Ði đạo  Tam kỳ  Phổ độ

Tòa Thánh  Tây Ninh

 

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

NĂM KỶ-SỬU & CANH-DẦN

QUYỂN 4

 

HỘI-THÁNH GIỬ BẢN-QUYỀN

IN LẦN THỨ NHỨT

NĂM GIÁP-DẦN

(1974)

 

Đại-Đồng-Xã, ngày mồng 8 tháng Giêng năm Tân-Mão(dl. 15-02-1951)

LỜI HIỆU TRIỆU CHIẾN-BINH CAO-ĐÀI NHƠN-DIỆP LỄ XUẤT-QUÂN.

Thưa cùng chư Viên-Quan, thưa cùng chư Chức-Sắc Thiên-Phong, chư Tín-Đồ Nam-Nữ, các Chiến-Binh Cao-Đài.

Mỗi phen Bần-Đạo lên giảng đài để kêu gọi tâm-hồn toàn thể quốc-dân Việt-Nam tưởng-niệm đến tương-lai Tổ-Quốc là buộc mình Bần-Đạo nhắc lại sau tám chục năm nô-lệ, ngày nay giải ách đặng độc-lập cùng vạn-quốc. Mỗi phen Bần-Đạo kêu gọi là mỗi phen làm cho Bần-Đạo xốn-xang nhiều chuyện khiến cho Bần-Đạo chẳng minh tả được.

Một người đứng trong trường-hợp như Bần-Đạo đã tượng-trưng tinh-thần cho toàn thể nhơn-loại, có nơi mình một sứ-mạng thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn phú-thác, thì người tượng-trưng tinh-thần ấy, buộc phải kính-nể, tôn sùng cả tinh-thần của người khác, lẽ thường vẫn vậy, luật Thiên-nhiên đã định vậy. Trước mặt Bần-Đạo không có một điều chi nói phân cách với nhau tất cả về mặt tinh-thần cũng như hình-thể.

Hành-tàng của đời, từ thượng-cổ tới giờ vẫn có một khuôn-luật, khuôn luật tiến triển của tinh-thần và bình-chất, cái khuôn luật ấy nó xúi giục xô đẩy nhơn-loại phải tranh đấu, buổi nào cũng tranh đấu để phương thế bảo trọng sanh-mạng của mình, đặng định-luật bảo tồn chung cho đồng-loại của mình. Luật tiến-triển buộc con người phải tranh-đấu, nhưng có một điều là trong phép tranh-đấu ấy không bao giờ qua khuôn luật nhơn-đạo. Nếu không có nhơn-đạo thì không còn công-lý nơi mặt địa cầu này chút nào cả.

Nhơn-loại phải sống chung với nhau trong khuôn-khổ nhơn-đạo mà thôi, nếu nhơn-đạo bị tiêu diệt, thì sanh-mạng của loài người nơi mặt địa-cầu nầy phải tiêu-diệt, bởi không còn khuôn luật xã-hội nhơn-quần, nếu muốn nhận-thức thì Bần-Đạo nói thế nầy: Dầu họ muốn biết hay chẳng muốn nhìn hay chối cũng không được, cả thảy quốc-dân Việt-Nam và các nước Liên-bang chúng ta đã nhìn nhận rằng : Quân-đội Cao-Đài đã hy-sinh đặng bảo-tồn nhơn-đạo ấy. Bần-Đạo thử hỏi có hành-tàng cao-thượng nào hơn là hy-sinh mình đặng bảo-vệ sanh-mạng của thiên-hạ chăng ? Có chí hướng cao-cả nào hơn nữa, là bảo-tồn nhơn-đạo đặng bảo-thủ tương lai sanh-mạng cho toàn thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này chăng ? Chí-hướng ấy Quân-đội Cao-Đài đã có, vì chính nó đã hy-sinh để trương ngọn cờ Bảo-Sanh Nhơn-Nghĩa Đại-Đồng và đã thực-hiện đặng trước mắt Bần-Đạo không có một lý-tưởng về tinh-thần nào phản-khắc với nhau đặng, vì tư-tưởng đâu phải do một luật tuồng đời xuất-hiện. Các Ngài đã ngó thấy rằng luôn luôn Bần-Đạo không cố-chấp một điều chi về mặt tư-tưởng thì người ấy rộng mở hành-tàng, trong hành-tàng nên hư cũng thế, duy có thời gian mơi định cái nên hư, trọng khinh cho nó mà thôi. Bần-Đạo không phê-bình các đảng-phái, quốc gia hay đối-phương. Về tư-tưởng, trước mắt Bần-Đạo không phân biệt, và Bần-Đạo nhứt định không phân biệt, duy có phân-biệt một điều là hành-tàng vô nhân đạo mà thôi. Vì lẽ hành-tàng vô nhân-đạo của họ, mà Bần-Đạo phải đứng ra trương cờ Quân-Đội Cao-Đài để bảo-vệ những sinh-mạng vô-cớ, vì có bổn-phận bảo-vệ sinh-mạng của những kẻ yếu hèn, không phải bảo-vệ sanh-mạng của mình.

Trong thời buổi loạn ly, cả nòi-giống Việt-Nam bị chúng giết một cách tàn-nhẫn vô nhân-đạo vì cớ cho nên Bần-Đạo trương cờ nhân-nghĩa xúi giục con cái yêu thương của Bần-Đạo hy-sinh mình để bảo-vệ sinh-mạng thiên-hạ, hành-tàng cao-thượng đó dầu thiên-hạ có chối cũng không thể chối đặng, trọn lành của chúng ta, nếu chúng ta vẽ được chúng ta sẽ cứu thế.

Ngài thấy tinh-thần trọn lành ấy coi có tồn-tại hiện hữu mà định thế giải nguy, giải-quyết đặng bảo-tồn sanh-mạng của vạn-linh, nhứt là nhân loại.

Chúng ta đồ đặng chăng ? Theo tầm khuôn-khổ đạo-giáo của Đức Chí-Tôn mà lập thành thì đặng cái sở-vọng của chúng ta, điều làm đặng duy chúng ta cần-cù mài-miệt cố gắng thì sẽ làm đặng.

Hại thay ! nếu không trọn lành ấy, Đức Chí-Tôn để quyền nơi tay của nhơn-loại. Trong thời-kỳ nguyên-tử nầy, nếu có con người điên kia cầm trái bom nguyên-tử liệng xuống đất cũng có thể giết cả sanh-mạng con người. Duy cóthằng điên kia mới làm nổ trái bom nguyên-tử nơi mặt địa-cầu nầy để tiêu-diệt cả nhơn-loại mà thôi.

Phải trọn lành, trọn lành đặng bảo-vệ sanh-mạng của vạn-linh. Nhứt là sanh-mạng của nhơn-loại. Nhưng tinh-thần của nhơn-loại đã đạt đến địa-điểm của đạo-giáo, nên Chí-Tôn giao mạng sống và mạng chết nơi tay của họ, họ có quyền sanh hay sát, cũng do họ. Đức Chí-Tôn đã giao trong tay họ quyền đặc-biệt ấy. Họ phải khôn-ngoan, hiển-hách chí linh cũng như chí-linh kia họ mới bảo-vệ sanh-mạng của họ đặng.

Nếu họ còn mờ ám không biết vi chủ cả sanh-mạng mình thì cơ-quan tự diệt họ trong năm đầu ngón tay của họ. Hỏi vậy bí-mật thiêng-liêng kia đã để cho họ đạt đến Tiên, Phật vị, hình ảnh tối thượng tối cao kia phải chiếu ảnh ra chiếu tướng của nó đã đạt đặng. Trong vạn-quốc nắm được báu vô giá là nguyên tử, thay vì để cho nó được trường-sanh bất tử, mà trái ngược lộn lại là món tận diệt với nhau.

Bí-pháp tiên-gia nắm trong tay, mà mặt luật vô đối kia họ thi-hành không đúng, tâm đức của họ không lập Phật vị cho họ, thì cả vạn pháp cả tinh-thần trí-não vô biên của họ sẽ biến làm một ngọn gươm bén đặng tiêu-diệt lại họ mà chớ.

Họ đã đặng hình Chí-Tôn để cho họ đạt đặng vạn-pháp tiên-gia hiện tướng ra mặt thế nầy. Nhơn-loại đã nắm vạn-pháp tiên-gia, làm chủ sanh tử của mình. Nếu họ không thể đạt Phật vị của họ thì họ sẽ tự diệt lại họ mà chớ.

Bần-Đạo tưởng Chí-Tôn đến cứu thế, dám chắc chưa đi đến nước đó. Phải có một giải pháp. Ngài đến hiệp cả giải-pháp mà chúng ta tạo chưa nên hình.

Giải-pháp cứu thế là giải-pháp của đạo mà có. Chúng ta có thể tạo ra giải-pháp đặng cứu thế. Nếu đặng hay chăng là do nơi tâm đức cuả toàn con cái của Ngài trong cửa đạo nầy đó vậy.

 

Tại Đền-Thánh Đêm 8 tháng Giêng năm Kỷ-Sửu (1949)

NHƠN-LOẠI PHẢI TÌM PHƯƠNG THUỐC  TRƯỜNG-SANH LÀ LUẬT THƯƠNG YÊU.

Ngày nay là ngày Lễ vía Đức-Từ-Phụ tức nhiên là Đức Chí-Tôn.

Ta thử xét 24 năm đạo Cao-Đài đã mở, mở do nơi tay ai ? Do chính tay của Đại-Từ-Phụ đến mở đó vậy. Nếu chúng ta nói rằng : Trót 24 năm Đức Cha Lành của chúng ta đã chung sống với chúng ta, tôi tưởng nếu chúng ta tưởng-tượng việc ấy cũng không quá đáng.

Thử nghĩ cái hanh-phúc mà chúng ta đã hưởng đặc-ân của Đức Cha Lành ấy. Chúng ta xét lại coi Ngài nếu chung lộn với chúng ta để làm gì ? Bần-Đạo tưởng cả thảy con-cái của Ngài đều hiểu và quyết đoán đặng.

Ngài đến với một lời hứa hẹn thiết-yếu, mà chính Ngài đến đặng chuyển pháp xây cơ chuyển thế Ngài đã hứa quả quyết nhơn-loại sẽ là một ; một về nòi giống một về xã-hội, một về tôn giáo. Lời hứa hẹn ấy nếu chúng ta không có đủ đức-tin vững-vàng, hay chúng ta không quyết mà muốn mang trên vai hai gánh biểu làm sao không đổ, mà nếu đổ thì đổ hết, sự thật vậy, cấp tốc nó có hại lắm.

Bần-Đạo vắng mặt trong 3 tháng vào Tịnh-Thất, Bần-Đạo đã định rồi sẽ ủy quyền trọn-vẹn cho các cơ-quan cầm quyền nhiếp chánh của Đạo trong khi Bần-Đạo vắng mặt. Bần-Đạo xin một điều là đừng có trích-điểm với nhau, phải giúp đỡ lẫn nhau mà thôi, nếu một cơ-quan làm không được thì ba hay bốn cơ-quan hiệp lại sẽ làm được, đừng trích-điểm, trích-điểm dở, nếu trích-điểm là vạch lưng mình ra cho người ta coi theo mà thôi, Bần-Đạo xin điều đó nhứt hơn hết, nếu toàn thể chấp thuận lời xin của Bần-Đạo, đưa tay lên cho Bần-Đạo làm tin.

 

Tại Đền-Thánh Ngày 15 tháng 01 năm Tân-Mão (1951)

NGHĨA-LÝ VỀ VIỆC ĐỨC HỘ-PHÁP NHẬP TỊNH TẠI TRÍ-HUỆ-CUNG.

NGÀY 16-01 TÂN-MÃO

Kể từ ngày 16 tháng giêng năm Tân-Mão, tức là ngày mai đây Bần-Đạo nhập vào Trí-Huệ-Cung.

Bần-Đạo đã nghe ngoài đời đồn rất dị thường, Bần-Đạo lên giảng đài cốt để giải rõ nghĩa-lý của Bần-Đạo nhập Trí-Huệ-Cung.

Bần-Đạo xin cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn biết rằng : Nền Đạo Cao-Đài Đức CHÍ-TÔN đến lập, do nơi chơn lý tối cao, chính mình Đức Chí-Tôn đến để diệt mê-tín dị-đoan, Ngài chỉ đem đến nền Đạo chơn-chánh này mà thôi.

Nó có hai quyền-năng sở-hữu của nó nơi mặt thế này, cả hành-tàng sống chết của nó đều chịu dưới hệ-thống của hai quyền-năng. Sống về xác thịt của ta đây, có thời-gian sống của nó, từ buổi sanh ra đến khi lớn lên, đến già rồi chết, luật thiên-nhiên ấy không ai qua khỏi, luật thiên-nhiên có giới hạn, có định-luật chuẩn thằng cho kiếp sống của chúng ta, nơi mặt thế gian này là hình-thể, còn về mặt chơn-linh của chúng ta, tức nhiên hồn của chúng ta phải chịu hệ-thống dưới quyền vi chủ của nó, mà người làm chủ của nó không ai khác hơn là Đại-Từ-Phụ tức nhiên Thượng-Đế.

Nhơn-loại mê-tín dị-đoan đã nhiều rồi, tinh-thần loài người đã bị gạt-gẫm nhiều rồi, bởi thế không gạt được nữa. Chỉ có hai quyền-năng ấy, không còn có mặt luật nào khác hơn nữa, ta chỉ tùng hai quyền-năng ấy mà thôi, ngoài ra là giả-dối.

Bần-Đạo vào Trí-Huệ-Cung tịnh-luyện, điều ấy không nói được Đức Chí-Tôn cho cùng không, chính Bần-Đạo cũng không biết được. Ngài ban cho chúng ta cùng chăng là do hồng-ân đặc-biệt của Ngài mà thôi, ấy là lời Bần-Đạo giải-nghĩa về mê-tín dị đoan cho toàn thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này vậy.

Bần-Đạo vào Trí-Huệ-Cung là do lẽ nhơn-loại phạm Thiên-Điều, vì loài người quỉ dữ gây oan-nghệt nơi mặt địa-cầu nầy đầy-dẫy, vì cớ, nếu không có tội tình ấy, Bần-Đạo dám quả-quyết rằng : Chí-Tôn không có đến dạy hội-hiệp con-cái của Ngài lập cơ giải-thoát tận độ con cái của Ngài bao giờ. Ngài đến đây bởi tội tình của con-cái Ngài không phương cứu-rỗi nên chính mình Ngài phải đến.

Bằng cớ hiển-nhiên chúng ta đã thấy, Vạn Quốc xô nhau đến con đường tử-lộ, bởi quả-kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà chẳng biết cái sống của ngườii khác. Nhứt là bạn đồng sanh của chúng ta, để mắt coi họ giết không bao nhiêu, giết đặng ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao nhiêu tuổi ? Giỏi cho lắm kiếp sống của họ không quá tám mươi tuổi rồi chết, thử hỏi, như thế biểu sao không gây oan-nghiệt tội-tình quả-kiếp.

Các Tôn-giáo hiện-hữu họ cố tìm phương cứu-rỗi, kiếm phương này không được họ tìm phương khác, cả toàn thể vạn-quốc họ cũng bày ra Vạn-Quốc Thống-Nhứt, đặng tìm giải pháp duy-trì hòa-bình, tìm một giải pháp đặng tránh cho khỏi nạn tương-tàn, tương-sát với nhau.

Oâi ! ỷ tài, ỷ tận, lấy trí khôn ngoan để tìm cái chết. Cả quyền năng Thiêng-liêng kia đã ban cho họ, họ lại làm món lợi khi tận diệt lấy họ. Đó là bom nguyên-tử, họ lấy cái khôn của tìm tìm ra cái chết, chớ không phải tìm cái sống, coi mạng sống của mình không ra chi hết, không biết đạo-đức luân-thường chi cả, không còn kể quả-kiếp tội ác, như thế chết cũng vừa.

Rồi họ lại tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt Thiên-Điều, Thiên Điều kia họ không thể vi-chủ nó được, vì nó là điều cầm sanh-mạng của họ, chết hay sống đều do mặt Thiên-Điều mà thôi. Họ không tìm phương-pháp nào để giải quyết được hết.

Thử coi trong 3 tháng Bần-Đạo qui gối dưới chân Đức Chí-Tôn, khóc-lóc thỉnh-cầu nơi Ngài cứu thử sanh-mạng loài người đặng chăng cho biết, toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn nam nữ cũng thế, rán giúp Bần-Đạo, Bần-Đạo xin một điều là trong 3 tháng Bần-Đạo vào trong cảnh tịch-mịch ấy, tương thân cùng Đức Chí-Tôn, ở ngoài rán cầu-nguyện giúp sức với Bần-Đạo.

Bần-Đạo xin rán nhớ một điều này là “Xin cho đồng-bào của mấy người, cũng như xin cho nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này được phương cứu-rỗi, ấy là may !”.

Bần-Đạo chỉ đặt cái máy truyền-thanh chỗ đó mà thôi, đặng cùng chăng là do nơi tinh-thần của toàn con-cái Đức Chí-Tôn đó vậy.

 

Đền-Thánh, đêm 17-04 năm Tân-Mão (1951)

ĐỨC HỘ-PHÁP THUYẾT GIẢNG VỀ LÝ-DO ĐỨC NGÀI NHẬP TỊNH TẠI TRÍ HUỆ CUNG.

“Bần-đạo nhập-tịnh trong 3 tháng cũng như

Đức Chúa Jésus ra ngoài sa-mạc 40 ngày và Đức Phật Thích-Ca vào vườn bồ-đề”.

Thưa cùng Chư Chức-Sắc Thiên-Phong.

Trước khi Bần-Đạo để lời về đạo-đức tinh-thần cho toàn con cái Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo xin cảm-ơn toàn thể nam, nữ.

Nhờ tình-cảm của toàn-thể chư Đạo-hữu mà Bần-Đạo được hưởng một đặc ân của Đức Chí-Tôn ban cho.

Kể từ ngày nhập-tịnh nơi Trí-Huệ-Cung, chắc con cái Đức Chí-Tôn đều đánh dấu hỏi ? Đức Hộ-Pháp nhập tịnh để làm gì ? Muốn làm gì ? Nghĩa lý gì mà nhập Trí-Huệ-Cung trong 3 tháng nay ?

Vậy Bần-Đạo giải rõ hành-tàng trong 3 tháng mà Bần-Đạo đã làm, cái hành-tàng đó cũ-kỹ chớ không mấy lạ gì. Cái hành-tàng về mặt Đạo giống như 40 ngày của Đức Chúa Jésus ra ngoài sa-mạc cầu-khẩn với Đức Chí-Tôn ban bố hồng-ân cho toàn nhơn-loại, đặng đem cơ-quan cứu-thế của Ngài giao cho khắp xã-hội nhơn-quần được hưởng, giống như Đức Thích-Ca vào vườn Bồ-đề ngồi thoàn-định đặng xin giải-thoát cho chúng sanh.

