Ði đạo  Tam kỳ  Phổ độ

Tòa Thánh  Tây Ninh

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

 

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

NĂM KỶ-SỬU & CANH-DẦN

 

QUYỂN 4 (tiếp theo)

 

HỘI-THÁNH GIỬ BẢN-QUYỀN

IN LẦN THỨ NHỨT

NĂM GIÁP-DẦN (1974)

 

Cửu-Viện Phước-Thiện ngày 30-8 năm Tân-Mão (1951)

KHAI-MẠC HỘI NHƠN-SANH PHƯỚC-THIỆN.

Bần-Đạo xin khai mạc của Hội-Thánh Phước-Thiện.

Trước khi mở hội, Bần-Đạo lược giải cái chánh-tâm của Đạo đã từ 5 năm nay, tức là kể từ Hội Nhơn-sanh kỳ trước, mơ-vọng của toàn thể Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, dầu cho Hành-Chánh hay Phước-Thiện cũng thế, chúng ta trông mong gì hơn hết ? Đương nhiên thiên-hạ đương sống khó-khăn trong thời buổi loạn-ly. Bần-Đạo tưởng cả toàn con-cái Đức Chí-Tôn đều có hai sở-vọng, sở-vọng đầu tiên hơn hết là làm sao bảo-vệ sanh-mạng và tài-sản thiên-hạ cho khỏi bị tiêu-diệt, sở-vọng thứ hai nữa là tìm phương nào làm cho thiên-hạ bớt khổ. Hai cơ-quan ấy chúng ta sẵn có trong cửa Đạo. Hành-Chánh thì giữ mực thước cho nền chơn-giáo của Đức Chí-Tôn. Bần-Đạo cho toàn thể con-cái của Đức Chí-Tôn nam, nữ đều biết rằng : Đạo phải giữ nền văn-hiến của nòi giống chúng ta bốn ngàn năm sẵn có từ thử đến giờ ở trong khuôn-khổ đạo-đức tinh-thần của Tổ-Phụ chủng-tộc nước nhà cho còn tồn-tại. Aáy là phận-sự của Hành-Chánh. Còn muốn bảo-sanh là quân-đội đã thiệt-hiện nhơn nghĩa để dìu dẫn thiên-hạ đi đến cảnh đại-Đồng.

Bây giờ cơ-quan cứu khổ, dầu không nói mấy người cũng đã biết, ấy là trách-vụ của người Phước-Thiện đó vậy.

Đức Chí-Tôn đến, có điều thiết-yếu hơn hết, Ngài đến là vì con cái của Ngài quá khổ, Ngài đến với cái sở định của Ngài, là đến cứu khổ cho toàn thể con cái của Ngài. Cơ cứu-khổ ấy trong lúc ban-sơ, Đức Chí-Tôn đã đưa trong tay Hiệp-Thiên-Đài. Bần-Đạo không biết làm sao thiệt-hành ra được. Hồi đó Hội-Thánh Phước-Thiện chưa thành-lập, giao cơ cứu-khổ, Bần-Đạo không biết phải làm thế nào, nhưng chẳng bao lâu Ngài lập thành Hội-Thánh Phước-Thiện, chừng đó Bần-Đạo mới biết cơ cứu-khổ là đây.

Aáy vậy, Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là Hội-Thánh của Giáo-Tông, còn Hội-Thánh Phước-Thiện là của Hộ-Pháp. Hội-Thánh bên kia bảo-vệ văn-hiến Tôn-Giáo. Hội-Thánh bên này cứu khổ, còn có chỗ nào hay-ho hơn nữa. Nay thêm một cơ-quan nữa do cơ-đời ly-loạn nên mới xuất-hiện ta Quân-đội đặng bảo-sanh nhơn-nghĩa đặng đến cảnh đại-đồng, còn có nơi nào hay-ho hơn trong cửa Đạo chăng ? Điều ấy chưa Tôn-Giáo nào có, Bần-Đạo quả-quyết vậy.

Aáy vậy, phận-sự Hội-Thánh Phước-Thiện là phận-sự tượng-trưng hình-ảnh Đức Chí-Tôn đặng cứu khổ cho con-cái của Ngài, xin nhớ. Thử nghĩ coi trách-vụ đơn-sơ mà nặng-nề làm sao. Hiểu nghĩa-lý sâu-xa của nó, chúng ta sợ không bao giờ thực-hiện trách-vụ nặng-nề đó được. Bao giờ cũng vậy, nền Tôn-Giáo từ hai ngàn năm nay là nền Thiên-Chúa-Giáo hay là Đạo Gia-Tô mà về Phước-Thiện họ còn sơ-sót chưa mỹ-mãn, huống chi mình, Bần-Đạo không trách nhưng chỉ có một điều là trong Thánh-Thể Đức Chí-Tôn gánh-vác cái khổ cho con-cái của Ngài rất nên yếu-ớt. Không đủ tâm-lực, không đủ phương-chước. Chỉ ước-mong Đức Chí-Tôn ban ân riêng đặc-biệt vì trách-vụ nặng-nề ấy, đặng cầm cơ cứu khổ của Đức Chí-Tôn mạnh-mẽ và cương-quyết, nhưng ta cũng nên biết thêm rằng :An-ủi cho được một người thống-khổ không phải dễ, đem cơ cứu-khổ ấy thiệt-hiện ra đặng cho cả thiên-hạ được hưởng hồng-ân của Đức Chí-Tôn, chúng ta thấy lại càng thêm khó. Phải cố-gắng đã đành, xong nên chăng là do quyền-năng Thiêng-Liêng giúp sức.

Những yếu-nhân đương quyền về Phước-Thiện, Bần-Đạo thấy giờ phút nầy tin là mấy em Kỳ-Lão Phạm-Môn, nhưng họ lại có đặc quyền khác, họ còn ở Phước-Thiện là bởi Phước-Thiện thiếu người cầm quyền chấp-chánh, nên Bần-Đạo để họ qua cầm quyền, không phải là đac phận-sự của họ. Đức Chí-Tôn định mở Phạm-Môn là mở cửa tu-chơn, thi-hành Bí-Pháp chớ không phải Thể-Pháp. Phước-Thiện không phải là phận sự của họ. Giờ phút này những phần-tử Phạm-Môn còn cầm quyền Phước-Thiện, do Hội-Thánh Phước-Thiện còn thiếu người. Chủ-quyền của họ là ở các nơi tịnh-thất trong cửa tu-chơn, là đặc-điểm của họ. Đã hai mươi sáu năm họ chịu khổ-nhọc đã nhiều. Hy-sinh từ tóc sanh đến bạc đầu, lao-tâm lao-lực. Bần-Đạo tưởng đến càng làm thêm ra nữa là càng thêm khổ cho họ. Hai mươi mấy năm lập Phước-Thiện đoàn tiền-bối qui-liễu lần hồi, chỉ đám thanh-niên lúc nọ còn lại năm bảy người, họ cũng đã da mòi tóc bạc.

Mấy người đã biết sở-yếu của mình là thiếu Chức-Sắc Thiên-Phong thì do nơi mấy người định vị cho họ, xúm đưa họ lên cầu-nguyện cùng Đức Chí-Tôn, cho có các chơn-linh hiếu-hạnh của Ngài cùng Phật-Mẫu, đem vô làm Thánh-Thể của Ngài cho cường-liệt mạnh-mẽ. Bần-Đạo nói gánh khổ của đời nặng-nề lắm, đã nghe nói nặng nề lắm thì không tâm-lực, không đủ quyền-hành gánh-gồng chi nỗi. Đặc phận ấy muốn làm cho trọn-vẹn phải cố-gắng cho lắm làm mới được, xem đàn anh họ đã hy-sinh thế nào rồi, đàn em bắt-chước theo. Ho dám hy-sinh cả sanh-mạng tài-sản, cả kiếp sanh của họ, không biết gì là gia-đình, không biết gì là danh-vọng, không biết gì tới thân hình. Có nhiều người phải lao-lực mà chết biết bao nhiêu kể, mấy em hiển-nhiên ngó thấy.

Về phương-pháp hành-thiện Bần-Đạo nói : Chơn-Pháp bên Phước-Thiện có điều này trọng-yếu hơn hết, từ bực Hành-Thiện muốn lên Giáo-Thiện phải tạo nghiệp cho đủ 12 gia-đình theo chơn-pháp.

Giáo-Nhi từ trước cho lên Giáo-Thiện là thể theo lòng từ-bi bác-ái của Đức Chí-Tôn mà ân-tứ, nhưng Giáo-Nhi có thể lên Lễ-sanh chớ không được lên Giáo-Thiện, vì thiếu luật tạo nghiệp cho 12 gia-đình. Nếu thiếu một người trong số 12 người ấy, thì phải dừng lại bực Hành-Thiện mà thôi, chớ không thăng lên Giáo-Thiện. Tạo nghiệp cho 12 gia-đình không phải đem bà con vào đó mà được, tạo nghiệp cho mỗi gia-đình phải có bằng chứng là ngoại nhân chớ không phải đem bà con cật-ruột thì truất bỏ chẳng kể công nghe vậy chưa?  Bởi vì bậc Hành-Thiện phải làm thiện, nhưng nếu làm cho thân-bằng mình, anh em của mình, làm cho gia-đình mình thì không phải kể cho là Hành-Thiện.

Aáy vậy cơ-quan cứu-khổ Hội-Thánh phải chon người tâm-đức biết hy-sinh mình đặng thực-hiện cơ-quan cứu-khổ ấy. Phải tuyển chọn người tâm-đức hiền-lương từ-bi bác-ái vị-tha vô vị kỷ mới đáng giá phẩm vị mình.

Nên nhớ, Hội-Thánh Phước-Thiện không có hàm chức như Hành-Chánh, phải đi theo lên cho tới tột phẩm Phật-Tử. Những Chức-Sắc hàm chức ngày nay Bần-Đạo sẽ kiếm thế đưa qua Ban kỳ-lão hết.

Tiếp-tục đây rồi, Bần-Đạo sẽ rút cả mấy vị Chức-Sắc Thiên-Phong ở Phạm-Môn đặng mở con đường tu chơn, nam cũng vậy, nữ cũng vậy.

Trí-Huệ-Cung bên Phạm-Môn tạo-tác đây là nhà tu của nữ phái, giờ phút này Bần-Đạo mới nói thiệt tại sao làm nhà tu cho Phái-Nữ trước. Đáng lẽ Bần-Đạo phải làm cho Phái-Nam trước trên Sơn-Đình mới phải chớ. Nhưng, nếu Bần-Đạo làm cho Phái-Nam trước rồi họ sẽ bỏe Phái-Nữ không làm. Bần-Đạo làm cho Phái-Nữ trước đặng họ phân-bì, dầu Bần-Đạo có quí thì thì họ cũng cố tâm làm cho nên việc.

