đức Chí-Tôn là Phật-vị nên Bà đã thương lắm, thương một cách nồng-nàn. Khi Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài tức nhiên Phật Giáo chấn-hưng đó vậy.

Ngày nay là lễ của Đức Phật Thích-Ca và của Chị chúng ta, chúng ta nên để tâm cầu-nguyện chơn-linh của Ngài và của Bà tức nhiên là Long-Nữ, cả thảy chúng ta đều biết cái bí-mật ấy.

Bà Nữ Đầu-Sư, Chơn-Linh Long-Nữ, Long-Nữ là ai ? Thật ra là người hầu cuả Phật Quan-Âm  Bồ-Tát đó vậy. Bần-Đạo hiểu về cái thuyết bí-mật của Đức Quan-Aâm Bồ-Tát lãnh trách-nhiệm trọng-yếu vâng lịnh của Đức Di-Lặc Vương-Phật Chưởng-Quản điều-khiển Bát-Nhã-Thuyền, vì cớ cho nên Đức Quan-Âm Bồ-Tát không có thể giáng trần được, chính mình Long-Nữ là người hầu của Bà, tịnh nguyện giáng trần đặng hiệp với các Chơn-Linh, các cung các điện và Hộ-Pháp đặng mở nền Chánh-Giáo của Đức Chí-Tôn, hầu tận-độ Vạn-Linh tạo cơ giải-thoát.

Hôm nay là ngày Vía Phật Thích-Ca. Chúng ta cũng nên hiểu triết-lý cao-siêu của Đức Phật Thích-Ca, Ngài đã đạt đặng và đã truyền-giáo, theo nền Tôn-Giáo của nhà Phật là nền Tôn-Giáo tối-cổ, Bần-Đạo thường thuyết, loài người vừa đến mặt thế nầy thì đã có Phật nơi mình rồi. Chính Đức Phật Thích-Ca đã chịu ảnh-hưởng Phật-Giáo ấy và chính chơn-linh của Ngài có sứ-mạng đến đặng độ bá ức Nguyên-nhân qui hồi cựu-vị. Ngài vì sứ-mạng ấy mà Ngài phải tìm cho hiểu biết cơ-quan giải-thoát ấy phải định phương nào cho đạt được. Tại sao các nguyên-nhân không qui-hồi cựu-vị ? Vì lẽ gì có sứ-mạng đem cơ giải-thoát đưa nơi tay bá ức nguyên-nhân cho đạt vị ? Ngài tìm thế nào cho triết-lý cho nhơn-sanh khỏi bị đọa-lạc. Ngài hiểu rằng : Tứ-Diệu-Đề làm cho các nguyên-nhân phải đọa-lạc không giải-thoát đặng, Ngài để cơ-quan giải-khổ tức nhiên thoát “Tứ-Diệu-Đề” vì cớ cho nên triết-lý cao-siêu của Ngài tính sau nầy tìm cái phương-pháp bá ức nguyên-nhân đạt pháp đặng qui-hồi cựu-vị mà thôi, theo Bần-Đạo đã biết, đã hiểu Ngài định hạ trần đầu kiếp cho vật loại tạo cái tam thập lục phẩm Liên-Hoa của Ngài.

Tôi tưởng các vị Phật nơi Niết-Bàn đã tạo nơi Kim-Tự-Tháp, dầu có bậc cao-siêu hơn Ngài là Đấng Di-Đà đi nữa cũng chưa bằng bằng từng Liên-Hoa chót của Ngài, nó vinh-diệu làm sao đâu. Tôi dám chắc chưa có vị Phật nào có can-đảm tạo được nhứt phẩm Liên-Hoa tốt đẹp như từng chót hết của Ngài, Bần-Đạo dám chắc còn lâu lắm Ngài mới đến viếng mặt thế-gian này vì Ngài đã sợ-sệt, đã gớm-ghiết hơn ai hết. Ngài tạo phẩm Liên-Hoa chót của Ngài rồi thôi. Vinh-diệu là biết bao nhiêu, vì khổ ấy mới đoạt được vinh diệu.

Hại thay ! những người không có đoạt được cái huyền-vi bí-mật tạo-đoan, đạt Đạo họ tưởng dễ lắm, dễ dàng lắm, họ tưởng một cái ăn, cái ở mà họ đạt được. Cái oái-oăm đó bởi tinh-thần người se-sua mơ-mộng lầm tưởng nội cái ăn cái ở , lại làm màu-mè bao nhiêu đó đủ đạt Đạo.