Còn về mặt thế, nó giống như Vua David vì tội tình nhơn-loại mà buổi nọ ra đồng Sa-mạc cầu-đảo, xin giải pháp cứu-khổ Chí-Tôn dân Y-sơ Ra-Eân, giống như Vua Hạ-Võ mặt hài gai đội nón lá, chịu phong-trần đặng cầu đảo cho quốc-dân khỏi tội.

Muốn nói rõ hành-tàng căn-mạng của toàn thể nhơn-loại và toàn thể quốc-dân Việt-Nam đã làm cho Bần-Đạo phải chịu 3 tháng nơi chốn tịch-mịch, để cầu-khẩn với Đức Chí-Tôn ban hồng ân đặc-biệt đặng cứu-rỗi lấy họ, là đem cơ-quan cứu-khổ của Ngài đã thiệt-hiện cho toàn thể nhơn-loại nhứt là sắc dân yêu-ái đồng chủng cùng Bần-Đạo là sắc dân Việt-Nam.

Chúng ta thử hỏi, một người tượng trưng tinh-thần của một dân-tộc, tinh-thần đạo-đức cho nước Việt-Nam đã có sứ-mạng đem tinh-thần đạo-đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa lại cái hung ác của người đời cho thành giọt nước Thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn, nước Thiêng-liêng đạo-đức của Ngài gội rửa con đường Thánh-đức cho sạch-sẽ đừng cho nhơ-bẩn, ấy là nước chí-thánh của Ngài, cầm giọt cam lồ đem rưới khắp toàn thể con-cái của Ngài tức là cả chúng sanh nơi mặt địa-cầu nầy, người ấy còn phải làm thế nào hơn ?

Oâi ! Cái cao vọng buổi nầy ai cũng muốn làm, được hay chăng không phải do quyền của mình, kẻ xin thì khác, mà kẻ cho lại khác.

Hại thay ! Tạo-nghiệp của nhơn-loại từ khi có nơi mặt địa-cầu nầy, đến bao giờ mới bảo-vệ được sanh-mạng của họ, cấp-tiến trong con đường giải-khổ, họ đã gây thêm trong sự-nghiệp của họ tội-chướng thì nhiều, mà phúc-hậu lại ít, biểu sao không có trường tu-huyết !.

Nếu chúng ta dỡ lịch-sử ra xem từ năm mươi năm nay, khởi đầu thế-kỷ hai mươi dĩ chí đến 1951, không buổi nào nhơn-loại hưởng-đặng hanh-phúc hòa-bình, chỉ tương-tàn tương-sát với nhau mà thôi. Nếu không có quyền-năng Thiêng-liêng kia thì Bần-Đạo nói quả-quyết rằng : Không ai cứu chữa tội tình nhơn-loại được. Chúng ta thương nhơn-loại không bằng cha sanh ra con đã sanh ra họ ra vừa hình thể, vừa linh-hồn tức là Đại-Từ-Phụ. Ngài đã cầm quyền sanh-mạng của nhơn-loại mà không cứu chữa tội tình của nhơn-loại được, phải chịu khoanh-tay ngồi để lụy, vì căn quả của nhơn-loại đã định vậy. Chính mình Đức Chí-Tôn cũng không phương sửa cải, nếu có phương sửa cải, thì không cần gì Bần-Đạo phải vào Trí-Huệ-Cung cầu-khẩn, Ngài đã làm trước rồi.

May thay ! Nhờ đạo tâm của toàn Thánh-Thể của Ngài và toàn con cái nam, nữ cũng vậy, nhứt là đám thiếu-niên đã làm cho cảm-động Đức Chí-Tôn, nên Ngài cho Bần-Đạo hội diện cùng quyền-năng thiêng-liêng 4 phen trong 3 tháng.

Bần-Đạo nói rằng : Cái định-mệnh của nhơn-loại, cũng như cái định-mạng của toàn thể quốc-dân Việt-Nam, trong giờ phút nầy ở trong ta Đức Chí-Tôn và Bần-Đạo dám quả-quyết rằng : Luật nhơn-quả của nhơn-loại chưa hết thì chưa tạo hạnh-phúc được.

Cái mơ-vọng của thiên-hạ đạt đặng cùng chăng là khi nào khối Thánh-đức của họ cao hơn phàm-tâm của họ, thì giờ phút ấy hạnh-phúc của họ mới có, và cơ-quan cứu-khổ của Đức Chí-Tôn mới thiệt-hiện được.

 

Tổng-Hành-Dinh, ngày 18-4 năm Tân-Mão (1951)

CÔNG-NGHIỆP CỦA QUÂN-ĐỘI CAO-ĐÀI TRÁCH-VỤ THIÊNG-LIÊNG.

Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh hưởng cái nghĩa, cái hiếu của toàn-thể mấy anh em vì Đạo, vì chủng-tộc nước nhà mà mấy em đã hy-sinh lập một danh-thể cao-thượng dường ấy. Nếu chúng ta là một thường nhân có thể hãnh-diện nói rằng : Cái tương-lai của nước Việt-Nam hay là tình-trạng đương nhiên về danh-giá buổi nầy của nước Việt-Nam là do bàn tay của toàn thể Quân-đội Cao-Đài đào tạo, điều đó chẳng sai chút nào hết, công cuộc đã xây-dựng nên tướng diện ngày nay đầu tiên hết là Quân-đội Cao-Đài.

Có thể nói rằng : Công-nghiệp của Quân-đội Cao-Đài trước sau đều tương-liên với nhau một cách mật-thiết rõ-rệt, điều nầy chẳng cần phải khen hay để lời phú-huấn. Các cấp chỉ-huy Sĩ-quan quân-đội đều lập được đại công về cái trách-vụ hơn hết, chỉ nghĩa là toàn-thể Quân-đôi Cao-Đài biết cái trách-vụ cao-thượng của mình, cái trách-vụ thiêng-liêng đặng nâng cao cây cờ Bảo-Sanh Nhơn-Nghĩa Đại-Đồng cho nó có nhân-nghĩa thiệt tướng cho cả thảy người trong nước, Ngoại-bang nghe được cũng phải trầm-trồ khen-ngợi.

Vả chăng, nơi mặt thế-gian nầy có hai mặt Luật, một là năng-lực vô-quyền, hai là năng-lực quốc-pháp.

Bần-Đạo giải cái tồn-tại của xã-hội nhơn-quần nơi mặt địa-cầu nầy, dầu muốn dầu không cũng phải tranh-đấu, vì luật tranh-đấu của xã-hội nhơn quần buộc phải có một lá cờ võ lực đặng định quyền của mình, hay là về năng-luật tinh-thần đạo-đức, nhưng về năng-lực tinh-thần đạo-đức Bần-Đạo không cần gì minh-tả mà cả thảy cũng đều biết.

Cả thảy hai điều đã nói trên đây, không phải các Quốc-gia nơi mặt địa-cầu nầy có hạnh-phúc hưởng được cả hai bao giờ. Nếu được điều ấy thì mất điều kia, chỉ được một trong hai điều ấy mà thôi, nhưng Quốc-gia Việt-Nam may thay được ân riêng của Đức Chí-Tôn cho trọn-vẹn cả hai năng-lực ấy. Một là về hình-thể, hai là về tinh-thần đạo-đức ; hình thể là Quân-Đội Cao-Đài, tượng-trưng tinh-thần đạo-đức là Hội-Thánh, tức nhiên là Thánh-Thể Đức Chí-Tôn trong cửa Đạo Cao-Đài.

Hai điều đó, chúng ta phải cố gìn-giữ làm cho thế nào đi đôi với nhau, ăn một nhịp mới có thể định vận-mạng tương-lai cho nước Việt-Nam được bằng để sơ xuất, mất đi rồi thì rất có hại, về điều đó Bần-Đạo coi chừng hết sức vì từ trước đếùn giờ nó vẫn mâu-thuẩn làm cho điều-hòa không phải dễ. Cốt-yếu Bần-Đạo làm cho điều-hòa là nâng-đỡ về tinh-thần đạo-đức cường liệt hơn. Bần-Đạo nói cho rõ cái năng-lực và võ-lực chỉ nghĩa áp-lực về quân-khí, nó không thể định vận-mạng tương-lai bền-bỉ được. Nếu nó có đủ quyền-năng định được thì xã-hội nhơn-quần không có tương-tàn tương-sát với nhau như ngày nay vậy.

Muốn định vận-mạng tương-lai cho nước Việt-Nam, cho nhơn-loại, phải có một tinh-thần đạo-đức cao-trọng chớ không phải thâu phục thiên-hạ nơi mặt địa-cầu nầy bằng võ-lực được.

Bần-Đạo nói : Ngày giờ kia Quốc-Gia Việt-Nam sẽ thâu-phục thiên-hạ với một tinh-thần đạo-đức. Aáy vậy, cái tu-chỉnh về tinh-thần đạo-đức mà một điều tối-yếu tối-trọng hơn hết.Vì cớ cho nên Bần-Đạo chịu 3 tháng nơi Trí-Huệ-Cung, tuy không thấy gì hết, nhưng thật là ảnh-hưởng mạnh-mẽ lắm, rồi đây bên Quân-Đội sẽ thấy điều đó.

Nhưng hôm qua đây khi Bần-Đạo nghĩ mình là Giáo-Chủ Cao-Đài sao không đi thăm viếng ai hết, như Đại-tướng Cao-Uûy Pháp đến, ai ai cũng đi thăm, đến các vị Giáo-Chủ, các nền Tôn-giáo cũng thế , riêng về Giáo-Chủ không đi rước thăm ai hết làm cho họ để dấu hỏi. Có phải người đó tự-kiêu tự-đắc, tự-trọng hay người đó vô chốn tịch-mịch đặng đòi cái gì ? Cho cái gì ? Mà cốt yếu của Bần-Đạo là vô chốn tịch-mịch đặng đợi chờ may ra được ân riêng của Đức Chí-Tôn ban cho được ngó thấy, thì Bần-Đạo còn ngồi ở Trí-Hụê-Cung nữa chớ chưa có ra đâu, cả thảy nên biết hôm qua Bần-Đạo hạ mình đến thăm Tham-Biện, thăm Mission. Có người nói Ông Già đó sao hạ mình một cách như thế, nhưng cao-thượng lắm đó, các con rồi đây để tâm suy-gẫm sẽ thấy ngộ-nghĩnh lắm.

Cái tương-lai năng-lực của mình là tranh-đấu, Bần-Đạo trông mong và sở-vọng tín-nhiệm trong tay Quân-Đội Cao-Đài. Vậy hình-thể và tinh-thần đôi bên tương-liên với nhau, yêu-ái với nhau, biết giữ mặt luật công-bình của Đức Chí-Tôn để hai cái đó mà thực-hiện đúng vậy thì không có quyền-hành hay huyền-diệu nào dời cho nổi với năng-lực của Cao-Đài.

Aáy vậy nên hư, đặng thất là do trong tay toàn-thể chiến-binh Quân-Đội Cao-Đài.

 

Đền-Thánh ngày 19 tháng 4 năm Tân-Mão  (1951)

PHƯƠNG PHÁP LẬP THIÊN-VỊ          

Đêm nay Bần-Đạo giảng phương-pháp lập thiên-vị của mình. Ngày Bần-Đạo đến tại Trí-Huệ-Cung, có đặng nhiều bức thơ của mấy bạn chúng ta cầu xin nhập vào Trí-Huệ-Cung một lượt với Bần-Đạo nhiều lắm.

Ngày giờ ấy chính mình Bần-Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển-chọn những chơn-linh đem vào cửa Thiêng-liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải-quyết thế nào về phương-pháp nhập Trí-Huệ-Cung nên chưa quyết-định. Nhứt là về mặt tuyển-chọn không biết trả lời làm sao. May duyên thay Đức Chí-Tôn thấy không thể giải-quyết đặng, mới cho hội-diện cùng các Đấng cầm quyền Thiêng-liêng của Đạo. Khi đặng hiểu rõ rồi, Bần-Đạo lấy làm hân-hạnh thấy rằng :

“Cái nền Chơn-Giáo của Đức Chí-Tôn vẫn là đường đường ngay chánh, nhứt định về thể-pháp chơn-truyền, không hề mê-hoặc ai cả thảy”

Bần-Đạo cũng quả-quyết răng :

“Những phương-pháp mê-hoặc của thiên-hạ về Đạo-lý sẽ bị Chơn-truyền của Đức Chí-Tôn từ từ tiêu diệt hết”.

Muốn định Thiên-vị của mình, quyền Thiêng-liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có tam-lập của mình mới được, gọi là nhơn-luân. Điều ấy Bần-Đạo có truyền cho Chức-Sắc Hiệp-Thiên-Đài hay trước rồi và dường như Đức Trần Khai-Pháp đã có thuyết-minh điều ấy rồi. Bần-Đạo không cần luận thêm nữa. Bây giờ chỉ nói tại sao có tam-lập ấy mà thôi.

Nếu người nào không có tam-lập thì không có ở chung với ai được hết, chính mình đối với cơ-thể hữu-vi của đời, tức nhiên thể-pháp mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có Bí-pháp để đạt-pháp, đạt Đạo. Thể-pháp mà không làm đặng, Bí-Pháp vẫn khó, làm sao cho rồi, nếu mà không rồi hành-tàng của họ về Bí-Pháp tức-nhiên mê hoặc chúng sanh mà thôi. Phải có hình mới có bóng, khi nào thấy bóng tức nhiên chúng ta quyết-định có hình, bóng hình phải tương-liên với nhau mới đặng.

Aáy vậy tam-lập là : Lập Đức, lập Công, lập Ngôn, con ngưòi khi sanh ra mặt địa-cầu nầy không có tam-lập thì giá-trị con người không có gì hết. Tam-lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã-hội nhơn-quần được.

Nếu con người không có đức thì làm sao xử-sự trong gia-đình, ngoài xã-hội đặng.

Con người không có công thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã-ngửa, còn mình ngồi đó hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời, thì sống với ai ?

Cũng như người ta thì chơn-chất thật-thà, hiền-lương đạo-đức, còn mình xảo-ngữ lường-gạt, không chút dạ nhơn từ, thì dầu cho người có tài-tình đến mấy mà thiếu ba điều đó mà thiếu thì không thể gì sống với ai được hết, như vậy thì địa-vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi...

 

Đền-Thánh, đêm 30-04 năm Tân-Mão (1951)

 HUYỀN-DIỆU CƠ-BÚT.

 

Đêm nay Bần-Đạo thuyết về Huyền-diệu cơ-bút cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, cả con cái của người nam, nữ cũng vậy đã biết về Huyền-diệu cơ-bút, nó là vấn đề chúng ta không thể gì lấy trí khôn, tưởng-tượng của chúng ta mà định cái chơn giả của nó đặng.

Tại sao ? Trong cái Huyền-diệu Thiêng-liêng ấy nó gồm  cả bí-mật huyền-vi của cơ-thể tạo-đoan hữu-hình và vô-vi của Càn-Khôn Võ-Trụ, chúng ta thử nghĩ các bậc chơn tu đắc pháp họ chỉ tìm đặng hiểu vô-vi-cảnh, đặng lập Giáo là khó khăn thế nào, từ thử đến giờ biết bao nhiêu kẻ tu mà tính lại coi được bao nhiêu người đắc Pháp đắc Đạo ? tìm thấu đáo  cho đặng cái bí-mật huyền-vi vô-định của Càn-Khôn Võ-Trụ nó lại khó-khăn quá lẽ, chẳng hề khi nào chúng ta lấy trí khôn định quyết đặng, định nó chỉ có chúng ta tìm hiểu lấy trí-thức mình, đặng định cái chơn tướng của vạn-vật hữu-hình, tức nhiên chúng ta chỉ học phương-pháp cách-vật trí-tri. Chúng ta thấy cái trở lực biết bao nhieu khó-khăn huống chi các việc trong cơ-bút thống hiệp cả sự khó-khăn của Huyền-vi-Cảnh với Hữu-hình-Cảnh nữa, nó khó lắm nếu luận điều ấy Bần-Đạo phải ngồi viết không biết bao nhiêu sách mới có thể tả ra mảy-may được,  lên tại giảng-đài nầy 15 phút hay nửa giờ thuyết về cơ-bút chẳng khác nào chúng ta cầm ly nước đổ xuống biển.

Aáy vậy, Bần-Đạo chỉ lấy cái đại-cương của nó, nói cho Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn cả con-cái của Ngài Nam, nữ thấu-đáo mảy-may chút ít, đặng khỏi bị cơ-bút làm cho đức tia tàn phá tiêu-diệt mà chớ.

Bần-Đạo buộc mới đây phải lập Thánh-Lịnh định khuôn-luật của cơ-bút có nhiều lẽ Bần-Đạo khoan-dung. Khoan-dung ấy làm cho phiền lòng đức Lý, cho nên Đức Lý trách Bần-Đạo cầm quyền Hộ-Pháp trong tay điều-trị, điều ấy mà không định-luật của nó đểû rối-loạn cơ-bút, nên Bần-Đạo lập Thánh-Lịnh, vì từ trước đến giờ Bần-Đạo để cho cơ-bút tự-do, Bần-Đạo nói thật tại giảng đài này, Bần-Đạo thấu-đáo được thánh-ý Đức Chí-Tôn, Oång lấy cái giả đặng lập cái thiệt, chớ hành-tàng của cơ đời họ điều lấy cái giả đặng lập cái thiệt, nhưng không có ai làm đặng hết, chỉ có tay ông Trời làm được mà thôi. Chính mình Đại-Từ-Phụ hồi mới ban-sơ đến đề 4 câu thi như vầy :

Phong-Trần đừng tưởng chuyện mơ-hồ

Giữa biển ai từng gặp Lão Tô.

Mượn thế đặng loan phương giác thế,

Cũng như nương viết của chàng Hồ

Lấy cái giả của đời, Ngài tạo cái thiệt của Ngài duy có Ông Trời làm được mà thôi. Cái giả mà Ngài làm được, chính Bần-Đạo có thí-nghiệm, Bần-Đạo có người bạn thiết ở ngoài đời, thi giỏi văn hay, bạn đồng chí với nhau biết tài lực với nhau, người ấy nghĩ rằng cả cơ-bút trong cửa Đạo xuất-hiện ra do đầu óc của Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo, người ấy cho rằng văn Cao Thượng-Phẩm cũng hay, chính mình Bần-Đạo thì cũng giỏi, người ấy cho rằng cả Thánh-Giáo ấy do Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo xuất-hiện.

