QUYỂN 5 (tiếp theo)
HỘI-THÁNH GIỬ BẢN-QUYỀN
IN LẦN THỨ NHỨT
NĂM GIÁP-DẦN
(1974)
Đền Thánh, đêm
14 tháng 9 năm Nhâm Thìn (1952)
30.- ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG CÂU CỔ NGỮ : "NHỨT TÂM NHỨT
ĐỨC
Đêm nay Bần Đạo
giảng câu cổ ngữ "Nhứt Tâm Nhứt Đức".
Chữ nhứt Tâm
nhứt Đức, riêng Tâm và Đức có một mà thôi.
Chúng ta chẳng cần gì luận, chẳng cần để công
kiếm cho lắm. Chữ Tâm Bần Đạo đã giảng, cổ
nhơn chưa có biết Chơn linh của ta đó vậy. Nó
là hồn cái danh là Tâm hay chữ Đạo. Tâm ấy tức
nhiên Chơn linh của chúng ta đó. Vậy Chơn linh ấy
tại sao có một
mà thôi ? Tức nhiên chữ Tâm biến ra đó vậy.
Bởi vi ta muốn nói nó là Thiên Tâm.
Còn Đức, nhứt
Đức thì chúng ta chẳng cần kiếm xa xôi, chỉ
biết nó là Thiên Đức mà thôi. Thiên Tâm, Thiên
Đức, Đức Chí Tôn
đã đến để hiển nhiên trước mặt đó vậy.
Ta đã biết Nguơn Linh của chúng ta do nơi Đức
Chí Tôn mà sản
xuất, tức nhiên cả toàn thể Nhơn Loại thống
hiệp lại là cái khối Nguơn Linh của Đức Chí
Tôn . Vì cớ
cho nên Đức Chí Tôn
đã để "Thiên Thượng, Thiên Hạ".
Thiên Hạ tức nhiên toàn thể Nhơn Loại, bây giờ
ta muốn nói cả toàn Nhơn Loại có Nhứt Tâm hay
chăng ? Ta đã rõ biết rằng do nơi nguyên căn của
nó, tức nhiên do nơi Đức Chí Linh sản xuất; nếu
nó hiệp lại làm một với nhau thành ra Đấng Chí
Linh, mà cả thảy biết mình là một căn bản với
nhau hay chăng ? Nếu cả toàn nhơn loại biết mình
là một căn bản, xuất hiện do Nhứt Tâm ấy, thì
cơ thể sống của họ, tranh sống lại với nhai
nơi mặt thế nầy, nạn tương tàn, tương sát không
có hiệu lực đau đớn vậy.
Vì họ chưa biết
nhứt Tâm ấy, hễ nói chữ Tâm thì tức nhiên nói
đến thiên lương vô đối, mà lấy thiên lương
vô đối làm căn bản, tức nhiên nhơn loại có
thể lấy nhơn luân làm căn bản, họ thống hiệp
làm một cùng nhau, con người chằng hề kiếm mà
phải đến và họ đường tìm nẽo đặng đến.
Chúng ta ngó thấy họ đương tò mò rờ rẫm tiến
tới trạng luận vô đối. Nào là Trung Quốc, nào
là Liên Hiệp Quốc, nơi Á Đông, Aâu Châu, nơi
Mỹ Quốc họ đương đem cái tinh thần họ tìm
tòi.
Ấy vậy, nhứt
Tâm ta đã biết ta đã do nơi Trời, lấy cái căn
bản của ta chỉ biết suy Thiên Tâm mà thôi, mà
Thiên Tâm ấy nó đã biểu ta tôn sùng mạng sống,
tức nhiên tôn sùng cái nguơn linh của người, không
đặng chia lìa rẻ rúng, câu : "Khi Nhơn tức
khi Tâm, khi Tâm tức khi Thiên". Hễ khi người
tức khi lại mình, mà khi lại nguơn linh của mình,
tức nhiên khi Đấng Chí Linh là Đức Chí Tôn
đó vậy. Hễ khi Trời tức nhiên có tội. Hoạch
tội ư Thiên vô sở đảo dã" hễ có tội với
Trời thì không có chỗ nào để cầu-đảo kêu-ca
cho khỏi tội được cả.
Trái ngược lại
Ngài đã căn dặn một điều trọng yếu nầy :
Ngài nói thà các con vô lễ cùng Thầy, Thầy đặng
lòng Từ Bi mà tha thứ; Thầy chỉ dặn các con chẳng
nên vô lễ cùng Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, bởi
họ chẳng hề tha thứ bao giờ. Đức Chí Tôn
đã căn dặn rõ ràng, biểu chúng ta đừng sát
sanh, biết đâu trong một cành hoa kia không phải
là một Vị Phật Giáng Sanh, nếu chúng ta đang tay
bẻ nó, chúng ta đã phạm đến cái tội ấy rồi.
Hại thay ! Các
Chơn Linh cao trọng đã đến thế gian nầy, có một
điều nguy hiểm cho chúng ta hơn hết là họ sẽ
lấy một hình thể căn bản của họ, hèn tiện,
thiệt thòi, có khi họ lại lấy hình thể họ ngu
dại nữa chứ.
Hại thay ! Những
kẻ đó không biết tôn trọng nguơn linh của người,
khi rẻ họ đến, hiện diện trên thế gian này
họ sẽ chịu những hình phạt, chẳng hề khi nào
tránh khỏi.
Bần Đạo mục
kiến vài ba bằng cớ rõ ràng, dầu cho Tiên Vị,
một chơn linh cao trọng mà họ phạm đến điều
ấy, Thiên Điều chẳng hề tha thứ họ. Bằng cớ
Bần Đạo chỉ rõ căn nguyên của Đức Quyền Giáo
Tông là Tiên Vị, những kẻ đã khi rẻ Ngài hồi
còn sanh tiền. Các con cái của Đức Chí Tôn dòm
coi, những kẻ đó giờ phút này thế nào, dầu
cho hạng đồng bực cùng Ngài mà đã khi rẻ Ngài,
rồi giờ phút này không còn gì hết. Một cảnh
tượng nữa, Bần Đạo mục kiến Phối Thánh Màng,
người thiệt thòi làm sao, Hiền lương không thể
nói, bần tiện lắm, mà có kẻ đã khi rẻ hiếp
đáp, giờ phút này toàn gia cả thảy những người
đó không thể chối tội. Phối Thánh Thoại cũng
thế đó. Mấy vị Đại Thiên Phong và cả con cái
của Đức Chí Tôn Nam, nữ phải dè dặt cho lắm,
đừng thấy sắp em của mình nó hèn tiện thiệt
thòi, ngu dại mà khi dễ nó. Biết chừng đâu Đức
Chí Tôn đã dành để một tình cờ bất ngờ chúng ta sẽ phạm đến họ, rán
coi chừng cho lắm, nhứt là trong cửa Đạo Cao Đài,
dầu Nam cũng vậy, Nữ cũng vậy, không biết có
chơn linh trong ấy.
Bần Đạo
xin căn dặn một điều trọng yếu hơn hết:
đừng khi người
Đền Thánh, đêm
29 tháng 9 năm Nhâm Thìn (1952)
31.- TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NỀN VĂN
MINH CỦA THỜI ĐẠI
Đêm nay Bần Đạo
giảng về Tôn Giáo đối với một nền văn minh
của thời đại.
Hai chữ văn minh
thiên hạ đã nói, chúng ta cũng nên tìm hiểu nghĩa
lý của nó, và tìm cho biết cái nguồn cội đã
sản xuất nó. Văn, chúng ta ngó thấy thiên hạ
cũng gọi là văn chương hay là văn hoá. Nhờ văn
hoá mà đã ghi rõ những gì từ trước đã lưu
chiếu lại những biến cố trong lịch sử của
toàn nhơn loại, trong lịch sử của một quốc dân,
xã hội và văn hoá, ấy là những văn từ đã lưu
chiếu tại tạo một sự hiểu biết, để phổ
hoá trong một sắc dân, trong một xã hội hay là
toàn thể nhơn loại.
Ấy vậy, chữ
văn chương chúng ta đã ngó thấy lưu chiếu lại
một lịch sử của toàn thể một thế hệ, của
một xã hội trong một thời đại. Văn chương ấy
hữu ích thế nào, chúng ta chằng cần gì luận
cũng đã chán biết. Lạ thay ! Con người bao giờ
cũng có một cái linh. Cái linh tâm lạ lùng lắm
! Vả chăng loài người bao giờ cũng sản xuất
trong một đời sống của mình, đời sống ấy
từ một dĩ chí 100 tuổi, chúng ta đã ngó thấy
họ nhớ lại hết và tìm tòi biết mãi tới, họ
có lạ lùng ấy. Họ sống trong một thế hệ của
họ, mà họ đã có năng lực hiểu biết cả căn
bản trong thế hệ đã qua rồi, họ còn có thể
định đoạt cái thế hệ sẽ tới. Đó là một
điều phi thường từ trước tới giờ không có
phương gì để lại, chỉ có căn bản là làm cho
phát khởi cái đó do cảm động và nhớ.
Văn chương lưu
chiếu lịch sử làm một bài học để tìm tòi
hiểu biết thế tình nhơn loại, thì văn học phải
phổ hoá tinh thần và vật hình của con người
đời. Nếu muốn phổ hoá cho đặng cái vật hình
của con người thì chúng ta ngó thấy văn chương
trên lịch sử , nó phải có một năng lực nuôi
cả tinh thần và hình thể của người mà chớ.
Hễ muốn nuôi
đặng cái vật hình của họ vẫn dễ, còn nuôi
tinh thần của họ rất khó. Bởi vì tinh thần ấy
nếu không do Đạo Giáo, chẳng hề khi nào có năng
lực phổ hoá họ đặng. Chúng ta ngó thấy mỗi
phen Đức Chí Tôn đến, hay là sai vị Giáo Chủ
nào đến đặng tạo Tân Dân bao giờ cũng vậy.
Trước tiên cái nền văn minh đến, thì nền Đạo
Giáo đã thành lập trước, bởi Đạo Giáo là căn
bản của nền văn minh đó vậy.
Đạo là khuôn
khổ, còn văn minh là hình chất, Đạo là hình,
văn minh như bóng. Chúng ta đã quan sát thấy văn
minh sản xuất hình thể và tinh thần do một nền
Tôn Giáo đã tạo dựng nó ra. Chúng ta ngó thấy
như Đạo Phật đã tạo ra một thế hệ, thế hệ
ấy nó có năng lực tạo ra cả hình chất của
Tân Dân Phật Giáo, tức nhiên trong tình trạng của
họ, họ tỏ ra rằng : Họ là người trong Đạo
Giáo. Chúng ta đã ngó thấy các vị Thầy Tu nhà
Phật, cạo đầu bận đồ vàng, bộ tịch của
họ dù cho đi, đứng, nằm, ngồi, cử chỉ cái
sống của họ đều trong khuôn khổ do nơi Đạo
Giáo mà xuất hiện đặc biệt. Thiên Chúa Giáo,
chúng ta để mắt quan sát cho tới hình thể tinh
thần của họ, cử chỉ đều có vẻ đặc biệt
riêng. Nho Giáo cũng vậy, Bần Đạo chẳng cần
gì tả cho nhiều, cả thảy đều biết điều ấy
rồi.
Còn trọng hệ
hơn hết là cái nền văn minh lưu chiếu lại, chỉ
có năng lực để bảo tồn được cái tân dân
của mình tạo ra, cốt do tinh thần vi bổn. Chúng
ta ngó thấy các nền Tôn Giáo đã tạo văn minh
hiện đại. Hiện nay còn có hai nền văn minh. Thật
ra từ Thượng Cổ các nền văn minh đã lưu chiếu
lại tại mặt Địa Cầu này vẫn nhiều. Tỉ như
các nền văn minh Tối Cổ bên Châu Aâu là Văn Minh
: Grecque, Egypte, Romain hay (Rome). Còn bên Á Đông
của chúng ta, Văn minh của nhà Phật, Văn minh của
Đức Lão Tử, Văn Minh của Đức Khổng Phu Tử,
Châu Công (kế Đức Khổng Phu Tử). Các nền Văn
Minh ấy họ tạo Tân Dân của họ thế nào Bần
Đạo chẳng cần nói cả thảy các con cái Nam, Nữ
cũng vậy đã quan sát.
Bần Đạo thuyết
đêm nay cho đám Thanh Niên Nam, Nữ con cái của Đức
Chí Tôn nên để ý và hiểu biết cho lắm. Chúng
ta ngó thấy trước mắt kiểu vỡ của các nền
văn minh đã có, là do nơi các Tôn Giáo đã tạo.
Đương nhiên bây giờ có hai nền văn minh trọng
yếu hơn hết của tinh-thần Nhơn Loại là : Văn
Minh của Phật
Giáo và Văn Minh của
Thiên Chúa Giáo. Hai nền Văn Minh tinh thần của
hai Đạo Giáo đó rất cao thượng. Bần Đạo chỉ
nói rằng : Tốt đẹp không thể gì tả hình trạng
ra cho đặng. Tại sao nó tốt đẹp ấy ? Là nó
có năng lực bảo sanh hình chất của Nhơn Loại,
nó có thể bảo vệ cho đời sống tinh thần Thiêng
Liêng của họ mà chớ.
Con cái của Đức
Chí Tôn biết rằng : Các Tôn Giáo xuất hiện rất
có ích cho Nhơn Loại tại mặt thế gian này về
hình thể, tinh thần và nó phải làm thế nào bảo
tồn sống còn của Nhơn Loại, mà trong sự sống
ấy khó mà bảo tồn đặng sống còn tinh thần
họ . Hỏi có phương pháp nào giải quyết cái khổ
của họ đặng chăng ? Bần Đạo đã giải nghĩa
nào là thắng khổ, nào là tùng khổ, nào là giải
khổ, đủ thứ hết thảy, trọng yếu hơn hết
là phải tìm phương nào cho các nền văn minh ấy,
phải chia sống với nhau, phải đừng có tranh sống
với nhau, bởi chia sống thì tồn tại, bảo vệ
được sống còn của Nhơn Loại, mà tranh sống
tức nhiên phải tiêu diệt. Gương của hai Vị Giáo
Chủ đã lưu lại nơi mặt thế gian này, bên Á
Đông, bên Âu Châu hai nền Văn Minh đặc biệt.
Hai vị Giáo Chủ đó trước kia là gì chớ ? Một
Người ăn mày cầm Bình Bát đi xin cơm đặng nuôi
kẻ khó kẻ đói, đi bòn mót từng miếng vải rách
đặng chầm khiếu mặc cho lành, tức là Đức Phật
Thích Ca.
Con cái Người
đã chia từ miếng bánh mì, từ miếng cá nuôi kẻ
đói là Đức Chúa Jésus Christ, Ngài lấy sống của
Ngài, Ngài chia cho kẻ đói, đến đổi Ngài phải
nhịn miệng ăn của Ngài cho nó sống.
Gương Hai Vị tạo
nền Văn Minh đó đẹp đẽ làm sao.
Đền Thánh, đêm
12 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1952)
(Ngày mai này là
ngày vía Đức Quyền Giáo tông Thượng Trung Nhựt).
32.-
ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG VỀ GƯƠNG
HY-SINH CỦA ĐỨC QUYỀN GIÁO-TÔNG
Ngày mai này là
ngày Lễ Vía Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung
Nhựt, tưởng khi cả anh em chúng ta Nam, Nữ Lưỡng
Phái đều tưởng nhớ Ngài lắm vậy. Ấy là người
anh Cả đầu tiên của chúng ta. Đức Chí Tôn đã
ban hồng ân Thiêng Liêng vô đối ở dưới thế
gian này, có một Vị Giáo Tông đầu tiên của nền
Đạo.
Nhân dịp ngày
Lễ Đức Quyền Giáo Tông, chúng ta nên để tâm
suy đoán nhớ lại thử coi cái gương của Ngài
để lại cho chúng ta là cái gì, Bần Đạo xin nói
rõ giúp cho toàn thể con cái của Đức Chí Tôn
có phương thế suy đoán.
Hỏi lúc Nòi Giống
Việt Nam và Quốc gia Việt Nam ở vào thời kỳ
Pháp thuộc một người như Đức Quyền Giáo Tông,
Bần Đạo nói rõ là một người bần hàn xuất
thân, Cha chết sơm duy có Bà Mẹ nuôi cho đến khi
lớn, chỉ ở vậy thôi, không tái giá, chớ phải
chi nhà giàu có, chẳng nói gì, nhà nghèo mà hẩm
hút làm lụng nuôi con ăn học đến nên người.
Bần Đạo còn
nhớ lại Đức Quyền Giáo Tông có nói với Bần
Đạo một chuyện rất ngộ nghĩnh, Bần Đạo minh
tả ra đây cho tất cả bên Phái Nữ để ý cho
lắm, để làm một bài học hay khi Bà Thân của
Người đã qua đời, thì cả trong làng thương yêu
một cách không thể nói được, Chức Sắc làm
bàn đưa linh mà trong bài chấn ấy để mấy chữ
như vầy : "Tích Mạnh Mẫu" tức nhiên toàn
thể nhận tang cả, chẳng khác gì Mạnh Mẫu cho
lắm, chỉ biết mình là hạng bần hàn nên con mắt
của người không bao giờ ngó đến kẻ nghèo khổ,
lam lụ như Ngài thuở ấu xuân vậy. Vì cớ cho
nên Ngài đem tâm chí làm sao cho ích lợi cho Dân,
tức nhiên cho Đồng Bào trong nước. Vì thế cho
nên Ngài phảm đối một cách không thể tưởng
tượng trong buổi lệ thuộc ấy, can đảm chúng
ta không bao giờ dám đềxướng như vậy đặng.
Trong nước chúng ta buổi nọ, nhứt là trong Nam
Kỳ (Bần Đạo dùng tiếng xưa) buổi nọ nếu có
một người An Nam nào đứng đầu quần chúng, thì
duy có Ngài mà thôi. Bởi chính mình Ngài vào Thượng
Nghị Viện Chính Phủ Pháp buổi nọ tuy có một
mình Ngài trong Nam Kỳ.
Ấy vậy, nếu
như buổi nọ Ngài muốn giong ruổi trên con đường
danh lợi, thì cái công danh phú quý của Ngài vẫn
ở trong tay, không xin ai, không hạ mình mà bợ đỡ
hay nịnh hót ai đặng danh lợi ấy.