Coi lụng lại kiếp sống của Phật Thích-Ca, năm đạt đạo có 32 tuổi mà thôi, Ngài đạt coi dễ-dàng chớ không phải như thuyết mơ-mộng của nhơn-loại, ta thường thấy Ngài không cần gì, Ngài đã dày sành đạp sỏi trong kiếp sanh đã chịu khổ-hạnh cho tới 82 tuổi. Cái năm chót của Ngài 82 tuổi mà Ngài còn truyền-giáo, buổi qui-vị của Ngài mà còn truyền-giáo Ngài không có cảnh ở Chùa nào hay mảnh đất nào mà thiên-hạ đã hiến cho Ngài. Ngài chết giữa hai cội Bồ-Đề buổi Ngài 82 tuổi mà Ngài không có nghỉ, mỗi ngày ôm bình Bát-Du đi xin cơm nuôi trẻ khó tật-nguyền khổ-não. Đức Phật Thích-Ca đã chịu bao nhiêu khổ-hạnh là đi xin ăn mà sống. Bần-Đạo không tả nhiều, ai cũng biết cái cảnh ôm bình Bát-Du đi xin ăn có đủ no không ? Các môn-đệ của Ngài đã chịu khổ-hạnh quá, khi tới bên xứ Bénerès dân đó ăn cá, chỉ có cá với cơm, có vị môn-đệ yêu ái nhứt của Ngài là Vadatha ăn trường chay, cái thuyết của Ngài là cái thuyết ăn chay cao-siêu Vadatha ăn trường chay, nghĩ một điều là trên sáu ngàn môn-đệ đi đến đâu đều ăn xin của thiên-hạ, ai cho ăn cái gì thì ăn cái nấy.

Đến xứ Bénerès thiên-hạ cho ăn cá, người môn-đệ Vadatha nói nếu ăn cá thì không phải là Phật, nếu phải dùng theo luật buộc cả thảy đều ăn là được, Đức Phật Thích-Ca cho ăn thì người môn-đệ Vadatha xúi-giục môn-đồ của Ngài chia ra dắt đi một mớ, lập phe phân phái làm phản lại với Phật Thích-Ca như nạn Cao-Đài đã bị tấn-tuồng không có gì hết mà sanh ra phản Đạo, lập ra chi phái giết Đạo.

Một buổi trưa Ngài đang tham-thiền nhập-định tại chơn núi, chính Vadatha lăn đá xuống để cho Ngài chết, một vị Phật chẳng lẽ chết “bất đắc kỳ tử” như thế được, nên khiến một cây cản lại có miếng văn rớt xuống trúng chơn trái của Ngài đổ máu, Ngài dựt mình ngước mặt lên thấy Vadatha ở trên núi. Đức Phật Thích-ca nói : Sao dám làm đổ máu nhà Phật : có lời nói làm cho nhà Phật đổ máu mà Vadatha phải  chết, nòi-giống của Vadatha phải tiêu-tàn, vì Vadatha giết Phật chẳng kể gì sự sống của Phật.

Ngộ-nghĩnh thay ! bên xứ Jérusalem là dân bất động “Juif” tức nhiên dân Do-Thái giết Đức Chúa Jésus-Christ đã phân định tội-tình, nước người phái chịu điêu-tàn, nòi-giống người phải chịu lưu xứ. Quốc-Thể các người không còn. Ngày giờ nào các người lập lại Tổ-Quốc các người là ngày tận thế. Tiếng tận thế của Thiên-Chúa-Giáo, ngộ-nghĩnh thay sự tình-cờ mà chúng ta nên để ý. Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo Cao-Đài thì dân Do-Thái phục quốc lại, dân bất động đặng huờn-nguyên ấy là ngày ân-xá của Đức Chí-Tôn cho đám tội nhơn đứng đầu của nhơn-loại là dân Do-Thái là dân bất động. Chúng ta suy-nghĩ bao nhiêu đó, chúng ta thấy Đức Chí-Tôn lập nền Tôn-Giáo của Ngài đặng độ-tận chúng-sanh, quả nhiên có hiển-hiện trước mắt chúng ta đã thấy đó.

Bần-Đạo nói tiên-tri rằng : Làm như thế dân Do-Thái lập quốc, mình cũng như dân “Intouchable” nó sẽ qui-nguyên của nó lại, vì nó đã đặng ân-xá của Đức Chí-Tôn, cả hình phạt ấy do Đức Phật Thích-Ca định nó cũng như dân Do-Thái bị Đức Chúa Jésus-Christ định án nó mà nó đã được ân-xá, coi lời nói của Ngài hứa, đã thi-hành đó, nếu ai còn mơ-hồ nữa chết không còn hồn vậy.

Vì cơ-quan tận-độ chúng-sanh Đức Chí-Tôn đến lập thành quá nhiều cơ-quan ấy hiện-hữu hiển nhiên, nếu chúng ta không tướng tới, ngày kia về Bạch-Ngọc-Kinh không còn hồn, chừng đó người ta vạch ra không thể mình gian-lận được.

Hanh-phúc thay cho nhơn-loại ! hanh-phúc thay cho các đẳng chơn-hồn có duyên phần mộ đạo, gặp buổi Đức Chí-Tôn đến ở chung cùng mình, nếu không giải-thoát được, Bần-Đạo chưa dám chắc trái Địa-Cầu nầy phải chuyển kiếp lần thứ ba nữa cho thoát khỏi nghiệp chướng đặng qui-hồi cựu-vị.