Bần-Đạo thấy cái nghi ấy bây giờ muốn độ người, Bần-Đạo phải làm thế nào?  Muốn thử giả thiệt đặng biết ông Trời là ai, bạn làm ơn cầm cây viết đây, bạn là nhà văn muốn viết chi thì viết, còn Bần-Đạo sẽ dâng sớ với Đức Chí-Tôn,  Bần-Đạo cầu xin với Đức Chí-Tôn làm bài thi tứ tuyệt cho biết sự chơn giả các quyền-năng của Ngài đặng độ bạn. Người bạn ấy cầm cây viết, viết ra 4 câu thi tứ-tuyệt, chừng viết rồi Bần-Đạo đưa 4 câu thi Bần-Đạo đã làm để trong bao thơ, chừng ra coi họa đúng với 4 câu thi của bạn Bần-Đạo hỏi. Bần-Đạo chỉ đầu óc phàm, trí khôn của ta là khí-cụ của Đấng Chí-Linh kia cho bạn ngó thấy.

Đấng Chí-Linh kia lấy cái giả của bạn làm cái thiệt đó vậy. Người bạn ấy tỉnh giấc lại, tự mình theo Đạo, sự thật vậy.

Oâi ! Huyền-diệu cơ bút, chúng ta không thể gì tả cho được, trong Càn-Khôn Vũ-Trụ có hai ông chủ : ông chủ vô-hình của Càn-Khôn Vũ-Trụ, ông chủ vô-hình trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, ấy là Đấng Tạo-Đoan, là Đấng Chí-Linh, là Đấng Đại-Từ-Phụ, ông chủ thứ nhì là người tối-linh trong vạn-vật, tối linh trong vạn-vật cốt-yếu của Đức Chí-Tôn sanh ra loài người đặng lấy quyền của Ngài cầu quyền vạn-linh hữu-hìnhlà cầm quyền vạn-linh vô-hình của Ngài đó vậy. Bởi vậy Tiên-Nho chúng ta nhìn-nhận Thiên-Thượng, Thiên-Hạ, Thiên-Thượng là Đức Chí-Tôn, Thiên-Hạ là loài người. Muốn đặng thấu-đáo Càn-Khôn Vũ-Trụ tinh-thông trong vạn-vật, Đức Chí-Tôn dùng cơ-bút Ngài nói rằng : Một phần của con là một phần của Thầy hiệp nhứt mới thấu-đáo Càn-Khôn Vũ-Trụ tinh-thông vạn-vật. Hai người chủ quyền ấy, một người về hữu-hình, một người về vô-hình hiệp lại với nhau làm chủ cơ-thể  Càn-Khôn Vũ-Trụ có lạ chi ? Lạ chăng là cây cờ của chúng ta đưa lên hợp lực hai quyền năng ấy, trong đó có cây cờ đưa lên là lấy hai cái sống của hai ông chủ làm chủ cái sống duy nhứt, đặng phục lịnh quyền hành Thiêng-liêng Đức Chí-Tôn sử-dụng mà thôi, thì nó là cây viết Thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn đó vậy.

Khéo, chúng ta phải khéo, cảnh vô-tri Hữu-Tử-Thiên lại cũng có Vô-Tử-Thiên, chừng nào vô hàng phẩm đứng địa-vị Vô-Tử-Thiên, tánh-chất của họ cao siêu không còn phàm chất của họ. Các Đấng Thiêng-Liêng còn ở trong Hữu-Tử-Thiên họ cũng như thánh-thể ảnh-hưởng vậy, cũng có quân tử tiểu nhơn, cũng cá nhân cá tánh như ta vậy. Các Đấng ấy thế nào ta thế đó, có nhiều hàng phẩm ta không luận cùng, cũng có kẻ thì thân với ta, mà cũng kẻ thù nghịch đáo-để với chúng ta, không thể gì chúng ta hòa-giải họ đặng. Chúng ta ngó thấy Đạo-Pháp nếu có Phật thì có Ma, có Trời thì có Quỉ, chúng ta chịu hai cửa, một là cửa thua hai là cửa ăn.

Các Chơn-Linh, từ bậc Hữu-Tử-Thiên trở xuống biết bao nhiêu mà nói. Họ không đáng gì là Thầy ta mà họ mơ-vọng dạy ta, biểu ta làm học trò họ, đám chơn-linh đó nhứt là ở trong Đại-Hải-Chúng, đệ nhứt nguy-hiểm hơn hết là Kim-Quang Sứ tự là Quỉ-Vương, nếu chúng ta đã tu rủi lầm nghe người thì làm đầy-tớ cho người, làm môn sanh của người. Có một điều Bần-Đạo thấy hiển-nhiên trước mắt, khi Đạo mở, Thánh-Thể Đức Chí-Tôn còn thương-yêu hòa-ái với nhau, chưa đến đổi chia rẽ, chưa đến nổi thù-địch, kế người đến, Kim-Quang-Sứ  đến cầm cơ cây viết câu này :

  - Chín phẩm Thần-tiên nể mặt ta.

Ông Giáo-Sư B… ở Kim-Biên nói : “Ông nào đây chắc lớn lắm, bước ra quì xuống lạy. Cơ viết luôn :”  

  - Thích-Ca dầu trọng khó giao-hòa,

Kế ông C…bước ra quì xuống lạy nữa. Cơ viết tiếp :

  - Lấy chơn đem giả tô thiên-vị,

  - Thắng bại, phàm tâm liệu thế à ?

Tới chừng ký tên Kim-Quang Sứ mới biết là Quỉ-vương là Tà-Giáo. Hai người này đã theo nó, bằng cớ hiển-nhiên các bạn ngó thấy các bạn của ta đã lầm cái thiệt ra cái giả. Nếu không giải-quyết được cái hư thiệt chúng ta phải theo Tà Giáo mà chớ. Duy có Đức Chí-Tôn lấy giả làm cái chơn được.

       Kỳ tới Bần-Đạo giảng về Bí-Pháp nhập Tịnh-Đường.

 

Tại Đại-Đồng-Xã, ngày 02/5 năm Tân-Mão (1951)

LỄ KỶ-NIỆM NGÀY HƯNG-QUỐC.

Thưa cùng Chức-Sắc Thiên-Phong, Hội-Thánh nam nữ và chủ-quyền các cơ-quan Chánh-trị-Đạo. Lời nói hôm nay nhứt là để thấu tai toàn-thể quốc-dân Việt-Nam, Bần-Đạo chỉ cái kết-liễu mỹ-mãn vận-mạng quốc-gia Việt-Nam ngày nay là do ngọn cờ nhơn-nghĩa Quân-Đội Cao-Đài đó vậy.

Bần-Đạo phải giải-quyết rõ-rệt nghĩa-lý cuộc lễ và Bần-Đạo coi ngày lễ Hưng-Quốc Khánh-Niệm này, là một ngày trọng hệ trong cửa Đạo Cao-Đài, tức là cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống, mà Đức Chí-Tôn đã để nơi mặt địa-cầu nầy, nó không phải vì một xã-hội nhơn-quần, không phải vì một chủng-tộc, chính nó là cơ-quan tạo hạnh-phúc cho toàn-thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này.

Một kiếp sống Bần-Đạo rất may duyên được Đại-Từ-Phụ,  tức nhiên Đức Chí-Tôn đã chọn giao cái trách-nhiệm Thiêng-Liêng là gầy-dựng sao cho đặng hạnh-phúc cho toàn-thể con cái của Ngài, tức nhiên toàn thể nhơn-loại. Càng suy-gẫm càng tìm-tòi thấy không phải vì mê-tín mà biết cái tư-tưởng hành-tàng cao-thượng về đời ấy. Bần-Đạo nói rằng : nếu không phải Đấng Tạo-hóa của vạn-linh chủ-trương thì không có một trí-óc phàm nào chủ-trương cho được. Bần-Đạo tự nghĩ nếu nói Ngài mà lầm, lựa chọn một người thiếu đạo-đức giao cái trách-nhiệm đem hạnh-phúc cho toàn-thể con cái của Ngài là Ngài lầm, Ngài phải lựa một người dẫy-đầy lòng yêu-ái vô-tận như Ngài, đặng thực hiện tương-lai mong-mỏi của Ngài. Nhưng đặt nơi nào cho chắc hơn ? Ngài đã lựa-chọn Bần-Đạo, Bần-Đạo lấy làm ngạc-nhiên, và tự hiểu rằng Ngài không có lầm.

Ngài đã giao cho một trách-nhiệm tạo-dựng hạnh-phúc cho người nào biết yêu-ái nhơn-loại hơn hết, cái lựa-chọn của Ngài để lại nơi tâm trí của Bần-Đạo một bài học là lựa chọn không lầm. Bần-Đạo cũng phải lựa chọn người nào như Ngài đã lựa chọn Bần-Đạo vậy. Lựa chọn những tay nào có thể tạo dựng hạnh-phúc cho nhơn-loại, trước nhứt phải thí-nghiệm với Dân-Tộc Việt-Nam là bạn chi thiết của Bần-Đạo, là máu-mủ của Bần-Đạo là đồng-bào của Bần-Đạo, thí-nghiệm trước với một sắc dân ấy rồi mới có thể thí-nghiệm toàn thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này tức nhiên toàn thể các xã-hội nhơn-quần.

Bần-Đạo là người đơn-giản thật-thà lắm, không biết xảo-mị, không biết một triết-lý gì qua mức tưởng của nòi-giống Bần-Đạo. Bần-Đạo phải kiếm một lý-lẽ gì đơn-giản. Bần-Đạo hiểu rằng : Cái hạnh-phúc không ai cho đặng, không ai cướp đặng, không có tay nào đào-tạo cho vừa sức mình muốn đặng. Hạnh-phúc đã có sẵn cho chúng ta, cũng như thân-thể chúng ta vậy, nó phải phù-hạp với tâm-tình thân-thể của chúng ta, dầu cho ai có đủ thừa hạnh-phúc ấy mà cho chúng ta, cũng không phù-hạp với chúng ta được. Không phù-hạp thì không có hạnh-phúc gì hết.

Vậy cơ-quan đào-tạo hạnh-phúc là một cơ-thể liên-quan trọng-yếu với ta, mỗi người sanh ra phải đặng tự do không bị ai cướp quyền hay lệ-thuộc cho ai mới có đủ quyền-năng tạo dựng hạnh-phúc của mình, nếu chúng ta mất tự-do, mất độc-lập, mất tự-chủ thì không phương thế gì tạo hạnh-phúc mình được. Bởi vậy cho nên muốn đào tạo hạnh-phúc ấy, Bần-Đạo phải tiêu-diệt các trở lực làm cho chúng ta không thiệt-hiện được. Vì mỗi cá-nhân đều ở trong vòng thúc-phược thì không thể gì tạo hạnh-phúc cho mình được.

Bần-Đạo đơn-giản thật-thà lắm, Bần-Đạo lấy caí tỉ-thí nhỏ đặng định tương lai cho toàn xã-hội nhơn-quần, dầu co con cái của chúng ta, chúng ta cũng phải lựa chọn người để gởi-gấm, coi trong thân tộc của mình người nào biết thương-yêu nó, biết bảo-trọng tương-lai của nó, để cho nó nương năng-lực của người ấy tạo thân danh cho được vững-chắc. Điều đó làm cho cha mẹ ai cũng có tinh-thần ấy. Bần-Đạo đây cũng thế, Bần-Đạo lựa người, lựa người đặng gởi đồng-bào của Bần-Đạo, tức nhiên gởi Quốc-Dân Việt-Nam trong tay của người nào biết yêu-ái, đặng đem tạo hạnh-phúc cho họ, có thể chúng ta nói rằng : Muốn tìm người giao cho đặng không phải dễ, hoặc là kẻ có tài mà không đức, kẻ có đức lại không tài. Kẻ có tài chúng ta nhìn thật quả là tài, nhưng tinh-túy tài tình kia chúng ta còn để dấu mơ-hồ, chúng ta không lựa chọn người đó được. Còn người có dù bất tài, nhưng không biết chúng ta có thể nói rằng : Họ gây được nhiều cái phải, cái phải ấy chúng ta có đủ chủ quyền chuyên cho được, người ấy đã cùng sống với chúng ta, cũng chia khổ  với chúng ta, gieo nơi tâm não chúng ta nhiều tình-cảm, ta có thể chọn lựa được hơn người kia.

Bây giờ nói trắng ra Vương-Quyền của Việt-Nam với Cộng-Sản, thà là Bần-Đạo giao cái tạo dựng hạnh-phúc nòi-giống cho nhà Vua hơn là Cộng-Sản. Bần-Đạo cũng nhận rằng : họ có lổi với Bần-Đạo nhưng có thể tạo dựng hạnh-phúc được, còn hơn người kia không thể tin họ, giao cho họ được, cho nên Bần-Đạo gởi trong tay của nhà Vua. Nếu nhà-vua lỗi với Bần-Đạo, Bần-Đạo có thể trích-điểm được. Có ăn thì phải có chịu. Còn kẻ vô-cớ kia tạo hạnh-phúc bằng những lý-thuyết mơ-hồ, nếu không sáng-kiến được để cho nòi-giống Việt-Nam lệ thuộc lần thứ hai nữa, mà lệ-thuộc trong thế-kỷ nầy dám chắc không ai giải thoat cho đặng đó vậy.

Nhứt định Bần-Đạo không lầm, quả-quyết không lầm lựa tay đào tạo thống nhứt Hoàng-đồ ấy, có thể bảo trọng được Hoàng-Đồ đã có sẵn cầm nơi tay, để cho thiên-hạ chiếm-đoạt, ngày nay đòi lại được thì có thể cầm quyền bảo-thủ tồn-tại được, người ấy là kế chí, kế nghiệp cho nhà Nguyễn tức nhiên kế-nghiệp cho Hoàng-đồ nước Việt-Nam, đặng ví chủ định quyền sở-hữu tạo hạnh-phúc cho nó, quả-quyết được cho nên ngày Hưng-Quốc Khánh-niệm mồng 2 tháng 5 nầy, Bần-Đạo đề-xướng ra trọng hệ hơn hết, đối với các xã-hội nơi mặt địa-cầu này, hạnh-phúc của Quốc-Dân Việt-Nam không ai cho đặng, họ có chủ quyền hạnh-phúc ấy, họ phải đào-tạo cho mà thôi. Hạnh-phúc ấy quyền Thiêng-Liêng cho ai nấy hưởng, hạnh-phúc của mình không ai có quyền nào làm cản trở hay tiêu-diệt nó được.

Nếu Quốc-Dân Việt-Nam có đủ phương-pháp bảo-vệ hạnh-phúc được, thì có thể làm môi giới bảo-vệ hạnh-phúc tương-lai cho các sắc dân tộc khác được.

         

Hạnh-Đường Phước-Thiện, ngày 2-5 năm Tân-Mão (1951)

 LỄ KHAI-GIẢNG HẠNH-ĐƯỜNG PHƯỚC-THIỆN.

Hồi 4 giờ chiều Đức Hộ-Pháp đến chứng lễ khai trường trong trường có lập bàn thờ Đức Mạnh-Tử Tiên sư. Đức hộ-pháp hỏi cả môn-đồ trong trường, tại sao Đức Khổng-Phu-Tử Ngài truyền-giáo Đạo khi trước mà không thờ Ngài, lại thờ Đức Mạnh-Tử.

Cả thảy đều có trả lời nhưng không trúng lý, Đức Hộ-Pháp nói trong thời kỳ Đức Khổng-Phu-Tử lập Đạo-giáo giáng-sanh nhằm lúc thời bình lập đời quân-chủ, khi Đức Mạnh-Tử giáo-dân nhằm lúc thời loạn phong-trào sôi-nổi, giặc-giả tứ phương, bởi vậy cho nên Ngài lập đời lấy cái thuyết Quân-Chủ dân-quyền, tức là Quân-Chủ lập-hiến mới thâu-phục được lòng dân, ấy vậy mới phù-hạp với thời-kỳ nầy, tại vậy mới thờ Ngài.

Đức Hộ-Pháp hỏi câu thứ nhì : Tại sao Tam-giáo qui nhứt Thích, Đạo, Nho nghĩa là Phật, Thánh, Tiên mà sao không lập hội Phật-tông chuyển thế hay là Tiên-Tông chuyển-thế ?

Lại lấy Đạo-Nho lập thành Hội-Thánh mà Chí-Tôn đến khai Đạo, kỳ nầy lại dụng Nho-Tông chuyển-thế (cả Chức-Sắc đều có trả lời nhưng không rõ tột ý) Đức Hộ-Pháp nói : Đạo-Thánh, cốt yếu chuyển đời, mà chỉ có biết quyền, chớ không biết người biết mình, không biết Trời, nên còn khuyết-điểm, có công rèn-luyện tâm-tánh, mà không chỉ rõ đường siêu-thoát cho nhơn-loại, vì chỗ thiếu đó mà Đức Chí-Tôn mới đến đặng thêm sức, Trời và người hiệp một đặng lập Đời Thánh-Đức, nhơn-lực phải tùng Thiên-lực để đạt cơ mầu-nhiệm, thì tu-hành mới mong siêu-thoát nên lập Hội-Thánh ba Đài Bát-Quái, Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng-Đài đặng chấn-hưng ba nền Tôn-Giáo lại làm một, gọi là Tam-Giáo Qui-nguyên Ngũ-Chi Phục-Nhứt, là thêm Thần-Đạo và Nhơn-Đạo gọi Ngũ-Chi Đại-Đạo.

 

Tại Đền-Thánh, ngày 5-5 năm Tân-Mão (1951)

LÒNG YÊU-ÁI PHỔ-HÓA CHÚNG-SANH.

Ngày giờ ầy, chính Bần-Đạo đã hưởng được cái tình cảm của toàn thể con-cái của Đức Chí-Tôn, ngoài cái tấm lòng thương yêu vô tận, Bần-Đạo trong cái kiếp sống nầy, Bần-Đạo cũng không biết lấy chi để bồi đắp cho xứng-đáng.

Bởi vậy Bần-Đạo dám quả quyết : Nếu không thờ tấm lòng thương yêu vô bờ-bến toàn con-cái của Đức Chí-Tôn, thì cơ-quan đại-cuộc của nền Đạo ngày giờ nầy chưa chắc đã thành hình thiệt-tướng, để cho toàn thể dân-tộc Việt-Nam cùng ngoại-quốc để tâm sùng-kính.

Bần-Đạo thú thật rằng, ngoài cái chí cố-gắng của Bần-Đạo, còn có một quyền-năng vô đối Thiêng-Liêng, lúc nào cũng nhắc nhở Bần-Đạo phải đem hết lòng yêu ái đặng phổ hóa chúng sanh, vì thật ra cái sứ-mạng ấy, Đức CHÍ-TÔN đã tìm nơi Bần-Đạo mà giao-phó.

Đối với Quốc-dân Việt-Nam, là đồng-bào của Bần-Đạo, là máu-thịt của Bần-Đạo, là chủng-tộc của Bần-Đạo như thế nào, thì các dân-tộc khác cũng vậy, thì cái tình cảm của Bần-Đạo là cả toàn thể nhơn-loại, nó có một đặc-sắc của nó đời-đời kiếp-kiếp chẳng hề phai lợt.

Aáy vậy, Bần-Đạo để lời cám ơn cả toàn thể.

Chiến-sĩ  anh-dũng các con !