Phải cố-gắng, Hội-Thánh Phước-Thiện phải cố-gắng, mấy vị Giáo-Thiện, mấy bạn Kỳ-Lão. Bần-Đạo cho hay trước cả Chức-Sắc bên Phạm-Môn Bần-Đạo sẽ rút hết và sẽ giao quyền Phước-Thiện cho mấy vị Tân-Phong điều-khiển.

Bây giờ Bần-Đạo xin giao quyền lại cho Đạo-Nhơn Cương và hai vị Chí-Thiện trọn quyền chủ hội nam, còn Phái nữ thì bà Phối-Sư Hương-Nhiểu làm chủ .

 

Đền-Thánh ngày 14 tháng 9 năm Tân-Mão (14-10-1951)

CÁI CHƠN HẠNH-PHÚC CỦA KIẾP SANH CHÚNG TA THẾ NÀO ?

Đêm nay Bần-Đạo giảng cái chơn hạnh-phúc của kiếp sanh chúng ta thế nào ? Và chúng ta sẽ gặp nó tại nơi đâu ?

Chúng ta đã chán biết rằng : Ta sống nơi thế này chẳng hề buổi nào gặp được chơn hạnh-phúc, vì nếu chúng ta gặp nó một cách dễ-dàng, thì dám chắc thuyết Tứ-Diệu-Đề của Đức Phật Thích-Ca không có giá-trị chi hết.

Sống nơi cảnh khổ mà tìm hạnh-phúc khó lắm, hạnh-phúc ấy có hay chăng. Bần-Đạo để dấu hỏi ? Có chớ, thật ra nếu chúng ta biết tìm nó cũng có thể được.

Chúng ta thấy trước mắt dầu cho toàn thể nhơn-loại nơi mặt địa-cầu này họ đã khác tánh-đức, tinh-thần, tâm-lý với nhau, cái gì cũng khác hết, chỉ có cái cười và cái khóc là giống nhau mà thôi. Tai sao cái cười và cái khóc của con người lại giống nhau ? Cười ấy phải chăng là tượng-trưng cho hạnh-phúc. Khóc phải chăng tượng-trưng cho sự đau-khổ của lòai người.

Bần-Đạo nói đây chỉ có cái cười giả-dối là cười thì cay đắng như ớt, gừng, cũng có cái khóc giả-dối là khóc cũng có nước mắt, nhưng cái khóc của họ là khóc giả-dối mà thôi. Bần-Đạo nói cười thế nào mới tượng-trưng hạnh-phúc, dầu hạnh-phúc đó như ngọn gió thoảng qua, như giọt sương đầu cỏ, còn khóc thế nào mới đau-đớn và quả-quyết thống-khổ ? Chúng ta đã ngó thấy kiếp sống của chúng ta khóc nhiều mà cười ít. Thử hỏi một kiếp sống của chúng ta có thú-vị hay chăng ? Xin trả lời : Từ lọt lòng mẹ dĩ chí ngày chung-qui chúng ta chỉ hưởng được hạnh-phúc bóng dáng mà thôi, chớ chẳng hề khi nào chúng ta hưởng được chọn hạnh phúc.

Aáy vậy, chơn hạnh-phúc của ta, ta có thể tìm nó được, tìm nó ở trong cái cười hạnh-phúc của các bạn đồng sanh với ta nhưng họ ở trong cảnh khổ  thì làm sao họ có cái cười hạnh-phúc được ? Chúng ta phải làm thế nào, cho họ hưởng được hạnh-phúc, mặc dầu hạnh-phúc ấy mảy-mún, chúng ta phải làm thế nào cho họ có cái cười hạnh-phúc ấy, chúng ta lúc nào cũng muốn cho họ hưởng được mãi-mãi hạnh-phúc, tuy hạnh-phúc ấy chỉ thoảng qua như gió thoảng hay một đám sương sa, mà có hưởng, còn hơn không có chi hết.

Khi chúng ta ngó thấy người bạn đồng khổ của chúng ta hưởng được điều chi của ta đã làm cho được hạnh-phúc vui-vẽ, cái đó phải chăng là cái hạnh-phúc của ta đây.

Hại thay ! Đâu có người nào có cái tâm yêu-ái vô-tận vô biên hy-sinh mình đặng tạo hạnh-phúc cho kẻ khác, họ chỉ ngó thấy cái khổ của họ và họ chỉ tìm cách đạt cái hạnh-phúc giả-dối của họ mà thôi, họ dám lấy cái khổ trọn kiếp sanh mua trận cười giả-dối, họ chưa biết lấy khổ-nhọc của đời thiệt-hiện một trận cười hạnh-phúc cho bạn đồng sanh của họ thản như chúng ta thấu-đáo được triết lý ấy chúng ta nên để cái trí-não tinh-thần , chúng ta hy-sinh tạo hạnh-phúc cho con-cái Đức Chí-Tôn, tức nhiên tạo hạnh-phúc cho toàn-thể nhơn-loại, thì cái hạnh-phúc mà họ hưởng mỗi người đó, có thể tổng-số lại làm cái hạnh-phúc lớn cho ta chớ có mất đâu.

Hại thay ! Nhơn-loại chỉ vì tranh-sống, thay vì họ gieo rắc-rối trong tâm-hồn bạn đồng-sanh của họ, cái cười hạnh-phúc ấy, trái lại họ chỉ làm cho đổ luy mà thôi, cái suối cửu-tuyền kia, nếu chúng ta ngó thấy được cái suối cửu-tuyền là nước ắt của nhơn-sanh đã thống-khổ, thì dám chắc rằng kiếp-sanh của chúng ta không có hạnh-phúc gì hết. Chỉ giành cái sống mà tạo khổ cho nhau, chớ chưa hề biết hy-sinh mình đem cả tâm-hồn bác-ái từ-bi vô-tận vô-biên đặng tạo hạnh-phúc cho người, làm nên cho người, họ chỉ giành hạnh-phúc ấy mà hưởng được hay không, không biết, cứ giành để mà hưởng cái hạnh-phúc giả-dối mà thôi. Nếu thế họ chẳng hề buổi nào hưởng được chơn hạnh-phúc.

Bần-Đạo đã nói hôm nay con-cái của Đức Chí-Tôn Nam, Nữ cũng vậy, sẽ có hạnh-phúc. Bần-Đạo nói quả-quyết điều ấy, Bần-Đạo để lời hỏi, tỉ như ngày giờ nào con-cái Đức Chí-Tôn hoàn toàn thay thế hình-ảnh cho Ngài, dám hy-sinh mình đem lòng thương-yêu vô-tận vô-biên, tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại. Để dấu hỏi ? cả thảy con cái Đức Chí-Tôn suy-gẫm. Bần-Đạo thú thật những người tạo hạnh-phúc cho gia-đình, gầy con cháu tông-đường sum-hiệp lại với nhau gọi là hạnh-phúc. Hạnh-phúc ấy bền vững hạnh-phúc chăng ? Không bền vững được, chỉ như ngon gió thoảng qua mà thôi. Biết bao nhiêu gia-đình ở mặt thế-gian này sang cả, mà họ hưởng được cái thiệt hạnh-phúc hay chưa ? Bần-Đạo nói : họ hưởng đặng tạm thời trong giây-phút mà thôi.

Bây giờ kiếm nó nơi đâu mà có ? Chúng ta chỉ hưởng được là giờ chót, giờ hấp-hối của chúng ta đó thôi. Nếu chúng ta còn trí-lự, còn sống sót trong 5 phút thấy cả cái sống của kẻ đồng-loại không còn đau khổ, thì cái chết của ta mới thiệt là hạnh-phúc. Bởi chúng ta có thể đến trước mặt Đức Chí-Tôn mà nói rằng : Thưa Thầy, con đã làm tròn bổn-phận của con đối với Thầy, Thầy muốn con thay thế hình-ảnh cho Thầy đặng tạo hạnh-phúc cho con-cái của Thầy, con đã làm đặng. Rồi day lại nói với các bạn đồng sanh của chúng ta rằng : Nầy các bạn, tôi xin kiếu từ các bạn và trông đợi các bạn. Lúc nào tâm-hồn cũng rung chuyển cho mấy người. Giờ phút này tôi còn trông-mong nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia, là nơi chúng ta hưởng được hạnh-phúc thiệt-thọ với nhau, Tôi mong các bạn đến đó đặng tạo dựng một hạnh-phúc lâu dài. Tôi xin đợi mấy người tại chỗ đó.

 

Đền-Thánh, đêm 24-9 năm Tân-Mão (1951)

LỄ HIỆP-CHÚNG-QUỐC  TỔ-CHỨC QUỐC-TẾ ĐỂ BẢO-THỦ HÒA-BÌNH THẾ-GIỚI.

Ngày hôm nay là lễ Hiệp-Chúng-Quốc, Bần-Đạo cũng nên thuyết minh cái lễ nay là cái lễ gì ? Và nó ra sao ? Bần-Đạo nói : Nó đối với nền Đạo của Đức Chí-Tôn tức nhiên Đạo Cao-Đài cũng trọng-hệ lắm vậy.

Hiệp-Chúng-Quốc là một tổ-chức Quốc-Tế để bảo-thủ hòa-bình tự do hạnh-phúc cho nhơn-loại. Tổ-chức ấy đương tiếp-tục với Liên-Hiệp-Quốc buổi nọ. Do sao Liên-Hiệp-Quốc đề-xướng ra ? Ban sơ chỉ có Ngũ-Cường là Pháp, Trung-Hoa. Anh, Mỹ và Nga, mà ngày nay đã có trên 50 nước hội-viên và nước Việt-Nam ta cũng có thể nương vào hội ấy đặng bảo-thủ nhơn-quyền.

Cái vinh-diệu của nước Pháp hơn hết, là hội nhơn-quyền buổi nọ để bảo-thủ tự do nhơn-loại của Pháp đề-xướng, ngày hôm nay Hiệp-Chúng-Quốc đã công-nhận và truyền-bá cho cả toàn cầu thi-hành thiệt-hiện ra cũng như nước Pháp đã thi-hành từ thử.