 

Tại Đền-Thánh  Đêm 30 tháng 10 năm Kỷ-Sửu (1949)

Ý-NGHĨA SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI

Đêm nay Bần-Đạo đình thuyết Bí-Pháp, cái nguyên-do thế nào Bần-Đạo xin minh biện ra. Vã chăng, chúng ta đương ở trong hoàn-cảnh náo-nhiệt, vì hai thuyết duy-tâm và duy-vật đương chiến-đấu với nhau, chúng ta dầu Chức-Sắc Thiên-Phong hay là mấy em nam nữ cũng thế, là một phần tử trong Thánh-Thể Đức Chí-Tôn. Ngài đã tạo tinh-thần chúng ta, vì sự thương yêu của Ngài, Ngài lập thiên vị tại thế này cho con-cái thương yêu của Ngài, Ngài hiểu chúng ta ký hòa-ước với Ngài, để thay thế hình ảnh cho Ngài, đem hết tinh-thần từ-bi công-chánh của Ngài, đối với Vạn-Linh, tức nhiên chúng ta phải thay thế hình ảnh cho Ngài, dung hòa Vạn-Linh hiệp với Chí-Linh, tức nhiên Ngài cho ta cái sứ-mạng để dung hòa Đời với Đạo.

Cái lý-thuyết duy-vật, là cái lý thuyết sống của đời, còn cái lý thuyết duy-tâm phải chăng là cái sống của Đạo, đáng lý ra chúng ta phái tùng bên mặt duy-tâm thì mới phải, bởi chính mình chúng ta có sứ-mạng thay thế vì chủ của duy-tâm tức nhiên chúng ta phải ngã bên mé duy-tâm hơn hết, vì đã có ký hòa-ước với Đấng Chí-Linh kia giữ công-chánh đặng dung hòa tinh-thần đối với đạo, vì mức công-chánh ấy chúng ta không nên nghiêng đổ đó vậy.

Chúng ta tìm-tàng, chúng ta định lụng lại, là có cái lý-do này, Đạo Cao-Đài không cần dùng mê-tín dị-đoan là do sự tín-ngưỡng đặng mạnh-mẽ của nó. Chúng ta không cần trái ngược lụng lại, đem hết triết-lý chơn-thật để tại thế nầy mà thôi. Bởi vì dối trá dầu cho Đạo hay Đời, trường dối trá ấy đã làm cho cơ thể Tạo-Đoan nghiêng-ngữa. Chúng ta không cần xu hướng, theo cái dối-trá thường tình nữa, chúng ta phải tiêu-diệt cái dối-trá ấy. Lại nữa trong hoàn cảnh chúng ta đương làm trung-gian giữa Đạo và Đời, chúng ta chẳng nên mượn thế lực mê-tín dị-đoan để làm khiếp phục đặng quyết thắng tà quyền đương làm tinh-thần loài người điên-đảo, một trường ngôn-luận xù-xì đã kiếm thế hèn tiện của thiên-hạ đang tính tạo thành một phản-động-lực đặng làm mất giá-trị của nền chơn-giáo Đức Chí-Tôn. Bần-Đạo nói thật, muốn đánh tiêu cả sự dối-trá, gian ngược ấy, chẳng phải dễ, người có thể làm cho thiên-hạ mê-tín dị-đoan được là Bần-Đạo, mà Bần-Đạo không làm. Bởi vì Bần-Đạo coi sự làm ấy hèn tiện và vô đạo-đức, Bần-Đạo chỉ lấy một triết-lý chơn-thật của Đức Chí-Tôn để giáo đạo cho con-cái của Ngài mà thôi.

Bần-Đạo duy muốn làm bạn với con-cái của Ngài nên phẩm vị Phật sống của Đức Chí-Tôn để cho Bần-Đạo, mà Bần-Đạo chưa có ngồi. Aáy vậy mê-tín dị-đoan trong cửa Đạo Cao-Đài không có và không cần nó, quả-quyết hẳn vậy, nên đình lại bí-pháp chơn-truyền, nếu thuyết ra là lấy cái quyền-năng mê-tín dị-đoan mà thắng thiên-hạ là một điều hèn nhát nên Bần-Đạo không dùng, để khi nào dùng được Bần-Đạo sẽ dùng. Bần-Đạo hứa chắc sẽ giáo-hóa cho con-cái Đức Chí-Tôn mà thôi.

Bây giờ Bần-Đạo xin thuyết :

Ý-vị và ý-nghĩa lý sống của con người”.

Vả chăng, chúng ta đến với một phần xác ở tại thế nầy, chúng ta phải biết cái sống của nó có ý-vị gì ? Đã sanh đứng làm người sống tại mặt thế-gian nầy, chúng ta nên tìm hiểu cho thấu đáo cái ý-vị của cái sống ấy và cái ý nghĩa của nó thế nào trước cái đã. Vì thế mà từ Thượng-Cổ đến giờ tinh-thần loài người vẫn đeo đuổi mãi mà thôi, vì cớ cho nên tượng trưng cho các hình tướng, các nền Đạo, các Tôn-Giáo.

Chúng ta quan-sát cả triêùt-lý của cái sống phải có lý-do nào ? Sống đương nhiên của chúng ta có hai cái sống.

1.- Sống về vật chất, mà nói rõ ra sống về phương-pháp thú-chất.