Cái sự-nghiệp của Đạo ngày nay, được đứng vững theo chơn-truyền, cũng là một phần do nơi công-trình của các con đào-tạo. Thầy đã thấy và cộng-nhận cái chí hy-sinh ấy.

Nhưng các con ơi ! Thầy cũng đã khổ-hạnh nhiều rồi mà Thầy cũng không khỏi thẹn một điều là Thầy chưa đem máu của Thầy mà chung-hòa giọt máu của mấy con.

Thầy đã hiểu các con chiến-binh hy-sinh, liều chết đặng bảo-vệ sanh-mạng và tài-sản của toàn thể nhơn-loại, các con dám làm, các con dám hy-sinh, cái ân-nghĩa giá-trị ấy giờ phút này, kẻ nào còn sanh-mạng và tài-sản là nhờ ơn của các con đó.

 

Đền-Thánh, ngày 15-5 năm Tân-Mão (1951)

BÍ PHÁP CỦA ĐỨC CHÍ-TÔN.

Trước Bần-Đạo đã hứa kỳ này giảng về Bí-Pháp, ấy là một điều giảng rất khó-khăn, Bần-Đạo lấy cả tinh-túy của nó thuyết ra đây, chẳng phải đứng nơi tòa giảng này mà thuyết cho đủ được. Nếu như không có điều gì trở ngại về bí-quyết, Bần-Đạo thuyết-minh cho toàn thể con cái Đức Chí-Tôn thấu-đáo, hiểu cho tận-tường cái bí-pháp Đức Chí-Tôn đến trong thời-kỳ này để trong nền chơn-giáo của Ngài. Aáy vậy Bần-Đạo có một điều mơ mộng tìm phương trụ cả đức tin con-cái của Ngài nam nữ, đặng cái đức tin ấy làm một ngọn huệ-quang Thiêng-liêng nó dìu-dắt Thánh-Thể của Ngài trong con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống tức nhiên con đường giải-thoát.

Bí-Pháp là gì ? Là những cái hình-trạng của Đạo về hữu-hình, tức nhiên hình-trạng của Hội-Thánh, tức nhiên hình-trạng của Thánh-Thể Đức Chí-Tôn tại mặt thế này. Là quyền-năng điều-khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ tức là quyền-năng vô-đối của Đức Chí-Tôn đã cầm nơi tay, Ngài đến cùng con cái của Ngài, đặng Ngài ban cho một quyền-hành đủ phương-pháp, đủ quyền-năng tự giải-thoát lấy mình.

Tiên-Nho chúng ta có trạng tả một điều vô-hình, để tả ra một hình-trạng hữu-vi, nó vô-tướng mà nó hữu-lý làm sao đâu. Tiên-Nho gọi chúng ta là khách trần, gọi mặt thế-gian, tức là mặt địa-cầu 68 nay là “Quán tục” ta là khách, cõi trần này là Quán, nó hay là sao đâu, không lấy đủ tỉ-thí gì minh-bạch chơn-chánh hơn tỉ-thí đó. Chúng ta thử nghĩ toàn cơ-quan huyền-diệu vô-biên Đức Chí-Tôn đào-tạo trong Càn-Khôn Vũ-Trụ và vạn-vật hữu-hình, chúng ta có thể quan-sát trước mắt chúng ta đây, chúng ta ngó thấy đều do khuôn luật Thiên-nhiên tương-đối mà ra, hễ có khuôn-luật tương-đối tức nhiên nó phải đối cảnh. Bởi khuôn-luật tạo ra hình, hễ có hình thì có cảnh, hễ có khuôn luật tương-đối tức nhiên phải có đối cảnh, tức nhiên có hình thì có bông, vô bông tức nhiên vô hình.

Chúng ta thử nghĩ luật tương-đối, chúng ta lấy điều đơn-sơ quan-sát chúng ta thấy sống trong giấc ngủ, và chúng ta sống trong khi thức, ngủ là sống với Vạn-linh, thức là sống với Vạn-vật. Chúng ta quan-sát được hai đối cảnh sống với khuôn luật Càn-Khôn Vũ-Trụ kia cũng vậy không có gì khác, có cảnh sống có cảnh chết, sống chúng ta thể nào chết chúng ta thể nấy, không có chi lạ. Sống chúng ta là khách của “Quán tục này, ta chết tức nhiên ta trở về quê Tổ, tức nhiên ta nhập trong cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống chớ không có chi lạ”.

Bây giờ hai hình-trạng ấy chúng ta thử nghĩ có liên-quan mật-thiết với chúng ta thế nào ? Đơn-sơ chúng ta nên lấy tỉ-thi một cách khoa-học là khi chúng ta thức mơ-vọng điều gì, làm điều gì cái năng-lực trong hành-tàng thường thức của chúng ta, trong giấc ngủ chúng ta nằm mộng-mơ nói tầm-xâm làm đối-cảnh của nó, đối buổi thức tức nhiên buổi sống ấy vậy. Thức ngủ là trong khuôn luật sống chết, cái sống phải có cái chết, hành-tàng của cái sống chúng ta thể nào thì buổi chết của chúng ta cũng hiện-tượng ra nguyên vẹn, ấy vậy không có điều gì lạ hết.

Bây giờ luận về phần Thiêng-Liêng tức nhiên phần linh-hồn của chúng ta. Bần-Đạo nói mỗi cá-nhân con-cái Đức Chí-Tôn đều có phẩm vị của họ có từ thử đến giờ, khuôn-luật vẫn có một mà thôi. Chúng ta thấy trong Bí-Pháp của Phật-Tổ Ngài đạt đặng bí-pháp Ngài để khuôn-luật giải thoát. Chúng ta đã ngó thấy tại sao người khác Đức Chí-Tôn không để “Tam-Diệu-Đề” tức nhiên, Lão, Bịnh, Tử trước mắt đặng lãnh giáo Ngài, lại để cho Đức Phật Thích-Ca thấy Tam-Diệu-Đề, khi Phật Thích-Ca thấy Tam-Diệu-Đề Ngài mới thêm một đề Sanh nữa là Tứ-Dệu-Đề : Sanh, Lão, Bịnh, Tử, Đức Phật Thích-Ca nhờ bí-pháp  của Đức Chí-Tôn để trước mặt Ngài mà Ngài đạt được cơ-quan giải-thoát có chi đâu. Muốn tránh Tứ-Diệu-Đề tức nhiên Tứ Khổ thì đừng gây Nhân, có Nhân tức nhiên có Quả, muốn tránh Sanh, Lão. Bịnh, Tử thì phải diệt cho hết Quả, lẽ dĩ nhiên đó vậy...

Bí-Pháp Đức Chí-Tôn đã cho Phật Thích-Ca thế nào, Đức Chí-Tôn cũng có thể cho can-cái của Ngài mỗi đứa để tự giải-thoát lấy mình.

Nếu Đức Lão-Tử không làm Thượng-Thơ-Tịch vô Đại-thơ-phòng nhà Châu, nếu Ngài không vô Thư-Viện nhà Châu lật Bát-Quái-Đồ của Phục-Hí để lại, chưa chắc rằng Ngài đã đoạt pháp, Ngài ngồi tìm-tòi coi Bát-Quái-Đồ để trong Thư-Viện nhà Châu, tức nhiên Bí-Pháp  của Đức Chí-Tôn dành để cho Lão-Tử. Khi Ngài đã đạt được Bát-Quái-Đồ rồi, Ngài được trở nên vị Giáo-Chủ danh-vọng đến đời nay.

Bây giờ tới Đức Chúa Jésus, vị Giáo-Chủ danh-vọng đương buổi nầy, gồm cả Vạn-Quốc các Dân-Tộc Aâu-Châu trong khuôn-khổ đạo-đức của Ngài nếu không có 40 ngày Ngài đã ra đồng sa-mạc thiền-định, Đức Chí-Tôn không đến  cùng Ngài và không bị quỉ cám dỗ thì Bí-Pháp của Ngài không hiện-tượng ra được.

Bây giờ đến Khổng-Phu-Tử, nếu Ngài không có khổ về Nhơn-đạo của Ngài và xã-hội của Ngài giặc-giả can-qua, bởi Ngài sanh ra gặp buổi loạn-ly đời Đông-Châu Liệt-Quốc, nếu Ngài không có khổ về công-danh của Ngài cho đến đổi và nếu Ngài không khổ về tinh-thần của Ngài vì hiếu, thì chắc tinh-thần của Ngài chưa ngó toàn thể các sắc dân, tức nhiên đồng chủng đồng-bào của Ngài, thì tôi tưởng Đạo-Nho của Ngài chưa xuất-hiện.

Nếu Đức Chí-Tôn không để Thánh-Thể của Ngài xuống 60 năm trước ngày mở Đạo, không phải ngày nay Ngài sai các chơn-linh xuống thế , không tạo hình ảnh Cửu-Thiên Khai-Hóa, Ngài không mở rộng cửa Bạch-Ngọc-Kinh tại thế-gian này thì dám chắc nền chơn-giáo của Ngài chưa hiện-tượng. Huyền-diệu thay nền chơn-giáo của Ngài ! Lấy cả quyền-năng vô-biên Ngài làm Thể-Pháp, Bí-Pháp của Ngài, Ngài lấy căn-bản Vạn-linh, Ngài tạo nên dặng phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật trên mặt thế-gian này.

Aáy vậy Bần-Đạo nói : Nơi cửa Tịnh-Thất chúng ta có thể nói rằng : Nơi chúng ta đưa bạn chúng ta đi cũng là cửa rước bạn chúng ta đến. Bí-pháp ấy càng ngày con-cái Đức Chí-Tôn càng ngó thấy, vì mới mở nên hình-trạng chưa có rõ, chớ hoàn-thành rồi con-cái Đức Chí-Tôn sẽ ngó thấy đối tượng Thiêng-Liêng của nó thế nào, phải để đức-tin vững-vàng nơi Thánh-Thể Đức Chí-Tôn cho cường-liệt, cường-liệt Đức Chí-Tôn mới xoay chuyển xã-hội nhơn-quần và tạo hạnh-phúc cho xã-hội nhơn-quần được.

 

Đền-Thánh đêm 01-6 năm Tân-Mão (1951)

 VỀ BÍ-PHÁP

Bần-Đạo hứa mỗi kỳ Đàn thuyết về Bí-Pháp. Tại sao Bần-Đạo phải thuyết minh về Bí-Pháp ? Đáng lẽ theo cổ-truyền Bí-Pháp là huyền-bí không thể gì truyền một cách rõ ràng được. Nhưng đối với Đạo Cao-Đài tức nhiên đối với nền Chơn-giáo của Đức Chí-Tôn nó không phải như trước, Đức Chí-Tôn đã nói rõ ràng rằng : Ngài đến cốt-yếu để diệt-trừ mê-tín mà hại thay từ trước đến giờ các Đạo-giáo nếu quả nhiên có mê-tín là do Bí-Pháp hơn hết.

Thể-Pháp của Đạo Cao-Đài là một trường công-quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta lập đức, lập công và lập ngôn. Còn Bí-Pháp Chơn-truyền Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài siêu-thoát. Nói về Thể-Pháp chúng ta hân hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức, chính mình Đức Chí-Tôn đã cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh-Thể của Ngài nơi mặt thế này. Oâi ! Quyền-lực về phương-pháp lập đức đối lại với cảnh Thiêng-Liêng là mua ngôi vị của chúng ta đó vậy. Lập công là Ngài đã tạo hình-thể của Ngài để tại mặt thế này, chúng ta phải lập công với sanh chúng tức nhiên lập công cùng con-cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô-lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng-sự cho con-cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh-thể của Ngài, do lập công mà ra. Bây giờ lập ngôn, chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây cơ-bút viết dạy chúng ta từ lời nói việc làm, từ tánh đức, từ đạo-lý. Còn ngôn, có ngôn gì hơn Ngài nữa để cả thảy các thể-pháp đặng chúng ta định vị chúng ta, chính tay Ngài cho ta mượn cả thảy.

Bí-Pháp là điều trọng-yếu hơn hết, nếu không phải chúng ta cầu nơi quyền-năng vô biên của Ngài đặng đoạt cơ siêu-thoát thì dám chắc rằng : Dầu Thánh-Thể của Ngài hay con-cái yêu-dấu của Ngài nam nữ cũng vậy, thì giờ phút này không có ai ngồi dậy, trong cửa Đạo Cao-Đài này, chúng ta vì một kiếp sanh thọ khổ Tứ-Diệu-Đề chúng ta chỉ mơ ước một điều là đạt đặng huyền-linh Bí-Pháp, trước khi thực-hiện đặng Bí-Pháp, chúng ta phải có một đức-tin mạnh-mẽ, đức-tin ấy phải đủ năng-lực trong tinh-thần của Hội-Thánh.

Muốn có đức-tin vững-chắc thì chúng ta phải có đức tự-tín, có tự-tín mới đạt đặng Thiên-tín, tức nhiên đạt đặng Đạo-tín của chúng ta. Muốn thấu-đáo và muốn đạt cho đặng tự-tín chúng ta phải tự biết chúng ta, rồi ta mới biết địa-vị đứng trong hoàn-vũ này đương đầu với Vạn-Linh, ngôi vị ở trong hàng phẩm nào, chúng ta phải biết chúng ta ở đâu mà đến, chúng ta mới hiểu con đường chúng ta sẽ về, Bí-Pháp sẽ dìu dẫn chúng ta đi trên con đường ấy. Cả tinh-thần nhơn-loại hoang-mang giờ phút nay họ chưa hiểu họ là gì ? Bần-Đạo chỉ cười có một điều là trí-thức tinh-thần con người đã đến địa-vị cao-trọng, cái hay biết của họ giờ phút này Bần-Đạo quả-quyết rằng, họ đã tạo nhiều rồi, bằng cớ là ở Thư-Viện tại New-York (Nữu-ước) chứa hai triệu hai trăm ngàn quyển sách, chúng ta thử nghĩ kiếp sống của chúng ta có ba vạn sáu ngàn ngày, chúng ta muốn đọc cho biết sách ấy ít nữa bảy trăm năm, mõi ngày chúng ta giỏi đọc một quyển.

Oâi ! cho cái hay biết của con người còn gì luận nữa, biết thật, giỏi thật, nhưng có một điều là họ chưa biết họ, con người chưa biết con người do đâu mà có. Giờ phút này dầu văn-minh cực điểm, trí-thức quá cao-trọng mà họ chưa biết họ là gì hết. Sự thật vậy, bởi họ không biết họ cho nên sản-xuất ra thuyết duy-vật và duy-tâm đang hy-vọng lấy vật-lý-học họ tìm con người, nhứt hơn hết là họ tìm căn nguyên con người, họ lấy theo vật-lý-học họ nói con người là con vật, họ nói con vật này cũng đồng sống như vạn-vật kia, họ tiềm-tàng vật-lý-học họ nói bổn căn con người là do tinh-trùng nam và cái trứng nữ, khi nam nữ giao-cấu với nhau hai thứ ấy hiệp với nhau sanh ra con người, con tinh-trùng nguyên-nhân nó là con sâu, tinh trùng nam là cốt, trứng của nữ là nhục, hai thứ đó hiệp với nhau thành cục huyết đỏ lòm rồi lần-lần mọc đầu, mọc tay biến ra thành nhơn-hình. Con thú gì trước kia cũng bởi do hai yếu-tố ấy hợp với nhau rồi biến ra hình-tượng của nó vậy. Bây giờ đạo cũng nhìn con người là con vật, nhưng lúc nó biến ra nhơn-hình, quyền-năng nào biểu nó biến, do quyền-năng nào cho phép nó biến, họ lấy vật-lý-học nói tầm-xàm, kẻ muốn tìm sự thật đem chơn-lý đánh đổ tinh-thần mà chơn-lý của họ là chơn-lý mộng-ảo.

Chính Bần-Đạo cũng nhìn sự thật chúng ta là con vật, Bần-Đạo biết rằng nơi mặt địa-cầu này trước kia tượng hình ra nó là cây, điều động có rễ, có máu, bắt đầu lần lần mọc lên cái đầu, hai cái tay, hai cái chân biến hình ra như con dã-nhơn, lần lần biến đi như như con khỉ vậy. Mà lạ chướng hơn hết lúc biến thân ra nó, cái linh cái sống của nó thế nào chúng ta không biết, hồi thời buổi nó tượng nhơn hình của nó rồi, hỏi vậy cái sống của nó ở đâu ? Ai cho mà có ? Và cái linh ở đâu mà có ? Đạo-giáo chúng ta có chối rằng thi-hài chúng ta không phải là con vật đâu. Chính Đạo-giáo nhà Phật có nói con người chúng ta là con kỵ-vật để cho Vạn-linh cỡi nó đi đường từ mặt địa-cầu nầy qua mặt địa-cầu khác, mà con thú ấy là người của ta, mà người cỡi thú ấy là Phật, tức nhiên là cái linh của chúng ta đó vậy. Bây giờ không phải thi-hài nầy siêu-thoát được, thú là thú, sanh ra tại Thổ huờn tại thổ, còn người cỡi nó là Phật cho nên không có quyền-năng nào giam-hãm hay trói lại được, Phật ấy mới thật là con-cái của Đức Chí-Tôn, chính mình con thú vật-lý-học đã nói, con thú có người cỡi, mà người cỡi ấy là Phật là con đẻ của Đức Chí-Tôn. Aáy vậy cơ-quan siêu-thoát là Phật siêu-thoát chớ không phải con thú nầy siêu-thoát được.

Ký tới Bần-Đạo sẽ thuyết cái sống của con người đối với vạn-linh nơi mặt địa-cầu nầy.

 

Long-Hoa-Thị, ngày 5 tháng 6 năm Tân-Mão (1951)

 BAN PHÉP LÀNH VÀ TRẤN THẦN CHỢ LONG-HOA.

Cái cơ chuyển thế đã đến ngày lập hiệp nhứt Đạo-Giáo, khiến toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn lo quay về một mối sống dưới lá cờ Nhân-nghĩa của Đạo Cao-Đài. Ngoài thì được sự bảo-vệ của Quân Đội, trong thì được sự dìu-dắt của Hội-Thánh, càng ngày nhơn-sanh qui tụ càng đông, vì thế nguồn sanh sống càng bị bóp nghẹt, nên Bần-Đạo cho lập gấp cái chợ nầy để tạo lại một nguồn sanh sống dễ-dàng cho nhơn-sanh.

Ngày giờ nầy, tuy là nhìn thấy cái chợ thô sơ, nhưng rồi đây nó sẽ bành trướng rộng-rãi hơn, long-trọng hơn mà chắc-chắn con cái Đức Chí-Tôn không bao giờ ngờ như thế, nhưng Bần-Đạo dám quả-quyết nó phải có và nhứt định có, vì cái chợ chuyển thế và huyền-diệu Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn đã định vậy.