Danh lợi sở hưũ
vì Tài Đức của Ngài, Bần Đạo có thể nói Ngài
là một người sống trong Trưởng Giả đó vậy,
nhưng mà dòm trước mắt thấy cả đồng bào thống
khổ, cái lẽ bất công nó cứ chàng ràng trước
mắt của Ngài hoài, cho nên thật sự ra, dầu ngồi
trên địa vị cao kỳ sang trọng bao nhiêu đi nữa
Ngài không buổi nào thoả thích được, đến nổi
Ngài tranh đấu, tranh đấu thấy mình bất lực
muốn chết đi cho rồi, muốn tự vận nên hút á
phiện đặng chết cho sớm, cho khuất con mắt, tránh
cái thống khổ của dân đã chịu. Nhưng cái người
mà Đức Chí Tôn đã dành để đó, dễ gì chết
một cách dễ dàng như thế. Nên Ngài sống, Ngài
sống cho đến khi Đức Chí Tôn đến mở Đạo.
Một lời Đức Chí Tôn phán thì cả cái sang trọng
phú quý của Ngài, Ngài coi như bọt nước, nội
một ngày cả sự nghiệp đều để cho thiên hạ.
Ngài bán cả của cải ấy, Ngài ra với một minh
không. Buổi nọ hút một ngày mười lăm đồng
bạc, mà bỏ hút rồi có có một ngày ăn trường
trai kể từ ngày Đức Chí Tôn đến, chính mình
Bần Đạo làm chứng cho vậy.
Cái Đức Tin phi
thường đã thấy trong cửa Đạo Cao Đài nầy có
hai người : Một Đức Quyền Giáo Tông, hai Đức
Cao Thượng Phẩm mà thôi. Phải chăng do nơi khối
Đức Tin vô đối ấy đã làm cho Đạo Cao Đài
nên hình như ngày hôm nay.
Một cái sứ mạng khó khăn nhứt là
buổi nọ Đức Chí Tôn đến, Bần Đạo nhớ lại
thiên hạ trở thành vô Đạo, cả toàn thể Quốc
Dân giong ruổi theo Duy Vật, văn minh đương thời
bây giờ, quên hẳn cả Lễ Nghi Phong Hoá nước
nhà, làm cho sống lại chẳng phải là một điều
dễ, phải chiều chuộng, bợ đỡ, nâng niu, chẳng
khác nào bà mẹ coi từ vú sữa, mớm cơm cho con
thơ dại, mới tượng hình của Đạo ngày hôm nay.
Cái khó khăn hơn hết Bần Đạo nói có bằng chứng,
chính mình Đức Chí Tôn đến mở Đạo Ngài than
khó lắm. Chính mình Ngài là Đức Chí Tôn quyền
năng vô đối mà còn than về cái khó đó. Bần
đạo để bằng cớ hiển nhiên cho con cái Đức
Chí Tôn ngó thấy, Đại Từ Phụ đà làm hai bài
thi than buổi nọ như vầy :
"Cao Đài tá thế đến phàm gian,
Bạch Ngọc Huỳnh Kim cũng chẳng màng,
Chiều luỵ đòi phen, xem quá tục,
Nghĩ không đổ luỵ phải cường khan".
"Cười khan mà khóc bởi thương bây,
Chẳng mất một con nghiệt cả bầy,
Biết phận già không chờ chống gậy,
Nương theo con dại mới ra vầy".
Bằng
cớ hiển nhiên đó chính mình Đức Chí Tôn còn
than, chúng ta nhớ lại, buổi nọ cái sứ mạng
Thiêng Liêng của Đức Quyền Giáo Tông và của
Đức Cao Thượng Phẩm nó khó khăn dường nào.
Thật sự phải chìu luỵ về tâm hồn con người
buổi nọ một cách không thể tưởng tượng được.
Bần Đạo thú thật, buổi nọ Đức Quyền Giáo
Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo cũng
vậy, chỉ có ba Anh Em ôm sứ mạng Thiêng Liêng
ấy nơi mình. Lãnh sứ mạng khó khăn thì tưởng
đâu Đạo Cao Đài cũng như Đạo Phật hay Minh Sư,
Minh Đường, đáo để, cạo đầu vô chùa làm Thầy
Chùa Tu là cùng, tưởng dễ dàng lắm, kiếp sanh
nơi thời bấy giờ đã khổ não tâm hồn và xác
thịt lệ thuộc như thế, Ổng biểu Tu, nào dè
mở Đạo trong thời gian ngắn ngủi không bao lâu
thấy cả con cái của Ngài, đến cùng Ngài, cả
muôn, cả triệu, chừng đó mới biết sợ sệt.
Chính mình buổi nọ Đức Quyền Giáo Tông ra Hậu
Điện. Người hỏi Bần Đạo : Đại Từ Phụ làm
cái gì vậy? Thấy thiên hạ vào cửa Đạo quá
chừng Đại Từ Phụ làm cái gì kỳ quá vậy. Chính
mình Bần Đạo cũng không biết, biết đâu Ông
làm gì, Ông đến Ông thâu Tín Đồ nhiều quá ảnh
than rằng: :Tới đâu hay tới đó chớ biết sao.
Kể từ đó bị
khảo miết Đức Cao Thượng Phẩm bị khảo đến
ngày giờ chót. Ngày giờ cuối cùng nằm trên giường
bệnh cho tới hơi thở cuối cùng, không buổi nào
không bị khảo, không buổi nào không bị nhục
nhã. Cái Luật Thiên Nhiên không có điều gì xin
xỏ điều gì cũng phải mua chuộc.
Bần Đạo đã
quyết rồi xin để Bân Đạo kết luận bởi mua
chuộc với cái khảo đảo nhục nhã của Đời,
để bảo trọng danh giá của Ngài. Ngày nay Ngài
sang trọng vô đối.
Chúng ta thấy gương
rõ ràng Đức Phật Tổ là Chúa cả linh hồn của
Nhơn loại bên cõi Á Đông nầy. Đức Chúa Jésus
Nazareth hay Christ Chúa của các Linh Hồn bên cõi
Âu Châu. Hai Người ấy một người thì đi ăn xin,
Cầm Bình Bát đi ăn xin, không phải ăn xin cho Ngài,
ăn xin cho kẻ đói khó nghèo nàn đem về cấp Cô
Độc Viện, đặng nuôi dưỡng họ, một đời không
có cái áo lành. Ngài đi mót máy đồ rách rưới,
rồi chầm khiếu, gặp người nào lạnh cởi ra
đưa cho bận, ở trần mãi thôi. Đức Chúa Jésus
Nazareth (Christ) không có được hai cái áo, không
có chỗ nương thân Ông than một câu, than nghe thảm
thiết làm sao: con chim nó có cái ổ, con chồn nó
có cái hang, mà con người nầy không biết chỗ
nào gối đầu của mình !
Hai người ấy
là cái nghiệp họ đã đào tạo nơi thế gian nầy,
một Người 2.000 năm, một người 2.500 năm vẫn
còn tồn tại mãi thôi. Biết bao nhiêu cơ nghiệp
Đế Vương, biết bao nhiêu người giàu sang ở dưới
mặt thế gian này, nào là đài Tần, đảnh Hớn
cả thảy đều tiêu tan, chúng ta không còn ngó thấy
một dấu tích gì lưu lại. Mà hai Người Nghèo
ấy, hai Người bần hàn ấy, một người 2.000 năm,
một Người 2.500 năm, Đại Nghiệp họ vẫn còn
tồn tại.
Một điều Bần
đạo buồn cười hơn hết, ở ngoài Đời dùng
cường lực nào là bom nguyên tử, nào là gươm
đao, súng đồng mọi thứ để tàn sát thiên hạ
đặng làm bá chủ, đặng giành bá chủ không phải
dễ làm. Bởi vì họ muốn làm bá chủ của thiên
hạ nhưng không được đâu, thiên hạ phản đối
luôn, chống lại cường lực mãi thôi, chẳng buổi
nào ngừng.
Mới đây con cái
Đức Chí Tôn đã ngó thấy Xá Lợi Phật, tức
nhiên xương của Đức Thích Ca buổi nọ thiêu còn
sót lại miếng nhỏ nhỏ để lại phân phát các
Chùa bên Ấn Độ qua tới nên Ấn Độ Dương một
miếng có một chút, đem Xá Lợi Phật bằng đầu
mũi kim chớ có lớn đâu, thiên hạ hoang nghinh cả
Xá Lợi Phật, không có súng, không ai ràng buộc,
không đem súng mà họ theo, cả thảy đều cúi đầu,
không phải cầm súng mà người ta coi mạnh phi thường
không thế gì tưởng tượng được. Cái Ông mà
nghèo nàn đệ nhứt hơn hết, bây giờ thiên hạ
thấy hình trái tim của ông cháy lửa ra, hễ ngó
thấy hình trái tim thì cúi đầu hết thảy, mà
cả toàn thể các liệt cường Sắc Dân âu Châu
cho tới Á Đông 600 triệu Tín Đồ ngó thấy trái
tim đời đời không khi nào mỏi.
Đức Quyền Giáo
Tông đã khéo lựa, Ngài bỏ cái ngôi vị Thượng
Nghị Viện của Ngài, chỉ theo Đức Chí Tôn, nên
người ta gọi Ông già tu tiên (gọi theo lối kiêu
ngạo) mà hôm nay địa vị nầy Bần Đạo nói thật
nó còn đời đời kiếp kiếp, cái danh giá của
Ngài không bao giờ tiêu huỷ. Cao Đài còn, Danh giá
của Ngài vẫn còn, Công nghiệp của Ngài đối
với Nhân Loại vẫn còn. Ngộ nghĩnh thay ! Cả thiên
hạ hạng nhứt là Quốc Dân Việt Nam đã nô lệ
về phần xác, Đức Chí Tôn cho một người Tướng
Soái đến đặng giải thoát họ, quí trọng hơn
hết trong kiếp sống của họ là giải thoát về
phần hồn. Nắm về phần hồn làm chúa thiên hạ,
ngộ nghĩnh thay ! Tượng hình làm chúa trong đó
tay Đức Quyền Giáo Tông là tay thứ nhứt hơn hết
sao, giờ phút nầy, Bần Đạo ngó lại phải để
câu hỏi : Nền Đạo Cao Đài ngày kia sẽ tạo nền
văn minh như thế nào rồi ? Thật vật nền văn
minh sẽ ra sao ?
Bần Đạo nói
hai vị Giáo Chủ kia đã mang thi phàm xác tục, mà
họ còn để lại hai gương đẹp đẽ vô biên ấy,
họ tạo Tân Dân, họ đã đến đây phương kế
hiệp thành chữ "Khí" của Đức Chí Tôn
đến giữa Thánh Đức của Ngài, rồi giờ phút
nầy Đức Chí Tôn đến để nơi mặt thế gian
nầy nền Tôn Giáo Cao Đài, thì nền Văn Minh ấy
thế nào con cái của Đức Chí Tôn đoán biết.
Đền Thánh, đêm
14 tháng 10 năm Nhâm Thìn (1952)
33.-
NỀN TÔN GIÁO CỦA ĐỨC CHÍ TÔN ĐẶNG 28 TUỔI
Kể từ nay nền
Chơn Giáo của Đức Chí Tôn lại thêm một tuổi
nữa, tức nhiên đã đặng 28 tuổi. Con đường
viễn vọng trên 28 năm ngó lại như giấc chiêm
bao ngắn ngủi.
Chúng ta cũng nên
mừng, một nền Chơn Giáo mới mở 28 năm, mà độ
rỗi cả các chơn linh về Đạo về Đời như thế
nầy, cũng gọi nó là may mắn lắm vậy. Khi Đức
Chí Tôn đến chính mình Ngài nói : Hể Đạo mở
trễ một ngày, tức nhiên hại cho Chúng Sanh không
biết mấy. Đại Từ Phụ nói : Một con đường
của chúng ta đi, cái năng lực phàm của ta nơi
cõi trần nầy nhiều điều gây trở khó khăn, mà
điều ấy có lẽ Đức Chí Tôn, tức nhiên Đại
Từ Phụ đã chung chịu cùng chúng ta đó vậy. Lại
nữa đêm nay là đêm chúng ta kỷ niệm các bạn
Thiêng Liêng của chúng ta, dầu các Chơn Linh ấy
ở nơi Cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống hay là các
bạn đồng khổ với chúng ta đã quy hồi cựu vị
của họ.
Bần Đạo thừa
dịp kỷ niệm của các Đẳng linh hồn, thuyết
một vấn đề, Bần Đạo nói trước, hạng thứ
nhứt bên Phái Nữ, nghe câu chuyện rùng rợn đừng
về nhớ giựt mình mẩy đa nghe.
Trước khi mở
Hội Thánh, Bần Đạo có dịp hội đàm cùng Đức
Lý Giáo Tông, Ngài chỉ cho biết trước, kết liễu
của Hội Thánh như thế nào, nhưng điều ấy tưởng
cả toàn thể con cái Đức Chí Tôn cũng không nên
tìm hiểu điều tọc mạch đó làm gì, chuyện tới
nó sẽ tới.
Luôn dịp, luận
về một vấn đề : Nó thắc mắc làm cho Bần Đạo
để ý hơn hết. Mới rồi đây, các báo cáo cả
toàn cầu mới đăng cái tin, nói tại Mỹ Quốc
có một nơi nào đó Dĩa bay rớt xuống, những tay
hiếu kỳ muốn đi tìm cho đặng, coi Dĩa bay như
thế nào ? Họ lên núi cao kia, xa thẳm trong rừng
già, họ tìm Dĩa bay rớt xuống, vô trổng không
thấy gì hết, chỉ thấy xuất hiện một Kỳ Nhân
lạ lùng, nghe nói mà rùng rợn : Con người gì mà
ước độ CAPut!’ thước bề cao, 5 thước bề
ngang, mình xanh lè, hào quang xanh chiếu diệu ra,
con mắt đỏ như huyết, chiếu ra như đèn pha xe
hơi. Người ta thấy dị hình, dị dạng, bắt sợ
hãi lắm, trong mình người đó xuất ra hơi khí,
cái mùi lạ lùng lắm, giống như thể mùi kim khí
cháy vậy, nghe như mùi xe hơi cháy ra mùi khét. Khi
ấy làm cho người đó chịu không nổi, đến khi
về phải ói mửa, phải đau. Trong số ấy cũng
có người phụ nữ cũng tọc mạch vậy, theo bên
Pháp Nam là 7 người, có một người phụ nữ làm
chứng chắc rằng : Dị hợm lắm có bốn chân,
mấy người kia không chắc 4 chân hay 2 chân. Duy
có người can đảm hơn hết ở lại đặng coi,
người ra đã chạy hết mà ở lại coi cho được
đến khi người dị nhân đó đi lại gần thì hoảng
la ré lên phát chạy, sau khi về bị đau gần chết.
Bần Đạo nghe
chuyện đó dị kỳ lắm mới vấn nạn nhân Đức
Lý Giáo Tông, hỏi cái người đó là gì ?
Đức Lý Giáo Tông
trả lời : Thần chớ gì. Té ra từ thử đến giờ
họ vô Đạo, không kể Trời, Đất, Thánh, Thần,
Tiên, Phật gì hết, nên Đức Chí Tôn lại sai một
Chơn Linh, một lấy năng lực nguyên tử mà họ
thí nghiệm, đặng tạo hình hài của vị Thiên
Thần đó cho Đời ngó thấy, nhứt là lời nói
của Đức Chí Tôn cho con cái trong Đạo Cao Đài
của Ngài sẽ còn thấy nhiều cái dị nữa.
Bần Đạo hỏi
vậy chớ Đức Chí Tôn cho ngó thấy điều đó
để làm gì ?
Đức Lý Giáo Tông
nói Đại Từ Phụ cho ngó thấy đặng Nhơn Loại
hay rằng: Nếu họ không trở lại Thiên Tánh của
họ, không tự mình lấy bổn nguyên sanh hoá của
Tạo Đoan, tức nhiên không lấy căn bản của Đại
Từ Phụ mà làm mực thước, làm tinh thần, làm
năng lực thì Nhân Loại ngày kia sẽ tiêu diệt
và thay đổi cả xác thịt, hình thể Nhân Loại
nơi mặt Địa Cầu nầy thành một hình thể khác
hẳn bây giờ.
Bần Đạo mới
hỏi cái thi thể của người Dị Nhân đó lấy
năng lực nguyên tử tạo hình, cái sự làm đó
có phải là do quyền năng vô lượng của các Đấng
Thiêng Liêng mới làm được, hay là ai cũng có thể
làm được.
Đức Lý nói :
Các Chơn Linh nơi Càn Khôn Vũ Trụ đều làm được
hết, Chư Hiền Hữu một ngày kia cũng có thể làm
được, bất quá vị đó là một Chơn Linh Thần
Vị mà thôi. Hiền Hữu đừng tưởng rằng : Loài
người dị hình dị trạng vậy mà thôi. Trong Ngũ
Hành : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ, Nhơn Loại ở
Càn Khôn Vũ Trụ đều tạo hình hài bằng Ngũ Hành
hết.
Nói vậy cái vị
Thiên Thần nói đó, tạo hình bằng Kim Khí. Còn
chúng tôi ở quả Địa Cầu 68 tạo hình hài bằng
gì ?
Đức Lý nói :
Chư Hiền Hữu là Thổ Hình.
Còn chỗ nào có
hình khác, khác nữa không ?
Đức Lý nói :
Chư Hiền Hữu ở thế gian này, thấy sống trăm
năm, cầu ước cho trường sanh bất tử, nếu Chư
Hiền Hữu đầu kiêùp lên ngôi Hoả Tinh kia các
người có thể sống đôeeba nghìn năm, bởi vì
nó thuộc về Hoả, cho nên nó không bị tiêu diệt.
Mà sống đây có nhiều người, sự sống đó biết
bao nhiêu vì sống lâu quá !
- Cái thân thể
vậy mà sống khổ cái nổi gì ?
- Chư Hiền Hữu
biết rằng : Ngũ Hành tương khắc với nhau, hể
có thân nầy thì có thân kia, tương khắc với nhau
làm đau đớn, khổ não chớ vui sướng nỗi gì.