2.- Sống về tinh-thần, tức nhiên sống về phương-pháp hiển-hách, anh-linh của nó, chúng ta thấy có hai cái quyền-năng ấy, nó tương-tranh với nhau mãi mà thôi. Vì cớ cho nên mới nảy sanh ra thuyết duy-tâm và duy-vật. Chúng ta thử nghĩ do lịch-sử của loài người, thì chúng ta biết loài người như đã nói cái thuyết kia là phải “Connais-toi, toi-mème” Nghĩa là : “Ngươi biết ngươi hơn hết”. Mình muốn biết mình đặng chi ? đặng tìm-hiểu cho thấu-đáo cái nghĩa lý sống cuả mình.

Chúng ta ngó thấy Thượng-Cổ, bực cổ nhân, nhứt là hạng vĩ nhân. Dân Aâu-Châu thì có Socrate cũng trong thời đại nhơn-sanh đó, chính Ngài lấy Đấng Chí-Linh trong Càn-Khôn Vũ-trụ, cái thuyết làm cho phản-động-lực coi Ngài như kẻ thù-nghịch đến nước, cái quyền-năng buổi nọ coi mạnh-mẽ thế nào ? định tử hình Ngài, cho Ngài lấy chén thuốc độc mà tự tử. Khi giam Ngài trong ngục, Ngài có phương thế hội đàm với các nhà triết-học. Tới giờ chúng đem chen thuốc độc đưa trong tay của Ngài biểu Ngài uống. Ngài bưng chén thuốc độc ấy để từ giả các bạn của Ngài mà Ngài nói như chơi vậy.

Ngài nói : “Tôi biết rằng : Ngoài cơ thể Tạo-Đoan của đời nầy nó còn có cơ-quan vô-hình tối trọng kia, tôi đã quả-quyết rằng có, thì cái chết nầy ta mong lắm chớ, giờ phút ta cầm chén thuốc độc nầy ta uống thì ta sẽ được hội-hiệp với các vị hiền-triết được làm bạn với họ thì có gì hơn” Nói rồi : Ngài bưng chén thuốc độc Ngài uống.

Giờ chết của Ngài, giờ ngặt mình của Ngài thì môn-đệ của Ngài hỏi : “Ngài chết đây rồi Ngài sẽ đi đâu ? hay sẽ làm gì ?” . Ngài cười nói : “Ta chưa biết, ta sẽ làm chúa cả cơ-thể Tạo-Đoan nầy, để điều-đình cả cơ-quan vĩ-đại của Càn-Khôn Vũ-trụ hay ta sẽ làm chơn của con châu-chấu, dầu thế nào cũng có Đấng cầm mực thước định cho ta làm cái gì, thì ta làm cái nấy”. Cái chết đối với Ngài không có nghĩa lý gì hết.

Đức Lão-Tử khi đạt được bí-mật của Bát-Quái-Đồ rồi, Ngài từ giả nhà Châu, Ngài về Côn-Lôn-Sơn mà an nghỉ, môn-đệ của Ngài hỏi : Ngài về Côn-Lôn-Sơn để làm gì ? có hanh-phúc hay không ? Ngài trả lời : “Duy có cái biết của ta mà nó làm cho ta có cái thú vị sống đặc-biệt riêng, không cần nói rõ hạnh-phúc ấy ra thế nào ? nhưng ta chỉ nói rằng : cái biết của ta nó làm cho ta hưởng được thú-vị an-ủi của cái sống ấy”.

Đức Khổng-Phu-Tử từ giả quan-trường về giáo Đạo cho các môn-đệ của Ngài, thiên-hạ gọi là vô-phước, mà cảnh thiệt vô-phước của Ngài là lúc làm quan cho nhà Châu, làm quan cho nước Tề, nước Yên, và lúc châu lưu trong lục-quốc.

Bây giờ Ngài về sống với thất-thập nhị hiền, tam thiên đồ-đệ của Ngài, là Ngài hanh-phúc hơn hết, vì Ngài biết thú-vị cái sống của Ngài thế nào, cái sống của Ngài vui về Đạo mà thôi.

Giờ trái ngược lại, sống chúng ta ngó thấy trước kia sống của Tần-Thủy-Hoàng, sống như Sở-Bá-Vương, hai tay trắng lập nên nghiệp đế, đè ép cả tinh-thần dân-chúng buổi nọ, vị Chúa của họ sanh-sát tàn-ác không có điều chi mà họ không làm, quyền hành của họ tàn sát lắm.

Cái sống của Tần-Thủy-Hoàng thế nào ? Dòm lụng lại, thấy cái chết của Ngài, Ngài than : Cái tài-tình thâu cả nghiệp Đế ta thắng được, duy có cái chết ta thắng không được, vì thế mới cho người đi kiếm thuốc trường-sinh bất tử, mê-tín đến nước người ta cho ăn dái ngựa mà cũng ăn nữa, ăng đặng sống mà anh ta cũng chết.

Nả-Phá-Luân đã được cơ-hội làm nên nghiệp Đế, hồi buổi đó làm cho cả toàn dân Aâu-Châu, các nước Chư-hầu đều cúi đầu hết thảy, đến chừng chết, chết trong ngục Le Saint-Hélène.