 

Đền-Thánh đêm 30-6 Tân-Mão (2-8-1951)

KHUÔN-LUẬT NÀO CHÚNG TA ĐÃ SỐNG.

Kỳ đàn trước Bần-Đạo đã giảng và đã hứa kỳ đàn nầy Bần-Đạo giảng tiếp khuôn-luật nào chúng ta đã sống nơi cõi thế-gian nầy, kỳ trước Bần-Đạo giảng vấn-đề cái sống của chúng ta nơi mặt địa-cầu nầy và cái sống của ta nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống, kiếp sống ấy là kiếp chết của người đời họ thường gọi.

Bần-Đạo nhớ lại khi học Đạo cùng các Đấng Thiêng-Liêng, chúng ta đã có luận hai chữ sống, chết. Các Đấng Thiêng-Liêng cho rằng : Dùng hai tiếng ấy không có chơn-thực và không chơn-lý, cái hữu-ngã tướng của chúng ta, tức nhiên chúng ta hữu-ngã như bàn tay vậy, không lẽ bàn tay này lật ngửa là sống, bàn tay này lật úp là chết bất quá xây qua xây lại gọi là xoay chuyển mà thôi chớ có chết sống đâu. Sống chết không có nghĩa lý gì. Sống nơi mặt thế-gian nầy và sống nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống cũng gọi là cái sống mà thôi. Aáy vậy sống chết là chuyển-luân.

Hôm nay Bần-Đạo giảng khuôn-luật nào chúng ta sanh ra nơi mặt thế nầy, hay chúng ta sống nơi cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Đại-Từ-Phụ ta, cũng có tính chất như ta vậy thôi. Chúng ta nên lấy tỉ-thí người Cha của chúng ta nơi mặt thế-gian nầy, chúng ta tìm biết thử coi Ông biết cho chúng ta làm gì, hay là Ông định cho ta làm gì, mà ta định làm theo ý-thích của Ông hay nói rõ cả toàn-thể các Ông cha đã muốn cho con-cái làm gì, tức nhiên toàn thể nhơn-loại muốn cho ta làm gì, ấy là định-luật đó vậy.

Đức Chí-Tôn là Đấng tự hữu hằng hữu quyền-năng vô-tận vô-biên, vì cớ nào Ngài dựng vạn-vật và vạn-linh trong khuôn-luật nào ? Đấng toàn-năng toàn-trí ấy muốn gì không đặng mà tạo dựng ra vạn-vật hữu hình nầy, do khuôn-luật nào, do khuôn-luật chúng ta đã ngó thấy đã tìm khuôn-luật nhỏ ấy rồi. Chúng ta có thể đoán được khuôn-luật của Ngài, chúng ta mới biết, chúng ta có hai cái sống.

Sở năng chúng ta khi thức chúng ta đã muốn làm gì, khi chúng ta ngủ hành-tàng chúng ta đã làm gì ? Định-luật chúng ta đã làm gì, buổi chết chúng ta đã làm gì ? Hai khuôn-luật ấy định chung nhau, Đức Chí-Tôn có hai phần năng-lực như ta đương nhiên bây giờ, phần vô-đối, vô-cực, vô-thượng của Ngài là phần “Dương-năng”  “huyền-vị quảng-đại” của Ngài vô-cùng vô-tận, nơi đó tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ, bát phẩm chơn-hồn định số của Vạn-linh. Còn về phần “Aâm-năng” của Ngài, tức nhiên Ngài cũng có như ta một luật “thất tình lục dục” rồi Ngài phân tánh ấy ra. Ngài phân Aâm-năng ra Phật-Mẫu, chúng ta đang thờ buổi nầy.

Cái Dương-năng của Ngài và Aâm-năng của Phật-Mẫu, chính mình Phật-Mẫu biến thân ra cái Aâm-năng của Ngài chúng ta nói rằng : Phật-Mẫu với Đức Chí-Tôn, Đức Chí-Tôn với Phật-Mẫu là hai quyền-năng tạo dựng Càn-Khôn Vũ-Trụ Ngài cầm quyền tinh-thần, Đức Phật-Mẫu cầm quyền hình-thể.

Khi Kim-Bàn sản-xuất bát phẩm chơn-hồn đi ra chính mình Đức Phật-Mẫu tạo dựng hình-ảnh vạn-linh, vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn quyền-năng vô-đối, Ngài muốn thế nào cho toàn thể bát-phẩm chơn hồn tức nhiên toàn thể vạn-linh được hưởng gia-tài dành để là : Toàn-thiện, toàn-năng, toàn-tri của Ngài về tinh-thần, về hình-thể, Ngài muốn quyền-năng con cái của Ngài, tức nhiên vạn-linh có đủ quyền-năng vô-cực vô-thượng của Ngài, Đặng điều đình Tam thập lục-thiên, Tam-thiên thế-giái, và Tứ đại bộ-châu. Aáy là Ngài dành cho con cái của Ngài, muốn cho đặng toàn-năng toàn-tri vô-cực, vô-thượng như Ngài, Ngài phải cho sản-xuất, hồi sản-xuất nơi Kim-Bàn ra đơn sơ lắm, không đủ quyền-năng điều-khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ như Ngài, Ngài muốn cho chúng ta tạo dựng sự-nghiệp, muốn cho chúng ta có đủ trí-thức tinh-thần điều-đình đại-nghiệp ấy.

              

Đền-Thánh đêm 14-7 năm Tân-Mão (1951)

ĐỊNH PHẬN CỦA CON NGƯỜI

Kỳ đàn trước Bần-Đạo có hứa kỳ này giảng về định phận của con người, tức nhiên định phận của chúng ta. Dầu cá-nhân, dầu xã-hội nhơn-quần hay là toàn-thể nhơn-loại cũng vậy, chúng ta đã ngó thấy trước mắt một tấn-tuồng đau-khổ mà Đức Phật-Tổ đã tìm thấy chơn-lý ấy là Tứ-Diệu-Đề. Chúng ta tự nhiên nhận biết rằng, sống của ta ở nơi cõi thế này không phải sống đặng hưởng hạnh-phúc, trái ngược lại chúng ta đã sống một nơi cảnh khổ, Tứ-Diệu-Đề tức nhiên tứ khổ đó vậy.

Chúng ta lại để mắt xem thấy cơ đời đã vẽtrước mắt chúng ta nhiều lẽ bất công, chúng ta đã ngó thấy một tấn-tuồng, khôn hiếp ngu, mạnh hiếp yếu, sang hiếp hèn, hung-dữ hiếp hiền-từ, tàn-bạo hiếp đạo-đức, lẽ bất-công ấy dẫn loài người từ thử đến giờ đi tới biết chỗ nguyên-nhân của nó.

Chúng ta đã thấy Đạo-Pháp định chơn-lý của kiếp sanh mình. Vậy chúng ta đến tại đời này, hoặc đến đặng trả quả, hay đến đặng chia đau sớt thảm cùng bạn đồng khổ của chúng ta nơi cảnh thế-gian này, hai lẽ ấy chúng ta nên tìm-hiểu chơn-lý của nó đặng định phận cho chúng ta.

Đáng tiếc hơn hết những người không biết chơn-lý Tứ-Diệu-Đề, phần nhiều họ không biết tại sao họ đau khổ, vì thế nên họ đau khổ chừng nào, thì họ oán hận kiếp sanh chừng nấy, bởi kiếp sanh họ khổ nhiều hơn hạnh-phúc, họ giận mọi lẽ bất-công của xã-hội hỏi : Người tại sao sanh ra nằm trên đống vàng, giàu có sang trọng, thong-dong, còn người đẻ ra trong cảnh hàn vi cơm không đủ bữa, còn người đẻ ra ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, người lại đẻ ra nơi xó bếp chuồng gà.

Sống trong cảnh bất đồng biểu sao họ không phẩn uất, không thù hận kiếp sanh, trong kiếp sanh ấy họ thù hận mà không biết ai đặng trả cái thù hận ấy, thành thử họ oán hận toàn-thể bạn đồng sanh của họ, tức nhiên toàn-thể nhơn-loại.

Chúng ta đã ngó thấy tấn-tuồng họ đi tìm hạnh-phúc nhơn-loại giờ phút này họ đương tìm hạnh-phúc. Oâi ! Bần-Đạo thấy họ muốn kết bạn với cả thiên-hạ, kết bạn đặng họ nhơn-sanh toàn-thể thiên-hạ, mà đánh đổ lẽ bất công ấy cho tới ngày giờ nào nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này, và giờ phút nào cả giai-cấp trong thiên-hạ không còn nữa, đặng đồng đều với nhau, ngày ấy họ tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại đặng.

Họ lầm, vì chúng ta không thể gì đem kẻ ngu mà sánh với người trí, đem trẻ mới sanh sánh với ông già, dầu cho muốn đem lại nét công-bình, kẻ trí phải dạy bảo người ngu, ông già đủ lịch-lãm thế tình dạy lẫn người trẻ, dạy đó bất quá là một phương-pháp giải-kết mà thôi, chớ không đủ một vấn-đề định vận-mạng của họ được, chúng ta ngó thấy từ buổi sanh ra và trong trường hợp cùng đồng thể với nhau mà tại sao kẻ quan người dân.

Chúng ta ngó thấy đặng người trí họ thông-minh sáng-suốt họ định phận lấy họ, họ định đặng lấy mình, thì mình tựchủ được mình, còn có kẻ chỉ nương nơi người mà sống, vì thế cho nên tinh-thần ấy, đầu óc ấy là có giai-cấp đặc-biệt, chúng ta không thể gì làm cho cả toàn thiên-hạ đặng đồng tánh với nhau mà không đều với nhau, thì quyết-định tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại của họ ; điều ấy mơ-mộng không hề khi nào thiệt-hiện ra đặng.

Thưa Chư Chức-Sắc Thiên-Phong Hội-Thánh nam nữ !

 Những Đạo-Giáo đã sản-xuất nơi mặt địa-cầu có một đặc phận cũng như ta, mỗi cá-nhân đều có một đặc-phận, là đem cân công-bình Thiêng-liêng kia cân cái tình ái của chúng ta cho bằng cái sống, chúng ta biết rằng : Bạn đồng sanh của ta tức nhiên toàn-thể nhơn-loại đang khao-khát hạnh-phúc, chúng ta vẫn biết hạnh-phúc không bao giờ thiệt-hiện đặng, chúng ta chỉ tìm phương-pháp đặng an-ủi tinh-thần họ, nếu chúng ta có phương- pháp ấy thì mới sống gần Thánh-Thể Đức Chí-Tôn. Giờ phút nào chúng ta nghó thấy trước mắt chúng ta một người bạn thiệt-thòi ngu-dốt, ít-oi bị một người khôn hơn, mạnh-mẽ hơn hiếp đáp, lại có một người đứng gần bên kẻ ấy mà nói với người kia rằng : Em tôi khơ-khạo dốt-nát, ông thì thông-minh sáng-suốt không nên hiếp nó chi, ông cứ ăn hiếp tôi đây, tôi có thể đối thủ lại với ông.

Hoặc có một người bạn thiệt-thà yếu-đuối bị một kẻ mạnh-mẽ oai-quyền hiếp-đáp thì lại có một người đứng gần bên kẻ ấy nói : Em tôi yếu-ớt bạc-nhược không thể  gì đương đầu với người, nếu người muốn ra mặt anh-hùng với người này, thì đương đầu với tôi, tôi có đủ sức đương đầu với người, đem càn công-lý chỉnh đối sự bất công của đời mà ai làm đặng, tức là làm trọn phận-sự đối với đời đó vậy.

Các nền Tôn-Giáo kia dành cầm cân phân-phát lẽ công-bình ấy, chúng ta thấy Tôn-Giáo mới sản-xuất, họ có định phận của họ rõ rệt, họ là bạn của những người khó, an-ủi những người khổ-não, có nhiều khi chia từng miếng ăn, phát từng mảnh áo, tới chừng đặng quyển trong tay rồi chính họ là người cầm cân công-bình ấy không giữ địa-vị, kẻ cầm cân trở lại làm  chúa cả thiên-hạ, vì thế nên các nền Tôn-Giáo ấy ngày nay mất quyền.

Đạo Cao-Đài sản-xuất đem công-bình Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn để tại mặt thế-gian này, Bần-Đạo ước ao rằng : Cân Công-bình ấy sẽ còn tồn-tại mãi mãi để chúng ta định-phận chúng ta, còn về quyền xoay-chuyển do Đức Chí-Tôn quyết đoán.

 

Đền-Thánh đêm 29-7 năm Tân-Mão (1951)

CÁI LẼ SỐNG CỦA CHÚNG TA NƠI CÕI TRẦN NÀY.

Đêm nay Bần-Đạo thuyết cái lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần này, mỗi người của chúng ta có một cái thắc mắc, từ  thử đến giờ cũng tìm hiểu. Chúng ta thấy ta có nơi cõi trần không phải chúng ta muốn, có nhiều lý-do làm cho chúng ta phải tìm hiểu là cái định mệnh của chúng ta, chúng ta không có làm chủ, dầu cho bực trí-thức cao siêu thế nào chưa chắc mình làm chủ định mệnh của mình đặng. Oâi ! Cái thắc-mắc của đường đời, kiếp sống của chúng ta, chúng ta đã thấy nhiều lý-lẽ làm cho chúng ta phải uất-hận, nhưng không biết nguyên do thể nào loài người phải thọ lãnh, có nhiều kẻ uất-hận ấy không có phương thế giải-quyết đặng, đến đổi xô đẩy họ đến một phương-pháp chót của họ, là họ tự sát lấy họ mà thôi. Định mạng của chúng ta, chúng ta tự hỏi tại sao chúng ta phải sống ? sống nơi cõi trần để làm gì ? Khi biết được lý-lẽ ấy chúng ta có phương thế an-ủi được mà nếu chúng ta không biết lý-do ấy, chúng ta không biết mạng sanh của chúng ta, hay là con người của chúng ta, giá trị sống của nó do nơi đâu, thì không có phương thế nào an-ủi được.

Có hai lẽ sống, hoặc ta đến cõi thế-gian này để trả nợ sống, bởi chúng ta trả nợ sống ây mà chúng ta mất hạnh-phúc hưởng an-nhân cực-lạc nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống ta đến đây trả nợ sống đặng đạt hạnh-phúc nơi cói Thiêng-Liêng Hằng-Sống, cái lý-do đầu tiên hết. Hễ chiếu theo lý-do ấy, chúng ta ở trong thế-gian này do tại quả kiếp. Lý do thứ nhì nữa là chúng ta đến đây đặng chia khổ cùng các bạn chúng ta đã chịu khổ nơi thế-gian này, chúng ta đến đặng tìm bạn. Đức Chí-Tôn đã nói : Biết đâu trong cánh hoa kia không phải là một vật mà là một chơn-linh giáng kiếp, biết đâu trong vạn-linh, trong vật loại mà trong ấy lại không có người bạn yêu-ái của ta vô cùng vô tận nơi đó, bởi lẽ ta thiếu nợ sống chúng ta phải trả. Aáy vậy chúng ta phải trả, đến đặng trả tức nhiên ta đến đặng phụng-sự cho vạn-linh. Còn lý-lẽ sau nữa. Nếu chúng ta đến tìm bạn, thì phải xót thương họ nhưng không biết bạn ta là ai ? Tới trong sự mơ-hồ nên chúng ta không biết bạn chúng ta đã đến nơi nào ? Ở nơi thân một đứa bé, ở nơi thân của người tôi đòi tàn-tật, ở nơi người phụ-nữ, ở nơi thân của người nam kia mà đã bần  hàn đói khó, hay là sống trong sang-trọng vinh-hiển chúng ta không biết. Vì lẽ không biết ấy mà định lẽ sống của chúng ta sống đặng phụng-sự vạn-linh. Văn-minh Aâu-châu người ta đã nói : “Chacun pour soi” tức nhiên mõi người mình lo cho mình duy có Trời lo cho cả-thảy thiên-hạ.

Mấy bạn đứng trong hàng Thánh-Thể Đức Chí-Tôn chúng ta mấy em nam nữ, mấy đứa thư-sinh nam nữ các em đã đặng hạnh-phúc ngồi trong lòng yêu-ái vô-tận vô-biên của Đức Chí-Tôn, cả thảy mấy em cùng nói : Tôi đến nơi lòng Ổng đặng tôi mong mỏi làm thế nào đặng đứng địa-vị phần tử Thánh-Thể của Ông, mà giá-trị phần tử Thánh-Thể của Ông, tức nhiên ông làm Trời tại thế-gian này thay thế cho Ổng làm mà làm Trời, chúng ta thấy “thùy từ mẫn khổ” của Ổng vô-tận vô-biên, từ thử đến giờ, thùy từ mẫn khổ nó buộc ta rằng : Cái lẽ sống của ta phải sống trong hạnh-phúc của ta, mà ta sống trong hạnh phúc của toàn thể con cái của Ngài.

Nếu các bạn thấy mình đặng mạnh-mẽ hơn người em người bạn của mình, tức nhiên Đức Chí-Tôn định cho cái mạnh của ta, để đặng gánh vác sự nặng nề cho em cho bạn. Nếu chúng ta thấy trong đầu óc của chúng ta có khôn hơn em ta, cái khôn của chúng ta ấy là Đức Chí-Tôn ban cho để bênh-vực sự dại-dột của nó, nếu chúng ta thấy chúng ta sống trong vinh-hiển, thì chúng ta nói rằng Đức Chí-Tôn ban cho sự vinh-hiển không phải để dành riêng cho ta hưởng, mà ta có phận-sự  đem cái cái sang trọng vinh-hiển ấy chia cho cả toàn thể em, bạn của ta ; lẽ sống của chúng ta là lẽ sống của toàn thể, lẽ sống của chúng ta là để lau giọt nước mắt của kẻ khổ não, lẽ sống của chúng ta là nắm cho chắc Bình-Cam-Lồ-Thủy của Ngài chan rưới cho đồng đều đặng hưởng. Ngày giờ nào trong phần tử Thánh-Thể của Ngài làm như thế ấy, thì tới ngày về nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống, tôi dám bảo-kiết rằng : Cả thảy gặp được mặt Đức Chí-Tôn là ngày vui hứng của mình, gặp được Ngài và cả thảy Thần, Thánh, Tiên, Phật đều mừng và thấy rằng Đức Chí-Tôn có phúc-hạnh được bầy con chí hiếu của Ngài thay thế Ngài tại mặt thế-gian này xứng đáng phận của Ngài đã định, ấy là lẽ sống của chúng ta đó vậy.

Toàn thể con-cái của Ngài xin mỗi ngày, mỗi giờ mỗi phút đều để tâm thực-hiện cho được. “Thùy-từ mẫn khổ” là điều mong-mỏi của Ông cha vô hình chúng ta đem tất-cả sự yêu-ái vô-tận vô-biên và đại-tạo đại-từ-bi của Ngài mà rưới chan nơi thế-gian này. Giờ phút nào trong tay của chúng ta phân-phát cho đồng đều đó là lẽ sống của chúng ta hoàn tòan đó vậy. Nếu chúng ta không biết phân phát để hao-hớt đi thì cũng uổng một kiếp sanh vô lói.

