Ði đạo  Tam kỳ  Phổ độ

Tòa Thánh  Tây Ninh

 

-------o0o-------

LỜI THUYẾT ĐẠO

 

CỦA ĐỨC HỘ-PHÁP

Năm

NĂM KỶ-SỬU & CANH-DẦN

QUYỂN 5 (tiếp theo)

HỘI-THÁNH GIỬ BẢN-QUYỀN

IN LẦN THỨ NHỨT

NĂM GIÁP-DẦN

(1974)

 

 

 

Đền Thánh, đêm 14 tháng 9 năm Nhâm Thìn (1952)

30.- ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG CÂU CỔ NGỮ : "NHỨT TÂM NHỨT ĐỨC

Đêm nay Bần Đạo giảng câu cổ ngữ "Nhứt Tâm Nhứt Đức".

Chữ nhứt Tâm nhứt Đức, riêng Tâm và Đức có một mà thôi. Chúng ta chẳng cần gì luận, chẳng cần để công kiếm cho lắm. Chữ Tâm Bần Đạo đã giảng, cổ nhơn chưa có biết Chơn linh của ta đó vậy. Nó là hồn cái danh là Tâm hay chữ Đạo. Tâm ấy tức nhiên Chơn linh của chúng ta đó. Vậy Chơn linh ấy tại sao có  một mà thôi ? Tức nhiên chữ Tâm biến ra đó vậy. Bởi vi ta muốn nói nó là Thiên Tâm.

Còn Đức, nhứt Đức thì chúng ta chẳng cần kiếm xa xôi, chỉ biết nó là Thiên Đức mà thôi. Thiên Tâm, Thiên Đức, Đức Chí Tôn đã đến để hiển nhiên trước mặt đó vậy. Ta đã biết Nguơn Linh của chúng ta do nơi Đức Chí Tôn mà sản xuất, tức nhiên cả toàn thể Nhơn Loại thống hiệp lại là cái khối Nguơn Linh của Đức Chí Tôn . Vì cớ cho nên Đức Chí Tôn đã để "Thiên Thượng, Thiên Hạ". Thiên Hạ tức nhiên toàn thể Nhơn Loại, bây giờ ta muốn nói cả toàn Nhơn Loại có Nhứt Tâm hay chăng ? Ta đã rõ biết rằng do nơi nguyên căn của nó, tức nhiên do nơi Đức Chí Linh sản xuất; nếu nó hiệp lại làm một với nhau thành ra Đấng Chí Linh, mà cả thảy biết mình là một căn bản với nhau hay chăng ? Nếu cả toàn nhơn loại biết mình là một căn bản, xuất hiện do Nhứt Tâm ấy, thì cơ thể sống của họ, tranh sống lại với nhai nơi mặt thế nầy, nạn tương tàn, tương sát không có hiệu lực đau đớn vậy.

Vì họ chưa biết nhứt Tâm ấy, hễ nói chữ Tâm thì tức nhiên nói đến thiên lương vô đối, mà lấy thiên lương vô đối làm căn bản, tức nhiên nhơn loại có thể lấy nhơn luân làm căn bản, họ thống hiệp làm một cùng nhau, con người chằng hề kiếm mà phải đến và họ đường tìm nẽo đặng đến. Chúng ta ngó thấy họ đương tò mò rờ rẫm tiến tới trạng luận vô đối. Nào là Trung Quốc, nào là Liên Hiệp Quốc, nơi Á Đông, Aâu Châu, nơi Mỹ Quốc họ đương đem cái tinh thần họ tìm tòi.

Ấy vậy, nhứt Tâm ta đã biết ta đã do nơi Trời, lấy cái căn bản của ta chỉ biết suy Thiên Tâm mà thôi, mà Thiên Tâm ấy nó đã biểu ta tôn sùng mạng sống, tức nhiên tôn sùng cái nguơn linh của người, không đặng chia lìa rẻ rúng, câu : "Khi Nhơn tức khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên". Hễ khi người tức khi lại mình, mà khi lại nguơn linh của mình, tức nhiên khi Đấng Chí Linh là Đức Chí Tôn đó vậy. Hễ khi Trời tức nhiên có tội. Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo dã" hễ có tội với Trời thì không có chỗ nào để cầu-đảo kêu-ca cho khỏi tội được cả.

Trái ngược lại Ngài đã căn dặn một điều trọng yếu nầy : Ngài nói thà các con vô lễ cùng Thầy, Thầy đặng lòng Từ Bi mà tha thứ; Thầy chỉ dặn các con chẳng nên vô lễ cùng Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, bởi họ chẳng hề tha thứ bao giờ. Đức Chí Tôn đã căn dặn rõ ràng, biểu chúng ta đừng sát sanh, biết đâu trong một cành hoa kia không phải là một Vị Phật Giáng Sanh, nếu chúng ta đang tay bẻ nó, chúng ta đã phạm đến cái tội ấy rồi.

Hại thay ! Các Chơn Linh cao trọng đã đến thế gian nầy, có một điều nguy hiểm cho chúng ta hơn hết là họ sẽ lấy một hình thể căn bản của họ, hèn tiện, thiệt thòi, có khi họ lại lấy hình thể họ ngu dại nữa chứ.

Hại thay ! Những kẻ đó không biết tôn trọng nguơn linh của người, khi rẻ họ đến, hiện diện trên thế gian này họ sẽ chịu những hình phạt, chẳng hề khi nào tránh khỏi.

Bần Đạo mục kiến vài ba bằng cớ rõ ràng, dầu cho Tiên Vị, một chơn linh cao trọng mà họ phạm đến điều ấy, Thiên Điều chẳng hề tha thứ họ. Bằng cớ Bần Đạo chỉ rõ căn nguyên của Đức Quyền Giáo Tông là Tiên Vị, những kẻ đã khi rẻ Ngài hồi còn sanh tiền. Các con cái của Đức Chí Tôn dòm coi, những kẻ đó giờ phút này thế nào, dầu cho hạng đồng bực cùng Ngài mà đã khi rẻ Ngài, rồi giờ phút này không còn gì hết. Một cảnh tượng nữa, Bần Đạo mục kiến Phối Thánh Màng, người thiệt thòi làm sao, Hiền lương không thể nói, bần tiện lắm, mà có kẻ đã khi rẻ hiếp đáp, giờ phút này toàn gia cả thảy những người đó không thể chối tội. Phối Thánh Thoại cũng thế đó. Mấy vị Đại Thiên Phong và cả con cái của Đức Chí Tôn Nam, nữ phải dè dặt cho lắm, đừng thấy sắp em của mình nó hèn tiện thiệt thòi, ngu dại mà khi dễ nó. Biết chừng đâu Đức Chí Tôn đã dành để một tình cờ bất  ngờ chúng ta sẽ phạm đến họ, rán coi chừng cho lắm, nhứt là trong cửa Đạo Cao Đài, dầu Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, không biết có chơn linh trong ấy.

Bần Đạo xin căn dặn một điều trọng yếu hơn hết:  đừng khi người

 

Đền Thánh, đêm 29 tháng 9 năm Nhâm Thìn (1952)

 

31.- TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NỀN VĂN MINH CỦA THỜI ĐẠI

Đêm nay Bần Đạo giảng về Tôn Giáo đối với một nền văn minh của thời đại.

Hai chữ văn minh thiên hạ đã nói, chúng ta cũng nên tìm hiểu nghĩa lý của nó, và tìm cho biết cái nguồn cội đã sản xuất nó. Văn, chúng ta ngó thấy thiên hạ cũng gọi là văn chương hay là văn hoá. Nhờ văn hoá mà đã ghi rõ những gì từ trước đã lưu chiếu lại những biến cố trong lịch sử của toàn nhơn loại, trong lịch sử của một quốc dân, xã hội và văn hoá, ấy là những văn từ đã lưu chiếu tại tạo một sự hiểu biết, để phổ hoá trong một sắc dân, trong một xã hội hay là toàn thể nhơn loại.

Ấy vậy, chữ văn chương chúng ta đã ngó thấy lưu chiếu lại một lịch sử của toàn thể một thế hệ, của một xã hội trong một thời đại. Văn chương ấy hữu ích thế nào, chúng ta chằng cần gì luận cũng đã chán biết. Lạ thay ! Con người bao giờ cũng có một cái linh. Cái linh tâm lạ lùng lắm ! Vả chăng loài người bao giờ cũng sản xuất trong một đời sống của mình, đời sống ấy từ một dĩ chí 100 tuổi, chúng ta đã ngó thấy họ nhớ lại hết và tìm tòi biết mãi tới, họ có lạ lùng ấy. Họ sống trong một thế hệ của họ, mà họ đã có năng lực hiểu biết cả căn bản trong thế hệ đã qua rồi, họ còn có thể định đoạt cái thế hệ sẽ tới. Đó là một điều phi thường từ trước tới giờ không có phương gì để lại, chỉ có căn bản là làm cho phát khởi cái đó do cảm động và nhớ.

Văn chương lưu chiếu lịch sử làm một bài học để tìm tòi hiểu biết thế tình nhơn loại, thì văn học phải phổ hoá tinh thần và vật hình của con người đời. Nếu muốn phổ hoá cho đặng cái vật hình của con người thì chúng ta ngó thấy văn chương trên lịch sử , nó phải có một năng lực nuôi cả tinh thần và hình thể của người mà chớ.

Hễ muốn nuôi đặng cái vật hình của họ vẫn dễ, còn nuôi tinh thần của họ rất khó. Bởi vì tinh thần ấy nếu không do Đạo Giáo, chẳng hề khi nào có năng lực phổ hoá họ đặng. Chúng ta ngó thấy mỗi phen Đức Chí Tôn đến, hay là sai vị Giáo Chủ nào đến đặng tạo Tân Dân bao giờ cũng vậy. Trước tiên cái nền văn minh đến, thì nền Đạo Giáo đã thành lập trước, bởi Đạo Giáo là căn bản của nền văn minh đó vậy.

Đạo là khuôn khổ, còn văn minh là hình chất, Đạo là hình, văn minh như bóng. Chúng ta đã quan sát thấy văn minh sản xuất hình thể và tinh thần do một nền Tôn Giáo đã tạo dựng nó ra. Chúng ta ngó thấy như Đạo Phật đã tạo ra một thế hệ, thế hệ ấy nó có năng lực tạo ra cả hình chất của Tân Dân Phật Giáo, tức nhiên trong tình trạng của họ, họ tỏ ra rằng : Họ là người trong Đạo Giáo. Chúng ta đã ngó thấy các vị Thầy Tu nhà Phật, cạo đầu bận đồ vàng, bộ tịch của họ dù cho đi, đứng, nằm, ngồi, cử chỉ cái sống của họ đều trong khuôn khổ do nơi Đạo Giáo mà xuất hiện đặc biệt. Thiên Chúa Giáo, chúng ta để mắt quan sát cho tới hình thể tinh thần của họ, cử chỉ đều có vẻ đặc biệt riêng. Nho Giáo cũng vậy, Bần Đạo chẳng cần gì tả cho nhiều, cả thảy đều biết điều ấy rồi.

Còn trọng hệ hơn hết là cái nền văn minh lưu chiếu lại, chỉ có năng lực để bảo tồn được cái tân dân của mình tạo ra, cốt do tinh thần vi bổn. Chúng ta ngó thấy các nền Tôn Giáo đã tạo văn minh hiện đại. Hiện nay còn có hai nền văn minh. Thật ra từ Thượng Cổ các nền văn minh đã lưu chiếu lại tại mặt Địa Cầu này vẫn nhiều. Tỉ như các nền văn minh Tối Cổ bên Châu Aâu là Văn Minh : Grecque, Egypte, Romain hay (Rome). Còn bên Á Đông của chúng ta, Văn minh của nhà Phật, Văn minh của Đức Lão Tử, Văn Minh của Đức Khổng Phu Tử, Châu Công (kế Đức Khổng Phu Tử). Các nền Văn Minh ấy họ tạo Tân Dân của họ thế nào Bần Đạo chẳng cần nói cả thảy các con cái Nam, Nữ cũng vậy đã quan sát.

Bần Đạo thuyết đêm nay cho đám Thanh Niên Nam, Nữ con cái của Đức Chí Tôn nên để ý và hiểu biết cho lắm. Chúng ta ngó thấy trước mắt kiểu vỡ của các nền văn minh đã có, là do nơi các Tôn Giáo đã tạo. Đương nhiên bây giờ có hai nền văn minh trọng yếu hơn hết của tinh-thần Nhơn Loại là : Văn Minh  của Phật Giáo và Văn Minh  của Thiên Chúa Giáo. Hai nền Văn Minh tinh thần của hai Đạo Giáo đó rất cao thượng. Bần Đạo chỉ nói rằng : Tốt đẹp không thể gì tả hình trạng ra cho đặng. Tại sao nó tốt đẹp ấy ? Là nó có năng lực bảo sanh hình chất của Nhơn Loại, nó có thể bảo vệ cho đời sống tinh thần Thiêng Liêng của họ mà chớ.

Con cái của Đức Chí Tôn biết rằng : Các Tôn Giáo xuất hiện rất có ích cho Nhơn Loại tại mặt thế gian này về hình thể, tinh thần và nó phải làm thế nào bảo tồn sống còn của Nhơn Loại, mà trong sự sống ấy khó mà bảo tồn đặng sống còn tinh thần họ . Hỏi có phương pháp nào giải quyết cái khổ của họ đặng chăng ? Bần Đạo đã giải nghĩa nào là thắng khổ, nào là tùng khổ, nào là giải khổ, đủ thứ hết thảy, trọng yếu hơn hết là phải tìm phương nào cho các nền văn minh ấy, phải chia sống với nhau, phải đừng có tranh sống với nhau, bởi chia sống thì tồn tại, bảo vệ được sống còn của Nhơn Loại, mà tranh sống tức nhiên phải tiêu diệt. Gương của hai Vị Giáo Chủ đã lưu lại nơi mặt thế gian này, bên Á Đông, bên Âu Châu hai nền Văn Minh đặc biệt. Hai vị Giáo Chủ đó trước kia là gì chớ ? Một Người ăn mày cầm Bình Bát đi xin cơm đặng nuôi kẻ khó kẻ đói, đi bòn mót từng miếng vải rách đặng chầm khiếu mặc cho lành, tức là Đức Phật Thích Ca.

Con cái Người đã chia từ miếng bánh mì, từ miếng cá nuôi kẻ đói là Đức Chúa Jésus Christ, Ngài lấy sống của Ngài, Ngài chia cho kẻ đói, đến đổi Ngài phải nhịn miệng ăn của Ngài cho nó sống.

Gương Hai Vị tạo nền Văn Minh đó đẹp đẽ làm sao.

 

Đền Thánh, đêm 12 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1952)

(Ngày mai này là ngày vía Đức Quyền Giáo tông Thượng Trung Nhựt).

32.- ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG VỀ GƯƠNG HY-SINH CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG

Ngày mai này là ngày Lễ Vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt, tưởng khi cả anh em chúng ta Nam, Nữ Lưỡng Phái đều tưởng nhớ Ngài lắm vậy. Ấy là người anh Cả đầu tiên của chúng ta. Đức Chí Tôn đã ban hồng ân Thiêng Liêng vô đối ở dưới thế gian này, có một Vị Giáo Tông đầu tiên của nền Đạo.

Nhân dịp ngày Lễ Đức Quyền Giáo Tông, chúng ta nên để tâm suy đoán nhớ lại thử coi cái gương của Ngài để lại cho chúng ta là cái gì, Bần Đạo xin nói rõ giúp cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn có phương thế suy đoán.

Hỏi lúc Nòi Giống Việt Nam và Quốc gia Việt Nam ở vào thời kỳ Pháp thuộc một người như Đức Quyền Giáo Tông, Bần Đạo nói rõ là một người bần hàn xuất thân, Cha chết sơm duy có Bà Mẹ nuôi cho đến khi lớn, chỉ ở vậy thôi, không tái giá, chớ phải chi nhà giàu có, chẳng nói gì, nhà nghèo mà hẩm hút làm lụng nuôi con ăn học đến nên người.

Bần Đạo còn nhớ lại Đức Quyền Giáo Tông có nói với Bần Đạo một chuyện rất ngộ nghĩnh, Bần Đạo minh tả ra đây cho tất cả bên Phái Nữ để ý cho lắm, để làm một bài học hay khi Bà Thân của Người đã qua đời, thì cả trong làng thương yêu một cách không thể nói được, Chức Sắc làm bàn đưa linh mà trong bài chấn ấy để mấy chữ như vầy : "Tích Mạnh Mẫu" tức nhiên toàn thể nhận tang cả, chẳng khác gì Mạnh Mẫu cho lắm, chỉ biết mình là hạng bần hàn nên con mắt của người không bao giờ ngó đến kẻ nghèo khổ, lam lụ như Ngài thuở ấu xuân vậy. Vì cớ cho nên Ngài đem tâm chí làm sao cho ích lợi cho Dân, tức nhiên cho Đồng Bào trong nước. Vì thế cho nên Ngài phảm đối một cách không thể tưởng tượng trong buổi lệ thuộc ấy, can đảm chúng ta không bao giờ dám đềxướng như vậy đặng. Trong nước chúng ta buổi nọ, nhứt là trong Nam Kỳ (Bần Đạo dùng tiếng xưa) buổi nọ nếu có một người An Nam nào đứng đầu quần chúng, thì duy có Ngài mà thôi. Bởi chính mình Ngài vào Thượng Nghị Viện Chính Phủ Pháp buổi nọ tuy có một mình Ngài trong Nam Kỳ.

Ấy vậy, nếu như buổi nọ Ngài muốn giong ruổi trên con đường danh lợi, thì cái công danh phú quý của Ngài vẫn ở trong tay, không xin ai, không hạ mình mà bợ đỡ hay nịnh hót ai đặng danh lợi ấy.

Danh lợi sở hưũ vì Tài Đức của Ngài, Bần Đạo có thể nói Ngài là một người sống trong Trưởng Giả đó vậy, nhưng mà dòm trước mắt thấy cả đồng bào thống khổ, cái lẽ bất công nó cứ chàng ràng trước mắt của Ngài hoài, cho nên thật sự ra, dầu ngồi trên địa vị cao kỳ sang trọng bao nhiêu đi nữa Ngài không buổi nào thoả thích được, đến nổi Ngài tranh đấu, tranh đấu thấy mình bất lực muốn chết đi cho rồi, muốn tự vận nên hút á phiện đặng chết cho sớm, cho khuất con mắt, tránh cái thống khổ của dân đã chịu. Nhưng cái người mà Đức Chí Tôn đã dành để đó, dễ gì chết một cách dễ dàng như thế. Nên Ngài sống, Ngài sống cho đến khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo. Một lời Đức Chí Tôn phán thì cả cái sang trọng phú quý của Ngài, Ngài coi như bọt nước, nội một ngày cả sự nghiệp đều để cho thiên hạ. Ngài bán cả của cải ấy, Ngài ra với một minh không. Buổi nọ hút một ngày mười lăm đồng bạc, mà bỏ hút rồi có có một ngày ăn trường trai kể từ ngày Đức Chí Tôn đến, chính mình Bần Đạo làm chứng cho vậy.

Cái Đức Tin phi thường đã thấy trong cửa Đạo Cao Đài nầy có hai người : Một Đức Quyền Giáo Tông, hai Đức Cao Thượng Phẩm mà thôi. Phải chăng do nơi khối Đức Tin vô đối ấy đã làm cho Đạo Cao Đài nên hình như ngày hôm nay.

Một cái sứ mạng khó khăn nhứt là buổi nọ Đức Chí Tôn đến, Bần Đạo nhớ lại thiên hạ trở thành vô Đạo, cả toàn thể Quốc Dân giong ruổi theo Duy Vật, văn minh đương thời bây giờ, quên hẳn cả Lễ Nghi Phong Hoá nước nhà, làm cho sống lại chẳng phải là một điều dễ, phải chiều chuộng, bợ đỡ, nâng niu, chẳng khác nào bà mẹ coi từ vú sữa, mớm cơm cho con thơ dại, mới tượng hình của Đạo ngày hôm nay. Cái khó khăn hơn hết Bần Đạo nói có bằng chứng, chính mình Đức Chí Tôn đến mở Đạo Ngài than khó lắm. Chính mình Ngài là Đức Chí Tôn quyền năng vô đối mà còn than về cái khó đó. Bần đạo để bằng cớ hiển nhiên cho con cái Đức Chí Tôn ngó thấy, Đại Từ Phụ đà làm hai bài thi than buổi nọ như vầy :

"Cao Đài tá thế đến phàm gian,

Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng,

Chiều luỵ đòi phen, xem quá tục,

Nghĩ không đổ luỵ phải cường khan".

"Cười khan mà khóc bởi thương bây,

Chẳng mất một con nghiệt cả bầy,

Biết phận già không chờ chống gậy,

Nương theo con dại mới ra vầy".

Bằng cớ hiển nhiên đó chính mình Đức Chí Tôn còn than, chúng ta nhớ lại, buổi nọ cái sứ mạng Thiêng Liêng của Đức Quyền Giáo Tông và của Đức Cao Thượng Phẩm nó khó khăn dường nào. Thật sự phải chìu luỵ về tâm hồn con người buổi nọ một cách không thể tưởng tượng được. Bần Đạo thú thật, buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo cũng vậy, chỉ có ba Anh Em ôm sứ mạng Thiêng Liêng ấy nơi mình. Lãnh sứ mạng khó khăn thì tưởng đâu Đạo Cao Đài cũng như Đạo Phật hay Minh Sư, Minh Đường, đáo để, cạo đầu vô chùa làm Thầy Chùa Tu là cùng, tưởng dễ dàng lắm, kiếp sanh nơi thời bấy giờ đã khổ não tâm hồn và xác thịt lệ thuộc như thế, Ổng biểu Tu, nào dè mở Đạo trong thời gian ngắn ngủi không bao lâu thấy cả con cái của Ngài, đến cùng Ngài, cả muôn, cả triệu, chừng đó mới biết sợ sệt. Chính mình buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông ra Hậu Điện. Người hỏi Bần Đạo : Đại Từ Phụ làm cái gì vậy? Thấy thiên hạ vào cửa Đạo quá chừng Đại Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy. Chính mình Bần Đạo cũng không biết, biết đâu Ông làm gì, Ông đến Ông thâu Tín Đồ nhiều quá ảnh than rằng: :Tới đâu hay tới đó chớ biết sao.

Kể từ đó bị khảo miết Đức Cao Thượng Phẩm bị khảo đến ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng nằm trên giường bệnh cho tới hơi thở cuối cùng, không buổi nào không bị khảo, không buổi nào không bị nhục nhã. Cái Luật Thiên Nhiên không có điều gì xin xỏ điều gì cũng phải mua chuộc.

Bần Đạo đã quyết rồi xin để Bân Đạo kết luận bởi mua chuộc với cái khảo đảo nhục nhã của Đời, để bảo trọng danh giá của Ngài. Ngày nay Ngài sang trọng vô đối.

Chúng ta thấy gương rõ ràng Đức Phật Tổ là Chúa cả linh hồn của Nhơn loại bên cõi Á Đông nầy. Đức Chúa Jésus Nazareth hay Christ Chúa của các Linh Hồn bên cõi Âu Châu. Hai Người ấy một người thì đi ăn xin, Cầm Bình Bát đi ăn xin, không phải ăn xin cho Ngài, ăn xin cho kẻ đói khó nghèo nàn đem về cấp Cô Độc Viện, đặng nuôi dưỡng họ, một đời không có cái áo lành. Ngài đi mót máy đồ rách rưới, rồi chầm khiếu, gặp người nào lạnh cởi ra đưa cho bận, ở trần mãi thôi. Đức Chúa Jésus Nazareth (Christ) không có được hai cái áo, không có chỗ nương thân Ông than một câu, than nghe thảm thiết làm sao: con chim nó có cái ổ, con chồn nó có cái hang, mà con người nầy không biết chỗ nào gối đầu của mình !

Hai người ấy là cái nghiệp họ đã đào tạo nơi thế gian nầy, một Người 2.000 năm, một người 2.500 năm vẫn còn tồn tại mãi thôi. Biết bao nhiêu cơ nghiệp Đế Vương, biết bao nhiêu người giàu sang ở dưới mặt thế gian này, nào là đài Tần, đảnh Hớn cả thảy đều tiêu tan, chúng ta không còn ngó thấy một dấu tích gì lưu lại. Mà hai Người Nghèo ấy, hai Người bần hàn ấy, một người 2.000 năm, một Người 2.500 năm, Đại Nghiệp họ vẫn còn tồn tại.

Một điều Bần đạo buồn cười hơn hết, ở ngoài Đời dùng cường lực nào là bom nguyên tử, nào là gươm đao, súng đồng mọi thứ để tàn sát thiên hạ đặng làm bá chủ, đặng giành bá chủ không phải dễ làm. Bởi vì họ muốn làm bá chủ của thiên hạ nhưng không được đâu, thiên hạ phản đối luôn, chống lại cường lực mãi thôi, chẳng buổi nào ngừng.

Mới đây con cái Đức Chí Tôn đã ngó thấy Xá Lợi Phật, tức nhiên xương của Đức Thích Ca buổi nọ thiêu còn sót lại miếng nhỏ nhỏ để lại phân phát các Chùa bên Ấn Độ qua tới nên Ấn Độ Dương một miếng có một chút, đem Xá Lợi Phật bằng đầu mũi kim chớ có lớn đâu, thiên hạ hoang nghinh cả Xá Lợi Phật, không có súng, không ai ràng buộc, không đem súng mà họ theo, cả thảy đều cúi đầu, không phải cầm súng mà người ta coi mạnh phi thường không thế gì tưởng tượng được. Cái Ông mà nghèo nàn đệ nhứt hơn hết, bây giờ thiên hạ thấy hình trái tim của ông cháy lửa ra, hễ ngó thấy hình trái tim thì cúi đầu hết thảy, mà cả toàn thể các liệt cường Sắc Dân âu Châu cho tới Á Đông 600 triệu Tín Đồ ngó thấy trái tim đời đời không khi nào mỏi.

Đức Quyền Giáo Tông đã khéo lựa, Ngài bỏ cái ngôi vị Thượng Nghị Viện của Ngài, chỉ theo Đức Chí Tôn, nên người ta gọi Ông già tu tiên (gọi theo lối kiêu ngạo) mà hôm nay địa vị nầy Bần Đạo nói thật nó còn đời đời kiếp kiếp, cái danh giá của Ngài không bao giờ tiêu huỷ. Cao Đài còn, Danh giá của Ngài vẫn còn, Công nghiệp của Ngài đối với Nhân Loại vẫn còn. Ngộ nghĩnh thay ! Cả thiên hạ hạng nhứt là Quốc Dân Việt Nam đã nô lệ về phần xác, Đức Chí Tôn cho một người Tướng Soái đến đặng giải thoát họ, quí trọng hơn hết trong kiếp sống của họ là giải thoát về phần hồn. Nắm về phần hồn làm chúa thiên hạ, ngộ nghĩnh thay ! Tượng hình làm chúa trong đó tay Đức Quyền Giáo Tông là tay thứ nhứt hơn hết sao, giờ phút nầy, Bần Đạo ngó lại phải để câu hỏi : Nền Đạo Cao Đài ngày kia sẽ tạo nền văn minh như thế nào rồi ? Thật vật nền văn minh sẽ ra sao ?

Bần Đạo nói hai vị Giáo Chủ kia đã mang thi phàm xác tục, mà họ còn để lại hai gương đẹp đẽ vô biên ấy, họ tạo Tân Dân, họ đã đến đây phương kế hiệp thành chữ "Khí" của Đức Chí Tôn đến giữa Thánh Đức của Ngài, rồi giờ phút nầy Đức Chí Tôn đến để nơi mặt thế gian nầy nền Tôn Giáo Cao Đài, thì nền Văn Minh ấy thế nào con cái của Đức Chí Tôn đoán biết.

 

Đền Thánh, đêm 14 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1952)

33.- NỀN TÔN GIÁO CỦA ĐỨC CHÍ TÔN ĐẶNG 28 TUỔI

Kể từ nay nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn lại thêm một tuổi nữa, tức nhiên đã đặng 28 tuổi. Con đường viễn vọng trên 28 năm ngó lại như giấc chiêm bao ngắn ngủi.

Chúng ta cũng nên mừng, một nền Chơn Giáo mới mở 28 năm, mà độ rỗi cả các chơn linh về Đạo về Đời như thế nầy, cũng gọi nó là may mắn lắm vậy. Khi Đức Chí Tôn đến chính mình Ngài nói : Hể Đạo mở trễ một ngày, tức nhiên hại cho Chúng Sanh không biết mấy. Đại Từ Phụ nói : Một con đường của chúng ta đi, cái năng lực phàm của ta nơi cõi trần nầy nhiều điều gây trở khó khăn, mà điều ấy có lẽ Đức Chí Tôn, tức nhiên Đại Từ Phụ đã chung chịu cùng chúng ta đó vậy. Lại nữa đêm nay là đêm chúng ta kỷ niệm các bạn Thiêng Liêng của chúng ta, dầu các Chơn Linh ấy ở nơi Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống hay là các bạn đồng khổ với chúng ta đã quy hồi cựu vị của họ.

Bần Đạo thừa dịp kỷ niệm của các Đẳng linh hồn, thuyết một vấn đề, Bần Đạo nói trước, hạng thứ nhứt bên Phái Nữ, nghe câu chuyện rùng rợn đừng về nhớ giựt mình mẩy đa nghe.

Trước khi mở Hội Thánh, Bần Đạo có dịp hội đàm cùng Đức Lý Giáo Tông, Ngài chỉ cho biết trước, kết liễu của Hội Thánh như thế nào, nhưng điều ấy tưởng cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng không nên tìm hiểu điều tọc mạch đó làm gì, chuyện tới nó sẽ tới.

Luôn dịp, luận về một vấn đề : Nó thắc mắc làm cho Bần Đạo để ý hơn hết. Mới rồi đây, các báo cáo cả toàn cầu mới đăng cái tin, nói tại Mỹ Quốc có một nơi nào đó Dĩa bay rớt xuống, những tay hiếu kỳ muốn đi tìm cho đặng, coi Dĩa bay như thế nào ? Họ lên núi cao kia, xa thẳm trong rừng già, họ tìm Dĩa bay rớt xuống, vô trổng không thấy gì hết, chỉ thấy xuất hiện một Kỳ Nhân lạ lùng, nghe nói mà rùng rợn : Con người gì mà ước độ CAPut!’ thước bề cao, 5 thước bề ngang, mình xanh lè, hào quang xanh chiếu diệu ra, con mắt đỏ như huyết, chiếu ra như đèn pha xe hơi. Người ta thấy dị hình, dị dạng, bắt sợ hãi lắm, trong mình người đó xuất ra hơi khí, cái mùi lạ lùng lắm, giống như thể mùi kim khí cháy vậy, nghe như mùi xe hơi cháy ra mùi khét. Khi ấy làm cho người đó chịu không nổi, đến khi về phải ói mửa, phải đau. Trong số ấy cũng có người phụ nữ cũng tọc mạch vậy, theo bên Pháp Nam là 7 người, có một người phụ nữ làm chứng chắc rằng : Dị hợm lắm có bốn chân, mấy người kia không chắc 4 chân hay 2 chân. Duy có người can đảm hơn hết ở lại đặng coi, người ra đã chạy hết mà ở lại coi cho được đến khi người dị nhân đó đi lại gần thì hoảng la ré lên phát chạy, sau khi về bị đau gần chết.

Bần Đạo nghe chuyện đó dị kỳ lắm mới vấn nạn nhân Đức Lý Giáo Tông, hỏi cái người đó là gì ?

Đức Lý Giáo Tông trả lời : Thần chớ gì. Té ra từ thử đến giờ họ vô Đạo, không kể Trời, Đất, Thánh, Thần, Tiên, Phật gì hết, nên Đức Chí Tôn lại sai một Chơn Linh, một lấy năng lực nguyên tử mà họ thí nghiệm, đặng tạo hình hài của vị Thiên Thần đó cho Đời ngó thấy, nhứt là lời nói của Đức Chí Tôn cho con cái trong Đạo Cao Đài của Ngài sẽ còn thấy nhiều cái dị nữa.