Aáy vậy, chúng ta đã biết rõ rằng : Hiệp-Chúng-Quốc cốt yếu bảo-thủ hòa-bình và tự-do cho nhơn-loại, tức là muốn đem cả toàn cầu làm một, làm một cái đại gia-đình Quốc-Tế, tức nhiên là đại gia-đình của nhơn-loại đó vậy. Thật ra chúng ta ngó thấy cái tổ-chức ấy đang gặp nhiều nỗi khó khăn gay trở, nhưng Bần-Đạo quả-quyết rằng : Aáy là một cơ thể do nơi Thiên-thơ đã tiền định. Chính Đức Chí-Tôn buổi nọ (Năm 1925) giảng dạy. Ngài nói rằng : Nhơn-loại sẽ cộng hiệp với nhau mà thôi, một về xã-hội, một về chủng-tộc, một về tín-ngưỡng. Aáy vậy, cái chơn-pháp của Đức Chí-Tôn Thiên-cơ đã muốn cho toàn thể nhơn-loại hiệp nhứt cùng nhau trong đại gia-đình Quốc-Tế, vì cớ cho nên khiến ra các Liệt-Cường trên mặt địa-cầu,  giờ phút này chỉ chủ hướng theo một mục-đích là làm thế nào cho cả toàn-cầu chung hiệp với nhau trong đại gia-đình của nhơn-loại. Bần-Đạo có thể mơ-mộng một ngày kia, một ngày gần đây cả các chủng-tộc trên toàn-cầu này sẽ duy nhứt một Chánh-Phủ mà thôi. Chỉ có một phương ấy thiên-hạ mới hòa-bình và toàn cả nhơn-loại mới mơ-ước hưởng được tự-do hạnh-phúc.

Cái chánh-nghĩa của Hiệp-Chúng-Quốc ngày nay thiên-hạ đều ngó thấy trên con đường duy nhứt phải đi, và con đường ấy có thể tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại, phải có sự hiệp một cùng nhau không còn tranh quyền lợi giai cấp, họ sẽ đi đến một cảnh hòa-bình trong bác-ái, trong công-chánh, cũng như Đạo Cao-Đài đã theo giỏi từ ban sơ đến giờ. Biết đâu cái cơ-quan Hiệp-Chúng-Quốc là một tổ-chức Quốc-Tế, để giúp cho chơn-pháp của Đạo Cao-Đài được thực-hiện, tức nhiên để giúp Đạo Cao-Đài làm tròn phận-sự, hiệp nhứt con cái Đức Chí-Tôn vào lòng yêu-ái vô-tận vô-biên của Ngài.

 

 Đền-Thánh, đêm 30-9 năm Tân-Mão (1951)

KIẾP-DUYÊN KIẾP-QUẢ CỦA CHÚNG TA

Đêm nay Bần-Đạo giảng kiếp-duyên, kiếp-quả của chúng ta, chúng ta phải hiểu nghĩa kiếp-duyên là gì ? và kiếp-quả là gì ? Chúng ta biết đương nhiên kiếp sanh của chúng ta bây giờ đây ở trong cái tình-trạng nào ?

Kiếp-quả theo chơn-lý của Phật đã nói rằng : Cái nhơn-quả của ta  nó làm cho chúng ta sanh nơi cõi trần này. Chúng ta có xác-thịt thi hài làm người nơi mặt địa-cầu này do nơi nhơn-quả của chúng ta mà ra, đã mang căn kiếp số đương nhiên của chúng ta, do nơi nhơn-quả của tiền kiếp, tức nhiên kiếp trước, rồi cái kiếp tương-lai, cái kiếp sắp tới của chúng ta là do nơi nhơn-quả của kiếp bây giờ, chúng ta đã đào-tạo ra nhân, bởi chúng ta đã đào-tạo ra nhân, mới sanh ra quả, mà có quả tức nhiên chúng ta phải tái kiếp đặng đền cái quả ấy. Gọi là kiếp-quả.

Bây giờ kiếp-duyên là chúng ta có đủ làm phận-sự trong kiếp sanh trước của chúng ta trọn-vẹn nhơn đạo, trọn-vẹn cái đạo làm người của chúng ta và đã gieo cái tình ái vô-biên trong tâm thần của bạn đồng sanh của chúng ta, ta đã thi ân cho họ, ngày giờ này ta đến cho có mặt đặng cho họ trả cái quả-kiếp của họ. Gọi là kiếp-duyên hay là cái căn tu của chúng ta đã đạt đến một địa-vị Thiêng-Liêng của chúng ta gọi là siêu-thoát, thì ta tái kiếp đặng mà đạt cái phẩm vị ấy nơi cõi này, tại mặt địa-cầu này. Đó là chúng ta đã đào-tạo cái nhơn-duyên của chúng ta vậy.

Trong cái kiếp duyên của chúng ta có cái kiếp ngộ đạo là hạnh phúc hơn hết, và trọng-hệ hơn hết, mà chính cái ngộ Đạo ấy , chúng ta có thể may duyên đến hội hiệp cùng Đại Từ-Phụ tức-nhiên vào ngồi trong lòng của Đức Chí-Tôn vậy. Cái kiếp duyên cao-trọng hơn hết là đấy. Bần-Đạo nói rõ. Mấy bạn yêu-ái của chúng ta đương ở trong lòng thương-yêu vô-tận của Đức Chí-Tôn nhập trong cái đại gia-đình Thiêng-Liêng của Ngài. Ngài đến nơi mặt địa-cầu này là để cái dấu chơn của Ngài trên cái Cao-Đài này, đặng Ngài làm cái dấu hiệu cho toàn thể con cái của Ngài đã hữu duyên gặp đặng Ngài, nó là nơi hội-hiệp của nó, nghĩa là chúng ta  ngày hôm nay ngồi trong cái Đền-Thánh này, tức nhiên trong một cái cơ-thể tượng trưng lòng yêu-ái vô-tận của Đức Chí-Tôn, nó không phải tình cờ mà được vậy, chúng ta chung hiệp với nhau ngày hôm nay trong lòng yêu-ái của Ngài nơi Đền-Thánh này không phải do nơi cái may mà ra, chúng ta đã đạt đặng một kiếp-duyên của chúng ta, hội-hiệp cùng nhau chung cả hạnh-phúc của chúng ta làm một khối Thiêng-Liêng vô-đối trong lòng yêu-ái vô-tận vô-biên của Đức Chí-Tôn, đặng cầm cái quyền-năng yêu-ái ấy rải khắp cho toàn thiên-hạ được hưởng, chỉ nghĩa là chúng ta có cái duyên-phận đến đặng thọ mạng lịnh của Đức Chí-Tôn phụng-sự con cái của Ngài, cái phụng-sự ấy là để tạo kiếp-duyên cho họ, cũng như ta đã được may phước ngộ Đạo gặp Ngài nơi thế này.

Vị Thanh-Tâm Tài-Nữ trước kia vì tình mà chết, nên phải đầu kiếp, trước khi người đến tại nước Anh, người có đến đặng từ biệt chúng tôi, buổi ấy chúng tôi hỏi : Sao lại đến nước Anh, chớ không đến nước khác ? Thanh-Tâm Tài-Nữ nói : Nhơn-duyên của em nơi đó. Em cốt-yếu đến nước Anh đặng đón đường Đức Chí-Tôn đi ngang qua đấy. Thanh-Tâm Tài-Nữ làm như vậy là :

   Phải đủ căn sanh mới thấy Trời

     Ai ơi đừng tưởng dễ như chơi

     Nghe danh tuy chất chồng bên gối

     Cổ-Phật không duyên khó gặp người

Bần-Đạo nói thật : Mấy bạn nam cũng thế, nữ cũng thế, đương chung hiệp cùng nhau nơi đây, cái buổi hạnh-phúc của chúng ta là buổi nầy “Bá Thiên vạn kiếp nan tạo-ngộ” không phải dễ gặp mặt. Ta đã gặp đặng tưởng chắc nếu chúng ta hiểu rõ giá-trị của nó, thì cái kiếp duyên của chúng ta đây dầu có của phú-hữu tại mặt địa-cầu này, cái danh-giá cao-trọng như thế mấy, cái hạnh-phúc giá-trị sang-trọng thế mấy cũng xa cái giá-trị của kiếp duyên như Trời với vực.

 

Đền-Thánh, đêm 12-10 năm Tân-Mão (1951)

KỂ ĐẠI CÔNG-NGHIỆP CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG.

Ngày mai này là ngày Vía Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt, Bần-Đạo xin để lời yêu-cầu cả toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn phải có mặt đông đủ đặng tỏ cái nghiã của chúng ta đối với Người, một vị Đại-Tiên đã giáng phàm, phận-sự yếu-trọng là đến đặng lập nền chơn-giáo nơi thế-gian này. Cái tiểu-sử của Ngài, ngày mai này Bần-Đạo sẽ minh tả. Chúng ta chỉ tìm hiểu thử coi cái hành-tàng trong kiếp-sống của Ngài để lại cho chúng ta một cái gương quí-báu, Bần-Đạo muốn nói ra đây đặng toàn thể con cái Đức Chí-Tôn đối với Đạo hiểu cái phận của mình đặng định phận Đạo của chúng ta, đối lại với Đức Chí-Tôn và đàn anh của chúng ta thế nào, cái kiếp sanh của chúng ta nơi thế-gian này có hai sự-nghiệp, sự nghiệp về linh-hồn của chúng ta, nói rõ ra là cái sự-nghiệp  do nơi năng-lực của tâm-hồn ta gày tạo và cái sự-nghiệp phần đời của chúng ta, nẽo đời nơi cõi thế này duy có mấy điều trọng-yếu : Công-danh, quyền-lợi. Chúng ta nên xét-đoán tìm thử coi công-danh thể nào bền vững chắc-chắn, công-danh thể nào là tiêu-hủy, mơ-hồ bóng-dâng.

Đức Quyền Giáo-Tông buổi nọ lúc sanh tiền của Ngài, nếu nói rằng có một người Việt-Nam đã được phẩm vị cao-trọng, có thể phẩm vị ấy tạo công-danh phú-quí của Ngài toàn mãn đặng. Bần-Đạo vốn là bạn thiết của Ngài nên biết rằng: Dầu cho cả chủng-tộc buổi nọ, một vị Thượng-Nghị-Viên sang giàu mà Bần-Đạo nói rằng chẳng hề buổi nào hưởng đặng cái hạnh-phúc. Chính Ngài đã tỏ với Bần-Đạo cái tình chí thiết nói rằng: Có nhiều chỗ của Ngài không muốn sống, Ngài muốn tự-diệt Ngài đi mà chớ. Vì lẽ bất công, bất-công cả thảy trong xã-hội, nhứt là xã-hội đồng-bào của Ngài. Ngài bỏ cái công-danh phú-quí ấy, buổi nọ ai cũng chê Ngài khờ-khạo, dại-dột, Ngài đã bỏ, ta thử nghĩ Ngài bỏ đặng chi ? Ngài bỏ cái công-danh phú-quí bóng dáng đó đặng Ngài tìm cái gì mà chớ ? Có phải chăng Ngài đem công-danh phú-quí đổi lại một công-danh phú-quí trường-tồn hay chăng ?

