Đấng
đó không biết thiếu nợ ai hết và đã nói
chẳng hề khi nào sai lời. Đã ngộ Đạo, đã
biết Đạo, đã theo chân Đức Chí Tôn mà không
biết tự mình tìm phương giải thoát, đầu
chúng ta không mong mỏi cứu độ Cửu Huyền
Thất Tổ đi nữa, cũng mong mỏi tự giải thoát
cho mình là trọng yếu hơn hết, biết Đạo
mà nguội lạnh tốt hơn hết đừng có ở trong
cửa Đạo, tốt hơn đừng ngồi trong cửa Đạo,
ngồi nữa thêm tội không ích gì. Thử chúng
ta để dấu hỏi chúng ta Tu đây trông mong cái
gì ? Đừng như kẻ mờ hồ kia mà Đức Chí
Tôn đã để :
"Ngồi lì mà đợi Lý Ngưng Vương,
Biểu xuống thuyền Tiên nói chẹt lườn,
Co cẳng muốn vào rồi lại thụt
Biểu thương sao đặng buộc người thương".
Thử
xét lộn lại một ngày kia, mấy người về
cõi Thiêng Liêng mà ngó thấy Tôi đứng giữa
không trung đó, mấy người kêu Tôi biểu Ông
cứu độ tôi, vì hồi đó tôi có gặp Ông tại
thế, thì bây giờ Ông cứu độ tôi với tình
trạng đó Tôi biết biết trả lời với mấy
người làm sao chớ ? Có thể một ngày kia Tôi
sẽ dâng sớ cho Đức Lý lập một hình phạt,
hình phạt của Tôi ngộ nghỉnh lắm : Không
cho Phái nữ đi vô Đền Thánh một thời gian,
Hành Lễ ngoài sân một thời gian, bằng xin không
được nữa, thì không khi nào lên Chức Sắc
Thiên phong được với Tôi mà chớ.
Tại
Tháp Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh.
Ngày
mùng 8 tháng 4 năm Nhâm Thìn (1952)
(Kỷ-Niệm
Ngày Qui Liễu Của Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương
Thanh)
12.- CÔNG LAO VÀ TÀI SẢN CỦA BA ØNỮ ĐẦU SƯ LÂM-HƯƠNG-THANH.
Hôm
nay toàn thể mấy em Nam, Nữ đến Kỷ Niệm
ngày Qui Liễu và Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương
Thanh.
Nhắc
lại hai mươi mấy năm trước, 26 năm chúng ta
hội hiệp với nhau thế nào, ngày hôm nay kẻ
còn người mất, dầu ai có gan sắc đá cũng
phải não nề. Luật Thiên Nhiên định vậy,
duy có một điều hạnh phúc cho kiếp sống của
chúng ta chỉ về Thiêng Liêng thấy cả toàn
thể em út đã nối chí đặng giữ nghiệp Đạo,
nếu có hưởng đặng mảy may hạnh phúc chăng
chỉ có bao nhiêu đấy thôi. Oâi! Biết bao nhiêu
khổi não, truân chuyên thương em, mà điều chẵng
qua liễu Đạo của Chị cái chết của Chị
trong đầu em biết sao mà nói, tưởng tượng
quả quyết rằng vì Chị bị cường quyền khảo
quá thế, một người đa tình đa cảm như Chị
chúng đã khảo dượt với một phương pháp
ấy không thế nào sống đặng. Đương khi bịnh
chúng dắt đi hầu Toà, dẫn ra dẫn vô đến
nỗi khi trong Toà ra rồi Chị nói rằng : Không
có chết giấc tại đó mà thôi, về tới nhà
bịnh làm cho tới chết, mà chết phải chăng
cái việc nghi ngờ của Em không phải là mờ
hồ, thì Em dám lộng ngôn nói rằng Chị đã
Tử vì Đạo là không quá lời. Em đã làm Hộ
Pháp chỉ ân hận một điều : Chị giàu sang
tưởng nơi mặt thế này, người nào có thể
nói với thiên hạ rằng : Trong kiếp sanh tôi
giàu sang, nào ruộng đất, lầu đài ngọc ngà
châu báu, không có món gì mà Chị không có,
chỉ tiếc một điều là của cải ấy không
để nơi nào đó phải để. Nếu giờ phút này
Bần Đạo nói : Người Chị của ta có ân hận
chăng là chỉ có bao nhiêu đó mà thôi.
Bần
Đạo nhớ lại khi khởi cất Đền Thành thì
đã ba phen thâu của Tín Đồ thâu của Nhơn
Sanh, đặng cất Tòa Thánh cất không nổi. Tới
ngày khởi cất, ngày Bần Đạo nhất định
cất, có 13.000 đồng buổi đó không phải dễ,
mở trong tủ ra chỉ còn : 1$46. Cất Toà Thành
trong lúc thời thế nguy ngập, người ta bất
tín nhiệm chạy tiền không ra, không biết làm
thế nào khởi đương ra cho mạnh mẽ đặng
thâu tín nhiệm thiên hạ lại. Túng tiền, Bần
Đạo phải đến tại Vũng Liêm, tưởng đâu
Chị có dư giả mới đến, con người như thế
này không đến nước túng quá lẽ. Xuống tới
dưới, tới chừng khi hỏi Chị đặng mượn
số tiền về khởi công cất Tòa Thánh. Chị
dắt đi xuống chỉ mấy kho lúa đầy nhóc hết,
mà lúa 0$20 một giạ, hồi đời đương khuẩn
bách Á tới Âu. No thì no triệu, bán lúa nếu
có thể với giá bây giờ dầu 10 triệu trả
cũng được. Một giạ có 0$20 tiền Chị đó
Em. Ôi! Lúa có 0$20 có chết dư được không,
Qua nói thiệt với Em trong mình Qua không còn
gì hết. Ngồi suy nghĩ một hồi, vô mở tủ
sắt lấy ra một hòm sắt lớn đầy vàng hết,
từ Bà cụ dĩ chí gia đình đều để đồ kỷ
niệm trong ấy, hột xoàn nhiều hơn hết, đem
hòm ấy đưa cho Em đi cầm, thời buổi khuẩn
bách này ngoài 90.000 tới 100.000 đặng khởi
công cất Tòa Thánh thì được rồi, nhưng một
ngày kia tới chừng trả rồi mới làm sao, lấy
cầm thì được tới chừng chuộc thì tiền
đâu, biết chuộc đặng hay không ? Nói như vậy
rồi cười với nhau mà thôi. Chị nói trên có
huyền linh của Đức Chí Tôn dưới có cả đức
tin con cái của Ngài, Nam cũng thế, Nữ cũng
thế, đâu em về cất bướng coi, không cần
lấy đồ này, cứ tin Đức Chí Tôn, Em làm lúng
cái coi được hay không. Bần Đạo về với
hai bàn tay trắng làm đến thành.
Cái
Đức Tin mạnh mẽ như thế đó, nếu giờ phút
này Chị còn, Chị ngó thấy thời cuộc này,
không thế gì Chị tưởng tượng có cái cảnh
này được.
Bên
Phái Nữ hạng nhứt mấy người còn sống tại
thế, mấy người còn sống thấy cái Đại Nghiệp
Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã tạo cho mấy
người, mấy người đã được hưởng, hễ
khi trong tâm của mình không đủ Đức Tin, tin
nơi mình định vận mạng mình, cho Đạo, cho
Nòi giống, nếu nói là tôi vô phước không
thế gì vô phước hơn người đó, bởi gì người
đó cũng không thấy được như Tôi, dầu Chị
giờ phút này ôm Bình Bát Vu đi xin như Đức
Thích Ca độ Đời, dám chắc Chị không Tu cầm
bình Bát Vu hành khất đặng hành Đạo như Đức
Phật Tổ, không khi nào chối Tu và lấy làm
hạnh phúc đặng làm điều ấy.
Thử
nghĩ như thế đó, cả toàn thể Phái Nữ, mấy
Chị Phái Nữ, mấy Chị lớn kia : Kẻ qua đời,
người già yếu, nối chí đặng hay chăng là
đàn em. Bao giờ họ thấy Thiêng Liêng Vị cũng
làm, làm mà dòm lộn lại coi đàn em nó có kế
chí mình hay không ? Nối chí đặng gìn giữ
Đại Nghiệp Thiêng Liêng này hay chăng ? Mặc
dầu có mất chút ít mà có kế nghiệp đặng
khỏi tuyệt tự, thì Bần Đạo dám chắc họ
không hưởng được hạnh phúc nào bằng.
Đền
Thánh, Đêm 14 tháng 4 năm Nhâm Thìn (DL. 7-5-1952)
13.- CÁI THIỆT PHẬN CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI VẠN LINH.
Đêm
nay Bần Đạo xin giảng cái thiệt phận của
chúng ta đối với Vạn Linh, tức nhiên cái thiệt
phận của chúng ta đối với bạn đồng sinh
của chúng ta. Phải chăng chúng ta khổ vì cái
sống của chúng ta mỗi ngày, hễ còn ngày
nào sống, chúng ta vẫn bị khuôn luật bảo
vệ sống còn ấy, nó làm cho chúng ta phải lợt
một tâm tình của chúng ta đối với bạn đồng
sinh của chúng ta, nghĩa là vì chúng ta đã quá
khổ, chúng ta đã vô tình với bạn chúng ta
đó vậy.
Chúng
ta thử để cái trí não bình tĩnh một lúc cũng
như các thi gia, các văn sĩ kia để rảnh rang
cái trí não của mình giây phút dòm cả vạn
vật đồng sinh với ta, rồi chúng ta tìm tòi
hiểu cái khuôn Luật Thiên Nhiên kia đã định
phận cho họ thế nào ? Thì ta biết cái định
phận của ta thế ấy. Vạn vật đồng sinh với
ta tức nhiên bạn đồng sanh với ta trên mặt
thế này, có
cái khuôn luật hiệp quần. Hiệp quần cốt
yếu để bảo thủ cái sanh mạng của mình đối
với một năng lực đa số, tức nhiên cái năng
lực mạnh mẽ hơn cái năng lực cá nhân mình,
dầu cho ong kiến hay các thú vật, hiển nhiên
trước mắt của chúng ta đã ngó thấy cái khuôn
luật ấy nó buộc mình phải sống hiệp quần
với nhau mà thôi. Thảng như có cái tình cảnh
éo le mà họ phải lìa cái đoàn thể của họ,
nó tỏ ra trước mắt ta ngó thấy cái tình trạng
buồn thảm thê lương thế nào ?.
Các
nhà thi gia khi cầm cây bút để tinh thần thi
sĩ của mình dòm vạn vật ngó thấy cái cảnh
tượng ấy, nó làm cho họ cảm kích thế nào.
Chúng ta thử thấy một buổi chiều kia trời
hầu khuất, vạn vật đìu hiu, giữa không trung
một con nhạn lạc nào nó bay vơ vẫn một mình,
đời nó chích đôi lìa bạn không có đoàn thể
gì cái tâm hồn của ta nó cảm kích thế nào
? Đau đớn cho tình trạng con vật đó biết
bao nhiêu mà nói. Trước mắt chúng ta đã ngó
thấy con kiến, thử thấy một con kiến đã
chết, đàn kiến cốt yếu cả ngày lo ăn, duy
có kiếm sống kiếm ăn mà thôi, có một con
kiến chết giữa đường, nó liền bỏ phận
kiếm ăn ấy, phận sự vĩ đại trọng hệ vác
con kiến ấy về ổ.
Chúng
ta muốn thí nghiệm, bắt một con ong trong một
ổ ong liệng vô trong cái mành mành của con nhện
cho dính, thì thấy một bầy kia nhẩy vô dính
cả bầy cả lũ. cốt yếu đến giải vây cho
bạn, đến nước nhào vô không còn năng lực
nào cản nổi, đã quá đông thì sẽ tiêu dứt
mảnh nhện ấy, đặng cứu bạn.
Con
chim ở trên Trời, loài người đã khôn ngoan
bắt một con bạn của nó cột cẳng hay xỏ
mũi cho dính trong bầy đặng gài, nó nhảy nha
nhảy nhót, những con kia thấy cảnh thương tâm,
nó xuống chịu khổ với bạn, nên mới bị
bắt.
Chúng
ta ngó thấy vạn vật, hỏi vạn vật đã đối
với nhau dường ấy, Thiên Luật định vạn
vật đối với nhau như thế. Còn
ta đây. Hỏi ta đối với bạn đồng sinh của
ta thế nào ? Đối với vạn vật chúng ta có
biết đau đớn khổ não của họ chăng ? Đối
với bạn đồng sinh của chúng ta, bạn loài
người của chúng ta, ta biết có đau thảm, có
sầu tủi khổ não của họ chăng, biết tình
trạng của họ sống thế nào ? Bạn khổ ta
biết được định được cả cái khối đau
đớn trong thân thể của họ, trong tâm hồn
của họ, đối với vạn vật ta thấy cảnh
thể lương như thế. Còn trong Đạo đối với
bạn đồng sinh, bạn người của ta đây một
kiếp sống trọn vẹn chung cùng với họ, chia đau sớt thảm, tình trạng
họ như ta, hễ họ khổ thế nào ta khổ thế
đó. Rồi thử chúng ta làm bộ để dấu hỏi
thiệt phận của chúng ta đối với họ thế
nào ?.
Hại
thay! Trong vạn vật dầu cho thú cầm côn trùng
đi nữa cũng như quả kiếp con người. Nó có
nguyên vật, hoá vật, quỉ vật như người vậy.
Nó cũng bị quả kiếp vậy. Trong khi quả kiếp
ấy, khuôn hậu quả kiếp ấy, nó có thể để
cho chúng ta biết rằng : Con người của ta duy
có Tu, Chơn Tu của mình có thể đầu kiếp lên
trong cảnh hiền lành chất phát, còn những kẻ
không Tu thì hung hăng bạo ngược. Con vật kia
cũng thế, hễ nó có thiện căn của nó, nó
hiền lương, kêu là lương vật. Bởi như thế
có quả kiếp thì nó phải vay trả với nhau
thành ra ác vật, chẳng phải vì ác vật ấy
mà ta bỏ qua lãnh đạm với bạn đồng sinh
của ta, chũng sẽ để câu hỏi : Ngài thật
hiền lương ạ ! Ngài thương vạn vật, như
con cọp, như beo, thú kia, Ngài định phận nó
như thế nào ? Bần Đạo nói nó đã bị quả
kiếp, một ác kiếp của nó, ta duy có biết
thương quả kiếp yêu nghiệt của nó. Cũng như
loài người, con người kia sẽ hỏi Ngài, có
tình cảm đối với tất cả kẻ hiền lương
nhơn đức, kẻ hung bạo tàn ác kia đã giết
người cướp của, tàn sát thiên hạ kia có
tình cảm với họ, đồng với tình cảm kẻ
thiện lương kia chăng ? Chắc Bần Đạo cũng
trả lời như thế ấy. Vì quả kiếp nó tàn
ác : Con đường đi lên nó không đi, nó đi xuống
mang thú hình, thì ta thấy kệ nó. Ta chỉ biết
đau đơn tủi hổ dùm cho nó vậy thôi, ta chỉ
biết khóc với giọt huyết hệ của với nó
mà thôi, chớ chúng ta không có quyền oán ghét
nó, bởi kiếp sống nó đau khổ như kiếp sống
của ta. Lời tục ta có nói :
- Đồng bịnh tương thân.
- Đồng khí tương cầu.
Của
nó thế nào ta thế ấy, đau khổ nó thế nào
ta thế ấy, không quyền ghét bỏ tàn sát nó.
Đó là thiệt phận của ta đó vậy.
Trí
Huệ Cung, ngày mùng 5 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1952).
14.- ĐÁP TỪ ĐỨC HỘ PHÁP NHÂN BUỔI QUÂN ĐỘI CAO-ĐÀI THIẾT
TIỆC MỪNG NGÀY SINH NHỰT ĐỨC NGÀI.
Hôm
nay Quân Đội thiết tiệc mừng Bần Đạo thêm
một tuổi thọ nữa, hỏi trong một kiếp sanh
của Bần Đạo đã hưởng đặc ân của Đạo,
Chí Tôn ban cho là dưới mắt thấy hạnh-phúc
của toàn thể con cái của Ngài thật hiện vậy.
Bây
giờ chính mình Bần Đạo ở đây đã hưởng
được cái vui nhứt hơn hết là cái đại nghĩa
của Bần Đạo đã để trong trí não của toàn
thể Môn Đệ, nhứt là các chiến binh, cái sống
của Bần Đạo duy có mục đích làm sứ mạng
thế nào gầy tình Nhân ái cho toàn thể Nhơn
Loại, đặng đem họ đi một nơi hạnh phút
tối yếu, tối trọng, là Đại đồng Thiên
hạ đó vậy. Cái sứ mạng Thiêng Liêng của
Bần Đạo có bao nhiêu đấy mà thôi, vì cớ
cho nên cả sự hy sinh của các Chiến Binh Cao
Đài, tức nhiên của toàn thể con cái của Đạo,
Bần Đạo thú thật mỗi một giọt máu, một
nắm xương con cái của Đạo hy sinh cho đại-nghĩa,
là một giọt huyết lệ của Bần Đạo, cái
hy sinh ấy là giá trị danh thể của Đạo.