Bần Đạo hỏi vậy chớ Đức Chí Tôn cho ngó thấy điều đó để làm gì ?

Đức Lý Giáo Tông nói Đại Từ Phụ cho ngó thấy đặng Nhơn Loại hay rằng: Nếu họ không trở lại Thiên Tánh của họ, không tự mình lấy bổn nguyên sanh hoá của Tạo Đoan, tức nhiên không lấy căn bản của Đại Từ Phụ mà làm mực thước, làm tinh thần, làm năng lực thì Nhân Loại ngày kia sẽ tiêu diệt và thay đổi cả xác thịt, hình thể Nhân Loại nơi mặt Địa Cầu nầy thành một hình thể khác hẳn bây giờ.

Bần Đạo mới hỏi cái thi thể của người Dị Nhân đó lấy năng lực nguyên tử tạo hình, cái sự làm đó có phải là do quyền năng vô lượng của các Đấng Thiêng Liêng mới làm được, hay là ai cũng có thể làm được.

Đức Lý nói : Các Chơn Linh nơi Càn Khôn Vũ Trụ đều làm được hết, Chư Hiền Hữu một ngày kia cũng có thể làm được, bất quá vị đó là một Chơn Linh Thần Vị mà thôi. Hiền Hữu đừng tưởng rằng : Loài người dị hình dị trạng vậy mà thôi. Trong Ngũ Hành : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, Nhơn Loại ở Càn Khôn Vũ Trụ đều tạo hình hài bằng Ngũ Hành hết.

Nói vậy cái vị Thiên Thần nói đó, tạo hình bằng Kim Khí. Còn chúng tôi ở quả Địa Cầu 68 tạo hình hài bằng gì ?

Đức Lý nói : Chư Hiền Hữu là Thổ Hình.

Còn chỗ nào có hình khác, khác nữa không ?

Đức Lý nói : Chư Hiền Hữu ở thế gian này, thấy sống trăm năm, cầu ước cho trường sanh bất tử, nếu Chư Hiền Hữu đầu kiêùp lên ngôi Hoả Tinh kia các người có thể sống đôeeba nghìn năm, bởi vì nó thuộc về Hoả, cho nên nó không bị tiêu diệt. Mà sống đây có nhiều người, sự sống đó biết bao nhiêu vì sống lâu quá !

- Cái thân thể vậy mà sống khổ cái nổi gì ?

- Chư Hiền Hữu biết rằng : Ngũ Hành tương khắc với nhau, hể có thân nầy thì có thân kia, tương khắc với nhau làm đau đớn, khổ não chớ vui sướng nỗi gì.

Thành thử luận rồi Bần Đạo cũng xét mình với cái Thổ Hình của chúng ta, nghĩ ra mình hạnh phúc hơn hết. Nếu sự thật có thi hình nơi Hoả Tinh dầu sống trăm năm trong Thổ Hình còn hạnh phúc hơn họ nhiều. Trên kia có nhiều Đấng Chơn Linh Phật Thể của mình, trong Ngũ Hành họ chịu đau đớn khổ não ấy chằng hề khi nào thoát khỏi, dầu có thoát khỏi đặng hay chăng là nhờ cái quyền năng của Đức Chí Tôn cho ta đặng sống nơi cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.

 

Đền Thánh, đêm 14 tháng 11 năm Nhâm Thìn (1952)

34.- NĂNG LỰC PHI THƯỜNG CỦA ĐỨC TIN

Trước khi giảng Đạo Bần Đạo để lời khen cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn hành lễ rất nghiêm chỉnh, nhứt là tụng Kinh có niêm luật qui tắc.

Đã mấy kỳ đàn rồi, Bần Đạo không có đi cúng, hôm nay dự lễ nầy có thể nói làm cho Bần Đạo hết đau.

Đêm nay Bần Đạo giảng về năng lực phi thường của Đức Tin trên con đường chí Chơn chí Thánh, chí là Khối Thương Yêu, Bần Đạo đã giảng về Đức Tin nhiều lần rồi, và cũng đã giảng cái năng lực của Khối Thương Yêu như thế nào rồi.

Đêm nay Bần Đạo chỉ giảng về năng lực phi thường của Đức Tin hay là cái năng lực Huyền Diệu của Đức Tin và Khối Thương Yêu vô tận của Đức Chí Tôn. Chúng ta đã chắc biết cũng như Đức Phật Thích Ca khi đạt đặng Bí Pháp mà trước kia chưa có vị Phật nào đạt đặng là nhờ Ngài đã tìm hiểu quả quyết, rồi Ngài ngó lộn lại vạn linh sanh chúng đang chìm đắm trong khổ hải, chịu trong Tứ Khổ là "Sanh, Lão, Bệnh, Tử" nên Ngài đem cái thuyết thương yêu vô tận của Ngài Truyền Bá cho toàn thể Nhơn Sanh noi theo cái chí Chơn chí Thánh ấy, đặng họ đạt Bí Pháp của họ, có phải Đức Tin của Ngài mạnh mẽ chăng ? Ngài để Đức Tin trên Khối Thương Yêu của Ngài và Đạo của Ngài đã 2.500 năm mà vẫn còn tồn tại bền vững đến ngày nay.

Đức Lão Tử khi đạt được Cơ Quan vô đối của Ngài tức nhiên Ngài lấy chí Chơn chí Thánh để hiểu trong kiếp sanh của chúng ta và nếu chúng ta có phương thế tương liên với cả chúng sanh trong Càn Khôn Vũ Trụ để làm khối thương yêu duy nhứt, chúng ta mới có thể siêu thoát đặng, chúng ta chớ tưởng sự ấy làm không được, chúng ta sẽ đoạt đặng mà chớ nếu đoạt đặng quyền vô sanh, vô tử thì sẽ đi đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Bởi cớ cho nên Ngài để cái luật vô tử nầy cho Nhơn Loại tìm hiểu mà đạt Đạo. Cũng như Đức Khổng Phu Tử, Ngài thấy Nhơn Loại đã phế vong Đạo Nhơn Luân của mình, nên mới tương tàn, tương sát với nhau, như hồi Đông Châu Liệt Quốc buổi nọ, Ngài lấy Đạo Nhơn Luân làm căn bản, đặng cứu Đời gọi là lấy Đại Nhơn Luân cứu thế. Cũng như ngày nay, Đức Chí Tôn quả quyết rằng : Cái thuyết ấy nó thuộc về năng lực thương yêu, nên Đức Chí Tôn mới đem tạo nền Chơn Giáo của Ngài. Ngài lấy Đạo Nho làm căn bản, lấy Đạo Chơn Luân của Nhơn Loại làm phương cứu cánh, để Cứu Khổ cho Loài Người, cũng như Đức Lão Tử trước kia đó vậy.

Đức Chí Tôn ngày nay cũng thế, chỉ vì lòng thương yêu Nhơn Loại vô tận, nên Ngài tìm cách giảng cái thuyết ấy, truyền ra cho cả Nhơn Sanh đều hưởng ứng theo, để họ biết cái Sanh Tử của họ, đặng họ tự giác, đó là phương Cứu Thế vậy.

Tưởng cả Chúng Sanh Chức Sắc trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn Nam, Nữ cũng biết cái Đức Tin ấy là ngọn đuốc Thiêng Liêng, còn lòng thương yêu của ta là Khối Lửa Tam Muội để đốt cây đuốc ấy cho sáng láng, cho rực rỡ, đặng dìu đường cho vạn linh sanh chúng.

Chúng ta đã ngó thấy cái quyền năng ấy trong một đại gia đình nên hư đều ngó theo ngọn đuốc Thiêng Liêng đó, đặng đi đến con đường vinh quang vô đối của Đức Chí Tôn đã rọi sáng, đã dành để cho chúng ta hồi ban sơ.

Bần Đạo nói quả quyết mỗi sự khó khăn gay trở, mọi sự khổ hạnh, mà Thánh Thể Đức Chí Tôn đã chịu mà có thể thắng được mọi trở lực là nhờ Khối Thương Yêu của Đức Chí Tôn đã dành để cho chúng ta, nếu chúng ta lấy Khối Thương yêu cứng rắn ấy làm căn bản, thì không có quyền năng nào dưới thế gian nầy làm cho khối ấy lay chuyển, tiêu diệt được. 

 

Đền Thánh, ngày 15 tháng 12 năm Nhâm Thìn (1952) 

35.- LƯỢT GIẢI VỀ NGŨ CHI ĐẠI ĐẠO PHẬT-ĐẠO,TIÊN-ĐẠO, THÁNH-ĐẠO, THẦN ĐẠO & NHƠN ĐẠO

Đức Shidarta (gọi là Cakya Mouni) nghĩa là người miền xứ Cakya, lấy lòng nhân bao trùm thiên hạ, tầm thêm đặng Chơn Lý Sanh Khổ, mà lập thành Phật Giáo, nên dùng đoạn trái oan trừ nghiệt chướng, đặng làm phương giải thoát Luân Hồi.

Ấy là giữa chốn khổ não đau thương, Ngài lại đem tánh Từ Bi tự tại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh chúng tương thân tương ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi ô trược nhớp nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm ngào ngạt.

Ngài nhờ Sanh, Lão, Bịnh, Tử, tứ Khổ, giác minh bổn thiện mới đạt phương Cứu Khổ Loài Người.

Đức Lý Lão Đam (Lão Tử) là Thái Thượng Lão Quân, vì lòng nhân Phổ Độ thế gian nên tìm đặng Chơn Lý tinh thần vi chủ, trừ khử phương dĩ vật luỵ hình, định tự chủ kỳ tâm là diệu pháp, lại lấy phép an nhàn làm Cơ thoát tục.

Ấy Đời là cảnh sầu thảm khó khăn, mà Ngài đến bày phép chơi hay cho giải trí, chẳng khác nào Ngài là người đương ngậm đắng trêu cay, Ngài cho nếm mùi ngon vị ngọt.

Ngài nhờ quyền vật dục trong trường công danh phú quí của lục quốc phân tranh, tạo ác đã vô ngằn, nó thức minh "bổn thiện" của Ngài, nên Ngài ái dân sanh, mới truyền phương Thoát Khổ.

Đức Chúa Jésus De Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhân Cứu Thế lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn Bác Ái Nhân Sanh, đặng thay mặt Chí Tôn khai hoá, xem phổ tế Chúng Sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật mạng sanh hành thiện Đạo, diệt dị đoan, trừ mê tín, dụng Chân Lý để răn Đời,  nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời, lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên Cảnh.

Ngày hằng dạy rằng : Cái khổ của thế gian là sự nghiệp của con người, phải thọ khổ mới rõ Cơ thoát tục.

Ấy là Đời đang giả dối mà Ngài đem chân thật đang khử trừ, chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ dằn mà Ngài đờn tiếng thanh tao hoà nhã.

1.- Ngài nhờ Đạo Luật của Môi Se (Moise), thế-kỷ ấy quyền hành biến đổi nên sanh nhiều chi Tả Đạo Bàn Môn, lại thế lực của Cai phe về bên mặt phần hồn rất nên mạnh mẽ buộc Dân Do Thái (Juifs) nhiều lẽ nên tà. Carmee-tín của dân Giu-Đê buổi ấy luận không cùng.

2.- Quyền Luật Đời nước La-mã (Rome) của César nghiêm-khắc khốc-hại sinh-linh đồ thán.

Những nguyên-uỷ khai-minh “Bổn thiện” của Ngài làm cho Ngài phải cam tâm gánh vatscar sự đâu-đớn của loài người , cũng bởi ái-truất thương-sanh chịu tử tội đặng truyền gương thọ khổ.

Khương Thái Công gọi là Thái-Công Vọng hay là Khương-Tử-Nha vâng lịnh Đức Nguown-Thior Thiên-Tôn ở Côn-lôn sơn lấy Phong Thần bảng đến giúp nghiệp Châu, cũng vì nhơn-sanh mà khai-minh chơn-lý của quyền-hành thưởng phạt thiêng-liêng giúp Thế-trị đặng thêm mỹ-mãn, tôn-sùng trung-liệt trừ-khử nịnh-tà, mượn tinh-thần làm nhuệ-khí đặng trừ tan ác-nghiệt của xác thân ấy là dụng phép vô-hình đặng điều-khiển hành-tàng mặt thế. Ngài giúp cho thé-gian kinh-nghiệm đủ cớ hiển-nhiên rằng nạn ác đã đào-tạo kiếp sống của con người, chẳng trốn khỏi nơi kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng-liêng  có đủ quyền-năng cả xác cùng hồn. Thế thì có trí-tuệ của loài người, còn Đạo lại còn Thần-minh giám-sát. Trieet-lý Thần-linh nghĩa là: Quyền phép của lương-tâm do đó mà lập thành căn-bản và năng-lực vận-hành hiện-tượng của tư-tưởng cùng bổn-nguyên thần pháp đặng nảy sanh.

Ôi ! Cũng vì cớ quả nhiên thật sự bí-pháp nầy đây mà đời chất-chứa nhiều điều mê-tín.

Tuy van, chẳng phải chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền-vi bí-mật Phong-thần, song Ngaifbieets tùng lịnh thật hành những tư-tưởng cao-thượng của Đức Nguown-Thỉ Thiên-Tôn, thì công ấy cũng đủ làm đầu Thần-giáo.

Đôi khi ấy dường như đang bị phát bởi ung-thư, chịu đau-đớn sầu than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc linh-đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt thế.

Ngài nhờ thấy bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nghĩa của nhà Câu: vua Văn-Vương và Võ-Vương dục khai “bổn thiện” nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám chịu nhọc-nhằn khổ cực giúp đạo-đức, khử bạo-tàn, thâu cơ-nghiệp Thành-Thang, cứu dân đen trong nước lửa, tuy đôi bên Thương, Châu khác giá mà đối với lực trung can trí dũng, vị quốc vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô-tư trong Thần-vị, chỉ ngó mặt công phong tước-phẩm.

Đức Khổng Phu-tử tự là Trọng-Ni, cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo của Đời nên lo trù-hoạch phương-châm giảm ác, mới đạt đặng triết-lý Chí-thiên là cơ-quan bảo thế, Ngài đắc thông nên tự-nhiên biết rằng cơ tạo nghĩa là Trời Đất và vạn vật hửu-hình, phải tấn-hoá lần lần cho tận con đường Chí-Thiện. Người thì tận thiện, vật thì tận mỹ gọi là Đạo. Ngài chỉ chiếu theo sự tự-nhiên hành-động tâm-lý của người đời đặng làm chuẩn-thằng đoán xét, ngoài phép an-tân luyên-tánh, Ngài không nhìn phương-pháp nào tự-giác đặng “bổn thiện” và kềm-chế lấy điểm lương-tâm, nên không chịu tin theo lý-thuyết mị-thuật huyền-vi mà trí khôn ngoan của người không thấu đáo, Ngài đã thấy phép trị thế, dầu cho dân sanh phản-kháng thế nào, cũng tuỳ theo một chủ quyền chính-thể, hoặc do nơi đông tay xúm nhau đào-tạo hay là do ở một người đã đặng mạng Trời làm Chúa Đời, cầm luật pháp trị bá tánh.

Ngài cho chánh-trị hành tàng của xác thịt thế nào thì chánh-trị tinh-thần cũng vậy, nên nhìn nhận rằng trên các chủ-quyền trị thế, có quyền vô-vi của Đấng Chí-Tôn, Ngài gọi là Nhứt Đại nên viết Thiên (=/\) nằm trong phép thiêng-liêng thưởng-phạt, Đấng Chí-Tôn ấy chẳng phải có quyền-năng vè phần hồn mà thôi, lại cũng đặng oai-linh phần xác, lý-thuyết Trời và Người đồng trị nảy sinh ra trí đó.

Cơ-nghiệp Văn-Vương qua đến đời Đông-Châu là cùng vận , mà Ngài cố quyết duy-trì, mong lòng hiệp quốc đem luật đặng trị bình, lấy nghĩa nhân đặng khử bạo.

Ngài hiểu rõ rằng quyền-hành chánh-trị chia làm hai phần:

1/- Sanh-hoạt của thi hài.

2/- Biến-hoá về tâm-lý.

Nên Ngài cho luật pháp là cơ-quan độc thiện để trị an thiên-hạ, còn Đạo Nhơn Nghĩa đủ để kềm thúc tánh đức người đời, nên Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà Châu để sở vọng chấn-hưng.

Thương thay một Đấng Chí Thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề thất-vọng, bởi gặp buổi đời quá bạo tàn, nên cây quạt và mảnh mền là Đạo Nhơn Nghĩa của Ngài không đủ thế quat nồng ấp lạnh, Ngài phải thối bước về quê, cam phận thiệt thòi ngồi dạy học.

Bài tự thán “chi lan” của Ngài ai đọc đén cũng phải rơi châu đổ luỵ

May thay ! Qua đến đời Khổng Cập (Tử Tư) là đích tôn của Ngài dạy đặng một trang môn-đệ la Mạnh-Tử, rất nên bậc hiền-triết nối chí Thánh-nhơn, cố mở mang Đại-học.

Triết-lý của Mạnh-Tử là tại Minh-Đức tại Tân-Dân tại chỉ ư Chí-Thiện.

Người đi châu-lưu nước nầy sang nước nọ, lấy nhơn-nghĩa đặng khuyến-khích nhơn-tâm, cảm hoá các chư-hầu. Chỉnh-đốn chế chuyên Vương Đạo.

Thật ra xã-hội Á-Đông nầy đã nhờ ảnh-hưởng công nghiệp của Người lắm lắm.

Đời Đông Châu sôi-nổi, giặc-giả chiến-tranh cả ác hành, sử chép không cùng, mà qua đến đời của Người thì trỏ lại như xưa, tin dùng “bổn thiện” thật tài chính-trị của Ngài rất nên siêu-việt.

 Đức Khổng Phu-tử cũng nhờ ác hành Đông Châu Liệt quốc trong trường chiến-đấu đua tranh giành quyền lợi, mà giáo minh “bổn thiện” của Ngài mới đắc pháp cao thâm. Chí thiện.

Những triết-lý thánh hiền, dầu cổ kim cũng thế, cốt dìu dắt nhơn-sanh đi thong-thả trên con đường lành cho cùng tận, đặng phục-nguyên bổn thiện của mình, các tôn-giáo gọi tên là Đạo.

 Ngày nào “bổn thiện” đã phát-minh, thì cảm hoá chúng-sanh rộng thế. Hèn thì làm cho một gia-đình thiện hành gia pháp, trọng thì giúp quốc-gia xã-hội thiện hành quốc chánh. Còn tối đại thì làm cho toàn thiên-hạ đặng thiện giao hiệp chủng đại đồng.

 

Đền Thánh đêm 30 tháng 12 năm Nhâm-thìn (1953)

(Lễ rước chư Thánh đáo tân niên)

36.- ĐỨC CHÍ-TÔN BAN PHÉP LÀNH

Thưa chư chức sắc Thiên-phong và toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn nam nữ, xin ngồi chỉnh tề tịnh-tâm đặng Bần-Đạo dâng Thần cho Đức Chí-Tôn đến ban Phép lành cho toàn thể(ngồi xuống hết khi ban phép Lành).

Bần-Đạo nhắc lôn lại, khi Đức Chí-Tôn đến mở đao năm Bính-dần tại chùa Gò-Kén, Đêm giao-thừa 30 tháng chạp Bính-dần, sáng ngay mồng 1 Dinh-mão. Đức Chí-Tôn giáng cho Bần-Đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm bảo đứng dậy giơ cần cơ ra ngay chính giữa, dặn các con cái của Đức Chí-Tôn mỗi người phải chun qua cần cơ đó. Cái ơn Thiêng-liêng ấy không người nào mà Đức Chí-Tôn không có ban cho con cái của Ngài giờ phú nầy cũng vậy.

Mỗi năm đêm nay là đêm tong hệ hơn hết. Bần Đạo dám chắc và quả quyết giờ nầy là giờ phút tối-yếu tối-trọng hơn tất cả, Vì cớ cho neenBaanf-Đạo dăng Thần cho Đức Chí-Tôn  đặng Ngài lấy hình thể hửu vi ấy mà ban ơn cho con cái của Ngài.

Bần-Đạo có giảng “Tam Bửu” đã nhiều phen rồi, cái bí-pháp huyền diệu vô-biên ấy nếu toàn thể con cái của Ngài dầu cho đứng trong phần tử Thánh-thể của Ngài lớn nhỏ cũng vậy, toàn cả con cái của Ngài, tức-nhiên Thánh-thể của Ngai tại thế nầy đó vậy.

Nếu cả thảy khi dâng “Tinh” tức nhiên dâng cái xác thịt và cái sống của mình cho Đức Chí-Tôn, chỉ nhờ Đức Chí-Tôn ban huyền diệu mới tận-độ chúng-sanh được, nếu cả thảy triệu người đều nhứt tâm nhứt đức thì dầu cái thân hình và kiếp sống của minh có khổ sở thì cái Cơ Cứu khổ chẳng hề khi nào không làm dduwocj.

 Tiếc thay con cái của Ngài chưa trọn tâm đức, nên cơ giải-khổ của nhơn-loại chưa thực hiện đặng.

 Nói về”Khí” tức nhiên cả trí óc khôn ngoan của chúng ta nếu toàn con cái của Ngaifcuws lo vật chất hửu hình, nào quyền lợi nào thân danh dưới thế gian nầy nó đều là mông ảo, thì kiếp sống aayslaf vô-vị, chúng taddax thấy câu “mộng huyễn bào ảnh” nên Đức Chí-Tôn có nói “Thiệt thì bỏ giả vay nên nợ” cái tâm của minhfddax bị cái hình xô đẩy vào con dduwowngftruyj-lạc, thì không mong gì thoát khỏi kiếp luân-hồi của Đức Chí-Tôn đã định, vậy cả thảy dâng”Khí” tức là trí óc của mình đó.

Bân-Đạo dám nói chắc: Cái thông-khổ tâm hồn con người nơi mặt thế nầy chúng ta có phương-pháp, có quyền năng anủi được. Bàn-Đạo nói thiệt chúng ta sống là do cái hồn mà sống, chớ cái xác là vaatjtam để cho chúng ta mượn đặng trả quả kiếp đó thôi. Còn các bạn chúng ta nơi cỏi Thiêng-liêng Hằng sống có hồn mà không có xác là vì họ đã thoát kiếp trần rồi.

Bấy giờ họ đã ở trên ấy, họ sẽ đến cái cơ thiêng-liêng vận chuyển pháp-luân nơi mặt địa-cầu nầy các đẳng linh-hồn đồng chung sống với nhơn-loại, nhưng chỉ cách nhau ở chỗ vô-hình và hửu-hình ma thôi.

Nếu toàn thể con cái Đức Chí-Tôn trụ hồn laijcar thảy muôn triệu hay là một ngày kia toàn nơi mặt địa cầu nầy , mặt thế gian nầy lam một khối quyền-năng vạn-linh của thiên-hạ nơi mặt địa-cầu nó sẽ hiện-tượng, mà có hiện-tượng được là họ phải thọ khổ, Thắng khổ, rồi giải khổ thì mới mong đoạt vị được.

Chừng ấy chẳng phải đại-đồng thiên-hạ mà thôi, lại còn đại-đồng cả càn khôn vũ trụ nữa mà chớ.

 

Ngày mùng 1 tháng 1 năm Quý Tỵ (1953)

37.- ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRONG DỊP LỄ CÁC CƠ QUAN CHÚC XUÂN ĐỨC NGÀI TẠI GIÁO-TÔNG ĐƯỜNG

Bần Đạo lấy làm cảm kích được nghe mấy lời tâm huyết của toàn thể các cơ quan Chánh Trị Đạo đã chúc thọ cho Bần Đạo.

Hồi tưởng lại khi Bần Đạo để bước trở về cố quốc sau 5 năm bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, thì cũng tưởng rồi cái vận mạng của nước Việt Nam, có lẽ chờ đến  ngày về  của Bần Đạo nó sẽ đặng hoàn tất, và đem sở năng hạnh phúc đựng thành tựu, thì cả tinh thần anh dũng của toàn quốc dân đứng dậy phá huỷ xiềng xích lệ thuộc, điều ấy Bần Đạo đã nghe ra từ khi còn ở nơi Hải Đảo.

Ôi thôi ! Trái lại khi Bần Đạo bước chân trở về thì đã ngó thấy cái chí quật cường và lòng phục quốc chẳng có năng lực nào khác hơn là năng lực của Quân Đội Cao Đài.

Thưa cùng các Cơ Quan Chính Trị Đạo, Hành Chánh Hiệp Thiên Đài, Phước Thiện, Quân Đội, Bần Đạo xin cả toàn thể đứng yên lặng trong 5 phút đồng hồ để tưởng niệm đến các Thánh Tử Đạo, vì vận mạng của nước nhà, vì chánh thể của nền chơn giáo đã hy sinh đặng làm sứ mạng Thiêng Liêng của mình bằng xương máu, Bần Đạo xin cả thảy đều tịnh tâm cầu nguyện.

Các bạn Hiệp Thiên Đài, nhứt là Cao Tiếp Đạo những lời châu ngọc của Hiền Hữu nó đã ăn sâu trong tâm hồn của Bần Đạo thật vậy, nếu kiếp sanh nầy may duyên nó có thể nói rằng : Kiếp sanh tại thế nầy nó là con vật, mà con vật ấy có thể hữu dụng được cũng là hạnh phúc cho kiếp sanh của Bần Đạo đó vậy.

Trên nhờ ơn Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu thương tưởng, dưới nhờ toàn thể con cái của Ngài nam cũng vậy, Nữ cũng vậy. Bần Đạo nghĩ lại chẳng còn phần thưởng Thiêng Liêng nào hơn, cả bao nhiêu lời cầu chúc của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã trả công nghiệp cho Bần Đạo với một giá rất mắc mà không hay đó vậy.

Các bạn Hiệp Thiên Đài, các người cầm cân công bình Thiêng Liêng của Đạo mà Đức Chí Tôn đã để lại tại nơi mặt thế nầy, hạnh phúc hay đau khổ của toàn thể nhơn loại một ngày kia đều mơ vọng trên mặt cân của Chư Hiền Hữu. Bần Đạo xin nhắc lại lời yếu thiết của Đức Chí Tôn đã hoà ước với chúng ta là : "Công bình" mà công bình ấy Bần Đạo đã gởi nơi Hiệp Thiên Đài đó vậy.

Hành chánh Bần Đạo để lời cám ơn từ khi Bần Đạo để bước về cố quốc tới giờ thì năng lực của toàn Thánh Thể Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, nên giờ phút nầy Bần Đạo đủ năng lực, đủ quyền hành đặng làm chức vụ Thiêng Liêng của mình một cách mạnh mẽ oai quyền, Bần Đạo để lời cám ơn và cầu chúc cho Đức Chí Tôn ban khiếu huệ quang cho toàn thể Nam, Nữ thấu đáo cho đặng Thánh Ý của Đức Chí Tôn thêm nữa đặng tạo thành cơ quan cứu khổ thiên hạ và tạo hạnh phúc cho đồng bào Quốc Quân Việt Nam tức nhiên là đồng bào của Thánh Thể buổi nầy vậy.

Hội Thánh Đường Nhơn giờ phút nầy trong giai đoạn ngắn ngủi đây Hội Thánh Đường Nhơn sẽ có một trách vụ yếu trọng, Bần Đạo nói tiên tri cho biết đặng sửa soạn lấy mình định phận trước.

Hội Thánh Phước Thiện. Ôi ! Nếu Bần Đạo dòm trước mắt thấy một điều đau khổ của chúng sanh chừng nào thì Bần Đạo để hy vọng trong cơ quan ấy hơn hết.

Trải qua một thời gian định quốc đây rồi cái sự thống khổ của toàn Quốc Dân Viêt Nam nó sẽ định quyền lực lại nhứt là các chiến sĩ đã hy sinh vì nước họ đã bị bịnh hoạn tật nguyền, đau khổ, nghèo nàn, muốn cứu vãn tương lai ấy đặng đem mãy may hạnh phúc lại cho nọ, Bần Đạo chỉ trông mong nơi Phước Thiện mà thôi đó nghe.

Các con chiến sĩ anh dũng Cao Đài, một lần nữa Thầy để lời cám ơn các con. Trong sáu, bảy năm Thầy đã dìu dẫn các con đi trên đường hy sinh vô bờ bến, hồi tưởng lại nếu các con để tâm bình tỉnh lấy cả Đạo Đức tranh đấu vì non sông vì Đạo, thì Thầy chắc các con chiến thắng đó vậy, và Bần Đạo dám nói rằng: Lời ấy không phải là lời quá đáng, các con đã đi đủ hai giai đoạn.

Giai đoạn đầu, các con đã tạo thành năng lực cách mạng đã đảo chánh quyền đem cả năng lực chiến đấu của Nòi Giống Việt Nam, lộn lại mới có một tấn tuồng mạnh mẽ như thế hiện trước mặt Bần Đạo đã ngó thấy cái ngày đã đảo chánh quyền quật cường của nòi giống các con.

Ngày nay nó đã tới giai đoạn phục quốc thì cũng nhờ cuộc đảo chánh quá cường liệt ấy cho nên phục quốc của các con mới liên tiếp mãi, vì cớ nên đoàn anh của cac con họ mơ vọng ngày định vận mạng của tổ quốc chỉ ở sớm tối đặng thành tựu mà thôi, nhưng tội nghiệp thay ! Các đoàn anh mơ vọng ấy họ phải ân hận trong giờ chót của họ.

Vậy Thầy cho các con biết giai đoạn phục quốc đã qua, giai đoạn định quốc đã đến, tức nhiên giai đoạn lập chánh thể nước nhà các con. Nếu nền Độc Lập nước Việt Nam bền vững hay chăng, Bần Đạo không ngại ngùng không thẹn thuồng nói : Năng lực bảo vệ nền độc lập nước nhà các con được vinh hiển bền bỉ hay không là do nơi năng lực quốc tế mà thôi.

Hạnh phúc thay ! Mới thâu hoạch lại nền độc lập đã mất hơn 80 năm mà hôm nay được hơn 40 nước liệt cường nhìn nhận, dầu muốn, dầu không, không có quyền lực nào thâu nền Độc lập ấy lại đặng, không có quyền lực nào dang tay phá huỷ nó cho đặng, chánh thể lập quốc của các con sẽ tới trong giai đoạn ngắn ngủi đây.

Hôm nay Thầy nói rõ, chắc các con lấy làm lạ, sao đương lúc bình tịnh nầy mà xảy ra một đại cuộc làm đau đớn cả cơ thể các con, các con cứ yên tâm, Thầy giải nghĩa cho các con biết, giai đoạn tới trước rồi Thầy dìu dẫn các con để bước lần đến địa vị cho đúng, đó là phận sự các con phải làm bất quá cả cơ thể Thầy xô các con là vậy đâu, còn nữa. Thầy sẽ xô các con đi đến mức chánh thể nước nhà và lập phương pháp để bảo vệ nền độc lập của các con được bền vững chớ không có chi khác.

Khi thầy ở hải Ngoại về, Thầy có giao một tờ hoà ước với kẻ cầm quyền nước Pháp, ở trong đó Thầy nhứt định phải trả từ Mũi Cà Mau dĩ chí đến Aûi Nam Quan lại, tức nhiên Hoàng Đồ đất Việt Nam phải giao dưới quyền lãnh đạo của nhà Vua Bảo Đại là người kế tự cho các Đế Vương ta. Dòng nhà Nguyễn duy có người đó mới có đủ quyền lực ăn nói cùng với Quốc Tế. Vì cớ cho nên ngày về Thầy qua bên Hồng Kông Hương Cảng Thầy đã nói với Ngài, theo mặt Luật Quốc Tế thì Hoàng Thượng vẫn còn Hoàng Đế, còn nói với toàn thể Quốc Dân Việt Nam khi Hoàng Thượng thoái vị có nói rằng: Hoàng Thượng để hạnh phúc Quốc Dân trên ngôi báu của Hoàng Thượng "Thiên Tử vô hí ngôn" đối với Quốc Dân Hoàng Thượng còn làm Quốc Trưởng. Tôi xin hứa với Hoàng Thượng cái giai đoạn nầy nó sẽ tới giai đoạn "Quân chủ lập hiến" mà thôi, chớ chưa hề nước của mình đi đến dân quốc được.