Hôm nay chúng ta đến đây ai cũng có một cái tình cảm xúc, tại sao ? Tại vì anh cả của chúng ta đã chịu khổ-hạnh bảo-tồn nền chơn-giáo, ai cũng ngậm-ngùi tình luyến-ái.

Chúng ta xét cổ-kim, chúng ta đã ngó thấy thiên-hạ sống trong vinh-hiển đã nhiều, đời sang giàu ai cho bằng Thạnh-Sùng, Vương-Khải, ai mà giàu sang quyền thế đạt một ngôi vị Đế-Vương, giàu có bốn biển, thống nhứt cả nước Trung-Hoa buổi nọ, Kiệt, Trụ, Sở Bá-Vương, Tần, mà chúng ta thử xem lại coi cái công-danh phú-quí sang trọng ấy giờ phút này còn tồn-tại chi chăng? Cái sống trong vinh-hiển của đời này nó phải tùng theo khuôn-luật, hình-chất của con người, còn thì công-danh phú quí ấy vẫn còn, mà mất thì công-danh phú-quí ấy vẫn mất.

Hại thay ! Còn mất ấy nó ở trong đời tạm con người một trăm năm là quá cao rồi. Chúng ta đã ngó thấy một người ăn-mày với một bình-bát đi xin đặng độ nhựt, đặng sống vì Đạo, cái bình-bát ấy nó đựng cả Càn-Khôn Vũ-Trụ, cái bình-bát ấy nó “đựng” cả tinh-thần tâm-hồn toàn-thể nhơn-loại là Đức Phật Thích-Ca.

Một kẻ bị xử án, tội nhơn chết trên cây Thánh Giá không có một manh áo, chỉ trơ mình tấm thân trần-lỗ, kẻ ấy hôm nay làm Chúa của toàn thiên-hạ trên thế-gian này. Hai công danh tôi tưởng không cần gì để lên mặt cân mà lường, cả toàn-thể con-cái Đức Chí-Tôn đã ngó thấy Quyền Giáo-Tông của chúng ta biết lựa con đường ấy biết cái trọng, cái kính, Ngài không ngoan hơn hết, bỏ cái khinh giữ cái trọng.

Chúng ta thử nghĩ, chúng ta vì gia-đình là cho Tông-đường ta và ông cha ta, tưởng ra nó còn lại với một cái tình yêu-ái của toàn-thể thiên-hạ, cái nào hơn, cái nào thua, cái nào trọng, cái nào khinh, chúng ta không nói cũng có thể hiểu được.

Ước-mong đoàn em của Ngài biết cái lập-trường quí-báu của mình đứng trong lập-trường ấy thế nào đặng vững tinh-thần giữ danh-thể, giữ cái oai võ của mình cho toàn-vẹn giá trị mình.

 

Tại Tháp Đức Quyền GIÁO-TÔNG ngày 13-10 năm Tân-Mão (1951)

LỄ KỶ-NIỆM NGÀY QUI-TIÊN CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG.

Thưa Chư Chức-Sắc Thiên-Phong lưỡng phái, Quân-đội cùng các anh em nam-nữ, con yêu-dấu của Đức Chí-Tôn.

Ngày hôm nay là ngày vía của Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt, một ngày kỷ-niệm nồng-nàn. Khi Qua bước lên giảng đài này thì dừờng như Qua sống lại hai mươi mấy năm về trước, cái thời gian hai mươi mấy năm ấy, giờ phút này Qua tưởng-tượng như giấc ngủ, giấc chiêm-bao, chẳng có chi để lại cho ta hơn là một cái tình-cảm nồng-nàn.

Đức Quyền Giáo-Tông đã vâng mạng-lịnh và đã lãnh một trách-nhiệm Thiêng-Liêng đến tạo nền chơn-giáo nơi đất Việt-Nam nhỏ bé, bạc-nhược, nếu Qua không nói là hèn-hạ buổi nọ. Lãnh một cái sứ-mạng ấy là cái sự-mạng đem cả công-lý cả yêu-ái đặng để nơi mặt thế-gian này. Thật nhơn-loại không buổi nào đặng hạnh-phúc vì cái tình ái-truất thương sanh Đức Chí-Tôn đã đem để vào tâm-não của mỗi đứa, đã tiêu-hủy.

Thật ra hồi ban-sơ chỉ có ba người, Bần-Đạo nói không có gì, Đức Chí-Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng-tượng được, khi Ngài đến chỉ có Đức Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo mà thôi, về sau Bần-Đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm mới đến Nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đặng Chí-Tôn chuyện-vãn cùng người. Bần-Đạo nói thật, Bần-Đạo lấy làm ngạc nhiên một người đã đứng đầu trong một trường chánh-trị đã chịu một ảnh-hưởng của tình thế trích-điểm cũng có, tôn-sùng cũng có, khen cũng có, chê cũng có, buổi ấy bị họ ghen-ghét nên chê nhiều hơn khen, chính mình Bần-Đạo lấy làm lạ tại sao Đức Chí-Tôn biểu Thượng-Phẩm và Bần-Đạo đến nơi đó ? Để cái dấu hỏi mơ-hồ, chẳng dè một người đó lại phi-thường, giờ phút này Bần-Đạo nói đến lấy làm lạ, một là từ thử đến giờ Bần-Đạo chưa ngó thấy. Đến chuyện vãn cùng Ngài, Đức Chí-Tôn nói cái chi, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi, Bần-Đạo và Thượng-Phẩm chỉ là hai người dự thính không biết gì hết mà chỉ nói với nhau rồi họ hiểu với nhau mà thôi. Trong 24 giờ một người đã là Thượng-Nghị-Viên, một cái gia-nghiệp đủ vinh-hiển đủ cao-trọng đủ đương đầu với thiên-hạ. Trong 24 giờ bỏ hết, liệng hết mà thôi. Một cái là hơn hết là đương hút á-phiện, người phong-lưu như ai kia vậy, bỏ một cái một, rồi trường trai đó vậy. Một người của Bần-Đạo ban sơ thấy Thượng-phẩm là có một, rồi sau lại có người này nữa. Ngồi nghĩ thầm cái đức-tin gì mà lạ-lùng như thế ? Giờ phút này Bần-Đạo mới hiểu hai vị Đại-Tiên ấy, nếu không như thế ấy thì chưa hề Đức Chí-Tôn đã giao-phó một sứ-mạng nặng-nề khó-khăn, để đảm-nhiệm trách-vụ tạo-dựng gánh-vác nền chơn-giáo của Ngài nơi mặt thế này. Nói thật ra, thưa cùng Chức-Sắc Thiên-Phong Cửu-Trùng-Đài nam nữ cái ngôi của Ngài đã tạo-dựng, cái ngôi Giáo-Tông-Đường của Ngài đã ngồi trên ấy, đầu tiên hết cái ngôi ấy nó sẽ đến nơi đất Việt-Nam naỳ một cái báu-vật quí-giá vô cùng từ thử đến giờ chưa hề có.

Bần-Đạo ngó qua bên Vatican, cái ngai của Đức Giáo-Hoàng Saint Pièrre thế nào thì Bần-Đạo có lẽ nói và có thể mơ-ước rằng: Cái ngôi của Thượng-Trung-Nhựt lưu lại nơi thế này nó sẽ trở nên thế ấy. Anh em nam nữ lưỡng-phái, giờ phút Thiêng-Liêng này Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt ngự nơi đây để cho Bần-Đạo nói với Ngài một đôi lời.

Anh Thượng-Trung-Nhựt, cái khổ-nhục của anh, cái nghèo khổ của anh, ngày hôm nay nó đã được tượng-hình, tượng-hình vĩnh-viễn nầy. Cái khổ-nhục của anh đó, các em đã dùng nó đặng tạo-nghiệp Thiêng-Liêng cho thế-gian này, cái khổ-nhục của anh nó làm ngọn huệ-kiếm đặng bảo-trợ đoàn em của anh, đem cái công-lý, cái bác-ái làm chúa của mặt địa-cầu đặng chuyển lại cơ tận-diệt trở nên một cái cơ tận-độ. Anh ngó lại cái tương-lai của Việt-Nam và cái tương-lai của Đạo. Em có một lời yếu-thiết là đoàn môn-đệ, đoàn con Thiêng-Liêng của Đức Chí-Tôn đã phú-thác cho những tay cầm vận-mạng tương-lai của Đạo. Anh đã chán biết mỗi một sanh-mạng của nó trong quân-sĩ, nó phải cỗi áo cà-sa mặc chiến-bào đặng chuyển thế, gieo bảo-sanh nhơn-nghĩa đại-đồng cho toàn nhơn-loại, mà anh đã biết cái tương-lai của Đạo, em đã để nơi chúng nó một tình-thương nồng-nàn. Mỗi một sanh-mạng của nó là một giọt huyết lệ của em. Em giao cái vận-mạng của nó trong tay anh, anh đã có làm anh, có thể bảo-thủ nên hư thời-vận tương-lai sẽ tới, em để trọn-vẹn và em đã phú-thác trọn trong tay của anh đó vậy.

 

Tại Tháp Đức Quyền Giáo-Tông ngày 13 tháng 10 năm Tân-Mão (1951)

LỄ KỶ-NIỆM DI LIÊN-ĐÀI CỦA NGÀI QUA THÁP MỚI

Hôm nay là ngày kỷ-niệm qui-tiên của Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt, Bần-Đạo chỉ cần nhắc tiểu-sử của Ngài, bởi vì toàn thể con cái của Đức Chí-Tôn nam, nữ, đều biết rõ kiếp sanh của người anh cả chúng ta thể nào rồi, Bần-Đạo có thuyết ra đi nữa cũng thừa. Có một điều về tâm-lý cao-thượng của tinh-thần, Bần-Đạo trạng-tả ra đây là khi Bần-Đạo đặng hạnh-phúc làm tròn cái phận làm em.

Anh cả chúng ta thiên-hạ tưởng là chết, nhưng vẫn sống... Chết gì còn nói được, chết gì mà để khối tinh-thần trong đầu-óc anh em còn hiện-diện tại đây ?