Ông vua giàu có sang trọng hơn hết là Louis XIV thiên-hạ hồi thế-kỷ đó cho Ông là vua Trời “Le Roi Soleil” cả thiên-hạ đều tùng phục kính trọng kiêng-nể, Aâu-Châu buổi nọ, có thể nói Ngài là một Vị Bá-Chủ của thiên-hạ, không có cái gì mà anh ta không có, “Phú Hữu Tứ Hải” sang trọng vô biên có một điều là đền Vua của Ngài “Palais Louis XIV quân lính canh từng bảy vòng, cấm cái chết vô trong Hoàng-Gia của Ngài mà không đặng, chết cả con cháu của Ngài cho đến nỗi gần hết trong Hoàng-Gia. Rốt chuyện Ngài truyền ngôi báu lại cho đứa cháu nội mà thôi”. Ngài than rằng : Hại thay ! Hoàng-Thành của ta mấy vòng canh nghiêm nhặt mà không cản được cái chết đến nhà ta.

Chức vị sang trọng của mình sống như cọp vậy, bắt được thịt ăn cho đã rồi nằm ỳ ra đó ngủ mà chúng cũng kiêng cũng sợ, nhưng chúng chưa biết thương, sống như cá Ông không ai thấy, mà chiếc ghe nào chìm thì cá Ông cũng đỡ. Cái sống con cọp không có ai thờ, còn cái sống của cá Ông có người ta thờ.

Hai cái sống đặc-biệt ấy là cái sống duy-vật và duy-tâm. Bần-Đạo tả ra cho can-cái Đức Chí-Tôn mỗi người lấy đó mà suy gẫm.

 

Tại Đền-Thánh  Đêm 24 tháng 12 Kỷ-Sửu (DL. 1949)

CÁI HIẾU CỦA ĐỨC JÉSUS ĐỐI VỚI ĐỨC CHÍ-TÔN

 CÁI NGHĨA CỦA ĐỨC CHÍ-TÔN ĐỐI LẠI VỚI NGÀI.

Đêm nay một đêm kỷ-niệm Jésus Christ  tức nhiên là Phật Christna giáng sanh bên Aâu-Châu mở Đạo. Thường năm hễ đến lễ Giáng-Sanh này thì Đạo Cao-Đài chúng ta vẫn tôn-sùng Giáo-Chủ Gia-Tô cũng như Vị Phật của chúng ta vậy, chúng ta coi Ngài cũng như một Vị Giáo-Chủ của một nền Tôn-Giáo đương nhiên đã để tại mặt thế này. Aâu-Châu văn-minh cầm quyền thiên-hạ gần có ba trăm triệu năm (300.000.000).

Thường năm Bần-Đạo thuyết minh cái lịch-sử của Ngài lập đi lập lại cũng thừa. Vậy hôm nay Bần-Đạo chỉ thuyết cái hiếu của Ngài đối với Đức Chí-Tôn và cái nghĩa của Đức Chí-Tôn đối lại với Ngài. Chúng ta sẽ ngó thấy và đã ngó thấy một cái gương “Phụ từ tử hiếu” nơi mặt thế này chưa hề có.

Khi Đức Chúa Jésus-Christ, tức nhiên Chúa Jésus đến thọ pháp giải oan nơi tay Ông Saint Jean-Baptist, giải oan cho Ngài tại bờ sông Jourdais. Khi Ngài thọ pháp vừa rồi thì liền có đạo hào quang hiện giữa không trung chiếu diệu ngay đầu của Ngài, tượng hình ba con bồ-câu trắng và giữa không trung nghe lời nói rằng : Này đứa con yêu-dấu của ta, ta đã tín nhiệm nơi con đó. Đức Chúa Jésus-Christ trong buổi ấy đã được Đại-Từ-Phụ nhìn nhận là con yêu-dấu của Ngài, vì cớ cho nên Ngài có quyền xưng là con của Đức Chí-Tôn , Ngài có quyền kêu Đức Chí-Tôn bằng cha, đã chẳng phải Ngài dụng quyền ấy mà thôi, Ngài lại còn muốn toàn thể nhơn-loại hưởng đặc ân được làm con của Đức Chí-Tôn như Ngài, vì cớ cho nên Đạo Thiên-Chúa đã truyền-bá toàn mặt địa-cầu này.

Chúng ta đã ngó thấy 3 năm Ngài hành Đạo, Ngài đã bị cái quyền Đạo-Giáo, tức nhiên với cái quyền lực của Moise khủng-bố bắt buộc chẳng khác nào như chúng ta đã bị, mà Thiên-Chúa Giáo cũng vẫn bị khảo dượt mãi thôi, giờ phút này cũng chưa dứt khủng-bố  bắt Đạo và bắt Ngài do toàn quyền Hérode Antipas của Nước Palestine xử tử Ngài.