Đức Quốc Trưởng đã chịu và hứa như vậy, nên ngày nay Ngài đã thi hành mấy lời hứa với Bần Đạo thì ngày lập quốc dân quyền giờ phút tới đây Bần Đạo giữ lời hứa với Ngài, Bần Đạo sẽ sắp đặt quân chủ lập hiến ra thiệt hiện.

Bần Đạo nói quả quyết, các con trụ cả khối tin trung lộn lại đối với toàn thể nước nhà chủng tộc của các con, thì trên Đức Quốc Trưởng không thay lời hứa, dưới Thầy không lỗi hẹn, thành thử Thầy xin lại cho dân tộc của các con độc lập thiệt hiện đặng.

   

Ngày mùng 9 tháng 1 năm Quí Tỵ (1953)

38.- ĐỨC HỘ PHÁP CĂN-DẶN CHIẾN-SĨ CAO-ĐÀI TRONG DỊP LỄ XUẤT

Thưa cùng Chư Quí Quan,

Thưa cùng toàn thể các Vị Sứ Thần nước ngoài,

Thưa cùng Ngài Thủ Tướng Chánh Phủ của chúng tôi,

Thưa cùng Quan Trung Tướng Bondis và Quí Ngài có mặt nơi đây.

Hôm nay là ngày Lễ Xuất Quân của Quân Đội Cao Đài, Bần Đạo lấy làm cảm kích vô cùng.

Thưa Quí Ngài xin cho phép Bần Đạo để lời căn dặn cả chiến sĩ của Bần Đạo đôi điều trọng hệ hơn hết là về mặt Đạo. Bần Đạo đã nói cho các con Thượng Hạ Sĩ Quan Chiến Sĩ Quân Đội Cao Đài hiểu rõ.

Từ ngày Thầy bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, khi trở về cố Quốc, Thầy đã đem cho các con một phận sự mới mẻ yếu trọng tưởng cả thảy đều biết là phận sự cứu quốc, cai hy sinh vô tận của các con từ 10 năm nay Thầy không có phần thưởng nào cho xứng đáng, duy có 2 cây Đạo Kỳ nầy mà Thầy để cả tâm hồn vào đó và Thầy đã ban cho các con, hể đến ngày Kỷ Niệm Lễ Xuất Quân thì Thầy đây là Ông Cha Thiêng Liêng của mấy con, vậy các con nên tưởng niệm các Thánh Tử Đạo, các Chiến Sĩ hy sinh vì Tổ Quốc, việc ấy Thầy không cần miêu tả các con cũng đã hiểu biết cái thâm tình ấy.

Hôm nay đến giai đoạn định quốc Thầy sẽ ban cho các con một phận sự yếu trọng mới mẻ, phận sự nầy khó khăn nguy hiểm hơn trước kia nhiều nữa.

Muốn cho cả tinh thần của Chiến Sĩõ Cao Đài thống hợp lại làm một khối, tinh trung cứng rắn mạnh mẽ để cứu vãn tương lai của nước, tạo thành hạnh phúc cho chủng tộc của các con, nên Thầy làm một Vị Giáo Chủ đây tức là một Vị Giáo Sư để Giáo Đạo Nòi Giống Việt Nam mà thôi, nhưng vì huyết quản của Thầy đã xuất hiện trong nòi giống các con, nên phải làm cho xứng phận công dân ấy, thì Thầy làm phận sự Thiêng Liêng mới đáng giá của nó.

Thầy đã ban cho lá Quân Kỳ 4 chữ "Tận Trung Báo Quốc" có lẽ miệng đời dị nghị cho rằng 4 chữ "Tận Trung Báo Quốc" mà Nhạc Phi đã cứu nước Tống khỏi thất quốc.

Người của nước ta duy có 2 tướng :

1/ - Võ Tánh

2/ - Ngô Tùng Châu.

Hai vị ấy đã hy sinh tánh mạng khôi phục Hoàng Đồ cho Tổ Quốc. Thầy nói quả quyết rằng : Các con coi 4 chữ ấy nó sẽ thay đổi tinh thần nòi giống dân tộc, nó sẽ giúp các con đắc lực và oai quyền hơn nữa.

 

Ngày 16 tháng 1 năm Quí Tỵ (1953)

39.- ĐỨC HỘ PHÁP ĐỂ LỜI PHỦ DỤ HIẾN SĨ CAO ĐÀI

Thưa cùng Chư Viên Quan,

Chức Sắc Đời và Đạo.

Trước khi Bần Đạo để lời, Bần Đạo xin nghiêng mình cảm tạ cả thảy Đồng Bào đôi bên niệm tình của Quân đội và của Đạo đến dự lễ đông đảo và long trọng làm cho rỡ ràng thêm vẽ Đạo. Bần Đạo xin cúi mình cám ơn toàn thể.

Thưa cùng toàn thể Đồng Bào.

Bần Đạo xin để lời cùng các Ngài, trước vận mạng đương nhiên của Tổ quốc, nòi giống tới một giai đoạn rất nên yếu trọng, nếu không nói nó đã đến giai đoạn khó khăn đặng định vận mạng tương lai của nó. Nhứt là Bần Đạo xin để lời riêng biệt cùng các nhà Văn Sĩ và các Sứ Giả. Trên 9 năm tranh đấu, hôm nay cái phận sự ấy, yếu trọng cho các Ngài hơn hết, bởi nó đến giai đoạn chúng ta phải tranh đấu về tâm lý. Tưởng khi trên 9 năm quật cường thâu hồi độc lập cho Tổ quốc giang sơn, các Ngài đã có sẵn trong tay một sử liệu, có thể một ngày kia ngòi bút quí báu của các Ngài lưu lại cho hậu tấn một kiểu vở khuôn mẫu y theo tinh thầm cố hữu của Tổ phụ để lại.

Cái chí quật cường sau 80 năm đô hộ khiến cho đồng bào chúng ta muốn giải thoát thâu hồi Độc Lập và Hoàng Đề của Tổ phụ lại. Một giang sơn gấm vóc như thế nên buộc chúng ta hải hy sinh sương máu, từ cổ chí kim vẫn vậy. Luật thiên nhiên dưới thế nầy, chẳng có điều chi mà ta đã xin đặng, ta chỉ phải mua phải chuộc với một giá cho đồng giá trị với vật mà ta muốn thâu hoạch. Nhưng ôi thôi ! Vật của toàn quốc dân đồng bào muốn thâu hoạch ấy, vật đó nó quá giá tưởng tượng, cho nên phải trả với một giá rất mắc, là cái giá xương máu trên 9 năm tranh đấu.

Thưa cùng Đồng Bào, các nhà Văn Sĩ, các Vị cầm bút đang dìu dẫn cả tinh thần trí não của chủng tộc ta buổi hôm nay. Có lẽ khi trong lúc rổi rảnh các Ngài có thể để một dấu hỏi ? Cái đường lối của Đạo Cao Đài đã tự xưng là Quốc Đạo, hỏi lấy cả tánh chất của nó, nó đã hiển nhiên trở nên một nền Đại Đạo cho Quốc tế, mà cái nạn nước của họ như thế khi rảnh ấy các Ngài cũng để câu hỏi ? Trường hợp đó thử nghĩ cả thảy những kẻ trí thức tinh thần phải đi đường lối nào ? Phải dùng phương pháp nào ? Nhứt là tình trạng của Bần Đạo sau 5 năm đồ lưu trở về nước. Năm 1946 cả cái tình trạng của nước nhà, các Ngài cũng hiểu thấu. Bần đạo xin thú thật buổi nọ Bần Đạo đã bí lối, không ngõ thoát. Một đàng thì Việt Minh lợi dụng tinh thần ái quốc của toàn thể quốc dân đồng bào, chí hướng có một điều là lập trường cứu quốc. Nhờ cái năng lực mạnh mẽ và quyền năng ấy, họ đã nắm trọn cả số mạng của nòi giống và tổ quốc trong tay từ Nam chí Bắc. Nếu như cơ cấu tranh đấu của họ quả là một cơ cấu quốc gia chân chính, thì sự thâu hoạch và thống nhứt hoàn đồ đã làm rồi, đã thành tựu rồi. Hại nổi họ phải xu hướng theo hai chí hướng của hai khối, nhứt là nương nơi khối ấy mà họ định vận mạng tương lai nước nhà chủng tộc là cái lầm nhứt hết. Nếu quả nhiên cái định hướng của họ thật đem lại thắng lợi cho nước nhà, cho chủng tộc thì Bần Đạo tưởng không nói rõ ra cả thảy đồng bào đều biết, cũng như kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi chơ không chi khác. Ngó ngọn cờ độc lập mà cũng lệ thuộc vẫn như xưa, thì làm thế nào mà tạo hành phúc cho tổ quốc nòi giống đặng. Hại nổi, khi về nước, bên nầy giành giựt cả quần chúng, thì bên kia cũng giành giựt cả quần chúng, bên nầy Việt Minh bên kia Pháp, khối Quốc gia ở giữa hai tình thế rất nguy hiểm và hai lằn tên mũi đạn.

Thưa cùng cả thảy Đồng Bào, thử như thế đồng bào mới chỉ con đường nào cho Bần Đạo đi mà chớ. Có một con đường duy nhứt là con đường sẳn có của chúng ta mà Tổ Phụ ta đã để lại. Con đường đã có trên 4.000 năm lập Quốc và 4.000 năm Văn Hiến là con đường duy nhứt Bần Đạo phải đi. mà con đường ấy, ôi ! Không biết bao nhiêu đau đớn. Đã hy sinh cái khối xương máu của Chiến Sĩ Cao Đài, làm thành, làm luỷ đạng bảo vệ sống còn của nòi giống dưới ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng. Nếu toàn thể đồng bào hiểu cái thâm ý của nó sẽ ứa luỵ cùng Bần Đạo mà chớ.

Có một phen mà Bần Đạo đã tuyên bố "Quân Đội Cao Đài xuất hiện ra đặng làm tấm bình phong chịu chết cho giống nòi khỏi chết, bảo vệ cho giống nòi còn sống, bảo thủ cái Nhơn Nghĩa của Tổ Phụ để lại". Có nhiều khi Bần Đạo cũng lấy làm đâu đớn lắm vây, nhưng nghĩ đến cái sứ mạng Thiêng Liêng cao cả ấy, có chút an ủi mảy may trong tâm não.

Các con Chiến Sĩ Cao Đài, từ Thượng Hạ Sĩ Quan dĩ chí đến Binh Sĩ một phen nữa Thầy xô các con ra hy sinh cứu Nòi Giống và Tổ Quốc các con, tương lai vận mạng nhứt định thế nào các con vẫn tiếp tục tranh đấu cho kỳ đặng thâu Độc Lập cho Nòi Giống và Tổ Quốc các con.

 

Đêm 29 tháng 1 năm Quí Tỵ (1953)

39.- ĐỨC HỘ-PHÁP THUYẾT GIẢNG VỀ THỂ-PHÁP CỦA ĐẠO

Mấy kỳ đàn rồi bị lập thệ cho Quân Đội thành thử không thuyết Đạo được, có lẻ cả thảy hôm nay muốn nghe lắm, Bần Đạo có bịnh mệt một chút nên tiếng nói có hơi ồ ề, thuyết Đạo cả con cái Đức Chí Tôn nên để tai nghe.

Hôm nay tình trạng biến thiên các Thanh Niên của Đạo đã bị trào lưu loạn lạc lôi cuốn tâm đức của họ điên đảo Bần Đạo có thể nói tinh thần của họ hoang mang mà chớ, nên bửa nay Bần Đạo thuyết về Thể Pháp của Đạo nghĩa là : Khuôn luật của Đạo Cao Đài chúng ta đó vậy, Bần Đạo đã thuyết minh về Thế Đạo của Đạo Cao Đài là Nho Tông Chuyển Thế, mà Nho Tông tức nhiên Đạo của Tổ Phụ của chúng ta từ ngàn xưa để lại.

Ấy vậy những yếu lý của Nho Tông mới có thể làm mực thước mà định chuẩn thẳng trong khuôn khổ cái sống đương nhiên của mình đặng, chúng ta đã ngó thấy Nho Tông của chúng ta là một nền Tôn Giáo Xã Hội, cái đặc điểm của nó là Đức Chí Tôn đến lập trường Nho Tông trị thế.

Ấy vậy tinh ba của Nho Tông là gì ? Phải chăng cái chiến thuật của nó là "Tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ" tức nhiên cái tôn chỉ cao thượng của Đức Mạnh Tử là "Đại học chi Đạo, tại minh minh đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư chí thiện".

Bây giờ xin cả toàn thể con cái của Đức Chí Tôn từ từ nghe Bần Đạo thuyết chữ "Tu thân" trước : Từ Thượng Cổ tới giờ Đức Thánh Nhơn lấy hai chữ tu thân làm căn bản, hai chữ tu thân đã có từ lâu, nếu chúng ta xem Lịch Sử của Nho Tông thấy nó đã xuất hiện từ Đức Huỳnh Đế có trên không biết mấy ngàn năm, trước Chúa Giáng Sanh.

Ấy vậy nó là tối cổ, cái phương pháp tu thân dầu thời đại nào cũng có, cái chí hướng của các tôn giáo là phải tu thân lấy mình dầu cá nhân, dầu xã hội hay toàn thể nhơn loại cũng vậy, cái tâm đức của con người bao giờ cũng có mẫu thuẩn hể họ nghe thấy điều nào hay, điều nào thiện đặng họ biết nhìn một cách chơn thật, nhưng mà họ không có làm còn biết chê cái dở cái ác mà họ lại làm, hai cái đó nghịch cảnh với cái tâm, không có một vị thánh nào ở thế gian nầy tìm nguyên lý nó cho đặng.

Bởi vậy cái tấm lý cuả con người họ hay xu ác mà xa thiện, vì cớ cho nên các vị giáo chủ lập nền tôn giáo dạy phải làm thế nào gọi là tu thân, dầu cá nhân hai toàn thể nhơn loại cũng phải lấy hai chữ tu thân làm gốc, Bần Đạo đã nói, nó khởi đường lập tức là tại minh minh đức.

Hại thay ! Nơi thế gian họ đã hiểu như thế mà họ không kể đức, họ không lập đức, hỏi vậy thành Đạo làm sao được ? Cái đức ấy thiên hạ chỉ ngó mịt mịt mờ mờ, nhưng họ đâu có biết rằng nó vô hình, vô ảnh mà quyền năng của nó không ai đảm đương được, đã tạo lập cái đức ấy phải trọn tâm, làm một mới có thể thiên hạ kính trọng, nhờ tâm đức ấy chúng ta mới có thể coi cả huyền vi của họ được, họ tạo đức ra là chỉ đặt cái sở hành đê hèn mà thôi, họ muốn thế cho nên họ chỉ kiếm cái người không biết lập đức mà họ làm màu cho ra vẽ người có đức, bởi không có đức thì không hề lập bên thân danh đặng.

Bây giờ chúng ta đã ngó thấy từ Thượng Cổ đến giờ dầu cho từ hàng lê thứ dĩ chí đến bực Đế Vương muốn lập vị mình cũng phải nương theo cái đức ấy, nếu chúng ta thấy họ còn dùng cái đức ấy ở chỗ hèn hạ bao nhiêu thì không bao giờ giữ cái đức ấy còn tồn tại đặng, rồi đến cái ngày bỏ đức của họ, trở lại dùng bao bạo tàn như Sở Bá Vương, như Tần Thủy Hoàng thì dầu cơ nghiệp họ có bền chắc bao nhiêu cũng phải xiêu đổ.

Còn kẻ không màng thân danh Bần Đạo chỉ cái bằng cớ hiển nhiên như Hứa Do là một vị Hiền Tài mà thôi, chỉ có biết đức mà Vua Nghiêu đi tìm Ngài để rước về đặng truyền ngôi cho Ngài, nhưng Ngài chỉ coi công danh như phù hoa, như mây gió, nên Ngài có kể gì đâu. Cái giá trị của Vua Nghiêu đối với Hứa Do không có gì hết, mới có câu :

"Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi, yến thử âm hà bất quá mãn phúc" Nghĩa là con chim tiêu liêu làm ổ trên rừng chẳng qua một nhánh, con chuột uống nước sông chẳng qua đầy bụng, vì thần đã quen cái thú an nhàn của thần rồi, dầu bệ hạ có truyền ngôi cho thần đi nữa thần cũng không làm, thần chỉ biết lập đức thôi, dầu cho cả công danh phú quí ở mặt thế gian này đối với cái đức không có giá trị gì hết.

Bởi cái thuyết lập đức người ta đã ham làm mà làm không được, nên cái giá trị của Hứa Do đối với Đức Nhan Hồi cũng tương đương với nhau, khi Đức Nhan Hồi đai cơm bầu nước đi Giáo Đạo đến nước Tề. Tề vương biểu ở lại thì bực công khanh của Ngài không mất, nhưng Ngài trả lời rằng : Thần đã quen cái thú an nhàn của thần rồi. Thú an nhàn không có thể gì mà đem đổi cái giá trị công danh quyền tước đặng, nếu bệ hạ muốn đổi cái giá trị lập đức nó trọng hệ là thể nào ?.

Hại thay ! Ở giữa thế gian này không biết mấy vị Hiền Nhân Chí Sĩ đã hiểu được cái giá trị lập đức chưa đến, nên mới ra sự tôi mọi hạ tiêïn, làm hư danh thể của mình, nếu để cái giá trị ấy lại thì không đáng giá gì hết mà phải hạ mình làm chi ? Hai ngôi vị ấy chọi với nhau như một trời một vực.

Ở nơi cửa Đạo, Bần Đạo đã đem con cái Đức Chí Tôn và Thanh Niên của Đạo đặng làm Thánh thể tương lai của Ngài, nếu cả thảy đều biết nổi khổ để làm phương tu thân lập đức thì cái giá trị của thiên hạ làm dễ như ăn ớt chớ không có chi khó.

Vậy toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài, phải đem cái Đức Thiêng Liêng ấy rải khắp cả thiên hạ thì chúng ta mới có thể cứu khổ được.

 

Tại Đền Thánh, đêm 30 tháng 2 năm Quí Tỵ (1953)

(Vía Đức Cao Thượng Phẩm)

 41.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ ĐẠI-NGHIỆP THIÊNG-LIÊNG ĐỨC CHÍ-TÔN ĐEM ĐẾN TẠO DỰNG NƠI MẶT TH

Từ hôm Bần Đạo bịnh tới nay không có giảng Đạo đặng,  vậy đêm nay dâng sớ cầu nguyện cho Đức Cao Thượng Phẩm đặng cho thăng Thiêng Liêng chi vị. Bần Đạo mong chí thượng đạt của Ngài cũng như lúc sanh tiền đã đối với Bần Đạo và toàn thể con cái Đức Chí Tôn.

Bần Đạo đêm nay lấy cái đề trọng yếu mà giảng.

Hôm nay cái đề trọng yếu này là cả sự nghiệp Thiêng Liêng Đức Chí Tôn đem đến tạo dựng nơi mặt thế này. Và hiện giờ có 3 sắc dân được hưởng hồng ân đặc biệt của Đức Chí Tôn đến tạo nghiệp cho họ.

Sắc dân thứ nhứt : Là Sắc Dân Ấn Độ Brahmane (kêu là Bà La Môn) Đức Chí Tôn đến tạo Đạo cho họ và tạo Đại Nghiệp Thiêng Liêng cho Sắc Dân ấy trước nhứt.

Sắc dân thứ nhì : Chính Ngài đến là Chúa Jésus Christ đặng tạo nghiệp cho Sắc Dân Do Thái mà ngày nay vẫn còn tồn tại.

Sắc dân thứ ba : Thời kỳ Sắc Dân Việt Nam hưởng được đặc ân ấy lần thứ ba, cái lý do Đức Chí Tôn đến cùng con cái của Ngài là vì trong thời kỳ Hạ Nguơn Tam Chuyển, đang bắt đầu Thượng Nguơn Tứ Chuyển, Ngài đến đặng Ngài thống hợp toàn thể con cái của Ngài lại làm một. Ngài đến đặng lập một nền Chơn Giáo, lựa chọn con cái của Ngài, tạo Thánh Thể của Ngài làm một Cơ Quan Cứu Khổ và tạo đại nghiệp cho con cái của Ngài là mấy em Thanh Niên Nam, Nữ của Đạo đó vậy. Nhứt là bên Phái Nữ phải chịu thiệt thòi, phải chịu nghèo khổ hơn hết và có lúc lại bần hàn hơn nữa, mà đến nay dường như thời gian nó gợi lại trong tâm não mấy em. Nhưng nghèo hèn rồi cũng có sướng là lúc này mấy em sắp hưởng một Đại Nghiệp mà Đức Chí Tôn đã dành sẵn cho mấy em. Cái đại nghiệp ấy của mấy em, mấy em phải rán giữ gìn, nếu muốn gìn giữ cái đại nghiệp ấy cho tồn tại thì mấy em phải thương yêu nhau, nâng đở cho nhau dìu dắt nhau, chịu khổ với nhau thì mới là bền bỉ được.

Giờ phút này Qua đứng trên Tòa Giảng này Qua nói : Cái tương lai của con cái Đức Chí Tôn nó sẽ giàu có không thể tả được, từ năm 1926 cho tới ngày nay mới có hai mươi mấy năm thôi, mấy em ngó thấy cái Đại Nghiệp Vĩ Đại như thế này là do nơi đâu không ? Phải chăng là do nơi Huyền Diệu Vô Biên của Đức Chí Tôn đã ban cho mới tạo dựng được như thế này và Ngài trụ cả con cái của Ngài làm Thánh Thể mà lập nên đó thôi. Nhưng có một điều rất ngộ nghĩnh là đứa ngu sẽ được không ngoan, đứa giỏi lại giỏi hơn, có tài hoạt bát trọn tâm lo Đạo. Vì cớ cho nên Ngài mới đem cái đại nghiệp mà giao cho con cái của Ngài đặng đem cả năng lực Thiêng Liêng thắng sự khổ não đặng làm cơ quan cứu khổ, nên Đức Cao Thượng Phẩm và Đức Quyền Giáo Tông vì lẽ ấy mới hy sinh cho Đạo. Chính Bần Đạo đây cũng vậy nếu mấy em biết trọng dụng Chơn Lý nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn thì mấy em phải nuôi-nấng cứu khổ, dung dưỡng các em của mấy em, thì ít nữa mấy em phải có đủ phương thế bảo vệ sanh mạng của nó mơi được. Qua nói như vậy có lẻ mấy em cũng đủ hiểu, cái làm ăn, cái làm giàu, chưa hề tạo được  cái đại nghiệp như thế này và không thể gì bảo trọng cả sanh mạng con cái của Ngài đặng. Nếu muốn bảo trọng các em của mấy em thì đừng dùng quyền hành sửa trị, phải dùng Đạo Đức răng họ, thì mới mong thực hiện một nền Chơn Giáo Đại Đồng, vì Đức Chí Tôn đến lập Hội Thánh là cốt yếu Ngài định vận mạng cho nước nhà đó vậy.

Qua nói thiệt : nếu không phải Thánh Thể của Đức Chí Tôn cậy mượn thì chưa hề ai làm được điều ấy. Bần Đạo chỉ nói đến tương lai của mấy em mà thôi. Khi mấy em đã hưởng được quyền năng Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn rồi, thì Qua cậy mấy em hy sinh cái tự do của mấy em đặng làm cái đại nghiệp cho nó thật nên hình nên tướng, vì đại nghiệp này không biết bao nhiêu giọt mồ hôi của mấy em đó.

Khi Qua bị đồ lưu nơi Hải Ngoại đến lúc về cả cơ nghiệp làm trước kia đều bị tiêu phá hết, duy còn Tòa Thánh, Báo Ân Từ, Khách Đình cũ, Hộ Pháp Đường, Giáo Tông Đường còn sót lại, còn bao nhiêu đều hủy hết.

Từ năm 1946-1947 vừa bắt đầu tạo dựng đại nghiệp ấy lại nên mấy em bắt tay làm lại, cả các con Nam cũngvậy, Nữ cũng vậy biết bao nhiêu sự khổ não, biết bao nhiêu sự hy-sinh mà tạo dựng có mấy năm thôi, nay đã nên hình tượng, cái của này là của mấy em nghèo khổ đã tận tâm tạo dựng, nếu mấy em cực khổ bao nhiêu thì cơ nghiệp Thiêng Liêng của mấy em càng ngày càng lớn, mấy em càng ngày càng giàu, cái giàu của mấy em không phải giàu như các nền Tôn Giáo nơi mặt Địa Cầu này. Cái giàu của mấy em cốt yếu bảo vệ sanh mạng khổ não cho đàn em của mấy em, không ai có quyền năng gì làm chủ đại nghiệp Thiêng Liêng này đặng, mấy em hiểu chưa ?.

Ngộ nghĩnh thay ! Một nền Tôn Giáo lấy hai chữ Bác Ái Công Bình làm căn bản mà cái tương lai nó rực rở làm sao mấy em ôi ! Còn quyền Thiêng Liêng của Đạo mấy em đã biết nó cũng như các nền Tôn Giáo khác, chớ có lạ gì đâu. Trái ngược lụng lại nếu Thánh Thể Chí Tôn cầm quyền mà còn ỷ lại thì thiên hạ trông vào họ tránh hết. Qua nói thiệt, nếu mấy em thật hành đúng theo Chơn Giáo của Chí Tôn thì không có quyền lực nào đàn áp nó đặng.

Nếu muốn thi ân bố đức, thì phải cần làm cho đáng giá Thánh Thể của Ngài là công các con, cái khổ não của Ngài đem vào chia cơm, chia muối, chia khổ não của họ, thì mới là xứng đáng Thánh Thể, mới xứng đáng là cơ quan cứu khổ của Ngài.

Mấy em khá nhớ mấy em là người phụng sự cho Đạo mà thôi, không phải như các nền tôn giáo khác là muốn làm chúa thiên hạ, nếu muốn làm chúa thiên hạ thì tốt hơn là làm tôi cho con cái Đức Chí Tôn là phải hơn.

 

 mùng 1 tháng 3 năm Quí Tỵ (1953)

(Vía Đức Cao Thượng Phẩm)

42.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ SỰ THÔÙNG-KHỔ CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG-PHẨM

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong

Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Cửu Trung Đài,

Các Cơ Quan Chánh Trị Đạo, Phước Thiện và Quân Đội

Cùng toàn thể con cái Chí Tôn Nam, Nữ.

Hôm nay là một ngày Kỷ Niệm Vía của Đức Cao Thượng Phẩm mỗi năm Bần Đạo đã nói, đã thuyết, đã tỏ tâm tình của Bần Đạo đối với ngày này rồi, nếu lập lại một phen nữa cũng không ích. Vậy yếu điểm hôm nay Bần Đạo lên đứng đây chỉ nhắc Đức Cao Thượng Phẩm một điều mà thôi, lúc Ngài mới qui liễu, Ngài cũng vậy mà Đức Quyền Giáo Tông cũng vậy. Hồi Đạo mới phôi thai thiên hạ khinh khi chế nhạo hết sức, nên Bần Đạo nói rằng:  Họ đã dùng cường quyền họ làm cho hai người ấy phải chịu thống khổ một cách không thể tả.

Đôi phen mỗi ngày vía như vậy, nó khêu gợi một cảm tình của toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Bần Đạo, nhưng Bần Đạo đè nén nó lại.

Đã hai mươi mấy năm Bần Đạo còn nhớ cái ngày Di Liên Đài của Đức Cao Thượng Phẩm ra Tháp, Bần Đạo còn hứa với Ngài một điều rất trọng hệ, Bần Đạo nói sẽ báo thù cho Ngài ắt tưởng lại cả thiên hạ cho rằng cái tình thế thường tình kia như gươm, đao, mưu kế tàn ác cái gì không làm được. Trái lại Bần Đạo lấy cả tinh thần 2 khối của hai Ngài, đặng Bần Đạo tạo ra một khối thương yêu vô đối để làm chuẩn thằng tâm lý cho Quốc Dân Việt Nam, và làm một khối năng lực tranh đấu, cái khối ấy đã thành ra bửu bối đặng Bần Đạo trả thù, mà hôm nay đã giải đặng ách nô lệ cho dân tộc nữa. Những lúc đó Môn Đệ của Đức Chí Tôn tức nhiên các bạn của chúng ta có một thiểu số, trong thiểu số ấy tánh tình họ hèn tiện, biểu sao thiên hạ không khi rẽ.

Nói về võ thì năng lực không có một miếng sắt trong tay, còn về văn thì chưa có cầm được cả vận mạng tương lai nòi giống của tổ quốc mưu sỉ chưa có ai đảm nhiệm và quyết định cái hưng vong của tổ quốc, biểu sao thiên hạ không chia rẽ.

Bần Đạo dám quả quyết và đại ngôn nói rằng : Bần Đạo sẽ trả thù vì hôm nay ngó thấy Bần Đạo không phải yếu ớt, bạc nhược, cô quả, hèn tiện như buổi nọ đâu.

Mỗi năm không có cái gì làm cho thiên hạ ngó thấy cái năng lực tinh thần, thức nhiên năng lực quốc hồn của nòi giống. Bần Đạo dám quả quyết rằng : những điều Bần Đạo làm không đặng, con cháu của Bần Đạo sẽ làm, Môn Đệ của Bần Đạo sẽ làm, hôm nay hiện tượng ra quả quyết, lời đóng trước của Bần Đạo nó đã thiệt hiện, nó đã thành hình, còn gì vui sướng hơn, còn gì hạnh phúc hơn.

Nếu Đức Cao Thượng Phẩm giờ phút này Chơn Linh của Ngài còn ngự nơi đây. Bần Đạo sẽ nói chưa ngó thấy một lời nói nào của Bần Đạo đoán trước trật một điều gì.

Phải chăng lời Tiên tri ấy rất hiệu quả, vì tinh thần của Bần Đạo đoán thế nào nó cũng thế ấy. Rồi một ngày kia về nơi cõi Thiêng Liêng vừa gặp mặt nhau thì sẽ có một trận cười của Ngài cùng Bần Đạo. Trận cười ấy chắc chắn ở thế gian này chưa có ai hưởng được.

 

Đêm mùng 1 tháng 4 năm Quí Tỵ (1953)

43.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ VỀ VẤN-ĐỀ TỊNH-THẤT

Bần Đạo mới về hội đàm với Đức Cao Thượng Phẩm bàn luận cùng nhau về vấn đề Tịnh Thất, nhưng Ngài không nói rõ, đại ý nói: Chờ ngày Lễ Vía Đức Phật Mẫu tức nhiên Lễ Trung Thu tới đây Đức Phật Mẫu sẽ giáng đặng dạy bảo cái thắc mắc cho Bần Đạo về việc lập Tịnh Thất cho Phái Nữ mới xong là "Trí Huệ Cung" còn "Vạn Pháp Cung" là Tịnh Thất của Phái Nam chưa làm đặng, vì làm ở trên núi, mà trên núi buổi nầy không thể nào tạo đặng, theo ý Ngài đã định và Ngài nói: Hiện giờ đã có tạo xong "Trí Giác Cung" rồi có thể mượn "Trí Giác Cung"  để cho Phái Nữ tới đó cho Đức Phật Mẫu đến đặng giảng dạy và luận về vấn đề Tịnh Thất.

Hôm nay Bần Đạo thuyết minh cái Bí Pháp, tức nhiên cái Bí Pháp Tịnh Luyện và khuôn luật tấn hóa Tạo Đoan của con cái Chí Tôn, đối với cơ huyền bí ấy Đức Chí Tôn đã đem đến cho chúng ta đặng cho chúng ta đoạt cơ tấn hóa. Nhưng luật tấn hoá ấy Bần Đạo đã có thuyết minh rồi, thì các con cái Chí Tôn có thể hiểu từ trong vạn vật cho đến phẩm vị loài người là các chơn linh phải tiến tới mãi tức nhiên luật tấn hóa ấy nó buộc các linh hồn là từ vật chất đi cho đến địa vị loài người.