Thành thử luận
rồi Bần Đạo cũng xét mình với cái Thổ Hình
của chúng ta, nghĩ ra mình hạnh phúc hơn hết. Nếu
sự thật có thi hình nơi Hoả Tinh dầu sống trăm
năm trong Thổ Hình còn hạnh phúc hơn họ nhiều.
Trên kia có nhiều Đấng Chơn Linh Phật Thể của
mình, trong Ngũ Hành họ chịu đau đớn khổ não
ấy chằng hề khi nào thoát khỏi, dầu có thoát
khỏi đặng hay chăng là nhờ cái quyền năng của
Đức Chí Tôn cho ta đặng sống nơi cõi Thiêng Liêng
Hằng Sống.
Đền Thánh, đêm
14 tháng 11 năm Nhâm Thìn (1952)
34.- NĂNG LỰC PHI THƯỜNG CỦA ĐỨC TIN
Trước khi giảng
Đạo Bần Đạo để lời khen cả toàn thể con
cái Đức Chí Tôn hành lễ rất nghiêm chỉnh, nhứt
là tụng Kinh có niêm luật qui tắc.
Đã mấy kỳ đàn
rồi, Bần Đạo không có đi cúng, hôm nay dự lễ
nầy có thể nói làm cho Bần Đạo hết đau.
Đêm nay Bần Đạo
giảng về năng lực phi thường của Đức Tin trên
con đường chí Chơn chí Thánh, chí là Khối Thương
Yêu, Bần Đạo đã giảng về Đức Tin nhiều lần
rồi, và cũng đã giảng cái năng lực của Khối
Thương Yêu như thế nào rồi.
Đêm nay Bần Đạo
chỉ giảng về năng lực phi thường của Đức
Tin hay là cái năng lực Huyền Diệu của Đức Tin
và Khối Thương Yêu vô tận của Đức Chí Tôn.
Chúng ta đã chắc biết cũng như Đức Phật Thích
Ca khi đạt đặng Bí Pháp mà trước kia chưa có
vị Phật nào đạt đặng là nhờ Ngài đã tìm
hiểu quả quyết, rồi Ngài ngó lộn lại vạn linh
sanh chúng đang chìm đắm trong khổ hải, chịu trong
Tứ Khổ là "Sanh, Lão, Bệnh, Tử" nên Ngài
đem cái thuyết thương yêu vô tận của Ngài Truyền
Bá cho toàn thể Nhơn Sanh noi theo cái chí Chơn chí
Thánh ấy, đặng họ đạt Bí Pháp của họ, có
phải Đức Tin của Ngài mạnh mẽ chăng ? Ngài để
Đức Tin trên Khối Thương Yêu của Ngài và Đạo
của Ngài đã 2.500 năm mà vẫn còn tồn tại bền
vững đến ngày nay.
Đức Lão Tử khi
đạt được Cơ Quan vô đối của Ngài tức nhiên
Ngài lấy chí Chơn chí Thánh để hiểu trong kiếp
sanh của chúng ta và nếu chúng ta có phương thế
tương liên với cả chúng sanh trong Càn Khôn Vũ
Trụ để làm khối thương yêu duy nhứt, chúng ta
mới có thể siêu thoát đặng, chúng ta chớ tưởng
sự ấy làm không được, chúng ta sẽ đoạt đặng
mà chớ nếu đoạt đặng quyền vô sanh, vô tử
thì sẽ đi đến cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Bởi
cớ cho nên Ngài để cái luật vô tử nầy cho Nhơn
Loại tìm hiểu mà đạt Đạo. Cũng như Đức Khổng
Phu Tử, Ngài thấy Nhơn Loại đã phế vong Đạo
Nhơn Luân của mình, nên mới tương tàn, tương
sát với nhau, như hồi Đông Châu Liệt Quốc buổi
nọ, Ngài lấy Đạo Nhơn Luân làm căn bản, đặng
cứu Đời gọi là lấy Đại Nhơn Luân cứu thế.
Cũng như ngày nay, Đức Chí Tôn quả quyết rằng
: Cái thuyết ấy nó thuộc về năng lực thương
yêu, nên Đức Chí Tôn mới đem tạo nền Chơn Giáo
của Ngài. Ngài lấy Đạo Nho làm căn bản, lấy
Đạo Chơn Luân của Nhơn Loại làm phương cứu
cánh, để Cứu Khổ cho Loài Người, cũng như Đức
Lão Tử trước kia đó vậy.
Đức Chí Tôn ngày
nay cũng thế, chỉ vì lòng thương yêu Nhơn Loại
vô tận, nên Ngài tìm cách giảng cái thuyết ấy,
truyền ra cho cả Nhơn Sanh đều hưởng ứng theo,
để họ biết cái Sanh Tử của họ, đặng họ
tự giác, đó là phương Cứu Thế vậy.
Tưởng cả Chúng
Sanh Chức Sắc trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn
Nam, Nữ cũng biết cái Đức Tin ấy là ngọn đuốc
Thiêng Liêng, còn lòng thương yêu của ta là Khối
Lửa Tam Muội để đốt cây đuốc ấy cho sáng
láng, cho rực rỡ, đặng dìu đường cho vạn linh
sanh chúng.
Chúng ta đã ngó
thấy cái quyền năng ấy trong một đại gia đình
nên hư đều ngó theo ngọn đuốc Thiêng Liêng đó,
đặng đi đến con đường vinh quang vô đối của
Đức Chí Tôn đã rọi sáng, đã dành để cho chúng
ta hồi ban sơ.
Bần Đạo nói
quả quyết mỗi sự khó khăn gay trở, mọi sự
khổ hạnh, mà Thánh Thể Đức Chí Tôn đã chịu
mà có thể thắng được mọi trở lực là nhờ
Khối Thương Yêu của Đức Chí Tôn đã dành để
cho chúng ta, nếu chúng ta lấy Khối Thương yêu
cứng rắn ấy làm căn bản, thì không có quyền
năng nào dưới thế gian nầy làm cho khối ấy lay
chuyển, tiêu diệt được.
Đền Thánh, ngày
15 tháng 12 năm Nhâm Thìn (1952)
35.- LƯỢT GIẢI VỀ NGŨ CHI ĐẠI ĐẠO
PHẬT-ĐẠO,TIÊN-ĐẠO,
THÁNH-ĐẠO,
THẦN
ĐẠO & NHƠN ĐẠO
Đức Shidarta (gọi
là Cakya Mouni) nghĩa là người miền xứ Cakya, lấy
lòng nhân bao trùm thiên hạ, tầm thêm đặng Chơn
Lý Sanh Khổ, mà lập thành Phật Giáo, nên dùng
đoạn trái oan trừ nghiệt chướng, đặng làm phương
giải thoát Luân Hồi.
Ấy là giữa chốn
khổ não đau thương, Ngài lại đem tánh Từ Bi tự
tại ra chuyên chế lòng phàm, cầu sanh chúng tương
thân tương ái, thật chẳng khác nào đã khổ nơi
ô trược nhớp nhơ mà Ngài đến rải mùi thơm
ngào ngạt.
Ngài nhờ Sanh,
Lão, Bịnh, Tử, tứ Khổ, giác minh bổn thiện mới
đạt phương Cứu Khổ Loài Người.
Đức Lý Lão Đam
(Lão Tử) là Thái Thượng Lão Quân, vì lòng nhân
Phổ Độ thế gian nên tìm đặng Chơn Lý tinh thần
vi chủ, trừ khử phương dĩ vật luỵ hình, định
tự chủ kỳ tâm là diệu pháp, lại lấy phép an
nhàn làm Cơ thoát tục.
Ấy Đời là cảnh
sầu thảm khó khăn, mà Ngài đến bày phép chơi
hay cho giải trí, chẳng khác nào Ngài là người
đương ngậm đắng trêu cay, Ngài cho nếm mùi ngon
vị ngọt.
Ngài nhờ quyền
vật dục trong trường công danh phú quí của lục
quốc phân tranh, tạo ác đã vô ngằn, nó thức
minh "bổn thiện" của Ngài, nên Ngài ái
dân sanh, mới truyền phương Thoát Khổ.
Đức Chúa Jésus
De Nazareth (gọi là Christ) bởi lòng nhân Cứu Thế
lập nên Thánh Giáo Gia Tô, Ngài mượn Bác Ái Nhân
Sanh, đặng thay mặt Chí Tôn khai hoá, xem phổ tế
Chúng Sanh rằng trọng, nên chuyên lo giúp khó trợ
nghèo, dỗ kẻ dữ, dạy người ngu, ngó chân thật
mạng sanh hành thiện Đạo, diệt dị đoan, trừ
mê tín, dụng Chân Lý để răn Đời, nhìn lương tâm là hình ảnh của Trời,
lấy trí tuệ vẽ tươi Thiên Cảnh.
Ngày hằng dạy
rằng : Cái khổ của thế gian là sự nghiệp của
con người, phải thọ khổ mới rõ Cơ thoát tục.
Ấy là Đời đang
giả dối mà Ngài đem chân thật đang khử trừ,
chẳng khác nào vào chốn náo nhiệt dữ dằn mà
Ngài đờn tiếng thanh tao hoà nhã.
1.- Ngài nhờ Đạo
Luật của Môi Se (Moise), thế-kỷ ấy quyền hành
biến đổi nên sanh nhiều chi Tả Đạo Bàn Môn,
lại thế lực của Cai phe về bên mặt phần hồn
rất nên mạnh mẽ buộc Dân Do Thái (Juifs) nhiều
lẽ nên tà. Carmee-tín của dân Giu-Đê buổi ấy
luận không cùng.
2.- Quyền Luật
Đời nước La-mã (Rome) của César nghiêm-khắc khốc-hại
sinh-linh đồ thán.
Những nguyên-uỷ
khai-minh “Bổn thiện” của Ngài làm cho Ngài phải
cam tâm gánh vatscar sự đâu-đớn của loài người
, cũng bởi ái-truất thương-sanh chịu tử tội
đặng truyền gương thọ khổ.
Khương Thái Công
gọi là Thái-Công Vọng hay là Khương-Tử-Nha vâng
lịnh Đức Nguown-Thior Thiên-Tôn ở Côn-lôn sơn
lấy Phong Thần bảng đến giúp nghiệp Châu, cũng
vì nhơn-sanh mà khai-minh chơn-lý của quyền-hành
thưởng phạt thiêng-liêng giúp Thế-trị đặng
thêm mỹ-mãn, tôn-sùng trung-liệt trừ-khử nịnh-tà,
mượn tinh-thần làm nhuệ-khí đặng trừ tan ác-nghiệt
của xác thân ấy là dụng phép vô-hình đặng điều-khiển
hành-tàng mặt thế. Ngài giúp cho thé-gian kinh-nghiệm
đủ cớ hiển-nhiên rằng nạn ác đã đào-tạo
kiếp sống của con người, chẳng trốn khỏi nơi
kiếp chết. Phép thưởng phạt thiêng-liêng có đủ quyền-năng cả xác cùng hồn. Thế thì có trí-tuệ
của loài người, còn Đạo lại còn Thần-minh giám-sát.
Trieet-lý Thần-linh nghĩa là: Quyền phép của lương-tâm
do đó mà lập thành căn-bản và năng-lực vận-hành
hiện-tượng của tư-tưởng cùng bổn-nguyên thần
pháp đặng nảy sanh.
Ôi ! Cũng vì cớ
quả nhiên thật sự bí-pháp nầy đây mà đời
chất-chứa nhiều điều mê-tín.
Tuy van, chẳng phải
chính mình Ngài làm chủ tạo phép huyền-vi bí-mật
Phong-thần, song Ngaifbieets tùng lịnh thật hành những
tư-tưởng cao-thượng của Đức Nguown-Thỉ Thiên-Tôn,
thì công ấy cũng đủ làm đầu Thần-giáo.
Đôi khi ấy dường
như đang bị phát bởi ung-thư, chịu đau-đớn sầu
than chẳng xiết, mà Ngài lãnh đặng hoàn thuốc
linh-đơn thoa cho đặng lành lẽ tốt tươi mặt
thế.
Ngài nhờ thấy
bạo tàn Thương Trụ và thương đạo nghĩa của
nhà Câu: vua Văn-Vương và Võ-Vương dục khai “bổn
thiện” nên tuổi dầu cao, tác dầu lớn, mà dám
chịu nhọc-nhằn khổ cực giúp đạo-đức, khử
bạo-tàn, thâu cơ-nghiệp Thành-Thang, cứu dân đen
trong nước lửa, tuy đôi bên Thương, Châu khác
giá mà đối với lực trung can trí dũng, vị quốc
vong xu, Ngài vẫn giữ dạ vô-tư trong Thần-vị,
chỉ ngó mặt công phong tước-phẩm.
Đức Khổng Phu-tử
tự là Trọng-Ni, cũng vì nhơn thấy đặng hung bạo
của Đời nên lo trù-hoạch phương-châm giảm ác,
mới đạt đặng triết-lý Chí-thiên là cơ-quan
bảo thế, Ngài đắc thông nên tự-nhiên biết rằng
cơ tạo nghĩa là Trời Đất và vạn vật hửu-hình,
phải tấn-hoá lần lần cho tận con đường Chí-Thiện.
Người thì tận thiện, vật thì tận mỹ gọi là
Đạo. Ngài chỉ chiếu theo sự tự-nhiên hành-động
tâm-lý của người đời đặng làm chuẩn-thằng
đoán xét, ngoài phép an-tân luyên-tánh, Ngài không
nhìn phương-pháp nào tự-giác đặng “bổn thiện”
và kềm-chế lấy điểm lương-tâm, nên không chịu
tin theo lý-thuyết mị-thuật huyền-vi mà trí khôn
ngoan của người không thấu đáo, Ngài đã thấy
phép trị thế, dầu cho dân sanh phản-kháng thế
nào, cũng tuỳ theo một chủ quyền chính-thể, hoặc
do nơi đông tay xúm nhau đào-tạo hay là do ở một
người đã đặng mạng Trời làm Chúa Đời, cầm
luật pháp trị bá tánh.
Ngài cho chánh-trị
hành tàng của xác thịt thế nào thì chánh-trị
tinh-thần cũng vậy, nên nhìn nhận rằng trên các
chủ-quyền trị thế, có quyền vô-vi của Đấng
Chí-Tôn, Ngài gọi là Nhứt Đại nên viết Thiên
(=/\) nằm trong phép thiêng-liêng thưởng-phạt, Đấng
Chí-Tôn ấy chẳng phải có quyền-năng vè phần
hồn mà thôi, lại cũng đặng oai-linh phần xác,
lý-thuyết Trời và Người đồng trị nảy sinh
ra trí đó.
Cơ-nghiệp Văn-Vương
qua đến đời Đông-Châu là cùng vận , mà Ngài
cố quyết duy-trì, mong lòng hiệp quốc đem luật
đặng trị bình, lấy nghĩa nhân đặng khử bạo.
Ngài hiểu rõ rằng
quyền-hành chánh-trị chia làm hai phần:
1/- Sanh-hoạt
của thi hài.
2/- Biến-hoá
về tâm-lý.
Nên Ngài cho luật
pháp là cơ-quan độc thiện để trị an thiên-hạ,
còn Đạo Nhơn Nghĩa đủ để kềm thúc tánh đức
người đời, nên Ngài mới cầm nhiếp chánh nhà
Châu để sở vọng chấn-hưng.
Thương thay một
Đấng Chí Thánh như Ngài mà cũng phải chịu bề
thất-vọng, bởi gặp buổi đời quá bạo tàn,
nên cây quạt và mảnh mền là Đạo Nhơn Nghĩa
của Ngài không đủ thế quat nồng ấp lạnh, Ngài
phải thối bước về quê, cam phận thiệt thòi
ngồi dạy học.
Bài tự thán “chi
lan” của Ngài ai đọc đén cũng phải rơi châu
đổ luỵ
May thay ! Qua đến
đời Khổng Cập (Tử Tư) là đích tôn của Ngài
dạy đặng một trang môn-đệ la Mạnh-Tử, rất
nên bậc hiền-triết nối chí Thánh-nhơn, cố mở
mang Đại-học.
Triết-lý của
Mạnh-Tử là tại Minh-Đức tại Tân-Dân tại chỉ
ư Chí-Thiện.
Người đi châu-lưu
nước nầy sang nước nọ, lấy nhơn-nghĩa đặng
khuyến-khích nhơn-tâm, cảm hoá các chư-hầu. Chỉnh-đốn
chế chuyên Vương Đạo.
Thật ra xã-hội
Á-Đông nầy đã nhờ ảnh-hưởng công nghiệp của
Người lắm lắm.
Đời Đông Châu
sôi-nổi, giặc-giả chiến-tranh cả ác hành, sử
chép không cùng, mà qua đến đời của Người thì
trỏ lại như xưa, tin dùng “bổn thiện” thật
tài chính-trị của Ngài rất nên siêu-việt.
Đức Khổng Phu-tử cũng nhờ ác hành
Đông Châu Liệt quốc trong trường chiến-đấu
đua tranh giành quyền lợi, mà giáo minh “bổn thiện”
của Ngài mới đắc pháp cao thâm. Chí thiện.
Những triết-lý
thánh hiền, dầu cổ kim cũng thế, cốt dìu dắt
nhơn-sanh đi thong-thả trên con đường lành cho cùng
tận, đặng phục-nguyên bổn thiện của mình, các
tôn-giáo gọi tên là Đạo.
Ngày nào “bổn thiện” đã phát-minh,
thì cảm hoá chúng-sanh rộng thế. Hèn thì làm cho
một gia-đình thiện hành gia pháp, trọng thì giúp
quốc-gia xã-hội thiện hành quốc chánh. Còn tối
đại thì làm cho toàn thiên-hạ đặng thiện giao
hiệp chủng đại đồng.
Đền Thánh đêm
30 tháng 12 năm Nhâm-thìn (1953)
(Lễ rước chư Thánh đáo tân
niên)
36.- ĐỨC CHÍ-TÔN BAN PHÉP LÀNH
Thưa chư chức
sắc Thiên-phong và toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn
nam nữ, xin ngồi chỉnh tề tịnh-tâm đặng Bần-Đạo
dâng Thần cho Đức Chí-Tôn đến ban Phép lành cho
toàn thể(ngồi xuống hết khi ban phép Lành).