Chúng ta ngó thấy thời buổi ấy gần ngày lễ trọng hệ của đạo Polse, ngay lễ ấy người tù-nhân được tha án tử hình, trong hai người : Tướng cướp giết người cướp của tàn hại nhơn-sanh không biết là bao nhiêu, bị án tử hình đem ra giữa quốc dân Juifs, tức nhiên dân Do-Thái, trong hai người này, cướp của sát nhân là Baraba, Jésus-Christ chúng lên án “mê-hoặc quốc-dân phiến-loạn” Hỏi vậy quốc-dân muốn tha ai, dân Do-Thái nói tha Baraba, giết Jésus-Christ.

Ba năm truyền-bá có lẽ chúng ta ngó thấy thế nào. Trong ba năm truyền-giáo không lâu, giữa nước Israel buổi nọ bị thâu chiếm thuộc-địa do dân Romain tức nhiên dân La-Mã. Sự truyền-giáo của Ngài không có đắc-lực mảy-may nào cả, nên buổi ấy đã lên án Ngài là kẻ trộm, kẻ cướp đồng án với kẻ sát nhơn, nên đóng đinh Ngài lên cây Thánh-Giá như kẻ tội nhơn tử hình kia vậy.

Trong Đạo-Sử buổi nọ có tên Christ can về tội cướp bị tử hình, vì lẽ chúng tôi gian dối, nói rằng : Ngài mê-hoặc con-cái Juifs nên bị án tử hình đóng-đinh trên cây thập tự-giá, Ngài chết như thế ấy, nếu không phải con mắt Thiêng-Liêng oai-quyền của Đức Chí-Tôn thì cái chết của Jésus-Christ mai-một mờ-ám mà thôi, không có cái gì gọi là chí Thánh cả, không phải vậy Đức Chí-Tôn đã hứa, đã nhìn nhận là con và chính mình Ngài đã ở trọn hiếu cùng hy-sinh tánh mạng của mình làm cho danh của Đức Chí-Tôn cao trọng, và làm cho nhơn-loại đặng hưởng đặc-ân của Đức Chí-Tôn chan rưới, làm cho con-cái của Ngài biết cái hiếu của Jésus-Christ đối với Đức Chí-Tôn từ thử đến giờ chưa có một vị Giáo-Chủ nào đã làm.

Giờ chót, chúng đem lên đóng đinh trên cây thập tự-giá gần trút linh-hồn mà khát nước làm sao, vì bị chúng bỏ đói bỏ khát. Ngài biết bây giờ xin nước uống, chúng nó sẽ cho uống mật đắng, mà bây giờ khát nước quá không thể nhịn được nữa mới xin nước uống, nó liền lấy bông đá nhúng trong chén mật đắng đưa cho Ngài uống, Ngài uống mật đắng, ấy đặng lãnh phần khổ-não của nhơn-loại. Khi uống rồi ngước mặt lên không trung Ngài kêu Cha nói : con đã làm xong phận-sự của Cha phú-thác, vậy xin dâng linh-hồn của con trong tay Cha, vừa nói đến đó thì vừa tắt hơi.

Cái hiếu của Ngài đến giờ chót đối với Đức Chí-Tôn đã trọn, còn Đức Chí-Tôn, nếu không phải giữ : “Nghĩa” với đứa con yêu-dấu con hiếu-hạnh của Ngài, thì cái chết của Jésus-Christ bất quá như kẻ tù-nhơn chết mà thôi, có đâu lên phẩm vị Giáo-Chủ ngồi trên ngai Thiêng-Liêng vô cùng quí-báu trên mặt địa-cầu nầy gần hai ngàn năm (2.000) tức nhiên (1949) một ngàn chín trăm bốn mươi chín. Trong lúc Đức Chúa Jésus-Christ làm con hiếu-hạnh có ba năm mà thôi, mà Đức Chí-Tôn trả lại cái danh--dự sang trọng cho Ngài đến một ngàn chín trăm bốn mươi chín năm là năm nay. Bài học ấy nó sẽ quí-báu cho toàn-thể con-cái Đức Chí-Tôn đương nhiên ngồi trong lòng Ngài, bây giờ nói toàn-thể chúng ta đây không lẽ không có một người hiếu-hạnh như Đức Chúa Jésus-Christ đối với Đức Chí-Tôn.

Bần-Đạo để dấu hỏi ? Nếu có một người hiếu-hạnh với Đức Chí-Tôn như Jésus-Christ thì toàn-thể con-cái của Ngài có hanh-phúc lắm, có người như vậy thì nhơn-loại sẽ thế nào ?

Bần-Đạo để cho toàn-thể con-cái Ngài tìm hiểu, kiếm hiểu, và làm cho đặng như vậy thì hanh-phúc cho nhơn-loại không thể gì tả đặng.

 

Tại Đền-Thánh Ngày 25 tháng Chạp năm Kỷ-Sửu (1949)

 TINH-THẦN THƯỢNG-VÕ CỦA CHƯ LIỆT THÁNH.

Trước Bần-Đạo để lời cám ơn Chư Chức-Sắc Thiên-Phong Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài. Hội-Thánh Phước-Thiện, Quân-Đội và toàn-thể con-cái của Đức Chí-Tôn, nam nữ có mặt tại đây để làm lễ truy-diệu các vọng-linh của chiến-sĩ anh-dũng ngày hôm nay.