Chủng
Tộc của chúng ta đã không hiểu Nhân ái, thiếu
Nhơn nghĩa Đạo Đức, Thiên hạ đã quên hẳn
Nhân Đạo của mình mới có cảnh tượng ngày
nay, nếu cả toàn thể thiên hạ mà đặng hoà
bình hạnh phúc thì giọt máu của Thanh Niên
Cao Đài khỏi phải đổ dưới bóng cờ Bảo
Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng, Chiến Binh Cao Đài
làm cho đặng cả ba điều ấy, có thể mới
là hy sinh.
Bần
Đạo đã thường nói : Không có hy sinh nào cao
thượng hơn là dám hy sinh tính mạng của mình
cho kẻ khác, không có cái hy sinh cao thượng
hơn là hy sinh mình đặng bảo thủ Nhơn Nghĩa,
đặng làm cho tiêu diệt cả cường quyền hai
cái hy sinh cao thượng ấy, nếu nói rằng : Quân
Đôi Cao Đài đã thực hiện được, thì Bần
Đạo cũng có thể nói rằng thật vậy.
Aáy
vậy cái thực hiện đó đã làm nên danh thể
cho Đạo đó, sự hy sinh của toàn thể Chiến
Binh Cao Đài giờ phút này Bần Đạo để lời
cảm ơn toàn thể con cái của Đạo đã hy sinh
một cách sang trọng, một cách vô đối cho toàn
thể Chủng Tộc Việt Nam, có lẽ sự hy sinh
ấy, sẽ làm môi giới cho toàn thiên hạ, các
Sắc Dân trên mặt Địa Cầu này đi đến cảnh
Hoà Bình Đại Đồng Thế Giới.
Đền
Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Nhâm Thìn (DL. 6-6-1952)
15.- Ý-NGHĨA CHỮ TU
Đêm
nay Bần Đạo xin bắt chước các bạn đã lên
giảng đài từ thử đến giờ, Giảng chữ Tu.
Chữ
Tu tiếng Phạm gọi là Dyana người Miên tức
nhiên người Tần Nhơn nói trại lại một chút
Xaxoma. Tiếng Pháp hay tiếng Aâu Châu Se Perfectioner
nghĩa là Rendre parfait ou plus parfait có nghĩa là
làm thể nào cho mình đặng tận thiện tận
mỹ. Tiếng Tu nó bao quát như thế, Thiên kinh
vạn điển tiếng của các Tôn Giáo đã để
lại duy chỉ một chữ đấy mà thôi, thành thử
chẳng phải đứng trên giảng đài mà chữ Tu
ấy cho cùng lý được, nhứt là Bần Đạo có
thể lấy cái tinh tuý của nó để giảng, dầu
không trọn vẹn, nhưng cả thể toàn thể con
cái của Đức Chí Tôn để ý, định trí cho
lắm nghe và hiểu.
Vả
chăng khuôn Luật Thiên Nhiên của Tạo Hoá nó
buộc cho các đẳng linh hồn dầu vật loại,
phải trau mình thế nào đặng đoạt cho đến
nhơn phẩm của mình, rồi khi đã đứng địa
vị làm người, mình phải dồi mài, sửa cải
thế nào đặng đi từ từ đoạt cho đến Phật
Vị.
Chúng
ta sanh nơi đây rồi chết, rồi tái sanh lại
đặng mỗi kiếp sanh của chúng ta Tu, Tu đặng
từ từ bước lên Thiêng Liêng Vị của mình.
Tu nhơn phẩm đoạt đến địa vị tối cao trọng
là Phật Vị đó vậy.
Trong
phương Tu của chúng ta buổi nào cũng Tu, từ
trong lòng mẹ ra khỏi thì đã Tu rồi.
Đứa
con nít không biết nói, không biết gì hết,
không biết làm sao đặng Mẹ nó cho bú, hễ
khát sữa nó có phương pháp là nó khóc, nó
tìm phương làm cho mẹ nó hiểu, tức nhiên nó
Tu đó. Rồi khi nó biết Cha biết Mẹ, biết
thương Cha mến Mẹ, cái đó cũng cái Tu của
nó nữa. Khi nó có em biết thương em, cái Tu
nó đấy. Khi trí khôn ngoan hơn chút nó vô trường
học được mấy chữ, Thầy kể rằng học đặng
thấu đạt được cái hay cái biết là Tu đó,
lớn hơn chút nữa có trí khôn ngoan, nó kiếm
phương thế làm sao cho nó hay hơn bạn nó, ham
làm giỏi hơn bạn, nó biết tranh đua tức nhiên
nó Tu đấy. Khi nó biết khôn ngoan rồi hiểu
rằng tôi phải học cho hay hơn thiên hạ trong
xã hội nhơn quần, nó kiếm thế nào học hiểu
cho nhiều đương đau, đặng sống cùng xã hội
Tu đấy. Khi nó có tuổi, trong tuổi trứng nước
đó đến tuổi khôn ngoan hơn nữa, nó biết
lựa chọn một người bạn trăm năm là vợ
của nó, ấy là nó Tu đấy. Đối cùng xã hội
nhơn quần nó kiếm phương pháp thế nào đứng
trong xã hội cho có địa vị của nó, nó mong
nã đừng cho nó quá hèn, mỗi ngày nó kiếm
thế tiến triển hay ho thêm mãi ? Tu đó.
À,
cái Tu từ khi mới thơ sinh lọt lòng Mẹ đặng
làm người, nó Tu về Nhơn Đạo, tức là Tu
thân. Tu thân là chi ? ø Nó phải biết cái Tu
thân ấy mới có phương thế lập công cùng
xã hội nhơn quần. Nó lập công làm thế nào
cho toàn cả Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu này
đặng hạnh phúc, nếu như nó có phương thế
làm nên cái công nghiệp vĩ đại ấy là Tu thân
của nó đấy.
Bây
giờ Bần Đạo mới thuyết cái Phương Tu trong
Chơn Truyền của Đức Chí Tôn đã để nơi
cửa Đạo này. Chúng ta dùng Tam Bửu mỗi ngày
chúng ta cầu nguyện Đức Chí Tôn đặng dâng
hiến ba của báu ấy. Bần Đạo thuyết Tu về
Tinh, Tu về Thần, đặng lập Công, tức nhiên
mình thờ phượng cái Tinh của mình, báu đầu
tiên của mình là thân thể mình. Bây giờ ta
chỉ nói với một kẻ ngu muội hay là khùng
kia cũng vậy, mà mình biết nó khùng mà nó cũng
biết nó là khùng, nhưng ta điểm mặt nó nói,
mày điên, mày khùng thì nó giận dữ ngay đa
và tức mình lắm. Cái giận ấy là trong tinh
thần của nó có khuôn Luật Thiên Nhiên bảo
nó phải Tu, đừng để nó ngu, mà hễ ai nói
nó ngu tức nhiên làm nó phạm Luật Thiên Nhiên
ấy, nên nó không chịu, nó tức giận lắm,
dầu cho nó đã thiệt ngu.
Huống
chi con người sanh ra nơi cõi này, Đức Chí Tôn
đã ban cho một cái ân huệ đặc biệt hễ khi
nào trong lòng Mẹ đã xuất hiện ra thì trong
cái tinh thần thiên nhiên của ta nó đã có cái
quyền năng đạt được cả cái hiểu biết
của Nhơn Loại, dầu cho Thượng Cổ, Trung Cổ
nó cũng tự nhiên am hiểu cho được mới thôi.
Cả cái tinh thần của nó đấy có đủ quyền
năng đạt đặng khối bao quát thiên nhiên về
tinh thần của nó đấy có đủ quyền năng đạt
đặng khối bao quát thiên nhiên về tinh thần
trí não của loài người.
Từ
khi loài người đã có nơi mặt thế này, đều
muốn thoát ly cái thú tánh của họ. hễ thoát
ly đặng cái thú tính ấy tức nhiên họ sẽ
định tâm sáng suốt thành ra một vị Thánh
tại thế gian này. Chúng ta đã ngó thấy biết
bao vị Thánh sống xuất hiện trong loài người
từ thử đến giờ, huyền bí vô biên của tạo
đoan là do đó, nơi đó.
Aáy
vậy cái khuôn Luật Thiên Nhiên kia bảo ta phải
Tu trí, nếu chúng nhu xuẩn, mê muội thì bao
giờ cũng phải chịu làm tôi đòi nô lệ trong
kiếp sống của ta, chúng ta vẫn ngó thấy một
đứa con nít mà nó vẫn kiếm phương thế đặng
hiểu mọi điều thiên hạ đã biết, nó không
biết nó hỏi, vấn nạn cho biết, ấy cái khuôn
Luật Thiên Nhiên biểu nó Tu trí. Tu trí đặng
chi ? Đặng đủ khôn ngoan, Tu hạnh đức hay
hạnh kiểm của mình, rồi mới Tu ngôn ngữ
của mình, Tu trí đặng lập ngôi tại thế gian
này, tức nhiên Tu về khí đó vậy.
Bây
giờ tới Tu tâm, hễ khi nào chúng ta đầy đủ
trí thức, tâm ta mới sáng suốt, khi đã sáng
suốt thì biết bằng : Cảnh tượng kiếm sống
của chúng ta đây cả thảy đều là ảo mộng,
đầu cho cái ý hay cái thân của ta đây cũng
là ảo mộng, con vật thân thể đã thế nào,
thì thân thể ta cũng thế ấy. Con vật chết
như thế nào thì chúng ta cũng chết tương tợ
như thế đó, không khác. Đã biết kiếp sống
của chúng ta là mộng ảo thì chúng ta cần phải
tìm gì mà chớ. Tìm cái chi cho bền vững chắc
chắn hơn, tức nhiên cái thiên lương của chúng
ta, là căn bản là linh hồn của chúng ta. Ta
đã hiểu được cái Chơn linh của chúng ta nó
bất đi bất dịch, nó tồn tại mãi mãi nơi
cõi Hằng Sống, biết được cái sống ấy là
Hằng Sống thì ta phải tô điểm nó, gìn giữ
nó cho được trường tồn đẹp đẽ.
Trước
các Tôn Giáo nhứt là nhà Phật, chưa có danh
từ thiên lương là gì, và tiếng linh hồn mà
thiên hạ đã để lấy chữ tâm mà tượng trưng
ấy, thì nó vẫn là bóng dáng chớ không phải
thiệt tướng. Lấy chữ tâm là bất quá nói
cái trí của chúng ta do tinh thần căn bản, nên
lấy chữ tâm thay thế cho tinh thần, chớ chưa
phải thật tướng tinh thần.
Aáy
vậy, khi chúng ta đã qua khỏi Tu trí, mới tới
giai đoạn Tu tâm, thì Tu tâm ấy nó buộc chúng
ta phải xem xét quan sát cả hành tàng kiếp sống
của các bậc Thánh Nhơn, Hiền Triết, lời nói
và việc làm của các Vị Phật hay các Vị Tiên
đã lưu lại thế này, chúng ta mới lấy nó
làm căn bản , đặng kiếm một khuôn khổ, một
phương pháp đặc biệt của mình để làm phương
Tu của mình.
Các
bạn cả thảy đều biết sự Tu tâm nó chẳng
phải để một cái tình cảm đối với vạn
vật hay nhơn loại nơi mặt Địa Cầu, mà nó
còn dắt ta đi, đi mãi con đường đi của nó
vô biên vô tận, bởi nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ
làm phương Tu của nó. Nó lấy Càn Khôn Vũ Trụ
làm nhà, làm căn bản của nó, cho nên trí của
ta đối lại tâm ta, nó lại không vừa, vì danh
của tâm nó còn cao vọng hơn nữa, nó còn vô
tận vô biên hơn nữa. Nơi cảnh vô hình thế
nào thì chữ tâm cũng thế ấy, không ai biết
rõ. Do chữ tâm mà Đức Chí Tôn để cái tình
yêu-ái, cái Thương với cái Công Chánh, hai cái
đó là hình trạng thay thay thế chữ Tâm mới
thiệt tướng của nó mà thôi. Còn ngoài ra nữa
nó liên hệ và liên quan với cả Phật tánh,
Thiên tánh nữa kìa. Muốn đến con đường liên
hệ với Thiên tánh, Phật tánh nó có một cái
cửa là cửa tịch mịch, cái cửa ấy ở thế
gian này thiên hạ muốn lắm, mà phần nhiều
đi chưa tới, là cửa Hư Vô Tịch Diệt trong
Cảnh Thiêng Liêng kia đó vậy.
Đạo Cao Đài giờ phút này còn thiếu
cái đó, tức là Đạo Cao Đài còn thiếu Tu
tâm vậy. Nếu Tu tâm mà thật hiện đặng là
"Ái truất thương sanh", hành vi của
Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh là
Tu tâm đó.
Nhưng cái tâm mà diễn ra bao nhiêu
đấy không phải đủ nó còn nữa còn vô ngần
vô tận, cả kiếp sanh này chúng ta không có
cái năng lực để tạo nó. Ta chỉ nhờ hồng
phúc mới tạo nó đặng, nên ta cần nó lắm.
Nếu chưa đặng chúng ta không thể nói rằng
: Con đường của chúng ta thật-hiện còn đi
xa vời hơn nữa. Bởi vì phụng-sự vạn-limh
Đức Chí-Tôn đã để là cốt yếu. Ngài nói
rằng : Nếu biết phụng sự Vạn Linh các con
mới bước vô con đường Tu tâm của các con,
mà nói các con chưa Tu tâm, bởi cả hình trạng
vô biên các con chưa theo dõi, dầu cho các con
đặng chữ Từ Bi, Bác Ái và Công Chánh thì
cũng chưa đủ gì hết. Ấy, Tu tâm ấy mới
gọi là Tu tâm. Hễ có tâm mới có phương thế
lập Đức. Đức Chí Tôn dạy chúng ta phụng
sự Vạn Linh cốt yếu biểu chúng ta rán Tu tâm,
Tu tâm chúng ta mới đối lại cái quyền năng
tinh thần của tâm lý, đặng lập Đức là Tam
Lập đó vậy, vì nó liên hệ với nhau như thế
đấy.
Cả
những lời Bần Đạo, thuyết từ nảy giờ
có thể viết ra một quyển sách mà nói lại
có bao nhiêu, về rồi suy nghĩ kiếm hiểu ở
trỏng tràng trề ý vị.
Đền
Thánh, đêm 14 tháng 5 năm Nhân Thìn (1952)
16.- HAI CHỮ "TÍN NGƯỠNG"
Đêm
nay Bần Đạo giảng hai chữ "Tín Ngưỡng".
Tín
Ngưỡng. Tiếng ngưỡng
ấy Đức Đại Từ Phụ đã có nói Nguỡn,
thiệt tiếng Việt Nam gọi là Nguỡn bị cấm
tự nghiã là tên một vị Đế Vương trào nào
đó, rồi mình sửa cải đọc trại lại thành
ra là Ngưỡng.
Tín
là tin, Ngưỡng là cậy, Tín Ngưỡng tức nhiên
là tin cậy, tiếng Việt chúng ta đã nói từ
xưa đến giờ. Ngày xưa thời Phong Kiến danh
từ Tín Ngưỡng có nghĩa là :
"Tin cậy với sự thành kính một Đế
Vương hào kiệt nào ? ".
Chữ
tín ấy trong Đạo Giáo đã tôn trọng coi nó
là yếu trọng vô cùng nên để cho nó là một
cái Đức, gọi là Đức Tin. Cái Đức Tin Bần
Đạo có dịp viết ra cho Chánh Phủ Pháp buổi
nọ biết, sự tin của đức tin ấy. Bao giờ
con người cũng phải có, nếu không có tức
nhiên con người đó chẳng hề khi nào làm phận
sự con người cho đúng đặng và cũng nói rằng
không thế nào làm người nên đặng mà chớ.
Đức
Tin chia ra 2 giai đoạn, 2 hình thức là : Tha Tín
và Tự Tín : Tha Tín là mình tin người, hay là,
có những phương pháp nào tin người chủ định
cho mình, buộc mình phải tin gọi là Tha Tín.
Còn Tự Tín là ta biết lấy ta, ta hiểu sở
năng của ta, ta tin lấy ta gọi là Tự Tín. Con
người bao giờ cũng đi trong hai giai đoạn ấy.
Khi
thơ sinh chúng ta phải học, học phải hỏi,
hỏi phải tin, phải biết quan tiền dũ hậu,
tiên học nhi hậu hành. Học cốt yếu để thâu
đoạt cái Tha Tín ấy, đặng giồi mài hay là
tạo dựng cho mình cái Tự Tín của ta. Từ cổ
chí kim Tiên Nho của chúng ta đã có nói : Quan
tiền dũ hậu, ấy là một phương pháp của
mình tạo Tha Tín của mình đó vậy. Dầu bực
Thánh Nhơn, dầu bực Phật cũng không qua khỏi
khuôn luật ấy. Bần Đạo đã chỉ rõ điều
ấy.
Nếu
Đức Phật Thích Ca không có cái Tha Tín nơi
các Giáo Lý trước là Ba La Môn Giáo tức là
Brahmaisme hay là Civaisme hay là Đạo của Krishna
Vishnou, thì Bần Đạo dám quả quyết rằng :
Dầu Ngài có đạt đặng Giáo Lý của Ngài,
thì Ngài cũng chưa có phương pháp Truyền Giáo
ra thế nào, hay Ngài chưa định đi Truyền Giáo
mà chớ. Bởi chi phương pháp Truyền Giáo trước
kia cho Ngài một bài học, đặng Ngài truyền
Chơn Lý của Ngài cho toàn Nhơn Loại đều hưởng
đó vậy.