Chúng ta đương hạnh-phúc hành lễ, anh cả chúng ta về để lời cám ơn, trong lời cám ơn ấy có điều yếu-trọng hơn hết, Bần-Đạo giải nghĩa điều yếu-trọng ra đây cho toàn con cái Đức Chí-Tôn đều biết, tưởng nếu lời trọng-yếu ấy mà anh cả của chúng ta không có nói thì chưa ai tưởng-tượng lời cảm ơn ấy được. Tuy vẫn biết xác thịt người là xác chết, xác phàm này là con vật không có gì hết, mà mấy em nam nữ tôn-sùng quí-trọng, là cốt mấy em sùng-bái Thánh-Thể Đức Chí-Tôn mà thôi, nói nội bấy nhiêu đó cũng đủ làm bài học quí-báu cho toàn thể Chức-Sắc nam-nữ. Hội-Thánh là thánh-thể Đức Chí-Tôn vậy.

Xác chết đã hết giá-trị rồi, mà chúng ta còn muốn tôn-sùng cái giá-trị ấy cao-thượng hơn, giờ phút này lời anh cả chúng ta đã nói, so-sánh lại xác chết của anh cả chúng ta và cái kiếp của Thánh-Thể Đức Chí-Tôn, hai cái địa-vị như thế nào, chúng ta đã có can-đảm tôn-sùng xác chết của Đức Quyền Giáo-Tông như thế này, thì đối với giá-trị tôn-sùng xác sống của Đức Chí-Tôn, tức nhiên là Hội-Thánh, thì nó còn giá-trị quí-báu hơn nữa chớ ! Sự thật nó vẫn vậy, chúng ta tự hỏi : Nếu chúng ta muốn đạt cho đặng cái giá-trị cao-thượng ấy, chúng ta phải làm thế nào ? Và làm thể nào cho đáng giá ? Aáy là câu hỏi nên để mãi trong đầu-óc hay hơn lời của Đức Chí-Tôn để trong lòng chúng ta nữa. Những lời hay của anh cả chúng ta, một người vì đức-tin nơi Đức Chí-Tôn, dám hy-sinh cùng Ngài, làm cho chúng ta phải học.

Thảng như chúng ta suy-gẫm đến điều này thì thấy trước kia anh cả chúng ta sống trong trường quan-lại, là một vị Thượng-Nghị-Viên tức nhiên là một tước phẩm tối cao của xã-hội Việt-Nam buổi nọ, Ngài đã biết cái giá-trị thọ lãnh nơi Đức Chí-Tôn và cái giá-trị thọ-lãnh cùng đời và có can-đảm quyết đoán cái khinh, cái trọng, mới có can-đảm bỏ cái hình đương thời có giá-trị hiển-nhiên, mà lấy cái bóng không có giá-trị gì hết, buổi nọ họ mạt-sát khi rẻ, mà Ngài có can-đảm hay chăng chúng ta đã ngó thấy, người cầm con cờ nơi tay và chỉ có nước ăn, nước thua, mà Ngài biết cầm con cờ đi nước thắng. Ngài dám gởi tâm-hồn hình-thể của Ngài nơi tay của Đức Chí-Tôn giá-trị buổi nọ coi rẻ thế nào ? Mà ngày giờ này, cái giá-trị ấy nó có uy-quyền thế nào, Bần-Đạo để cho toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn ngó thấy.

Nơi mặt địa-cầu này, dầu cho giá-trị nào, hay hàng phẩm nào, dầu cho bực vương-đế đi nữa, mà không có tinh-thần của Đức Chí-Tôn để trong đó là đồ bỏ không có giá-trị gì hết, mà cũng không khi nào vĩnh-cửu, trường-tồn được. Chúng ta đã ngó thấy đài Tần, đỉnh Hớn kia như thế nào mà dám chắc tương lai của nó không bằng cái tháp này. Cái tháp này sẽ trường-cửu, đài Tần, đỉnh Hớn kia sẽ bị tiêu tan.

Bần-Đạo nói ra đây cho toàn thể con-cái Đức Chí-Tôn hiểu biết cái sứ-mạng tối-yếu, tối-trọng của chúng ta là thể nào đó vậy.

 

 Đền-Thánh đêm 11 tháng 11 năm Tân-Mão (1951)

NGÀY LỄ CỦA HỘI QUỐC-LIÊN NHƠN-QUYỀN

Hôm nay là ngày Hội Quốc-Liên, là ngày kỷ-niệm tuyên dương của Hội Nhơn-quyền. Nhơn-Quyền của Hội Quốc-Liên hôm nay do căn-bản của Hội Nhơn-Quyền do Pháp đào tạo và là cái danh-dự cao-trọng của Pháp hơn hết. Y như lời Bần-Đạo đã thuyết-minh ngày lễ của Hội Quốc-Liên về cái danh-dự tạo Hội Nhơn-Quyền cho nhơn-loại, cái danh-dự nước Pháp đã đạt đặng và đã đem lại cái danh-thể cho nước Pháp thêm lớn-lao với toàn cả thiên-hạ, là chính nước Pháp đã đề-xướng Nhơn-quyền. Phàm mỗi việc nó khởi đương ra vẫn nhỏ rồi mới biến sanh ra lớn, mỗi sự chi ở thế-gian này, vận-mạng con người vẫn do theo cái luật tiến triển của tinh-thần của hình-thể, của năng-lực cả toàn nhơn-loại trên mặt địa-cầu này. Ban sơ tại sao và do nơi cớ gì đã xuất-hiện Hội Nhơn-Quyền của nước Pháp buổi nọ ? Có một vị sĩ-quan kia tên Dreyfus bị cường-bức phải mất chức và bị lao-tù, nhưng cái lẽ bất-công ấy một người không thể chi minh-oan đặng. Các bạn đồng kiếm phương giải cứu. Một khối người họ nghĩ cũng chưa đủ, thế nên họ phải đề-xướng lên làm thế nào cho toàn cả quốc-dân nước Pháp phải chung hiệp với họ, đặng quyết-định thâu hoạch nhơn-quyền, các Hội-viên của Hội Nhơn-Quyền gọi danh là Dreyfusards, thành thử buổi nọ có nhiều trường-hợp chiến đấu kịch-liệt, một bên nhà cầm quyền, một bên nhứt định phản-kháng cái bất-công của chánh-phủ làm phương nào cứu đặng Dreyfus ra.

Họ chiến-đấu một cách khó-khăn nhưng mà họ đã đắc thắng. Ngày hôm nay cả toàn thể thiên-hạ tức nhiên các liệt-cường điều nhìn-nhận rằng : Tổ-chức ấy rất trọng-yếu, chánh-đáng cho toàn-thể nhơn-loại được hưởng vậy, vì cớ cho nên Hội Quốc-Liên mới tuyên-dương ra các nước dân-chủ trên mặt địa-cầu này, cả thảy điều tùng theo cái tổ-chức ấy là thiệt-hiện cho toàn thể quốc-dân hưởng quyền sở-hữu làm người của họ. Cái sở-năng của họ muốn cho nhơn-quyền đạt đặng làm thế nào cho cả toàn thể dầu cho cá-nhân, dầu cho xã-hội nhơn-quần điều đặng tự-do tư-tưởng, tự-do sinh-sống, tự do định phận của mình đối với mọi người bất cứ xã-hội nào, cần-yếu là trọng tự-do ấy họ có cái đặc phận đối với xã-hội của họ mà thôi.

Aáy vậy, hôm nay tại sao chúng ta là Đạo Cao-Đài mà làm lễ long-trọng dâng sơ cho Đức Chí-Tôn, cầu-nguyện Thiêng-Liêng bảo-hộ, binh-vực cái tổ-chức ấy được thiệt-hiện nơi mặt địa-cầu này. Bởi chúng nó là khuôn-luật cho nhơn-đạo, nó phải có để giúp Đạo Cao-Đài dìu-dắt nhơn-loại đi đến đại-đồng thiên-hạ trong bác-ái công-bình.

Bao giờ cái phản động-lực của mình cũng do nơi quyền-năng vô-đối của năng-lực nhơn-quyền Thiêng-Liêng kia đã đem đến, hễ có dữ, có hiền, vì có bất-công, vì có đau-khổ, của những kẻ cô-thế bị cường-quyền áp-bức, họ không biết nương tựa nơi đâu đặng họ tự-vệ lấy họ, tự bảo lấy họ, cái bất-công ấy dẫy-đầy nơi mặt thế-gian này. Vì cớ mơi sản-xuất phản-động chủ-nghĩa, phải có một phương-pháp chi bảo-vệ nhơn-quyền của họ, bằng chẳng vậy cái lẽ bất-công trên mặt địa-cầu này, chúng ta đã đoán-xét thấy một tấn-tuồng trước mắt làm cho thiên-hạ đau-khổ không thể gì giúp đặng, nên mới sản-xuất ra phản động-lực mạnh-mẽ bảo-vệ Hội Nhơn-Quyền. Phải có một năng lực bảo-vệ đặng đối-thủ với lẽ bất-công xã-hội ấy đã làm cho thiên-hạ phải thống-khổ, làm cho thiên-hạ phải ly-loạn, phải tương-tàn tương-sát với nhau, sanh ra một cơ tận diệt.

Muốn đem lại hạnh-phúc hòa-bình, hòa-bình thiệt-hiện được, phải bảo-vệ quyền-hành cho cá-nhân, cho xã-hội và cho toàn-thể nhơn-loại, tất phải đem lại công-chánh bác-ái để nơi mặt thế-gian này mới đặng. Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn khiến Hội Quốc-Liên dung-nạp cái tổ-chức Hội Nhơn-Quyền của Pháp tuyên-dương cùng toàn mặt địa-cầu đặng thiệt-hiện đại-đồng thiên-hạ đó vậy.

 

Đền-Thánh đêm 14 tháng 11 năm Tan-Mão (1951)

QUYỀN LỰC ĐẠO-ĐỨC NHƠN-NGHĨA.