Bần-Đạo là một vị Giáo-Chủ tưởng chẳng cần minh bạch nói thẳng-thắng ra cho toàn-thể điều biết cái khối thương tâm của Bần-Đạo thế nào, mỗi người đã cân lường nó.

Trót hai mươi bảy năm trường, nói rõ ra là từ khi mới mở Đạo, đi theo cái bông vô hình của Đức Chí-Tôn, lãnh một sứ mạng thiêng-liêng đem nền chơn-giáo của Ngài đến nơi mặt thế này, đặng cứu độ chúng-sanh. Ngài đã giao cho một đặc-điểm khó khăn hơn hết là tìm thế giải ách nô-lệ cho nước Việt-Nam hầu đem lại hai mối cảm tình của hai nước Pháp Việt làm khuôn-khổ đặng để nơi mặt thế này một kiểu-vở hòa-bình tâm lý. Muốn cho đôi đàng hòa, hòa với nhau một cách hợp pháp, hòa với nhau một cách xứng đáng thì ít nữa phương diện danh-giá đôi đàng phải ngang nhau, đồng thể với nhau mới đặng. Vì cớ cho nên Bần-Đạo lập giá-trị nước Việt-Nam này làm thế nào cho ngang hàng phẩm giá-trị của Vạn-Quốc, nên dùng nòi-giống Việt-Nam làm Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, hầu gieo truyền nền Chơn-Giáo của Ngài toàn trong thiên hạ.

Ôi ! Biết bao nhiêu hy-sinh, nhứt là buổi sau này, khi đã bị đồ-lưu hải-ngoại qui hồi cố quốc thì một trường chiến-tranh đã nổi dậy, con cái yêu-dấu của Đức Chí-Tôn đã hy-sinh biết bao sương máu để làm cho xong cái sứ mạng thiêng-liêng của mình.

Thật Bần-Đạo ngày nay đứng nói đây, Bần-Đạo thú-thật rằng : trường hợp như thế Bần-Đạo chưa hề tưởng-tưởng đặng, càng nghĩ càng nhớ cái bí-mật vô-biên của Đức Chí-Tôn đã tiên định trong bài thi của Ngài, năm Bính-Dần là năm mới khai Đạo Ngài đề bài thi này.

 Phong-Thần đừng tưởng việc mơ-hồ,

Giữa biển ai từng gặp Lão-Tô,

Mượn thế đặng toan phương giác thế,

Cùng như nương viét của chàng Hồ.

Thật ra Bần-Đạo không ngờ mà Ngài đã tiên định rằng : Cái thời cuộc đương nhiên hôm nay là tấn tuồng của Phong-Trần diễn lại đó vậy.

Trước Linh-Vị của các Anh-Linh Chiến-Sĩ Bần-Đạo tưởng-tượng chẳng khác nào Côn-Lôn Sơn của Đức Lão-Tử chịu tâm khổ lập bản Phong-Trần, Ngài đã chịu đau thảm về tinh-thần thế nào, thì ngày nay Bần-Đạo cũng chịu y như thế ấy.

Bao nhiêu xương máu con-cái yêu-dấu của Đức Chí-Tôn tức nhiên bao nhiêu sanh mạng anh-hùng Liệt-Sĩ Cao-Đài. Mỗi một giọt máu là một giọt huyết-lệ chan hòa trong ấy.

Muốn tương-lai nước Việt-Nam sau có ngước mắt dòm cả toàn thiên-hạ không thẹn thì ít nữa trong Quốc Dân, trong con-cái của nước Việt-Nam phải đủ can-đảm, đủ tinh-thần, đủ tâm-đức trung liệt ái-quốc nông nàn mới đem lại cái hạnh phúc chơn-thật cho nòi-giống nước nhà được. Những kẻ ấy chúng ta muốn tìm đặng duy có.... Bần-Đạo xin lỗi duy cửa Đạo Cao-Đài này mới có mà thôi.

Mỗi sanh-mạng ấy chúng ta đã thấy hiển-nhiên trước mắt, ngày nay người dám hy-sinh là người đã tỏ rằng mình là con-cái xứng đáng của nước nhà chủng-tộc đó vậy. Các vị anh-hùng đó là con-cái xứng đáng của nước Việt-Nam, là nòi giống trung-thành của nước Việt-Nam, các Đấng ấy đã dám hy-sinh cho Tổ-Quốc họ. Hỏi chúng ta mấy kẻ ấy chúng ta có tìm lại đặng hay chăng ? Câu hỏi ấy Bần-Đạo dễ dấu hỏi mơ-hồ.... Nếu có hay chăng tương-lai sẽ chỉ rõ, Bần-Đạo mơ-uớc một điều là những gương hy-sinh đó được đề trong tâm-não các chiến-sĩ Cao-Đài và Bần-Đạo mơ-ước phải nhớ mãi ấy là danh giá cao thượng của Đạo đó vậy.