Đạo
của Đức Lão Tử cũng thế. Tự Tín là Ngài
đạt được Giáo Lý của Ngài về căn nguyên,
võ trụ mà sanh tồn, Ngài gọi tên là Đạo,
còn do nơi Tha Tín Ngài mới truyền Giáo.
Đức
Chúa Jésus Christ thâu đoạt cơ giải tội cho
thiên hạ, Ngài có phương thế Ngài biết rằng
: Ngài phải trả cái ơn cho Đức Chí Tôn, cái
ơn sanh thành dưỡng dục của Ngài và toàn Nhơn
Loại, Ngài làm con tế vật đặng cứu rỗi
tội tình nghiệp chướng của Chúng Sanh tức
nhiên là tội Tổ Tông ở bên Thánh Giáo đã
nói : Còn ta, ta lại hiểu rằng, Ngài cốt yếu
giải nợ để cho tinh thần khỏi làm tôi mọi
cho con thú, là thú chất vật hình của mình.
Ngài làm con tế vật Ngài dâng cho Đức Chí
Tôn, đặng Đức Chí Tôn nhìn Nhơn Loại là
con cái của Ngài, chớ không nhìn nó là con thú
nữa. Đạt Bí Pháp ấy do nới Tự Tín của
Ngài, còn Truyền Giáo của Ngài. Ngài học Moise
và các tay Giáo Chủ trước Ngài, đã lập Giáo.
Cái Truyền Giáo của Đức Chúa Jésus Christ là
do nới Tha Tín, còn cái Chơn Truyền Bí Pháp
là do nơi Tự Tín của Ngài. Dầu Tiên Giáo cũng
vậy, nếu không có Đức Hồng Quân Giáo Chủ
đã Truyền Giáo thí Đức Lão Tử cũng chưa
biết phải Truyền Bá Tiên Giáo của Ngài cho
Nhơn Loại là thế nào mà chớ.
Cả
thảy bao giờ loài người ở nơi thế gian này
cũng phải học, có học rồi
mới hành. Tiên học nhi hậu hành. Không
ai sanh ra dưới Đất này là khi lọt lòng mẹ
mà tự biết được. Đức Khổng Tử có nói
: Bất học nhi tri, phi thánh nhi hà, Ngài chỉ
biết nói rằng :
"Dầu cho Thiên Kinh vạn điển bất vị
nhi giáo nhơn nhứt ngôn thiệt thiện"
(Dầu cho Thiên Kinh vạn điển không bằng dạy
một người một lời lành).
Thiên
hạ đã để nơi thế gian này 2.000 triệu cuốn
sách mà ở trong đó chỉ tổng số có một điều
là : Kiếm phương pháp dạy người đặng lành,
từ thử tới giờ khuôn luật ấy vẫn một
mà thôi.
Hỏi,
Đức Chí Tôn đã đến chung hiệp cùng ta đem
nền Chơn Giáo của Ngài để trong Thánh Thể
của Ngài, để trong cửa Thánh bây giờ đây,
ta để dấu hỏi, Ngài muốn tìm gì ? Thật sự
Ngài tìm lành, Ngài muốn cho con cái của Ngài
lành, sự hung bạo của thế gian đã quá lắm
rồi Ngài đến Ngài trồng giống lành, đặng
làm hoàn thuốc cứu loài người, là hoàn thuốc
Cứu Khổ. Bần Đạo nói : Ngày giờ nào cả
con cái của Ngài biết Tha Tín và Tự Tín là
lấy cả gương mẫu của Tiền Nhân chúng ta,
bực Hiền Triết Thánh Nhơn, thâu đoạt cho đặng
cả tinh thần, cả hành tàng của họ, đặng
tạo dựng Tự Tín của mình. Tha Tín ấy cả
đầu óc Nam cũng, Nữ cũng thế, nhứt là Thánh
Thế của Ngài chiếm đoạt cho đặng cái Bí
Pháp ấy. Đức Chí Tôn muốn thế, tức là một
phương pháp cậy người tạo dựng Thánh Đức
cho con cái của Ngài, hầu làm khí cụ nhiệm
mầu độ rỗi Vạn Linh sanh chúng.
Bần
Đạo giảng rằng : Nền Chơn Giáo của Ngài
là một khối lành vô đối của thế gian đương
mơ vọng, đương khao khát đặng hưởng lấy
nó. Hưởng cho đặng nó, đặng bảo vệ sanh
mạng của mình. Nếu khối lành này, không hiện
tượng được thì sự hung bạo của Nhơn Loại
sẽ xô đẩy họ đi đến con đường tận diệt
mà chớ.
Ấy
vậy, trước khi muốn làm sứ mạng Thiêng Liêng
của Đức Chí Tôn đã giao phó cho ta, cái sứ
mạng ấy trọng yếu thế nào Bần Đạo không
cần phải nói, cả toàn thể con cái của Ngài
trước qua sau đến, không biết chừng Thánh
Thể của Ngài nó phải còn tồn tại mãi mãi,
mới đặng chắc chắn vững bền khối lành
của Ngài, ấy sẽ làm hoàn thuốc phục sanh
cho thiên hạ. Muốn đặng thế ấy thì ít ra
con cái của Ngài phải thâu đoạt cho được
cái Tha Tín của Nhơn Loại hay biết lành của
họ, biết ác của họ, đặng tạo dựng tự
tín của mình, tự tín đặng có thể tìm nên
giải pháp đặng cứu vãn sanh mạng của họ,
giờ phút nào hiện tượng được cái đức
tin ấy, mà toàn thể Thánh Thể của Ngài phải
đạt cho kỳ đặng mới có đủ năng lực cứu
vãn toàn thể sanh mạng của Nhơn Loại, tức
nhiên con cái của Đức Chí Tôn đó vậy.
Ngày
giờ nào khối Tự Tín trong cửa Đạo này chưa
thành lập, thì Nòi Giống Việt Nam phải chịu
tai nạn tương tàn trước nhứt hơn hết, trước
các chủng tộc khác, chịu một thứ tại nạn
khổ não, nếu không có phương pháp giải
quyết được vì chính Quốc Dân Việt Nam đương
làm cơ khí cho Đức Chí Tôn tạo dựng Đức
Tin ấy. Ngày giờ này sẽ làm cho Nòi Giống
Việt Nam tuyệt chủng trước, rồi thiên hạ
sẽ tuyệt chủng sau, nếu Cơ Quan Cứu khổ không
thành, Đạo phải cố gắng mới đặng, Bần
Đạo cho hay rằng : Thành tựu hay chăng là do
nơi tâm hồn thiên lương của con cái Đức Chí
Tôn đào tạo, tâm hồn Thánh của Ngài đã tạo
dựng từ trước. Bần Đạo gởi gấm cả khối
lành ấy trong tay toàn thể con cái của Ngài,
cả Nam và Nữ làm phương châm giải khổ và
gầy toàn hạnh phúc cho toàn Nhơn Loại.
Đền
Thánh, đêm 29 tháng 5 năm Nhâm Thìn (DL. 21-6-1952)
17.- SỰ KHÓ KHĂN CỦA ĐẠO TÂM
Đêm
nay Bần Đạo giảng về sư ïkhó khăn của Đạo
Tâm, chúng ta phải đương đầu với phàm tánh.
Tiếng Đạo tâm Bần Đạo đã giải rõ, Tiên
Nho chúng ta khi trước không có lấy tiếng chi
mà tả được cái Huyền Bí Tạo Đoan nên đã
dùng tiến "Tâm" chỉ vật Vô Hình ấy
gọi là : "Cường danh viết Đạo" Mượn
danh ấy đặng chỉ vật vô hình mà thôi, thật
sự Đức Chí Tôn đã đến giải rằng chữ
"Tâm" thiên hạ đã dùng để chỉ cái
nguơn linh của chúng ta đó vậy. Cái nguơn linh
là Tâm thuộc về Đạo, là cả cơ quan tạo
đoan của Càn Khôn Vũ Trụ, cái bí-mật đã
sanh sanh hoá hoá, vạn linh tức là nguyên linh
của chúng ta, đó cũng là huyền bí của Càn
Khôn Vũ Trụ, hễ chúng ta đã nói rằng: Nguơn
linh của chúng ta thì hai tiếng nguơn linh ấy,
chúng ta đâ tầm hiểu do Đấng Chí linh sản
xuất, mà xuất nơi ĐấngChí linh tức nhiên
nó là một phần tử vạn linh và nó đã xuất
hiện trong chí linh mà ra, tức nhiên cả cơ quan
tạo đoan của Càn Khôn Vũ Trụ nó đã có một
phần tử nơi đấy, hễ chúng ta đã nói rằng
có thể suy đoán cơ thể chủ quyền của Càn
Khôn Vũ Trụ, thì chúng ta có thể nói rằng
: Nó có thể làm thủ cả cơ thể tạo đoan
nơi mặt Địa Cầu này. Càn Khôn Vũ Trụ vĩ
đại thế nào thì cái nguyên linh của ta nó
cũng phải đạt đặng nguơn linh nó mới chịu,
vì cớ cho nên Bần Đạo đã thường nói cái
tương lai của loài người họ sẽ đi đến
mục đích làm chủ Tạo Đoan Càn Khôn Vũ Trụ
nơi mặt thế hữu hình này, hay họ sẽ làm
Ông Trời tại thế này đó vậy. Hễ nói rằng
có tánh chất Càn Khôn Vũ Trụ thì phải quảng
đại bao la, có thể tạo đoan vĩ đại thế
nào thì nguơn linh của chúng ta phải vĩ đại
như thế ấy, Càn Khôn Vũ Trụ huyền bí thế
nào, cái nguơn linh của chúng ta phải nương
theo huyền bí ấy thế đấy.
Bởi
vậy cho nên, nó tự biết phạm vi nó là Trời,
nó thấy cả sự đau khổ của Nhơn Loại đã
chịu, nó đã biết cái đau khổ của nó, mà
nó hoài bão cám cảnh yêu đương kính trọng
cái khổ của thiên hạ, khổ của toàn thể
nhơn loại, nó đã biết cái sống của nó rằng
khổ, nó phải thương cái sống của thiên hạ,
nó biết cái giả của nó khổ, nó phải thương
cái giả của thiên hạ, nó biết bịnh của
nó là khổ, nó phải thương cái bịnh của thiên
hạ, nó biết cái chết của nó là khổ nó phải
thương cái chết của thiên hạ.
Cái
tánh chết nguơn linh của chúng ta, tức nhiên
Đạo Tâm của chúng ta đây vậy, nó phải quyền
năng chủ định của nó, nó phải có quyền
năng làm chúa cái sở năng của nó, nó có thể
cải được cái quyền lực của Quả kiếp Luân
hồi, nó có thể sửa cải đặng đạt Cơ giải
thoát đặng định chủ lấy nó. Ấy vậy cái
Đạo tâm của ta là thế đấy.
Bao
giờ phàm tánh là vật hình vẫn hoài bão tánh
chất thú của nó, mỗi sự chi làm cho nó phải
ham muốn, vừa ý thích của nó theo cái năng
lực của nó mạnh mẽ thế nào nó thấy được
sắc đẹp nó ham, nó mê. Nó nghe được một
tiếng thanh tao nó biết muốn mê mẫn, nó nghe
được mùi vị thơm tho ngon ngọt nó biết ham
ăn, ham ngửi, nó thấy một cái địa vị sang
trọng, nó biết giục tâm chiếm đoạt cho đặng,
rồi nó dùng đủ phương pháp đòi hỏi cả
tinh thần nó đem ra thi thố mâu thuẩn đoạt
được sở vọng nó, nó ham muốn phú quí, giàu
sang trên mặt Địa Cầu, cái vật hình dù đã
làm cho nó kích thích, nó lấy cả tinh thần
làm năng lực nó làm sao đặng, có nhiều khi
trước cảnh ngộ ấy, chúng ta ngó thấy Đời
Đạo đang tương đối cùng nhau. Một bên Đạo
tâm giải quyết thắng phàm tánh, mà hại thay
! Không thể dễ gì thắng.
Tiên
Nho của chúng ta đã nói trước một đạo binh
có thể thắng một trận giặc muôn binh kia,
mà ta thắng với phàm tánh của ta rất khó,
không thể đoán đặng. Nếu chúng ta thắng được
phàm tánh chúg ta, cái Đạo tâm chúng ta đủ
năng lực thắng đặng tức nhiên là cái cơ
quan tự giác chúng ta đạt đặng.
Đạt
được năng lực tự giác ta, ta mới có thể
giác thiên hạ, tức nhiên thức tỉnh toàn thể
thiên hạ, tự giác nhi giác tha là thế ấy.
Phương pháp tự giác mà Phật, Đức Chúa Jésus
Christ hay các vì Giáo Chủ đã tìm cái bí quyết
ấy chuyển cả các bí mật của các nền Tôn
Giáo. Chữ Tu ta để dấu hỏi, cái thực hành
tiếng Tu của thiên hạ đã tìm cái cơ quan tự
giác ấy họ đã đặng chưa, cả thảy chúng
ta đều để dấu hỏi mờ hồ, nếu toàn thể
thiên hạ đạt đặng cơ quan bí pháp tự giác
ấy, thì Bần Đạo dám chắc nơi thế gian này
cả thảy thiên hạ là Thánh, mà giờ phút này
họ phàm, thì Bần Đạo nói có một phần thiểu
số đạt đặng chớ không phải cả toàn thể
thiên hạ đạt đặng.
Đức
Chí Tôn đã đến, Ngài chỉ Bí Pháp có một
điều là : Các con không cần tìm kiếm Triết
Lý cao siêu hơn nữa, các con tìm kiếm cái sống
của toàn thể bạn đồng sinh của các con, rồi
kỉnh trọng phụng sự cái sống ấy. Hễ các
con tận tâm phụng sự cái sống của Vạn Linh,
thì cơ quan giải thoát của các con, Thầy đã
để nơi tay của các con đó vậy.
Đền
Thánh, đêm 30 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1952)
18.- LUẬT NHƠN QUẢ
Đêm
nay Bần Đạo giảng về Luật Nhơn Quả.
Quan-hệ nhân-quả (causalité) nghĩa là
nguyên-nhân và kết-quả (causes et effets). Luật
Nhân-quả (Principe de causalité) cho rằng sự-kiện
nào cũng đều có nguyên-nhân của nó và cùng
những nguyên-nhân đó sẽ sinh ra cùng kết-quả
của nó
Chữ
Nhân-Quả dịch ra nghĩa lý tiếng Phạn là tiếng
Karma, thiệt tiếng Phạn có nghĩa là : Làm cái
chi phải trả cái ấy, phải bồi thường, ta
có thể hiểu nó là khuôn luật "vay trả"
đó vậy.
Khuôn
luật ấy huyền bí vô cùng, tại liên hệ với
chữ Karma. Quyền Chí Tôn tiếng Phạn đề "Boudha,
Shama, Saya". Tức nhiên câu niệm của chúng
ta : Phật, Pháp, Tăng. Tiếng Karma liên hệ với
Pháp như thế ấy, có định Luật Thiêng Liêng
của nó, vì không thể lấy trí khôn ngoan của
chúng ta mà suy đoán luận biện cho đặng. Chúng
ta thấy cũng như cả toàn thể từ xưa đến
giờ dầu cho
bực Thánh Nhân Hiền Triết ta để con mắt quan
sát tiềm tàng thấy khuôn luật ấy nó vô hình
mà nó quả quyết làm sao, chắc chắn làm sao.
Người ta kiếm tìm khuôn luật ấy thì thấy
rằng : Có một quyền năng vô đối là Quyền
Năng của Đức Chí Tôn, tức nhiên Đấng tự
hữu kia để trong tay Đấng đó mới có thể
cầm quyền về khuôn luật đó mà thôi.
Bởi
sự quan sát ta thấy Luật Nhơn Quả ấy về
cá nhân cũng thế, gia đình cũng thế, xã hội
cũng thế, mà nói chúng toàn thể nhân quần
trên mặt Địa Cầu này cũng thế. Nhân Quả
ấy, người ta đã tìm hiểu thấu đáo, hễ
càng tìm tòi càng thấy kinh khủng làm sao.
Tỉ
như một gia đình, trong một cơ quan tạo dựng
gia đình ấy, nó do nơi ác hành tạo dựng, thì
gia đình ấy chẳng hề tồn tại. Một xã hội
nào, một quốc dân nào do nơi ác mà hành mà
tạo nghiệp, thì xã hội đó, quốc dân đó
không bao giờ bền vững. Nếu chúng ta không
nói quả quyết rằng nó
sẽ bị tiêu diệt mà chớ. Nhơn quần
và cả Nhơn Loại giờ phút này chúng ta thấy
quả quyết làm sao không thể gì luận được.
Luận
về nhơn quả cá nhân ta hay một đại nghiệp
ta nói : Tỉ như Tần Thuỷ Hoàng, muốn đem Văn
Hiến của Ấn thay thế Văn Hiến Nho dám đang
tay khi Nho, đốt sách chôn học trò, tưởng thi
hành thủ đoạn ấy tiêu diệt nhà Nho được,
Bần Đạo không nói cả cơ nghiệp của Tần
mà thôi, mà cả cá nhân của Tần Thuỷ Hoàng
cũng vậy. Ngài Sở Bá Vương vô lấy Ly Sơn
rồi biết Tần Thuỷ Hoàng chôn nhiều vật báu,
khi đào lên thì của báu ấy đã tiêu huỷ.