Đêm nay Bần-Đạo giảng về cái quyền-lực đạo-đức nhơn-nghĩa. Chúng ta đã hạnh-phúc nhờ Đấng Đại-Từ-Phụ đã đến chung hiệp cùng chúng ta và giao-phó cho chúng ta một cái sứ-mạng Thiêng-Liêng, là làm thế nào cho toàn thể con cái của Ngài, tức nhiên là Vạn-Linh hiệp đồng làm một cùng nhau. Vì cớ cho nên Ngài đã dạy cho ta hiểu rõ cả cái thể Tạo-đoan cái quyền-lực thiên-nhiên Đại-Từ-Phụ đã vạch rõ cho chúng ta thấu hiểu, thấu-đáo đặng huyền-vi-mầu-nhiệm ấy, sao là sanh, sao là tử, sao là còn, sao là mất ? Chúng ta đã hiểu rõ rằng : Cuộc thế này nó ở trong khuôn-luật tiến-triển buộc vạn-vật và các đẳng linh-hồn phải tiến-triển mãi thôi, cơ thể ta chẳng vì lẽ ấy, vì lẽ cơ-thể tiến-triển của nhơn-loại hay là các xã-hội nơi mặt địa-cầu này mà tủi phận. Chúng ta lấy làm hãnh-diện rằng : Đối với Đạo Cao-Đài cả cơ-thể của Đạo không có chi là lạ, không có làm cho họ ngạc-nhiên  chút nào hết. Bởi họ hiểu thấu huyền-vi mầu-nhiệm sống chết còn mất của họ, nếu lấy đạo-đức làm căn-bản bảo-sanh cho họ, thì chúng ta bất quá giống như kẻ bàng-quang kia vì thế một nhơn-vật họ không biết cái sống của họ, họ chưa định giá-trị kiếp sống của họ hay là phương sống của họ. Chúng ta để lòng khuyên-nhủ dìu-dẫn vậy thôi, còn nên đặng hay hư  của họ vốn là chuyện chúng ta không có thể gọi rằng trọng hệ cho lắm, đạo-đức nhơn-nghĩa giá-trị thế nào mà thiên-hạ lại không ngó thấy rõ, hiểu cho thấu-đáo, biết tận tường giá-trị của nó thế nào đặng lợi-dụng lấy nó làm cái phương sống của mình. Trên xã-hội nhơn-quần nơi mặt địa-cầu này, xét ra thì họ bỏ cái quí, mà họ ham cái khinh, họ biết rằng : Trong kiếp sống của họ muốn bảo-tồn cho đặng không thế gì họ xa đặng đạo-đức nhơn-nghĩa. Từ thượng-cổ đến giờ, dầu cho cá-nhân, dầu cho xã-hội, dầu cho toàn-thể nhơn-quần, hỏi nếu họ muốn sống cho yên, cái sống của họ đặng hạnh-phúc, cái sống của họ bền-bỉ ta thử để dấu hỏi : Họ có xa được đạo-đức nhơn-nghĩa hay chăng ?

Nói vậy cá-nhơn chẳng cần gì luận tinh-thần, hành-vi quân-tử, trượng-phu, ta tỷ lại một kẻ tiểu nhơn, kẻ tiểu-nhơn hèn tiện kia hỏi muốn bảo-vệ cái sống của nó, nó có buộc mình phải giữ đạo-đức nhơn-nghia hay không chớ ? Dầu cho nói thiệt hay giả, đạo-đức nhơn-nghĩa thiệt hay giả, nó cũng phải nương đạo-đức nhơn-nghĩa mà sống. Tỷ xưa, lấy cái tỷ xưa kia so-sánh, Bần-Đạo nói cái năng-lực của Đức Khổng Phu-Tử, Ngài có một người học trò là Nguyên-Hiến, Nguyên-Hiến là một người thế nào, mà lại có một người em tàn bạo hung-ác là Đạo-Chích, Thầy Nguyên-Hiến khẩn cầu Đức Khổng Phu-Tử  giáo-đạo gùm em. Đức Khổng Phu-Tử gặp Đạo-Chích, Ngài luận Tam-Cang Ngũ-thường ? Tôi có đủ chớ, tôi gom cả toàn thể lâu-la lại, làm chủ trại của nó, làm Sơn-Vương của nó không phải có Quân hay sao ? Chúng nó phụng-sự tôi, hễ lớn thì đồ-vương định-bá, còn nhỏ thì làm tướng cướp, nó phụng-sự tôi là vị Thần, như vậy mà không có Quân, Thần sao ? Đứa nào nội bọn cướp đây lại không có đủ con vợ tức nhiên thê-nhi của nó.

Luận đến Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, lấy của kẻ giàu đặng nuôi nấng kẻ nghèo không phải nhơn sao ? Nghĩa biết đồng-sanh đồng-tử với nhau mới hiệp quần cùng nhau lập đảng cướp của người không nghĩa sao ? Trí, biết của người của người ta để nơi nào mà lấy không phải là trí sao ? Trí, ăn điều chia đủ, mỗi lần giựt của rồi ăn chia điều-đủ không phải giữ tín với nhau hay sao ? Nếu chúng tôi không có giữ trọn-vẹn với nhau như thế đó, không thể giữ đảng cướp của chúng tôi còn tồn tại. Kẻ cướp của thế-gian này là Ngài chớ: Ngaì lấy ba tấc lưỡi của Ngài, không cày có ăn, không dệt có mặc, kẻ cướp là Ngài chớ phải tôi đâu ( nó có thể lấy nhơn-nghĩa của nó tạo nghiệp được ).

Luận xa hơn nữa, thiên-hạ tưởng cái võ-lực của họ là hơn hết, nếu võ-lực quả nhiên bảo-thủ cái sống của họ còn tồn-tại, thì Sở-Bá-Vương kia, nào bạo Tần nọ, hỏi cái nghiệp của họ còn bền-bỉ hay chăng, nếu không có thượng cờ nhơn-nghĩa thì cái nghiệp Hớn không còn tồn-tại tới 800 năm, không có thượng-cờ nhân-nghĩa thì nhà Châu chưa hề cướp đặng cái Đế vị của nhà Trụ. Lấy nhơn-nghĩa mà luận thế-gian này, giờ phút này, dầu cho liệt-cường nào họ cũng phải dùng màu nhơn-nghĩa đứng trước thiên-hạ đặng làm bá-chủ thiên-hạ, họ cũng phải mượn màu nhơn-nghĩa, chúng ta đã ngó thấy hiện-tượng.

Aáy vậy, đạo-đức nhơn-nghĩa là cái huờn thuốc sống của kiếp sanh nhơn-loại, dầu cho cá-nhân, dầu cho xã-hội, dầu cho toàn thể nhơn-quần cũng vậy, nếu họ bỏ đạo-đức nhơn-nghĩa tức nhiên họ tự-diệt lấy họ, họ tự kêu án tử-hình lấy họ. Chúng ta thử để mắt coi cái con đường của nhơn loại họ tàn-ác khởi dậy quá lẽ tưởng-tượng, hung-bạo ấy nó sẽ đi đến mức nào cho biết ! Nếu có còn đi tới nữa sẽ tự-diệt, nhơn-loại sẽ bị tự-diệt, mà nếu muốn sống còn của nó, Bần-Đạo nói quả-quyết rằng : Nó phải trở lại, sống trở lại với lẽ đạo đức nhơn-nghĩa mới bảo-tồn sanh-mạng đặng.

 

Đền-Thánh đêm 26 tháng 11 năm Tân-Mão (24/12/1951)

LỄ KỶ-NIỆM ĐỨC CHÚA JÉSUS-CHRIST

Đêm nay là ngày kỷ-niệm của Đức Chúa Jésus-Christ tức nhiên Chúa Cứu-Thế Giáng-Sinh.

Từ khi mở Đạo đến giờ cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn và Bần-Đạo đã thuyết-minh một cái đời hy-sinh đạo-đức của Ngài, cả thảy đều biết, không cần thuyết lại nữa, lập đi lập lại cũng không bổ-ích vào đâu cho lắm. Chúng ta thử tìm trong các thánh-ngữ của Ngài để lại. Hiểu thấu cái huyền-vi bí-ẩn đạo-giáo của Ngài thế nào, cái ấy có lẽ hữu-ích hơn, nên Bần-Đạo lấy lời triết-lý của Ngài đã nói lưu trong thánh-ngữ của Ngài để lại cho các Thánh-Tông-Đồ có câu nói cao-sâu bí-ẩn mà thiết-thật làm sao, hay làm sao. Ngài nói rằng : Biết hy-sinh cái chết đặng đạt cho đặng cái sống. Vì lời thánh-giáo ấy mà những kẻ tìm Đạo thường hay bàn-luận tìm cái nghĩa-lý của nó, Đức Chúa Jésus-Christ đã sanh ra thì bị cường-bức Đạo của Ngài truyền-giáo thiên-hạ không hiểu thấu và người ta đã bắt-bớ, người ta đã đè-nén, người ta đã âm-mưu hại Ngài, cho nên lời nói ấy cốt-yếu giục các môn-đệ của Ngài quyết chiến-đấu và quyết thắng, điều ấy chưa phải lẽ.

Bần-Đạo đã thuyết-minh tới đây, kẻ thì nói đến Ngài lập nền Thánh-Giáo của Ngài, Ngài lập cái đền-thờ thiêng-liêng Đạo-Giáo của Ngài tại thế-gian này, Ngài xưng mình là con chiên hy-sinh đặng làm con tế-vật của Đức Chúa Trời, để cứu rỗi tội-tình thiên-hạ, tức nhiên con chiên chí-thánh, sanh-mạng của Ngài, thi hài của Ngài chịu hết trên cây Thánh-Giá, cốt-yếu làm con tế-vật ấy để dâng cho Đức Chí-Tôn đó vậy. Sự hy-sinh của Ngài làm con tế-vật ấy là Thánh-Thể, tức nhiên của toàn cả tín-đồ tin-tưởng nơi Ngài, đã thọ phép chơn-giáo của Ngài coi như Đấng chí-thánh. Vì lẽ ấy nên Ngài thuyết câu đó, cốt-yếu Ngài dám hy-sinh tử-đạo đặng bảo-thủ chơn-truyền của Ngài, cũng có lý nhưng chưa phải lẽ, cái bí-mật trong lời nói ấy là vầy : Phải biết làm sao cái chết thật, mà phải biết làm sao cái sống là thật. Cái sống và cái chết, ta cũng nên tìm hiểu điều ấy. Vả chăng chúng ta sanh ra có hai cái sống và có hai cái chết. Chúng ta ngó thấy xác-thịt của chúng ta không phải là cái sống, bởi vật thể nó phải chết tiêu-hủy tức nhiên nó phải chết mà thiệt cái chết của nó, chẳng phải chết gì caí xác-thịt mà thôi, mà chết vì danh-giá, kiếp sống của mình, cái lời nói là chết. Còn bây giờ cái sống không phải cái xác-thịt chúng ta đã ngó thấy trước mắt, bất quá con người sanh ra một trăm năm là nhiều rồi chết trước mất. Aáy vậy cái sống thật ở chỗ nào ? Cái sống thật của chúng ta là cái sống về tinh-thần hiện-tại của chúng ta cho trường-tồn, tức nhiên nó về linh-hồn chúng ta vậy. Cái đó mới thiệt sống, cái sống với linh-hồn là cái sống thật, sống với xác-thịt tức nhiên sống giả. Bây giờ còn cái sống nữa, sống thế nào đồng sống cả vạn-loại, cả cái sống đại-đồng sống trong cái sống ấy mà muốn đồng sống, chúng ta phải hiệp làm một cùng vạn-loại, biết nó là cái sống của mình, biết mình là cái sống của nó. Cái sống ấy là cái sống của Đức Chí-Tôn nắm trong tay của Ngài đó vậy. Cái sống trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống của Ngài đã tạo dựng cho nó, trước khi ta đến đầu kiếp làm con người ở mặt thế-gian này, cái sống ấy phải sống.