Bần-Đạo nhắc
lôn lại, khi Đức Chí-Tôn đến mở đao năm Bính-dần
tại chùa Gò-Kén, Đêm giao-thừa 30 tháng chạp Bính-dần,
sáng ngay mồng 1 Dinh-mão. Đức Chí-Tôn giáng cho
Bần-Đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm bảo đứng
dậy giơ cần cơ ra ngay chính giữa, dặn các con
cái của Đức Chí-Tôn mỗi người phải chun qua
cần cơ đó. Cái ơn Thiêng-liêng ấy không người
nào mà Đức Chí-Tôn không có ban cho con cái của
Ngài giờ phú nầy cũng vậy.
Mỗi năm đêm nay
là đêm tong hệ hơn hết. Bần Đạo dám chắc và
quả quyết giờ nầy là giờ phút tối-yếu tối-trọng
hơn tất cả, Vì cớ cho neenBaanf-Đạo dăng Thần
cho Đức Chí-Tôn đặng
Ngài lấy hình thể hửu vi ấy mà ban ơn cho con
cái của Ngài.
Bần-Đạo có giảng
“Tam Bửu” đã nhiều phen rồi, cái bí-pháp huyền
diệu vô-biên ấy nếu toàn thể con cái của Ngài
dầu cho đứng trong phần tử Thánh-thể của Ngài
lớn nhỏ cũng vậy, toàn cả con cái của Ngài,
tức-nhiên Thánh-thể của Ngai tại thế nầy đó
vậy.
Nếu cả thảy
khi dâng “Tinh” tức nhiên dâng cái xác thịt và
cái sống của mình cho Đức Chí-Tôn, chỉ nhờ
Đức Chí-Tôn ban huyền diệu mới tận-độ chúng-sanh
được, nếu cả thảy triệu người đều nhứt
tâm nhứt đức thì dầu cái thân hình và kiếp
sống của minh có khổ sở thì cái Cơ Cứu khổ
chẳng hề khi nào không làm dduwocj.
Tiếc thay con cái của Ngài chưa trọn
tâm đức, nên cơ giải-khổ của nhơn-loại chưa
thực hiện đặng.
Nói về”Khí” tức nhiên cả trí
óc khôn ngoan của chúng ta nếu toàn con cái của
Ngaifcuws lo vật chất hửu hình, nào quyền lợi
nào thân danh dưới thế gian nầy nó đều là mông
ảo, thì kiếp sống aayslaf vô-vị, chúng taddax thấy
câu “mộng huyễn bào ảnh” nên Đức Chí-Tôn
có nói “Thiệt thì bỏ giả vay nên nợ” cái
tâm của minhfddax bị cái hình xô đẩy vào con dduwowngftruyj-lạc,
thì không mong gì thoát khỏi kiếp luân-hồi của
Đức Chí-Tôn đã định, vậy cả thảy dâng”Khí”
tức là trí óc của mình đó.
Bân-Đạo dám nói
chắc: Cái thông-khổ tâm hồn con người nơi mặt
thế nầy chúng ta có phương-pháp, có quyền năng
anủi được. Bàn-Đạo nói thiệt chúng ta sống
là do cái hồn mà sống, chớ cái xác là vaatjtam
để cho chúng ta mượn đặng trả quả kiếp đó
thôi. Còn các bạn chúng ta nơi cỏi Thiêng-liêng
Hằng sống có hồn mà không có xác là vì họ đã
thoát kiếp trần rồi.
Bấy giờ họ đã
ở trên ấy, họ sẽ đến cái cơ thiêng-liêng vận
chuyển pháp-luân nơi mặt địa-cầu nầy các đẳng
linh-hồn đồng chung sống với nhơn-loại, nhưng
chỉ cách nhau ở chỗ vô-hình và hửu-hình ma thôi.
Nếu toàn thể
con cái Đức Chí-Tôn trụ hồn laijcar thảy muôn
triệu hay là một ngày kia toàn nơi mặt địa cầu
nầy , mặt thế gian nầy lam một khối quyền-năng
vạn-linh của thiên-hạ nơi mặt địa-cầu nó sẽ
hiện-tượng, mà có hiện-tượng được là họ
phải thọ khổ, Thắng khổ, rồi giải khổ thì
mới mong đoạt vị được.
Chừng ấy chẳng
phải đại-đồng thiên-hạ mà thôi, lại còn đại-đồng
cả càn khôn vũ trụ nữa mà chớ.
Ngày mùng 1 tháng 1 năm Quý Tỵ
(1953)
37.-
ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRONG
DỊP LỄ CÁC CƠ QUAN CHÚC XUÂN ĐỨC NGÀI TẠI GIÁO-TÔNG ĐƯỜNG
Bần Đạo lấy
làm cảm kích được nghe mấy lời tâm huyết của
toàn thể các cơ quan Chánh Trị Đạo đã chúc thọ
cho Bần Đạo.
Hồi tưởng lại
khi Bần Đạo để bước trở về cố quốc sau
5 năm bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, thì cũng tưởng
rồi cái vận mạng của nước Việt Nam, có lẽ
chờ đến ngày về
của Bần Đạo nó sẽ đặng hoàn tất, và
đem sở năng hạnh phúc đựng thành tựu, thì cả
tinh thần anh dũng của toàn quốc dân đứng dậy
phá huỷ xiềng xích lệ thuộc, điều ấy Bần
Đạo đã nghe ra từ khi còn ở nơi Hải Đảo.
Ôi thôi ! Trái
lại khi Bần Đạo bước chân trở về thì đã
ngó thấy cái chí quật cường và lòng phục quốc
chẳng có năng lực nào khác hơn là năng lực của
Quân Đội Cao Đài.
Thưa cùng các Cơ
Quan Chính Trị Đạo, Hành Chánh Hiệp Thiên Đài,
Phước Thiện, Quân Đội, Bần Đạo xin cả toàn
thể đứng yên lặng trong 5 phút đồng hồ để
tưởng niệm đến các Thánh Tử Đạo, vì vận
mạng của nước nhà, vì chánh thể của nền chơn
giáo đã hy sinh đặng làm sứ mạng Thiêng Liêng
của mình bằng xương máu, Bần Đạo xin cả thảy
đều tịnh tâm cầu nguyện.
Các bạn Hiệp
Thiên Đài, nhứt là Cao Tiếp Đạo những lời châu
ngọc của Hiền Hữu nó đã ăn sâu trong tâm hồn
của Bần Đạo thật vậy, nếu kiếp sanh nầy may
duyên nó có thể nói rằng : Kiếp sanh tại thế
nầy nó là con vật, mà con vật ấy có thể hữu
dụng được cũng là hạnh phúc cho kiếp sanh của
Bần Đạo đó vậy.
Trên nhờ ơn Đức
Chí Tôn, Đức Phật Mẫu thương tưởng, dưới
nhờ toàn thể con cái của Ngài nam cũng vậy, Nữ
cũng vậy. Bần Đạo nghĩ lại chẳng còn phần
thưởng Thiêng Liêng nào hơn, cả bao nhiêu lời
cầu chúc của toàn thể con cái Đức Chí Tôn đã
trả công nghiệp cho Bần Đạo với một giá rất
mắc mà không hay đó vậy.
Các bạn Hiệp
Thiên Đài, các người cầm cân công bình Thiêng
Liêng của Đạo mà Đức Chí Tôn đã để lại
tại nơi mặt thế nầy, hạnh phúc hay đau khổ
của toàn thể nhơn loại một ngày kia đều mơ
vọng trên mặt cân của Chư Hiền Hữu. Bần Đạo
xin nhắc lại lời yếu thiết của Đức Chí Tôn
đã hoà ước với chúng ta là : "Công bình"
mà công bình ấy Bần Đạo đã gởi nơi Hiệp Thiên
Đài đó vậy.
Hành chánh Bần
Đạo để lời cám ơn từ khi Bần Đạo để bước
về cố quốc tới giờ thì năng lực của toàn
Thánh Thể Đức Chí Tôn Nam, Nữ Lưỡng Phái, nên
giờ phút nầy Bần Đạo đủ năng lực, đủ quyền
hành đặng làm chức vụ Thiêng Liêng của mình
một cách mạnh mẽ oai quyền, Bần Đạo để lời
cám ơn và cầu chúc cho Đức Chí Tôn ban khiếu
huệ quang cho toàn thể Nam, Nữ thấu đáo cho đặng
Thánh Ý của Đức Chí Tôn thêm nữa đặng tạo
thành cơ quan cứu khổ thiên hạ và tạo hạnh phúc
cho đồng bào Quốc Quân Việt Nam tức nhiên là
đồng bào của Thánh Thể buổi nầy vậy.
Hội Thánh Đường
Nhơn giờ phút nầy trong giai đoạn ngắn ngủi đây
Hội Thánh Đường Nhơn sẽ có một trách vụ yếu
trọng, Bần Đạo nói tiên tri cho biết đặng sửa
soạn lấy mình định phận trước.
Hội Thánh Phước
Thiện. Ôi ! Nếu Bần Đạo dòm trước mắt thấy
một điều đau khổ của chúng sanh chừng nào thì
Bần Đạo để hy vọng trong cơ quan ấy hơn hết.
Trải qua một thời
gian định quốc đây rồi cái sự thống khổ của
toàn Quốc Dân Viêt Nam nó sẽ định quyền lực
lại nhứt là các chiến sĩ đã hy sinh vì nước
họ đã bị bịnh hoạn tật nguyền, đau khổ, nghèo
nàn, muốn cứu vãn tương lai ấy đặng đem mãy
may hạnh phúc lại cho nọ, Bần Đạo chỉ trông
mong nơi Phước Thiện mà thôi đó nghe.
Các con chiến sĩ
anh dũng Cao Đài, một lần nữa Thầy để lời
cám ơn các con. Trong sáu, bảy năm Thầy đã dìu
dẫn các con đi trên đường hy sinh vô bờ bến,
hồi tưởng lại nếu các con để tâm bình tỉnh
lấy cả Đạo Đức tranh đấu vì non sông vì Đạo,
thì Thầy chắc các con chiến thắng đó vậy, và
Bần Đạo dám nói rằng: Lời ấy không phải là
lời quá đáng, các con đã đi đủ hai giai đoạn.
Giai đoạn đầu,
các con đã tạo thành năng lực cách mạng đã đảo
chánh quyền đem cả năng lực chiến đấu của
Nòi Giống Việt Nam, lộn lại mới có một tấn
tuồng mạnh mẽ như thế hiện trước mặt Bần
Đạo đã ngó thấy cái ngày đã đảo chánh quyền
quật cường của nòi giống các con.
Ngày nay nó đã
tới giai đoạn phục quốc thì cũng nhờ cuộc đảo
chánh quá cường liệt ấy cho nên phục quốc của
các con mới liên tiếp mãi, vì cớ nên đoàn anh
của cac con họ mơ vọng ngày định vận mạng của
tổ quốc chỉ ở sớm tối đặng thành tựu mà
thôi, nhưng tội nghiệp thay ! Các đoàn anh mơ vọng
ấy họ phải ân hận trong giờ chót của họ.
Vậy Thầy cho các
con biết giai đoạn phục quốc đã qua, giai đoạn
định quốc đã đến, tức nhiên giai đoạn lập
chánh thể nước nhà các con. Nếu nền Độc Lập
nước Việt Nam bền vững hay chăng, Bần Đạo không
ngại ngùng không thẹn thuồng nói : Năng lực bảo
vệ nền độc lập nước nhà các con được vinh
hiển bền bỉ hay không là do nơi năng lực quốc
tế mà thôi.
Hạnh phúc thay
! Mới thâu hoạch lại nền độc lập đã mất
hơn 80 năm mà hôm nay được hơn 40 nước liệt
cường nhìn nhận, dầu muốn, dầu không, không
có quyền lực nào thâu nền Độc lập ấy lại
đặng, không có quyền lực nào dang tay phá huỷ
nó cho đặng, chánh thể lập quốc của các con
sẽ tới trong giai đoạn ngắn ngủi đây.
Hôm nay Thầy nói
rõ, chắc các con lấy làm lạ, sao đương lúc bình
tịnh nầy mà xảy ra một đại cuộc làm đau đớn
cả cơ thể các con, các con cứ yên tâm, Thầy giải
nghĩa cho các con biết, giai đoạn tới trước rồi
Thầy dìu dẫn các con để bước lần đến địa
vị cho đúng, đó là phận sự các con phải làm
bất quá cả cơ thể Thầy xô các con là vậy đâu,
còn nữa. Thầy sẽ xô các con đi đến mức chánh
thể nước nhà và lập phương pháp để bảo vệ
nền độc lập của các con được bền vững chớ
không có chi khác.
Khi thầy ở hải
Ngoại về, Thầy có giao một tờ hoà ước với
kẻ cầm quyền nước Pháp, ở trong đó Thầy nhứt
định phải trả từ Mũi Cà Mau dĩ chí đến Aûi
Nam Quan lại, tức nhiên Hoàng Đồ đất Việt Nam
phải giao dưới quyền lãnh đạo của nhà Vua Bảo
Đại là người kế tự cho các Đế Vương ta. Dòng
nhà Nguyễn duy có người đó mới có đủ quyền
lực ăn nói cùng với Quốc Tế. Vì cớ cho nên
ngày về Thầy qua bên Hồng Kông Hương Cảng Thầy
đã nói với Ngài, theo mặt Luật Quốc Tế thì
Hoàng Thượng vẫn còn Hoàng Đế, còn nói với
toàn thể Quốc Dân Việt Nam khi Hoàng Thượng thoái
vị có nói rằng: Hoàng Thượng để hạnh phúc
Quốc Dân trên ngôi báu của Hoàng Thượng "Thiên
Tử vô hí ngôn" đối với Quốc Dân Hoàng Thượng
còn làm Quốc Trưởng. Tôi xin hứa với Hoàng Thượng
cái giai đoạn nầy nó sẽ tới giai đoạn "Quân
chủ lập hiến" mà thôi, chớ chưa hề nước
của mình đi đến dân quốc được.
Đức Quốc Trưởng
đã chịu và hứa như vậy, nên ngày nay Ngài đã
thi hành mấy lời hứa với Bần Đạo thì ngày
lập quốc dân quyền giờ phút tới đây Bần Đạo
giữ lời hứa với Ngài, Bần Đạo sẽ sắp đặt
quân chủ lập hiến ra thiệt hiện.
Bần Đạo nói
quả quyết, các con trụ cả khối tin trung lộn
lại đối với toàn thể nước nhà chủng tộc
của các con, thì trên Đức Quốc Trưởng không
thay lời hứa, dưới Thầy không lỗi hẹn, thành
thử Thầy xin lại cho dân tộc của các con độc
lập thiệt hiện đặng.
Ngày mùng 9 tháng 1 năm Quí Tỵ
(1953)
38.-
ĐỨC HỘ PHÁP CĂN-DẶN
CHIẾN-SĨ CAO-ĐÀI TRONG
DỊP LỄ XUẤT
Thưa cùng Chư Quí
Quan,
Thưa cùng toàn
thể các Vị Sứ Thần nước ngoài,
Thưa cùng Ngài
Thủ Tướng Chánh Phủ của chúng tôi,
Thưa cùng Quan Trung
Tướng Bondis và Quí Ngài có mặt nơi đây.
Hôm nay là ngày
Lễ Xuất Quân của Quân Đội Cao Đài, Bần Đạo
lấy làm cảm kích vô cùng.
Thưa Quí Ngài xin
cho phép Bần Đạo để lời căn dặn cả chiến
sĩ của Bần Đạo đôi điều trọng hệ hơn hết
là về mặt Đạo. Bần Đạo đã nói cho các con
Thượng Hạ Sĩ Quan Chiến Sĩ Quân Đội Cao Đài
hiểu rõ.
Từ ngày Thầy
bị đồ lưu nơi Hải Ngoại, khi trở về cố Quốc,
Thầy đã đem cho các con một phận sự mới mẻ
yếu trọng tưởng cả thảy đều biết là phận
sự cứu quốc, cai hy sinh vô tận của các con từ
10 năm nay Thầy không có phần thưởng nào cho xứng
đáng, duy có 2 cây Đạo Kỳ nầy mà Thầy để
cả tâm hồn vào đó và Thầy đã ban cho các con,
hể đến ngày Kỷ Niệm Lễ Xuất Quân thì Thầy
đây là Ông Cha Thiêng Liêng của mấy con, vậy các
con nên tưởng niệm các Thánh Tử Đạo, các Chiến
Sĩ hy sinh vì Tổ Quốc, việc ấy Thầy không cần
miêu tả các con cũng đã hiểu biết cái thâm tình
ấy.
Hôm nay đến giai
đoạn định quốc Thầy sẽ ban cho các con một
phận sự yếu trọng mới mẻ, phận sự nầy khó
khăn nguy hiểm hơn trước kia nhiều nữa.
Muốn cho cả tinh
thần của Chiến Sĩõ Cao Đài thống hợp lại làm
một khối, tinh trung cứng rắn mạnh mẽ để cứu
vãn tương lai của nước, tạo thành hạnh phúc
cho chủng tộc của các con, nên Thầy làm một Vị
Giáo Chủ đây tức là một Vị Giáo Sư để Giáo
Đạo Nòi Giống Việt Nam mà thôi, nhưng vì huyết
quản của Thầy đã xuất hiện trong nòi giống
các con, nên phải làm cho xứng phận công dân ấy,
thì Thầy làm phận sự Thiêng Liêng mới đáng giá
của nó.
Thầy đã ban cho
lá Quân Kỳ 4 chữ "Tận Trung Báo Quốc"
có lẽ miệng đời dị nghị cho rằng 4 chữ "Tận
Trung Báo Quốc" mà Nhạc Phi đã cứu nước
Tống khỏi thất quốc.
Người của nước
ta duy có 2 tướng :
1/ - Võ Tánh
2/ - Ngô Tùng Châu.
Hai vị ấy đã
hy sinh tánh mạng khôi phục Hoàng Đồ cho Tổ Quốc.
Thầy nói quả quyết rằng : Các con coi 4 chữ ấy
nó sẽ thay đổi tinh thần nòi giống dân tộc,
nó sẽ giúp các con đắc lực và oai quyền hơn
nữa.