 

Đền-Thánh đêm 15 tháng 8 năm Tân-Mão (1951)

LẼ SỐNG CỦA CHÚNG TA  NƠI CÕI TRẦN NÀY (tiếp theo)

Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp lẽ sống của chúng ta nơi cõi trần này Bần-Đạo thuyết-minh rằng : Chúng ta có sanh tại thế, nguyên-do tại sao mà ta đương sống đây cả cái sống chung cùng cái sống của vạn-linh đặng làm gì ? Bần-Đạo đã thuyết về phương-pháp Bần-Đạo đã chỉ rõ rằng : Cái thi-hài của chúng ta đồng sanh với vạn-vật là con kỵ-vật của chúng ta đến cõi trần này đặng tìm bạn hay trả quả kiếp của chúng ta, Bần-Đạo đã thuyết-minh hai lần. Hôm nay thuyết hai cái lẽ sống, vả chăng, chúng ta đã đồng sanh cùng vạn-vật tức nhiên chúng ta cũng có đủ năng-lực, đủ trí-thức khôn ngoan để định phận bảo-vệ sanh-mạng của chúng ta, và ta phải nhì rằng : Cái sống của chúng ta không khác cái sống của bạn đồng sanh với chúng ta. Bần-Đạo nói, bạn đồng sanh của chúng ta không phải là nhơn-loại mà thôi, mà cả vạn-vật hết, bởi chúng ta thấy hiển-nhiên trước mắt nơi cõi trần này, chúng ta đã sống chung cùng họ và họ đã giúp cho chúng ta sống, chúng ta đã ngó thấy trong khuôn-khổ cái sống của đời tạo ra hai lẽ ; từ thượng-cổ đến giờ, Bần-Đạo tưởng có hai loại người tới giờ họ đã định tìm hai lẽ sống ấy, đặng họ quyết định họ sống với thái-bình hay sống với loạn-lạc, hai lẽ sống ấy nơi mặt địa-cầu này nhường sống thì thái-bình, tranh sống tức nhiên loạn-lạc. Nhường sống là gì ? chúng ta đã hiểu rằng : Chúng ta đã chịu cùng một định-luật chung sống với vạn-vật, chính mình ta phải tôn-sùng kính-trọng cái sống ấy, chúng ta phải liệu phương nào định cái sống của chúng ta trong mực thước không phạm đến cái sống cuả vạn-linh, tức nhiên không phạm đến cái sống của kẻ khác, mà nói họ có phương-pháp nhường sống cho nhau, từ thử đến giờ, các nhà triết-học các Đạo-Giáo, tìm lý thuyết đạo-đức tinh-thần dầu cho Nho, Thích, Đạo hay là các Tôn-Giáo khác chỉ có tìm mực-thước bày ra phương-pháp để tạo cho nhơn-loại biết kính-trọng cái sống cho nhau tại mặt địa-cầu này, làm một cái định-luật đặng họ biết cung-kính biết nhường-nhịn, tức nhiên có hòa-bình an-tịnh, được an-ủi, được thỏa mãn, được hạnh-phúc. Còn trái lại nếu như cái sống của chúng ta đã khó khăn bởi chúng ta sống trong thuyết Tứ-Diệu-Đề của nhà Phật là sanh, lão, bịnh, tử, chúng ta đã ngó thấy trường đời chẳng buổi nào tìm đặng chơn hạnh-phúc. Cái sống ấy bảo-tồn khó-khăn lắm, nếu không có đạo đức làm phương thuần-tâm đặng định chí-hướng của mình thì khó sống, tức nhiên cái khó ấy giục cho người ta tranh sống, tấn-tuồng đời chúng ta đã ngó thấy, dầu cho cá-nhân, dầu cho xã-hội, dầu cho toàn thể nhơn-quần, họ chỉ vì cái tranh sống mà tiêu-diệt lẫn nhau, nếu chúng ta nói người biết nhường sống của người trong cái khó-khăn, mình phải có một tâm-hồn cao-thượng ái-truất thương-sanh, mới có phương thế chúng ta chịu khổ có tâm đức nhượng sống cho kẻ khác. Muốn cho đặng có tâm-đức ấy ít ra phải có đạo-đức và lấy tinh-thần làm căn-bản, nếu bỏ tinh-thần làm căn-bản là xu-hướng về duy-vật, chỉ chạy theo thuyết tranh sống với nhau mà thôi, tranh sống thì cơ tận-diệt lẫn nhau vẫn tiếp-tục mãi-mãi, chẳng hề buổi nào nhơn-loại trên địa-cầu này trọng-hưởng hạnh-phúc hòa-bình đặng.

Aáy vậy nhượng sống cho nhau thì tồn-tại, mà tranh sống với nhau là tự diệt đó vậy.

 

Đền-Thánh, tại Bao-Lơn H.T.Đ. ngày 15-8 năm Tân-Mão (1951)

LỄ TRUNG-THU

NGÀY CHÚNG TA ĐẶNG HỘI-HIỆP TRONG ĐẠI GIA-ĐÌNH THIÊNG-LIÊNG CỦA ĐẠO

Trước khi Bần-Đạo để lời, Bần-Đạo cúi đầu chào mừng toàn-thể con-cái Đức Chí-Tôn nam nữ. Mỗi một năm chúng ta đặng hân-hạnh tụ hội lại với nhau tỏ lòng luyến-ái vô tận của Đức Mẹ, ngày rằm tháng tám, tức nhiên ngày Trung-Thu của chúng ta. Buổi lễ hôm nay nếu chúng ta lấy về ý-nghĩa trong cửa Đạo tức là ngày chúng ta đặng hân-hạnh hội-hiệp cùng nhau trong đại gia-đình thiêng-liêng của Đạo. Mỗi một năm Bần-Đạo xin thú-thật rằng Bần-Đạo được hưởng một cái vui hứng và hạnh-phúc là ngày hôm nay, ngày Bần-Đạo còn đây đặng cả con-cái của Đức Chí-Tôn chung hiệp lại cùng với nhau trong cửa Thiêng-liêng Hằng-Sống tức nhiên trong lòng yêu-ái vô-tận của Đức Chí-Tôn và Phật-Mẫu, Bần-Đạo xin mừng, để lời mừng toàn thể con-cái của Ngài đó vậy.

Tiếp theo đây Bần-Đạo để lời căn-dặn chiến-sĩ Cao-Đài tức nhiên chiến-sĩ của Đạo, cái định phận của nước nhà, của nòi giống Việt-Nam sẽ kết-liễu và đương kết-liễu một cách mỹ-mãn, đặng thiệt-hiện nền độc-lập và thống-nhứt của nước Việt-Nam theo chiều hướng sở-vọng của toàn thể dân-tộc Việt-Nam đã mong-mõi, trước lời tục của Việt-Nam ta đã nói : Hễ có gánh phải có vác. Quân-đội Cao-Đài đã đảm-nhiệm từ thử đến giờ cái giải-pháp Quốc Gia đặng giải quyết  tình luyến-ái của Pháp-Việt tương thân, đặng định vận-mạng Quốc-Gia Việt-Nam trong tương-lai của nó, đã làm đặng trước tức nhiên phải làm đặng sau. Vận-mạng ấy được kết-liễu mà nó mong mỏi có một điều là toàn thể dân-tộc Việt-Nam phải cố-gắng, rồi thiên-hạ mới giúp mình nên đặng. Chúng ta chán biết rằng do nơi luật định của chúng ta, chúng ta không ỷ-lại nơi ai hết. Lời tuyên-ngôn của Pháp thường hay nói “Aide-toi, le ciel t’aidera” mình phải cố gắng trước rồi Đức Chí-Tôn sẽ giúp mình.

Nòi-giống Việt-Nam thời giờ định vận-mạng, định tương-lai của họ đã đến một chiều hướng kiến-thiết thì Quân-Đội Cao-Đài phải làm gương, phải hy-sinh hơn nữa, phải làm kiểu-mẫu đem cái lòng ái-quốc nồng-nàn trước kia thế nào thì giờ phút nầy cũng thế ấy, phải hy-sinh xương-máu cho toàn-thể quốc-dân Việt-Nam đặng định vận-mạng của mình, ấy là về Quân-Đội, còn về thiếu-nhi và học-sinh nam, nữ, nhờ sức đảm-đương giáo-hóa khó nhọc, nguy-hiểm, ngăït-nghèo của Hội-Thánh từ trước tới giờ đã nuôi các con, đã giáo-hóa các con chỉ mong mõi một điều các con nên phận. Hôm nay ngày lễ của các con, các con coi đàn anh của các con trước đã làm gì ? đã nên gì ? Các con coi theo đó mà học đòi bắt chước theo và cả toàn thể trong đạo chính mình Bần-Đạo dám nói rằng ngoài Đời hằng mong-mõi cho các con nên, đặng đem cái tình-thương và định vận-mạng tương-lai cho Tổ-Quốc.

Các con ! Nòi giống các con cả thảy để tâm nhìn nơi các con và Bần-Đạo ẵm cả thảy trong lòng của Bần-Đạo hun-hít các con một cách yêu-mến vô-hạn, không thể bằng lời nói đặng. Bần-Đạo xin để lời chào cả toàn-thể.

 

Ngày 15-8 năm Tân-Mão (1951)

LỄ KHÁNH-THÀNH NỮ ĐẦU-SƯ ĐƯỜNG

VÀ RƯỚC LINH-VỊ CỦA BÀ NỮ ĐẦU-SƯ LÂM-HƯƠNG-THANH ĐỂ THỜ NƠI NỮ ĐẦU-SƯ ĐƯỜNG

Mấy em, Qua đã có nói cả công-nghiệp của mấy em cả sự khó-nhọc của mấy em đều đổ trút lên lưng Qua hết. Đó là cao-thượng của mấy em hơn hết.

Thưa cùng Hội-Thánh nam, nữ các cơ-quan, hồi tưởng lại hai mươi mấy năm trước khi Đức Chí-Tôn đến cùng chúng ta, cầm cây linh bút của Ngài tạo nền  Chơn-giáo. Ông đến với một thân già Nghèo của Ông, chính mình Ông khai rằng : Ông là một Ông già Nghèo Ổng nói :

“Trò-trọi mình không mới thiệt bần”.

Ông đến cho ta một danh thể là lập Hội-Thánh cho can cái của Ông, nhưng Ông còn cỡi được con Bạch-hạc ở trên mây trắng, còn Thánh-Thể của Ông ở ngoài mưa nắng cũng không được nữa, nó khó lắm đó vậy, tình-trạng rất khó-khăn, Ông đến với một thân Nghèo để tạo dựng Thánh-Thể cho con-cái của Ông. Mà ôi thôi ! Đám Thánh-Thể của Ông nó cũng nghèo nữa, nhưng mà cái nghèo đó chúng ta có một năng-lực cao-thượng vô giá không thể tưởng-tượng được. Có lẽ cả thảy đều ngó thấy buổi phôi-thai, là khi Đền-Thánh mới tạo, con-cái của Ngài phải chịu biết bao nhiêu khổ hạnh, ăn thì bữa đói bữa no đặng tạo dựng Đền-Thánh, đến bây giờ thành tướng làm cho vạn-quốc ngó thấy trông vào đều khen-ngợi, đó là khơi muốn sắp nhỏ trở nên hình đó, do sự nhẫn-nại nhọc-nhằn của sắp nhỏ mà nên đại-nghiệp ngày nay đó vậy.

May thay, đám con chí-hiếu của Ngài trước sau vậy, liều mảnh thân phàm nầy làm con tế vật cho Đạo.

Cả thảy Hội-Thánh tưởng lại coi tạo dựng một dinh-thự Nữ Đầu-Sư-Đường như vậy chỉ có 250.000$ (hai trăm năm chục ngàn đồng bạc chẵn) có tay thợ nào dám làm không ? Tôi dám chắc không dám, bởi vì giọt mồ-hôi nước mắt của sắp nhỏ nó đổ vô trong này bằng ba lần như vậy, đó chỉ có nhờ thiên-hạ cho mớ vật-liệu hòa với giọt mồ-hôi đám sắp nhỏ mà nên hình-tượng đó vậy. Các con, các em để ý coi Ông già đó, Ổng không chịu thiếu nợ ai hết, công-nghiệp của mấy em, Ông trả nơi nầy không đặng thì về cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống Ổng cũng trả cho được Ổng mới nghe, các con đã ngó thấy, những đứa con hiếu-hạnh của Ông giờ phút nầy có biết định phận của nó thế nào đối với Thánh-Thể. Mấy đứa trong Quân-Đội bây giờ là ai ? Là đám công thợ buổi trước tạo dựng nghiệp Đạo rồi nó còn hy-sinh xương-máu bảo vệ đại-nghiệp cho can cái của Ngài nữa, đương đầu với những trở-lực oai-quyền hiện giờ nó nuôi lại em nó chia từ miếng cơm manh áo cho mặc.

Cả đại-nghiệp này là nhờ đám con chí-hiếu của Ngài tạo dựng nên, chớ tôi không làm gì được hết, chỉ có là đốc-thúc vô cho chúng nó làm chớ thân nầy ôm viên ghạch cũng không nổi. Bần-Đạo chỉ mong có một điều là toàn-thể con-cái của Ngài nam, nữ mỗi ngày đều tưởng-tượng đến công khó-nhọc anh em nó, khó-nhọc của đồng-bào toàn thể nước nhà nòi-giống đã tạo dựng nên nghiệp ấy, lấy cả sự-nghiệp nầy làm môi-giới, giữ đạo-đức làm bùa hằng tâm, thương yêu với nhau giữ nghĩa với nhau cho đến bảy trăm ngàn năm (Thât-ức-niên) theo lời của Đức Chí-Tôn đã định, dầu Bần-Đạo còn ở đây hay về cõi Hư-Linh-Cung ấy an-lạc đi nữa, cũng nhớ đến đại-nghiệp con cái của Ngài và Bần-Đạo dám đại ngôn với Ngài rằng : Con cái của Ngài giữ tâm chí-hiếu với Ngài và đối với Phật-Mẫu cũng vậy.

 

Đài Cửu-Long buổi chiều ngày 15-8 năm Tân-Mão (1951)

LỄ HỘI-YẾN DIÊU-TRÌ LÀ GÌ ?

Hôm nay là ngày chúng ta, toàn thể con-cái của Đức Chí-Tôn nam, nữ hội-hiệp trong đại gia-đình Thiêng-Liêng của Chí-Tôn đã đào-tạo cho ta, Bần-Đạo nhơn-dịp này giải nghĩa rõ-rệt cái lễ Hội-Yến Diêu-Trì là gì ? Cả thảy con-cái Đức Chí-Tôn đều biết, chúng ta tu, cốt-yếu mong-mõi một điều trọng-yếu hơn hết là đạt đặng cho đặng cơ giải-thoát hay là có phương-thế trở lại cựu-vị Thiêng-Liêng của chúng ta, các phẩm chơn-hồn trong Càn-Khôn Vũ-Trụ của Đức Chí-Tôn đã lấy quyền cho Phật-Mẫu đào-tạo tám phẩm chơn-hồn, tức là chơn-hồn vật chất, thảo-mộc thú-cầm, nhơn-loại, Thần, Thánh, Tiên, Phật. Trong tám phẩm chơn-hồn ấy xuất-hiện nơi Kim-Bàn do theo luật Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn đã định, thì họ phải từ từ tăng-tiến mãi, cái luật tăng-tiến ấy nó buộc ta mỗi kiếp sanh đều kiếp phương tu, đặng chi ? Đặng tạo Thiêng-Liêng-Vị cho chúng ta, các đẳng chơn-hồn ấy khi đạt đến nhơn phẩm rồi chia ra hai phẩm hồn đặc-biệt, ở trong vật-loại tăng-tiến lên đạt nhơn phẩm của mình gọi là hóa nhân, các chơn-hồn ở trong Kim-Bàn đã xuất-hiện với địa vị nhơn-phẩm của mình là nguyên-nhân. Hai phẩm hồn ấy nếu không noi theo đạo-đức đặng từ từ bước lên con đường Thánh-Đức của mình, đặng đạt cho tới địa vị cuối cùng là Phật-Vị, lại làm tội-lỗi thì phải sa vào Quỉ-Vị.

Aáy vậy phần người có nguyên-nhân, hóa-nhân, quỉ-nhân. Hại thay 100 ức nguyên-nhân do Đức Chí-Tôn đã để lại mặt thế này, đặng làm bạn với các đẳng chơn-hồn trong Vạn-Linh sanh-chúng của Ngài đã đào-tạo thì Phật-vị có sáu ức, Tiên-Vị có hai ức, còn chín mươi hai ức nguyên-nhân bị đọa trần. Từ ngày Đạo bị bế họ có lắm công tu mà thành thì không thành. Tội nghiệp thay, vì 92 ức nguyên-nhân ấy mà chính mình Đức Chí-Tôn phải giáng trần mà lập nền chơn-giáo của Ngài, chúng ta đã ngó thấy cái thánh-ân, đặc-biệt hơn hết là Đức Chí-Tôn đã thấy rõ rằng : Các nguyên-nhân ấy không phương gì tự giải-thoát đặng vì quá tội tình, quá mê-luyến hồng-trần hoặc đào-tạo quả-kiếp nặng-nề quá đổi, vì cớ cho nên tu thì có tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế thì cơ siêu-thoát đã mất tại thế này, chính mình Đức Chí-Tôn biết rằng không thế gì các nguyên-nhân tự mình đạt cơ giải-thoát đặng.

Hôm nay, Ngài đến lập nền chơn-giáo của Ngài chúng ta đã ngó thấy lòng yêu-ái vô-tận của Ngài là thế nào ? Chúng ta thử suy-đoán không ai nói cho mình nghe hơn Mẹ của mình, không ai dạy-dỗ mình có oai-quyền hơn Mẹ của mình, cái tình trạng ấy đối với mặt thế chúng ta thế nào thì quyền-năng nơi cỏi Thiêng-Liêng Hằng-Sống như in không có mảy-may chi khác. Ngài lập giáo rồi còn một nỗi là kêu nó không đến. Ngài dạy mà không biết chi, chính mình Ngài đã nhiều lần hạ trần lập Đạo mà 92 ức nguyên-nhân vẫn đui và điếc mà thôi, không biết để chun vào lòng yêu ái vô-tận của Ngài, đặng hưởng cái hạnh-phúc vô-biên của Ngài đã đào-tạo. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn giao cho Đức Phật-Mẫu và Bần-Đạo đã thuyết-minh là nắm quyền tạo-hóa của Càn-Khôn Vũ-Trụ hữu hình trong tay Đức Phật-Mẫu. Có thể nói vào xác thịt chúng ta, để cho chúng ta nghe lời nói tinh-thần thiêng-liêng của Đức Chí-Tôn, lời nói mà từ trước đến giờ chúng ta không biết thế gì nghe được, nhưng Đức Chí-Tôn giao cho Đức Phật-Mẫu cơ-quan siêu-thoát ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phâït-Mẫu đã làm gì ? Đức Chí-Tôn giao cho Đức Phật-Mẫu nắm quyền hành để rước hết những cái chơn-hồn khi đã đạt pháp tức nhiên đạt cơ siêu-thoát, lập vị mình đặng vào cái địa-vị Thiêng-Liêng, đạt đặng thì phải về Hội-Yến cùng Đức Phật-Mẫu, lễ Diêu-Trì Cung Hội-Yến mà người ta gọi là hội, nhưng thật ra chúng ta về hội-hiệp vui cùng Mẹ sanh của chúng ta đó vậy.