Chúng ta tưởng coi có một đại nghiệp của
Hớn, Hớn Bái Công đã lấy tính Đức lập
nghiệp, lấy Nhơn Nghĩa làm căn bản tới 800
năm, khi đến nạn diệt tận rồi cũng còn Hớn
Hiến Đế nối nghiệp, qua Hớn Chiêu Liệt tức
nhiên Lưu Bị biết khí số nhà Hớn đã mãn,
muốn kiếm phương kéo dài mãy mún, tức nhiên
để lại cho Hậu Chúa một đôi giáp quý vô
cùng, Ngài nó với Hậu Chúa tức nhiên Á Đẩu
rằng :
- Vật dĩ ác tiểu nhi vi chi,
- Vật dĩ thiện tiêu nhi bất vi.
Nghĩa
là đừng vì ác nhỉ mà làm và cũng đừng vì
vì thiện nhỏ mà không làm. Về cá nhân hay
xã hội đều đứng trong khuôn luật ấy cả.
Bây
giờ nói về Tôn Giáo, thì Đức Phật Thích
Ca cầm Bình Bát đi xin ăn đặng nuôi kẻ nghèo
nàn đói khó nói
"Cấp Cô
Độc Viên" mà cái Đạo của Ngài tới
2.500 năm vẫn còn bền vững, nó vẫn giàu có
cả Văn Minh Phật Giáo đã truyền bá toàn cõi
Á Đông này, nếu chúng ta thấy của cải vô
biên vô tận của nó, chúng ta không thể gì
tính toán được (vô toán).
Thêm
nữa Đấng chịu khổ nhục đi ăn xin từ bữa,
chịu hèn hạ ấy lại còn bị chúng bắt đóng
đinh trên cây Thập Tự Giá "Lên án là kẻ
côn đồ" kẻ hung bạo, cướp bóc. Đấng
ấy đã tạo Đạo của Ngài. Giờ phút này nếu
cả toàn mặt Địa Cầu này cũng chưa có ai
sang cả cho bằng.
Nhơn
Quả của một người tạo nghiệp hay Nhơn Quả
của vị tạo Đạo; hai cái đó trọng yếu vô
cùng không thể gì luận được.
Nãy
giờ nói của người ta, bây giờ mình phải
nói tới của mình. Đức Chí Tôn nói với môn
đệ của Ngài. Ngài lấy kẻ nghèo khó, hạng
nhứt là Ngài đến với một Quốc Dân hèn hạ,
Quốc Dân còn
bị lệ thuộc của người, làm tôi đòi thiên
hạ, Ngài lấy phần tử ấy làm Thánh Thể của
Ngài mà tạo nền Chơn Giáo, Ngài lấy Quốc
Dân nô lệ trong giờ phút tạo nghiệp của Đạo.
Cả
con cái của Ngài tạo dựng nên hình tướng
của nó, không cướp bóc của ai không cầu lụy
ai cho mình mà làm cái nhân ấy quý báu làm sao,
lại nữa người tượng trưng lấy nó, cơ thể
hữu hình là người chủ quyền lao tạo dựng
nó, thân phải hèn hạ truân chuyên, bị thiên
hạ áp bức đè nén hiếp đến nổi thân của
họ bị đồ lưu, tù tội, cái nhục nhã hèn
hạ của họ, ngày nay đem vô Luật Nhân Quả
thế nào ? Thì toàn thể con cái của Đức Chí
Tôn luận lại thì hiểu.
Đền
Thánh, đêm 14 tháng 6 năm Nhâm Thìn (1952
19.- ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG VỀ TAM
DỤC (THỂ DỤC, TRÍ DỤC VÀ ĐỨC DỤC)
Đêm
nay Bần Đạo giảng về Tam Dục, dục
đây là lấy chữ dục tức nhiên là nuôi.
Vả
chăng trong kiếp sống của chúng ta nơi thế
gian nầy, chỉ chúng ta có 3 món cần ích đặng
định mạng của chúng, sống nơi mặt thế này
3 món trọng yếu ấy phải nuôi dưỡng ta như
: Thể Dục, Trí Dục và Đức Dục. Chúng ta
nói chữ dục tức nhiên chúng ta có thể nói
rằng dưỡng dục. Ba món ấy có 3 chủ quyền
của nó đặc biệt, thân thể chúng ta đã nên người đây, đương
sống đây chúng ta thọ ân vô biên vô tận trong
kiếp sinh của ta là Cha là Mẹ. Nếu hai Đấng
ấy không có dưỡng dục ta, thì ta đã chết,
đã tiêu xác hồi nào rồi. Điều ấy Bần Đạo
không cần phải minh biện rõ rệt cho lắm, cả
toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam cũng vậy,
Nữ cũng vậy các con có hiểu điều ấy. Bởi
thê Tiên Nho chúng ta đã có nói : "Dưỡng
tử phương tri phụ mẫu ân". Chúng ta có
nuôi con mới biết được ơn Cha Mẹ đã sanh
thành dưỡng dục.
Ấy
vậy quyền năng dưỡng dục về Thể Dục ta,
đó thuộc chủ quyền Cha và Mẹ ta, nếu không
có nhờ mớm cơm vú sữa thì thân ta ngày hôm
nay không được làm người đấy, thử lãnh
đạm đi, thi hài phàm tục đã bị tiêu huỷ
rồi, không tiêu huỷ về phương diện này, cũng
tiêu huỷ về phương diện khác, đừng nói chi
không có nuôi dưỡng chăm nom săn sóc thi phàm
chúng ta, thử nghĩ coi chúng ta có thể sống
được hay chăng. Điều ấy cả thảy đều ngó
thấy dễ dàng không cần phải luận.
Trí
Dục, trí của chúng ta đã khôn ngoan tài tình,
hễ có trí thì có tài mà ai cần dùng tài của
chúng ta và ta lấy trí nơi ấy nơi đâu mà đặng,
tức nhiên ta phải nhớ đồng sống cùng xã
hội nhơn quần, tức nhiên đồng sống cùng
chủng tộc, ta mới có thể mở mang trí lực
được. Có đồng sống với họ, họ mới mở
quyển sách Đời cho ta đủ khôn ngoan tài đức,
ta mới đồng sống với họ đặng. Thảng như
chúng ta thiếu, Bần Đạo nói thiếu, Bần Đạo
quả quyết duyên cớ hiển nhiên rằng : Thử
bỏ xã hội nhơn quần chúng ta lên non cao rừng
rậm chúng ta ở từ thưở bé xuân, thì con người
chúng ta sự khôn ngoan sẽ yếu kém, trí thức
chúng ta không thể mở mang đặng rộng rãi hoạt
bát như chúng đã đồng sống trong xã hội nhơn
quần. Mà xã hội nhơn quần cần yếu chúng
ta có trí tài đặng chi ? Đặng chúng ta mới
có phương thế giúp ích cho họ, nếu không đủ
trí tài thì chúng ta sẽ làm một con vật mà
thôi, làm một vật ăn bám của xã hội nhơn
quần không có hữu ích gì hết. Bần Đạo nói
đây cả thảy con cái của Đức Chí Tôn ngó
thấy một người ngơ ngơ không đủ trí, ngu
xuẩn thì bao giờ họ cũng chỉ làm bậy làm
quấy, không thế gì hiểu họ làm điều phải
với hay cho đặng. Hạng nhứt xã hội nhơn quần
sợ cái đó hơn hết, nên cần nhứt họ phải
giáo hoá mở mang trí lự toàn thể quốc dân
của họ. Ấy vậy lập trường họ viết sách,
họ luận biện họ thuyết cả lý do chia sống
của chúng ta, họ đem cả phương pháp tạo cho
đặng trí tài ấy hầu giúp ích cho sự sống
cùng toàn thể chủng tộc của họ.
Ấy
vậy về Trí Dục là về phần của Xã Hội
nhơn quần, nói trắng ra thuộc về phận sự
tối yếu tối trọng của Quốc Gia Xã Hội của
nhà nước.
Bây
giờ tới Đức Dục phải lập Đức, họ có
kiếm nơi nào không được mà có, không phải
do quyền Thiêng Liêng mà có, chúng ta tự tạp
lấy mà có, chớ không hề xin ai đặng, chưa
xin ai mà đặng. Nơi mặt thế này thì bao giờ
cũng tranh sống thì chẳng hề khi nào chúng ta
định quyết họ đã lập Đức, với sự tranh
đấu kịch liệt của họ, mà họ đã lập Đức
đặng, chữ Đức ấy thiên hạ đã nói khẩu
thuyết rất nhiều, mà thiết tưởng của họ
tưởng cả phần đông xã hội nhơn quần nơi
mặt thế này, giờ phút này Bần Đạo đứng
tại Tòa giảng nói rằng : Chưa biết kiếm nơi
nào cho đặng phương pháp lập Đức ấy, chưa
biết nơi đâu mà họ tìm.
Nếu
Xã Hội nhơn quần mà có Đức, cả toàn Nhơn
Loại mà có Đức, thì trường tương tàn tương
sát kia đương náo nhiệt không thể có được,
bị họ thiếu Đức ấy, mà thiên hạ đã điên
đảo, thiên hạ đã thống khổ tương tàn tương
sát với nhau, không buổi nào trên mặt thế
gian này đặng hòa bình, là thiên hạ do thiếu
Đức. Tiên Nho của chúng ta đã có giáo hóa
dân mà thôi, nói một câu rất hay :
"Tích kim dĩ di
tử tôn
Tử tôn vị tất
năng thủ,
Tích thơ dĩ di tử
tôn,
Tử tôn vị tất
năng độc,
Bất như tích âm
đức,
Ư minh minh chi trung
dĩ di tử tôn trường cửu chi kế".
Nghĩa
là : Chúng ta để vàng cho con chưa biết con giữ
gìn còn hay chăng, chúng ta để sách cho cốt
yếu mong cho nó làm quan, trên thiên hạ, khôn
hơn thiên hạ, giỏi
hơn thiên hạ, trí tài hơn
thiên hạ, chưa biết nó đọc hay chăng,
chẳng bằng chứa Đức lại mà nó vẫn còn
tồn tại mãi thôi.
Lập
Đức, bây giờ chúng ta để dấu hỏi Đức
ấy tìm đâu mà có ? Bần Đạo lại giải nghĩa
quả quyết rằng : Ngoài cửa tinh thần Đạo
Đức ở đâu mà có được món ăn Thiêng Liêng
ấy, duy có trong cửa Đạo Cao Đài này mà thôi.
Bần Đạo lại còn nói quả quyết rằng : Bất
kỳ Tôn Giáo nào giúp cho ta đạt đặng cái
Đức, nền Chơn Giáo ấy gọi là Chơn. Nhưng
bất kỳ Tôn Giáo nào dầu họ đem lý thuyết
cao siêu bao nhiêu mà giục nhơn sanh tàn ác vô
lương thất đức, thì nền tôn giáo ấy bất
quá là giả đạo. Chúng ta thử nghĩ lại coi
cửa Đạo Cao Đài chúng ta, Đức Chí Tôn lấy
Triết Lý nó là gì, thử coi chúng ta lập Đức
được hay không suy đoán coi ? Ổng đến Ổng
tuyển chọn lương sanh làm Thánh Thể của Ổng,
mà phụng sự cho Nhơn Loại đương thống khổ,
tưởng không nền Chơn Giáo nào Tu tâm có năng
lực hơn phương pháp ấy.
Hội
Thánh Phước Thiện, ngày 17 tháng 6 năm Nhâm
Thìn (1952)
20.- GIÁ TRỊ CỦA CHỨC SẮC HÀM
PHONG
Trước
khi mở Hội, Bần Đạo xin để đôi lời tâm
huyết nói cùng Chư Chức Sắc Hàm Phong những
điều làm cho Chí Tôn vui lòng hơn hết.
Từ
thử đến giờ Hội Thánh vì công nghiệp nên
cho những Chức Sắc niên kỷ quá lục tuần
đặng vào hàng phẩm Hàm Phong hầu an dưỡng
lúc tuổi già, gọi là hồi hưu Dưỡng Lão,
một điều Hội Thánh thương tâm hơn hết, là
thấy toàn Đạo xem Chức Sắc này dường như
vô giá trị, còn có lẻ nhẹ thể hơn Tín Đồ,
bởi cớ vì nét Công Bình của Chí Tôn, thấy
con cái Thầy chịu khó nhọc trong buổi ban sơ,
nên đến lập giá trị cho Chức Sắc Hàm Phong,
cốt yếu là muốn cho Hội Thánh nhìn nhận các
Công Nghiệp ấy đặng để cho đoàn hậu tấn
noi gương, kẻo chúng nó quên mấy Anh mấy Chị
thành ra thất lễ nghĩa, và Hội Thánh cũng vì
Công Lý và Quyền Hành Chí Tôn ban cho mấy Anh
mấy Chị tức là quyền sở hữu của mỗi người
nên mới lập được trong Hội Thánh Hàm Phong,
có Ban Ủy Viên để bảo hộ cho Chức Sắc Hàm
Phong vậy. Vả chăng Chí Tôn đến lập Đạo
Cao Đài, chẳng cần nhắc đi nhắc lại mấy
Anh mấy Chị cũng hiểu nghĩa là Ngài đến lập
Đền Thờ cao trọng của Ngài tại mặt thế
này, mấy Anh mấy Chị đã thấy tấn tuồng
bi kịch của Đời nó đã biến thiên đảo ngược,
cái sống của toàn cầu là sống trong đường
danh nẻo lợi, chẳng phải Nhơn Nghĩa là gì,
chỉ có cái sống của con người, là cốt yếu
nhứt mà thôi, nơi trường thảm khốc kia Chí
Tôn đã thấy Nhơn Loại đương tranh ăn giành
sống, sắp giết hại lẫn nhau, thời hưởng
nếu mình ngồi một địa vị Ông Cha lành, ngồi
thấy con tàn diệt như vậy, nghĩ có an lòng
không ? Lẽ tất nhiên Ngài phải tầm phương
giải kiết, Chúng Sanh đã thất Đạo Nhơn Nghĩa,
Nhơn Luân, sự tranh sống trước mặt của Nhơn
Loại đã hết tánh chất loài người, cái tham
tâm dục lợi càng buông lung thêm mãi, nên nạn
tự diệt hầu gần, cũng do tại đó; ấy vậy
muốn có món thuốc giải kiết cứu sống nó
lại, thời tức phải phục hưng cái Đạo Nhơn
Nghĩa, đã có từ mới tạo Thiên lập Địa,
đặng qui tựu thiên lương, hễ ngày nào loài
người biết lấy Nhơn Nghĩa làm trọng, thì
chừng đó cơ quan sanh sống mới hết quyền
năng tàn hại, vì vậy Chí Tôn mới kiếm món
thuốc ấy đặng cứu loài người mà toàn cầu
chỉ dùng viên thuốc của Chí Tôn đến đặng
lựa chọn. May thay Tổ Phụ chúng ta đã 4.000
năm lập Nghiệp chịu yếu-ớt bạc-nhược đè-ép,
khổ-khắc nhưng vẫn ôm mãi mối Đạo Nhơn
Luân, không giản không xa nhờ cầm vững món
thuốc ấy, nên Chí Tôn quyết chọn thuốc Nam,
lấy Đạo Nhơn Luân lập nền Quốc Đạo cho
chúng ta, thời tưởng ra đâu phải điều mới
mẻ, chẳng qua là lấy cái báu nhà trau dồi
cho sạch rồi đem ra phô bày nơi mặt thế, chúng
ta không cần học hỏi nơi ai, mà chính thật
hành y theo đó. Chí Tôn lại chia phận sự, nhứt
là phận sự lập vị Thiêng Liêng thời về
phần Ngài làm chủ cả vạn vật, mà lập vị
cho con cái của Ngài không đặng, hỏi còn ai
nữa, hay là còn mê về Thánh Thể tại thế,
chúng ta không cần thuyết hay cần suy nghiệm
tức nhiên cũng hiểu rằng : Ngài giao Thánh Thể
Ngài bảo tồn Nhơn Luân Đạo, chẳng phải là
Ngài biểu chúng ta làm cho cả loài người phải
hiển Thánh hiển Thần, mà trái lại chỉ thay
thế cho Ngài Giáo Hóa Nhơn Luân, chỉ đạo cho
họ là đủ, rồi do cái công nghiệp ấy để
tự Ngài định vị cho mình. Hiện thời những
sự mê tín của Đời, đã làm cho cả trí não
đầu óc của người trở nên điên đảo rối
loạn tinh thần. Hồn cũng vì đó mà tiêu huỷ,
nhưng chúng ta đã may duyên sẵn
có nền Đạo chơn chánh trong tay, thời
chúng ta chỉ dụng cái báu nhà mà thôi, không
còn ai mong mỏi nhồi nắn chúng ta đặng. Ấy
vậy, ngày nào Quốc Dân Nam tỉnh giấc, tùng
y theo Chơn Pháp của Đạo Cao Đài, thời ngày
ấy không còn ai đem mê tín dị đoan nhét vào
cái óc ta đặng, không tiếc gì cái óc mê tín
phần đông vẫn còn nên bị cám dỗ, phân chia
Đảng phái, mà phá tan cả Gia Nghiệp Đạo của
ta phải phản Quốc mà thôi, lại còn bất hiếu
với Tổ Phụ nữa mà chớ. Trót 13 năm trường
Chí Tôn chọn mấy vị niên kỷ, hao biết bao
giọt mồ hôi chan hoà giọt lụy khổ não với
Đạo mà vào hàng phẩm Hàm Phong nói ngay ra nhiều
Chơn Lý, thiệt tay tạo thành chơn tướng ra
của Đạo, là do nơi Công Nghiệp của mấy Anh,
mấy Chị chớ không phải đám Thanh Niên sau
này, ngày nào mấy Anh mấy Chị dựng lại đặng
cả hồn phách Quốc Dân Nam, để đền đáp
ân sâu của Tổ Phụ rồi mới thoả nguyện,
mấy Anh mấy Chị, có trăm tuổi rủi phần xuống
tuyền đài nhìn mặt Tổ Phụ của chúng ta cũng
không thẹn, vì đã trả xong mảnh hiếu tâm
với Đạo, còn hiện giờ cái gia nghiệp của
mấy Anh mấy Chị tạo thành đây đến phiên
đoàn hậu tấn, thay vì chúng nó bảo trọng
trở lại tàn hại tiêu tan, thời lý nào mấy
Anh mấy Chị lại làm ngơ, ngồi xem kẻ vô cố
sau này mặt tình phá huỷ. Đến đổi Chí Tôn
đến tạo Đạo, còn lo các Đấng Chơn Linh tối
cổ để giao mối chơn truyền, chẳng khác chi
một vị tâm quan đến trấn nhậm xứ nào, cũng
phải nhờ mấy ông kỳ lão, mới rõ thông xứ
ấy đặng, thời có đâu Hội Thánh chẳng coi
hạng kỳ lão là trọng. Mấy Anh mấy Chị nhớ
ngó lại xem đoàn hậu tấn thời thấy trí nhãn
nó đã đảo điên hết rồi, hình xác An Nam
mà đầu óc chẳng còn mảy mún chi An Nam nữa.