Ngày 16 tháng 1
năm Quí Tỵ (1953)
39.-
ĐỨC HỘ PHÁP ĐỂ LỜI PHỦ DỤ HIẾN
SĨ CAO ĐÀI
Thưa cùng Chư Viên
Quan,
Chức Sắc Đời
và Đạo.
Trước khi Bần
Đạo để lời, Bần Đạo xin nghiêng mình cảm
tạ cả thảy Đồng Bào đôi bên niệm tình của
Quân đội và của Đạo đến dự lễ đông đảo
và long trọng làm cho rỡ ràng thêm vẽ Đạo. Bần
Đạo xin cúi mình cám ơn toàn thể.
Thưa cùng toàn
thể Đồng Bào.
Bần Đạo xin để
lời cùng các Ngài, trước vận mạng đương nhiên
của Tổ quốc, nòi giống tới một giai đoạn rất
nên yếu trọng, nếu không nói nó đã đến giai
đoạn khó khăn đặng định vận mạng tương lai
của nó. Nhứt là Bần Đạo xin để lời riêng
biệt cùng các nhà Văn Sĩ và các Sứ Giả. Trên
9 năm tranh đấu, hôm nay cái phận sự ấy, yếu
trọng cho các Ngài hơn hết, bởi nó đến giai đoạn
chúng ta phải tranh đấu về tâm lý. Tưởng khi
trên 9 năm quật cường thâu hồi độc lập cho
Tổ quốc giang sơn, các Ngài đã có sẵn trong tay
một sử liệu, có thể một ngày kia ngòi bút quí
báu của các Ngài lưu lại cho hậu tấn một kiểu
vở khuôn mẫu y theo tinh thầm cố hữu của Tổ
phụ để lại.
Cái chí quật cường
sau 80 năm đô hộ khiến cho đồng bào chúng ta muốn
giải thoát thâu hồi Độc Lập và Hoàng Đề của
Tổ phụ lại. Một giang sơn gấm vóc như thế nên
buộc chúng ta hải hy sinh sương máu, từ cổ chí
kim vẫn vậy. Luật thiên nhiên dưới thế nầy,
chẳng có điều chi mà ta đã xin đặng, ta chỉ
phải mua phải chuộc với một giá cho đồng giá
trị với vật mà ta muốn thâu hoạch. Nhưng ôi
thôi ! Vật của toàn quốc dân đồng bào muốn
thâu hoạch ấy, vật đó nó quá giá tưởng tượng,
cho nên phải trả với một giá rất mắc, là cái
giá xương máu trên 9 năm tranh đấu.
Thưa cùng Đồng
Bào, các nhà Văn Sĩ, các Vị cầm bút đang dìu
dẫn cả tinh thần trí não của chủng tộc ta buổi
hôm nay. Có lẽ khi trong lúc rổi rảnh các Ngài
có thể để một dấu hỏi ? Cái đường lối của
Đạo Cao Đài đã tự xưng là Quốc Đạo, hỏi
lấy cả tánh chất của nó, nó đã hiển nhiên
trở nên một nền Đại Đạo cho Quốc tế, mà
cái nạn nước của họ như thế khi rảnh ấy các
Ngài cũng để câu hỏi ? Trường hợp đó thử
nghĩ cả thảy những kẻ trí thức tinh thần phải
đi đường lối nào ? Phải dùng phương pháp nào
? Nhứt là tình trạng của Bần Đạo sau 5 năm đồ
lưu trở về nước. Năm 1946 cả cái tình trạng
của nước nhà, các Ngài cũng hiểu thấu. Bần
đạo xin thú thật buổi nọ Bần Đạo đã bí lối,
không ngõ thoát. Một đàng thì Việt Minh lợi dụng
tinh thần ái quốc của toàn thể quốc dân đồng
bào, chí hướng có một điều là lập trường
cứu quốc. Nhờ cái năng lực mạnh mẽ và quyền
năng ấy, họ đã nắm trọn cả số mạng của
nòi giống và tổ quốc trong tay từ Nam chí Bắc.
Nếu như cơ cấu tranh đấu của họ quả là một
cơ cấu quốc gia chân chính, thì sự thâu hoạch
và thống nhứt hoàn đồ đã làm rồi, đã thành
tựu rồi. Hại nổi họ phải xu hướng theo hai
chí hướng của hai khối, nhứt là nương nơi khối
ấy mà họ định vận mạng tương lai nước nhà
chủng tộc là cái lầm nhứt hết. Nếu quả nhiên
cái định hướng của họ thật đem lại thắng
lợi cho nước nhà, cho chủng tộc thì Bần Đạo
tưởng không nói rõ ra cả thảy đồng bào đều
biết, cũng như kẻ tôi đòi đổi chủ mà thôi
chơ không chi khác. Ngó ngọn cờ độc lập mà cũng
lệ thuộc vẫn như xưa, thì làm thế nào mà tạo
hành phúc cho tổ quốc nòi giống đặng. Hại nổi,
khi về nước, bên nầy giành giựt cả quần chúng,
thì bên kia cũng giành giựt cả quần chúng, bên
nầy Việt Minh bên kia Pháp, khối Quốc gia ở giữa
hai tình thế rất nguy hiểm và hai lằn tên mũi
đạn.
Thưa cùng cả thảy
Đồng Bào, thử như thế đồng bào mới chỉ con
đường nào cho Bần Đạo đi mà chớ. Có một con
đường duy nhứt là con đường sẳn có của chúng
ta mà Tổ Phụ ta đã để lại. Con đường đã
có trên 4.000 năm lập Quốc và 4.000 năm Văn Hiến
là con đường duy nhứt Bần Đạo phải đi. mà
con đường ấy, ôi ! Không biết bao nhiêu đau đớn.
Đã hy sinh cái khối xương máu của Chiến Sĩ Cao
Đài, làm thành, làm luỷ đạng bảo vệ sống còn
của nòi giống dưới ngọn cờ Bảo Sanh Nhơn Nghĩa
Đại Đồng. Nếu toàn thể đồng bào hiểu cái
thâm ý của nó sẽ ứa luỵ cùng Bần Đạo mà
chớ.
Có một phen mà
Bần Đạo đã tuyên bố "Quân Đội Cao Đài
xuất hiện ra đặng làm tấm bình phong chịu chết
cho giống nòi khỏi chết, bảo vệ cho giống nòi
còn sống, bảo thủ cái Nhơn Nghĩa của Tổ Phụ
để lại". Có nhiều khi Bần Đạo cũng lấy
làm đâu đớn lắm vây, nhưng nghĩ đến cái sứ
mạng Thiêng Liêng cao cả ấy, có chút an ủi mảy
may trong tâm não.
Các con Chiến Sĩ
Cao Đài, từ Thượng Hạ Sĩ Quan dĩ chí đến Binh
Sĩ một phen nữa Thầy xô các con ra hy sinh cứu
Nòi Giống và Tổ Quốc các con, tương lai vận mạng
nhứt định thế nào các con vẫn tiếp tục tranh
đấu cho kỳ đặng thâu Độc Lập cho Nòi Giống
và Tổ Quốc các con.
Đêm 29 tháng 1
năm Quí Tỵ (1953)
39.-
ĐỨC HỘ-PHÁP THUYẾT GIẢNG VỀ
THỂ-PHÁP CỦA ĐẠO
Mấy kỳ đàn rồi
bị lập thệ cho Quân Đội thành thử không thuyết
Đạo được, có lẻ cả thảy hôm nay muốn nghe
lắm, Bần Đạo có bịnh mệt một chút nên tiếng
nói có hơi ồ ề, thuyết Đạo cả con cái Đức
Chí Tôn nên để tai nghe.
Hôm nay tình trạng
biến thiên các Thanh Niên của Đạo đã bị trào
lưu loạn lạc lôi cuốn tâm đức của họ điên
đảo Bần Đạo có thể nói tinh thần của họ
hoang mang mà chớ, nên bửa nay Bần Đạo thuyết
về Thể Pháp của Đạo nghĩa là : Khuôn luật của
Đạo Cao Đài chúng ta đó vậy, Bần Đạo đã thuyết
minh về Thế Đạo của Đạo Cao Đài là Nho Tông
Chuyển Thế, mà Nho Tông tức nhiên Đạo của Tổ
Phụ của chúng ta từ ngàn xưa để lại.
Ấy vậy những
yếu lý của Nho Tông mới có thể làm mực thước
mà định chuẩn thẳng trong khuôn khổ cái sống
đương nhiên của mình đặng, chúng ta đã ngó thấy
Nho Tông của chúng ta là một nền Tôn Giáo Xã Hội,
cái đặc điểm của nó là Đức Chí Tôn đến
lập trường Nho Tông trị thế.
Ấy vậy tinh ba
của Nho Tông là gì ? Phải chăng cái chiến thuật
của nó là "Tu thân tề gia trị quốc bình thiên
hạ" tức nhiên cái tôn chỉ cao thượng của
Đức Mạnh Tử là "Đại học chi Đạo, tại
minh minh đức, tại Tân Dân, tại chỉ ư chí thiện".
Bây giờ xin cả
toàn thể con cái của Đức Chí Tôn từ từ nghe
Bần Đạo thuyết chữ "Tu thân" trước
: Từ Thượng Cổ tới giờ Đức Thánh Nhơn lấy
hai chữ tu thân làm căn bản, hai chữ tu thân đã
có từ lâu, nếu chúng ta xem Lịch Sử của Nho Tông
thấy nó đã xuất hiện từ Đức Huỳnh Đế có
trên không biết mấy ngàn năm, trước Chúa Giáng
Sanh.
Ấy vậy nó là
tối cổ, cái phương pháp tu thân dầu thời đại
nào cũng có, cái chí hướng của các tôn giáo là
phải tu thân lấy mình dầu cá nhân, dầu xã hội
hay toàn thể nhơn loại cũng vậy, cái tâm đức
của con người bao giờ cũng có mẫu thuẩn hể
họ nghe thấy điều nào hay, điều nào thiện đặng
họ biết nhìn một cách chơn thật, nhưng mà họ
không có làm còn biết chê cái dở cái ác mà họ
lại làm, hai cái đó nghịch cảnh với cái tâm,
không có một vị thánh nào ở thế gian nầy tìm
nguyên lý nó cho đặng.
Bởi vậy cái tấm
lý cuả con người họ hay xu ác mà xa thiện, vì
cớ cho nên các vị giáo chủ lập nền tôn giáo
dạy phải làm thế nào gọi là tu thân, dầu cá
nhân hai toàn thể nhơn loại cũng phải lấy hai
chữ tu thân làm gốc, Bần Đạo đã nói, nó khởi
đường lập tức là tại minh minh đức.
Hại thay ! Nơi
thế gian họ đã hiểu như thế mà họ không kể
đức, họ không lập đức, hỏi vậy thành Đạo
làm sao được ? Cái đức ấy thiên hạ chỉ ngó
mịt mịt mờ mờ, nhưng họ đâu có biết rằng
nó vô hình, vô ảnh mà quyền năng của nó không
ai đảm đương được, đã tạo lập cái đức
ấy phải trọn tâm, làm một mới có thể thiên
hạ kính trọng, nhờ tâm đức ấy chúng ta mới
có thể coi cả huyền vi của họ được, họ tạo
đức ra là chỉ đặt cái sở hành đê hèn mà thôi,
họ muốn thế cho nên họ chỉ kiếm cái người
không biết lập đức mà họ làm màu cho ra vẽ
người có đức, bởi không có đức thì không hề
lập bên thân danh đặng.
Bây giờ chúng
ta đã ngó thấy từ Thượng Cổ đến giờ dầu
cho từ hàng lê thứ dĩ chí đến bực Đế Vương
muốn lập vị mình cũng phải nương theo cái đức
ấy, nếu chúng ta thấy họ còn dùng cái đức ấy
ở chỗ hèn hạ bao nhiêu thì không bao giờ giữ
cái đức ấy còn tồn tại đặng, rồi đến cái
ngày bỏ đức của họ, trở lại dùng bao bạo
tàn như Sở Bá Vương, như Tần Thủy Hoàng thì
dầu cơ nghiệp họ có bền chắc bao nhiêu cũng
phải xiêu đổ.
Còn kẻ không màng
thân danh Bần Đạo chỉ cái bằng cớ hiển nhiên
như Hứa Do là một vị Hiền Tài mà thôi, chỉ
có biết đức mà Vua Nghiêu đi tìm Ngài để rước
về đặng truyền ngôi cho Ngài, nhưng Ngài chỉ
coi công danh như phù hoa, như mây gió, nên Ngài có
kể gì đâu. Cái giá trị của Vua Nghiêu đối với
Hứa Do không có gì hết, mới có câu :
"Tiêu liêu sào lâm bất quá nhứt chi,
yến thử âm hà bất quá mãn phúc" Nghĩa
là con chim tiêu liêu làm ổ trên rừng chẳng qua
một nhánh, con chuột uống nước sông chẳng qua
đầy bụng, vì thần đã quen cái thú an nhàn của
thần rồi, dầu bệ hạ có truyền ngôi cho thần
đi nữa thần cũng không làm, thần chỉ biết lập
đức thôi, dầu cho cả công danh phú quí ở mặt
thế gian này đối với cái đức không có giá trị
gì hết.
Bởi cái thuyết
lập đức người ta đã ham làm mà làm không được,
nên cái giá trị của Hứa Do đối với Đức Nhan
Hồi cũng tương đương với nhau, khi Đức Nhan Hồi
đai cơm bầu nước đi Giáo Đạo đến nước Tề.
Tề vương biểu ở lại thì bực công khanh của
Ngài không mất, nhưng Ngài trả lời rằng : Thần
đã quen cái thú an nhàn của thần rồi. Thú an nhàn
không có thể gì mà đem đổi cái giá trị công
danh quyền tước đặng, nếu bệ hạ muốn đổi
cái giá trị lập đức nó trọng hệ là thể nào
?.
Hại thay ! Ở giữa
thế gian này không biết mấy vị Hiền Nhân Chí
Sĩ đã hiểu được cái giá trị lập đức chưa
đến, nên mới ra sự tôi mọi hạ tiêïn, làm hư
danh thể của mình, nếu để cái giá trị ấy lại
thì không đáng giá gì hết mà phải hạ mình làm
chi ? Hai ngôi vị ấy chọi với nhau như một trời
một vực.
Ở nơi cửa Đạo,
Bần Đạo đã đem con cái Đức Chí Tôn và Thanh
Niên của Đạo đặng làm Thánh thể tương lai của
Ngài, nếu cả thảy đều biết nổi khổ để làm
phương tu thân lập đức thì cái giá trị của
thiên hạ làm dễ như ăn ớt chớ không có chi khó.
Vậy toàn thể
con cái Đức Chí Tôn và Thánh Thể của Ngài, phải
đem cái Đức Thiêng Liêng ấy rải khắp cả thiên
hạ thì chúng ta mới có thể cứu khổ được.
Tại Đền Thánh,
đêm 30 tháng 2 năm Quí Tỵ (1953)
(Vía Đức Cao Thượng
Phẩm)
41.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ ĐẠI-NGHIỆP
THIÊNG-LIÊNG
ĐỨC CHÍ-TÔN ĐEM ĐẾN TẠO DỰNG NƠI MẶT THẾ
Từ hôm Bần Đạo
bịnh tới nay không có giảng Đạo đặng,
vậy đêm nay dâng sớ cầu nguyện cho Đức
Cao Thượng Phẩm đặng cho thăng Thiêng Liêng chi
vị. Bần Đạo mong chí thượng đạt của Ngài
cũng như lúc sanh tiền đã đối với Bần Đạo
và toàn thể con cái Đức Chí Tôn.
Bần Đạo đêm
nay lấy cái đề trọng yếu mà giảng.
Hôm nay cái đề
trọng yếu này là cả sự nghiệp Thiêng Liêng Đức
Chí Tôn đem đến tạo dựng nơi mặt thế này.
Và hiện giờ có 3 sắc dân được hưởng hồng
ân đặc biệt của Đức Chí Tôn đến tạo nghiệp
cho họ.
Sắc
dân thứ nhứt : Là Sắc Dân Ấn Độ Brahmane (kêu là Bà La
Môn) Đức Chí Tôn đến tạo Đạo cho họ và tạo
Đại Nghiệp Thiêng Liêng cho Sắc Dân ấy trước
nhứt.
Sắc
dân thứ nhì : Chính Ngài đến là Chúa Jésus Christ đặng
tạo nghiệp cho Sắc Dân Do Thái mà ngày nay vẫn
còn tồn tại.
Sắc
dân thứ ba : Thời kỳ Sắc Dân Việt Nam hưởng được
đặc ân ấy lần thứ ba, cái lý do Đức Chí Tôn
đến cùng con cái của Ngài là vì trong thời kỳ
Hạ Nguơn Tam Chuyển, đang bắt đầu Thượng Nguơn
Tứ Chuyển, Ngài đến đặng Ngài thống hợp toàn
thể con cái của Ngài lại làm một. Ngài đến
đặng lập một nền Chơn Giáo, lựa chọn con cái
của Ngài, tạo Thánh Thể của Ngài làm một Cơ
Quan Cứu Khổ và tạo đại nghiệp cho con cái của
Ngài là mấy em Thanh Niên Nam, Nữ của Đạo đó
vậy. Nhứt là bên Phái Nữ phải chịu thiệt thòi,
phải chịu nghèo khổ hơn hết và có lúc lại bần
hàn hơn nữa, mà đến nay dường như thời gian
nó gợi lại trong tâm não mấy em. Nhưng nghèo hèn
rồi cũng có sướng là lúc này mấy em sắp hưởng
một Đại Nghiệp mà Đức Chí Tôn đã dành sẵn
cho mấy em. Cái đại nghiệp ấy của mấy em, mấy
em phải rán giữ gìn, nếu muốn gìn giữ cái đại
nghiệp ấy cho tồn tại thì mấy em phải thương
yêu nhau, nâng đở cho nhau dìu dắt nhau, chịu khổ
với nhau thì mới là bền bỉ được.