 

Tại Đền-Thánh Thời Tý Đêm Mồng Một tháng Giêng năm Canh-Dần

(DL. 16-02-1950)

LỄ ĐẦU XUÂN

Đêm nay đã mãn một năm, khởi đầu qua năm mới, là năm Canh-Dần, tưởng chúng ta có thể đoán trước rằng : Đức Chí-Tôn đã dành để cho nước Việt-Nam, một sắc dân của Ngài đã lựa chọn, để gởi cái Chơn-Giáo của Ngài, tạo một cơ-quan cứu-khổ toàn thiên-hạ.

Bần-Đạo nhớ lại năm Bính-Dần, cũng đêm nay, cũng giờ này Đức Chí-Tôn giáng cơ ; buổi ấy có Đức Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo phò loan, Ngài kêu cả hai người đứng dậy, Ngài viết nói : Biểu toàn thể con-cái nam, nữ của Ngài chun ngang qua cây cơ đặng Ngài ban ơn cho mỗi đứa, cây cơ chống lên cả thảy đều chun qua. Sự làm của Ngài hồi năm Bính-Dần thế nào, đêm nay cũng vậy. Hiện giờ trong óc-não Bần-Đạo quả-quyết rằng : Mỗi năm giờ này đêm này Ngài hằng ở gần con-cái của Ngài, và cũng đêm nay Ngài ban ơn riêng cho toàn-thể con cái của Ngài, chúng ta nên tin đi, nên quả quyết đi.

Chúng ta có thể quả-quyết rằng : Ngài đã nói với chúng ta 24 năm trước, Ngài phải làm thế nào cho Quốc-Dân Việt-Nam này được giải ách nô-lệ mới xứng đáng làm thánh-thể của Ngài chính sứ-mạng thiêng-liêng khó-khăn ấy Ngài đã giao trọn trong tay của Bần-Đạo thiệt hiện đặng điều ấy. 

Oâi ! Nếu hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước giờ phút này Bần-Đạo tưởng-tượng lại ; tưởng Ngài biểu lên Thượng-Thiên gỡ mặt nhựt, mặt nguyệt đem xuống để nơi thế-gian này cho thiên-hạ thấy thì tưởng có thể đặng, còn phủi ách nô-lệ cho nước Việt-Nam Bần-Đạo chưa chắc đã làm đặng hay chăng ?

Giờ phút này Bần-Đạo ngó thấy Ngài giữ lời hứa và đã thực hiện đặng cho toàn cả con-cái của Đức Chí-Tôn, tưởng lại coi không có năm nào được vui như năm nay.

Bần-Đạo thú thật từ khi mới lọt lòng mẹ tới giờ và đã biết sống với đời cho tới ngày nay không có năm nào Bần-Đạo hưởng cái hanh-phúc vui sướng cho bằng năm nay, nó vui sướng làm sao đâu. Bần-Đạo rất thỏa dạ thi hành sứ-mạng thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn ; ngọn cờ cứu-thế do nơi cửa Đạo Cao-Đài nầy, do tay của Đức Chí-Tôn đến ban tinh-thần để giải ách nô-lệ cho nước Việt-Nam và đòi cả sự độc-lập thống-nhứt Hoàng-Đồ lại cho họ. Mỗi phen Bần-Đạo đứng nơi Giảng Đài nầy nói điều ấy thì trước kia chưa có chi hết ; ngày nay Bần-Đạo dám đảm-đương bảo-kê rằng sự độc-lập và thống-nhứt cuả nước Việt-Nam phải có, phải đặng và đến nay đã đặng.

Năm Canh-Dần là năm Bần-Đạo 61 tuổi, đã chung sống nơi cõi tạm nầy, mới một lần đầu tiên Bần-Đạo hưởng được hanh-phúc vô đối của Đức Chí-Tôn đã ban cho đó vậy.

Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con-cái của Đức Chí-Tôn; nam cũng vậy, nữ cũng vậy, nếu toàn-thể con-cái của Ngài, một đôi triệu chơn-linh mà có đức-tin vững-chắc như đức-tin của Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt, Đức Thượng-Phẩm Cao-Quỳnh-Cư và Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc, nếu cả thảy đều có đức-tin vững-vàng dường ấy, Bần-Đạo dám nói chắc rằng : Các người dời núi Bà xuống Châu-Thành Saigon cũng được, có thể nói, nền Đạo Cao-Đài này thiệt hiện được như ngày nay là nhờ đức-tin của Thượng-Trung-Nhựt.

Bần-Đạo nói, ngày nay sự độc-lập và thống-nhứt nước Việt-Nam đã thiệt hiện, quả sự thật vậy, Bần-Đạo đứng giữa đây không thêm không bớt, sửa soạn đi đăng hưởng hạnh-phúc vô đối của Đức Chí-Tôn ban cho.

Ngày mùng năm tháng Giêng năm Canh-Dần đến đây toàn-thể Quốc-Dân Việt-Nam sẽ hân-hoan thế nào, nếu ai có biết vui sướng hân-hạnh. Aáy là ngày giờ đơm trái trước mặt cho họ ngó thấy.

Bần-Đạo sẽ sắp-đặt thế nào cho cuộc lễ biểu-tình được long trọng để thúc tinh-thần con-cái của Đức Chí-Tôn và toàn-thể Quốc-Dân được hưởng hanh-phúc mà họ đã chờ đợi trên 80 năm nay.

 

về trang chủ