Vậy Đạo mà nên hay chăng, thiệt tướng hay
chăng, chẳng phải nhờ nơi đám tân thời, mà
do nơi mấy Anh mấy Chị. Mấy Anh mấy Chị tưởng
mình già rồi đã hết phận sự nên xin nghĩ
về nhà an dưỡng, rồi thử hỏi gia nghiệp
này hư huỷ mấy Anh mấy Chị có bằng lòng
không ? Cái Gia Nghiệp vĩ đại này gẫm lại
toàn nòi giống chúng ta hưởng tận thế cũng
vẫn còn, thời lý đâu lại coi nó rẻ hơn cái
gia đình cỏn con của mấy Anh mấy Chị. Bần
Đạo thay thế cho Hội Thánh, xin gởi cái Đạo
nhà chúng ta nơi tay mấy Anh mấy Chị vì là
người lịch duyệt khôn ngoan Đạo Đức hơn,
đặng nắm giềng mối Đạo, nếu để hư thời
tội tình ấy mấy Anh mấy Chị phải gánh vác.
Bây giờ Bần Đạo mới chỉ rõ chẳng phải
nói ngồi nhà mà thành ra vô dụng, tỷ như trị
thế không đặng chớ giáo-hoá cũng không đặng
nữa sao ? Vậy nơi nào có Chức Sắc Hàm Phong
ở đó, chẳng cần nói là một vị Tín Đồ
dầu Hộ Pháp hay là Giáo Tông đi nữa mà thất
Đạo, thời phần trách cứ ấy về phần mấy
Anh mấy Chị phải chịu, nếu mình biết coi
cái Đại Nghiệp nước nhà, mà người nào sẵn
tay tàn phá làm rẻ rúng nó, thời có lý đâu
mình điềm nhiên toạ thị. Từ đây dầu Hộ
Pháp hay là Giáo Tông, chẳng lựa chi là Tín
Đồ, mà thất Đạo nghịch Chơn Truyền, thời
tội tình mấy Anh mấy Chị lãnh phần gánh vác.
Lâu lâu nữa tháng hoặc một tháng, hễ nghe
đứa nào thất Đạo, thì mời nó đến để
lấy lời giáo hoá, nếu nó không nghe, mấy Anh
mấy Chị dầu có trầu rượu lạy nó, đặng
đền cái hiếu cái nghĩa cho Tổ Phụ, chúng
ta tưởng cũng không phải hổ mà, ngày nào dầu
ngoài Đời hay là trong Đạo, thất Đạo Nhơn
Luân mà Bần Đạo không thấy một mảnh thơ
của mấy Anh mấy Chị thời Bần Đạo trở
nên người thù nghịch của mấy Anh mấy Chị,
nếu hiển nhiên trước mắt mình thấy một
vị Chức Sắc dầu cơ quan nào làm điều chi
sai, phi pháp hại danh thể Đạo thời mình không
cần nói đến, chỉ lấy đủ bằng cớ cả
hồ sơ gởi về cho Hội Thánh, hoặc là xin trục
xuất cất chức ngưng quyền hay đuổi đi nơi
khác, tuỳ theo tội nặng nhẹ, nhưng phải hứa
với Hội Thánh rằng : Mình chấp giữ quyền
hành ấy cho đến ngày nào có vị Chức Sắc
khác thay thế. Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, kể
từ nay Bần Đạo xin giao quyền kiểm soát cả
nền Đạo nơi tay của Hội Thánh Hàm Phong, giao
cả hành trình, giao cả tinh thần Đạo Đức
đoàn em Quốc Dân Nam này, cho mấy Anh mấy Chị
giáo hoá chúng nó. Vậy nơi nào có vị Hàm Phong
thì đặng quyền cử Ban Kiểm Viên Kỳ Lão,
chọn một vị Chủ Trưởng, một vị Phó Chủ
Trưởng, một vị Từ Hàng, một vị Phó Từ
Hàng, từ vị Nghị Viên trở lên, 12 dĩ hạ,
tuỳ số kỳ lão nhiều hay ít, để giáo hóa
quan sát điều đình trong địa phận mình.
Đền
Thánh, đêm 29 tháng 6 năm Nhâm Thìn (1952)
(Vía
Quan Thánh Đế Quân)
21.- QUYỀN HÀNH TAM TRẤN OAI NGHIÊM
Hôm
Lễ Vía Quan Thánh Đế Quân, Bần Đạo đã có
nói đến quyền hành của Ngài về Tam Trấn
Oai Nghiêm, có liên quan với các lễ tối trọng
tối yếu của chúng ta là phải dâng Tam Bửu
cho Đức Chí Tôn. Bần Đạo đã có dịp giảng
về Tam bửu ấy. Tỷ như một người kia tìm
Đạo, người ta thấy mình dâng ba món ấy mà
mình gọi là ba báu, rồi người ta để mắt
thấy Bông, Rượu, Trà người ta để dấu hỏi
? Ba món ấy báu lắm hay sao ? Báu ấy là báu
gì ? Bần Đạo đã giảng ba cái đó tượng
trưng cho báu vật của ta là :
Thứ
nhứt thân phàm xác thịt của chúng ta đây,
thuộc về Tinh, Bông tượng trưng là xác thịt.
Thứ
nhì là trí não của ta, không ngoan hơn vạn vật
gọi là Khí, Rượu tượng trưng cho trí não.
Thứ
ba Trà tượng trưng cho linh hồn của chúng ta
là cái hằng sống thiêng liêng của chúng ta.
Đó mới gọi là ba cái báu. Thật ra
chúng ta suy nghĩ coi không có gì quí hơn xác
thịt ta, trí óc ta và linh hồn ta hơn hết.
Đức
Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng ba báu vật
ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài
cái gì khác. Giả tỷ như Đời Thượng Cổ
Nhơn Loại dâng cho Ngài tới sanh mạng con người,
nên người ta phải giết người để làm tế
vật. Sau đó thay thế mạng sống con người,
Nhơn Loại lại dâng tam sanh tức nhiên bò, trâu,
heo và sau nữa bên Âu Châu theo Đạo Do Thái
thì dâng cho Đức Chí Tôn một con Chiên trắng,
con Chiên ấy phải trắng như tuyết mà thôi.
Giờ
phút này Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng
Tam Bửu : Bông, Rượu, Trà; tưởng đâu là gì,
thiên hạ nói báu gì đâu ba món ấy gọi là
báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu
vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo
sinh ta, Ngài là Cha của ta về phần hồn và
phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của
Ngài cho ta, lấy ba món báu ấy của ta đó vậy.
Bây
giờ nếu như người tầm Đạo kia nói : Tôi
không biết Ông đòi ba món ấy để làm gì ?
Và tôi không biết Ông dùng ba món báu ấy là
xác thịt, trí não và linh hồn của mình để
Ông làm gì ? Người ta để dấu hỏi, tức nhiên
ta trả lời.
Chúng
ta đã thấy hiện tượng Đức Chí Tôn đến
qui Tam Giáo : Nho, Thích, Đạo, lấy cả tinh thần
Đạo Đức của ba nền Tôn Giáo ấy đặng làm
môi giới chuẩn thằng. Rồi lập thêm làm gì
Tam Trấn Oai Nghiêm ? Có phải chăng lập Tam Trấn
Oai Nghiêm là để bảo vệ ta, và Tam Trấn Oai
Nghiêm có bổn phận dâng lên cho Đức Chí Tôn,
sự thật như vậy. Nếu không phải vậy Đức
Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm
ra làm gì cho chúng ta thờ phượng, ấy vậy
Tam Trấn Oai Nghiêm trượng trưng bao báu vật
ấy.
Đức
Quan Thánh tượng trưng Tinh, tức nhiên tượng
trưng xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong
xã hội nhơn quần của chúng ngày nay không có
cái giá trị nào bằng giá trị Tinh, Khí, Thần,
quả vậy Bần-Đạo tưởng chắc rằng : Nếu
chúng ta có mảnh thân phàm này mà muốn cho nên,
đứng cho vững vàng, đáng giá nơi thế này,
kiếp sống ta không có một kiểu vở nào, không
một nền Tôn Giáo nào có tôn chỉ đặc biệt
về Xã Hội nhơn quần chúng ta hơn là Nho Giáo.
Ấy
vậy hôm kỳ Vía của Ngài, Bần Đạo đã có
nói Ngài tượng trưng Tinh, tức nhiên Ngài là
Đại Diện của Nho Tông Chuyển Thế đó vậy.
Bần Đạo đã có thuyết minh nếu trong cử chỉ
hành tàng kiếp sống của chúng ta, chúng ta có
thể học đòi theo cả hành tàng của Ngài, lấy
Xuân Thu làm chuẩn thằng lập chí. Tưởng nếu
cả toàn thiên hạ lập chí cho xã hội, phục
vụ cho xã hội dường này, Bần-Đạo tưởng
Nhơn Loại không hạnh phúc nào cho bằng.
Bây
giờ nói Đức lý, tức nhiên Anh Cả Thiêng Liêng
chúng ra giờ phút này, Đấng Thiêng Liêng đến
cầm quyền Giáo Tông trong Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa,
Ngài Đại Diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo
chúng ta đã thấy gì ? Thấy kiểu vở Tiên Giáo
trong tinh thần chữ Đạo. Phải chăng Đức Ngài
chỉ cho chúng ta thấy chữ Đạo là gì ? Đạo
là cái sống. Cái sống mà thiên hạ đã biết,
nhưng mà không hiểu hình trạng và tướng diện
của nó, bí mật của nó thiên hạ nơi thế
gian này chưa biết, Bần Đạo lấy một tỷ
thí như Nam, Nữ phối hiệp nhau, sao lại sanh
ra đứa bé, cái bí mật đó là gì ? Trứng gà,
nếu có trống khi ấp lại nở ra con, cái sống
đó là gì ? Đức Lão Tử gọi đó là Đạo.
Đạo ấy trong cái sống tối thiểu, có cái
sống tối đại của nó. Cũng như cái sống
bí mật của ta, đương giờ phút này, đương
nhiên sống với bạn đồng sinh của ta đây.
Ngoài ra cái sống nữa, cái sống bí ẩn, sống
Thiêng Liêng mà Đức Chí Tôn gọi là sống,
hằng sống của Ngài ban cho ta đó vậy, đấy
là Đạo.
Ấy
vậy, Đức Lão Tử đã dạy cho trí khôn ngoan,
của loài người mở rộng cái bí ẩn sống
với vạn linh, trong sự sống của Càn Khôn Vũ
Trụ. Các người bảo trọng cái sống của các
người, thì các người phải cung kỉnh thờ
phụng cái sống của vạn linh. Ấy là Ngài dạy
cho ta tôn sùng cái sống, tức nhiên trí não
của mình mở mang hiểu sống đã là Đạo mà
người thay quyền cho Đạo Lão tức nhiên Đức
Lão Tử đặng cầm giềng mối giữ gìn cái
mực thước sống của chúng ta cho còn tồn tại
đó vậy.
Ấy
vậy Đức Lý tượng trưng cho cả Trí Não Tinh
Thần chúng ta, bảo vệ Đạo tức nhiên bảo
vệ sống còn của Nhơn Loại Vạn Linh. Thuộc
về Khí.
Về
phần Đức Quan Thế Aâm Bồ Tát, Ngài tượng
trưng cho Linh Hồn chúng ta, phải chăng chúng
ta sanh ở thế gian này đương mang nặng thi hài
xác thịt này, cả toàn Nhơn Loại trên mặt
Địa Cầu có mặt nơi đây, phải chăng do quả
kiếp của họ, Bần Đạo không nói trọn hết
thảy bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh
sứ của Đức Chí Tôn đến giáo Đạo dìu dắt
Vạn Linh. Hại thay ! Chín mươi hai ức Nguyên
Nhân cũng vì sức mạng tối yếu tối trọng
ấy thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn,
lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị
sa đoạ. Thành ra một ông Thầy đến giáo Đạo
lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò
nữa.
Chín
mươi hai ức Nguyên Nhân, giờ phút này có một
điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong
vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật,
mà ta ngó thấy có thứ người không phải người,
họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ
tàn ác dối trá gian ngược, làm cho Các Đấng
Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế
gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm
người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người
không ? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị đại
hội này, hay tiểu hội vật loại thì bất công,
chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm,
nếu để trong đại hội, trong nhân phẩm thì
không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Đạo Giáo
để phẩm Maya, tức nhiên Quỉ Vị, phẩm vị
riêng biệt là "Quỉ Vị".
Ấy
vậy Đức Quan Aâm Bồ Tát là một Đấng thường
du Nam Hải, các cửa Phong Đô nơi Cửu Tuyền
Đài kia, là con đường của Ngài đi lên đi
xuống không biết mấy lần, không biết Thể
Kỷ nào dứt, để Tận Độ cho Thiên Hạ, Ngài
tượng trưng cho một cơ thế Thiêng Liêng giải
cả Oan Nghiệt tội tình, giải cả Nhơn quả
cho Chúng Sanh đạt vị, tức nhiên đạt Cơ Giải
Thoát. Hỏi có người nào tượng trưng cho Đấng
đó hơn Quan Thế Aâm Bồ tát không ? Ba cái gường
ba kiểu vở kia đặc biệt chúng ta không thể
làm gì được.
Kỳ
tới Bần Đạo sẽ giảng liên quan mật thiết
Tôn Chỉ về Tam Giáo Ngũ Chi.
Đền
Thánh, ngày mùng 9 tháng 7 năm Nhâm thìn (1952)
22.- HÀNH PHÉP XÁCCHO THỪA SỬ PHẠM NGỌC TRẤN.
Hôm
nay là ngày qui liễu của Vị Thừa Sử Phạm
Ngọc Trấn, Bần Đạo để lời phân ưu cùng
Hiệp Thiên Đài và Quân Đội, vì các người
đã mất một người bạn đồng khổ.
Từ
khi mở Đạo cái kiếp sanh của Thừa Sử Trấn
không biết thú vị mùi Đời là gì, trọn hiến
thân cho Đạo, hai mươi mấy năm gian lao khổ
nhọc, không có một điều chi chúng ta đã chịu,
mà Thừa Sử Trấn không chịu. Gánh nặng của
Đạo cũng đã chia sớt, gánh nặng của Đời
cũng dám hy sinh, vì nước, vì nhà, vì Chủng
Tộc; hiến thân cho Đạo trọn đời đó vậy.
Hỏi ? Từ thử đến giờ Thừa Sử Trấn có
đặng vui hưởng hay chăng ? Bần Đạo nói không,
không có gì hết.
Tuy
vẫn biết con người có mặt tại thế gian này
thì phải sống, hễ có sống tức nhiên có chết,
bởi không ra ngoài tứ khổ, dù chết thế nào
cũng chết; nhỏ cũng, lớn cũng chết, Luật
Thiên Nhiên ấy không từ bỏ ai. Đã mang mãnh
thi hài này, dầu chết thế nào cũng là chết.
Duy
có một điều may mắn cho Thừa Sử Trấn hơn
hết là biết mình đã mang mãnh thi hài xác tục
sống ở mặt thế gian này, mà không có vui sống,
nếu có cái sứ mạng Thiêng Liêng hiệp công
tạo Đạo, thì Thừa Sử Trấn là người đã
chờ Đức Chí Tôn đến, hiệp cùng Đức Chí
Tôn để tạo nền Chơn Giáo của Ngài.