Bây giờ luận theo Đức Chúa Jésus-Christ, phải biết hy-sinh cái chết, mới tìm cái sống. Đạo-giáo nào kiếm mắc-mỏ khó-khăn, chớ Đạo-giáo Cao-Đài Đức Chí-Tôn để bí-pháp ấy trong Thánh-Thể của Ngài. Ngài nói những kẻ nào dám chết về đời, sống vì Đạo, những kẻ ấy mới đáng làm Thánh-Thể của ta nơi mặt thế-gian này. Cả toàn Thánh-Thể đã hiểu lắm, tới phẩm Giáo Hữu phải chết, chết vì đời rồi sống lại, sống vì Đạo. Tức nhiên Đức Chúa Jésus-Christ nói cao sâu rằng : Nếu ai đã biết ai, đã biết cái sống của chúng ta đã ban cho mà dám hy-sinh cái kiếp chết của họ, là cái xác thịt này thì mới đạt đặng cái sống trường-tồn vĩnh-cửu, tức nhiên Thiêng-Liêng Hằng-Sống của Cha ta đã dành để.

Bần-Đạo thuyết điều ấy cốt-yếu nói cả toàn-thể con-cái của Đức Chí-Tôn, dầu cho hàng tín-đồ nam nữ dĩ chí Đại Thiên-Phong cũng vậy, mỗi phần-tử Thánh-Thể của Ngài phải biết cái mạnh của mình là cái sống thật, cái yếu của mình là cái sống giả, phải có can-đảm hy-sinh cái chết, cái thi-hài thúi-tha của ta đây đặng mà đạt cho đặng cái danh hằng sống và chúng ta đặng ngôi-vị Thiêng-Liêng Hằng-Sống nơi cửa Thiêng-Liêng kia của Ngài đã dành để, tức nhiên là đại-nghiệp của Ngài đã chia chung cho mỗi đứa con. Đức Chí-Tôn nói rằng : Thầy đành để đaị-nghiệp cho các con, Thầy không có quyền đem cho kẻ khác duy có kẻ nào từ bỏ, thì Thầy mới có quyền đem cho kẻ khác mà thôi. Cái sống đó mới sống thật, sống trường-tồn sống vĩnh-cửu. Sống Thiêng-Liêng Hằng-Sống của Đức Chí-Tôn mới thật sống đó.

 

Đêm 14 tháng 12 năm Tân-Mão (1951)

THUYẾT-MINH CHỮ ĐẠO

Đêm nay Bần-Đạo giảng một cái đề cũ mèm mà toàn-thể đều nghe, là buổi giảng về chữ Đạo.

Chúng ta đã ngó thấy các nền Tôn-Giáo xưng mình là Đạo, chúng ta thấy  họ lạm-dụng Đạo quá lẽ, nhưng chúng ta không thể gì cải chối được tại lý-do nào ?

Bần-Đạo thuyết-minh chữ Đạo, từ khi tạo thiên lập địa có loài người đến giờ, thì vì trí khôn-ngoan linh-hoạt của chúng ta thấy trạng-thái của Càn-Khôn Vũ-Trụ vô-biên vô-tận, vô-đoán và thấy cái bí-ẩn huyền-linh đang điều-động cả cơ-thể tạo-đoan mà chẳng có một ngôn-ngữ miệng lưỡi nào đặt ra tên cái huyền-linh ấy đặng, nên để chữ Đạo, tức nhiên chúng ta đã giải rõ là cương danh viết Đạo (Không biết đặt tên gì nên để chữ Đạo) trong cái trạng-thái ấy, chúng ta ngó thấy nó có động, có tịnh, động tức nhiên (Dương-quyền) Dương quyền biến sanh Càn-Khôn Vũ-Trụ, trong sanh-hoạt của nó, chúng ta ngó thấy có khi nó ổn-định đặng nó đào-luyện cái thể-chất của nó tức là (Âm-Quyền) đó vậy.

Bần-Đạo lấy tỷ-thí con vật chúng ta dễ hiểu hơn hết là con tằm, khi nó còn là con sâu tức nhiên Dương, nó vận-động đặng sống, nó ăn, nó lớn rồi chín, nó kéo tơ làm ổ, bây giờ tới Âm, tức nhiên đặng biến ra nhộng bất động, đặng nó định cái thể của nó.

Trong vạn-vật ở mặt địa-cầu này có hai trạng-thái luôn luôn, cái sanh của nó, phải tùng theo khuôn-luật tạo-đoan, nó phải phù-hạp lại với hình-thể, tức nhiên cái sống phải phù-hạp với cái chết đặng biến hình, cũng như con nhộng bất động, nếu đem tay nắm lấy nó thì nó chết. Vì như vậy là trái với khuôn-luật tạo-đoan, tức nhiên nghịch lại Đạo.

Linh-hoạt vô-biên vô-tận, là không-gian thời-gian biến chuyển không ngừng, Đạo để pháp-luân thường chuyển, nó do nơi không-gian, thời-gian biến ra hình trạng chơ không khi nào trong thời-gian ấy dìu-dẫn cho nó biến chuyển. Vì cớ cho nên trong kinh Phật-Mẫu để (Thập thiên-can bao hàm vạn tượng, tùng địa-chi hóa trưởng Càn-Khôn) Tùng Vũ-Trụ là do nơi đại-thể của nó trong vạn-vật, cái đại-thể của nó thế nào, là cái tiểu-thể cũng vậy, một khuôn-luật ấy mà thôi, nó phải tùng theo khuôn luật đã định, tức nhiên pháp-luân ấy người xưa không biết hình trạng, không hiểu quyền-năng thế nào nên để chữ Đạo.

Aáy vậy, Đạo tinh-thần, vì thể-chất của vạn-vật hữu-hình mặt thế-gian này đặng nó sống, biết định cái chết, định cái sống, hay biết định cái thể của nó, cái thể định vận-mạng, cái thể định tính, hai cái đó tương hiệp với nhau, phù-hạp với nhau một khuôn luật là Đạo, bằng trái lại là nghịch Đạo, mà hễ nó thuận thì nó còn, nó nghịch nó phải tiêu-diệt.

Bây giờ luận các Tôn-giáo, họ lấy một triết-lý của cơ-thể tạo-đoan trong pháp-luân thường chuyển mà định giáo-lý của họ, nhưng có một điều trọng-yếu hơn hết là toàn cả cơ-thể tạo-đoan tức nhiên Đạo, mà mỗi một điều chi cũng đều để Đạo, chữ Đạo họ không biết, chúng ta không thể cải chối, trong hình-thể đó họ lợi-dụng, nhưng sự thật Đạo của họ chỉ có một phần ngàn trong chữ Đạo mà thôi, chớ không phải thật Đạo.

 Bây giờ Đức Chí-Tôn để trong nền Tôn-giáo của Ngài hai chữ Đại-Đạo, đó là Ngài để hình-tượng bao trùm toàn-thể vô-biên đó là Đại-Đạo, nếu Ngài không nói thì chúng ta không làm sao biết được, suy-đoán đươc. Ngài luận chữ Đạo thì nó bao trùm hết, vì cớ cho nên có cơ-quan sanh-hóa, Đức Chí-Tôn đã tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ trong quyền-năng ấy. Chúng ta nhìn biết có một chủ-quyền đặng định khuôn-luật của nó, nếu không có chủ-quyền duy-nhứt thì cả vạn-vật trên Càn-Khôn Vũ-Trụ không thể gì còn.

Trong cái hình-thể tối-thiểu của nó, từ tiểu nguyên-tử và đến các tinh đẩu trong thế-giới nó vẫn định ở trong đại-thể linh vô-đối của Đấng đã cầm quyền tạo-đoan thì không có ai làm chủ nó được, vì cơ cho nên chúng ta đã ngó thấy quyền-năng ấy định quyền người chủ của nó, ta mới định quyền người chủ.

Từ trước đến giờ, nhứt là trong nền văn-minh Á-Châu chúng ta đã ngó thấy, không có tên chúng ta không dám để tên, duy để nhứt đại, nghĩa là một lớn mà thôi, do nơi nhứt đại ấy mà Đức Chí-Tôn tạo nền chơn-giáo của Ngài là Đại-Đạo.

Aáy vậy, Bần-Đạo nói, Giáo-lý của mỗi nền Tôn-giáo đều khác nhau, nhưng nó có hình ảnh của một nền Tôn-giáo, cho nên họ xưng mình là Đạo, chúng ta không thể cải chối, duy chúng ta nên biết rằng pháp-luân đạo-pháp vô-biên kia, hình-ảnh kia, vô-biên vô-tận, thì chúng ta chỉ nhìn rằng: Một Tôn-giáo nào đã tùng theo khuôn-luật tạo-đoan đúng mực thước về danh lý của nó, biến tướng của nó theo một khuôn-luật tối thiểu, thì chúng ta nhìn. Còn ngoài ra, trái lại chữ Đạo, chúng ta có quyền giục họ tiến hay không để họ tiến vậy thôi. Chúng ta không thể gì cải chối được, chúng ta không có quyền công-kích hay sửa-cải được.

Bần-Đạo nói trong vạn-vật từ thảo-mộc đến thú-cầm vật-chất, thảo-mộc đến thú-cầm không có được hai cái mầu nhiệm là “Định-thể” của nó và huyền-linh của nó. Gồm hai món đó ở trong sống chết của nó. Ta biết Đạo, ta hiểu rõ mối Đạo là ta sống, nếu chúng ta trái Đạo ấy thì chúng ta dầu có sống tự do đi nữa, thì cũng như chúng ta đã lên án lấy cái chết của ta, tức nhiên chính mình chúng ta đã lên án lấy mình.