Đạo-Pháp gọi là “Hội-Yến Diêu-Trì” tức nhiên chúng ta đã đạt đặng cơ siêu-thoát nơi cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia, chưa biết nếu chúng ta không tu thì con đường ấy là gì mà chờ. Chính mình Đức Chí-Tôn biểu Đức Phật-Mẫu tức nhiên Mẹ sanh của chúng ta cầm cả quyền-năng giải-thoát trong tay đến lập Hội-Yến Diêu-Trì tại mặt thế này và cả con-cái của Ngài, nhứt là 92 ức nguyên-nhân ấy, nếu nhập vào cửa Đạo tùng theo chơn-pháp thì đặng hồng-ân của Đức Chí-Tôn cho hưởng cái Bí-Pháp Hội-Yến Diêu-Trì tại thế này, cái cơ siêu-thoát thiên-hạ đã đạt trong tay họ sẵn, tức nhiên giờ phút cuối cùng này là giờ phút hứng-thú, giờ phút chết của họ, thì họ đạt vị một cách dễ-dàng, ngôi vị nào cơ-quan siêu-thoát Đức Chí-Tôn đã cho không họ đó vậy. Nhờ đó mà cơ-quan tận-độ Vạn-Linh của Đức Chí-Tôn đã lập lại tại thế này, từ đây sẽ mở rộng cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống đặng đến gom góp cả con-cái của Ngài, trở về hiệp một cùng Ngài, bí-pháp Hội-Yến Diêu-Trì là vậy đó.

 

Đền-Thánh, ngày 16-8 năm Tân-Mão (1951)

NGÀY LỄ ĐỨC MẸ “DIÊU-TRÌ”

CẦU-NGUYỆN CHO NHỮNG GIA-ĐÌNH ĐÔNG CON.

Mấy em, vợ chồng mấy em nhơn ngày lễ Đức MeÏ, Qua làm lễ đặc-biệt đặng cầu-nguyện cho gia-đình mấy em, Đức Chí-Tôn đã giao-phó cho mấy em nắm cơ nhơn-luân trong tay, đào-tạo nhơn-loại tại mặt thế này, mấy em không có chồng vợ chắc nhơn-loại không có tại thế này. Đức Chí-Tôn giao phó trách-nhiệm trọng-yếu cho mấy em hay Ngài đặng tạo Đời, trong kinh-luật, Đức Chí-Tôn đã giải rõ, Qua nói ít mấy em hiểu nhiều. Mấy em trước kia chỉ nghe Nho-Tông phú-thác cho mấy em một phận-sự tối-yếu, tối-trọng, biểu mấy em gìn-giữ tông-đường nặng-nề thế nào, nợ máu thịt của mấy em đối với Đấng đã sanh-thành mấy em, nếu mấy em không có con-cái để kế-nghiệp hương-quả cho tông-đường, thì con người của mấy em bị bất-hiếu, “Bất-hiếu hữu tam vô hậu kế đại” luật thiên-nhiên đã định vậy, vì lo nhơn-luân tối-trọng là thế nào, Qua nói cho mấy em thấu-đáo. Hôm nay Đức Chí-Tôn đã đến giao cho mấy em một phận-sự tối-yếu, tối-trọng hơn nữa, giao trong khí-huyết của mấy em, Ngài gởi gấm Thánh-Thể của Ngài cho mấy em. Con của mấy em nó không phải là của mấy em mà chính là của Ngài đã cho mấy em đó vậy. Mấy em tự nghĩ  đại-nghiệp của Đạo tức nhiên gia-tài của gia-đình nhơn-luân của mấy em đây. Thoảng như mấy em không có con-cái đặng mà nối cơ-nghiệp của Đức Chí-Tôn, công-nghiệp mà chúng ta từ giọt nước mắt, từ giọt mồ-hôi đào-tạo cho chúng ta nó đây làm chủ, rồi Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn ai kế-truyền ? Aáy vậy, Qua nói con cái của mấy em sanh ra là khách của Đức Chí-Tôn đã giao, đã gởi gấm, mấy em đạo-đức đầy-đủ, mấy em xứng đáng làm cha làm mẹ nó, nếu mấy em thiếu đạo-đức Qua e cho mấy em không tròn phận, thì có thể nào mấy em định nghiệp kia cho đặng ? Qua nói thật, cả của-cải đào-tạo cho Đạo đây đặc-biệt của mấy em, ấy là của mấy em đó.

Mỗi năm, kỳ trước Bần-Đạo đã nói, chỉ trừ hai nơi Bần-Đạo không dám xâm-phạm tới :

1. Là Đền-Thờ của Đức Chí-Tôn ,

2. Là Đền-Thờ của Đức Mẹ để tượng-trưng hình-ảnh vô-tận vô-biên của hai Đấng ấy, Qua không dám đá động tới. Nếu ngày  nào con cái của mấy em nghèo đói khổ-não quá, Qua dám lấy từ miếng gạch, miếng gói của Đạo đem bán đặng nuôi con-cái của mấy em.

y vậy, Qua nhơn-danh Hội-Thánh của Đạo và nhơn-danh Đức Chí-Tôn, Qua để lời với mấy em rằng : Của-cải vô-tận của Đức Chí-Tôn và toàn thể Hội-Thánh cũng nhờ nơi tay của mấy em. Qua cúi đầu trước cái khổ-não nhân-nghĩa của mấy em vì gia-đình thế nào, Qua chỉ biết cúi đầu gởi-gấm cho mấy em, sự nên hư của Đạo trong tay của mấy em, mấy em phải sống cho đáng giá. Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn do nơi mấy em mà thôi.

 

Đền-Thánh ngày 30-08 năm Tân-Mão (1951)

TÌM COI CÁI LẼ CHƠN-GIẢ CỦA CÁC ĐẠO GIÁO TỪ THỬ

Đêm nay Bần-Đạo mời cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn và con-cái của Ngài nam, nữ hiệp trí lại đặng tìm coi cái lẽ chơn giả của các Đạo giáo từ thử đến giờ, cả trí-não con người đã tầm Đạo phân-vân bất nhứt.

Bao giờ cũng vậy, từ thượng-cổ đến giờ, những tinh-thần mộ Đạo, lẽ thường người ta nói tầm chơn, cái chơn ở đâu ? mà giã thế nào ? Họ lấy phương-diện nào phân-biệt được cái chơn mà họ tầm chơn.

Vả chăng luật tương đối của vạn-vật hữu-hình nó khó phân-biệt lẽ tương đối của nó. Thảng như chúng ta không ngó thấy cái chơn, thì chúng ta không thể gì nói đến cái giả. Chúng ta không ngó thấy cái chơn, thì chúng ta không thể gì nói đến cái thiệt. Luật tương-đối ấy vẫn một mà thôi.

Chúng ta thử đoán-xét từ cái thử coi, tỷ như Nho-Giáo của Đức Khổng-Thánh tạo thành, mà người ta còn trích-đfiểm cái chơn, cái giả, miệng lưỡi và đầu óc của nhơn-sanh bao giờ cũng thế. Luận người ta có thể nói Ngài sanh ra trong nước lỗ, Ngài là một Giáo-Chủ cuả Nho-Tông, tức nhiên Giáo-Chủ của nhơn-luân chi Đạo, mà tại sao Đạo của Ngài không thể gì cứu nước Lỗ cho còn tồn-tại đến ngày nay ? Aáy vậy Đạo của Ngài bất lực.

Đạo của Ngài sản-xuất ra hồi buổi Đông-Châu Liệt-Quốc thiên-hạ thống khổ đảo huyền, nếu nói rằng Nhơ-luân Nhơn-luân chi Đạo của Ngài đủ năng-lực có thể đem hòa-bình cho thiên-hạ buổi đó, trái lại Đông-Châu Liệt-Quốc đã loạn, và vì loạn ấy mới sản-xuất nhơn-luân chi Đạo của Ngài, trong tam-cang ngũ-thường của Ngài bị Đạo-chích công-kích triệt-để. Thử ắm quyền-hành của Ngài và kiếm lý-luận điều đó, trích-điểm điều đó, chúng ta khó định được cái phải cái quấy chỗ ấy.

Đức Khương-Tử-Nha khi Ông lãnh lịnh lập bảng Phong-Thần, đi giữa đường còn bị Thân-Công-Báo trích-điểm, chính người sau lên án Đức Khương-Tử-Nha phản Trụ đầu Cháu, so sánh Đức Khương-Tử-Nha với Bà-Di Thúc-Tề, người ta trích-điểm một cách kịch-liệt, người ta cho Ngài đã thất nhơn-luân chi Đạo của Ngài, như thế thì đầu óc trí-não của chúng ta khó suy-nghĩ lắm.

Nếu đến Jésus-Christ giờ phút này Do-Thái vẫn chờ Chúa Cứu-Thế. Họ không nhìn nhận Đức Jésus-Christ là Chúa Cứu-Thế, vì lý do gì ? Vì lý do không theo đúng trong tiên-tri đã định. Dân Do-Thái vẫn chờ Chúa Cứu-Thế mà thôi.

Đức Phật Thích-Ca khi lên núi, bốn người môn-đệ của Ngài ngồi dưới chân núi mà đợi Ngài, Ngài hành Đạo sáu năm trường ép xác mãi mà không đạt pháp gì hết, Ngài xuống núi bốn môn-đệ của Ngài bỏ Ngài, cho Ngài là giả không có chơn.

Còn nữa, còn Barama, tức là Đạo Bà-La Môn cho rằng, thuyết giải-thoát của Ngài là thuyết do nhiên chứ không có gì hết, sau chính mình Ngài tạo phẩm-vị đi từ nhơn-vị, Tiên-vị, lên đến Phật-vị, ai cũng có thể đi đến được hết. Luật giải-thoát của Ngài do nhiên chứ không có chi lạ.

Những lý-lẽ ấy làm cho đầu óc con người tầm chơn càng suy-nghĩ càng khó quyết-định được Ta tự hỏi, thế nào gọi là chơn ? Thế nào gọi là giả ? Theo lý-trí của con người có lẽ này “Tầm chơn là đúng sự thật hơn hết”. Vả thân tôi đang sống về phần hồn, nhưng phần hồn đã đau khổ, nếu làm thế nào cho tâm-hồn an-ủi được, tầm chơn hạnh-phúc được, có thể nương nơi nào mà tôi gởi tâm-hồn tôi được an-ủi, chỗ đó là chơn.

Bần-Đạo có luận với mấy người bạn bên Hiệp-Thiên-Đàiv không thế gì luận cái chơn cái giả được.

Buổi Trương-Vĩnh-Ký còn sinh tiền, ông học tiếng Chàm, người đó các thứ tiếng đều học đủ hết, người đời đã cho ông là vị Trạng cũng không quá đáng. Khi Ngài học tiếng Chàm, theo Ngài học thì cần phải chuyện vãn với người Chàm, đặng đạt cho được cái giọng nói của họ mới đúng, khi đi có ba người một ông Cha, và người Vú-đỡ của Bần-Đạo cùng có theo năm người nữa, dắt nhau vô xóm Chàm, đặng thí-nghiệm sự học hỏi của Ông, khi vô Ông hỏi trong xóm Chàm ở đây người Chàm có đạo-đức chi chăng ? Cách thờ-phượng thế nào ? Người ta trả lời ở đây không có thờ-phượng chi hết, Ông trọng-yếu là tìm Đạo đặng biết cái sự thờ-phượng của người Chàm mà định sự tiến-bộ về tinh-thần của họ. Oâng hỏi nữa, chí quyết thì xóm này coi anh em nào biết về đạo-đức dân Chàm hay không ? có thờ phượng chi chăng, thì có người nói : Ở đây không có ai đạo-đức và cũng không thờ-phượng gì hết. Người đó chỉ có ở trên kia có Bà già đó. Bả đạo-đức hiền-lương lắm, Bả ở góa từ hồi nào đến giờ, ở vậy mà thôi. Bả thờ-phượng bình cốt.

Oâng Trương-Vĩnh-Ký cùng năm người nữa dẫn nhau lại chỗ Bà-già Chàm, đến nơi thì thấy Bà già đang quì lạy, xoay lưng ra ngoài cửa, ở mé trong có một cái tượng cốt một Ông Chàm mà chỉ có cái đầu không mà thôi. Còn chân tay mình đều không có, chỉ một khúc tay còn vỏ mà thôi.

Năm người tới đứng đàng sau lưng Bả, ngó thấy Bà già Bả thờ cúng một cách đạo-đức, tưởng ra không có Đạo nào được cung-kính như thế, năm người đợi Bả làm lễ xong vừa xoay mình ra đến cung-kính hỏi chuyện Bả.

- Bả ở đây với ai ? Tới chừng đó Bả mới nói :

- Tôi có hai đứa con, đã nên gia-thất hết rồi, chỉ ở một mình tôi mà thôi. Ông Trương-Vĩnh-Ký tọc-mạch hỏi nữa :

- Hình Ổng gì mà Bà thờ đó ?

- Hình đó hình chồng tôi.

- Tại sao có cái đầu không, còn cái mình ở dưới còn cây nguyên vậy ?

- Cái cây này là cây của ông chồng tôi lúc trước ổng trồng mà vì ổng cưng nó lắm, cho nên tới chừng ổng khoảng tôi mướn thợ chạm cái hình Ổng đặng tôi thờ. Nhưng thợ làm được cái đầu, còn mình-mẫy và chân tay thì làm không được, nên tôi để vậy tôi thờ mà thôi.

Vậy Bà không có thờ ai nữa sao ?

- Tôi chỉ biết thờ chồng tôi, chứ không biết thờ ai hết. Từ thử đến giờ tôi thương có một mình Ổng, tôi biết có một mình ổng mà thôi.

Ông Trương-Vĩnh-Ký day lại nói : Tôi đố vơi ba Cha, ba Cha làm thế nào độ được người này theo Thiên-Chúa-Giáo. Nếu ai đem hình nào khác hơn ông chồng của Bà thì Bà không biết, Bà chỉ biết Ông chồng của Bà là Ông Trời của Bả. Nếu ai đem hình nào khác hơn Ông chồng của Bá, thì Bả không chịu đâu, không Đạo chi hơn là Đạo thờ chồng của Bà. Hỏi vậy có ai chối cái chơn của Bả không ? Cái chơn của Bả là Bả chỉ biết một ông chồng của Bả và chỉ biết thờ ông chồng của Bả như một ông Thần sống, như một ông Trời tại thế này mà thôi. Trong thế-gian này, không ai chơn, không ai giả, và cũng không phân-biệt thế nào là chơn với giả được chỉ có trí-óc của mình nhận biết được, suy-đoán được, chớ chẳng hề khi nào ngôn-ngữ nói ra được.

y vậy từ thử đến giờ có người tầm chơn mà không biết đặng chơn ở đâu. Đạo Cao-Đài mà chúng ta đã theo, chúng ta đã gởi tâm-hồn xác-thịt cho Đấng Tạo-Đoan rồi có ai kiêu-ngạo là giả, chúng ta cứ tưởng chơn mà thôi ngoài Đấng Tạo-Đoan ra, không ai sanh mình ra được, mình cứ tưởng Ông đó là chơn, ngoài ra ai nói cái gì cũng thấy kệ.

 

Nữ Đầu-Sư-Đường ngày 30-08 năm Tân-Mão (1952)

KHAI-MẠC HỘI NHƠN-SANH CỦA QUYỀN VẠN-LINH.

Bần-Đạo xin toàn cả nam, nữ tịnh tâm để nghe lời thuyết-minh khai mạc hội nhơn-sanh của Quyền Vạn-Linh.

1.- Từ ký hội trước, là hội kỳ năm Binh-Tuất, khi Bần-Đạo mới về, sau năm năm vắng mặt, Bần-Đạo liền trả quyền Vạn-Linh lại cho con-cái của Đức Chí-Tôn, bởi cớ cho nên Bần-Đạo liền ra lịnh phục hồi quyền Vạn-Linh.

Trót năm năm qua, sự tiến-triển của nền đạo như thế nào trước mắt toàn cả con-cái Chí-Tôn đều nghe thấy, Bần-Đạo chẳng cần lên tiếng tuyên-truyền khoe-khoang chi nữa, đây trước mắt toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn đều được thấy sự cố-gắng của Hội-Thánh và sự vẻ-vang của con đường Chánh-trị-Đạo.

Bây giờ Bần-Đạo xin để lời luận về chính-trị đạo Tổng-quát của Đạo hiện thời và trong thời gian năm năm đã qua. Cả thảy đều biết rằng trong thời loạn-ly này, nước Việt-Nam ta đương vươn mình đứng đây để xung-đột cùng Vạn-Quốc. Bần-Đạo nói đó là do sở định của Đức Chí-Tôn mới kết liễu như thế đó.

Trong nước đang đảo-lộn loạn-ly đau-khổ, thì cũng giống như người đàn bà kia lúc sanh đẻ cũng phải chịu đau-đớn khi sanh một đứa con. Tình thế nước Việt-Nam phải chịu ở trong một khuôn-luật ấy, đặng định vận-mạng tương-lai của nó.

Trong thời loạn-ly, số phận của Đạo phải chịu nhiều gay trở khó-khăn hơn trước. Bần-Đạo tưởng nên so-sánh với buổi nọ dưới quyền chuyên-chế mà Đạo lại được nhiều sự dễ-dãi hơn bây giờ. Trong buổi nước nhà đang trở mình biến chuyển đi đến độc-lập, thật ra Đạo Cao-Đài đang gánh một trách-vụ nặng nề không ai tưởng trong lúc cơ đời đảo ngược, Quốc-thể chênh-nghiêng dân-tâm bất nhứt.

Ban sơ, sau buổi đồ-lưu Bần-Đạo trở về cố-quốc, thấy tình-hình của nước nhà đang ở trong một tấn-tuồng không thể tưởng-tượng được, chủ quyền của nước thì không có, giặc-giã chiến-tranh tàn phá, lúc đó nước ta ở trong tình-trạng chánh thể quốc-gia tiêu-hủy, hai dân-tộc Pháp-Việt đang gây-hấn chiến-tranh, nhân dân thống-khổ trong vòng binh-cách, hai lý-tưởng chia rẽ thiên-hạ là đòi đường chiến đấu đang giành-giựt chủ-quyền nước nhà vô chủ để mặt cho ai đồ vương tranh-bá.