Giờ phút này Qua
đứng trên Tòa Giảng này Qua nói : Cái tương lai
của con cái Đức Chí Tôn nó sẽ giàu có không
thể tả được, từ năm 1926 cho tới ngày nay mới
có hai mươi mấy năm thôi, mấy em ngó thấy cái
Đại Nghiệp Vĩ Đại như thế này là do nơi đâu
không ? Phải chăng là do nơi Huyền Diệu Vô Biên
của Đức Chí Tôn đã ban cho mới tạo dựng được
như thế này và Ngài trụ cả con cái của Ngài
làm Thánh Thể mà lập nên đó thôi. Nhưng có một
điều rất ngộ nghĩnh là đứa ngu sẽ được không
ngoan, đứa giỏi lại giỏi hơn, có tài hoạt bát
trọn tâm lo Đạo. Vì cớ cho nên Ngài mới đem
cái đại nghiệp mà giao cho con cái của Ngài đặng
đem cả năng lực Thiêng Liêng thắng sự khổ não
đặng làm cơ quan cứu khổ, nên Đức Cao Thượng
Phẩm và Đức Quyền Giáo Tông vì lẽ ấy mới
hy sinh cho Đạo. Chính Bần Đạo đây cũng vậy
nếu mấy em biết trọng dụng Chơn Lý nền Chơn
Giáo của Đức Chí Tôn thì mấy em phải nuôi-nấng
cứu khổ, dung dưỡng các em của mấy em, thì ít
nữa mấy em phải có đủ phương thế bảo vệ
sanh mạng của nó mơi được. Qua nói như vậy có
lẻ mấy em cũng đủ hiểu, cái làm ăn, cái làm
giàu, chưa hề tạo được cái đại nghiệp như thế này và không
thể gì bảo trọng cả sanh mạng con cái của Ngài
đặng. Nếu muốn bảo trọng các em của mấy em
thì đừng dùng quyền hành sửa trị, phải dùng
Đạo Đức răng họ, thì mới mong thực hiện một
nền Chơn Giáo Đại Đồng, vì Đức Chí Tôn đến
lập Hội Thánh là cốt yếu Ngài định vận mạng
cho nước nhà đó vậy.
Qua nói thiệt :
nếu không phải Thánh Thể của Đức Chí Tôn cậy
mượn thì chưa hề ai làm được điều ấy. Bần
Đạo chỉ nói đến tương lai của mấy em mà thôi.
Khi mấy em đã hưởng được quyền năng Thiêng
Liêng của Đức Chí Tôn rồi, thì Qua cậy mấy
em hy sinh cái tự do của mấy em đặng làm cái đại
nghiệp cho nó thật nên hình nên tướng, vì đại
nghiệp này không biết bao nhiêu giọt mồ hôi của
mấy em đó.
Khi Qua bị đồ
lưu nơi Hải Ngoại đến lúc về cả cơ nghiệp
làm trước kia đều bị tiêu phá hết, duy còn Tòa
Thánh, Báo Ân Từ, Khách Đình cũ, Hộ Pháp Đường,
Giáo Tông Đường còn sót lại, còn bao nhiêu đều
hủy hết.
Từ năm 1946-1947
vừa bắt đầu tạo dựng đại nghiệp ấy lại
nên mấy em bắt tay làm lại, cả các con Nam cũngvậy,
Nữ cũng vậy biết bao nhiêu sự khổ não, biết
bao nhiêu sự hy-sinh mà tạo dựng có mấy năm thôi,
nay đã nên hình tượng, cái của này là của mấy
em nghèo khổ đã tận tâm tạo dựng, nếu mấy
em cực khổ bao nhiêu thì cơ nghiệp Thiêng Liêng
của mấy em càng ngày càng lớn, mấy em càng ngày
càng giàu, cái giàu của mấy em không phải giàu
như các nền Tôn Giáo nơi mặt Địa Cầu này. Cái
giàu của mấy em cốt yếu bảo vệ sanh mạng khổ
não cho đàn em của mấy em, không ai có quyền năng
gì làm chủ đại nghiệp Thiêng Liêng này đặng,
mấy em hiểu chưa ?.
Ngộ nghĩnh thay
! Một nền Tôn Giáo lấy hai chữ Bác Ái Công Bình
làm căn bản mà cái tương lai nó rực rở làm sao
mấy em ôi ! Còn quyền Thiêng Liêng của Đạo mấy
em đã biết nó cũng như các nền Tôn Giáo khác,
chớ có lạ gì đâu. Trái ngược lụng lại nếu
Thánh Thể Chí Tôn cầm quyền mà còn ỷ lại thì
thiên hạ trông vào họ tránh hết. Qua nói thiệt,
nếu mấy em thật hành đúng theo Chơn Giáo của
Chí Tôn thì không có quyền lực nào đàn áp nó
đặng.
Nếu muốn thi ân
bố đức, thì phải cần làm cho đáng giá Thánh
Thể của Ngài là công các con, cái khổ não của
Ngài đem vào chia cơm, chia muối, chia khổ não của
họ, thì mới là xứng đáng Thánh Thể, mới xứng
đáng là cơ quan cứu khổ của Ngài.
Mấy em khá nhớ
mấy em là người phụng sự cho Đạo mà thôi, không
phải như các nền tôn giáo khác là muốn làm chúa
thiên hạ, nếu muốn làm chúa thiên hạ thì tốt
hơn là làm tôi cho con cái Đức Chí Tôn là phải
hơn.
mùng 1 tháng 3 năm Quí Tỵ (1953)
(Vía Đức Cao Thượng
Phẩm)
42.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ SỰ
THÔÙNG-KHỔ CỦA ĐỨC CAO THƯỢNG-PHẨM
Thưa cùng Chư Chức
Sắc Thiên Phong
Hội Thánh Hiệp
Thiên Đài, Cửu Trung Đài,
Các Cơ Quan Chánh
Trị Đạo, Phước Thiện và Quân Đội
Cùng toàn thể
con cái Chí Tôn Nam, Nữ.
Hôm nay là một
ngày Kỷ Niệm Vía của Đức Cao Thượng Phẩm mỗi
năm Bần Đạo đã nói, đã thuyết, đã tỏ tâm
tình của Bần Đạo đối với ngày này rồi, nếu
lập lại một phen nữa cũng không ích. Vậy yếu
điểm hôm nay Bần Đạo lên đứng đây chỉ nhắc
Đức Cao Thượng Phẩm một điều mà thôi, lúc
Ngài mới qui liễu, Ngài cũng vậy mà Đức Quyền
Giáo Tông cũng vậy. Hồi Đạo mới phôi thai thiên
hạ khinh khi chế nhạo hết sức, nên Bần Đạo
nói rằng: Họ
đã dùng cường quyền họ làm cho hai người ấy
phải chịu thống khổ một cách không thể tả.
Đôi phen mỗi ngày
vía như vậy, nó khêu gợi một cảm tình của toàn
thể con cái Đức Chí Tôn và Bần Đạo, nhưng Bần
Đạo đè nén nó lại.
Đã hai mươi mấy
năm Bần Đạo còn nhớ cái ngày Di Liên Đài của
Đức Cao Thượng Phẩm ra Tháp, Bần Đạo còn hứa
với Ngài một điều rất trọng hệ, Bần Đạo
nói sẽ báo thù cho Ngài ắt tưởng lại cả thiên
hạ cho rằng cái tình thế thường tình kia như
gươm, đao, mưu kế tàn ác cái gì không làm được.
Trái lại Bần Đạo lấy cả tinh thần 2 khối của
hai Ngài, đặng Bần Đạo tạo ra một khối thương
yêu vô đối để làm chuẩn thằng tâm lý cho Quốc
Dân Việt Nam, và làm một khối năng lực tranh đấu,
cái khối ấy đã thành ra bửu bối đặng Bần
Đạo trả thù, mà hôm nay đã giải đặng ách nô
lệ cho dân tộc nữa. Những lúc đó Môn Đệ của
Đức Chí Tôn tức nhiên các bạn của chúng ta có
một thiểu số, trong thiểu số ấy tánh tình họ
hèn tiện, biểu sao thiên hạ không khi rẽ.
Nói về võ thì
năng lực không có một miếng sắt trong tay, còn
về văn thì chưa có cầm được cả vận mạng
tương lai nòi giống của tổ quốc mưu sỉ chưa
có ai đảm nhiệm và quyết định cái hưng vong
của tổ quốc, biểu sao thiên hạ không chia rẽ.
Bần Đạo dám
quả quyết và đại ngôn nói rằng : Bần Đạo
sẽ trả thù vì hôm nay ngó thấy Bần Đạo không
phải yếu ớt, bạc nhược, cô quả, hèn tiện
như buổi nọ đâu.
Mỗi năm không có cái gì làm cho thiên hạ
ngó thấy cái năng lực tinh thần, thức nhiên năng
lực quốc hồn của nòi giống. Bần Đạo dám quả
quyết rằng : những điều Bần Đạo làm không
đặng, con cháu của Bần Đạo sẽ làm, Môn Đệ
của Bần Đạo sẽ làm, hôm nay hiện tượng ra
quả quyết, lời đóng trước của Bần Đạo nó
đã thiệt hiện, nó đã thành hình, còn gì vui sướng
hơn, còn gì hạnh phúc hơn.
Nếu Đức Cao Thượng
Phẩm giờ phút này Chơn Linh của Ngài còn ngự
nơi đây. Bần Đạo sẽ nói chưa ngó thấy một
lời nói nào của Bần Đạo đoán trước trật
một điều gì.
Phải chăng lời
Tiên tri ấy rất hiệu quả, vì tinh thần của Bần
Đạo đoán thế nào nó cũng thế ấy. Rồi một
ngày kia về nơi cõi Thiêng Liêng vừa gặp mặt
nhau thì sẽ có một trận cười của Ngài cùng
Bần Đạo. Trận cười ấy chắc chắn ở thế
gian này chưa có ai hưởng được.
Đêm mùng 1 tháng
4 năm Quí Tỵ (1953)
43.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ VỀ
VẤN-ĐỀ TỊNH-THẤT
Bần Đạo mới
về hội đàm với Đức Cao Thượng Phẩm bàn luận
cùng nhau về vấn đề Tịnh Thất, nhưng Ngài không
nói rõ, đại ý nói: Chờ ngày Lễ Vía Đức Phật
Mẫu tức nhiên Lễ Trung Thu tới đây Đức Phật
Mẫu sẽ giáng đặng dạy bảo cái thắc mắc cho
Bần Đạo về việc lập Tịnh Thất cho Phái Nữ
mới xong là "Trí Huệ Cung" còn "Vạn
Pháp Cung" là Tịnh Thất của Phái Nam chưa làm
đặng, vì làm ở trên núi, mà trên núi buổi nầy
không thể nào tạo đặng, theo ý Ngài đã định
và Ngài nói: Hiện giờ đã có tạo xong "Trí
Giác Cung" rồi có thể mượn "Trí Giác
Cung" để
cho Phái Nữ tới đó cho Đức Phật Mẫu đến đặng
giảng dạy và luận về vấn đề Tịnh Thất.
Hôm
nay Bần Đạo thuyết minh cái Bí Pháp, tức nhiên
cái Bí Pháp Tịnh Luyện và khuôn luật tấn hóa
Tạo Đoan của con cái Chí Tôn, đối với cơ huyền
bí ấy Đức Chí Tôn đã đem đến cho chúng ta đặng
cho chúng ta đoạt cơ tấn hóa. Nhưng luật tấn
hoá ấy Bần Đạo đã có thuyết minh rồi, thì
các con cái Chí Tôn có thể hiểu từ trong vạn
vật cho đến phẩm vị loài người là các chơn
linh phải tiến tới mãi tức nhiên luật tấn hóa
ấy nó buộc các linh hồn là từ vật chất đi
cho đến địa vị loài người.
Chúng
ta đã ngó thấy cái luật ấy mặc dầu có trong
tay vạn vật nhưng chúng ta có thể lấy cái thuyết
kim thạch kia là từ đá sỏi có thể nó đi đến
một viên ngọc vô giá, chúng ta ngó thấy cái phẩm
vị của nó trong vật chất từ từ tấn hoá là
trọng yếu dường nào.
Bây
giời nói đến kim thứ vô giá kia nó sẽ đi đến
bạch kim, cái giá trị đổi đặng cùng không là
đều do nơi luật tấn hoá cả.
Giờ
đây nói đến thảo mộc là cây, cỏ, mà cỏ lan
nó khác hơn cỏ chạ, như cây dầu khác hơn cây
vên vên, mà cây vên vên không thể gì so sánh với
cây tùng được.
Nói
tới con người trong hạng tiểu nhơn chưa hề khi
nào đương đầu kịp với bậc trượng phu được.
Cái tinh thần của kẻ tiểu nhơn không bằng tinh
thần của một vị siêu thoát. Nếu luận đến
trong tứ hồn kia thì một vị Thần chưa có thể
gì so với một Vị Phật được. Chúng ta đã ngó
thấy cái luật tấn hóa nó đứng trước cái khuôn
khổ ấy là nó từ từ nhi tiến mà thôi, không
có phương nào làm cho nó đứng lại một chỗ được.
Nói
đến kiếp sanh của ta, ta chớ lầm cái chết là
một cái lớp, cái chết ấy là chúng ta bước lên
con đường tiến triển đó vậy. Nếu một kiếp
sống mà chưa trọn thì sẽ thấy và biết lý do
cái chết của anh ta như thế nào ? Cái sống ấy
không khác nào một anh trò đứng giữa lớp kia
để cho thiên hạ khảo dượt, cũng như cái xác
thân chúng ta hiện giờ đang bị khảo dượt trong
khuôn khổ, đến chết mới biết chúng ta đậu
hay rớt, có đậu hay rớt là trong buổi này.
Ấy
vậy luật tấn hoá không có một linh hồn nào,
không một chơn linh nào mà qua khỏi trong cơ quan
huyền bí.
Bây
giờ nói đến Cơ Huyền Bí của Chí Tôn, Ngài đã
đem đến trong buổi Khai Nguơn Chuyển Thế này,
Ngài để hiệu là "Tam Kỳ Phổ độ". Chúng
ta biết Ngài đến đặng Đại Ân Xá cho con cái
của Ngài, Bần Đạo nói : Nếu như Ngài không có
lãnh trọn quyền hành nơi Bạch Ngọc Kinh là Đức
Chí Tôn tức nhiên Đại Từ Phụ, Ngài không nắm
trọn quyền ân xá cho con cái của Ngài được.
Vì
cớ cho nên Kinh Phật có nói : "Bá thiên vạn
kiếp nan tao ngộ" chúng ta mới ngộ Đạo mà
gặp Đức Chí Tôn đem hồng ân Thiêng Liêng của
Ngài Đại Ân Xá cho toàn con cái của Ngài. Chúng
ta được hưởng hồng ân ấy chúng ta không thế
nào luận cho cùng tột được. Cái huyền bí siêu
thoát của Đức Chí Tôn là Ngài đến đặng lập
Đạo độ tận con cái của Ngài với khối quyền
năng vô đối, cái quyền năng vô biên của Ngài
làm cho con cái của Ngài không một người nào không
có Đạo, Ngài làm cho con cái của Ngài nghe và thấy
nếu con cái của Ngài nương theo phương pháp ấy
thì chính Ngài phải làm sao ? Vì đó Ngài mới nói
mà thôi. Nếu con cái của Ngài biết cái bí ẩn
đó đối với cơ quan huyền bí siêu thoát thế
nào thì sẽ đặng chơn tánh của chúng ta, Bần
Đạo dám chắc không có một chơn linh nào, hay một
vị Phật nào làm đặng.
Nói
về mặt luận tiến triển của các chơn linh, các
đẳng chơn hồn khác, nó đạo được kiếp siêu
thoát lại khác, tức nhiên chúng ta muốn đoạt
cơ siêu thoát đặng làm một vị Phật, nhưng không
dễ gì ta đoạt được cơ siêu thoát huyền bí
ấy, phải hiểu điều ấy cho lắm.
Bởi
cớ cho nên Bần Đạo thuyết minh cái Bí Pháp tịnh
luyện là cốt yếu làm phương pháp mở huệ khiếu
cho chúng ta, thật ra Đức Phật Tổ chỉ đoạt
được có một kiếp siêu thoát của Ngài mà thôi,
mấy người đã đoạt được vị Phật đều là
ở trong cái huyền bí tịnh luyện để làm cho chúng
ta sống đời, sống lụng lại ba kiếp trước,
rồi nhờ kiếp trước ta có thể biết Luật Nhơn
Quả của ta, rồi nhờ kiếp này có thể đem tương
lai cho ta đoạt Phật vị ba kiếp trước mới được.
Đoạt Bí Pháp ấy chúng ta mới có thể biết ta
là ai, ta biết đường lối chúng ta đi thế nào,
ta có thể nói ta đoạt đặng cơ siêu thoát chớ
không phải làm cơ siêu thoát đặng. Đoạt cơ siêu
thoát là một bằng cớ mở khiếu thông minh cho
chúng ta đó vậy.
Chúng
ta đã ngó thấy biết bao nhiêu vị Đại Tiên còn
lẫn lộn dưới hồng trần, biết bao nhiêu vị
Phật còn mang thân phàm xác tục của họ trước
khi đoạt đặng huyền bí vô biên trong chốn tịnh
luyện của họ, rồi bây giờ họ dùng khiếu thông
minh ấy họ tìm nào nguyên tử lực, nào phép thăng
thiên, rốt cuộc họ qua đời mà họ không đoạt
được cơ siêu thoát của Chí Tôn đem đến cho
họ, tội nghiệp thay ! Nếu quả nhiên cái huyền
bí của cơ tịnh luyện đó tức nhiên bí pháp ấy
giúp họ siêu thoát đặng thì tội nghiệp cho Đạo
Lão Tử ra đời chỉ độ có 2 ức nguyên nhân mà
thôi, Đức Phật Tổ cũng giáng sanh vì lẽ ấy
mà chỉ độ có 6 ức, còn 92 ức hiện nay họ còn
ngồi yên tịnh tạo thêm những món độc ác giết
người. Hỏi trước kia họ đã làm gì ? Mà cho
họ đoạt được cơ siêu thoát ấy?
Nếu họ đoạt đặng thì tội nghiệp cho
Đức Chí Tôn phải chịu khó nhọc nhục nhã trong
buổi Hạ Nguơn này, Ngài đến cũng vì con cái của
Ngài, cũng vì quả kiếp của họ nên Ngài mới
đến chỉ đường cho họ đoạt được cơ siêu
thoát, chớ đừng tưởng nói Tu cho chính là phải
để râu ria xồm xàm mà đạo đức huyền bí thì
không có, họ cứ muốn thành Tiên hóa Phật nhưng
họ không biết cơ siêu thoát là gì ? Để đến
một ngày kia vào Tịnh Thất rồi Bần Đạo sẽ
cho họ ngó thấy cái sự thật của cơ siêu thoát.