Nay
có kẻ đã giết Trấn, thảng như Trấn còn
oan nghiệt quả căn tiền kiếp, thì kẻ đã
giết Trấn tức nhiên kẻ đó sẽ giải nợ
cho Trấn và chịu quả kiếp của Trấn, từ
khi có linh hồn tới giờ, bởi nó đến nó trả
mà kẻ ấy không cho nó trả, tức nhiên lãnh
cho nó.
Tội
nghiệp thay !... Đi năm non bảy biển, vào sanh
ra tử mà không chết, về ở trong nhà máu thịt
mà chết, thảm thiết có bao nhiêu đó mà thôi.
Dưới
bóng cờ Cứu Khổ, dưới bóng cờ Nhơn Nghĩa,
hai bóng ấy tưởng đâu gởi mảnh thân phàm,
có thể bảo vệ được. Nhưng ngày nay đã ra
nông nỗi, chúng ta buồn duy có bao nhiêu điều
đó mà thôi.
Kẻ
giết rồi tưởng đâu kiếp sống bền bỉ có
hạnh phúc mà hưởng cho tới tận thế, hưởng
cho đặng sống nơi mặt Địa Cầu này hoài,
chớ không tưởng có cái chết, nhưng sự thật
thì chết cũng chết. Thử hỏi trong lương tâm
của họ vui hưởng được cái gì ? Nếu kẻ
thù địch giết Trấn thì không nói làm chi.
Nếu trong Cửa Đạo, có kẻ phản Đạo, phản
Thầy, phản Bạn, đưa mủi súng bắn Trấn ,
họ không nghĩ rằng : "Họ bắn chết Đạo
của họ" họ không nghĩ rằng họ đã bắn
chết thân danh của họ. Duy tiếc có bao nhiêu
đó mà thôi. Còn ngoài ra thì con cái Đức Chí
Tôn nên mừng giùm cho Trấn, ấy là lời của
Bần Đạo nói quả quyết như thế.
Đền
Thánh, đêm 14 tháng 7 năm Nhâm Thìn (1952)
23.- LỄ TRUNG NGUƠN CẦU NGUYỆN CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN
Đêm
Nay đêm Rằm Trung Nguơn, ấy là Kỷ Niệm và
Cầu Nguyện cho Các Đẳng Linh Hồn, Bần Đạo
có dịp thuyết rằng, không có cô hồn, chỉ
có các Đẳng Linh Hồn mà thôi, chứ Cô Hồn
không có nữa.
Bần
Đạo đã thuyết minh Tam Nguơn, trái Địa Cầu
này, Nguơn Niên tức là Nguơn nữa năm, Nguơn
Kỷ là Nguơn vào 12 tuổi, Nguơn Thế là Nguơn
giữa trăm tuổi. Nếu nói ra thì phải 120 tuổi,
Nguơn Giáo là Nguơn Chuyển cũng giải rồi, đêm
nay Bần Đạo xin con cái của Đức Chí Tôn làm
toán pháp với Bần Đạo.
Vả
chăng Đức Chí Tôn đến trong thời buổi này
là mở Thượng Nguơn Tứ Chuyển, ta chưa biết
nó sẽ ăn sâu vào trong như thế nào, ta chỉ
biết nó vừa qua khỏi Hạ Nguơn Tam Chuyển,
ta lấy Tam Chuyển làm căn bản mà thôi, nếu
ta tính 3 chuyển ấy, là 3 lần 61 triệu năm,
tức nhiên 183 triệu năm, Trái Đất này Phục
Sinh lại lần thứ nhì được 183 triệu năm.
Bây
giờ ta nói luôn mặt Địa Cầu này, giờ phút
này Nhơn Loại tức nhiên các Đẳng Linh Hồn
đã đến ở mặt thế gian này là 2.700 triệu,
tức nhiên là 2.700 triệu Chơn Hồn đã có mặt
tại thế gian này.
Bây
giờ ta phỏng định Trái Đất này, có khi chứa
nhiều Nhơn Loại, mà cũng có khi chứa ít, nhứt
là buổi con số Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu
này không có tổng số, lẽ dĩ nhiên Nhơn Loại
tiến triển đến chừng nào, Nhơn Loại tiến
triển đến mức nào thì Trái Địa Cầu này
con người vẫn còn tăng độ lên mãi, cái khuôn
Luật Thiên Nhiên kia muốn tăng độ Nhơn Loại
lên đa số làm cho Trái Đất này phải tới
giờ tiêu diệt, nó có hạn định kiếp số
của nó, mà muốn làm cho tiêu diệt, nó phải
làm cho giảm sức sanh sức sống của nó, trái
Địa Cầu này, nếu nói giờ phút này 2.700 triệu
Nhơn Loại coi đó muốn mệt mỏi rồi đa, Nhơn
Loại sẽ ăn cả sự sống của nó, ăn mãi cho
đến khi tới thời hạn kiếp số của nó, khuôn
Luật Thiên Nhiên vẫn vậy.
Bây
giờ ta lấy tỷ số trong 2.700 triệu ta chỉ
lấy chiết bán thôi, không cần chiết bán lấy
khi ít, khi nhiều, lấy số chỉ định, nó có
500 triệu số nhỏ hơn hết bây giờ lấy số
500 triệu nhơn cho 183 triệu tức nhiên 91.500
triệu Thể Kỷ, thử hỏi số Nhơn Loại trên
mặt Địa Cầu này từ 3 Chuyển đến giờ là
bao nhiêu họ lộn, họ đến, họ chết, họ
sống, chúng ta thấy mặt Địa Cầu này, duy
có 10 triệu thước vòng quanh mà nơi mặt đất
này chứa đựng giỏi lắm, Tôi tưởng đựng
cho đều là 10.000 triệu là quá chừng, nhưng
số đó hằng hà sa số triệu. Nơi khoảng Đất
chúng ta đứng đây một chút xíu Đất là có
một Chơn Hồn đứng đó, nhưng của chúng ta
không thể thấy đặng, chúng ta lấy một ngón
tay chỉ xuống Đất là đã có một Chơn Hồn
đứng đó rồi.
Bởi
cớ cho nên Bần Đạo đã nói không một hành
tàng chi chúng ta làm mà không có chứng cớ,
những chứng cớ không di dịch gì hết, bởi
họ có đó, có mãi đó thôi, thử chúng ta nghĩ
một anh khách trần nào ham mê quan tước thì
đến 100 kiếp, Tôi không nói chúng ta phải ngàn
ngàn, muôn muôn kiếp, từ vật chất đoạt đến
Nhơn Loại, không luận điều ấy, chỉ luận
các vị nguyên nhân đã đến tại thế gian này,
bị giam hãm trăm kiếp, trăm kiếp ấy, chúng
tạo biết bao nhiêu cốt nhục, biết bao nhiêu
tình ái, biết bao nhiêu gia tộc, biết bao nhiêu
thân bằng quyến thuộc, chúng ta giờ phút này,
luận đấy trăm kiếp của những kẻ đã có
hiện diện nhờ lòng yêu ái mà được an ủi,
nhờ lòng Đạo Đức được yên vui trong phẩm
Nhơn Hồn đã tái kiếp để lập vị của mình.
Có
quyết đoán như vậy mới được, nhứt là thời
buổi này Đức Chí Tôn đến ở cùng con cái
của Ngài. Ôi ! Biết bao nhiêu Chơn Linh tình
nguyện, biết bao nhiêu Chơn Linh đương đón
đường tìm Ổng, tội nghiệp thay chi Đấng
Chơn Hồn từ trước muốn gặp như ta, gặp
Đức Chí Tôn mà không thể gặp, họ còn ở
nơi cõi vô hình kia, chúng ta thử nghĩ họ sẽ
ham muốn số phận họ như ta biết bao nhiêu
mà nói.
Luật
Thiên Nhiên kia buộc mỗi cá nhân ta đã đến
nơi mặt Địa Cầu này có định sống không
phải ai đến cũng đặng, quả căn kiếp
số đời đời có mực thước, như chúng ta
đã ngó thấy mặt Địa Cầu này quá nhiều
nhơn số, quyền Thiêng Liêng kia định cho nó
có mực thước có khuôn luật đặng định cho
nó ở hay là đi, bởi vì thân phàm của chúng
ta bị quả kiếp nơi Trái Địa Cầu này, là
Trái Địa Cầu tồi tệ khổ não.
Thật
ra chúng ta đã thí nghiệm trong một kiếp sống
trăm năm, chúng ta đặng 100 tuổi, thì khối
thảm khổ đau đớn càng nhiều không có thời
giờ thương yêu nhau, đâu có thì giờ thù hận.
Chúng
ta đã ngó thấy xung quanh của chúng ta, cả toàn
thể Nhơn Loại có tới 2.700 triệu, chúng ta
liếc mắt ngó lại nhiều kẻ còn mang thân cô
quạnh ngồi giữa chợ đau khổ không ai hay,
không cơm ăn, tật nguyền không ai ngó đến,
không ai giúp sức cho, hiu quạnh đường đời,
nhiều quả mạng căn kiếp số của hạng chúng
ta, chúng ta không vi chủ nó đặng.
Biết
đâu những tinh thần tàn ác tội tình, rồi
ngày kia phải mang nghiệp chướng, chúng ta sẽ
chà xát họ như con vật, chừng đó mới biết
ăn năn sám hối thì đã rồi.
Giờ
phút này nếu không bảo vệ, binh vực cái sống
của ta và bạn chúng ta thì tốt hơn đừng thèm
sống.
Đền
Thánh, ngày 14 tháng 8 năm Nhâm Thìn (1952)
24.- DIÊU TRÌ KIM MẪU TỨC LÀ ĐẠI TỪ MẪU
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong
Chư
Đạo Hữu Nam, Nữ Lưỡng Phái.
Đêm
mai đây là đêm thiết Lễ Hội Yên Diêu Trì.
Bần Đạo đã minh thuyết nghĩa lý cuộc lễ.
Theo Cựu Luật hễ khi nào chơn thần của chúng
ta, tức nhiên lời ngoài đời gọi là cái "Vía"
của chúng ta đây, mà được trở về cùng Mẹ
Sanh của chúng ta, tức nhiên Đức Diêu Trì Kim
Mẫu, thì ta đã đạt Pháp và đã thoát kiếp
nghĩa là ta đã đoạt Đạo.
Từ
trước biết bao nhiêu Đấng đã tìm Đạo khó
nhọc gay go không biết mấy trăm kiếp, đã chịu
khổ hạnh, nâu sòng đã đạt Pháp, tức nhiên
đạt Đạo, thời buổi đó loài người đi tìm
Đạo. Ngộ nghỉnh thay thời buổi này Đức
Chí Tôn lại đến mở Đạo, lại để cho Đạo
đến tìm ta, khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo
rồi thì Ngài đã giao cả Thánh Thể của Ngài
cho Đức Phật Mẫu, nghĩa là : Đại Từ Phụ
khi đã đến nhìn con cái của Ngài, rồi Ngài
liền giao cả con cái của Ngài lại cho Đức
Đại Từ Mẫu của chúng ta đó vậy.
Hạnh
phúc thay cho Nhơn Sanh đã có toàn vẹn Cha Mẹ,
nương dưới bóng từ bi của Hai Đấng ấy.
Hỏi thử chúng ta còn hạnh phúc chi hơn nữa
hay chăng ?.
Ở
dưới mặt thế gian này nếu chúng ta đạt được
cái đặc ân Thiêng Liêng ấy, hưởng lòng yêu
ái vô tận của Thân Sinh ta là Cha Mẹ, thì thiên
hạ gọi là đã quá hạnh phúc rồi.
Còn
hôm nay phần Hồn, phần Thiêng Liêng của chúng
ta đã rủi sanh nơi cõi thảm khổ này mà đặng
Cha Mẹ đến cùng ta, lại cùng chia sớt khổ
não với ta, hỏi thử cái hạnh phúc ấy dường
nào.
Thưa
các bạn đồng sanh cùng Bần Đạo, nghĩa lý
Đức Chí Tôn và Phật Mẫu đến, chắc cả
thảy các bạn cũng đã hiểu rồi, nhưng đến
đặng chi ? Đến đặng nhắc ta, dầu cho cảnh
khổ não các con đã mang thi hài xác tục này
chịu Tứ Khổ, tức nhiên Tứ Diệu Đề các
con nên nhớ rằng, các anh em đồng sanh cùng
các con cũng chịu trong Tứ Khổ ấy. Nếu các
con biết phận sự của mình. Phận sự Thiêng
Liêng yếu trọng là các con nhìn nhận cả toàn
Nhơn Loại, tức nhiên cả chúng sanh là anh em
đồng khổ của các con đó vậy. Ngày giờ nào
các con biết Đạo nương dưới lẽ ấy, cái
lẽ trọng yếu ấy, phận các con là đặc phận
ấy làm mầm thương yêu vô hạn, hậu một
ngày kia các con trở về ngôi vị không thẹn
nhìn nhau trong một kiếp sanh dù có sống trăm
tuổi chẳng qua là một giấc chiêm bao mà thôi.
Một giấc huỳnh lương thảm khổ này không
vui sướng gì, chúng ta biết cả thảy đồng
khổ cả.
Nếu
chúng ta biết chun xuống "Cái
mộ khổ não sâu sắc đau đơn" đặng
lấy cái khối ngọc vô đối của Chí Tôn dành
để cho chúng ta, là cái khối từ Bi Bác Ái
vô tận của Ngài đã để trong tâm hồn ta đồng
sống với nhau trong một khối ấy, thì kiếp
sống của chúng ta nó hạnh phúc là dường nào.
Nhưng
trái ngược lại, quả kiếp của kiếp sanh của
chúng ta hiện nay sẽ trở nên trường tranh đấu
tàn sát lẫn nhau, nếu Bần Đạo nói quả quyết
kiếp sanh vô vị ấy, nó có thể nào lôi chúng
ta sẽ tới tận đồ chi khổ hay là xuống cửa
Địa Ngục Luân Hồi đời đời kiếp kiếp,
thử so sánh hai lẽ ấy rồi ta lựa chọn lẽ
nào ? Lấy trí khôn ngoan mà suy đoán tưởng
cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy
khổ não ấy, và đã suy đoán nhiều rồi. Bần
Đạo chỉ mơ ước Đức Mẹ và Đại Từ Phụ
ban hồng ân cho cả thảy con cái của Ngài khôn
ngoan hơn nữa, đặng định phận đối với
bạn đồng sanh của mình, tạo lập hạnh phúc
của mình đặng hay chăng, là hưởng được
lòng Yêu ái của Hai Đấng ấy, rồi lấy lòng
Yêu ái ấy rải khắp cho toàn Nhơn Loại được
hưởng. Ấy là bổn phận của chúng ta khi Chí
Tôn đã nhọc nhằn đến giao phó cho chúng ta
đó vậy.
Đền
Thánh, ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Thìn (1952)
(Lế
Hội-yến Diêu-Trì cung)
25.- ĐỨC HỘ-PHÁP ĐỀ CẬP VỚI
QUAN-KHÁCH VỀ BAÍO-TROÜNG PHONG-HOẠ CÄØ-TRUYÃƯN
Thưa
cùng Chư Quan Viên Chức Sắc,
Chư
Sứ Thần Đại Diện các nước bạn nơi đây.
Bần
Đạo xin phép mấy Ngài cho Bần Đạo để đôi
lời với vị Thủ Tướng của Chánh phủ Việt
Nam, tức nhiên là vị Thủ Tướng của Bần
Đạo đó vậy.
Thưa
cùng Thủ Tưởng,
Chúng
ta đã chắc hiểu, lập một chánh thể Quốc
Gia cốt yếu do nơi căn bản bá tánh qui nhứt
gia, tức nhiên trăm họ làm một nhà. Nếu từ
thử từ ngày định Quốc, chúng ta đã có Chúa,
có Vua thì những Đấng ấy chẳng qua cũng một
chủng tộc trong Đại Gia Đình Việt Nam của
chúng ta đõ vậy chẳng có chi khác.
Thưa
Thủ Tướng,
Lấy
cái nhỏ mà luận cái lớn, một gia đình nào
cũng có vài phần tử của gia đình ấy, tâm
trí, tinh thần không xứng đáng. Nếu rủi một
gia đình nào đó đôi ba phần tử như thế thì
tội nghiệp thay. Gia đình ấy chỉ có biết
mình là vô phước, chịu thống khổ để tâm
than thầm cho các con cái của mình mà thôi. Chúng
ta chưa biết tâm não của Cha hay Mẹ của gia
đình đó thế nào, hoặc đành phế bỏ cái
lòng thương yêu vô tận của mình, đặng dùng
quyền lực quá ư nghiêm khắc, hoặc là tàn
sát các phần tử ấy. Hay chỉ biết rằng gia
đình mình chịu một hoàn cảnh vô phước đấy
mà thôi.
Lấy
cái nhỏ định cái lớn, đương nhiên bây giờ
xã hội của chúng ta, tội nghiệp thay một Quốc
Gia đã chịu một mầm chia rẽ. Quốc Dân không
có tưởng đến lòng Ái Quốc Cổ Truyền của
chúng ta đã bị tiêu diệt, thì có lạ chi chúng
ta ngó thấy một phần tử trong cái đại gia
đình của chúng, họ quên hẳn Đồng Bào cốt
nhục của họ, trở nên một kẻ thù địch,
thù địch một cách rất lợi hại, thù địch
có thể xô đẩy tương lai Chủng Tộc Tổ Quốc
của chúng ta đến cảnh diệt vong mà chớ.