Chúng ta đã ngó thấy cái luật ấy mặc dầu có trong tay vạn vật nhưng chúng ta có thể lấy cái thuyết kim thạch kia là từ đá sỏi có thể nó đi đến một viên ngọc vô giá, chúng ta ngó thấy cái phẩm vị của nó trong vật chất từ từ tấn hoá là trọng yếu dường nào.

Bây giời nói đến kim thứ vô giá kia nó sẽ đi đến bạch kim, cái giá trị đổi đặng cùng không là đều do nơi luật tấn hoá cả.

Giờ đây nói đến thảo mộc là cây, cỏ, mà cỏ lan nó khác hơn cỏ chạ, như cây dầu khác hơn cây vên vên, mà cây vên vên không thể gì so sánh với cây tùng được.

Nói tới con người trong hạng tiểu nhơn chưa hề khi nào đương đầu kịp với bậc trượng phu được. Cái tinh thần của kẻ tiểu nhơn không bằng tinh thần của một vị siêu thoát. Nếu luận đến trong tứ hồn kia thì một vị Thần chưa có thể gì so với một Vị Phật được. Chúng ta đã ngó thấy cái luật tấn hóa nó đứng trước cái khuôn khổ ấy là nó từ từ nhi tiến mà thôi, không có phương nào làm cho nó đứng lại một chỗ được.

Nói đến kiếp sanh của ta, ta chớ lầm cái chết là một cái lớp, cái chết ấy là chúng ta bước lên con đường tiến triển đó vậy. Nếu một kiếp sống mà chưa trọn thì sẽ thấy và biết lý do cái chết của anh ta như thế nào ? Cái sống ấy không khác nào một anh trò đứng giữa lớp kia để cho thiên hạ khảo dượt, cũng như cái xác thân chúng ta hiện giờ đang bị khảo dượt trong khuôn khổ, đến chết mới biết chúng ta đậu hay rớt, có đậu hay rớt là trong buổi này.

Ấy vậy luật tấn hoá không có một linh hồn nào, không một chơn linh nào mà qua khỏi trong cơ quan huyền bí.

Bây giờ nói đến Cơ Huyền Bí của Chí Tôn, Ngài đã đem đến trong buổi Khai Nguơn Chuyển Thế này, Ngài để hiệu là "Tam Kỳ Phổ độ". Chúng ta biết Ngài đến đặng Đại Ân Xá cho con cái của Ngài, Bần Đạo nói : Nếu như Ngài không có lãnh trọn quyền hành nơi Bạch Ngọc Kinh là Đức Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ, Ngài không nắm trọn quyền ân xá cho con cái của Ngài được.

Vì cớ cho nên Kinh Phật có nói : "Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ" chúng ta mới ngộ Đạo mà gặp Đức Chí Tôn đem hồng ân Thiêng Liêng của Ngài Đại Ân Xá cho toàn con cái của Ngài. Chúng ta được hưởng hồng ân ấy chúng ta không thế nào luận cho cùng tột được. Cái huyền bí siêu thoát của Đức Chí Tôn là Ngài đến đặng lập Đạo độ tận con cái của Ngài với khối quyền năng vô đối, cái quyền năng vô biên của Ngài làm cho con cái của Ngài không một người nào không có Đạo, Ngài làm cho con cái của Ngài nghe và thấy nếu con cái của Ngài nương theo phương pháp ấy thì chính Ngài phải làm sao ? Vì đó Ngài mới nói mà thôi. Nếu con cái của Ngài biết cái bí ẩn đó đối với cơ quan huyền bí siêu thoát thế nào thì sẽ đặng chơn tánh của chúng ta, Bần Đạo dám chắc không có một chơn linh nào, hay một vị Phật nào làm đặng.

Nói về mặt luận tiến triển của các chơn linh, các đẳng chơn hồn khác, nó đạo được kiếp siêu thoát lại khác, tức nhiên chúng ta muốn đoạt cơ siêu thoát đặng làm một vị Phật, nhưng không dễ gì ta đoạt được cơ siêu thoát huyền bí ấy, phải hiểu điều ấy cho lắm.

Bởi cớ cho nên Bần Đạo thuyết minh cái Bí Pháp tịnh luyện là cốt yếu làm phương pháp mở huệ khiếu cho chúng ta, thật ra Đức Phật Tổ chỉ đoạt được có một kiếp siêu thoát của Ngài mà thôi, mấy người đã đoạt được vị Phật đều là ở trong cái huyền bí tịnh luyện để làm cho chúng ta sống đời, sống lụng lại ba kiếp trước, rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết Luật Nhơn Quả của ta, rồi nhờ kiếp này có thể đem tương lai cho ta đoạt Phật vị ba kiếp trước mới được. Đoạt Bí Pháp ấy chúng ta mới có thể biết ta là ai, ta biết đường lối chúng ta đi thế nào, ta có thể nói ta đoạt đặng cơ siêu thoát chớ không phải làm cơ siêu thoát đặng. Đoạt cơ siêu thoát là một bằng cớ mở khiếu thông minh cho chúng ta đó vậy.

Chúng ta đã ngó thấy biết bao nhiêu vị Đại Tiên còn lẫn lộn dưới hồng trần, biết bao nhiêu vị Phật còn mang thân phàm xác tục của họ trước khi đoạt đặng huyền bí vô biên trong chốn tịnh luyện của họ, rồi bây giờ họ dùng khiếu thông minh ấy họ tìm nào nguyên tử lực, nào phép thăng thiên, rốt cuộc họ qua đời mà họ không đoạt được cơ siêu thoát của Chí Tôn đem đến cho họ, tội nghiệp thay ! Nếu quả nhiên cái huyền bí của cơ tịnh luyện đó tức nhiên bí pháp ấy giúp họ siêu thoát đặng thì tội nghiệp cho Đạo Lão Tử ra đời chỉ độ có 2 ức nguyên nhân mà thôi, Đức Phật Tổ cũng giáng sanh vì lẽ ấy mà chỉ độ có 6 ức, còn 92 ức hiện nay họ còn ngồi yên tịnh tạo thêm những món độc ác giết người. Hỏi trước kia họ đã làm gì ? Mà cho họ đoạt được cơ siêu thoát ấy?  Nếu họ đoạt đặng thì tội nghiệp cho Đức Chí Tôn phải chịu khó nhọc nhục nhã trong buổi Hạ Nguơn này, Ngài đến cũng vì con cái của Ngài, cũng vì quả kiếp của họ nên Ngài mới đến chỉ đường cho họ đoạt được cơ siêu thoát, chớ đừng tưởng nói Tu cho chính là phải để râu ria xồm xàm mà đạo đức huyền bí thì không có, họ cứ muốn thành Tiên hóa Phật nhưng họ không biết cơ siêu thoát là gì ? Để đến một ngày kia vào Tịnh Thất rồi Bần Đạo sẽ cho họ ngó thấy cái sự thật của cơ siêu thoát.

                                                    

Ngày mùng 8 tháng 4 năm Quí Tỵ (1953)

(Lễ kỷ niệm bà Nữ Đầu sư Lâm Hương Thanh).

44.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ CÔNG-NGHIỆP CỦA BÀ NỮ ĐẦU-SƯ LÂM-HƯƠNG-THANH

Mấy Em Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Thưa cùng Chư Chức Sắc Lưỡng Phái,

Đại Diện các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.

Hôm nay, ngày Vía của Ba Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh, tức nhiên là Chị Cả của Nữ Phái đó vậy.

Bần Đạo hồi tưởng lại lúc ban sơ, mới Khai Đạo năm Bình Dần cho đến ngày hôm nay, tuy thời gian hai mươi mấy năm, xem lại nó ngắn ngủi chẳng khác nào một giấc chiêm bao kia vậy. Một người Chị hồi đó đã chịu cả khó nhọc cùng toàn thể Thánh Thể Đức Chí Tôn tạo cho nên nghiệp Đạo, ngày giờ qui liễu của Chị, Chị chưa ngó thấy cái tướng diện Cơ Nghiệp của Đạo sẽ thành hình như thế nào. Bần Đạo tưởng, nếu giờ phút chót của Chị, Chị còn có một điều ân hận, khi xuất hồn ra khỏi xác, có thể Chị để dấu hỏi ? Chẳng biết tương lai của Đạo nó sẽ ra thế nào ? Chẳng biết mấy em của Tôi có đủ cương quyết, đủ nghị lực, đủ Tài Đức đặng tạo cho thành tướng hay chăng ? Đó là một điều Chị lo ngại hơn hết. Bần Đạo nhớ lại lời của Đức Chí Tôn đã có nói trước rằng : "Nếu Đạo không thành thì chính mình Thầy sẽ đến". Tôi tưởng chẳng phải một mình Chị mà thôi, mà cả mấy Anh đã qua đời, dĩ vãng rồi, giờ chót họ một điều ái ngại trọng hệ hơn hết là đây.

Thưa cùng mấy Chị toàn thể Nữ Phái, mấy Em Thánh Thể Đức Chí Tôn Nam Phái, chúng ta nên tưởng tượng điều này. Chúng ta sẽ biết chúng ta thật là hạnh phúc, hạnh phúc đặc biệt ấy Đức Chí Tôn đã ban cho ta, vì thấy chúng ta đã chịu cả sự nhọc nhằn khổ cực, khổ hạnh nhiều điều, nên ngày nay Ngài cho chúng ta được thoả mãn, chúng ta đã thấy Cơ Quan Cứu Khổ của Đạo đã thành tướng, nên Chơn Truyền của Đạo đã để khắp nơi mặt Địa Cầu này. Vui hứng cho chúng ta hơn hết là trong Thánh Thể Chí Tôn chưa có một người nào bước ra khỏi nước Việt Nam đặng Truyền Giáo mà cả Vạn Quốc đều hưởng ứng, đều ngưỡng mộ. Nếu chúng ta đã tưởng tới điều đó chúng ta thấy rằng : Thánh Thể Đức Chí Tôn chưa hề làm được, duy có quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn mới có thể làm được mà thôi.

Ấy vậy, nếu ta xét công nghiệp thì ta đặng lời, chớ không phải chịu lỗ, làm ít hưởng nhiều, chúng ta phải nhìn điều đó là sự thật.

Hại thay ! Chỉ có một điều đáng buồn là cơ nghiệp của Chị giàu có vinh hiển, sung sướng hơn ai hết, cái nghiệp của Chị để lại theo tánh chất thường tình của chúng ta tưởng nó sẽ được vĩnh cửu. Đau đớn cho Bần Đạo hơn hết là hôm nay Bần Đạo thấy cái cơ nghiệp ấy đã tiêu tan không còn tồn tại, hể nghĩ tới điều đó thì Bần Đạo có một điều ân hận lớn hơn hết là buổi làm Đền Thánh trong cơn túng thiếu Bần Đạo đi đến Chị đặng hỏi mượn tiền, hồi đó  toàn cầu bị khẩn bách tiền tài. Trọng hệ hơn hết là nền móng đã làm đặng nhưng không có tiền để xây dựng lên, Bần Đạo phải chạy xuống nhà Chị đặng mượn tiền, gặp Chị trong buổi mắc nợ nần, lúa gạo mất giá, một giạ lúa có 2 cắc ($0.20) lúa chất đầy kho dầu có bán cũng không bao nhiêu tiền, cái nghèo của Chị nghèo chướng hơn ai hết, nghèo lạ lùng không ai tưởng tượng được, Chị không tiền, chị mới đem ra cái rương sắt (5 tấc tây) chứa đầy vàng với hột xoàn đem ra nói trong buổi khó khăn này không thể nào kiếm tiền đặng, vậy Em đem đồ này về Sài Gòn  cầm không dưới tám chín chục ngàn đồng.

Bần Đạo chỉ mượn được rồi trả làm sao chớ, lấy đem về được nhưng đến khi trả lấy ai ? Ngán quá chừng quá đổi. Bần Đạo nói : Thôi Chị ôi ! Đồ này đã lưu truyền 3 đời rồi, hôm nay Chị đưa Tôi đem về cầm, nếu không chuộc được mới tính sao ? Chị lại quả quyết nói : Qua không nghèo hoài đâu Em, Em nên nghe lời Qua đem về cầm đi, rồi Qua sẽ kiếm phương chuộc lại, Bần Đạo nhứt định không mà thôi, rồi đi về với hai bàn tay trắng mà lập nên Đền Thánh.

Nếu buổi đó, lấy của ấy làm Đền Thánh, thì hôm nay giúp cho Chị một công đức biết bao nhiêu lớn, rối trí rồi tính sợ trả nợ nên không làm được một công nghiệp vĩ đại.

Thưa cùng mấy Chị, kiếp sống của chúng ta ở thế gian này đã đứng trong Thánh Thể của Ngài, mấy em dong ruổi trên con đường Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã sắp sẵn, mấy em đừng sợ nghèo, đừng sợ khổ, không phải vậy nơi cửa Thiêng Liêng không phải giàu mà lập nghiệp được, còn nghèo mà không đâu, nhớ điều ấy chớ đừng quên. Biết bao nhiêu người mấy em thiếu trước mắt, tưởng họ công nghiệp vĩ đại có phương thế hành Đạo một cách oai quyền, hành Đạo với phương pháp đắc lực tưởng họ hơn mấy  em ở cõi Thiêng Liêng, không phải cân về mặt cân này, nhớ điều đó. Qua căn dặn một điều, nhứt hạng là Phái Nữ coi bước đường trước kia, quan sát lại hồi Chị Cả thế nào, bây giờ thế nào ? Mấy em coi cái hay, định cái dở, định phận sự Thiêng Liêng của mình mà hãnh diện. Rán coi bước đường trước kia làm sao, sau chúng ta làm vậy.

 

Tại Đền Thánh Đêm 15 tháng 4 năm Quí Tỵ (1953)

45.- ĐẠI-NGHIỆP THIÊNG-LIÊNG CỦA ĐẠO ĐỐI VỚI CON CÁI KHỔ-NẢO CỦA CHÍ-TÔN

Đêm nay Bần Đạo giảng Đạo hơi lâu một chút, cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn có hơi mệt một chút, dầu có mỏi cũng đừng phiền vì lâu lâu mới có một lần giảng Đạo.

Bần Đạo đêm nay giảng Đạo có chơn truyền bí yếu trong đó cả con cái Đức Chí Tôn nên để ý cho lắm, nghe và nhớ những ai đã để tâm tìm Đạo họ sẽ để một dấu hỏi ? Họ nói lẽ gì ? Cái lý do gì mà Đức Chí Tôn đến lập Giáo?

Đêm nay Bần Đạo giảng về cái Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đạo đối với con cái khổ não của Ngài, họ đã để dấu hỏi ? Đức Chí Tôn đến đặng chi ? Đặng làm gì ? Khi mà các vị Giáo Chủ đã đến lập các nền Tôn Giáo rồi. Thử hỏi trong cái phương diện của Ngài đến với phương diện cũ kỷ của các vị Giáo Chủ thế nào ? Để dấu hỏi chúng ta tìm hiểu.

Phải chăng Ngài đến đặng Ngài chia khổ não cùng con cái của Ngài. Phải chăng Ngài đến cùng chúng ta với sự Từ Bi Bác Ái của Ngài đặng Ngài cứu khổ cho toàn con cái của Ngài đó vậy. Phải chăng ngoài ra mục đích ấy thì chúng ta không thể lấy lý do gì mà giải nghĩa cho hết được.

Ngộ nghĩnh thay ! Ngài đến lập Giáo mà Ngài không có giáng trần, Ngài không có xác thịt, trái lại Ngài chia khổ não cùng con cái của Ngài bằng một cái quyền năng Thiêng Liêng vô đối đó vậy. Ngài có đủ phương thế làm một cách ngộ nghĩnh là Ngài dùng quyền năng Thiêng Liêng kia Ngài đã tạo thành nền Tôn Giáo Cao Đài hôm nay chẳng phải là điều dễ.

Bần Đạo nói rằng : Ngài đến đặng Ngài tạo đại nghiệp cho chúng ta, thì chúng ta mới có phương thế quan sát tận tường được. Ngài đến đặng Ngài trụ cả lương sanh lại. Ngài lấy xác phàm của họ đặng làm Thánh Thể của Ngài là Hội Thánh, Thánh Thể của Ngài cốt yếu là thay thế hình ảnh hữu hình của Ngài, hình ảnh phàm tục của Ngài, với bằng cớ hiển nhiên trước mắt là Ngài dùng quyền năng cô đối để chia khổ cùng con cái của Ngài, sự thật là đó vậy, khéo léo hay chăng là trong các lương sanh của Ngài thống hợp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài chỉ cho họ cái quyền trước hết là quyền làm Thầy để giáo hóa chúng sanh nếu đáng phận làm thầy ấy thì mới vào hàng phẩm làm cha, làm anh cả con cái của Ngài.

Bằng cớ hiển nhiên là trong Thánh Thể của Ngài từ Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng pháp rồi lên tới Giáo Tông mới được quyền kêu Anh Cả mà thôi.

Ngài lấy cái quyền anh cả đặng chi ? Có phải quyền huynh thế ngôn chăng ? Quả nhiên vậy. Tỷ thí như một ông anh trong con cái của Ngài muốn cho có mực thước chuẩn thẳng để thay thế Ngài thì Ngài phải lựa chọn ai trước hết, có lẻ Ngài lựa người con trưởng nam, tức nhiên người anh cả có đủ quyền giáo hóa đoàn em đi cho có mực thước lẻ tự nhiên đó vậy. Làm cha ấy đặng chi ? Phải chăng làm cha ấy đặng điều đình trong gia đình, nuôi nấng đoàn em của họ, bằng cớ hiển nhiên vẫn vậy.

Nếu ông cha đã chọn người con trưởng nam thay thế quyền cha để nuôi nấng, dạy dỗ, dìu dắt đoàn em thì tức nhiên người ấy phải đủ đầy đức hạnh thì ông cha mới giao trọng trách ấy. Một điều trọng yếu hơn hết là làm sao cho cả con cái của Ngài không có chịu nghèo đói, khổ não, truân chuyên, thúc phược nô lệ của đời như trước kia thì mới đáng người anh cả đó vậy.

Đức Chí Tôn đến lập Giáo Ngài có nói : Thầy đến đặng Thầy chia khổ não cùng con cái của Thầy. Ngài lập Hội Thánh là cốt yếu làm cho nên hình, nên tướng cho nó biến ra thành Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đạo. Hôm nay chúng ta có thể nói rằng : Cái quyền năng Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đạo nó sẽ giàu có mà chớ, giàu của cải ấy để làm gì ? Chúng ta thấy trước mắt các nền Tôn Giáo từ trước giàu có sang trọng của họ biết bao nhiêu mà họ đã chia khổ cùng con cái của Ngài chưa ? Chưa có chia. Nếu có chăng là quyền Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn tức nhiên là Ông Trời mà thôi.

Phải chăng cả nhơn sanh thống khổ chừng nào thì họ cứ ngước mặt lên kêu trời, còn than thì chẳng biết than với ai, chỉ có than với Trời mà thôi. Biết bao nhiêu tâm hồn thống khổ đã kêu Ngài biết mấy lượt, kêu gào cảnh khổ não đường đời của cái sống khổ biết bao nhiêu.

Ta thử nghĩ, đoàn anh kia thấy đoàn em khổ não, chịu đói khát, chịu rách rưới, chịu truân chuyển, chịu lệ thuộc, chịu đủ thức cái khổ trên đời về phần xác của họ, trong khi con cái của Ngài đã lâm vào cảnh khổ não ấy, thì đoàn anh lại không biết dìu đỡ, nuôi nâng con cái của Ngài, một mảy may gì hết. Trái lại nó lợi dụng cái khổ não con cái của Ngài đặng làm sang trọng, vinh hiển của nó. Khi ông cha nghe đoàn con khổ não kêu nài đường đó, thử hỏi tâm hồn của ông cha như thế nào ? Nếu trong gia đình phận sự ông cha như thế đó, thì có lẻ Đức Chí Tôn cũng thế ấy và phải hơn nữa.

Bần Đạo đã giải nghĩa như thế và Bần Đạo nói quả quyết, cái Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đạo nếu không bảo vệ được kẻ ăn mày còn đang vẫn vơ ngoài chợ, họ không được hưởng sự giàu có của Đạo, thì cả đại nghiệp này là dối và là đồ bỏ.

 

Tại Đền Thánh Đêm mùng 1 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)

46.- NGUYÊN-DO CỦA TÁNH-ĐỨC & NGUYÊN-DO CỦA TRÍ-THỨC.

Bần Đạo thấy dường như con cái Đức Chí Tôn càng ngày càng lu mờ, đêm nay đi cúng coi lơ thơ có bấy nhiêu đây thôi. Đáng lẽ hôm nay không giảng Đạo, nhưng dầu có một người Bần Đạo cũng vẫn thuyết.

Đêm nay Bần Đạo giảng về nguyên do của tánh đức và nguyên do của trí thức.

Tánh đức của con người bao giờ cũng có vẻ thiên nhiên của nó, chúng ta không cần phải quan sát, chúng ta thấy hiển hiện nguyên căn tức nhiên nó do nơi tiền kiếp tâm hồn của ta xuất hiện. Trí thức nó thuộc về mạng, tức nhiên nó do một hiện tượng kiếp sanh của chúng ta. Chúng ta đoạt được địa vị tối cao là do nơi chúng ta chịu khổ Tu Hành. Khi trí của chúng ta nó biểu lộ thì chúng ta tưởng rằng : Có thể thức mình đã đoạt Pháp đặng.

Từ Thượng Cổ các nhà Triết Học Á Đông đã quan sát tận tường cái hình trạng của trí thức tinh thần rồi. Các bậc Thánh Nhơn ngày xưa cũng thế, nên mỗi ngày hằng buổi họ tự hỏi mình cái tánh đức của tôi nó có phương thế điều hòa với trí thức tinh thần của tôi không ? Nếu không thì làm thế nào cái trí thức nó điều hòa với tánh đức đặng. Nhưng tới ngày giờ nào chúng ta ngó thấy cái tánh đức nó phải lụng lại với trí thức của mình, thì chúng ta có thể nói chúng ta chưa đoạt vị đặng.

Từ Thượng Cổ chúng ta ngó thấy không biết bao nhiêu giả thuyết họ học họ biết, nhưng họ không biết nguyên căn là đâu, nên các bậc Hiền Nhân cho rằng : Phải đoạt Thần mới đoạt vị đặng, việc ấy không sai không chạy được.

Trước kia vì cái huyền bí của Đạo chưa định quyết được, nên các nhà Triết Học như Ông Tô Đông Pha có để trong sách ba hạng người.

Thượng Phẩm chi nhơn bất giáo nhi thiện.

Trung Phẩm chi nhơn giáo nhi hậu thiện.

Hạ Phẩm chi nhơn giáo diệt bất thiện.

Nghĩa là bậc Thượng Phẩm chẳng dạy mà hay. Bậc Trung Phẩm dạy mà sau hay. Còn bậc Hạ Phẩm dầu dạy cũng không lành là tại sao ? Là tại họ chưa biết. Cái nguyên căn của các bậc Thượng Phẩm họ đã tạo thành là do nơi căn Tu của họ đoạt đến địa điểm. Trên có thể thông suốt cả Thiên Cơ, dưới có thể đoạt được Địa Lý, việc ấy chẳng phải trong một kiếp sanh mà đoạt được, nó phải nhiều kiếp sanh mới đoạt được.

Trước kia theo Đạo Giáo người ta có giả thuyết nói rằng : Con người trước khi đi đầu kiếp thì bị mụ bà cho ăn cháo lú, tức nhiên cho ăn cháo ấy đặng ta quên hết tiền kiếp của ta, cái đó có thể có, và đó là theo về Tín Ngưỡng. Còn về mặt Triết Học chúng ta có thể nói : Nếu chúng ta tin có quả kiếp của chúng ta thì chúng ta biết kiếp trước là gì ? Kiếp này là gì ? Nếu kiếp trước thảm khổ thì giờ  buổi này phải gánh một gánh đau thảm chồng chất gớm ghê, rồi trong kiếp sanh này chịu đau khổ không kham không nổi. Nếu kiếp trước chúng ta vinh diệu thì kiếp này chúng ta được an ủi sự vinh diệu ấy có thể tồn tại nơi mặt thế gian này được. Nếu rủi kiếp trước chúng phải bị cảnh thảm khổ, rồi kiếp này chúng ta chịu thảm khổ nữa, thì chẳng hề khi nào chịu khổ và nó không có tồn tại nơi mặt thế gian này nữa đâu.

Vì cớ cho nên quyền lực Thiêng Liêng buộc họ phải quên cái tánh đức cái trí thức kia đi, nên khi đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh, phải học, phải tìm, phải hiểu, tới chừng tìm hiểu được là nhờ cái ấy nó mở khiếu ta, ta mới định cái nguyên căn của ta được, một bằng cớ hiển nhiên là một vị Phật Vương tức nhiên Đức Đạt Ma (Dalayama) Đấng ấy tái sanh được làm Vua mà trong triều chánh lúc trước có một vị Đạo Quang giữ gìn cả chơn truyền pháp luật và truyền kế nhau mãi mãi, khi Ngài đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh kia ở trong gia đình Ông Đạo Quang đó, nhưng khi ấy vị Phật đầu kiếp là đứa con nít đó, nhưng Ngài cũng phải dạy dỗ và giáo huấn nó.

Ấy vậy cái căn của nó không đồng với mạng, cái mạng chẳng hề khi nào trái ngược lại được, bởi vì trong Truyện Kiều Ông Nguyễn Du có để chữ tài chữ mạng không có đồng nhau nên căn kia với cái tài nọ không có gì hết, bất quá đầu ấy là một đầu dư thừa thôi. Mạng kia có tài mà không có thiện căn thì không làm gì được, nếu không có thiện căn tức nhiên không có thiên mạng, mà nếu không thiện căn thì chẳng hề khi nào thắng được kiếp quả của mình được.

Ấy vậy thuyết đêm nay là Bần Đạo chỉ cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn biết rằng : Chúng ta Tu là nhờ nguyên căn của tiền kiếp nên giờ phút này chúng ta mới gặp Đạo gặp Đức Chí Tôn đến với chúng ta. Tánh đức của chúng ta nó điều hòa với trí thức là do nơi sự Tu của chúng ta đó.

Ông Tô Đông Pha đã nói : Ngày giờ nào mà tự mình biết là đi đến thượng phẩm chi nhơn, và tới chừng đó có thể nói kiếp Tu của chúng ta có thể đoạt vị và đắc quả đặng.

Vậy toàn con cái Đức Chí Tôn rán cố gắng, một ngày kia vào Tịnh Thất chúng phải chuyên chú đặng đeo đuổi theo chữ mạng.

 

Tại Tổng hành dinh Quân-đội Cao-đài Ngày mùng 2 tháng 5 năm Quí -Tỵ (1953)

47.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ LỄ QUỐC KHÁNH CỦA HOÀNG-TRIỀU

Hôm nay ngày Lễ Quốc Khánh, tức nhiên ngày Lễ Trùng Hưng của nước Việt Nam thống nhứt Hoàng Triều của Đức Cao Hoàng Gia Long.

Theo Lịch Sử thời kỳ Lễ Trùng Hưng từ 1502 tới 1789 đã biến sanh ra nạn nước Nam, Bắc phân tranh, Hoàng Đồ chia rẽ Đế Vị nhà Vua Lê cầm vận mạng nước nhà, còn Hoàng Đồ chia phân ra từ Miền Trung, tức nhiên từ Miền Nam này từ Núi Hoành Sơn đổ vô thuộc Chúa Nguyễn, từ Hoành Sơn đổ ra thuộc về Chúa Trịnh. Nước đã ly loạn, trong Nam có Đảng tranh vì Chúa Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đã lấy loạn, theo Lịch Sử thì cả toàn quốc không có một người nào là không hiểu, Bần Đạo chẳng cần nhắc lại đây mà làm gì.

Đến năm 1778, Nguyễn Nhạc đã xưng Vương tức Vị và định chiếm đoạt luôn Bắc Việt, tức nhiên tạo loạn cả toàn quốc. Trong thời kỳ ấy đất Tây Sơn có người đã làm cho nước nhà nổi danh đối với Trung Hoa, tức nhiên đối với nước Tàu, là Nguyễn Huệ, khi đặng lịnh của Nguyễn Nhạc ra trận, Ngài phân binh đuổi quân Tàu ra khỏi Bắc tức nhiên ra khỏi Thăng Long Thành của mình, Nguyễn Nhạc tạm phong cho Nguyễn Huệ Bắc Bình Vương. Tuy vậy Tây Sơn lấy thuyết hồi Lê diệt Trịnh, gọi là phò Lê diệt Trịnh, song kỳ trung, Tây Sơn đã mong chiếm đoạt Hoàng Đồ, thì trong khi ấy từ Nam chí Bắc đều thuộc về Tây Sơn.

Vận nhà Nguyễn đã đến, nên sản xuất ra một vị Anh Hùng là Nguyễn Aùnh, đã phiêu lưu vô ngằn, khi ở Nam, khi ở Xiêm, khi về nước, Ngài không biết bao gian khổ, may thay, cái nạn đế Vương hay là cái nạn nước, nó đã qua, thành thử Ngài xuất hiện nơi Nam Kỳ, tức nhiên trong Nam chúng ta đây, nhờ vị Anh Hùng Cứu quốc, trải biết bao nhiêu đau khổ, đã đem lại một giai đoạn Lịch Sử vinh diệu, không biết sao mà nói đặng, không thể tả. Ngài đã làm cho nước Việt Nam Thống Nhứt từ Nam chí Bắc.

Còn trong công cuộc định Quốc, Bần Đạo nói có hai vị trung thân mà Hoàng Triều đã đặt họ là "Trung quân" tức là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu, Tây Sơn đem cả lực lượng của mình đặng lấy thành Bình Định, Võ Tánh với Cao Hoàng Gia Long chẳng cần gì phải giải vây cho thành Bình định tức nhiên là Qui Nhơn, nên thừa cơ hội binh lực của Tây Sơn không có đề phòng mà đánh lấy luôn thành Phú Xuân, nhờ thế Gia Long tức nhiên Đức Cao Hoàng đã lấy Phú Xuân đặng, hai người Ngô Tùng Châu và Võ Tánh tử tiết, thật sự ra Hoàng Đồ nước Việt Nam ta đặng thống nhứt từ Mủi Cà Mau đến Aûi Nam Quan ngày nay là nhờ lực lượng Cao Hoàng đã cầm vận mạng, và nhờ hai vị "tinh trung" Ngô Tùng Châu và Võ Tánh mà ta có thể hãnh diện nói rằng : Hải người ấy là người Đồng Bào trong Nam ta đó vậy.

Ngoài ra cái công nghiệp, Ngài chẳng phải khôi phục Hoàng Đồ mà thôi, Đức Cao Hoàng Gia Long tức nhiên là Nguyễn Aùnh, đã đem lại hai Tỉnh của Lào thêm vào bản đồ Việt Nam, một là Sơn La hai là Lai Châu, nếu chúng ta coi lịch sử thì người trước nhứt nước Pháp đã nói : Le Grand Législateur du Việt Nam, tặng một người đã cầm vận mạng nước Việt Nam về luật vĩ đại hơn hết. Cao trọng hơn hết là ngày 1802 Ngài đã chỉnh đốn từ nội bộ tới ngoại thuộc, Ngài lấy cả các cựu luật của Ngài, số của Ngài vĩ đại không thể tả đặng, chỉnh đốn duy tân, Ngài đã đem lại cho chúng ta một địa dư mới, Quan chức mới, Luật binh mới, Quân dụng mới, hình thức Chính trị mới, Bình dân mới, cả thảy đều được Ngài chỉnh đốn, nếu chúng ta không có bị bảo hộ, từ thử thì Bần Đạo dám chắc rằng : Cái công nghiệp vĩ đại của Đức Gia Long Cao Hoàng đã trở thành Đại Công cùng Tổ Quốc, chúng ta hôm nay đến đây là cốt yếu để cả tâm đức cùng mình, trong tinh thần của Ngài.

Bần Đạo mong ước con cái của Đức Chí Tôn cả thảy quân sĩ anh dũng Cao Đài, ngó thấy chí hùng của Ngài làm mục đích đặng thi thố thực hiện cho nước Việt Nam được Độc Lập.