Ngày
mùng 8 tháng 4 năm Quí Tỵ (1953)
(Lễ
kỷ niệm bà Nữ Đầu sư Lâm Hương Thanh).
44.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG
VỀ CÔNG-NGHIỆP CỦA BÀ NỮ ĐẦU-SƯ LÂM-HƯƠNG-THANH
Mấy
Em Nam, Nữ Lưỡng Phái,
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Lưỡng Phái,
Đại
Diện các Cơ Quan Chánh Trị Đạo.
Hôm
nay, ngày Vía của Ba Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh,
tức nhiên là Chị Cả của Nữ Phái đó vậy.
Bần
Đạo hồi tưởng lại lúc ban sơ, mới Khai Đạo
năm Bình Dần cho đến ngày hôm nay, tuy thời gian
hai mươi mấy năm, xem lại nó ngắn ngủi chẳng
khác nào một giấc chiêm bao kia vậy. Một người
Chị hồi đó đã chịu cả khó nhọc cùng toàn
thể Thánh Thể Đức Chí Tôn tạo cho nên nghiệp
Đạo, ngày giờ qui liễu của Chị, Chị chưa ngó
thấy cái tướng diện Cơ Nghiệp của Đạo sẽ
thành hình như thế nào. Bần Đạo tưởng, nếu
giờ phút chót của Chị, Chị còn có một điều
ân hận, khi xuất hồn ra khỏi xác, có thể Chị
để dấu hỏi ? Chẳng biết tương lai của Đạo
nó sẽ ra thế nào ? Chẳng biết mấy em của Tôi
có đủ cương quyết, đủ nghị lực, đủ Tài
Đức đặng tạo cho thành tướng hay chăng ? Đó
là một điều Chị lo ngại hơn hết. Bần Đạo
nhớ lại lời của Đức Chí Tôn đã có nói trước
rằng : "Nếu Đạo không thành thì chính mình
Thầy sẽ đến". Tôi tưởng chẳng phải một
mình Chị mà thôi, mà cả mấy Anh đã qua đời,
dĩ vãng rồi, giờ chót họ một điều ái ngại
trọng hệ hơn hết là đây.
Thưa
cùng mấy Chị toàn thể Nữ Phái, mấy Em Thánh
Thể Đức Chí Tôn Nam Phái, chúng ta nên tưởng
tượng điều này. Chúng ta sẽ biết chúng ta thật
là hạnh phúc, hạnh phúc đặc biệt ấy Đức Chí
Tôn đã ban cho ta, vì thấy chúng ta đã chịu cả
sự nhọc nhằn khổ cực, khổ hạnh nhiều điều,
nên ngày nay Ngài cho chúng ta được thoả mãn, chúng
ta đã thấy Cơ Quan Cứu Khổ của Đạo đã thành
tướng, nên Chơn Truyền của Đạo đã để khắp
nơi mặt Địa Cầu này. Vui hứng cho chúng ta hơn
hết là trong Thánh Thể Chí Tôn chưa có một người
nào bước ra khỏi nước Việt Nam đặng Truyền
Giáo mà cả Vạn Quốc đều hưởng ứng, đều
ngưỡng mộ. Nếu chúng ta đã tưởng tới điều
đó chúng ta thấy rằng : Thánh Thể Đức Chí Tôn
chưa hề làm được, duy có quyền năng vô đối
của Đức Chí Tôn mới có thể làm được mà thôi.
Ấy
vậy, nếu ta xét công nghiệp thì ta đặng lời,
chớ không phải chịu lỗ, làm ít hưởng nhiều,
chúng ta phải nhìn điều đó là sự thật.
Hại
thay ! Chỉ có một điều đáng buồn là cơ nghiệp
của Chị giàu có vinh hiển, sung sướng hơn ai hết,
cái nghiệp của Chị để lại theo tánh chất thường
tình của chúng ta tưởng nó sẽ được vĩnh cửu.
Đau đớn cho Bần Đạo hơn hết là hôm nay Bần
Đạo thấy cái cơ nghiệp ấy đã tiêu tan không
còn tồn tại, hể nghĩ tới điều đó thì Bần
Đạo có một điều ân hận lớn hơn hết là buổi
làm Đền Thánh trong cơn túng thiếu Bần Đạo đi
đến Chị đặng hỏi mượn tiền, hồi đó
toàn cầu bị khẩn bách tiền tài. Trọng
hệ hơn hết là nền móng đã làm đặng nhưng không
có tiền để xây dựng lên, Bần Đạo phải chạy
xuống nhà Chị đặng mượn tiền, gặp Chị trong
buổi mắc nợ nần, lúa gạo mất giá, một giạ
lúa có 2 cắc ($0.20) lúa chất đầy kho dầu có
bán cũng không bao nhiêu tiền, cái nghèo của Chị
nghèo chướng hơn ai hết, nghèo lạ lùng không ai
tưởng tượng được, Chị không tiền, chị mới
đem ra cái rương sắt (5 tấc tây) chứa đầy vàng
với hột xoàn đem ra nói trong buổi khó khăn này
không thể nào kiếm tiền đặng, vậy Em đem đồ
này về Sài Gòn cầm
không dưới tám chín chục ngàn đồng.
Bần
Đạo chỉ mượn được rồi trả làm sao chớ,
lấy đem về được nhưng đến khi trả lấy ai
? Ngán quá chừng quá đổi. Bần Đạo nói : Thôi
Chị ôi ! Đồ này đã lưu truyền 3 đời rồi,
hôm nay Chị đưa Tôi đem về cầm, nếu không chuộc
được mới tính sao ? Chị lại quả quyết nói
: Qua không nghèo hoài đâu Em, Em nên nghe lời Qua
đem về cầm đi, rồi Qua sẽ kiếm phương chuộc
lại, Bần Đạo nhứt định không mà thôi, rồi
đi về với hai bàn tay trắng mà lập nên Đền
Thánh.
Nếu
buổi đó, lấy của ấy làm Đền Thánh, thì hôm
nay giúp cho Chị một công đức biết bao nhiêu lớn,
rối trí rồi tính sợ trả nợ nên không làm được
một công nghiệp vĩ đại.
Thưa
cùng mấy Chị, kiếp sống của chúng ta ở thế
gian này đã đứng trong Thánh Thể của Ngài, mấy
em dong ruổi trên con đường Thiêng Liêng của Đức
Chí Tôn đã sắp sẵn, mấy em đừng sợ nghèo,
đừng sợ khổ, không phải vậy nơi cửa Thiêng
Liêng không phải giàu mà lập nghiệp được, còn
nghèo mà không đâu, nhớ điều ấy chớ đừng
quên. Biết bao nhiêu người mấy em thiếu trước
mắt, tưởng họ công nghiệp vĩ đại có phương
thế hành Đạo một cách oai quyền, hành Đạo với
phương pháp đắc lực tưởng họ hơn mấy
em ở cõi Thiêng Liêng, không phải cân về
mặt cân này, nhớ điều đó. Qua căn dặn một
điều, nhứt hạng là Phái Nữ coi bước đường
trước kia, quan sát lại hồi Chị Cả thế nào,
bây giờ thế nào ? Mấy em coi cái hay, định cái
dở, định phận sự Thiêng Liêng của mình mà hãnh
diện. Rán coi bước đường trước kia làm sao,
sau chúng ta làm vậy.
Tại
Đền Thánh Đêm 15 tháng 4 năm Quí Tỵ (1953)
45.- ĐẠI-NGHIỆP THIÊNG-LIÊNG
CỦA ĐẠO ĐỐI VỚI CON CÁI KHỔ-NẢO CỦA CHÍ-TÔN
Đêm
nay Bần Đạo giảng Đạo hơi lâu một chút, cả
toàn thể con cái Đức Chí Tôn có hơi mệt một
chút, dầu có mỏi cũng đừng phiền vì lâu lâu
mới có một lần giảng Đạo.
Bần
Đạo đêm nay giảng Đạo có chơn truyền bí yếu
trong đó cả con cái Đức Chí Tôn nên để ý cho
lắm, nghe và nhớ những ai đã để tâm tìm Đạo
họ sẽ để một dấu hỏi ? Họ nói lẽ gì ? Cái
lý do gì mà Đức Chí Tôn đến lập Giáo?
Đêm
nay Bần Đạo giảng về cái Đại Nghiệp Thiêng
Liêng của Đạo đối với con cái khổ não của
Ngài, họ đã để dấu hỏi ? Đức Chí Tôn đến
đặng chi ? Đặng làm gì ? Khi mà các vị Giáo Chủ
đã đến lập các nền Tôn Giáo rồi. Thử hỏi
trong cái phương diện của Ngài đến với phương
diện cũ kỷ của các vị Giáo Chủ thế nào ? Để
dấu hỏi chúng ta tìm hiểu.
Phải
chăng Ngài đến đặng Ngài chia khổ não cùng con
cái của Ngài. Phải chăng Ngài đến cùng chúng
ta với sự Từ Bi Bác Ái của Ngài đặng Ngài cứu
khổ cho toàn con cái của Ngài đó vậy. Phải chăng
ngoài ra mục đích ấy thì chúng ta không thể lấy
lý do gì mà giải nghĩa cho hết được.
Ngộ
nghĩnh thay ! Ngài đến lập Giáo mà Ngài không có
giáng trần, Ngài không có xác thịt, trái lại Ngài
chia khổ não cùng con cái của Ngài bằng một cái
quyền năng Thiêng Liêng vô đối đó vậy. Ngài
có đủ phương thế làm một cách ngộ nghĩnh là
Ngài dùng quyền năng Thiêng Liêng kia Ngài đã tạo
thành nền Tôn Giáo Cao Đài hôm nay chẳng phải
là điều dễ.
Bần
Đạo nói rằng : Ngài đến đặng Ngài tạo đại
nghiệp cho chúng ta, thì chúng ta mới có phương
thế quan sát tận tường được. Ngài đến đặng
Ngài trụ cả lương sanh lại. Ngài lấy xác phàm
của họ đặng làm Thánh Thể của Ngài là Hội
Thánh, Thánh Thể của Ngài cốt yếu là thay thế
hình ảnh hữu hình của Ngài, hình ảnh phàm tục
của Ngài, với bằng cớ hiển nhiên trước mắt
là Ngài dùng quyền năng cô đối để chia khổ
cùng con cái của Ngài, sự thật là đó vậy, khéo
léo hay chăng là trong các lương sanh của Ngài thống
hợp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài chỉ cho
họ cái quyền trước hết là quyền làm Thầy để
giáo hóa chúng sanh nếu đáng phận làm thầy ấy
thì mới vào hàng phẩm làm cha, làm anh cả con cái
của Ngài.
Bằng
cớ hiển nhiên là trong Thánh Thể của Ngài từ
Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng
pháp rồi lên tới Giáo Tông mới được quyền
kêu Anh Cả mà thôi.
Ngài
lấy cái quyền anh cả đặng chi ? Có phải quyền
huynh thế ngôn chăng ? Quả nhiên vậy. Tỷ thí như
một ông anh trong con cái của Ngài muốn cho có mực
thước chuẩn thẳng để thay thế Ngài thì Ngài
phải lựa chọn ai trước hết, có lẻ Ngài lựa
người con trưởng nam, tức nhiên người anh cả
có đủ quyền giáo hóa đoàn em đi cho có mực thước
lẻ tự nhiên đó vậy. Làm cha ấy đặng chi ? Phải
chăng làm cha ấy đặng điều đình trong gia đình,
nuôi nấng đoàn em của họ, bằng cớ hiển nhiên
vẫn vậy.
Nếu
ông cha đã chọn người con trưởng nam thay thế
quyền cha để nuôi nấng, dạy dỗ, dìu dắt đoàn
em thì tức nhiên người ấy phải đủ đầy đức
hạnh thì ông cha mới giao trọng trách ấy. Một
điều trọng yếu hơn hết là làm sao cho cả con
cái của Ngài không có chịu nghèo đói, khổ não,
truân chuyên, thúc phược nô lệ của đời như
trước kia thì mới đáng người anh cả đó vậy.
Đức
Chí Tôn đến lập Giáo Ngài có nói : Thầy đến
đặng Thầy chia khổ não cùng con cái của Thầy.
Ngài lập Hội Thánh là cốt yếu làm cho nên hình,
nên tướng cho nó biến ra thành Đại Nghiệp Thiêng
Liêng của Đạo. Hôm nay chúng ta có thể nói rằng
: Cái quyền năng Đại Nghiệp Thiêng Liêng của
Đạo nó sẽ giàu có mà chớ, giàu của cải ấy
để làm gì ? Chúng ta thấy trước mắt các nền
Tôn Giáo từ trước giàu có sang trọng của họ
biết bao nhiêu mà họ đã chia khổ cùng con cái
của Ngài chưa ? Chưa có chia. Nếu có chăng là quyền
Thiêng Liêng của Đức Chí Tôn tức nhiên là Ông
Trời mà thôi.
Phải
chăng cả nhơn sanh thống khổ chừng nào thì họ
cứ ngước mặt lên kêu trời, còn than thì chẳng
biết than với ai, chỉ có than với Trời mà thôi.
Biết bao nhiêu tâm hồn thống khổ đã kêu Ngài
biết mấy lượt, kêu gào cảnh khổ não đường
đời của cái sống khổ biết bao nhiêu.
Ta
thử nghĩ, đoàn anh kia thấy đoàn em khổ não, chịu
đói khát, chịu rách rưới, chịu truân chuyển,
chịu lệ thuộc, chịu đủ thức cái khổ trên
đời về phần xác của họ, trong khi con cái của
Ngài đã lâm vào cảnh khổ não ấy, thì đoàn anh
lại không biết dìu đỡ, nuôi nâng con cái của
Ngài, một mảy may gì hết. Trái lại nó lợi dụng
cái khổ não con cái của Ngài đặng làm sang trọng,
vinh hiển của nó. Khi ông cha nghe đoàn con khổ
não kêu nài đường đó, thử hỏi tâm hồn của
ông cha như thế nào ? Nếu trong gia đình phận sự
ông cha như thế đó, thì có lẻ Đức Chí Tôn cũng
thế ấy và phải hơn nữa.
Bần
Đạo đã giải nghĩa như thế và Bần Đạo nói
quả quyết, cái Đại Nghiệp Thiêng Liêng của Đạo
nếu không bảo vệ được kẻ ăn mày còn đang
vẫn vơ ngoài chợ, họ không được hưởng sự
giàu có của Đạo, thì cả đại nghiệp này là
dối và là đồ bỏ.
Tại Đền Thánh Đêm mùng 1 tháng 5
năm Quí Tỵ (1953)
46.- NGUYÊN-DO CỦA TÁNH-ĐỨC & NGUYÊN-DO CỦA TRÍ-THỨC.
Bần
Đạo thấy dường như con cái Đức Chí Tôn càng
ngày càng lu mờ, đêm nay đi cúng coi lơ thơ có
bấy nhiêu đây thôi. Đáng lẽ hôm nay không giảng
Đạo, nhưng dầu có một người Bần Đạo cũng
vẫn thuyết.
Đêm nay Bần Đạo giảng về nguyên
do của tánh đức và nguyên do của trí thức.
Tánh
đức của con người bao giờ cũng có vẻ thiên
nhiên của nó, chúng ta không cần phải quan sát,
chúng ta thấy hiển hiện nguyên căn tức nhiên nó
do nơi tiền kiếp tâm hồn của ta xuất hiện. Trí
thức nó thuộc về mạng, tức nhiên nó do một
hiện tượng kiếp sanh của chúng ta. Chúng ta đoạt
được địa vị tối cao là do nơi chúng ta chịu
khổ Tu Hành. Khi trí của chúng ta nó biểu lộ thì
chúng ta tưởng rằng : Có thể thức mình đã đoạt
Pháp đặng.
Từ
Thượng Cổ các nhà Triết Học Á Đông đã quan
sát tận tường cái hình trạng của trí thức tinh
thần rồi. Các bậc Thánh Nhơn ngày xưa cũng thế,
nên mỗi ngày hằng buổi họ tự hỏi mình cái
tánh đức của tôi nó có phương thế điều hòa
với trí thức tinh thần của tôi không ? Nếu không
thì làm thế nào cái trí thức nó điều hòa với
tánh đức đặng. Nhưng tới ngày giờ nào chúng
ta ngó thấy cái tánh đức nó phải lụng lại với
trí thức của mình, thì chúng ta có thể nói chúng
ta chưa đoạt vị đặng.
Từ
Thượng Cổ chúng ta ngó thấy không biết bao nhiêu
giả thuyết họ học họ biết, nhưng họ không
biết nguyên căn là đâu, nên các bậc Hiền Nhân
cho rằng : Phải đoạt Thần mới đoạt vị đặng,
việc ấy không sai không chạy được.
Trước
kia vì cái huyền bí của Đạo chưa định quyết
được, nên các nhà Triết Học như Ông Tô Đông
Pha có để trong sách ba hạng người.
Thượng Phẩm chi nhơn bất
giáo nhi thiện.
Trung Phẩm chi nhơn giáo
nhi hậu thiện.
Hạ Phẩm chi nhơn giáo
diệt bất thiện.
Nghĩa
là bậc Thượng Phẩm chẳng dạy mà hay. Bậc Trung
Phẩm dạy mà sau hay. Còn bậc Hạ Phẩm dầu dạy
cũng không lành là tại sao ? Là tại họ chưa biết.
Cái nguyên căn của các bậc Thượng Phẩm họ đã
tạo thành là do nơi căn Tu của họ đoạt đến
địa điểm. Trên có thể thông suốt cả Thiên
Cơ, dưới có thể đoạt được Địa Lý, việc
ấy chẳng phải trong một kiếp sanh mà đoạt được,
nó phải nhiều kiếp sanh mới đoạt được.
Trước
kia theo Đạo Giáo người ta có giả thuyết nói
rằng : Con người trước khi đi đầu kiếp thì
bị mụ bà cho ăn cháo lú, tức nhiên cho ăn cháo
ấy đặng ta quên hết tiền kiếp của ta, cái đó
có thể có, và đó là theo về Tín Ngưỡng. Còn
về mặt Triết Học chúng ta có thể nói : Nếu
chúng ta tin có quả kiếp của chúng ta thì chúng
ta biết kiếp trước là gì ? Kiếp này là gì ?