Thưa
Thủ Tướng,
Ngài
là vị Thủ Tướng của nước Việt Nam vâng
mạng lịnh tối cao của Chúa chúng ta là Đức
Quốc Trưởng Bảo Đại, thay thế vì Ngài là
Cha Mẹ của Dân. Tôi tưởng cái thắc mắc của
Ngài đương buổi này, không ai biết gì hơn
là người đã bảo trọng Phong Hoá Cổ Truyền
của chúng ta. Tổ Phụ ta để lại từ ngàn
xưa, cái thắc mắc ấy Ngài không nỡ đang tay
tàn sát những kẻ bất hiếu vô nghĩa ấy mà
thôi, không phải cái năng lực của chúng ta
thiếu, không thể giải quyết được vận mạng
tương lai của chúng ta. Nếu có thắc mắc chăng
là cũng vì lòng tự ái ấy, nhưng Bần Đạo
xin kiếu lỗi cùng Ngài, để một lời tâm huyết
này một Quốc Dân thiểu số từ trước đã
chịu cái nạn áp bức của một đại cường
quốc, tức nhiên lệ thuộc dưới Hoàng Đồ
của Trung Hoa mà dã bảo vệ được nền độc
lập và bảo vệ được cả chủng tộc của
mình còn tồn tại đến ngày hôm nay, tức nhiên
sắc dân ấy có lẽ cũng đủ khôn ngoan, đủ
quyết đoán định tương lai vận mạng của
mình. Sự giải quyết đó là mong mỏi tinh thần
ái quốc nồng nàn của họ.
Ngài
mong mỏi sự khôn ngoan từ
ngàn xưa để lại, trong óc não của họ
và họ cũng sẽ thấy đâu là Chánh đâu là
Tà, đâu là thiệt, đâu là hư, chừng đó họ
sẽ ở sau lưng Ngài giờ phút đó Ngài sẽ làm
đặng cái sứ mạng Thiêng Liêng của Ngài, đặng
đoạt đến cái vận mạng tương lai của toàn
thể Đồng Bào đó vậy.
Cửu
Long Đài, chiều ngày 15 tháng 8 năm Nhâm Thìn
(1952)
(Lễ Hội Hiệp Cùng Đức Diêu Trì Kim Mẫu)
26.- ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG VỀ
“XƯA KIA CON NGƯÒI ĐI TÌM ĐẠOHÔM NAY TRÁI LẠI ĐẠO ĐẾN TÌM NGƯỜI”
Hôm
nay là ngày chúng ta hội hiệp cùng Đức Diêu
Trì Kim Mẫu, Bần Đạo nhớ lại lúc ban sơ
Đức Chí Tôn mới đến mở đạo, Ngài làm
một Bí Pháp từ thử đến giờ chưa ai tưởng
đến. Ngài ra lịnh lập một cái tiệc rất
trọng hậu, chay chớ không phải mặn như ngoài
đời, lấy trong số13 người chúng ta kể Cửu
Vị Nữ Phật và Đức Phật Mẫu, với 3 Người
sống, tức nhiên 3 Người Hữu Hình 10 Người
Vô Hình dự tiệc ấy. Ba Người Hữu Hình là
: Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Thượng Sanh và
Bần Đạo, tưởng không có cái ngộ nghĩnh nào
hơn là ngồi ăn uống với những Vị khuất
mặt buổi nọ Bần Đạo chưa có Đức Tin, thấy
một cái đó cho là việc nghịch nhứt, nhưng
mà khi vào ngồi tiệc rồi, không biết cái tinh
thần nó thay đổi thế nào, chẳng khác gì như
chúng ta dự một cái tiệc trọng hậu có mặt
đủ các bạn ngồi chung quanh chúng ta đó vậy.
Đức Chí Tôn thi hành Bí Pháp ấy, buổi nọ
chúng tôi không hiểu gì hết, Tôi cũng tìm tòi
kiếm nghĩa lý, có lẽ những người đoạt được
Cơ Siêu Thoát tức nhiên tầm được cái Huyền
Bí giải thoát cho mình, thì có đặc ân Thiêng
Liêng cho Bàn Đào Hội yến, tức nhiên là Hội
Yến Diêu Trì.
Cái
nghĩa lý sâu xa ấy chúng ta thử để dấu hỏi
tại sao Đức Chí Tôn đã đến bảo chúng ta
Hội Yên Diêu Trì. Ngài muốn gì đó. Muốn cho
toàn cả con cái của Ngài, chớ không phải với
ba Người đó mà thôi.
Đoạt
cơ siêu thoát, tức nhiên ta nói thường ngữ
của chúng ta là muốn cho toàn thể con cái của
Ngài đoạt đặng Cơ siêu thoát đó vậy. Vì
cơ cho nên hôm rồi Bần Đạo có nói một câu
rất chánh đáng : Xưa kia con người đi tìm Đạo,
còn hôm nay trái lại Đạo đến tìm người.
Ôi ! Nếu ta tưởng tượng cái ân hậu vô biên
của Đức Chí Tôn đã thi thố, thì chúng ta
hạnh phúc không thể gì có ngôn ngữ nào mà
tả cho đặng.
Thật
ta hôm nay chúng hội hiệp cùng nhau đây, nó
sẽ trở thành một tương lai, cũng như bên Thánh
Giáo Gia Tô, tức nhiên là Công Giáo họ có phương
Thông Công cùng Đức Chí Tôn đó vậy.
Hạnh
phúc thay cho những người đặng Hội Yến Diêu
Trì hôm nay tức nhiên đặng hồng phúc hội
hiệp cùng Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta lẽ
dĩ nhiên được mang sứ mạng Thiêng Liêng nơi
mình, cả toàn con cái của Đức Chí Tôn Nam
cũng thế, Nữ cũng thế, kẻ Đông người Tây,
kẻ Nam người Bắc đem cả Cơ Bí Mật Thiêng
Liêng của Đức Chí Tôn là lòng Yêu ái của
Ngài, mà rải khắp cho toàn thể con cái của
Ngài đều hưởng.
Mỗi
một năm chúng ta được hưởng cái hạnh phúc
hội hiệp cùng nhau, chính mình Bần Đạo mỗi
khi Hội Yến Diêu Trì được sum hiệp cùng mấy
em Nam, Nữ đông đảo chừng nào, thì Bần Đạo
càng thêm vui mừng hân hạnh chừng ấy.
Bần
Đạo có nhớ một tích xưa, có một Bà Mẹ
đó nhiều con, rồi họ xúm lại với nhau thay
phiên nhau đặng nuôi Mẹ. Hễ khi anh cả nuôi
rồi thì cần được bao nhiêu, tới em thứ nuôi,
rồi cân phải hơn ra hay như số đấy mới đặng.
Nhưng trong đám con ấy rủi thay người nghèo
mà là út, kẻ nghèo ấy lại được Bà Mẹ
yêu ái bệnh vực hơn, phần nghèo khó có phương
gì nuôi Mẹ cho đầy đủ đặng, nên hể khi
trao đổi đến nơi tay người út ấy, thì bả
ốm o gây mòn. Ăn không đủ thế nào cũng ốm,
bây giờ đến phiên ngày cân, đây thì Bà phải
làm sao, Bà lận lưng thêm chì cho nặng để
cân, không thì tội nghiệp cho đứa nhỏ nghèo.
Cho nên lời tục họ gọi là "Bà Mẹ thương
con phải bù chì" là lẽ ấy. Bà Mẹ Thiêng
Liêng của chúng ta cũng vậy. Tôi tưởng nơi
cõi Thiêng Liêng Hằng sống kia, không ai mà bảo
vệ binh vực cả Linh Hồn của chúng ta hơn Bà
Mẹ Thiêng Liêng.
Mỗi
phen chúng ta hội hiệp
cùng Người mỗi năm một lần, thử khí
nghiệm coi, cả con cái của Ngài khi về thì
sẽ đặng an ủi và có cái vui hứng làm sao
đâu, không biết mấy em Nam, Nữ cái cái cảnh
tượng đó hay chăng, chớ Bần Đạo mỗi phen
được Hội Yến Diêu Trì, làm như Bần Đạo
có uống một chén thuốc bổ. Tinh thần Bần
Đạo nó vui hứng, mạnh mẽ tráng kiện làm
sao đâu, có phải là cái huyền diệu ấy duy
để cả con cái, Chức Sắc Thiên Phong, những
người lãnh sứ mạng cao trọng trong Đạo hay
cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn đều
hưởng được. Bần Đạo dám quả quyết nơi
Đền Thờ của Đại Từ Mẫu chúng ta, Bà không
kể con cái sang trọng cao sang của con Bà đâu,
trái ngược lại Bà lại Thương Yêu binh vực
những đứa con nào nó thiệt thà hèn yếu hơn
hết.
Ấy
vậy Qua nói rằng : Trong cả mấy em đây, nếu
có đứa em nào thiếu thốn cả tinh thần và
vật chất, thiệt thòi nghèo khổ, tật nguyền,
Qua dám chắc Bà Mẹ Thiêng Liêng của chúng ta
sẽ vui ở với những kẻ ấy lắm vậy. Qua
chẳng phải nói để an ủi mấy em, mà sự thật
quả quyết vậy, Qua chỉ cho mấy em thấy một
cái Bí Pháp, là khi nào mấy em quá thống khổ,
quá đau đơn tâm hồn, mấy em đừng vội sầu
thảm, các em quì xuống giữa không trung, các
em nguyện với Bà Mẹ Thiêng Liêng ấy một lời
cầu nguyện, Bần Đạo quả quyết rằng : Bà
chẳng hề khi nào từ chối cùng mấy em. Qua
đã thử nghiệm rồi, cả toàn con cái của Đức
Phật Mẫu thí nghiệm như Qua thử coi.
Trong
cảnh đồ lưu nơi Hải Ngoại cái chết đưa
bên lưng, Qua thấy cả hiện tượng Bà ở bên
ta đó vậy. Cái hiển hách Anh Linh của Bà, Qua
đã quả quyết rằng : Từ thử đến giờ chưa
có trong Cửa Đạo nào hưởng được. Mấy em
thí nghiệm coi rồi để tâm cả thảy, nếu
muốn cho Bà thương yêu mình có cái Bí pháp
hay ho hơn hết, mấy em thương yêu những kẻ
tật nguyền, đau khổ, ngu hèn, khốn mạt, mấy
em thử nghiệm lấy cái Huyền Linh của Bà. Qua
cầu chúc Thiêng Liêng của Bà chan rưới bủa
khắp toàn thể con cái của Đức Chí Tôn Nam
cũng vậy, Nữ cũng vậy, nhứt là mấy đứa
thơ sinh, mấy đứa trẻ nhỏ côi cút.
Đền
Thánh, đêm 17 tháng 8 năm Nhâm Thìn (1952)
(Vía
Đức Lý Giáo Tông)
27.- ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG LÀ ANH CẢ THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚNG
TA .
Đêm
nay là Vía Đức Lý Giáo Tông, tức là Anh Cả
Thiêng Liêng của chúng ta đó vậy.
Đã
22 năm dài đăng đẳng, nhưng Bần Đạo ngó
lại chẳng khác nào như giấc chiêm bao. Khi ban
sơ mới Khai Đạo Đức Chí Tôn đến mở Đạo,
đem lòng thương yêu vô tận của Ngài, Ngài
đến chung sống cùng con cái của Ngài. Theo luân
lý thường tình của ta, một ông Cha cực nhọc
đi đến tìm con, bao giờ lòng thương yêu vô
tận ấy cũng trên hết mọi tâm tình. Chính
mình không kể đứa con nào nên, đứa nào hư,
đứa nào hèn, đứa nào sang, không kể gì cái
đó hết thảy. Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn
mở Đạo, Ngài ôm cả con cái của Ngài vào
lòng, theo thể Bần Đạo ngó thấy hiển nhiên
rằng : Đức Chí Tôn không kể Nguyên Nhân, Hoá
Nhân, Quỉ Nhân gì hết. Bằng cớ khi nọ có
một người đàn bà, Bần Đạo không nên nói
tên làm chi, đội sớ quì mãi đến bãi đàn,
Tôi không biết xin điều gì, quì đến bãi đàn,
đội sớ quì như vậy từ đàn này đến đàn
khác, theo đuổi giỏi giắn siêng năn lắm. Ngày
nọ đến cái đàn chót Đức Chí Tôn kêu tên
người đó, rồi hỏi muốn lung lắm sao con ?
Người kia thầm vái cái gì không biết, Đức
Chí Tôn lại nói : Thôi phong con chức Giáo Hữu
đó. Thành thử ta ngó thấy rằng : Giá trị
của chức Giáo Hữu không có gì hết, bất kỳ
ai cũng cầu được đem vô cái thể của Ổng
với những phần tử vô giá trị, làm cho Đức
Lý buổi nọ cầm quyền Thiêng Liêng của Đạo,
Ngài khổ não không biết sao luận được. Buổi
nọ Bần Đạo không hiểu gì hết. Đức Chí
Tôn đến ban sơ khi mở Đạo, Đại Từ Phụ
đòi truyền Bí Pháp cho Bần Đạo đi thôi, còn
về Thể Pháp thì Hội Thánh không biết gì hết.
Nội Bí Pháp không, Đại Từ Phụ đã Truyền
Giáo, Ngài mở Đạo tại Từ Lâm Tự, đến
ngày Khai Đàn Bần Đạo cười chết, cười
sống, cười lộn mật, cười quên đầu quên
đuôi hết ráo. Bởi cớ cho nên quỉ lộng cho
đến chừng bị rầy oan chịu, bơ vơ có biết
gì đây, về Thể Pháp Bần Đạo bị chê, Đức
Lý phiền biết bao nhiêu, Bần Đạo không dám
mở miệng nói gì hết. Lại một nỗi Phật
Mẫu và Đại Từ Phụ đem quyền Chí Tôn, Bát
Quái Đài duy có một Oâng mà thôi, còn quyền
Chí Tôn Thánh Thể của hữu hình, Ông hỏi lấy
ai hiệp một mới đương đầu với Ổng, tức
nhiên Hộ Pháp, Giáo Tông hiệp một cùng nhau,
hai quyền ấy mới nắm quyền Chí Tôn của Ngài.
Ngẩm ra buổi nọ Đức Lý nói với Bần Đạo,
theo Ngài phải hay theo Đức Chí Tôn phải. Theo
Đại Từ Phụ chắc hẳn, Bần Đạo nói thật
chẳng hề Bần Đạo nghe theo Đức Lý được.
Thánh Thể của Đức Chí Tôn hồi buổi đó
không giá trị, không trật tự, họ chia phe phân
Phái, họ còn phe đảng dữ lắm, mạnh đặng
yếu thua, thế lực dữ lắm không có cái gì
thiếu, làm cho Thánh Thể Đức Chí Tôn buổi
nọ dơ bẩn làm sao, không thể tưởng tượng
được.
Đức
Giáo Lý Tông Hội Chư Thánh, nhưng đương đầu
với Đức Chí Tôn chẳng dám vì lẻ đó họ
chia phe phân phái lập Đảng. Ngài thấy tình
cảnh như vậy Ngài mới biểu Ngài mởi biểu
Bần Đạo xuống tại Thủ Đức, trong 7 tháng
Bần Đạo chung sống cùng Ngài đặng cho Ngài
truyền Thể Pháp. Giờ phút này Bần Đạo đứng
tại Tòa giảng đây tưởng tượng nhớ đến
tâm tình ấy thắm thiết biết bao nhiêu, nồng
nàn mà nói, không có một điều gì sơ sót,
chỉ đủ mọi hành tàng, rành rẽ chi tiết hết.
Bần Đạo vừa biết rồi, Đức Lý liền từ
chức không làm Giáo Tông của Đạo trọn 3 năm
vậy.
Khi
Bần Đạo ở Thủ Đức về Đức Lý dắt một
đàng Ngài biểu theo Ngài chỉnh đốn Hội Thánh
lại, một đàng Đức Chí Tôn nói đừng nghe
Lý Thái Bạch đa nghe Phạm Công Tắc ! . Một
đàng kéo một đàng trì, làm cho Bần Đạo không
biết đường đi chút nào, thất thơ thất thưởng,
mất linh hồn muốn nữa tỉnh nữa say, Ngài
đến 11 giờ Ngài viết cho đến 4 giờ sáng,
chỉ rành rẽ thế nào, nhứt là Ngài biểu Bần
Đạo hiệp cùng Ngài cho có quyền Chí Tôn Hữu
Hình tại thế này, Hiền Hữu muốn cho Đạo
Cao Đài còn tồn tại, hãy nghe lời Đức Chí
Tôn để cho nền Đạo phải mất ? Bần Đạo
cứ nghĩ ngợi, đó rồi Đức Chí Tôn đến,
thật sự Ông Già hơi buồn thật, Ngài nói Tắc
con sửa soạn đặng làm Lễ Đăng Điện cho
Đức Lý Giáo Tông đa nghe. Rồi đó Ổng ở,
Ổng nghe Đức Lý Giáo Tông cầm quyền.