 

Tại Đền Thánh Đêm mùng 4 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)

(Lễ Cầu Thọ Cho Đức Hộ Pháp)

48.- ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG VỀ HẠNH-PHÚC CỦA ĐỨC CHÍ TÔN BAN CHO ĐỨC NGÀI

Bần Đạo xin để lời cám ơn toàn thể, Thánh Thể Đức Chí Tôn, các nhà cầm quyền và các cơ quan Chánh trị Đạo, mấy Em Nam, Nữ Lưỡng Phái, mấy con Đồng Nhi Nam, Nữ.

Hôm nay cả thảy con cái Đức Chí Tôn đến tại Đền Thánh cầu thọ cho Bần Đạo, tưởng cái phúc hạnh Đức Chí Tôn đã ban cho Bần Đạo hưởng tại thế đã nhiều lắm, đã quí báu lắm rồi, Bần Đạo tưởng dầu cho một ngày kia về nơi cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống ơn nghĩa này cũng chẳng quên đặng nhau.

Bần Đạo xin thuật lại một chuyện. Ngày mai này lối 9 giờ gần tan chợ. Bà Mẹ của Bần Đạo nói : Không biết mấy giờ ngày mồng 5 tức nhiên là ngày sanh của Bần Đạo, và ngày mai đây Bần Đạo đã đúng 64 tuổi chẳn, không dư một ngày không thiếu một ngày.

Trong 64 năm qua, thật ra Bần Đạo tưởng tượng chẳng khác gì một giấc chiêm bao. Đã 64 năm Bần Đạo chẳng hề buổi nào hưởng đặng hạnh phúc vui vẻ, vì tánh đa sầu đa cảm nên chỉ biết nhiều sầu nhiều tư lự, hơn vui hứng, bởi quả số cho nên tấm thân phải chịu đau khổ.

Bần Đạo xin nói sơ lược Tiểu Sử của Bần Đạo, Bần Đạo sanh ra trong một gia đình đông con, Bần Đạo là con dòng thứ hai, gia đình hiệp lại với nhau để sống, Bần Đạo là con thứ 8, gốc gát Ông thân của Bần Đạo ở An Hòa (Trảng Bàng) tùng theo Khổng Giáo, gia đình nhà khá giả, nhưng Ông thân của Bần Đạo là con thứ 6 của Ông Nội Bần Đạo, Ông thân của Bần Đạo bị tai họa liên can một vụ ở Cần Đước nên Pháp kiếm bắt, vì cảnh tượng nghèo của gia đình buổi nọ, nên Ông thân của Bần Đạo phải buộc mình ra đầu quân cho Pháp để cứu vãn tình thế, vì cái lẽ đó Bần Đạo tưởng lại người đã chịu một tấn tuồng khỗ não về tinh thần lắm. Người muốn chết cho rôi, nhưng dòm lại đám con nên Ông tự an ủi đặng sống. Khi Ông đã lên tới chức Đội của Quân Đội Pháp, Ông đi chiêu an nên bị binh cựu bắt ông đem về đánh hơn 10 roi, trong 10 roi đau thảm Ông ân hận cho đến chết không quên được, sau ngày ra đầu thú thì mấy anh của Bần Đạo đều theo cha làm sĩ quan hết, duy còn Bần Đạo và người anh thứ 7 không biết một tiếng Pháp, mà bây giờ cũng vẫn còn đó.

Hồi còn thơ ấu, Bần Đạo nói thiệt, đường liêm khiết cả một đời làm việc chưa biết hà lạm ăn của ai một đồng xu nhỏ, dầu cho nghèo cũng vậy.

Nhắc lại khi Bần Đạo lúc còn thiếu sinh đi học tại Trường Tây Ninh, buổi đi về đang ngồi ăn cơm Bà Mẹ mới hỏi Ông thân của Bần Đạo, Ông cho cả con cái theo bên võ, không cho đứa nào theo bên văn sao ? Ông thân trả lời : Võ nó không biết kiếm thế hà lạm, bên văn nó hay hà lạm tôi không chịu, Bà già chỉ cho Bần Đạo nói, còn thằng nhỏ này yếu ớt bạc nhược, thôi cho nó theo văn đi, Ông thân của Bần Đạo nói : Được nếu nó theo bên văn mà tham quan ô lại thì tôi vặn họng nó. Vì lời nói đó mà cả một đời nghèo khổ thật, nhưng Bần Đạo chưa biết hà lạm chưa dám ăn  đồng xu nhỏ nào cho tới ngày phế quan hành Đạo, lạ một điều, mấy anh mấy chị của Bần Đạo nói lại. Hồi nhỏ Bần Đạo khó nuôi lắm, hể mỗi khi nóng lạnh là chết, chết miết vậy thôi, tới 10 tuổi mà còn chết, chết sống không biết mấy lần, hể mỗi khi nóng lạnh thì cả nhà phải thức ngồi một bên đó vậy mãi, chỉ vì sợ Bần Đạo chết mà thôi.

Ông già, Bà già là người không có Đạo, mà buộc mình phải vào Đạo đặng đem Bần Đạo đi rửa tội theo Thiên Chúa Giáo, tình trạng lúc đó trong nhà sợ sệt biết bao nhiêu, cho tới 57 tuổi Bần Đạo còn chết một lần nữa, chừng sống lại được rồi thân thể không còn gì hết, vì lúc chết người ta gỏ đầu, gỏ cổ, căn tay, căn chơn không còn hết, chịu đau đớn biết mấy.

Cái chướng ngại của Bần Đạo chết hoài, chết sống đến đổi trong nhà Cha Mẹ Anh Em của Bần Đạo toàn thể trong nhà phải vào Thiên Chúa Giáo, đặng cầu cho Bần Đạo sống, vì cớ mới có Đạo Thiên Chúa.

Cái đa sầu đa cảm của Bần Đạo hồi 17 tuổi nếu không may phải giết Bà Mẹ một cách gián tiếp. Bà Mẹ cứng quá đổi nên khiến trắc trở không xuất dương du học được, chớ phải chi quyền Thiêng Liêng quyết định thì Bần Đạo đã lưu vong nơi Hải Ngoại rồi, dám chắc Bần Đạo đi khỏi thì Bà Mẹ sẽ chết. Lúc đó nhờ Ông Lưu Khắc Ninh đốt hết giấy tờ, thành thử đi du học không được, tới khi ra làm quan với nhà nước chỉ ngồi đó đặng xem cái đau khổ của gia đình, cho đến ngày Ông già hồi lưu một gia đình Ông nghèo khổ không có đủ chổ sống, mấy anh em phải tạm nhờ trong gia đình này. Bần Đạo nhận thấy sự thương đau ngoài trường kia đồng bào đang đau khổ lệ thuộc, vì cơ không có buổi an vui được.

Kể từ 17 tuổi dĩ chí buổi này, không buổi nào không tranh đấu, không buổi nào an nghĩ được chờ tới cái năm chót của Bần Đạo bị đồ lưu Hải Ngoại, khi trở về được may duyên cho Bần Đạo, hạnh phúc là còn xác thịt này được làm tôi cho con cái Đức Chí Tôn, còn xác thịt này thì còn mong mỏi tạo hạnh phúc cho Đạo đặng, dầu bền vững hay không, Bần Đạo cũng vẫn lui cui làm mãi, vì thấy trước mắt con cái Đức Chí Tôn đau khổ thì không buổi nào an vui được, không buổi nào ngồi nghĩ được. Ngó lụng lại đám hậu tấn sau kia họ dầu biết lệ thuộc buổi nọ thế nào, đau khổ tâm hồn thế nào, xác thịt thế nào, Bần Đạo muốn làm phương nào để giải thoát lệ thuộc đám hậu sinh đó cho đặng là hạnh phúc trong kiếp sống của Bần Đạo đó vậy.

Giờ phút này tuy khó nhọc thật, nhưng Bần Đạo được hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn ban cho, và đã làm tôi cho Ngài và làm tôi cho con cái của Ngài.

49.- ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP SAU KHI CÁC CƠ QUAN CHÁNH TRỊ ĐẠO  CHÚC THỌ.

Thưa Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Cùng Chư Vị cầm quyền các Cơ Quan Chánh Trị Đạo,

Mấy em Nam, Nữ, mấy em Thiếu Sinh Nam, Nữ.

Bần Đạo để lời cám ơn mấy em một cách nồng nàn, và lời cám ơn ấy nó chẳng phải ở ngoài môi, mà nó ở trong tâm não của Bần Đạo đem ra đó vậy.

Thưa cùng toàn thể Đạo, và các Nhơn sĩ, Chư vị đồng chí đã có lịch trình tranh đấu cho Quốc Dân cho Tổ Quốc. Bần Đạo thú thật, cái kiếp sanh hữu dụng này, nếu không có nhờ oai quyền và ân Thiêng Liêng đặc biệt của Đức Chí Tôn đã ban cho thì kiếp sống này cũng như các kiếp sống khác kia vậy. Có, không, không, có, Luật tạo đoan đã tạo ra các sanh vật ở thế gian này thế nào mạng sanh ta cũng thế ấy có chi đặc biệt. Nếu luận cho  chánh lý mình có đầu óc, tay chơn, thì cả toàn thể ai kia cũng vậy, chẳng có hơn ai, cũng chẳng kém ai, chỉ là một phần tử trong vạn linh đó vậy mà thôi, nếu không có ân Thiêng Liêng dành để đặc biệt thì Bần Đạo bất quá cũng như một người đó vậy thôi, nó có khác chăng là cái tình ái nồng nàn. Tình ái ấy làm cho Đức Chí Tôn biết đặng, hiểu đặng, mà Ngài tuyển chọn làm một phần tử trọng yếu của Ngài mà thôi.

Thưa cùng các Bạn, Chư Chức Sắc Thiên Phong Hiệp Thiên Đài, Tiếp Đạo khi nảy nói rằng : Chúng ta chỉ chủ hướng có tinh thần Đạo Đức mà thôi, thật quả vậy, nếu như lấy tâm phàm mà luận bao giờ thấy trước mắt một trường tranh đấu, quyền lợi công danh của thường tình thế sự là một điều thiên hạ đã ham chuộng mê luyến mà Bần Đạo tránh khỏi ra vòng ấy, danh không ham, lợi không mê, là vì biết khối tinh thần vô đối của một Nòi Giống Việt Nam nay đã 4.000 năm lập nghiệp, nó có một tinh thần mạnh mẽ, uy quyền cao thượng thế nào, đã hiểu rằng : Nó có năng lực, cái năng lực ấy nó có thể đổi mãi, đổi biến đặng, vì có đức tin ấy. Bần Đạo chỉ lấy nó làm môi giới, làm phương pháp đặng cứu vãn cái tình trạng nguy nan của nước, của Chủng Tộc Việt Nam. Bất quá cũng như anh bán ngọc kia, mua về đặng bán lại mà thôi, chớ không có cái giá trị về tinh thần khác, chỉ đặc biệt biết ngọc, mua ngọc, lời về ngọc, không có chi khác hết. Nếu có định được tương lai hạnh phúc của nòi giống thì bất quá khác cái tinh thần anh dũng của quốc dân vô đối đặng họ định vận mạng lấy họ mà thôi, chớ Bần Đạo không có công cán chi trong đó hết. Vì cớ cho nên Bần Đạo chỉ quyết đánh về mặt tinh thần mà thôi, ngoài ra nữa Bần Đạo không muốn ngó đến, có phải chăng mạnh của Đạo Cao Đài vì lẻ đó, ta cũng nên tưởng tượng suy nghĩ.

Thưa cùng Chư Chức Sắc Cửu Trung Đài, các Ngài đã vân mạng lịnh của Đức Chí Tôn cả Nam, Nữ Lưỡng Phái, thay hình ảnh cho Ngài, ở cùng con cái khổ não của Ngài, một thời giáo hóa, hai là an ủi, ba là nuôi nâng, cái trách vụ trọng yếu đó giờ phút nào Bần Đạo cũng tưởng trong óc, nếu một ngày kia hình trạng Thiêng Liêng ấy nó kết liễu được, thiệt hiện được, cái danh dự dành để cho phận sự tối cao trọng của Quí Ngài, nó sẽ quí hoá thế nào ? Không, thưa không phải kiếp sanh này mà đủ, còn sau lưng các em ta sẽ nối chí, ngày giờ nào có thể tượng trưng rằng Thánh Thể của Đức Chí Tôn chẳng hề chết thì cả Cửu Trùng Đài không thể diệt, sự quả nhiên nó vậy.

Các em Phước Thiện, Qua, chỉ có một thân, một đầu, một óc, một hình ảnh cũng như mấy em thôi, nghĩ lụng lại khổ não của chúng sanh các em đã hiểu, Đức Chí Tôn đến Ngài có mục đích chia khổ và cứu khổ cho con cái của Ngài. Qua đã giao cho mấy em một sứ mạng đặc biệt là hai chữ "Phước Thiện" Qua cầu mong cho có một điều chúng ta ngó thấy trước mắt một khổ não của Đời, mấy em giăng tay ra nâng đỡ an ủi, binh vực được, ấy là sở vọng của Qua để nơi mấy em. Mỗi phen Qua tưởng đến công nghiệp và phận sự Thiêng Liêng của mấy em nó, khó khăn nặng nề chừng nào thì Qua xúc động chừng nấy. Vì cớ cho nên Qua ở chung cùng mấy em hai mươi mấy năm trường thầy trò chung sống, chung khổ cùng nhau là cũng vì lẽ ấy.

Qua để lời cám ơn mấy em.

Mấy con, các chiến sĩ anh dũng Cao Đài, mỗi lần mà Thầy thấy các con dưới mắt Thầy, thì nó có tinh thần làm cho Thầy an ủi được thế nào, Thầy thường nói với mấy con Thầy có Ông Cha, Ông Cha ấy giao cho Thầy hai món : Một là Cái Thuyền Bát Nhả, hai là cái Xa Thơ của Tổ Quốc. Cái Thuyền Bát Nhả Thầy có thể cậy Thánh Thể Đức Chí Tôn dìu đỡ được, còn cái Xa Thơ của Tổ Quốc đi trên đường nguy hiểm khó khăn nó tiến được bước nào là nhờ năng lực của mấy em đẩy tớibước nấy. Cái mục đích của Thầy các con đã giúp được hai phần, còn một phần nữa Thầy cậy các con đưa nó tới chút nữa. Thầy chỉ nói : có một bọn người ngồi trên Xa Thơ ấy các con xúm nhau đẩy mà bọn ấy ngồi làm cho nặng thêm nữa, các con phải làm sao mời họ, lạy lục họ xuống, đặng cho bớt nặng đẩy cho tiến tới.

Phục Quốc Hội định vận mạng tương lai chánh sách an dân một cái chánh thể tương lai ở trong đấy, có thể Thầy mong ước rằng : Cả đầu óc Phục Quốc Hội giúp cho nên hình tướng chương trình của chúng ta có thể kết thúc thật hiện được, thì cái tương lai của nước Việt Nam mới sẽ mỹ mãn đẹp đẽ. Bần Đạo chưa gì đã mừng trước và đã khoái lạc trước. Cả toàn thể Phục Quốc Hội cho Bần Đạo hưởng khoái lạc ấy, thiệt hiện ra đừng để thất chí Bần Đạo tội nghiệp, Bần Đạo để hết tín nhiệm trong đấy, biết rằng một bước tiến tới là một bước thay đổi cho Tổ Quốc giang san phải cố gắng.

Trước khi dứt lời Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể Đời và Đạo.

 

Ngày mùng 5 tháng 5 năm Quí Tỵ (DL. 15-6-1953)

(Ngày Sinh Nhật của Đức HỘ-Pháp)

50.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ KHÁCH PHẠM ĐƯỢC ÂN XÁ (trên 20 nạn nhân)

Hôm nay là ngày được tự do của các anh em để về với gia đình, các anh em phải hiểu biết bổn phận công dân của mình đối với xứ sở. Về đến gia đình, các anh em nên lo làm ăn hằng ngày để nuôi lấy vợ con các anh em được ấm no. Các anh em không nên làm việc gì có di hại cho xư sở, các anh em phải làm sao cho xứng đáng mình trong công cuộc xây dựng Tổ Quốc.

Người ở thế gian này không ai  được trọn lành cả, việc làm bất hợp pháp của các anh em tức nhiên là cái bịnh, các anh em nên diệt bỏ, để làm việc hữu ích cho đại cuộc Quốc Gia ngày nay.

Các anh em nên nhớ lấy.

 

Tại Đền Thánh Đêm 15 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)

NHÂN DỊP RƯỚC NGỌC XÁ-LỢI ĐỨC THÍCH-CA.  ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ

51.- XUẤT-XỨ CỦA NGỌC XÁ-LỢI

Bần Đạo xin cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hay, ngài mai nầy là ngày chúng ta sẽ làm Lễ rước Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Thích Ca. Rất may duyên của Tòa Thánh là được cái báu ấy, vì vật báu đó từ trước đến giờ chỉ có trong hàng Phật Tử của nước Ấn Độ được hưởng mà thôi.

Sau khi Đức Thích Ca tịch diệt thì mấy vị Đại Đức theo Đạo của Ngài, họ mới đem cái Thi Hài của Ngài tức nhiên là cái cốt của Ngài mà Hỏa Táng xong còn sót lại chút ít xương Môn Đệ của Ngài lấy cái đó làm báu vật đặng thờ Đức Ngài tức nhiên là thờ Bổn Sư của họ.

Tòa Thánh đây cũng là nơi của Ngài ngự, lại hữu hạnh được vị Đại Đức trong hàng Phật Tử nước Ấn Độ đem dâng cho Tòa Thánh một cái Ngọc Xá Lợi.

Bần Đạo xin toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ ngày mai này nghinh tiếp cho đông đảo, tưởng khi Đạo hạnh của chúng ta đổi lụng lại với Đức Phật Thích Ca sẽ làm cho đẹp lòng Đức Chí Tôn đó vậy.

Đêm nay Bần Đạo thuyết cái Luật Thương Yêu và Quyền Công Chánh của Đức Chí Tôn nó không định giới, định hướng nơi nào tất cả. Thật ra Đức Chí Tôn đến lập Thánh Thể của Ngài, tức nhiên lập Hội Thánh thay thế hình ảnh của Ngài nơi mặt thế gian, tức nhiên ở Địa Cầu 68 này, cốt yếu Ngài tỏ cho Nhơn Loại biết đều ngó thấy rằng : Ngài đến đặng Ngài chia khổ não với con cái của Ngài, Ngài lấy xác phàm của các phần tử tức nhiên các lương sanh nơi mặt thế gian  này đặng Ngài tuyển chọn lập Hội Thánh, tức nhiên là Thánh Thế của Ngài và Ngài đem cái luật ấy giao cho Hội Thánh, mà luật ấy không có nhiều, chỉ có một mà thôi, cái Luật của Ngài là Luật Thương Yêu, tức nhiên là Luật Từ Bi, còn phép của Ngài cũng có một mà thôi, đó là Pháp Công Chánh, Công Bình.

Ở trước Đền Thờ của chúng ta có "Tam Thánh" đã Ký Kết Hòa Ước cùng Đức Chí Tôn lãnh cái Luật Từ Bi, tức nhiên là Luật Thương Yêu đặng độ rỗi con cái của Ngài trở về cựu vị, còn quyền Đức Chí Tôn chỉ lấy Quyền Công Chánh mà thôi.

Luật và Quyền ấy chúng ta thử để trí phàm tìm hiểu lấy trí não suy tính và suy ngợi coi Ông lấy hai món ấy giao cho ta và biểu ta thay thế cho Ổng mà thiệt hiện ra căn nguyên ấy là phải do nơi nào. Bần Đạo thường thuyết nơi giảng đài này, Bần Đạo nói : Chúng ta nên lấy cái nhỏ mà luận cái nhỏ ấy chúng ta mới có thể tìm cái lớn được, lấy cái tối thiểu mà tìn ra cái tối đại, nguyên căn đó vậy không có gì lạ hết.

Vả chăng chúng ta sanh đứng làm người trên cõi tạm này có hai mối nợ :      1/- Mối nợ Thân sinh của ta, tức nhiên là Cha Mẹ của ta.

2/- Mối nợ Tạo Hóa, tức nhiên là Đức Chí Tôn.

Hai mối nợ ấy chúng ta có thể nói là hai Ông Trời, Ông Trời trên và Ông Trời dưới. Tánh đức của họ giống nhau như thế nào, chúng ta dư hiểu.

Có phải Cha và Mẹ chúng ta tức nhiên Thân sinh ta khi sanh ta ra chỉ cầu có một điều là chúng ta phải biết thương yêu mà thôi. Vì sự thương yêu ấy mà Cha Mẹ ta gìn giữ sự sống còn của ta, nuôi dưỡng ta cho nên người, nên phận. Phải chăng Luật Thương Yêu ấy nó đứng đầu hết các Đạo làm Cha Mẹ hay chăng ? Chúng ta chẳng cần hỏi và cũng đã hiểu rồi.

Bây giờ hỏi thử khi tạo một gia đình có con cái, có dâu cháu, cả Tông Đường họ hiệp lại tinh thần của họ và họ muốn gì chớ ? Phải chăng họ cầu nguyện có một điều là chúng sống với nhau trong lòng yêu ái. Chúng ta đã biết "Sanh con há dể sanh lòng" một đứa một tánh đức, một đứa một tinh thần, một đứa một sở hàm, mỗi đứa nó đi mỗi đường, không có đứa nào giống nhau. Nếu như gia đình nào có anh em giống nhau, thì gia đình ấy hạnh phúc lắm.

Chúng ta ngó thấy con cái trong nhà bao giờ cũng có nặng nhẹ nhau, bất đồng tánh đức tình ý với nhau, thì trong gia nghiêm phải giữ cho có mực thước, mà muốn cho có mực thước tức nhiên Đạo là Cha Mẹ phải lấy quyền công chánh công bình của mình mà xử con, lý do đó chúng ta tức nhiên là Đấng sanh thành dưỡng dục ta, cái khuôn khổ ấy thế nào, thì Đấng tạo đoan khuôn khổ cũng thế ấy mà thôi.

Luật Thiên Nhiên Đức Chí Tôn muốn gì ? Phải chăng Ngài muốn cho cả Nhơn Loại biết mình nhau là cốt nhục, biết nhìn nhau là con cái của Ngài đã tạo đoan ra. Nếu bây giờ toàn thể con cái Đức Chí Tôn biết rằng : Con người sanh trong mặt thế gian này, sanh trong cảnh khổ này biết thương yêu nhau, biết giúp đỡ nhau đặng chia cảnh khổ ấy, thì Đức Chí Tôn chẳng đến lập nền Tôn Giáo, nhưng Ngài đến buổi này đặng chi ? Có phải Ngài đến đặng Ngài gieo hột giống Thương Yêu ấy, gieo cái tình thương trong tâm não con cái của Ngài hay chăng ? Chúng ta thấy hiển nhiên là thế đó. Cái Luật Thương Yêu đó đối với Thiên Vị là Thánh Thể của Ngài nơi mặt thế gian này, vì chúng ta lãnh sứ mạng nơi Ngài tức nhiên một phần tử của Hội thánh đó vậy.

Ngộ nghĩnh thay ! Chúng ta tùng một khuôn Luật Thương Yêu ấy, rồi chúng ta nắm một quyền hành trong tay, ấy là quyền hành công chánh. Phải vậy, trong hết thảy chúng ta không thể chối được. Trái lại nếu trong cửa thiêng-liêng  của Đức Chí Tôn, trong lòng thương yêu vô tận ấy, quyền năng công bình vô đối ấy không phải là con cái của Ngài, cái lẽ tự nhiên đó vậy.

Bần Đạo đã nói cái Luật Thương Yêu nó không định giới, định hướng đặng, và chúng ta có thể nói, trong một gia đình đương nhiên bây giờ, ta có con trai phải cưới dâu trong Tông Đường khác, ta có con gái phải gã cho Tông Đường khác, thì nó mới sống lụng lại trong gia đình của chúng ta, sự thương yêu nó không định giới định hướng là vậy. Huống chi là lòng thương yêu vô tận của Đức Chí Tôn.

Bần Đạo chỉ nhắc một điều trọng yếu cho con cái của Ngài Nam, Nữ cũng vậy, nghe và nhớ để ý cho lắm.

Con người tuổi thơ sanh không có gì, như những người có niên kỷ rồi, nào là Ông, Bà, Cha, Mẹ, Cô, Bác, Thân Tộc, họ đã qua đời, tức nhiên họ đã qui liễu. Chúng ta ngó thấy giọt nước mắt của chúng ta trong kiếp sanh đã đổ biết bao nhiêu là giọt nước mắt đau thảm. Lòng thương yêu cốt nhục ấy, nó đã làm cho ta hiểu cái giá trị của nó thế nào rồi. Coi chừng nghe, mình đau đơn, mình khổ não, mình thương nhớ, rồi mình cúng quảy lễ tế. Đạo làm con hiếu hạnh phải vậy. Nhưng phải coi chừng, họ tái sanh họ đứng ngay trước mặt mình với đứa con nít kia mà mình không biết không hay, mình lãnh đạm, ghét dơ. Đến khi về nơi cõi Thiêng Liêng mình nhìn thấy mặt họ, rồi mình  tự hổ nhục vì cái hổ nhục đó làm cho ta phải tái kiếp luân hồi trở lại.

Dám chắc không có cái đau đớn, cái khổ nhục nào bằng khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà gặp cảnh tượng ấy.

 

Ngày 17 tháng 5 năm Quí Tỵ (DL. 27/6/1953)

52.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ GIÁO CHỨC VÀ HỌC-SINH TRONG CUỘC LỄ PHÁT PHẦN THƯỞNG TẠI TRƯỜNG ĐẠO ĐỨC HỌC ĐƯỜNG.

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Quan Viên, các yếu nhân Nam, Nữ đã đến dự lễ phát phần thưởng này làm cho thêm phần long trọng. Bần Đạo xin kiếu lỗi mấy Ngài, mấy Bà cho Bần Đạo để lời với con cái của Bần Đạo.

Các con Giáo Viên Đạo Đức Học Đường, sự khổ hạnh, sự hy sinh của các con từ khi mở Đạo đến giờ đã ung đúc tinh thần trí não của đoàn em mấy con hôm nay đã kết liễu. Cái nên của Đạo Đường này, mỗi công trình vĩ đại của các con, Đạo Sử đã ghi chép.

Hôm nay đến đây Thầy không để lời cám ơn các con, bởi vì lời cám ơn ấy nó ở đầu môi chót lưỡi không có giá trị gì. Thầy chỉ chúc có một điều là lòng yêu ái của Thầy tương hiệp với các con, vì nó là báu vật để cho Thầy đối với các con đó vậy.

Chúng ta sanh làm người đứng giữa vũ trụ này, đứng trong Hoàng Đồ Việt Nam, giờ phút này chẳng qua là một phần tử trong xã hội thôi, Bần Đạo thường nói, chúng ta cũng có một thân thể, một đầu óc. Thân thể ấy, đầu óc ấy cũng như thân thể đầu óc kia vậy, không hơn, không kém. Nếu chúng ta làm đặng điều gì đắc lực về tương lai, định vận mạng cho xã hội, định vận mạng cho nòi giống, cho Tổ Quốc là đều do chí cương quyết của ta hiệp chủng đồng tâm, nhứt trí, đa số tinh thần thống nhứt lại, thì cái hành tàng năng lực mới có thể hoạt bát đặng.

Các con cũng như Thầy, Thầy hồi nhớ lại khi mới mở Đạo, một thân côi quạnh bên cường quyền áp bức. Đạo lúc đó còn đương trong buổi phôi thai như trứng mỏng kia. Đời lại bị lệ thuộc. Dân nghèo đồng bào khổ não, cảnh tượng chết trước mắt, chết lần, chết mòn, làm cho tinh thần của Bần Đạo thống khổ biết bao nhiêu. Nhưng Bần Đạo vẫn cương quyết rằng, một thân làm không nổi, mà cái sở vọng của ta quyết đem ra cứu nước, cứu dân thì nó thì nó sẽ đoạt được cái sở vọng ấy. Nếu ngày giờ nào ta có thể nào tạo các thanh niên đoàn hậu tấn của chúng ts họ nhứt tâm nhứt đức, thì ta mới có thể thể cứu vãn tình thế vận mạng nước nhà và chủng tộc đặng.

Vì cớ cho nên ta phải cố gắng, các con ngó thấy buổi sơ khai Đạo như thế nào ? Nước nhà các con thế nào ? Vì Thầy cũng có đầu óc như các con chớ có lạ chi đâu. Có lạ chăng là nhờ huyền diệu Chí Tôn ban cho Thầy để thống hợp cả tinh thần các con lại làm một cho nên hình, nên tướng và Thầy giảng cho các con hiểu thêm rằng : Buổi nọ thiên hạ đã áp bức, chê đè, nhục mạ Bần Đạo biết bao nhiêu, nhưng Bần Đạo có thể an ủi đặng là Bần Đạo tự nói rằng : Một thân ta có thể các người chà đạp đặng, chớ khối hậu thuẫn tương lai chưa hề ai chà đạp đặng.

Vì chí hướng cương quyết và can đảm ấy, nên hôm nay tinh thần Đạo Đức này vẫn tiếp tục triển mãi và thống nhứt lụng lại làm một khí cụ vững chắc và mạnh mẽ hơn định vận mạng cho nước nhà đương nhiên bây giờ đó vậy.

Tinh thần các con cũng như tinh thần của Thầy, hết thảy đều đem chí hướng tương lai, nòi giống do đám thanh niên của mấy con đào tạo thế nào, thì cái hình trạng của Thầy đào tạo các con thế ấy. Rồi đây nó sẽ từ từ tiến tới với một vẽ đẹp của chúng ta, chúng ta hãy cố gắng làm cho hiện tướng ra đặng đào tạo cả tương lai kia, thì chúng ta mới có thể định trước một tương lai tốt đẹp cho nòi giống nước nhà đó vậy.

Mấy con Học Sinh Nam ! Nữ ! Ở thế gian này có hai năng lực tinh thần là :

1/- Chữ Tài

2/- Chữ Tâm

Chữ tài với chữ Tâm mà các nhà Triết Học chúng ta buổi trước đã trích điểm, họ đã để hình trạng nó như thế nào, họ tả ra cái hình trạng của nó vô hình. Nhưng các bậc tiền nhân nòi giống của chúng ta đã rạng tỏ một cách có thể nói sáng suốt tỏ rỏ không có gì gọi là mờ ám.

Chữ Tài, chữ Tâm kia, hai tinh thần đó giờ phút này nó tương đương với nhau, và nó tranh đấu đặng định hướng cho Nhơn Loại, và định tương lai cho nòi giống hay chăng ? Có chớ, nhưng chúng ta cần phải coi lại tình trạng đương nhiên chúng ta ngó thấy rõ rằng : Chữ tài với chữ Tâm hai tinh thần đó giờ phút này nó đương tranh đấu với nhau, tranh đấu để định vận mạng cho Nhơn Loại đó vậy.

Ở phương Âu dường như chữ Tài thắng hơn chữ Tâm, chữ Tài ấy nó đã xô Nhơn Loại đi đến địa điểm nào ? Thử hỏi hai trận đại chiến ở Âu Châu nó làm cho Nhơn Loại giết lẫn nhau phải chăng là một bài học hay ho về chữ Tài ấy hay chăng ? Còn chữ Tâm kia vẫn mịch mờ biến mất theo thời gian.

Phải chăng Đức Chí Tôn đến đặng làm cho rỏ ràng chữ Tâm nơi Á Đông này hay chăng ? Có lẽ Bần Đạo tin quyết như thế đó. Nếu Nhơn Loại không tin tưởng chữ Tâm, lại chạy theo chữ Tài, thì sẽ đi đến chổ tiêu diệt. Vì cớ cho nên chúng ta phải nhìn nhận rằng : Chữ Tài, chữ Tâm phải đi đôi với nhau. Nếu chữ Tài mà không có chữ Tâm thì không được. Còn chữ Tâm mà không có chữ Tài cũng không được.