Nếu nói kẻ kia vô Đạo, người nọ thất Đạo hay là họ chối Đạo. Họ làm sao chối cái sống của họ được ? Chúng ta chối được hay chăng là chối cái hình-ảnh của họ và cái thể-xác của họ mà thôi.

Trong vạn-vật có quyền cải chối cái sống cuả họ chăng ? Mà gọi họ chối Đạo ? Có người không biết chữ Đạo là gì xưng rằng nghịch Đạo, cải Đạo là mâu-thuẩn, là dốt-nát, chính mình họ không biết họ, thì luận với ai chớ.

Trong thể-pháp tinh-thần của chúng ta, chúng ta sống trong hai cái đó, sống với hình-thể, sống với tinh-thần, là ta đã đặng một đặc-ân của Đức Chí-Tôn ban cho. Hại thay trong cái đặc-ân ấy, Đức Chí-Tôn cốt-yếu để cho chúng ta đau-khổ, sống trong cảnh đau-khổ đặng biến hình, biến thể, mà biến sanh hoặc chúng ta thấy kiếp sống mà đi tới, đi từ con đường phàm dĩ chí Phật vị, là ngôi vị của Đức Chí-Tôn dành để cho mỗi đứa con. Chúng ta có thể đi tới phẩm vị Trời nữa mà chớ.

Hễ luận theo cái khuôn-luật tạo-đoan ấy, đặng định tiến-triển của ta, thì ta thuận đạo, đạt đạo, còn trái lại thì theo con đường vật-loại, là Đời, tinh-thần mà ta bỏ, tức nhiên chính mình chúng ta từ chối địa-vị thiêng-liêng ta có, hay là chúng ta tự lên án cho chúng ta ai đã chối Đạo theo thường tình gọi là bỏ Đạo, là người đó họ chối cái phận sự làm người, tức nhiên từ chối phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, điều đó không có phi-lý. Chúng ta đặng hạnh phúc, Đấng cầm quyền tạo-đoan hôm nay đến chung sống cùng ta. Cái hạnh-phúc của ta còn gì hơn nữa. Trong cái sống cũng thế, chết cũng thế, sống dầu cho khỗ não bao nhiêu chết mất đi nữa, chúng ta cũng an vui với bạn đồng sanh của chúng ta nơi mặt thế-gian này. Có một điều đau thảm hơn hết, thay vì ngó thấy cái khổ của nhau họ lại phụ rãy nhau, tận-diệt nhau, họ không biết tôn-trọng mạng sống của bạn đồng-sanh đặng định phận của mình, kẻ đã đoạt đặng cái “Tứ” của Trời đất, hiểu thấu-đáo huyền-vi của Đạo, dòm thấy bạn đồng-sanh, con mắt họ không buổi nào ngớt giọt nước mắt.

Mỗi ngày Bần-Đạo đang sống, có nhiều khi ngồi trên lầu Trí-Huệ-Cung dòm xuống thấy em út lận-đận mỗi ngày tìm sống, kiếm sống, thì Bần-Đạo lấy làm thương-xót vô cùng nhưng luật Thiêng-liêng để nó kiếm sống mà vui sống với đau khổ của nó, nếu không vui sống nó sẽ chết, phải để cho nó vui sống, nó sống trong đau-khổ nó vẫn vui sống. Có nhiều khi thấy em khổ-não nhứt là mấy đứa bên Quân-đội, trong con đường chết sống của nó không có định ngày giờ, không có thời-gian, làm giọt-lệ của Bần-Đạo phải đổ, mà chỉ có những người như Bần-Đạo đổ lệ ấy mà thôi. Nhưng quyền Thiêng-Liêng kia để cho nó vui sống, nó ham sống ấy đặng nó tìm sống, nếu nó biết được một cái sống khổ thì nó không còn sống nữa, thay vì chúng ta nên gượng-gạo vui sống với chúng nó, để theo cái sống ấy đừng để cho có trường đau khổ cho chúng nó. Cả Thánh-Thể Đức Chí-Tôn cốt-yếu để an-ủi nâng-đỡ tinh-thần đàn em, cả Chức-Sắc Thiên-Phong thay thế hình-ảnh cho Ngài để nâng đỡ cái sống của chúng nó. Bần-Đạo nói thật, chúng ta không có quyền làm cho đau-khổ kiếp-sống của chúng nó, bởi nó đã sống đau-khổ nhiều rồi.

 

Đền-Thánh, đêm 30 tháng 12 năm Tân-Mão (1952)

LỄ GIAO-THỪA CUỐI NĂM TÂN-MÃO

ĐẦU NĂM NHÂM-THÌN

Đêm nay là đêm giao-thừa, cuối năm Tân-Mão bước qua đầu năm Nhâm-Thìn, Bần-Đạo nhớ lại năm Bính-Dần, Đức Chí-Tôn đến mở Đạo, làm lễ khai-Đạo nhằm ngày 15 tháng 10 năm Bính-Dần tới năm Đinh-Mão, tức nhiên cũng giờ giao-thừa này, Đức Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo phò-loan, Đức Chí-Tôn đến kêu toàn thể con-cái của Ngài nam nữ, lớn nhỏ, dặn rằng : Hễ Thầy đưa cái cơ lên, các con chun ngang qua đặng Thầy ban ơn cho nghé ! Rồi Ngài xách Bần-Đạo và Cao-Thượng-Phẩm đứng dậy ra giữa Thiên-Bàn đưa cơ lên, cả con-cái của Ngài đều chun ngang qua, Ngài đã làm một tấn-tuồng cảm-mến mà chỉ có cây cơ không mà thôi, tấn-tuồng ấy làm Bần-Đạo cảm-xúc quá lẽ. Hễ mỗi người chun ngang qua cái cơ làm như thế vuôùt-ve mươn-trớn vậy. Hạnh-phúc thay ! cho những người ngộ-đạo đã được ân đặc-biệt ấy. Tiếc thay lúc đó con-cái của Ngài không đông nhiều như bây giờ. Bần-Đạo tiếc chớ phải chi cả thảy toàn-thể con-cái của Ngài hôm nay được Ngài ban-ơn như thế ấy, chỉ nghĩa với một phương-pháp cụ-thể hữu-hình của Ngài, tỏ cái tình thương-yêu vô tận.

Tuy vẫn biết và Bần-Đạo dám quả-quyết rằng : Giờ phút này Đại-Từ-Phụ đã chung ở với chúng ta. Aáy vậy toàn thể  con-cái của Ngài định tâm cầu-nguyện đặng cho Ngài ban ơn (Toàn thể đều thành-tâm cầu-nguyện).

Một ông cha thương-yêu vô-tận hạnh-phúc cho chúng ta đã sanh ra lại ngộ đạo. Đấng đã cầm quyền cả Càn-Khôn Vũ-Trụ nơi tay, làm Chúa cả cái sống cái chết của Càn-Khôn Vũ-Trụ đến chung ở chúng ta, cái hạnh-phúc ấy, cái vinh-diệu ấy còn chi hơn nữa. Bởi thế cho nên khi Ngài đến cầm cây linh-bút đặng mở chơn-truyền của Ngài, những kẻ phàm tâm kia lấy làm lạ-lùng và không có thể tưởng-tượng đặng, và không có thể tin đặng. Ôi ! Một trường ngôn-luận buổi nọ biết bao nhiêu kẻ chê bai, khinh-rẽ là thế nào. Trong một bài thơ Ngài than như vầy :

“Cười khan mà khóc bởi thương bây,

Chẳng mất một con nghiệt cả bầy,

Biết phận già không chờ chống gậy.

Nương theo con dại mới ra vầy”

Thật vậy, Ngài quá thương con-cái mới ra nông-nỗi đó, tưởng lòng thương-yêu vô tận ấy không thể gì ta tưởng-tượng đặng, không thể gì chúng ta biết đặng cái giá-trị nồng-nàn yêu-ái vô-biên vô-tận ấy, chỉ “vì thương con dại mới ra vầy” câu ấy nồng-nàn thấm-thúy đau đớn làm sao, câu nói đó là vì thương con dại của Ngài, mà toàn-thể anh em chúng ta có hiểu cái tiếng dại ấy là thế nào không ?

Bần-Đạo xin nhắc lại lời nói của Đức Chúa Jésus-Christ đã nói hạnh-phúc thay cho những kẻ khờ-khạo, vì nó được quyền-năng của ông Cha của Thiêng-Liêng kia binh-vực nó, hồi nó sống đây nó dại khờ, nhưng không phải cái dại ấy mà nó cô-độc, bởi vì nó còn ông Cha oai-quyền vô-tận vô-biên, Ổng thay thế cái khôn cho nó. Hạnh-phúc thay cho những kẻ yếu-hèn, những kẻ yếu-hen với những người sang-cả, khi trở về cùng Cha của họ nơi nước Hằng-Sống của Đức Chí-Tôn đã dành để cho con-cái đau-khổ của Ngài, cái giá-trị vẫn khác. Khốn-khổ thay cho những kẻ miệt-sát kẻ yếu-hèn, khốn-khổ thay cho những kẻ áp-bức, hiếp đáp những người cô-thế, trẻ con, góa-bụa, tật-nguyền, bởi vì nó miệt sát nhục-mạ con-cái của Ngài tức là nhục-mạ Đấng Tạo-đoan, như vậy là còn tội-tình nào lớn hơn điều ấy. Nếu quả nhiên sắp con của Ngài phải chịu hèn-hạ khổ-não, ngu-khờ là tại Ngài muốn vậy, Ngài muốn dành để cái oai-quyền binh-vực của Ngài cho chúng nó.

Aáy vậy muốn tránh khỏi chỉ co một điều thôi, phải thương-yêu con-cái của Ngài được như Ngài vậy, nếu được cái tình thương-yêu vô tận tại thế này, được cái tình thâm yêu ái vô-biên ấy là một kiếp-sanh hạnh-phúc của chúng ta hơn hết. Cả thảy đều tịnh tâm cầu-nguyện cho Bần-Đạo ban phước lành (Đức Hộ-Pháp ban phước lành ).

Sang-cả nơi mặt thế-gian này, Bần-Đạo nói ngày chúng ta qui rồi với một cái hòm, với một khoảnh đất, với một cái lổ mà thôi. Sang trọng vinh-hiển mà làm gì ? giàu có mà làm gì ? Phải kiếm món quí-báu hơn nữa là kiếm cái quyền Thiêng-Liêng Hằng-Sống của mình đấy.

CHUNG

 

về trang chủ