Đức
Lý Ngài biểu Thiên Phong Chức Sắc cả Cửu
Trùng Đài, Hiệp Thiên Đài lập Cửu Trùng Thiên
để Ngài Đăng Điện, khi Ngài Đăng Điện rồi,
Ngài cầm cây viết Ngài viết Bài Diễn Văn
Đăng Điện cho tới Tận Thế sẽ không có vị
Giáo Tông nào làm một Bài Diễn Văn hay như
vậy. Bài Diễn Văn của Ngài vạch rõ tinh thần,
con đường hay ho làm sao, nhứt là trong Bài Diễn
Văn đó cho cả Hội Thánh hay rằng : Kể từ
khi Ngài cầm quyền Giáo Tông đây, các người
ấy đừng ỷ công khi lịnh, Ngài chẳng hề
tha thứ bao giờ, Ngài nói một đàng về hữu
hình, chính mình Bần Đạo chưa thấy Ngài làm
gì được về Vô Hình Ngài trừng thanh bí mật
quyền linh không thế tưởng tượng.
Khéo
là cái làm Ngài không lợi dụng, chính mình
Ngài dùng quyền hành Thiêng Liêng trừng thanh
độc lập mà thôi. Duy có Ngài làm, Bần Đạo
không biết, chỉ có cười một điều cả con
cái Đức Chí Tôn không biết lựa người đặng
bợ đít, đêm nay đi cúng thưa thớt, nhờ Đấng
oai quyền sang cả kể từ mực thước nhỏ nhen
nhứt. Trên đường lập thân hành Đạo, có
Đấng bảo vệ mình mà không biết bợ đỡ
rồi làm sao nên. Bần Đạo xin nhắn lại với
họ điều ấy.
Đền
Thánh, đêm 27 tháng 8 năm Nhâm Thìn (1952)
(Vía
Đức Khổng Thánh)
28.- ĐỨC CHÍ-TÔN LẤY NHO-TÔNG ĐỂ CỨU-VÃN NHÂN-LOẠI
Đêm
nay là ngày Vía của Đức Khổng Thánh, mỗi
năm Bần Đạo có dịp giảng giải kiếp sanh
của Ngài và Triết Lý Đạo của Ngài, chúng
ta chỉ để ý một điều trọng hệ này là
Đức Chí Tôn đến lấy chơn tướng Nho Tông
đặng chuyển thế. Vì cớ cho nên Triết Lý
của Đạo Cao Đài là Nho Tông Chuyển Thế.
Bần
Đạo đã có dịp giảng về kiếp sanh của Ngài
rồi. Tưởng cũng không cần lập đi lập lại,
nhưng chúng ta tự tìm hiểu nghĩa, một câu cao
siêu của Đức Chí Tôn đến lập Giáo, lấy
Nho Tông làm căn bản mà đó là Triết Lý của
Ngài ấy là tại duyên nào.
Chúng
ta đã ngó thấy Đức Khổng Phu Tử giáng sanh
buổi Đông Châu Liệt Quốc, chúng ta dư hiểu,
từ thử đến giờ chưa có một Quốc Gia nào
hỗn loạn hơn là Đông Châu Liệt Quốc buổi
nọ. Dầu cho tới ngày hôm nay cũng còn là nước
Tàu buổi trước, phân ra là 6 nước tranh truyền
lợi với nhau. Một tấn tuồng tương tàn tương
sát của Trung Hoa là nòi giống vinh quang của
họ, dầu cho họ tầm phương để sống, sống
trong một cõi đại đồng, tức nhiên họ chưa
tạo dựng một cái gì để làm cho ta kinh khủng,
họ có cách thí nghiệm sơ sài ngay buổi ấy
và khi Đức Khổng Phu Tử Ngài đã đến.
Nếu
chúng lấy theo Nho thì chúng ta có thể nói :
Bao giờ cái quyền Thiêng Liêng có tại mặt
thế này. Tinh thần của con người tổng số
lại làm một xã hội hay cả thiên hạ và hễ
khi nào có loạn tức nhiên cả thảy thiên hạ
tìm kiếm phương pháp đặng làm chủ lấy mình.
Đức
Khổng Phu Tử đã sanh ra trong cái thời kỳ hỗn
loạn ấy, vì cớ nên Ngài mới tìm một phương
pháp để cứu nước, cứu toàn sanh mạng của
giống Dân Trung Hoa của Ngài cho còn tồn tại,
chớ không thì tấn tuồng tương tàn, tương
sát ấy không thế nào dứt được.
Vì
cớ cho nên Đức Chí Tôn đã nói : Hễ chúng
ta sống một ngày thì hay một ngày, chớ chẳng
hề khi nào chúng ta cải đặng khuôn Luật Thiên
Nhiên của Tạo Hoá được, ví như muốn cứu
vãn, muốn thức tỉnh các nước như
Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ, Bần Đạo
xin nói : Phải giữ gìn phương pháp Đạo Đức
thì mới có thể làm dứt được cái nạn nồi
Địa Cầu xáo thịt của nước Trung Hoa buổi
nọ. Vì vậy nên Đức Khổng Phu Tử mới đem
Đạo Nhơn Luân của con người ra làm căn bản.
Bởi cớ cho nên Ngài chỉ tìm một phương pháp
là Nhơn Đạo để cứu vãn tình thế Dân Trung
Quốc. Nhưng Trung Hoa buổi nọ cũng vẫn còn
các bậc siêu hình khôn quá, không ai cho là giả
thuyết.
Đức
Khổng Phu Tử đến nước Châu hỏi Lễ, Đức
Lão Từ nói cùng Đức Khổng Phu Tử : "Người
quân tử đức thạnh dung mạo như kẻ ngu"
chúng ta biết rằng
cái thuyết Đạo Giáo của chúng ta là
cái thuyết siêu hình, một lời nói ngộ nghĩnh
là khi gặp Đức Lão Tử, rồi các Môn Đề
của Ngài trả lời một câu hay ho làm sao, can
chi họ lại kiếm Ngài mà hỏi nữa, Ngài đáp
:
"Con
cá nó lội dưới nước, dưới bàu bằng vi,
con thú nó chạy trên đồng bằng chân và đã
biết căn bản của mỗi con rồi, duy có con rồng
bay trên mây kia ta không thấy được hình, ta
đoán không được mà thôi, Đức Lão Tử là
Rồng đó vậy".
Cả
thảy đều hiểu lời nói đó khéo léo làm sao,
mà Ngài không quyết định đặng. Chính mình
Ngài cũng không tìm hiểu được lẻ sống chết
của Môn Đệ của Ngài. Ngài nói cái sống đương
nhiên mà chúng ta đã sống chừng nào chết chúng
ta sẽ hay. Ngài nói một cách đơn giản cái
thuyết chen lấn của xã hội như thế.
Ấy
vậy cái thuyết bảo vệ Nhơn Luân Chi Đạo
của Ngài đó, chúng ta đã hiểu như thế, Đức
Chí Tôn đến đặng đem Thượng Nguơn Tứ Chuyển
và tinh thần Đạo Đức mà tìn chúng ta để
làm căn bản, nhưng hiện giờ Đạo Đức tinh
thần của Nhơn Loại không còn như thời Thượng
Cổ nữa. Chúng ta có thể nói theo Tiên Nho rằng
:
"Cổ
nhơn hình tợ thú, tâm hữu đại Thánh Đức,
kiến nhơn biếu tợ nhơn, thú tâm an khả trắc".
Tất
cả nhơn quần xã hội trong thời văn minh này
họ hay hỏi lắm, họ làm tinh thần trí não
của chúng ta thêm rối, ta tiếc có một điều
là Thánh Đức của họ không có.
Hại
thay ! Họ không cần Thánh Đức, thì tức nhiên
cái sống của họ không phương nào bảo vệ
được Đạo Nhơn Luân của họ, nếu bảo vệ
không được Đạo Nhơn Luân, tức nhiên họ
xu hướng theo vật hình thú tánh mà thôi. Họ sống theo vật hình, theo
thú tánh thì ngoài ra không biết gì hết. Như
thế Thánh Đức không còn giá trị gì nữa.
Vì
cớ cho nên Nhơn Loại đã ly loạn, Đạo Nhơn
Luân nó đi đảo ngược con đường Thánh Đức.
Bởi cớ cho nên Đức Chí Tôn đến lấy Nho
Tông trước kia làm căn bản, Đức Khổng Phu
Tử đã cứu vãn tình thế nước Trung Hoa thế
nào, thì ngày nay Đức Chí Tôn đễn cứu vãn
Nhơn Loại với phương pháp ấy.
Đền
Thánh, đêm 30 tháng 8 năm Nhâm-thìn (1952)
29.-
HAI BÀI THI CỦA THẤT NƯƠNG VÀ BÁT
NƯƠNG LÚC BAN SƠ MỚI KHAI ĐẠO
Hôm
nay Bần Đạo giảng hai Bài Thi của Thất Nương
và Bát Nương lúc ban sơ mới Khai Đạo, trong
hai bài thi ấy cả Thánh Thể Đức Chí Tôn tức
nhiên Hội Thánh và con cái của Ngài chẳng luận
Nam, Nữ suy gẫm rồi sẽ thấy lời Tiên tri
kết liễu ngày nay một cách lạ thường, nhứt
là đêm nay Bần Đạo giảng cho mấy em Luật
Sự Hiệp Thiên Đài lãnh sứ mạng đi cùng các nơi cầm
cân Công Bình Thiêng Liêng của Đạo.
Vả
chăng Chơn Lý của Đạo Cao Đài đã tỏ cho
toàn thể Nhơn Sanh đều hiểu lời Tiên tri của
Phật Giáo đã nói : "Qua cuối Hạ Nguơn
Đức Chí Tôn đến để mở Hội Long Hoa đặng
lập vị cho Đức Di Lặc Vương Phật". Nhưng
khi ấy cả Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại
Ngọc Hư Cung cầu xin Đức Ngài để cho các
Đấng đảm đương phận sự thay thế cho Ngài.
Vì cớ cho nên Ngài không đi, Ngài không có đến
tức nhiên Ngài không có giáng trần tái kiếp.
Từ
thử đến giờ, Bần Đạo chưa hề biết nói
đến sứ mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo,
là vì Đức Chí Tôn không đi, nên mới có Hộ
Pháp của Ngài đến. Hộ Pháp của Ngài đến
cốt yếu thay thế cho Ngài đặng lập Vị cho
Đức Phật Di Lặc Vương Phật mở rộng Hội
Long Hoa, tức nhiên sứ mạng của Hộ Pháp là
cầm cân Công Bình Thiêng Liêng của Đức Chí
Tôn giao phó, nắm cả tâm lý tinh thần nơi mặt
Địa Cầu này đặng hoà giải hầu sửa đương
tâm đức tinh thần của Nhơn Loại, tức nhiên
là Ngài đến trước khi mở hội Long Hoa tạo
Tiên, Phật tâm đức từ trong cửa Thánh của
họ đặng từ từ bước đến phẩm vị của
họ tại mặt thế này.
Ngày
giờ nào Nhơn Sanh đã tiến bước Bần Đạo
chỉ nói một người mà thôi, đạt được Phật
Vị thì ngày ấy Hội Long Hoa mới mở, mà Hội
Long Hoa chưa mở thì Đức Di Lặc Vương chưa
có đến, nghe cho rõ rồi nhớ, phải chăng là
chung tâm cả thảy Thánh Thể và con cái của
Ngài thấy cái trường Đời tức nhiên nhơn
quần xã hội đương ly loạn, mà chính trong
một Quốc Dân Đức Chí Tôn đến đặng lựa
chọn một phần làm Thánh Thể của Ngài tức
là nước Việt Nam đương nhiên, mà ngày giờ
này cũng bị đảo lộn loạn ly hỗn loạn, mà
lẽ dĩ nhiên là không hễ không có hỗn loạn
thì tức không có bình trị.
Chúng
ta đã thấy Luật Thiên Nhiên tương đối kia
muốn cho nước đục được trong, phải đánh
cho nó đảo lộn đi rồi nó mới lóng phèn nước
mới trong lại được. Cuộc thế đương thời
là vậy đó. Bây giờ vận mạng nước nhà Nam
cũng thế ấy, phải có loạn mới có bình trị
cũng như chúng ta thấy giờ này Đạo lý đã
xuất hiện, và nhờ Đạo lý ấy họ mới nhìn
nhận Hội Thánh chúng ta, mà chúng ta có sợ
sệt chăng ? Bần Đạo nói : Chẳng hề khi nào
biết sợ, Bần Đạo quả quyết như thế. Đây
là cái bằng cớ mà con cái của Đức Chí Tôn
đã thấy rõ, từ khi mở Đạo đã gặp khó
khăn ấy rồi. Bần Đạo chưa hề sợ ai làm
khó hết. Càng hỗn loạn ấy Bần Đạo cũng
mở tầm mắt xem coi và đợi kết liễn của
nó. Bần Đạo chẳng hề khi nào khủng khiếp,
tại sao lại khủng khiếp chớ ! Đức Chí Tôn
biểu mình hiến trọn Tam Bửu của mình tức
là mảnh thân phàm, trí não và linh hồn mình
cho Ngài, thì mảnh xác thân của ta đây đã
làm tế vật cho Ngài, thì dầu chết dầu sống
vì thời thế nào cũng không sao, vì rằng : Dầu
ta đương sống với Đời mà đã chết với
Đời còn sống cốt là sống vì Đạo, có gì
phòng sợ, cái gì mà khủng khiếp ? Khủng khiếp
là điều bạc nhược của chúng ta đó. Cái
trường Đời còn đảo ngược thì Bần Đạo
càng có phương thế đem cái sứ mạng của mình
làm cho nó có mực thước. Trái ngược lại
Bần Đạo cầu cho như thế, cái khởi loạn
ấy nó khởi từ lúc ban sơ. Đức Chí Tôn đến đặng đem mối Đạo đưa
cho con cái Ngài, tức nhiên là các phần tử
Thánh Thể của Ngài đầu tiên mà Ngài đã đến
kiếm. Ngài tự đưa cái hỗn loạn ấy, cái
khó khăn ấy khởi đương trong gia đình
Thánh Thể của Ngài là mỗi phần tử ấy, Bần
Đạo trông lại đàn Anh của chúng ta cho đến
Bần Đạo đây cũng vậy, đem thân vào cửa
Thánh của Ngài thì thấy khó nhọc khó khăn
biết bao nhiêu. Nói đến sư mạng yếu trọng
của mình hôm nay thì cũng thế đó.
Trong
gia đình có hổn loạn, có thống khổ thì tới
xã hội nhơn quần cũng vậy, cớ sao xã hội có như thế
? Phương pháp ấy cốt để cho toàn cả nhơn
quần xã hội thấy đặng khó khăn thống khổ tức phải thọ khổ
rồi mới thắng khổ.
Bài
thi của Bát Nương lúc ban sơ nói về nỗi khó
khăn khởi đương của nền Tôn Giáo của Ngài
mà Ngài đã gánh vác, đã đảm đương, thấy
cái khó khăn ấy Bần Đạo lại e sợ cho phần
tử Hiệp Thiên Đài làm không đặng mà thối
chí ngã lòng.
Buổi
nọ Bát Nương đến kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư
của chúng ta, Bà Nữ Chánh Phối Sư Hương Hiếu
là bạn thân của Đức Cao Thượng Phẩm, làm
một bài thi mình thương Đạo kêu nói ngay Bà
Nữ Chánh Phối Sư một điều, để Bần Đạo
đọc rồi cả thảy nghe câu văn cũng ngộ nghĩnh,
cho kêu Bà Nữ Chánh Phối Sư lại :
Bài Thi: Mua vải dùm em để phất
diều,
Treo văn trước mõ
mới là kêu.
Cánh sườn cột nẹp
cân cho đúng,
Lèo lái so dây gióng
đặng đều.
Luồng gió ồ ào
vừa thổi dậy,
Mấy anh tỉnh mỉnh
phóng lên kêu.
Chín từng lồng lộng
bay cho thấu,
Thì hiểu Hiệp Thiên
nghĩa ít nhiều.
Đức
Hộ Pháp giải nghĩa từ câu. Nhứt câu : "Treo
văn trước mõ mới là kêu" Ngài nói thêm
ý chỉ nói văn mà thôi chớ không phải võ.
Khi
đến viếng Hội Thánh Ngoại Giáo nơi Tần Quốc
Kiêm Biên xong việc, Đức Quyền Giáo Tông và
Bần Đạo tính về Toà Thánh, Bát Nương muốn
cầm lại. Giáng làm Bài Thi như vầy :
Dường đợi Thanh Loan
đến Hớn Đài,
Tửu Tiên chưa phỉ
tỉnh cùng say.
Nghe danh Oâng Tắc, Y lìa ruộng,
Lóng tiếng Vua Nghiêu,
Thuấn bỏ cày.
Ái vật Thành Thang
quên dở ná,
Thường dân Hạ Võ
mặc hài gai.
Ngóng mưa đã đợi
ba thu mãn,
Cứu chúng hờn ai chẳng
trổ tài.
Đức
Chí Tôn mới
mở Đại Đạo thì Hội Thánh Ngoại Giáo đã
cầu cơ, Bát Nương đến biểu chúng ta đem
cả năng lực đặng cứu Chúng Sanh, sứ mạng
cứu thế phải khổ hạnh khó khăn thế nào,
nguy hiểm thế nào ! Bần Đạo để cho con
cái Đức Chí Tôn suy gẫm hiểu cho thấu, tự hiểu
lấy mình vì nó không phải khó kiếm hiểu.