Hai cái tinh thần tâm não ấy của Nhơn Loại nó phải đi đôi với nhau mới có thể bảo tồn vĩnh viễn mạng sống của Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu này. Ghê gớm hơn hết là giờ phút này vận mạng tương lai của Nhơn Loại có thể tiêu diệt đặng trong khi Nhơn Loại hưởng được chẳng biết một phần thưởng hay một hình phạt về tương lai. Hai khối tinh thần ấy nó có một quyền lực vô biên vô đối, nó có thể cứu vãn sanh mạng Nhơn Loại nơi mặt Địa Cầu này là chữ Tâm, mà cũng có thể tiêu diệt cả toàn thể Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu này là chữ Tài, là năng lực nguyên tử đó vậy.

Phải chăng cái năng lực ấy nó làm môi giới cho chữ Tài và chữ Tâm thí nghiệm với nhau hay chăng ? Thầy mong ước các con ngó vào chữ Tâm mà chuẩn đích, chữ Tài nó là thừa, vù chữ Tâm của nòi giống mấy con đã 4.000 năm lập nghiệp dưới lệ thuộc của các sắc dân mạnh mẽ, đa số dưới Hoàng Đồ nước Tàu đã bảo vệ tinh thần nòi giống cho tới ngày nay còn tồn tại vĩnh viễn. Tâm ấy nó chẳng đâu xa, chỉ tìm kiếm là có hiển nhiên, vì nó ở trong đầu óc của các con, trong năng lực của các con. Các con thâu đoạt cả tương lai của thiên hạ đem làm khí cụ đặng định hướng cho tương lai của mấy con mà thôi.

 

Ngày 18 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)

53.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ GIÁO CHỨC VÀ HỌC SINH TRƯỜNG LÊ VĂN TRUNG TRONG DỊP LỄ PHÁT PHẦN THƯỞNG.

Thưa Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Viên Quan Nam, Nữ đã có lòng hạ cố đến dự lễ làm cho càng thêm long trọng cái lễ phát phần thưởng cho mấy em Học Sinh. Bần Đạo xin kiếu lõi quí Ngài Bần Đạo để lời cùng Quân Đội có công lập ngôi Trường Lê Văn Trung này.

Các con trong Quân Đội, một lần nữa Thầy để lời cám ở các con và Thầy thú nhận rằng : Thầy đã hưởng được cái vui hứng của các con đã làm được. Các con đã thắng được mặt trận ngoài tiền tuyến, mà về mặt tinh thần các con cũng toàn vẹn, cái sự làm của các con từ thử đến giờ bên võ bị của các nước có lẽ ít làm đó vậy. Thầy đã nói chí khí sự làm của các con hôm nay là một điều hi hữu bên võ chức, nó sẽ nêu lên toàn cầu mà chớ.

Thầy đã thường nói và Thầy đã tự nghĩ, nếu như Thầy không có giao nơi tay của các con một cái câu Bảo Sanh Nhơn Nghĩa đặng bảo vệ cho Tổ Quốc, binh vực đoàn em của các con được sống còn và đem vào cửa Đạo, vì cửa Đạo là một cửa Thiêng Liêng Hằng Sống, một cửa để cứu khổ, một cửa để giải mê cho thiên hạ, thử coi mặt luật ấy nó như thế nào, các con thử nghĩ, cái lẽ bất công của thế gian đương buổi hôm nay, họ đang dùng cái mạnh hiếp yếu, lấy cái khôn chê cái dại, họ đã nương nơi quyền lực nào ? Phải chăng họ đã nương cái quyền lực của quân đội mà làm những điều đáng tiếc ấy. Thầy đã nói các con chưa hiểu thấu, vậy Thầy chỉ cho các con hiểu theo lối văn minh Âu Châu đã nói "Bras séculier". Còn văn minh của Á đông thì dùng thủ đoạn này. Quân đội của các nước phụng sự cho Nhơn Loại về chơn lý thì ít, còn về cái áp bức tâm tánh thì nhiều.

Chúng ta thử nghĩ trong xã hội của chúng ta, dầu một cái yến tiệc, hay là dầu một cái cơ thể hội hiệp nào mà rủi cho chúng ta có cử chỉ không đặng kín đáo nó không đúng mực thước giữa cả thảy. Nếu  trong lúc đó kẻ khó tánh họ đã trích điểm, và họ cho rằng ta không đáng đứng giữa xã hội với họ.

Một lẻ nữa một kẻ sát nhơn kia nó chỉ giết có một người mà cái Luật công chánh của xã hội đã buộc đem nó ra Tòa công lý, buộc nó phải thường mạng. Rồi hỏi lại những kẻ đã giết người nơi mặt trận hằng hà sa số mà được thăng phẩm vị và tôn trọng, đem vào xã hội họ đứng trên đầu thiên hạ, cửa ngực của họ đầy những biểu hiện danh dự. Hỏi vậy cái công chánh, công bình của xã hội đương nhiên ở chỗ nào ? Như vậy thì chưa phải xã hoọi của Nhơn Loại.

Trái ngược lụng lại xã hội như thế nó là thù nghịch của Nhơn Loại mà chớ, vì lẽ ấy mà Thầy đã hãnh diện cho các con, Thầy được vui, được hãnh diện giao cho các con cầm giềng Bảo Sanh Nhơn Nghĩa đem nhơn loại chiến đấu, chiến đấu của các con về mặt tinh thần, chớ không phải về mặt danh, vì lợi và tàn sát một cách vô lý vô nhân đạo cả sanh mạng của loài người đó vậy.

Các con bên giáo chức, các con đã lãnh sứ mạng tạo tinh thần tương lai cho nòi giống của các con. Thầy rất hài lòng về việc đó, các con nên cố gắng thêm lên chút nữa.

Bần Đạo nhớ lại khi mới mở Đạo có một vị giáo chức đến dâng sớ vấn nạn Đức Chí Tôn còn xưng là A, Ă, Â. Đức Chí Tôn cho một Bài Thi để trả lời :

 Dạy trẻ con toan trước dạy mình,

Cái công giáo hóa cũng đồng sinh,

Đạo Đời tuy biết Đời rằng trọng,

Một điểm quang minh một điểm linh.

Đức Chí Tôn chỉ nói một điểm quang minh mà thôi. Vậy các con hãy dạy cho em các con một điểm quang minh đó. Các con cố gắng tạo điểm quang minh ấy cho cả thiếu sinh là đoàn em của mấy con, và nó sẽ thừa kế vận mạng của Đạo, của Tổ Quốc, của nòi giống, rồi các con sẽ thấy nó không tự kiêu, tự đắc, cái hãnh diện cao thượng đó, dầu cho một kẻ nào khó tánh bao nhiêu cũng phải cúi đầu tôn tặng đó vậy. Chính mình Bần Đạo thấy trước cái hành tàng cao thượng của các con, Thầy cũng phải cúi đầu kính mến và tôn tặng. Thầy để lời cám ơn các con đã cho Thầy hưởng được hạnh phúc ấy.

Các con Học Sinh Nam, Nữ, các con ngó đoàn anh của các con, rồi các con sẽ định vận mạng tương lai của các con như thế nào ? Các con đã thấy cái sống của Thầy các con trước mắt là sống eo hẹp, sống vất vả, sống đau khổ không buổi nào mà Thầy thấy cái sống của Thầy các con đặng mãi mãi hạnh phúc. Mấy con muốn trả ân ấy cho xứng đáng, Thầy chỉ có một điều là mong cho các con khôn ngoan sáng suốt đặng khi ra trường lập nên thân danh làm cho rạng rỡ danh thể Thầy của các con. Một lời tâm huyết Bần Đạo để trong tâm não của mấy con đặng làm định hướng cho mấy con đó vậy.

Giờ phút này trong đường Đạo của mấy con có hai điều trọng yếu về tinh thần là : Yêu Ái và Chơn Thật. Nếu các con giữ được hai điều ấy. Thầy dám chắc dầu cho gặp khó khăn trở ngại bao nhiêu trên đường tiến bước, Bần Đạo quả quyết nó sẽ cải hóa một cách dễ dàng và êm thắm.

 

Tại Đền Thánh, đêm 18 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)

54.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO TRONG CUỘC LỄ ĐĂNG ĐIỆN "XÁ LỢI PHẬT"

Hôm nay chúng ta thiết Tiểu Đàn An Vị Xá Lợi của Đức Phật Thích ca. Bần Đạo đã để Xá Lợi Phật tại Nghinh Phong Đài 3 ngày 3 đêm cho con cái Đức Chí Tôn chiêm ngưỡng Đức Phật Thích Ca. Hôm nay đã đủ 3 ngày Bần Đạo hành Lễ An Vị cho Ngài. Chúng ta hân hạnh được Đức Chí Tôn ban cho đặc ân nơi Tòa Thánh, tức nhiên Đức Chí Tôn đem Đức Thích Ca về ở cùng chúng ta. Cái hạnh phúc ấy giá trị thế nào Bần Đạo không cần phải minh tả.

Ngộ nghỉnh là những điều Đức Chí Tôn làm bao giờ cũng dành để cho chúng ta một sự ngạc nhiên, và Xá Lợi Đức Phật Thích Ca là gì ? Bần Đạo giải nghĩa cho toàn thể  con cái Đức Chí Tôn hiểu : Khi Đức Phật Thích Ca qui vị, thì Ngài để Di Chúc cho cả Mộ Đệ của Ngài Hỏa táng, tức nhiên thiêu cái thi hài đó, Thi hài của Ngài đã đốt nhưng chẳng hề khi nào tiêu hết, vẫn còn lại mấy miếng xương của Ngài dư thừa lại không cháy gọi là Xá lợi.

Buổi sau này nước Anh, tức nhiên Anh Quốc hiệp lại với nước Ấn Độ mới đào lên được một cái hộp bọc pha ly, trên nóc có để chữ rằng "Di Hài Xá Lợi Đức Phật Thích Ca" lúc đó nước Anh mới lấy cả hộp Xá Lợi ấy. Sau này nước Ấn Độ được Độc Lập mới đòi nước Anh phải trả Xá Lợi Phật cho Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ buổi đó cuộc cách mạng tranh chủ quyền độc lập vẫn còn ở trong Liên Hiệp  Anh. Mãi đến sau này nước Ấn Độ mới hoàn toàn độc lập, nhưng trong nước Tín Ngưỡng  về Phật Giáo tức nhiên Đức Phật Thích Ca đã giảm suy nhiều. Trong số 3.500 triệu Dân, mà Tín Đồ chỉ có 10 triệu thôi, thành thử vì cái lẻ loạn lạc của nước, chính phủ nghĩ rằng : Để trong nước e Xá Lợi có thể bị mất, nên dành để có một mớ, chia cho Tích Lan một mớ, Đức Narada Théra đem hiến cho Tòa Thánh Ngọc Xá Lợi là người Tích Lan đó vậy.

Trước kia Tích Lan dâng Xá Lợi Phật ấy cho Nhật có đi ngang qua Đông Dương (Sài Gòn) cuộc tiếp rước ấy rất nên long trọng. Tín Ngưỡng về Phật Giáo của Sắc Dân Việt Nam rất nồng nàn thế nào thì các vị Đại Đức đã ngó thấy trước mắt.

May thay : Ông Bửu Chơn là người Việt nam, nhưng Ngài là Môn Đệ của Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông Phật Giáo Tích Lan. Ngài Bửu Chơn muốn xin Ngọc Xá Lợi để trong nước Việt Nam , nên Đại Đức Narada Théra đem cho nước Việt Nam ba hột Ngọc Xá Lợi Phật, một cho Đại Thừa, một cho Tiểu Thừa, lại còn một hột để cho Tiểu Thừa Phật Giáo tại Kiêm Biên, tức nhiên là Miền Quốc.

Trong cái tình trạng của các Môn Đệ của Đức Phật Thích Ca nơi nước Việt Nam Phái Tiểu Thừa có hạnh phúc thống nhứt lụng lại. Còn Đại Thừa thì phân vân. Thành thử hột Ngọc giao cho Tiểu Thừa đã thọlãnh, còn Đại Thừa họ đương rắc rối không có định đoạt, họ tính để Ngọc Xá Lợi ấy lại đó, rồi họ chung hợp với nhau cất một cái Tháp đặc biệt để Thờ. Thành thử Ngọc Xá Lợi dành đề Đại Thừa giờ phút này Đức Narada Théra giao cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung, do ý Ngài muốn cho nơi nào tuỳ ý để quyền cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung định liệu.

Ba cây Bồ Đề cho Tiểu Thừa một cây, cho Tiểu Thừa Phật Giáo Miên Quốc một cây, còn một cây của Đại Thừa đem về Tòa Thánh. Hột Ngọc Xá Lợi đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Đạo Giáo Tích Lan, lấy của tư của Ngài hiến cho Tòa Thánh. Chúng ta thấy cả hành tàng cả sự khó khăn đem Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh đều do nơi công nghiệp vĩ đại của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài, tức nhiên Phó Thủ Tướng Việt Nam đương giờ này là Ông Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, Ông đã chịu nhọc nhằn cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều ngó thấy. Ngài hạ mình xin cho đặng Ngọc Xá Lợi ấy thế nào ? Nên hôm Ngài trở về Sài Gòn, Bần Đạo nhân danh toàn thể con cái Đức Chí Tôn và Hội Thánh Nam, Nữ Lưỡng Phái để lời cám ơn Ông Bảo Sanh Quân rồi, và Bần Đạo sẽ cho các cơ quan Chánh Trị Đạo làm một tờ chúc thơ cảm tạ công nghiệp của Ngài.

Đức Phật Tổ tức nhiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Boudda Cakyâmouni) cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã nghe Đức Narada Théra thuyết Đạo rồi. Ngài nói Đức Phật Thích Ca là những người như ta, có xác thân như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người ở trong thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài đã lên tới Phật vị. Ngài tái kiếp làm người với mãnh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy.

Cái quí trọng của Đức Phật Thích Ca  họ đã nhìn nhận cái cao siêu về linh hồn  của Ngài trước khi chưa đầu kiếp. Các Tôn Giáo bao giờ cũng vậy, họ muốn tôn tặng Giáo Chủ của họ lên một địa vị phi phàm, tức nhiên họ đặc ra nhiều lẻ dường như ảnh hưởng của thần thoại. Tinh thần con người bao giờ cũng vậy, sợ chết, muốn sống, mà cái sống ấy muốn thế nào cho trường cửu với họ mới được.

Hại thay ! Cảnh Hằng Sống không phải ở thế gian này với thi phàm xác tục của ta, mà cảnh Hằng Sống ấy nó ở nơi cõi Thiêng Liêng Vô Hình kia. Cảnh ở thế gian này là cảnh đau khổ, họ muốn cho các vị giáo chủ của họ phi phàm họ bài ra nhiều cái thuyết thần thoại, giờ phút này làm cho khoa học phải trợn trạo đánh đổ về cái lý lẻ ấy, đánh đổ rất khoa học không thế gì chối cải được.

Nào là họ nói Đức Chúa Jésus do một người đồng trinh tự nhiên đẻ ra, chính mình trong Đạo Sử  của Đức Chúa Jésus, Cha của Ngài  là Ông Thánh Joseph, Mẹ của Ngài là Bà Marie, họ lại nói Đức Phật Thích Ca khi xuất thế ở trong nách của Bà Maya mà ra, Đức Lão Tử cũng thế, họ làm cho giờ phút này cả Tín Đồ các Tôn Giáo khó giải quyết, họ đem cái lý do thần thoại nêu ra làm một sự chơn thật.

Hại thay ! Nếu mọi sự chơn thật nó có thể làm cho cả đức tin con người phải điên đảo. Chúng ta ngó thấy cơ thể tạo đoan có âm dương tương hóa mới sản xuất hình ảnh tức nhiên của tức nhiên cả kiếp sanh và sanh mạng cả toàn thể vạn linh nơi mặt địa cầu này. Đừng có nói chi nhiều, nội điên lực, nếu không cần âm điện và dương điện thì chúng ta không có ngọn đèn sáng như thế này được.

Lại nói đến hơi thở của ta không có âm khí (Hydrogène) dương khí (Oxygène). Nếu chúng ta không có hơi thở đó chưa chắc gì chúng ta sống đặng, đừng nói chi nhiều cả cơ thể tạo đoan không có hàn nhiệt ôn lương, thì vạn linh nơi mặt địa cầu này chưa chắc họ sống còn và tồn tại được.

Huống chi cái luật tạo đoan phải có Cha Mẹ, có âm dương của Cha Mẹ mới sản xuất cái nhơn hình của chúng ta. Thành thử Đức Phật Thích Ca cũng sanh như ai kia vậy. Nhưng Tiền căn của Ngài cao siêu hàng phẩm của Ngài tới Phật vị, cho nên sự sáng suốt khôn ngoan của Ngài phi phàm hơn hết nên cả nước Tích Lan (Ceylan) đều gọi Ngài là Mâu Ni tức nhiên một vị Hiền Triết vô đối của họ. Họ tôn tặng chức tước, tôn trọng Đức Thích Ca xứng đáng quá chừng, cũng như Đức Chúa Jésus Christ nhờ thiên căn sáng suốt thành thử người ta gọi Ngài là "Le Saint des Saint" (một vị Thánh trên các Thánh) Đức Lão Tử, Đức Khổng Phu Tử cũng thế, các vị ấy đều do nơi tiền kiếp phi phàm mà thôi, chớ các vị ấy xác tục cũng như ta, người cũng như ta, sống chết cũng như ta, đầu óc trí não cũng như ta, sống trong cảnh khổ não cũng như ta.

Bần Đạo ước mong các con cái Đức Chí Tôn hiểu đặng các điều chơn thật ấy, đặng Tu, cố gắng làm sao cho phi phàm, làm sao dòm tánh đức của Đức Chí Tôn thế nào ? Học đòi cho đặng Huệ Quang của Ngài ban cho thì trí não ta mới thông suốt như Ngài đặng.

Trước kia Đức Phật Thích Ca  đã thành Phật đặng, thì chúng ta cũng thành Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẻ ấy. Bần Đạo mong mỏi cả con cái Đức Chí Tôn cố gắng học đòi như Ngài đặng thành Phật như Ngài vậy.

 

Tại Đền Thánh Đêm 30 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)

ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO VỀ

55.- TÁNH-ĐỨC HẠ MÌNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG

Mấy em Thanh Niên Nam Nữ Lưỡng Phái.

Đêm nay Bần Đạo giảng đặc biệt cho mấy em đó. Cái tương lai cơ nghiệp Đạo, tương lai của Thánh Thể Đức Chí Tôn đào tạo cho mấy em, mấy em sẽ nối chí cho chúng Qua hay là mấy em lập thân danh đặng một ngày kia vào hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn tại thế này. Qua còn giảng giải cho mấy em đi trong khuôn khổ của Đức Chí Tôn. Muốn cho mấy em phải đào luyện nên Qua nói phần Tu tức nhiên trau dồi tánh đức của mấy em đặng xứng đáng cái phận sự trọng yếu của mấy em tương lai ngày sau kia.

Hôm nay Qua giảng về sự thật và cái hay của tánh đức hạ mình và khiêm nhượng đổi lụng lại phản lực của nó là : Tự cao, tự tôn, tự đại.

Chúng ta thử xét đoán về mặt thế này, ta mang thi phàm xác thịt cũng như ai, ta xét đoán lại coi ta có hơn ai chăng? Có đặng hơn cái chi mà ta tự cao, tự tôn, tư đại? Cũng ở trong lòng mẹ mà ra, ai cũng sanh trong một kguôn luật như ta. Thân hình cả thiên hạ nơi mặt địa cầu này 2.700 triệu người, ta thử so sánh có thể hơn 2.700 triệu người đó hay chăng? Mà ta tự tôn, tự đại. Ta cũng như một hột cát ở bãi sa mạc kia.

Lấy theo tình lí mà luận, đầu ta cũng một đầu, thân ta cũng một thân, ta không phải ba đầu sáu tay hơn ai mà ta tự tôn, tự đại, nếu lấy theo hình thể mà luận thì thân này thế nào, thì thân của bạn đồng sanh ta cũng như ta vậy. Ta không có lí do gì gọi ta hơn kẻ đó, hơn bạn đồng sanh ta mà ta tự tôn, tự đại. Nếu như ta luận về mặt tinh thần tại sao ta còn được Đại Từ Phụ ban cho ta khôn ngoan khéo léo, biết nên, hư, phải, quấy, lấy tinh thần đặng định hướng cái cái mạng sống của mình coi có mục đích chuẩn thẳng không? Oâi! Thoảng như bạn đồng sanh ta thiệt thà hơn ta, ta ngó thấy, nếu ta hơn bạn ta là nhờ căn tu của ta dày hơn họ chút thôi, còn căn tu của họ mỏng hơn ta một chút mà thôi lấy theo lí luận về căn tu ấy, thì ta hơn họ, hơn mảy may mà thôi, hơn môt chút xíu thôi, không phải đủ mà ta tự cao, tự tôn, tự đại. Trái ngược lại, nếu người bạn đồng sanh thiếu kém hơn ta, khiếm cảnh tu hơn ta, mạng căn quả kiếp nặng nề hơn ta, thì ta phải thương yêu họ, tội nghiệp dùm họ, chớ ta không co quyền nào thù ghét họ, coi họ la hèn hơn ta, ta cao trọng hơn họ là không có lí do vậy.

Bây giờ trái lại cái phản lực đó. Chúng ta thử nghĩ coi, mình phải khiêm nhượng chơn thật hay xảo trá? Nếu kẻ nào tự cao, tự tôn, tự đại, mà giờ phút này không biết hạ mình đặng chiều chuộng người, thì đời nó thiên hạ không buổi nào thương được, dầu cho từ buổi nhỏ dĩ chí 100 tuổi già đến chất nó vẫn học mãi thôi, không buổi nào gọi tự đủ. Đời nó 100 tuổi vẫn tìm tàng học mãi học sách Đời, học sách Thánh Hiền để lại học cả hay ho khéo léo của các vị Giáo Chủ Đạo Đức tinh thần để lại, mà nếu không biết khiêm nhượng thì không ai thèm dạy mà chúng còn ghét là khác, nếu kẻ nào như vậy thì chúng bỏ xó phải chịu cái phận khổ não mà thôi không ai thèm dạy hết, bởi vì người ta ghét, không ai ngó ngàng tới đâu có dạy dỗ gì mà nên được, dầu cho một kẻ thiếu niên kia mà biết khiêm nhượng phục sự một ông già. Tuổi mình đang thanh niên mà đặng ông già giáo hóa mình, khi tuổi mình còn non mà trí đặng già là nhờ biết khiêm nhượng. Còn như những kẻ không biết hạ mình hiu hiu tự đắc, tự cao, tự đại, thành ra cái giá trị của nó đối vơi thiên hạ vì kiêu một chút mà người ta bất mãn, vì nó tự cao, tự tôn, tự đại, xấc xược dối trá không đánh giá gì hết, mà lại chọc cho thiên hạ ghét gớm thân danh mình thì dầu cho học bao nhiêu người ta cũng vẫn ghét vẫn gớm thôi.

Bây giờ cái tính đức của sự khiêm nhượng, lấy theo hình thể mà luận, mình biết thân mình, mình vẫn kiếm thế học mãi. Mình vẫn hạ mình kiếm thế hiểu lấy mình và biết người, thì sự khiêm nhượng hạ mình có cái hay, dầu cho cái giá trị của mình không nên gì hết, nhờ sự khiêm nhượng mà người ta thương mình, nâng đỡ mình, dìu dắt mình, đưa mình lên phẩm vị xứng đáng với mình, cũng nhờ sự khiêm nhượng ấy mà người ta tôn tặng. Cái đó nói thiệt là hơn, còn những kẻ tự cao,  tự tôn, tự đại, nếu mình đi con đường nguy hiểm tới trước mắt chết cũng thây kệ mình cũng không ai nói, là vì chúng ghét. Nhưng hại thay! Chúng còn bắt mình làm một sanh vật để họ thí nghiệm.

Bây giờ lấy tinh thần mà luận, sự khiêm nhượng buộc mình phải khiêm nhượng, chính mình chưa đủ gì hết.

Đức Khổng Phu Tử kia còn bị một đứa con nít là : Hạng Thác dạy Ngài thay! Đến khi gặp Đức Lão Tử Ngài nói, cái thuyết Nhơn Luân  để tạo xã hội cho thế gian. Cái thuyết của Ngài, nếu ta nghĩ Đạo của Ngài thì rộng không biết bao nhêu, mà đạo của Ngài đối với Đức Lão Tử nó vẫn thơ sinh, thì chẳng hề khi nào làm thỏa mãn đặng cả nhơn tâm, của thế thái nhơn tình được. Cái thuyết lập xã hội thơ sinh của Ngài đối với Đạo của Đức Lão Tử thì nó già, còn của Đức Khổng Phu Tử còn thiếu niên, còn thơ ấu nên bị ngài trích điểm.

Thử nghĩ một vị thánh như Đức Khổng Phu Tử bị một đứa con nít dạy, rồi bị Oâng già chê mà Ngài cũng khiêm nhượng, nên chúng ta nhìn nhận Ngài là một vị Thánh sống hiển hiện tại thế.

Còn những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại bất quá làm hề cho một người thiếu trí coi chơi chớ cái giá trị không đáng gì hết, rốt chuyện thiên hạ coi nó là giả không có giá trị chi đâu, mà tự cao, tự tôn, tự đại.

Bần Đạo nói: Những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại là giả dối, người đó không còn cái giá trị gì đặng sống cùng thiên-hạ xã hội nhơn quần, vì họ mất cả tinh thần cả hình thể đó vậy.

Aáy vậy mỗi kiếp sống của chúng ta đây, Bần Đạo thường giảng là cái kiếp duyên, chỉ sống đây là một kiếp thường mà thôi còn cái tánh đức tự cao, tự tôn, tự đại không khi nào thiên hạ thương được, nên cái kiếp sanh ấy xét ra sống chi vô ích không ăn thua gì hết.

Bần Đạo thường giảng, cái sự yêu thương là một của cải Thiêng Liêng, nếu cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn tạo nó đặng, thì dầu cho Cửu Phẩm Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.

Bần Đạo đã nói: Nếu chúng ta làm cho người chí thân ta, trong thân ta, máu thịt ta, thương ta được, giá trị nó là: Đồng.

Làm cho những kẻ không phải trong thân ta, người ngoại nhân kia, thương ta được giá trị nó là : Bạc.

Làm cho những kẻ thù địch ta, thương ta được giá trị nó là : Vàng.

Ba món bán ấy mà tạo đặng, thì cái kiếp sanh này dầu cho Cửu Phẩm Thiên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.

 

Tại Đền Thánh Đêm 14 tháng 6 năm Quý Tỵ (1953)

ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG VỀ

56.- NĂNG-LỰC TINH-THẦN ĐỐI VỚI HÌNH-THỂ

Đêm nay Bần đạo giảng về cái năng lực của tinh thần đối với hình thể, hay nói về năng lực của tâm hồn đối với xác thịt muốn nói rõ ra hơn nữa là Quyền năng thiêng liêng đối với hành vi kiếp sống.

Bần đạo đọc một tờ báo, luận về Đông Đức đã đứng lên phản kháng cả hành tàng vô nhân đạo của khối cộng sản. Tội nghiệp thay! Một nước liệt cường như thế hôm nay đã bị bại trận, nước chia ra làm đôi, dân chịu thống khổ, bị hai quyền năng áp bức.

Một là đồng minh dân chủ bên Tây Đức. Khối của Nga tức nhiên Cộng Sản bên Đông Đức cho nên công thợ lúc ấy không còn quyền, nên phải đình công đặng bảo vệ quyền lợi của họ.Nhứt nhứt dầu phương thế trọng hay khinh đều ngó thấy có tay của chánh phủ định hết.

Về công thợ cũng thế! Về chủ nhân cũng thế! Chánh sách của Cộng  Sản trước, binh vực về quyền lợi của công thợ tức nhiên lấy cái tài sản của chủ nhân đặng họ mua lòng công thợ. Mua lòng công thợ đặng chi? Đặng giục họ làm cách mạng cho thành công, khi đã thành công cho họ rồi, họ nắm chủ quyền trong tay thì họ từ từ đi đến địa điểm của họ. Day qua quyền lợi của chủ nhân ho ïphế hũy cả quyền lợi công thợ, làm cho dân thợ sống một cách chật vật, thiếu thốn, nghèo nàn. Nhất là một nước mới bị bại trận, nước nghèo dân khổ, thêm bị chủ quyền chuyên chế chịu không nổ, đến đổi dùng hai bàn tay trắng đối thủ với thiết giáp, súng đồng. Họ đã liều hy sinh tánh mạng của họđả đảo quyền độc đoán của Cộng Sản. Vì thế cho nên Bần Đạo nói: Dầu cho năng lực  quyền hành hình thể mạnh bạo thế nào cũng không thế gì đè nén làm cho tinh thần họ lệ thuộc được. Thật vậy, sự thật là vậy.

Chúng ta đã ngó thấy, từ cổ chí kim có cái cường lực hình thể nào làm cho họ khủng khiếp, sợ hải chăng? Họ chỉ lấy cái thân hình mà làm cái mạnh bạo của họ. Hể thuận mạng lịnh của họ thì sống, trái mạng lịnh thì họ giết chết. Cái năng  lực hình thể có bao nhiêu quyền năng nương cái chết  của thiên hạ là căn bản mà thôi, nên làm cho tinh thần họ càng lừng lẩy coi cái chết là thường, thật vậy, cái chết không nghĩa lý gì hết. Trong khi có kẻ vì tình cảnh thống khổ về hình xác của họ mà tự tử, tức nhiên họ tự vận. Họ chết trong giá trị mảy may mà thôi, chớ không phải chắc chắn, đến khi thiên hạ coi chết ấy là rẻ, bởi tinh thần chủ quyền thi hài của người cốt yếu là con vật, nếu không có chủ quyền tinh thần thì phải bị hủy bỏ. Còn như muốn bảo vệ tồn tại thì tinh thần phải định chủ quyền của mình, khi tinh thần đã nhứt định nắm chủ quyền tay rồi thì không còn lực lượng nào đè nén nó được.

Chúng ta đã ngó thấy. Trước kia Công Giáo tức nhiên Đạo Thiên Chúa hay Đạo Gia Tô bị Judas đè nén một cái quyền biết bao nhiêu. Nó đã bắt Đạo, giết Đạo, hồi Đạo mới phôi phai, tưởng rằng nền Tôn Giáo hôm nay có quyền làm bá chủ của tâm hồn thiên hạ. Cái chếât vì Đạo nên cả Đền Thờ sang trọng của Thánh Giáo Gia Tô hôm nay chúng ta thấy trước mắt, nó đã xây dựng bằng xương máu của các Thánh Tử Đạo đó vậy.

Hồi Đạo Phật xuất thế. Đạo Bà La Môn ỷ nắm quyền Đạo trong tay bắt buộc làm cho thống khổ không thế gì tả được, vì Dân NaVa, mà hôm nay Đạo Phật đã lan tràn khắp Ngũ Châu, thì cái mạnh của Đạo Phật sẽ còn tồn tại mãi mãi mà chớ !.

Còn Đạo Cao Đài chúng ta đã ngó thấy, nền Chơn Giáo của Đức Chí  Tôn, hồi buổi phôi thai thế nào, họ đã dụng quyền lực mưu chước, quỷ quyệt xảo trá, cáo gian, cái tâm vô nhơn đạo họ đã đối với ta, tức nhiên họ muốn liệu phương thế nào tiêu diệt Đạo Cao Đài trong buổi mới phôi thai cho rồi.

Ngộ nghỉnh thay! Cũng thế, không có quyền lực nào đè nén lệ thuộc tinh thần của Đạo được, nên hôm nay Đạo Cao Đài vẫn còn tồn tại và Bần Đạo quả quyết rằng : Nó sẽ tiến đến cực điểm danh dự đặng cứu khổ thiên hạ. Trái ngược lại, nếu thiên hạ còn thống khổ đau đớn chưa có cơ quan nào an ủi chia sớt cho họ. Thực sự là cái năng lực hình thể mạnh mẽ buộc thiên hạ múa men trước mắt kia không chắc chắn, vì cái quyền năng tinh thần vẫn làm chủ  của nó.