Bần-Đạo nhận thấy muốn giải-quyết tình-thế thì phải dùng tâm Đạo và tinh-thần cương-quyết mới mong định vận-mạng cho nước nhà. Huống chi Đạo Cao-Đài là bình Tịnh-Thủy dập tắt hết lòng phàm, xa vòng danh-lợi quyền thế, tránh những điều ham chuộng thường tình. Bần-Đạo nói thật, Bần-Đạo rất gớm-nghê điều ấy, mà cả con cái Đức Chí-Tôn cũng thế .

Muốn giải-quyết cho được dung-hòa tất cả thì không phải một cá nhân đối với một cá-nhân, mà lại cả một Quốc-Dân nầy đối với một Quốc-Dân nọ, muốn hòa-giải một chủng-tộc với chủng-tộc là việc chẳng phải dễ, hai nước Pháp=Việt phải dung hòa để chung sống trong hạnh-phúc, Bần-Đạo nhận thấy cái năng-lực ấy không có bàn tay Thiêng-Liêng giúp sức không một ai làm được.

Bần-Đạo nói cho đúng thì chỉ có Đạo mới làm đặng và đã thực-hiện đường lối ấy mà thôi. Có đủ bằng cớ hiển nhiên, chúng ta có thể hãnh-diện ở buổi tương lai tốt đẹp và một ngày kia để lại được một trang lịch-sử vẻ-vang không thẹn với các Tôn-Giáo khác đương quyền giáo Đạo.

Nhưng lạ gì cái tuồng đời, duy có những kẻ không làm nên gì hết thì không ai trích-điểm, vì có gì đâu mà có nên, có hư, trắng trợn như vậy thôi thì có gì mà trích-điểm chúng ta có làm gì thì lẽ cố nhiên chúng ta phải gặp việc nên hư, phải quấy, ấy là lẽ thường chúng ta có làm, nên chúng ta bị trích-điểm và ta biết cầu cho thiên-hạ trích-điểm.

Giờ phút nầy Bần-Đạo nói về Đạo Cao-Đài đối với tương lai vận mạng của nước Việt-Nam chúng ta. Đạo Cao-Đài đã trọn phận-sự của nó là đeo đuổi theo cái nguồn gốc tinh-thần đạo-đức. Bần-Đạo nói : “Nó là Quốc hồn nước Việt-Nam vì nước Việt-Nam vi chủ nó không được, lại là tinh-thần và tín-ngưỡng của toàn nhơn-loại tức là nó phải chịu dưới chủ-quyền Quốc-tế” .

Aáy vậy Thánh-Thể của Đức CHÍ-TÔN, hay nói là Hội-Thánh thay thế hình-ảnh của Ngài, tỷ như đứng về mặt khách-quan khi thấy điều bất chánh chánh bất bình của nhơn-quần xã-hội, nên phải đảm đương đem chơn-lý và công-bình nêu trên mặt thế mà thôi. Đạo làm dùm phận-sự tạo thế cho Đời. Mà sự làm ấy rất nên đắc-lực hay là nói rỏ Đạo đảm-nhiệm phận-sự của mình với cử-chỉ vô-thân vô-vị.

Đó là nói về chính-trị tổng-quát của Đạo.

2.- Còn luận về việc đối nội của Đạo.

Hơn năm năm qua, trải nhiều nỗi khó-khăn nghèo-khổ, toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn phải đảm-đương gánh-vác nặng-nề để tạo nghiệp mà Đức Chí-Tôn ban chung cho toàn con-cái của Ngài.

Xem qua các cơ-quan ba vị Thái-Thượng Ngọc-Chánh Phối-Sư nắm chủ-quyền giữ vững nền Chánh-Trị-Đạo với 9 viện. Trong thời buổi khó khăn loạn-lạc, Đạo muốn thực hiện Bảo-Sanh Nhơn-Nghiã  Đại Đồng nên mới xuất hiện ra Quân-đội. Cái thêm ấy, chúng ta cho vinh-diệu chớ không phải là cái nhục, thảng có kẻ nghi kỵ trích điểm hoặc giả một ngày kia thiên hạ nói : Đạo thì không thể có Quân-đội, hay là họ đem ra tố cáo chúng ta giữa Liên-Hiệp-Quốc đi nữa, thì chúng ta xin trả lời rằng : chúng ta hy-sinh tánh-mạng để bảo-vệ và dìu dắt nhơn-sanh tiến đến con đường Đại-đồng thế-giới và tinh-thần đạo-đức nhơn-nghĩa. Cái phận-sự tối-trọng ấy chẳng phải dễ làm chúng ta dám cố-gắng hy-sinh cho thiên hạ, thì thiên-hạ không ai làm đặng vì không có cơ-quan nào đứng ra đương đầu để đảm-đương một lời hy-sinh dường đó. Thật Bần-Đạo chưa hân-hạnh ngó thấy vậy. Ngoài ra họ có thể mượn quyền lực để lập danh phận quyền-lợi cho họ mà thôi, chớ chưa hề dám hy-sinh đảm-nhiệm một trách-vụ Thiêng-Liêng như Quân-Đội Cao-Đài đã khấn hứa.

Hiện nay Bần-Đạo phân đoán chí-lý nội tình của Đạo nhận thấy một bên là Hội-Thánh thì mấy ông già-nua, còn một bên Quân-đội là trai trẻ có tinh-thần giục-tấn.

Một bên là hình ảnh Thánh-Thể Đức Chí-Tôn đi trên đường mực thước từ từ nhi tiến, còn một đàn thì chạy theo cho kịp trào-lưu biéu-chuyển, nên chí quyết tiến cho hơn, một đàn thì mỗi khi đi để chơn đi thì sợ đạp nhầm đến con kiến. Còn một đàn thì nếu thân mình không nhanh-chóng lẹ-làng thì một mũi đạn đủ đưa họ làm người thiên-cổ.

Hai đàn bất đồng với nhau làm cho Bần-Đạo ngồi giữa bực mình làm sao đâu !.

Hạng thanh-niên thì xô đẩy quyết đi cho mau nên cho hạng già nữa đi như rùa bò quá chậm. Thật Bần-Đạo kiếm phương thế dung-hòa đôi đàng vừa quá mệt.

Bần-Đạo thú thật rằng : nhờ lý do đó mà Đạo Cao-Đài tiển-triển đến đường nầy cũng đã mau chóng và tốt đẹp lắm rồi.

Một đàng muốn tiến mạnh dầu có níu cũng không chuyển.

Một đàng nếu không ngó đến thì ngồi bí xị đó không đi.

Hai đàng cặp-kè với nhau mà đi dầu chậm cũng phải đi từ-từ nhi tiến. Nhờ hai lý-thuyết dung-hòa nhau nên giờ này Đạo mới có hình-ảnh và phương-diện này.

3.- Về việc đối ngoại từ ngày lập Quân-Đội đến nay, các cơ-quan Chánh-Trị-Đạo đối với cơ-thể của Đời hổn-tạp dường như lãnh-đạm, vì cơ Đời còn ở trong tình-trạng biến hình, Bần-Đạo nghĩ đưa người ra đảm-nhiệm cũng vô ích. Chúng ta chờ để coi nó tượng hình ra sao cho biết, huống chi làm Đạo là cốt-yếu dung-hòa tâm-lý cần gì phải tìm chánh-sách để xen vào sửa-cải chủ-quyền của người cho mích bụng.

Bần-Đạo nói thật giờ này dầu sửa-cải cũng vô-ích. Trong buỏi day trở biến hình của nó thì phải để cho nó nên người, miễn là chúng ta tự để nó tự-do biến tướng mà không ra khỏi cái khuôn-khổ của nó mà thôi. Chúng ta giữ sao đừng cho nó ra khỏi cái văn-hiến bốn ngàn năm tối cổ của nó. Cần gì phải can-thiệp vào đó mà làm chi ?

Bây giờ Bần-Đạo thuyết về tài-chánh của Đạo đương buổi loạn-ly này.

Trong buổi thống khổ nghèo-nàn, tài-nguyên của con-cái Đức Chí-Tôn gởi về để tạo dựng cái nhà hương-quả chung của họ. Thoạt nghĩ chúng ta gầy-dựng được đây là vì giỏi tiện-tặng lắm mới còn, bằng không nuôi ăn cũng chưa đủ ; còn về Quân-đội  thì chúng ta đi làm mướn hy-sinh tiện-tặng sớt bớt ra để nuôi-nấng mấy đứa con côi cút góa-bụa, gánh-vác học-đường đào-tạo đám thơ-sinh, phải chịu ăn không no, mặc không lành mọi bề thiếu-thốn.

Nếu để cho Hội-Thánh gánh-vác thì tài-sản của Hội-Thánh không còn tồn-tại như bây giờ, tiêu hết mà chớ ! Điều ấy quyền Vạn-Linh trọn quyền quan-sát kiểm điểm tận-tường thì rõ.

Toàn cả con-cái Đức Chí-Tôn về Tòa-Thánh hiển hiên đều thấy hết, hỏi sao không thay-đổi được, vì nhận thấy cả thảy đều hy-sinh, đều cố-gắng nên bây giờ mới nên hình, nên tướng, sự nghiệp vĩ-đại Thiêng-Liêng này do biết bao mồ-hôi nước mắt.

Không phải là buổi giàu có mà đem về đây rồi lãng phí bỏ rơi bỏ rớt, Hội-Thánh tìm kiếm từ đồng làm nên cho Đạo. Bần-Đạo không khoe-khoang, hiện nay Châu-Thành Thánh-Địa đã được mở rộng, con-cái Đức Chí-Tôn về có đất để dựng nghiệp nhà có phương thế để nuôi vợ con no đủ.

Bây giờ luận về việc tạo-dựng cơ-quan xã-hội giúp tay cho Chánh-Phủ.

Trong thời buổi loạn-ly nầy, toàn xứ Việt-Nam đều sống trong vòng thống-khổ, con-cái Đức Chí-Tôn có về đây mới nhận thấy không có chỗ nào hạnh-phúc hơn là Tòa-Thánh. Nếu Bần-Đạo nói không đúng thì xỉntích-điểm lại. Nói thật ra, đây chỗ nuôi sống thiên-hạ và là chỗ nuôi dưỡng của kẻ thống-khổ nghèo-nàn.

Chúng ta thấy một gia-đình kéo cả bè về Tòa-Thánh là sống được. Aáy là nhờ sự chăm nom nuôi dưỡng của Hội-Thánh vì khi mới về Tòa-Thánh có người không có một cái chén ăn-cơm, làm lụng ít lâu rồi cũng sống được.

Hỏi vậy các cơ-quan cuả Chánh-Phủ có tạo nghiệp cho họ được vậy chăng Chánh-Phủ bị lo lắng điều gay trở khó khăn nên chỉ bố thí một số tiền vậy thôi, chớ nào có thì giờ rảnh đặng để tâm lo lắng đến sự sống cho thiên-hạ.

Về cái thắng lợi của Đạo chỉ có mặt tinh-thần hơn cả.

Bần-Đạo luận về sự truyền-bá chơn lý Đạo :

a.- Cả con cái Đức Chí-Tôn nên hiểu rằng : triết-lý cao thượng của Đạo Cao-Đài lấy tính chất nó ở buổi sơ khởi khai thiên lập địa của Đức Chí-Tôn sanh hóa vạn loại nơi mặt địa-cầu nầy. Trong tạo đoan Đạo Cao-Đài chỉ thờ kỉnh có hai quan-niệm mà thôi. Trên là thờ Thiên-Thượng là Đức Chí-Tôn, dưới là thờ Vạn-Vật, mà tối linh của Vạn-vật là nhơn-loại ấy là thờ thiên-hạ.

Nó không biết trích-điểm ai, dầu các Tôn-Giáo trích-điểm hay đàm-thuyết thế nào cũng mặc. Đạo Cao-Đài chỉ biết nắm lấy căn-bản cái nguyên-lý của nó mà thôi.

Trong Nho-Giáo có nói : “Thiên-ngôn Vạn-Ngữ bất quá hồ-thiệt”, thì chúng ta chỉ thấy chơn-lý chỉ có một, không phải ngôn-ngữ diệt-tiêu chơn-lý đặng.

Đạo Cao-Đài nắm chặt cái căn-bản của nó, nên không trích-điểm ai từ-từ nó đi theo con đường chơn-chánh của nó. Đạo Cao-Đài để cho hàng trí-thức họ tìm hiểu mà đến, chơ không dụ-dỗ hay là cám dỗ cho người biết nó. Để hết trí-não tìm hiểu, con người nhận thấy trí-thức cao-siêu và nhận định chơn-lý của nó. Tiếng Pháp nói đức-tin là sự nhận-thức chơn-lý (Foi raison-née) do nơi đức-tin ấy mà định quyết cái tinh-thần đạo-đức của mình, chớ không phải do nơi sự cám-dỗ nhồi-sọ, tạo thành mê-tín.

Đạo Cao-Đài truyền-bá là do ngôn ngữ chỉ hơn, chỉ thiệt, vì cơ nên đối với các Tôn-Giáo, Đạo Cao-Đài thường bị trích-điểm là vậy. Cái đức-tin của Đạo Cao-Đài không cần cầu-chứng nơi ai, nó chỉ cầu-chứng với trí-thức tinh-thần của nó, về việc truyền-giáo Đạo Cao-Đài đi từ từ bước một, Chức-Sắc trong hàng Thánh-Thể Đức Chí-Tôn cầm quyền mối Đạo là phát ngôn-viên của Đức Chí-Tôn từ từ tiến bước chớ không cần chi phải giục tấn.

b.- Về việc truyền-bá ở Ngoại-Quốc, Phối-Sư Thượng-Vinh-Thanh đã mở ở Pháp nhiều cơ-quan, do theo thời thế đoán ra, thấy được đắc lực tiến-triển mãi-mãi.

Trong kỳ Hội nầy có đem ra hai người Pháp để cầu quyền Vạn-Linh ân-tứ, nhờ Hội-Nhơn-Sanh định vị.

Đến đây Bần-Đạo nói đến việc chỉnh đốn nội-dung nền Chánh-Trị-Đạo trong buổi hổn-tạp này, ta sẽ phân tách ra Đạo và Thế phân biệt, không thể để Thế và Đạo lẫn-lộn nhau được, cũng như quyền-năng Chí-Tôn phân ra tả hữu vậy. Tả là Đời, hữu là Đạo, giữa là Pháp, Đời là Đời, Đạo là Đạo đôi ngã phân minh.

Từ đây toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn sẽ chỉnh-đốn laị hai đường ấy, dầu hiện nay còn hổn-tạp cũng không hại gì.

Bây giờ nói về vấn-đề đào-tạo Thiên-Phong Chức-Sắc. Việc nầy không phải quyền của Hội-Thánh mà không phải quyền của Chí-Tôn, quyền Chí-Tôn chỉ giao phó phận-sự cho toàn con-cái của Ngài.

Chí-Tôn đến lập Đạo, Ngài để quyền Vạn-Linh là quyền con-cái của Ngài mạnh hơn quyền Ngài.

Quyền Chí-Tôn là quyền một Ông Cha chỉ để dung-hòa các con-cái của Ngài chớ không phải để trị. Có trị chăng là quyền Vạn-Linh đó vậy.

Việc đào-tạo Chức-Sắc là quyền sở hữu của Vạn-Linh, nếu Chức-Sắc trong Thánh-Thể Đức Chí-Tôn thiếu thì Bần-Đạo có thể đỗ cho quyền Vạn-Linh bất-lực.

Bần-Đạo đã nói do quyền Vạn-Linh thì việc đào-tạo Chức-Sắc do quyền Vạn-Linh định quyết, chơ Học-Đường. Hạnh-Đường lập ra trọng-yếu là để tạo nhơn-tài mà thôi, chỉ có con đường chơn-lý của Đạo mới đào-tạo tánh-đức cho họ. Ngài muốn lập thân danh thì phải lập Đức, lập Công, lập Ngôn.

- Lập Đức thì phải nhớ Đạo-lý.

- Lập Công thì phụng sự Nhơn-sanh.

- Lập Ngôn thì phải để hết trí-óc tìm hiểu về triết-học tinh-thần, tìm-tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh chánh-giáo.

 

Học-đường là nơi con người học hỏi để lập Ngôn.

Lập Đức là do đường đạo lý.

Lập Công là do quyền Vạn-Linh định đoạt.

Người biết dùng ba điều trên thì nên, còn không thì phải chịu mai-một và do quyền Vạn-Linh biết dùng họ thì họ mới lập công với Đạo được.

Gần đây Bần-Đạo sữ định phương-châm truyền giáo Ngoại-Quốc, Bần-Đạo sẽ mạo-hiểm, cưỡng-bách tuyển chọn Chức-Sắc xuất đương giáo Đạo.

Bần-Đạo cho biết trước trong kỳ xin ân phong này, có người được tuyển-chon xuất dương mà Giáo-Đạo. Aáy đừng nói đó là việc tình cờ.

Tiếp đây Bần-Đạo nói về việc đói với các Tôn-Giáo hiện-hữu.

Đối với các Tôn-giáo  Bần-Đạo đã nói cho nghe rồi.

Toàn thể con-cái Chí-Tôn đều được nghe, Bần-Đạo đã bao phen len-lỏi cầu thân với họ, thế nên bên Quân-đội để lời trách-cứ Bần-Đạo sao lại hạ mình quá lẽ, len-lỏi theo họ mà làm gì.

Biết đâu sự hạ mình của Bần-Đạo sẽ là một dấu hỏi để trong lịch-sử sau này. Tại sao Bần-Đạo phải chìu lụy các Tôn-Giáo, thiên-hạ sẽ tìm-hiểu. Bần-Đạo thiết-nghĩ  càng hạ mình chừng nào thì Đạo Cao-Đài càng cao thượng chừng ấy, chớ đừng tưởng là nhục, trái lại cái kết-quả tốt đẹp ngày kia toàn thể con-cái Chí-Tôn sẽ được ngó thấy.

Còn nói với các đảng-phái Bần-Đạo thấy, nay họ lập nơi này, mai họ lập nơi khác, bao nhiêu đảng-phái đều lập tư riêng để làm chi không biết, trước mắt cái đại-nghiệp Đức Chí-Tôn ban cho đây rất cao trọng sang cả vô đối mà không kẻ tô-điểm.

Thật không hiểu họ lập ra những cái chòi mòng để làm gì vô-ích quá.

Cái phương hướng tương-lai của Đạo, trọng, khinh, nên, hư, vinh, nhục, Bần-Đạo gởi trọn trong tinh-thần đạo đức rồi lại giao cho quyền Vạn-Linh sử-dụng.

Vậy Bần-Đạo xin nhường quyền chủ-tọa cho quyền Thượng Chánh Phối-Sư, Bần-Đạo xin kiếu từ.

 

về trang chủ