 

Ngày 14 tháng 6 năm Quí Tỵ (DL. 3-8-1953)

57.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ DỤ TRONG DỊP LỄ KHAI TRƯỜNG HUẤN LUYỆN TẠI GIANG TÂN.

Thầy để lời chào các con Thượng Hạ Sĩ Quân Quân Đội.

Thầy đã giao cả sở vọng giáo hóa của đoàn em các con định vận mạng tương lai của Quân Đội trong tay, dầu nên hay hư là do sự khéo léo giáo hóa của mấy con dạy đoàn em lập Đức, lập Công và định vận mạng tương lai Tổ Quốc của nòi giống.

Các con Sinh Viên, Thầy hằng nói với các con rằng : Thầy đã chịu biết bao hoàn cảnh, mà từ thử đến giờ dám chắc các nhà Đạo Đức chưa có chịu khảo đảo nào như Thầy. Thầy nói thật cùng các con cái tương lai của các con. Thầy trọn giao nơi tay các con định trong buổi đương nhiên bây giờ. Thầy đã nói cả cái gia nghiệp tương lai của Tổ Phụ các con để lại đã 4.000 năm. Thầy đem cho các con làm, không cho  các con đi trên đường khác, là tại sao ? Vi các con là trai, cái phận cung kiếm của các con lập công, Thầy không phương nào để cho các con đào tẩu trước một phận sự tối Thiêng Liêng, mà các con đã hy sinh xương máu để bảo vệ cho nòi giống các con. Thầy đã chịu nhiều khổ não về mặt Đạo. Thầy làm sao cho không còn quyền năng nào đè nén lệ thuộc các con được. Thầy tranh dấu khổ não, thì giờ phút nầy chính mình Thầy để cho các con thoát vòng nô lệ ấy. Các con biết điều ấy cho Thầy ngay vậy !

Từ ngày Thầy ở Hải Ngoại về, các con đã ngó thấy trước mắt những hành vi của Thầy, như lời của Đại Tá Tham Mưu Trưởng nói với các con khi nãy. Thật vậy. Nếu không có cái tinh thần phi thường không có cái trí não quyết định đặng điều nên lẻ hư. Trong cả hai điều ấy, mà định mạng tương lai chắc chắn của Tổ Quốc các con, thì có lẽ các con thấy đó vậy !

Thầy đã nhẫn nại đổi từ mức. Thầy đổi cũng vì vận mạng tương lai Tổ Quốc của các con đó thôi. Chẳng phải nói cho các con biết đăïng điều ấy, hay là một kẻ thù các con biết, mà Thầy muốn cho toàn thể nhơn loại nòi giống ở mặt địa cầu này điều biết hết nên Thầy thắng là thắng điều đó.

Bảy tám năm nay Thầy đã dìu dắt các con đi trên con đường chiến đấu, vô bờ bến. Trên đường chiến đấu các con đã phí biết bao công trình xương máu mà nó kết liễu ngày hôm nay là định vận mạng trong buổi nầy. Các con phải có năng lực địng vận mạng tương lai của các con cho mỗi đứa tức nhiên các phần tử tự định vận mạng của mình, nên Thầy mới dạy Quân Đội mở Trường Huấn Luyện lại đặng đem cả tinh thần Đạo Đức dạy người, dỗ người, năn-nỉ ỉ-ôi phục lụy người, nhưng cũng không có đủ, phải nhờ phận kiếm cung của các con phải làm sao cho rõ thiệt dưới bóng cờ “Tận Trung Báo Quốc”. Nó không phải dùng cái quyền sanh sát và cũng không phải dùng cái quyền bằng gươm đao mà định vận mạng hay buộc người phải tùng phục cái quyền hạn của mình, không đâu ! Còn thiếu ! Thiếu một cái hồn là : Cái năng lực tinh thần, nếu cái năng lực tinh thần yếu ớt dầu cho các con có một cái đại nghiệp kinh dinh đủ quyền năng giết người, các con cũng không thế nào phục người đặng.

Cổ ngữ có nói : “ Giữa mặt trận ta có thể giết tướng được, chớ cướp chí người không phải dễ “.

Aáy vậy, các con vì nó đã hy sinh xương máu rất nhiều rồi, muốn thắng thì trong tay các con phải có cái quyền năng tinh-thần ấy, các con phải xét đoán nghê sợ cho lắm ! Mà định phận của mình.

 

Tại Đền Thánh.Đêm 29 tháng 6 năm Quí Tỵ (1953)

ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO VỀ

58.- HAI CHỮ CHƠN VÀ GIẢ

Đêm nay Bần Đạo luận về hai chữ “Chơn” và “Giả”. Hể gọi là Chơn thế nào cũng gọi là Chánh. Nhứt là về Đạo thuyết. Còn Giả gọi là Tà. Hai tiếng biện luận từ thử đến giờ nhức là phần đông kẻ Tu hành ra nơi miệng thường khoe mình tầâm chơn. Bởi cái chơn ấy chúng ta phải mượn tiếng của người Pháp Le Vrai est en rapport avec La Réalite nó phù hạp với chí lí. Le vrai est en rapport avec le bon raisonnement. Giải nghĩa là: Chơn, chơn ấy làm thế nào cho chí chơn, Le vrai est en rapport. Cái Chơn ấy nó phải ăn hiệp với tính chất của chơn lí.

Hai chữ Chơn, chữ Giả đã để cho mặt Đời luận biện không biết bao nhiêu mực viết, họ muốn tầâm chơn ở bên Duy Vật: Matérialisme tức nhiên là thuyết chí, lấy cái sống làm căn bản cái sống ấy nó hiện ở trong con vật của đương nhiên bấy giờ ở thế gian này, ta sống giờ này đây phải tìm phương pháp nào để bảo toàn được cái sống ấy, dầu cho nó vô nhân đạo, tàn ác, cả hành vi bất chánh thế nào miễn bảo vệ cái sống còn tồn tại của họ. Họ chỉ bảo vệ sao cho được hơn cái sống của kẻ khác, họ cho là chơn của họ. Phần nhiều cái lý thuyết ấy ở nơi miệng của kẻ giục tấn ở đường đời của họ hơn hết thảy.

Ở mặt thế gian nơi giữa thế kỷ nầy cái thuyết ấy nó đã làm cho thiên hạ mùi mẫn mê theo. Cái chơn lý của họ gọi là lý thuyết độc đoán, thật vậy !

Sống giữa thế kỷ nầy một nền văn minh phát triển máy móc nếu sống mà không có trường hợp tranh đấu đặng bảo vệ sanh mạng, thì thấy cái sống của con người ta khó khăn không biết thế nào, vì lẽ khó khăn ấy, trong trường hợp tranh đấu không có đủ năng lực, nên dường như con người bị đào thải ra khỏi xã hội nhơn quần. Vì cớ cho nên họ tranh đấu đặng sống cho lấy đặng, có khi trong trường tranh đấu họ đắc thế gặp đường chiến đấu đã đa số hơn họ. Họ làm chúa các sanh mạng trong tay họ để đọat cái sở năng ấy rồi, thì họ gọi là  chơn lý, gọi là hay hơn hết, là chơn thật chánh đáng hơn hết. Đó là luận theo cái thói tục của đời. Còn luận theo Đạo các vị Giáo Chủ trước khi đọat Pháp đặng, thì họ ngó thấy ngoài ra tâm hồn của họ với họ, ngoài ra họ với họ, không có cái nào chơn thật ở tại mặt thế gian nầy. Bởi cớ cho nên bọ đi kiếm cái ngã tướng của họ, biết lấy họ mà thôi, cái thuyết ấy ở bên Châu Aâu Ôâng Pythagore và các nhà Triết Học bên Aâu Châu đã tìm được chơn lý ấy, tiếng Pháp gọi là : Conscience, là chỉ người tìm biết lấy ý thức lương tâm người thôi. Họ thử nghĩ cái đường lối sanh sống với bạn đồng sanh của họ là một trường hợp giả dối không có cái gì thiệt trước mắt họ hết. Chính mình cái sống của họ cũng giả với họ, tức nhiên họ biết cái mảnh thân của họ dối gạt họ.

Muốn tìm cho biết cáu chơn được thì họ phải tìm cái chơn trong tinh thần với tâm hồn của họ mà thôi, lấy tâm hồn họ đối với tinh thần, lấy ngã tướng chơn thật của họ chớ không phải với ai.

Vì cớ cho nên cái thuyết của Tiên gia "Lánh tục tầm Tiên" vì lẻ đó.

Ta thử để dấu hỏi ? Một thuyết Duy-vật thế đó, còn một thuyết Duy-tâm thế đó, hỏi chớ cái nào thiệt ?

May thay Bần Đạo hồi ở tại Thủ Đức nhờ Đức Chí Tôn cho Đức Lý Giáo Tông đến giáo hóa thì hai đứa luận biện về lý thuyết ấy rất đáo để. Đức Lý Giáo Tông mới lấy thuyết ấy nói rằng : Sự thật làm thế nào mình biết mình thật mới ra thật, chưa làm gì thật chưa biết mình là thật, mình muốn tìm đặng biết là chữ thật, thì đã ngó thấy cái sống của mình, nó biết mình không có cái gì thật hơn là phải chia cái sống đặng đồng sống.

Trong khi ta đã thọ một điểm tinh của Cha, đã thọ một huyết bổn của Mẹ đặng tượng hình của ta, thì ta đã thiếu nợ máu thịt thiếu nợ sống của ta rồi đó, nếu ta bỏ cái nợ đó, ta gọi là chơn thì phi lý.

Bây giờ ta sống ta nhờ có xã hội nhơn quần tức nhiên kẻ đồng sống cùng ta, họ chia từ hột cơm tấm áo, ta sống ta chia sớt với họ phương nào ? Không thể cho ta hết, trong khi ta đã nhờ kẻ nào mà ta đã sống, ta bảo kẻ đó không khi nào là chơn thật.

Aáy vậy, theo cái thuyết của Đức Chí Tôn đã nói rằng : "Cái sự chơn thật của các con thì các con phải thùy từ mẫn khổ. Giờ phút nào các con thấy trước mắt các con đầy những sự khổ não mà thiên hạ họ không có phương nào giải khổ ấy đặng, các con cũng không an ủi nâng đã cho họ bớt khổ, thì các con không khi nào đạt Chánh giáo đặng".

Chúng ta đã ngó thấy, Đức Chúa Jésus đã chia từ miếng bánh mì, chia từ miếng cá cho kẻ nghèo.

Ta ngó thấy Đức Thích Ca đi hành khất đem về cấp Cô Độc Viện để nuôi kẻ nghèo đói.

Ta ngó thấy Đức Lão Tử, là một vị Quan nhà Châu, mà Ngài còn bỏ Quan đi theo dạy một học trò là Ôâng Doản-Hỉ vì lẻ bất công của xã hội nhơn quần, bất công của cả cái sống ở thế gian, nên cái phương an ủi tâm hồn ta ngó thấy từ trước đến giờ không có vị Giáo Chủ nào không lấy căn bản thùy từ mẫn khổ làm chơn thật.

Aáy vậy, nền Chơn Giáo nào mà không theo thuyết của Đức Chí Tôn và Đức Lý đã dạy, dầu cho cái thuyết họ cao siêu thế nào, nhưng họ chưa có thể chia khôt cùng nhơn loại, tức nhiên chúng ta để dấu hỏi. Mơ hồ không phải là giáo chánh.

 

Tại Đền Thánh Đêm 14 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)

ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ

59.- LUẬT THƯƠNG-YÊU,QUYỀN CÔNG-CHÁNH

Đêm Bần Đạo giảng Luật Thương Yêu, Quyền Công Chánh của Đức Chí Tôn đã đến Ký Hòa Ước với chúng ta, để cả chơn truyền trong tâm hồn của ta.

Bần Đạo giảng về Luật Yêu Thương và Quyền Công Chánh đối với lẻ sống hiện tại của nhơn loại. Chúng ta đã ngó thấy, cả toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu nầy, các dân tộc, các Quốc Gia Liệt Cường bị đảo lộn rối loạn, Nhơn Loại không được hưởng thái bình của Đức Chí Tôn hứa hẹn là do nơi khuôn Luật Thương Yêu và Quyền Công Chánh không có hiện tượng tại thế nầy.

"Nhơn tâm chi linh" tâm con người ta bao giờ cũng vọng niệm thay đổi và theo luật định thiên nhiên của họ. Họ muốn dùng hòa cả tâm lý nhơn loại, nhứt là hạng thượng lưu trí thức của nhơn loại đã đặt quá nhiều luật pháp, quá nhiều quyền hành, mà hễ càng đào tạo nhiều luật pháp và nhiều quyền hành chừng nào thì nhơn loại càng ly loạn chừng nấy, ở các nước giờ phút nầy cả nền chánh trị toàn thể nhơn loại bị đảo lộn. Họ muốn tìm cái giải pháp làm cho dung hòa tâm lý đặng đem cái hòa bình thiệt hiện.

Hại thay ! Họ đã tìm tàng không biết bao nhiêu phương pháp, họ định không biết bao nhiêu luật lệ mà không kết liễu gì hết. Bởi có các luật lệ ấy tùng theo luật tương đối nó vẫn mâu thuẫn nhau mà thôi, mặt luật duy nhứt là mặt luật yêu thương mà thiên hạ quên lững thiên hạ đã bỏ nó.

Hai thay ! Bỏ nó thì nhơn tâm không có căn bản không có chuẩn thằng mực thước. Chúng ta thử nghĩ, trong một gia đình nếu không khuôn luật yêu thương ấy không có, thì chồng không thuận vợ, vợ chẳng thuận chồng, con không thuận cha, cha chẳng thuận con, tôi không thuận chúa, chúa chẳng thuận tôi. Hỏi ta lấy cái tối thiểu luận ra cái tối đại kia, trong gia đình ta chỉ dụng cái gia nghiêm mà thôi, gia nghiêm là khuôn luật yêu thương trong gia đình. Nếu ai đi ngoài vòng khuôn luật yêu thương ấy thì không được, gia nghiêm buộc họ phải tùng theo khuôn luật yêu thương ấy mà thôi.

Chúng ta thử hỏi ? Một bằng cớ hiển nhiên con ta không phải lớn hơn ta, mà tới chừng khuôn luật thương yêu bắt buộc ta tùng theo khuôn khổ thiên nhiên của nó.

Ngộ nghỉnh thay ! Con ta đủ quyền sai khiến ta, vì tình thương yêu lợi dụng ta được mà thôi. Chúng ra thử lấy cái tối thiểu ấy so sánh với cái tối đại cả nhơn loại nếu mất luật thương yêu thì đem sự sống của nhơn loại đến chỗ tương tàn sát giết hại lẫn nhau, làm cho mặt địa cầu nầy phải chinh nghiêng, làm cho tâm lý nhơn loại đảo điên.

Chúng ta đã ngó thấy chán chường, thiên hạ đã nói tìm hòa bình, mà trong hòa bình ấy luật yêu thương ấy không hiện diện, không có kết liễu hình tướng được, thì họ chỉ mò trăng nơi đáy biển mà thôi.

Cái khuôn luật thương yêu nó làm mực thước cho chúng ta đặng định quyền công chánh trong một gia đình, nếu vợ không công chánh với chồng, chồng không công chánh với vợ, thì gia đình không thể gì hòa đặng. Vua không hòa chánh với tôi, tôi không công chánh với vua, không lấy tâm nào làm mực thước thì trong nước không có hòa đặng. Nhơn loại cả toàn thể không có công chánh đối đãi với nhau, thì nhơn loại ly loạn mãi thôi, chẳng hề khi nào hưởng được cái hạnh phúc hòa bình.

Aáy vậy khuôn luật của Đức Chí Tôn để trong cửa Đạo, là khuôn Luật Thương Yêu và cái quyền hành Công Chánh.

Giờ phút nào nhơn loại biết lợi dụng mặt luật và quyền năng ấy mới đem cái hạnh phúc hòa bình cho nhơn loại tương lai tới đây. Bằng chẳng vậy, thì cái nạn tương tàn, tương sát vẫn tiếp tục mãi mà thôi.

   

Ngày 15 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)

60.- ĐỨC HỘ-PHÁP TỎ BÀY CẢM-TƯỞNG TRONG NGÀY CHUẨN-BỊ LỄ KHÁNH THÀNH VĂN PHÒNG BAN QUẢN TRỊ CHỢ LONG HOA

Bần Đạo nhận thấy được cái sự nghiệp kinh doanh do tinh thần đoàn kết, cái đời sống an nhàn no ấm do công bình nhân ái của mấy em tức là Bần Đạo đã được hưởng một phần hạnh phúc tại thế đó vậy. Nếu nhơn loại biết trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có chuyện gì mà nhơn loại làm không đặng.

Qua mấy năm, Bần Đạo rất trông cậy ở lòng nhiệt thành của toàn thể hảy giúp cho Ban Quản Trị và Hội Thánh hoàn thành Chợ Long Hoa thiệt, vì hiện giờ chỉ là tạm thôi. Khi thiệt thọ rồi Bần Đạo dám chắc rằng đời sống của mấy em sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu tươi đẹp nũa và ngôi nhà chung của chúng ta là một Tông Đường để đào tạo đám thơ sinh tiếp tục làm Thánh Thể Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng lực, tâm tình đặng cứu khổ Chúng Sanh.

 

Ngày 16 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)

61.- LỜI PHỦ DỤ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRONG LỄ KHÁNH THÀNH VĂN PHÒNG BAN QUẢN-TRỊ LONG-HOA THỊ.

Trước khi mở lời Bần Đạo xin để lời cám ơn các Chức Sắc Thiên Phong, các Sĩ Quan, các nhà cầm quyền của cơ quan Chánh Trị Đạo.

Bần Đạo khi nảy tới giờ nghe mấy em tỏ cái tình cảm đối với Bần Đạo. Về mặt công nghiệp cỏn con phận sự Thiêng Liêng của Bần Đạo phải làm. Nhứt là mấy em Nam, Nữ Lưỡng Phái, các con cái yêu dấu của Đức Chí Tôn phải hiểu rõ sứ mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo là gì ? Rồi mấy em mới đủ tinh thần nghị-lực định-quyết cái phận của Đạo đối với Đời.

Giữa thế kỷ 20 nầy cả tinh-thần toàn-thể nhơn-loại nơi mặt địa cầu nầy bị thuyết Duy-Vật đã làm cho họ điên đảo cả tâm hồn, Bần Đạo cả quyết rằng: Nhơn loại trong buổi nầy bị thống khổ về tâm hồn nên Đức Chí Tôn cũng vì lẻ nhơn loại thống khổ ấy, Ngài đến lấy Quốc Đạo của của Tổ Phụ mấy em để lại tức nhiên là Đạo Nho để cứu vớt phần hồn nhơn-loai đó vậy.

Thật, Bần Đạo không có ngờ một Văn Hiến một Phong Hóa cổ truyền quí hóa Tổ Phụ mấy em đã để lại cho mấy em, ngày hôm nay nó trở thành một cái báu vô giá cho nhơn loại. Thật, Qua không có buổi nào tưởng đến, rồi về phần tâm hồn về phần trí thức tức nhiên phần hồn của nhơn loại.

Bần Đạo tưởng Đức Chí Tôn đã đến cho nhơn loại một huờn thuốc phục sinh của họ do nơi kho vô tận Tổ Phụ của mấy em để lại tức nhiên Đức Chí Tôn đến lấy Nho Tông đặng chuyển thế.

Ngoài ra nữa Đại Từ Phụ lại lập Hội Thánh, hôm nay Bần Đạo đứng đây nói rõ Hội Thánh của Ngài là gì ? Bần Đạo đã nói rằng : Vì nhơn loại thống khổ nên Đức Chí Tôn đã đến đặng chia khổ cùng con cái của Ngài. Hội Thánh đến thay thế hình ảnh xác thân của Ngài. Biểu sao Ngài không giao cho Hội Thánh của Ngài, chung khổ cùng con cái của Ngài. Lẻ dĩ nhiên là vậy. Nhứt là từ ban sơ tới giờ. Bần Đạo là người biết điều ấy hơn hết. Ngài giao cái cơ cứu khổ cho Hội-Thánh của Ngài thay thế hình ảnh cho Ngài đặng chia khổ cùng con cái của Ngài.

Thầy đã nói : Dưới bóng cờ cứu khổ của Đức Chí Tôn tức nhiên cả Chức Sắc Thiên Phong cả Cơ Quan Chánh Trị Đạo, Bần Đạo đã đào tạo sứ-mạng trọng yếu hơn hết là làm thế nào cho mấy em hưởng đặng hạnh phúc giảm khổ. Qua nói thật, có chứng Ngài Trần Khai Pháp ngồi đây : Qua buổi nọ Đạo đương nghèo khổ hèn tiện bị mọi nỗi áp bức khó khăn, biết phận hèn hạ Bần Đạo để cả tiếng nói ngay cùng Chánh phủ Pháp rằng : Ngày giờ nào toàn thể con cái Đức Chí Tôn, Đạo còn nghèo khổ thì ngày giờ ấy Bần Đạo không biết tội tình gì khác hơn là làm cho họ sống với mọi nỗi vinh quang hạnh phúc. Mấy em trong buổi nghèo khổ kia thấy bắt gió nắn hình mà Bần Đạo còn cố làm thay, huống chi hôm nay đã chung về ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn, tức nhiên ngồi nơi Đền Thánh chung vào trong lòng yêu ái của Ngài, phận sự của chúng Qua bảo vệ sự sống của mấy em cho đặng hạnh phúc là phận sự trọng yếu của cả Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng Đài đó vậy.

Hôm nay Qua đã đặng hạnh phúc, hân hạnh được cả toàn thể Thánh Thể của Đức Chí Tôn giao phó cái sứ mạng trọng đại của Hội Thánh. Qua tạm làm Anh Cả của con cái Đức Chí Tôn hôm nay, thì mấy em thử nghĩ, cái đó làm cho Qua đã lo lắng quá lẻ mà chớ ! Qua chỉ sợ cho mấy em, đời của mấy em hèn.

Hôm nay chỉ có hai năm Qua còn nhớ lại, khi Qua ra khỏi nhà Tịnh Trí Huệ Cung, về nơi đây Qua Ban Phép Lành nơi Chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm Tân Mão khởi sự làm Chợ Long Hoa thì tháng 7 năm Tân Mão cho tới tháng 7 nầy thật ra chỉ có hai năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con người, nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một khối thì không có gì mấy em không làm đặng, Qua vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần họat bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.

Thử nghĩ, mấy em ban thưởng cho Qua có hơn điều ấy chăng ? Không, Qua chỉ ước một điều là mỗi nhà của mấy em điều đủ sống hạnh phúc nuôi sấp nhỏ, nuôi cho ăn học, làm thế nào cho cả gia đình của mấy em được vinh hiển, sang trọng, Qua sở vọng hơn hết là điều đó.

Chợ Ngã Năm mấy em đừng tưởng có phép tắc huyền bí, Qua chỉ thấy chợ Ngã Năm rất sung túc mà lại ủm thủm chật chội, Qua chỉ biết rằng : Cái tinh thần của mấy em đi cao tiến triển mạnh, hơn nữa do vị tổ chức của mấy em mà thôi, đủ thấy chợ Ngã Năm thế nào ? Đủ địa thế phương tiện họat động vĩ đại hơn nữa.

Vì cớ cho nên Qua mới lấy khu rừng 47 mẫu, từ thử chưa có chợ nào có đặng 47 mẫu, mấy em ngó thấy chừng vài năm nữa đây sẽ chật hết, Qua đã ngó thấy chen chúc với nhau rồi đó, Qua liệu phương làm sao mở mang rộng ra nữa cho mấy em. Nếu Qua nói một điều trọng yếu của Qua hơn hết, trong năm tới đây mấy em giúp Ban Quản Trị, cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn nơi Chợ Long Hoa, giúp thế cho Hội Thánh làm thành tựu cái chợ thiệt, các em sẽ ngó thấy một cái họat động vĩ đại mà mấy em làm thành chợ Long Hoa thiệt, thiệt thọ rồi cái sự sống của mấy em, Qua dám bảo kê rằng : Nó sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu nữa mà chớ, mà hể cái sống của mấy em mạnh mẽ chừng nào thì tương lai của đoàn hậu tấn Qua giao phó sẽ được bảo đảm chừng nấy. Qua mơ ước sao, mọi nhà của Tông Đường mấy em trẻ thơ sinh sau kia là con cái của mấy em đào tạo nên, đặng một ngày kia nối cho chúng Qua tiếp tục làm Thánh Thể của Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng lực tâm tình của nó, đặng cứu khổ thiên hạ, ấy là điều mơ ước của Qua. Điều Qua mong ước mấy em giúp nó đặng định lương lai cho Đạo.

Mấy em nhớ rằng : Cái vinh quang Tổ Phụ của mấy em đó vậy.

   

Ngày 18 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)

62.- HUẤN-THỊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRONG LỄ PHÁT THÁNH LỊNH CHO CHỨC SẮC BỘ NHẠC ĐI HÀNH ĐẠO NAM, TRUNG, BẮC & KIÊM BIÊN TÔNG ĐẠO

Thưa cùng Chư Vị cầm quyền các Cơ quan Chánh Trị Đạo.

Hôm nay Bần Đạo đến dự lễ nầy trọng yếu đặng mừng cho cả Chức Sắc Bộ Nhạc lãnh sứ mạng đặng chỉnh đốn cả Lễ Nhạc y theo chơn truyền của Đạo.

Các em, mấy đứa nhỏ, Thầy lấy làm vui mừng thấy cả tâm Dạo của mấy em biết chọn một con đường lập thân danh khéo léo. Qua thường nói với mấy em rằng : Nếu một nền Tôn Giáo mà không có Lễ không có Nhạc thì cả cái mỹ pháp của nó, dầu Thể Pháp, Bí Pháp cũng vậy, chẳng hề khi nào đặng tốt đẹp hoàn mỹ, Qua có giảng cho mấy em biết, vì cớ nào Nhạc là Lễ, mấy em biết khuôn khổ của Nhạc, do tinh thần xuất hiện, Qua chỉ rõ một bằng chứng, dầu cho cả thảy mấy em từ Nhạc Sĩ cho tới chức lớn của Bộ Nhạc là Tiếp Lễ Nhạc Quân, mấy em cầm một cây đờn mà đờn thì không có đứa nào giống đứa nào hết, bởi cả tinh thần ra trong ngón đờn của mấy em, đó là cá nhân của mấy em đó vậy.

Aáy vậy, nhạc nó sản xuất trong tinh thần, mà tinh thần là gì ? mà tinh thần mới thiệt là Đạo, tại sao Nhạc là Lễ ? Lễ ngoài Đời mấy em đã ngó thấy một bằng cớ hiển nhiên, là khi mấy em đờn hòa cùng nhau, tuy vẫn ngón đờn của mấy em mỗi đứa đều khác nhau, hay dở đặc biệt mỗi đứa đều không giống nhau, nhưng mà cái nhịp trường canh mấy em phải theo nó mà thôi, nếu không tùng nó thì mấy em chẳng hề khi nào hòa nhạc cùng kẻ khác được.

Aáy vậy, trong khuôn khổ hòa với nhau, ấy là Lễ. Vì cớ cho nên Qua giảng tiếp cho mấy em hiểu, Lễ và Nhạc do âm thinh đó vậy.

Ngộ nghỉnh thay ! Giờ phút nầy Qua cho mấy em biết, chỉ có Dân Tộc Việt Nam về Văn Hóa Nho Tông của chúng ta mới có đặng một cái Nhạc là điều do nơi âm thinh và điều Qua đương nói với mấy em, cái kinh dinh của các sắc dân trên mặt địa cầu nầy, cả các quốc dân xã hội điều nhận điều đó. Nước Trung Hoa hay các sắc dân chịu ảnh hưởng cái Văn Minh Tối Cổ của Nho Tông chúng ta mới có Nhạc, âm thinh ấy là Lễ. Bằng cớ hiển nhiên, chính Qua đọc một tờ nghị luận tại nơi Liên Hiệp Quốc, họ luận rằng : Nếu cả thảy các dân tộc nơi mặt địa cầu nầu mà đặng giữ gìn cho còn Lễ cũng như nước Tàu đã được Lễ tối cổ của họ, cả những điều nghịch hẳn cùng nhau, khởi hấn cùng nhau giữa hội nghị của Liên Hiệp Quốc chẳng hề khi nào xảy ra, nếu có xảy ra là tại họ vô lễ cùng nhau mà chớ. Do nơi vô lễ ấy mà nhơn loại chịu thống khổ hai phen đại chiến hoàn cầu, mấy em nghĩ, họ vô lễ cùng nhau cho đến nước họ đập bàn ghế ra khỏi Hội nghị của Quốc Tế là tại họ thiếu Lễ, mà Lễ là Nhạc. Qua lấy một bằng cớ rõ ràng người Pháp đã nói:”La musique adoucir les moeurs”. Nhạc làm cho phong hóa luân lý tốt đẹp dịu dàng, mà không phải một mình nước Pháp mà thôi, mà cả các Liệt Quốc Aâu Châu đều cũng nói vậy.

Aáy vậy, giờ phút nầy Qua ký Thánh Lịnh cho mấy em đi các nơi, cốt yếu đặng mấy em đen cái ngôn ngữ điều hóa, lấy một ống tiêu mà Trương Lương đã làm cho tan vỡ một đạo binh hùng tráng của Hạng Võ, đánh tan nát cơ nghiệp của Sở, thâu đạt cơ nghiệp ấy đem lại cho nhà Hớn, duy có ống Tiêu Trương Lương mà thôi.

Giờ phút nầy, Qua giao  cho mấy em một sứ mạng làm sao cho thiên hạ nghe Oáng Tiêu Trương Lương của mấy em đặng tinh thần nòi giống mấy em đứng dậy định tương lai vinh quang cho mình, với cái giọng ngọt dịu của mấy em, làm cho thiên hạ thức tỉnh, diệt tiêu bớt hung hãn bạo ngược, trái lại đem đến một con đường hòa huởn, cao quí, tốt đẹp, êm dịu đem lại cái Đạo Đức tinh thần chiến thắng để cứu vãn sanh mạng loài người. Bởi giờ phút nầy họ đang đi đến con đường diệt vong mà chớ.

 

Tại Đền Thánh Đêm 30 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)

63.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ HỘI-NGHỊ Đi Đoàn Kt

 

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong và Chư Đạo Hữu Nam, Nữ Lưỡng Phái.

Khi Bần Đạo đến Sài Gòn đặng mở cuộc Hội nghị thì hay tin rằng : Trong các Tôn Giáo, Nhứt là bên Công Giáo đã ra lịnh cho toàn bộ Tín Đồ của họ đều làm lễ cầu nguyện, đặng cho các lực lượng Quốc Gia tinh thần cũng như thể chất, hiệp nhứt cùng nhau, để tổ chức cho thành vấn đề "Đại Đoàn Kết" của toàn thể Quốc Dân Việt Nam, hầu làm hậu thuẩn cho Đức Quốc Trưởng Bảo Đại thương thuyết cùng Pháp đặng đem địa vị của mình đứng trong Liên Hiệp các Quốc Gia.

Còn vấn đề thiệt hiện độc lập của chúng ta nó không còn là vấn đề nữa, dầu muốn, dầu không, quyền độc lập chúng ta phải thâu hoạch tự giành lại mà thôi.

Thật sự cái hại nhứt trong nước từ cổ trào tới bây giờ chỉ có nhiều mưu chước, trước kia nhà vua cũng thế, mà sau nầy quyền lực của Pháp cũng thế. Họ dùng cái phương pháp chia rẻ phận sự, nhứt là Sắc Dân Việt Nam chủng tộc của chúng ta hay bị cái nền móng chia rẻ hơn hết đừng nói chi ngoài xã hội nhơn quần, nơi trong gia đình kia cũng có tinh thần chia rẻ nữa, rồi Bần Đạo nghĩ chẳng khác gì một cây cổ thọ kia với niên cao trong bao nhiêu năm, mà bị cái tay huyền bí của thiên hạ áp bức thân thể nó để làm cây kiển họ chơi.

May thay ! Đức Chí Tôn đem lại trường hợp ấy nó không thể còn tồn tại được nữa. Chính mình Bần Đạo lãnh cái sứ mạng đem cây kiển của thiên hạ áp bức trồng xuống một miếng đất phì nhiêu, để thành hình cây cổ thọ, đặng chi ? Đặng cho toàn thể nhơn loại hùng núp dưới cái bóng mát của nó.

Thật sự ra, kỳ Bần Đạo đi đây vĩ lẽ đến mở cuộc Hội nghị "Đại Đoàn Kết" mà thôi, chớ chưa có Liên Hiệp Quốc Gia thống nhứt đại đoàn kết được. Cái tay bí mạt đủ quyền hành, đủ năng lực đã tìm những mưu mô bí mật để phá hoại. Nhưng Bần Đạo cho con cái Chí Tôn hay rằng : Đã có thiên mạng nơi mình, Bần Đạo quả quyết không có tà mưu nào làm trở ngại đường tiến triển và giải thoát Quốc Dân Việt Nam của Đức Chí Tôn đã phó mác cho Bần Đạo. Không có cái quyền năng nào làm trở ngại đường tiến triển của nó đặng, và Bần Đạo quả quyết thế nào cũng thắng mà thôi.

Cái phương pháp đầu tiên của Bần Đạo là Bần Đạo kêu gọi tất cả các Đảng phái Quốc Dân Pháp và Việt, đừng xảo mị mưu chước cùng nhau, phải lấy thuyết tâm cháng đặng cư xử với nhau thì mới có thể giải hòa và đem quyền lợi hạnh phúc cho hai sắc dân được. Nhứt là Dân Việt Nam đã đòi nền độc lập và thâu hồi cái đại nghiệp tinh thần của chúng ta đã 4.000 năm Văn Hiến, Phong Hóa chánh trị đường lối mà từ Thượng Cổ đến giờ các quốc dân của toàn thể nhơn loại đã chịu biết bao ách nước, nạn dân, cũng lắm khi muốn thâu hoạch cho kỳ được nền độc lập ấy.

Hại thay ! Có một điều rất mắc mỏ là họ hy sinh không biết bao nhiêu xương máu, trước kia cũng thế mà nay cũng thế, giờ phút nầy chúng ta quyết hy sinh để đạt cho kỳ đặng Hoàng Đồ của Tổ Phụ ta đã truyền lại.

Hội Nghị sơ khởi "Đại Đoàn Kết" Bần Đạo đã quyết theo đuổi hai năm nay mới thiệt hiện đặng, dầu cho những trở lực nào mạnh mẽ bao nhiêu bất quá là làm cái vị trí mà thôi, chớ không khi nào ngăn cản được cái năng lực tranh đấu của chúng ta được.

Bần Đạo mở cuộc Hội nghị "Đại Đòan Kết" đặng tổ chức các Uûy Ban liên lạc từ Nam chí Bắc, đặng thống hiệp các lực-lượng Quốc Gia lại làm một và y theo lịnh cuả Đức Hoàng Đế Bảo Đại đã phó thác cho Bần Đạo, lại lập một Uûy Ban đặng đem ra ký hòa ước cùng Pháp chớ Chánh Phủ không còn quyền ký hòa ước nữa mà lại là để cho quyền của Dân định liệu.

Đức Quốc Trưởng muốn vậy đặng một ngày kia Quốc Dân Việt Nam không thể nói, ký hòa ước với Pháp do một mình Ngài hay Chánh Phủ của Ngài. Aáy là Ngài muốn thiệt hiện 3 chữ "Dân Vi Quí" của Ngài, kể từ hôm nay đã gọi dân quyền, nên Bần Đạo sợ ngày Sóc Vọng ở nơi Thánh Địa con cái của Đức Chí Tôn trông ngóng. Bần Đạo lật đật về Cúng Sóc Vọng đặng tỏ cái hành trình buổi hội cho con cái Đức Chí Tôn biết, rồi Bần Đạo còn phải trở xuống tiếp tục hội nữa, để đem cái mục đích tối yếu, tối trọng đặng lập thành Quốc Gia thống nhứt và cả toàn thể Quốc Dân thống nhứt, Bần Đạo sẽ tiếp tục đi Hội Nghị Quốc Dân toàn Quốc.

   

Đêm 17 tháng 8 năm Quí Tỵ (1953)

(Vía Đức Lý Đại Tiên)

64.- SỰ HIỂN-LINH & UY-QUYỀN CỦA ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG

Đêm nay là ngày Vía của Nhứt Trấn Oai Nghiêm Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Đức Lý Giáo Tông chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Đức Chí Tôn ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển linh quyền năng vô đối, Bần Đạo nhớ lại hồi buổi ban sơ mới Khai Đạo, thật ra Bần Đạo không có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước Đại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần Đạo năm Sửu dạy dỗ mấy Anh Lớn ngày nay là Chức Sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của Ngài, Bần Đạo không đức tin gì hết nghe nói Tiên giáng đi theo nghe Thi chơi, làm cho Đại Từ Phụ phải tức cười. Ngài cho Bài Thi ai nấy cũng tốt, duy có Bài Thi của Bần Đạo rất dị hợm như vầy:

Ngao ngán không phân lẽ thiệt không

Thấy thằng áp út quá buồn lòng

Muốn giàu Thầy hứa đem cho của

Cái của cái công phải trả đồng.

Đại Từ Phụ còn thêm hai chữ "Nghe con" cho đến bảy tháng lúc xuống ở Thủ Đức, năm thiên hạ bị bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết, nhứt là ở tại Thủ Đức, lắm bịnh nhân quá chừng. Đức Chí Tôn biểu xuống ở Thủ Đức cứu bịnh cho họ trong 7 tháng xuống ở Thánh Thất của Đạo, nhờ Đức Lý giảng dạy với ngòi bút, trọn 7 tháng trường mới biết Đạo. Có cái hay ho hơn hết là những điều gì Ngài dạy trong Cơ Bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần Đạo.

Bần Đạo làm chứng một Đấng mà Đức Chí Tôn đã lựa làm Anh Cả của chúng ta linh hiển lạ lùng, không cần lập đi lập lại, đối với Chức Sắc tức nhiên cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn Bần Đạo cốt yếu nói cho toàn con cái của Ngài Nam, Nữ Lưỡng Phái phải định tâm và kiên cố đức tin của mình, các việc Đức Chí Tôn Tiên Tri, Bần Đạo vừa nói từ từ, nói đủ hết, Bần Đạo thú thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo hóa nên Bần Đạo hôm nay được khối đức tin mạnh mẽ to tác. Nếu không có nhờ Anh Cả vô biên linh hiển ấy chắc là phận sự yếu trọng của Bần Đạo hôm nay chỉ mơ hồ, đức tin yếu ớt, thiếu đức tin, thiếu cương quyết, thiếu tâm Đạo vững chắc. Bần Đạo tưởng nếu ba điều ấy thiếu thì nền chơn giáo không được nên hình như thế nầy, cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều biết không có nền chơn giáo nào chỉ có hai mươi mấy năm mà đặng bành trước, danh thể của nó cao trọng truyền bá một cách mau chóng, như nền Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn. Hôm nay Bần Đạo chứng chắc quả nhiên như vậy, cái năng lực của Đạo hôm nay được như thế này là nhờ Đức Lý Đại Tiên cầm quyền Thiêng Liêng vô đối, nhờ người Anh Cả của ta là Đức Lý Giáo Tông Điều Khiển Quyền Năng Vô Hình của Ngài. Bần Đạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng lực bành trướng như thế nầy. Có một điều Bần Đạo dặn trước. Những kẻ tưởng Ngài Vô Hình coi chừng Ngài, những kẻ thiếu đức tin dám khi rẻ quyền lịnh của Đạo, oai quyền của Ngài coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm nhầm Thiên Điều Bần Đạo dám quả quyết khó tránh nơi tay của Ngài. Các con cái Đức Chí Tôn coi Ngài rất Công Bình. Ngài dạy : Phải lập Công, lập Đức, lập Ngôn tức nhiên là "Tam Lập" Ngài rất Công Bình, rất oai quyền, thiên vị chúng ta nhờ Ngài bảo về không thế gì sơ sót. Đức Chí Tôn coi Ngài cũng như một Tướng Soái, oai quyền của Ngài lớn lắm. Ở nơi Ngọc Hư Cung quyền của Ngài yếu trọng vĩ đại to tác lắm. Cả con cái của Ngài cũng nên tin nơi Ngài, mong mỏi nơi Ngài để cả ước vọng và đức tin nơi Ngài. Bần Đâọ xin khuyên một điều, lớn nhỏ phải yên tâm giữ Đạo, đừng sơ sót, nhứt là đừng có ỷ công khi lịnh coi chừng Ngài, Ngài trừng trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Đạo đã thấy, hai mươi mấy năm lập Đạo cùng Ngài, Bần Đạo quả quyết như vậy. Chúng ta hãy để trọn đức tin nơi Ngài một Đấng Công Chánh oai quyền, nhưng rất yêu ái. Chúng ta được Ngài bảo vệ cho thật là một sự an ủi vĩ đại trong kiếp sanh của chúng ta đó vậy.

 

Tại Đền Thánh Đêm 14 tháng 9 năm Quí Tỵ (1953)

 

65.- ĐỨC HỘ PHÁP TƯỜNG-THUẬT VỀ HỘI-NGHỊ TOÀN QUỐC

Đêm nay đi cúng đông đủ, Bần Đạo đoán biết rằng, tại sao đi cúng đông, thật sự nếu được thường như vậy thì không có gì hạnh phúc cho cửa Đạo hơn.

Luật tự nhiên và lẻ dĩ nhiên vẫn vậy hể khi một ông ch vắng mặt có người anh thì mỗi hành vi của anh cả thảy đoàn em đều ngó đến chí ý từ chút từ điều. Đại Gia Đình Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn đã tạo dựng cho toàn thể con cái của Ngài cũng thế. Phải,cả con cái Đức Chí Tôn muốn nghe Bần Đạo thuật lại trong 17 ngày đã Hội Nghị Toàn Quốc chắc chắn như vậy. Vì lẻ ấy nên đi cúng đông là phải.

Thật có một điều làm cho Bần Đạo từ thử đến giờ lấy làm lo lắng ái ngại hơn hết, đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn giao phó đem cái khối thiên lương để nơi mặt thế này, chỉ mong một điều làm thế nào cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn tức nhiên toàn thể Nhơn Loại, đang hòa nhã yêu ái với nhau, biết nhìn với nhau là bạn đồng sinh, nghĩa là anh em cốt nhục với nhau vậy.

Chẳng phải khác nước da sắc tóc, khác chủng, khác nòi, mà nhơn loại phải chia rẽ nhau, tương tàn, tương sát nhau cái thảm trạng trước mắt ai có lòng ái truất thương sanh cũng phải đau đớn, huống chi Bần Đạo đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng nơi Đức Chí Tôn làm cho toàn thể con cái của Ngài cộng yêu hòa ái đem nền Chơn Giáo để phổ hóa chúng sanh đặng dìu dẫn họ đi đến cảnh Đại Đồng Thế Giới, chỉ còn nước Việt Nam và Pháp hai bạn yêu ái với nhau, đã chung sống với nhau có trên 80 năm mà không đem lại một tình yêu ái nồng nàn dung hòa với nhau một nước cộng hưởng hòa bình hạnh phúc.

Kỳ hội này Bần Đạo chỉ có mục đích tìm phương dung hòa làm cho hai nòi giống hiểu biết với nhau đặng giải quyết một vấn đề rất nên đau khổ tâm hồn, là vì không hiểu với nhau mà đã sát phạt tương tranh cùng nhau.

Hại nổi Đức Quốc Trưởng đã phú thác cho Bần Đạo cái sứ mạng Hội Nghị Toàn Quốc ấy. Thật từ thử đến giờ không có kỳ nào lo lắng cho Bần Đạo hơn 17 ngày nay.

Hại nổi Quốc Dân Việt nam họ đã mất cả tinh thần không có tài nào dìu đường cho họ đi trên con đường nhơn nghĩa công bình đem cả hai vấn đề của Đức Quốc Trưởng đã định.

1/ - Là phải định thế nào cho nước Việt Nam được Độc Lập, về phương diện nầy thì lẽ tự nhiên.

2/ - Là phải định phương thế liên kết cùng Pháp.

Điều thứ nhứt vấn đề giải quyết, chính mình Pháp đã định, vì Pháp Quốc kêu gọi nước Việt Nam do tờ hiệu triệu ngày 3- 7, nước Pháp đã định giao quyền Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam, điều ấy có nói đi nói lại cũng chán. Nước Pháp có giao kiến nghị cho Việt Nam được Độc Lập. Độc Lập ấy để giải quyết. Bởi nước Pháp đã trả hoàn toàn Độc Lập cho Việt Nam. Một điều thắc mắc hơn hết là phương pháp liên kết cùng nước Pháp. Bần Đạo chỉ sợ có bao nhiêu đó mà thôi. Bởi vì chúng mình Bần Đạo biết Liên Hiệp Pháp chưa hoàn toàn, thế nào tinh thần của toàn dân Việt Nam cũng có thể trích điểm nên Bần Đạo lo ngại chỉ có đề xướng một điều để cho họ lấy độc lập trước, chừng nào độc lập xong, thành lập Quốc Hội rồi mới định phương bang giao với Pháp, tránh một điều mà Bần Đạo đã biết trước một điều quá khích cũng như vừa xảy ra họ đã đề nghị nước Việt Nam Độc Lập không trong Liên Hiệp Pháp, thành thử làm cho cả hai quốc gia náo động không biết lối phải đi đường nào, một đàng đã 80 năm chung sống là nước Pháp chỉ sợ có một điều Việt Nam chưa có thế lực bảo vệ độc lập của mình.

Còn nước Việt Nam lo có một điều, Việt Minh lại nghĩ rằng : Không thâu lại được hoàn toàn thì cứ khởi giặc mãi mà thôi. Chỉ có đọat đặng hoàn toàn độc lập. Độc Lập là Việt Nam đã đề xướng. Họ lấy độc lập làm thành lũy, làm binh khí đặng dấy loạn.

Cả toàn Sắc Dân Việt Nam muốn dành lại hoàn toàn độc lập ấy đặng cho cả Việt Minh hết lý do gì tiếp chiến nữa, hai chí hướng nó đều hữu lý cả, nhưng chỉ có một điều là không ai hiểu rõ tâm tình với nhau nên chưa quyết định. Bần Đạo lấy làm đau đớn một việc giải quyết rất dễ dàng mà chưa có phương pháp nào làm cho cả hai nước được hiểu biết nhau, đặng đem lại hòa bình cho nước Việt Nam và Pháp. Bần Đạo chỉ có cầu nguyện cùng Đức Chí Tôn, nếu sứ mạng Thiêng Liêng giao phó cho Bần Đạo thiệt hiện được giúp đỡ cho hai Sắc Dân hiểu biết nhau, đang thương yêu nhau, tính toán giàn xếp việc nhà của mình, đừng để cho ngoại bang dòm ngó, lại nữa Bần Đạo chỉ mong một điều là nếu như Đạo Cao Đài có sứ mạng dung hòa cả toàn thiên hạ, về Tín Ngưỡng, về xã hội ít nữa quyền Thiêng Liêng giúp cho Bần Đạo thiệt thi nhơn nghĩa, thật hành phương pháp đem hòa bình hạnh phúc cho toan nhơn loại.

 

Tại Đền Thánh Đêm 14  tháng 10 năm Quí Tỵ (1953)

66.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ THÁNH-Ý ĐỨC CHÍ-TÔN CHUYỂN QUỐC-ĐẠO

Hôm nay cửa Đạo thêm một tuổi nữa. Thật ra, nếu không phải cái huyền linh vô đối của Đức Chí Tôn đến đựng chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng và quí hóa như thế nầy.

Đạo Cao Đài tức Đạo Tổ Phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi, nếu chúng ta kể từ ngày chuyển thế của nó. Nhưng Thánh Thể Đức Chí Tôn và toàn thể con cái Nam, Nữ của Ngài nên nhớ rằng : Đạo Tổ Phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải nhớ điều đó.

Đêm nay Bần Đạo giữ lời hứa buổi hôm kia. Bần Đạo nói rõ Thánh Ý của Đức Chí Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì ? Giờ phút nầy cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc mắc vì vậy. Nội tình của Đạo gặp nhiều nỗi khó khăn về mọi phương diện.

Nhưng đối với Bần Đạo, Bần Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần Đạo lại vui mừng mới chướng chớ ! Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí Tôn muốn rửa ráy nó, tô điểm nó đến một địa vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí Tôn đều tin nơi Bần Đạo để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không ?

Cái khó đảm đương đương nhiên bây giờ làm cho thêm nhục cơ thể Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức Chí Tôn có đức tin thì hiểu rõ điều ấy.

Trái ngược lại hể mỗi phen đã gặp khổ hạnh khó khăn chi trong cửa Đạo thì nhớ lời của Bần Đạo vui đi ! Mừng đi ! Bởi chẳng hề khi nào trật điều đó. Để quan sát lại coi rồi sẽ thấy cái vinh diệu của Đạo Cao Đài sẽ đến mức nào trong thời gian sau đây.

 

Tại Đền Thánh Đêm 29 tháng 10 năm Quí Tỵ (1953)

67.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO VỀ THÁNH-THỂ ĐỨC CHÍ-TÔN LÀ GÌ ?

 Đêm nay Bần Đạo giảng : Thánh Thể Đức Chí Tôn là gì ? Quyền siêu thoát của cả con cái của Ngài nơi đây.

Cái Luật Thiên Nhiên của Tạo Đoan vẫn có một khuôn khổ mà thôi. Khuôn vàng thước ngọc Đức Chí Tôn đã để nơi mặt Càn Khôn Vũ Trụ vẫn một khuôn với nhau hết, nếu chúng ta có chủ tâm tìm hiểu, thì Luật Thiên Nhiên nó ở trong tối thiểu thế nào, thì tối đại của nó cũng thế ấy.

Chúng ta đã ngó thấy làm người sanh trưởng từ khi mới lọt lòng Mẹ cho đến lớn khôn, chúng ta nhắc lại kể từ ngày sơ sanh dĩ chí tới 30 tuổi khi mới sanh chúng ta vẫn còn khờ khạo ngu dốt.

Trong xác thân chúng ta có 3 báu : Đức Chí Tôn để cho ta là : "Tinh, Khí, Thần".

Tinh là thi hài xác phàm của chúng ta, lấy hình vật thú của ta nó là Tinh.

Trí não khôn ngoan của ta nó là Khí.

Nguơn linh của chúng ta nó là Thần (gọi là Linh Hồn).

Ba món báu ấy nó không có điều hòa, thì con người của ta không nên gì hết ! Nghĩa là con người ba báu không hiệp một cùng nhau, không đủ cả ba hiện tượng ra, thì không nên hình gì hết.

Nhờ vậy nên trong linh tánh khôn ngoan ta biết hiểu cả cái sống chết tinh thần Đạo Đức của chúng ta Thánh Thể Đức Chí Tôn cũng thế, mấy em Nam, Nữ Lưỡng Phái rán để ý nghe Qua giảng. Thánh Thể Đức Chí Tôn chẳng phải trong Hội Thánh mà thôi mà cả toàn con cái của Ngài Nam, Nữ, nếu Qua không nói đến mấy em mới sơ sinh, nó cũng là đám Thánh Thể của Ngài, là buổi may duyên của chúng nó ngộ Đạo "Bá Thiên vạn kiếp nan tao ngộ" bởi cái may duyên ấy do nơi mấy em đào tạo nó một phần tử buổi sơ sinh, tức nhiên, kể từ hang sơ sinh Đức Chí Tôn đã đến lựa từ khi mấy em đã có trí khôn ngoan cho nhập Thánh Thể của Ngài đứng vào hàng Chức Sắc Thiên Phong gọi là Chư Thánh, mấy em mới nên người "Tam thập nhi lập".

Cái phẩm vị Thiêng Liêng của mấy em nơi mặt thế, phó Trị Sự, Thông Sự đối với Ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp, trong khi tuổi của mấy em đã tri thiên mạng rồi, rất ngộ nghỉnh thay Đức Chí Tôn lấy công bình ấy đặng lập Thánh Thể của Ngài, Ngài để một kiểu vở, một khuôn luật tạo đoan hay là gia đình kia không khác gì hết. Mấy em đã ngó thấy trong Đạo Đức Chí Tôn đã để hàng Tín Đồ đối với Đại Từ Phụ, Phó Trị Sự và Thông Sự đối với Phẩm Giáo Tông và Hộ Pháp, Chánh Trị Sự đối với Phẩm Đầu Sư, thì mấy em thử nghĩ coi khuôn khổ Thánh Thể của Ngài không có một cái gì sơ sót hết.

Tỷ như một hột kia chúng ta gieo xuống, nó hột xoài thì sanh xoài, mít thì sanh ra mít, khi mấy em gieo hôt mít xuống rồi mấy em quả quyết nó sẽ có cây mít, thì cây mít có ngay, khuôn luật vẫn có một mà thôi. Qua nghĩ cái độc tâm của người có những quỉ quyền tưởng đâu sẽ tiêu diệt Thánh Thể của Đức Chí Tôn được, thì không còn ai nữa. Từ Tín Đồ đến Hội Thánh chẳng hề khi nào tiêu diệt nó được, kẻ nào muốn tiêu diệt Đạo Cao Đài tốt hơn đừng sanh ra bởi chẳng hề khi nào muốn tiêu diệt Đạo đặng, khuôn luật vẫn vậy.

Hôm nay Qua giảng một điều thiết yếu cho mấy em nghe, quyền siêu thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy em từ chân, tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc mấy em nó đều có linh cảm cả.

Khốn nạn thay ! Con người không biết thương nhau mà lại ghét lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn, nếu ghét Thánh Thể Đức Chí Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không được phép ghét nhau.

 

Ngày mùng 1 tháng 11 năm Quí Tỵ (DL. 6-12-1953)

68.- HUẤN-THỊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRONG LỄ THĂNG QUYỀN TỔNG TƯ-LỆNH QUÂN-ĐỘI CAO-ĐÀI CHO THIẾU TƯỚNG NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG.

Thưa cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,

Các Đại Diện Chánh Phủ Pháp, Nam,

Các Quan khách.

Bần Đạo để lời cảm ơn các Ngài đã có mặt hôm nay làm cho cuộc  lễ thêm phần long trọng. Bần Đạo xin kiếu lỗi các Ngài cho Bần Đạo tỏ nổi tâm tình của Đạo đối với các Sĩ Quan và Chiến Sĩ Cao Đài.

Các con ! Nền Văn Minh Tối Cổ của Tổ Phụ các con để lại là Đạo Nho, mà chính mình Thầy là người Đức Chí Tôn tuyển chọn lãnh trách nhiệm Thiêng Liêng bảo vệ nền văn minh ấy. Thầy nhớ lại  khi Đức Khổng Phu Tử hỏi Môn Đệ của Ngài, nhứt là trong Thất Thập Nhị Hiền. Ngài tìm hiểu đức tánh của mỗi Môn Đệ, Ngài hỏi :

- Nếu như nước Tề đem binh đánh nước Triệu, hay là nước Yên đánh nước Tề. Các ngươi phải nghĩ sao ?

Các Môn Đệ đều nói :

- Như vậy phải hiệp lại làm một lực lượng, để đủ năng lực quyết chiến diệt Tề.

Ngài nói :

- Cái kế đó chỉ để bảo vệ vận mạng nước mình mà thôi, chớ chưa phải đại đồng.

Duy có một người Môn Đệ đứng đầu của Đức Khổng Phu Tử là Thầy Nhan Hồi, tức là Nhan Uyên, Thầy nói :

- Nếu thoản như đệ tử đã gặp trường hợp như thế, thì chính mình các con sẽ chọn một lập trường bình đăûng, để khỏi đao binh đổ máu tàn sát lẫn nhau.

Khi Thầy ở hải ngoại về đối với Quân Đội Cao Đài, Thầy thú thật cùng các con. Thầy quyết định cho các con phải hy sinh làm con tế vật để đứng giữa vòng binh. Một bên là Cộng Sản, một bên là Quốc Gia để tránh cái nạn tương tàn, tương sát của họ.

y vậy, trên ngọn cờ "Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng" của các con, lại thêm 4 chữ "Tận Trung Báo Quốc" nó có nghĩa lý Thầy nhứt định hy sinh sanh mạng của các con đặng cứu toàn thể sanh mạng nòi giống các con.

Hôm nay con đường của các con đã đi xa nó sẽ kết  liễu nhờ nước bạn của chúng ta  là nước Pháp hiểu nổi khổ não khó khăn để giúp sức cho chúng ta có phương thế liên hiệp cả các Đảng Phái trong nước, rồi chúng ta mới có  phương thế hiệp tác cùng Pháp đặng tạo dựng một nền hòa bình trong khuôn khổ tự  do bình đẳng. Với ý Thầy đã định từ trước sự kết liễu hay được thành tựu các con cố gắng tới một đoạn đường nữa ở trước mắt kia, nếu nhờ ơn Thiêng Liêng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu định kết Liễu sớm ngày nào thì sự hy sinh của các con càng nhẹ chừng nấy.

Các con ôi ! Cái hy sinh ấy nó đã hao tốn sanh mạng và xương máu các con rất nhiều, thật ra giọt huyết lệ Thầy đã chảy nhiều lắm rồi. Thầy muốn thế nào mau chấm dứt nạn chiến tranh đặng đem lại hạnh phúc hòa bình cho Tổ Quốc và Chủng Tộc các con và Thầy giao vận mạng tương lai ấy với cái năng lực của các con trước kia thế nào ngày giờ này cũng thế ấy.

Nhứt là Tân Tổng Tư Lịnh Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương, Phó Tổng Tư Lịnh Đại Tá Lê Văn Tất, Tham Mưu Trưởng Trung Ta Lê Quang Thế, Thầy giao cái hạnh phúc tương lai của Tổ Quốc nòi giống mình nơi tay các con. Thành tựu hay chăng đều do nơi sự khôn ngoan Đạo Đức tâm tình ái chủng, ái quân vô đối của các con, do đó mà thành tựu được.

Thầy trông cậy nơi các con.

 

CHUNG

  * * *

MỤC-LỤC

            Thánh-thơ của Đức Cao Thượng-Sanh.

Lời tựa.

Lời trần thuyết.

1.- Đức Hộ-Pháp ngõ lời cùng các chiến-sĩ Cao-Đài trong dịp lễ xuất-quân.

2.- Đức Chí Tôn là ai ?.

3.- Thiệt phận của chúng ta đối với đạo-nghĩa.

4.- Đức Hộ-Pháp giảng bổ-túc về Chữ Tu.

5.- Đức Hộ-Pháp hành-pháp trong thời cúng Đàn.

6.- Hội về vấn-đề Phạm Phủ-từ.

7.- Giá-trị của Tam-bửu là gì ?.

8.- Khổ nhọc và công lao vĩ-đại của Đức Cao Thượng-Phẩm để lại.

9.- Vận -mạng của nhân-loại và quốc tế.

10.- Khai nguơn và chuyển thế.

11.- Quyền-năng Đức Thích-Ca.

12.- Công-lao và tài-sản của Bà Nữ Đàu-sư Lâm-Hương-Thanh.

13.- Cái thiệt phận của chúng ta đối với vạn-linh.

14.- Đáp từ của Đức Hộ-Pháp nhân buổi Quân-đội Cao-Đài thiết-tiệc      chúc mừng sinh-nhật Đức Ngài.

15.- Ý-nghĩa chữ tu.

16.- Hai chữ Tín-ngưỡng.

17.- Sự khó khăn của Đạo Tâm.

18.- Luật nhân-quả.

19.- Tam-dục: Thể-dục, Trí-dục và Đức-dục.

20.- Giá-trị của chức-sắc hàm-phong.

21.- Quyền-hành Tam-Trấn Oai-Nghiêm.

22.- Hành-Pháp “Phép xác” cho Thừa-sử Phạm-Ngọc-Trấn.

23.- Lễ Trung-nguyên Cầu-nguyện cho các Đẳng Linh-hồn.

24.- Diêu-Trì Kim-Mẫu là Đại Từ-Mẫu.

25.- Bảo-trọng Phong-hoá Cổ-truyền.

26.- Xưa kia con người tìm Đạo, hôm nay trái lại Đạo đến tìm người.

27.- Đức Lý Giáo-tông là Anh Cả Thiêng-Liêng của chúng ta.

28.- Đức Chí Ton lấy Nho Tông để cứu-vãn nhân-loại.

29.- Hai Bài thi của Thất-nương và Bát-nương lúc ban sơ mới khai Đạo.

30.- Đức Hộ-Pháp giảng câu cổ ngữ “nhứt tâm nhứt đức”.

31.- Tôn-giáo đối với nền văn-minh của thời đại.

32.- Gương hy-sinh của Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.

33.- Nền Tôn-giáo của Đức Chí-Tôn đặng 28 tuổi.

34.- Năng-luwc phi-thường của đức-tin.

35.- Lược giải về Ngũ-chi Đại-Đạo.

36.- Đức Chí-Tôn ban phép lành cho con cái của Ngài.

37.- Đáp từ của Đức Hộ-Pháp trong dịp Lễ chúc xuân.

38.- Đức Hộ-Pháp căn-dặn chiến-sĩ Cao-Đài trong dịp lễ xuất quân.

39.- Đức Hộ-Pháp phủ-dụ chiến-sĩ Cao Đài.

40.- Thể-pháp của Đạo.

41.- Đại-nghiệp thiêng-liêng Đức Chí-Tôn đem đến tạo-dựng tại mawt thế này.

42.- Sự thống khổ của Đức Cao Thượng-Phẩm.

43.- Vấn-đề tịnh-thất.

44.- Công nghiệp của Bà Nữ Đầu-sư Lâm-Hương-Thanh.

45.- Đại-nghiệp Thiêng-liêng của Đạo đối với con cái khổ-nảo của Đức Chí-Tôn..

46.- Nguyen-do của Tánh-đức và của Trí-thức.

47.- Đức Hộ-Pháp giảng về Lễ Quốc Khánh của Hoàng-triều.

48.- Hạnh-phúc của Đức Chí-Tôn ban cho Đức Hộ-Pháp.

49.- Đáp từ của Đức Hộ-Pháp sau khi các cơ-quan Chính-trị Đạo chúc thọ.

50.- Đức Hộ-Pháp phủ-dụ các khách phạm được ân-xá.

51.- Xuất-xứ của Ngọc xá lợi.

52.- Đức Hộ-Pháp Phủ-dụ giáo-chức và học-sinh Đạo-đức học đường.

53.- Đức Hộ-Pháp phủ-dụ giáo-chức và học-sinh trường Lê-văn-Trung.

54.- Lễ đăng-điện Xá Lợi Phật.

55.- Tánh-đức hạ mình va khiêm-nhượng.

56.- Năng-lực tinh-thần đối với hình thể.

57.- Đức Hộ-Pháp phủ-dụ trong dịp lễ khai trường huấn luyện tại Giang-Tân.

58.- Hai chữ “chơn và giả”.

59.- Luật thương yêu và quyền công chánh.

60.- Đức Hộ-Pháp tỏ bày cảm-tưởng trong ngày chuẩn-bị lễ khánh-thành văn-phòng Ban Quản-trị chợ Long-Hoa.

61.- Lời phủ dụ của Đức Hộ-Pháp trong Lễ Khánh-thành văn-phong Ban Quản-trị Long-hoa thị.

62.- Huấn-thị của Đức Hộ-pháp trong lễ phát thánh-lịnhcho chức-sắc Bộ Nhạc đi hành đạo Nam Trung Bắc và Kim-biên tông Đạo.

63.- Hội-nghi Đại-Đoàn-Kết.

64.- Sự linh-hiển và uy-quyền của Đức Lý Giáo-Tông.

65.- Đức Hộ-Pháp tường thuật về Hội-nghị Toàn-quốc.

66.- Thánh-ý Đức Chí-Tôn chuyển Quốc Đạo.

67.- Thánh thể Đức Chí-Tôn là gì.

68.- Huấn-thị của Đức Hộ-Pháp trong lễ thăng quyền Tổng Tư-lịnh Quân-đội Cao-Đài cho thiếu-tướng Nguyễn-Thành-Phương.

 

về trang chủ