Nếu kiếp trước thảm khổ thì giờ buổi này phải gánh một gánh đau
thảm chồng chất gớm ghê, rồi trong kiếp sanh
này chịu đau khổ không kham không nổi. Nếu kiếp
trước chúng ta vinh diệu thì kiếp này chúng ta
được an ủi sự vinh diệu ấy có thể tồn tại
nơi mặt thế gian này được. Nếu rủi kiếp trước
chúng phải bị cảnh thảm khổ, rồi kiếp này
chúng ta chịu thảm khổ nữa, thì chẳng hề khi
nào chịu khổ và nó không có tồn tại nơi mặt
thế gian này nữa đâu.
Vì
cớ cho nên quyền lực Thiêng Liêng buộc họ phải
quên cái tánh đức cái trí thức kia đi, nên khi
đầu kiếp làm một đứa bé thơ sanh, phải học,
phải tìm, phải hiểu, tới chừng tìm hiểu được
là nhờ cái ấy nó mở khiếu ta, ta mới định
cái nguyên căn của ta được, một bằng cớ hiển
nhiên là một vị Phật Vương tức nhiên Đức Đạt
Ma (Dalayama) Đấng ấy tái sanh được làm Vua mà
trong triều chánh lúc trước có một vị Đạo Quang
giữ gìn cả chơn truyền pháp luật và truyền kế
nhau mãi mãi, khi Ngài đầu kiếp làm một đứa
bé thơ sanh kia ở trong gia đình Ông Đạo Quang đó,
nhưng khi ấy vị Phật đầu kiếp là đứa con nít
đó, nhưng Ngài cũng phải dạy dỗ và giáo huấn
nó.
Ấy
vậy cái căn của nó không đồng với mạng, cái
mạng chẳng hề khi nào trái ngược lại được,
bởi vì trong Truyện Kiều Ông Nguyễn Du có để
chữ tài chữ mạng không có đồng nhau nên căn
kia với cái tài nọ không có gì hết, bất quá
đầu ấy là một đầu dư thừa thôi. Mạng kia
có tài mà không có thiện căn thì không làm gì
được, nếu không có thiện căn tức nhiên không
có thiên mạng, mà nếu không thiện căn thì chẳng
hề khi nào thắng được kiếp quả của mình được.
Ấy
vậy thuyết đêm nay là Bần Đạo chỉ cho toàn
thể con cái Đức Chí Tôn biết rằng : Chúng ta
Tu là nhờ nguyên căn của tiền kiếp nên giờ phút
này chúng ta mới gặp Đạo gặp Đức Chí Tôn đến
với chúng ta. Tánh đức của chúng ta nó điều
hòa với trí thức là do nơi sự Tu của chúng ta
đó.
Ông
Tô Đông Pha đã nói : Ngày giờ nào mà tự mình
biết là đi đến thượng phẩm chi nhơn, và tới
chừng đó có thể nói kiếp Tu của chúng ta có
thể đoạt vị và đắc quả đặng.
Vậy
toàn con cái Đức Chí Tôn rán cố gắng, một ngày
kia vào Tịnh Thất chúng phải chuyên chú đặng
đeo đuổi theo chữ mạng.
Tại
Tổng hành dinh Quân-đội Cao-đài Ngày mùng 2 tháng
5 năm Quí -Tỵ (1953)
47.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG
VỀ LỄ QUỐC KHÁNH CỦA HOÀNG-TRIỀU
Hôm
nay ngày Lễ Quốc Khánh, tức nhiên ngày Lễ Trùng
Hưng của nước Việt Nam thống nhứt Hoàng Triều
của Đức Cao Hoàng Gia Long.
Theo
Lịch Sử thời kỳ Lễ Trùng Hưng từ 1502 tới
1789 đã biến sanh ra nạn nước Nam, Bắc phân tranh,
Hoàng Đồ chia rẽ Đế Vị nhà Vua Lê cầm vận
mạng nước nhà, còn Hoàng Đồ chia phân ra từ
Miền Trung, tức nhiên từ Miền Nam này từ Núi
Hoành Sơn đổ vô thuộc Chúa Nguyễn, từ Hoành
Sơn đổ ra thuộc về Chúa Trịnh. Nước đã ly
loạn, trong Nam có Đảng tranh vì Chúa Tây Sơn Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ đã lấy loạn, theo Lịch Sử
thì cả toàn quốc không có một người nào là
không hiểu, Bần Đạo chẳng cần nhắc lại đây
mà làm gì.
Đến
năm 1778, Nguyễn Nhạc đã xưng Vương tức Vị và
định chiếm đoạt luôn Bắc Việt, tức nhiên tạo
loạn cả toàn quốc. Trong thời kỳ ấy đất Tây
Sơn có người đã làm cho nước nhà nổi danh đối
với Trung Hoa, tức nhiên đối với nước Tàu, là
Nguyễn Huệ, khi đặng lịnh của Nguyễn Nhạc ra
trận, Ngài phân binh đuổi quân Tàu ra khỏi Bắc
tức nhiên ra khỏi Thăng Long Thành của mình, Nguyễn
Nhạc tạm phong cho Nguyễn Huệ Bắc Bình Vương.
Tuy vậy Tây Sơn lấy thuyết hồi Lê diệt Trịnh,
gọi là phò Lê diệt Trịnh, song kỳ trung, Tây Sơn
đã mong chiếm đoạt Hoàng Đồ, thì trong khi ấy
từ Nam chí Bắc đều thuộc về Tây Sơn.
Vận
nhà Nguyễn đã đến, nên sản xuất ra một vị
Anh Hùng là Nguyễn Aùnh, đã phiêu lưu vô ngằn,
khi ở Nam, khi ở Xiêm, khi về nước, Ngài không
biết bao gian khổ, may thay, cái nạn đế Vương
hay là cái nạn nước, nó đã qua, thành thử Ngài
xuất hiện nơi Nam Kỳ, tức nhiên trong Nam chúng
ta đây, nhờ vị Anh Hùng Cứu quốc, trải biết
bao nhiêu đau khổ, đã đem lại một giai đoạn
Lịch Sử vinh diệu, không biết sao mà nói đặng,
không thể tả. Ngài đã làm cho nước Việt Nam
Thống Nhứt từ Nam chí Bắc.
Còn
trong công cuộc định Quốc, Bần Đạo nói có hai
vị trung thân mà Hoàng Triều đã đặt họ là "Trung
quân" tức là Võ Tánh và Ngô Tùng Châu,
Tây Sơn đem cả lực lượng của mình đặng lấy
thành Bình Định, Võ Tánh với Cao Hoàng Gia Long
chẳng cần gì phải giải vây cho thành Bình định
tức nhiên là Qui Nhơn, nên thừa cơ hội binh lực
của Tây Sơn không có đề phòng mà đánh lấy luôn
thành Phú Xuân, nhờ thế Gia Long tức nhiên Đức
Cao Hoàng đã lấy Phú Xuân đặng, hai người Ngô
Tùng Châu và Võ Tánh tử tiết, thật sự ra Hoàng
Đồ nước Việt Nam ta đặng thống nhứt từ Mủi
Cà Mau đến Aûi Nam Quan ngày nay là nhờ lực lượng
Cao Hoàng đã cầm vận mạng, và nhờ hai vị "tinh
trung" Ngô Tùng Châu và Võ Tánh mà ta có
thể hãnh diện nói rằng : Hải người ấy là người
Đồng Bào trong Nam ta đó vậy.
Ngoài
ra cái công nghiệp, Ngài chẳng phải khôi phục
Hoàng Đồ mà thôi, Đức Cao Hoàng Gia Long tức nhiên
là Nguyễn Aùnh, đã đem lại hai Tỉnh của Lào
thêm vào bản đồ Việt Nam, một là Sơn La hai là
Lai Châu, nếu chúng ta coi lịch sử thì người trước
nhứt nước Pháp đã nói : Le Grand Législateur du
Việt Nam, tặng một người đã cầm vận mạng
nước Việt Nam về luật vĩ đại hơn hết. Cao
trọng hơn hết là ngày 1802 Ngài đã chỉnh đốn
từ nội bộ tới ngoại thuộc, Ngài lấy cả các
cựu luật của Ngài, số của Ngài vĩ đại không
thể tả đặng, chỉnh đốn duy tân, Ngài đã đem
lại cho chúng ta một địa dư mới, Quan chức mới,
Luật binh mới, Quân dụng mới, hình thức Chính
trị mới, Bình dân mới, cả thảy đều được
Ngài chỉnh đốn, nếu chúng ta không có bị bảo
hộ, từ thử thì Bần Đạo dám chắc rằng : Cái
công nghiệp vĩ đại của Đức Gia Long Cao Hoàng
đã trở thành Đại Công cùng Tổ Quốc, chúng ta
hôm nay đến đây là cốt yếu để cả tâm đức
cùng mình, trong tinh thần của Ngài.
Bần
Đạo mong ước con cái của Đức Chí Tôn cả thảy
quân sĩ anh dũng Cao Đài, ngó thấy chí hùng của
Ngài làm mục đích đặng thi thố thực hiện cho
nước Việt Nam được Độc Lập.
Tại
Đền Thánh Đêm mùng 4 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)
(Lễ
Cầu Thọ Cho Đức Hộ Pháp)
48.- ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG
VỀ HẠNH-PHÚC CỦA ĐỨC CHÍ
TÔN BAN CHO ĐỨC NGÀI
Bần
Đạo xin để lời cám ơn toàn thể, Thánh Thể
Đức Chí Tôn, các nhà cầm quyền và các cơ quan
Chánh trị Đạo, mấy Em Nam, Nữ Lưỡng Phái, mấy
con Đồng Nhi Nam, Nữ.
Hôm
nay cả thảy con cái Đức Chí Tôn đến tại Đền
Thánh cầu thọ cho Bần Đạo, tưởng cái phúc hạnh
Đức Chí Tôn đã ban cho Bần Đạo hưởng tại
thế đã nhiều lắm, đã quí báu lắm rồi, Bần
Đạo tưởng dầu cho một ngày kia về nơi cảnh
Thiêng Liêng Hằng Sống ơn nghĩa này cũng chẳng
quên đặng nhau.
Bần
Đạo xin thuật lại một chuyện. Ngày mai này lối
9 giờ gần tan chợ. Bà Mẹ của Bần Đạo nói
: Không biết mấy giờ ngày mồng 5 tức nhiên là
ngày sanh của Bần Đạo, và ngày mai đây Bần Đạo
đã đúng 64 tuổi chẳn, không dư một ngày không
thiếu một ngày.
Trong
64 năm qua, thật ra Bần Đạo tưởng tượng chẳng
khác gì một giấc chiêm bao. Đã 64 năm Bần Đạo
chẳng hề buổi nào hưởng đặng hạnh phúc vui
vẻ, vì tánh đa sầu đa cảm nên chỉ biết nhiều
sầu nhiều tư lự, hơn vui hứng, bởi quả số
cho nên tấm thân phải chịu đau khổ.
Bần
Đạo xin nói sơ lược Tiểu Sử của Bần Đạo,
Bần Đạo sanh ra trong một gia đình đông con, Bần
Đạo là con dòng thứ hai, gia đình hiệp lại với
nhau để sống, Bần Đạo là con thứ 8, gốc gát
Ông thân của Bần Đạo ở An Hòa (Trảng Bàng)
tùng theo Khổng Giáo, gia đình nhà khá giả, nhưng
Ông thân của Bần Đạo là con thứ 6 của Ông Nội
Bần Đạo, Ông thân của Bần Đạo bị tai họa
liên can một vụ ở Cần Đước nên Pháp kiếm
bắt, vì cảnh tượng nghèo của gia đình buổi
nọ, nên Ông thân của Bần Đạo phải buộc mình
ra đầu quân cho Pháp để cứu vãn tình thế, vì
cái lẽ đó Bần Đạo tưởng lại người đã chịu
một tấn tuồng khỗ não về tinh thần lắm. Người
muốn chết cho rôi, nhưng dòm lại đám con nên Ông
tự an ủi đặng sống. Khi Ông đã lên tới chức
Đội của Quân Đội Pháp, Ông đi chiêu an nên bị
binh cựu bắt ông đem về đánh hơn 10 roi, trong
10 roi đau thảm Ông ân hận cho đến chết không
quên được, sau ngày ra đầu thú thì mấy anh của
Bần Đạo đều theo cha làm sĩ quan hết, duy còn
Bần Đạo và người anh thứ 7 không biết một
tiếng Pháp, mà bây giờ cũng vẫn còn đó.
Hồi
còn thơ ấu, Bần Đạo nói thiệt, đường liêm
khiết cả một đời làm việc chưa biết hà lạm
ăn của ai một đồng xu nhỏ, dầu cho nghèo cũng
vậy.
Nhắc
lại khi Bần Đạo lúc còn thiếu sinh đi học tại
Trường Tây Ninh, buổi đi về đang ngồi ăn cơm
Bà Mẹ mới hỏi Ông thân của Bần Đạo, Ông cho
cả con cái theo bên võ, không cho đứa nào theo bên
văn sao ? Ông thân trả lời : Võ nó không biết
kiếm thế hà lạm, bên văn nó hay hà lạm tôi không
chịu, Bà già chỉ cho Bần Đạo nói, còn thằng
nhỏ này yếu ớt bạc nhược, thôi cho nó theo văn
đi, Ông thân của Bần Đạo nói : Được nếu nó
theo bên văn mà tham quan ô lại thì tôi vặn họng
nó. Vì lời nói đó mà cả một đời nghèo khổ
thật, nhưng Bần Đạo chưa biết hà lạm chưa dám
ăn đồng xu nhỏ
nào cho tới ngày phế quan hành Đạo, lạ một điều,
mấy anh mấy chị của Bần Đạo nói lại. Hồi
nhỏ Bần Đạo khó nuôi lắm, hể mỗi khi nóng
lạnh là chết, chết miết vậy thôi, tới 10 tuổi
mà còn chết, chết sống không biết mấy lần,
hể mỗi khi nóng lạnh thì cả nhà phải thức ngồi
một bên đó vậy mãi, chỉ vì sợ Bần Đạo chết
mà thôi.
Ông
già, Bà già là người không có Đạo, mà buộc
mình phải vào Đạo đặng đem Bần Đạo đi rửa
tội theo Thiên Chúa Giáo, tình trạng lúc đó trong
nhà sợ sệt biết bao nhiêu, cho tới 57 tuổi Bần
Đạo còn chết một lần nữa, chừng sống lại
được rồi thân thể không còn gì hết, vì lúc
chết người ta gỏ đầu, gỏ cổ, căn tay, căn
chơn không còn hết, chịu đau đớn biết mấy.
Cái
chướng ngại của Bần Đạo chết hoài, chết sống
đến đổi trong nhà Cha Mẹ Anh Em của Bần Đạo
toàn thể trong nhà phải vào Thiên Chúa Giáo, đặng
cầu cho Bần Đạo sống, vì cớ mới có Đạo Thiên
Chúa.
Cái
đa sầu đa cảm của Bần Đạo hồi 17 tuổi nếu
không may phải giết Bà Mẹ một cách gián tiếp.
Bà Mẹ cứng quá đổi nên khiến trắc trở không
xuất dương du học được, chớ phải chi quyền
Thiêng Liêng quyết định thì Bần Đạo đã lưu
vong nơi Hải Ngoại rồi, dám chắc Bần Đạo đi
khỏi thì Bà Mẹ sẽ chết. Lúc đó nhờ Ông Lưu
Khắc Ninh đốt hết giấy tờ, thành thử đi du
học không được, tới khi ra làm quan với nhà nước
chỉ ngồi đó đặng xem cái đau khổ của gia đình,
cho đến ngày Ông già hồi lưu một gia đình Ông
nghèo khổ không có đủ chổ sống, mấy anh em phải
tạm nhờ trong gia đình này. Bần Đạo nhận thấy
sự thương đau ngoài trường kia đồng bào đang
đau khổ lệ thuộc, vì cơ không có buổi an vui
được.
Kể
từ 17 tuổi dĩ chí buổi này, không buổi nào không
tranh đấu, không buổi nào an nghĩ được chờ tới
cái năm chót của Bần Đạo bị đồ lưu Hải Ngoại,
khi trở về được may duyên cho Bần Đạo, hạnh
phúc là còn xác thịt này được làm tôi cho con
cái Đức Chí Tôn, còn xác thịt này thì còn mong
mỏi tạo hạnh phúc cho Đạo đặng, dầu bền vững
hay không, Bần Đạo cũng vẫn lui cui làm mãi, vì
thấy trước mắt con cái Đức Chí Tôn đau khổ
thì không buổi nào an vui được, không buổi nào
ngồi nghĩ được. Ngó lụng lại đám hậu tấn
sau kia họ dầu biết lệ thuộc buổi nọ thế nào,
đau khổ tâm hồn thế nào, xác thịt thế nào,
Bần Đạo muốn làm phương nào để giải thoát
lệ thuộc đám hậu sinh đó cho đặng là hạnh
phúc trong kiếp sống của Bần Đạo đó vậy.
Giờ
phút này tuy khó nhọc thật, nhưng Bần Đạo được
hưởng đặc ân của Đức Chí Tôn ban cho, và đã
làm tôi cho Ngài và làm tôi cho con cái của Ngài.
49.- ĐÁP TỪ CỦA ĐỨC
HỘ PHÁP
SAU KHI CÁC CƠ QUAN CHÁNH TRỊ ĐẠO CHÚC THỌ.
Thưa
Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,
Cùng
Chư Vị cầm quyền các Cơ Quan Chánh Trị Đạo,
Mấy
em Nam, Nữ, mấy em Thiếu Sinh Nam, Nữ.
Bần
Đạo để lời cám ơn mấy em một cách nồng nàn,
và lời cám ơn ấy nó chẳng phải ở ngoài môi,
mà nó ở trong tâm não của Bần Đạo đem ra đó
vậy.
Thưa
cùng toàn thể Đạo, và các Nhơn sĩ, Chư vị đồng
chí đã có lịch trình tranh đấu cho Quốc Dân cho
Tổ Quốc. Bần Đạo thú thật, cái kiếp sanh hữu
dụng này, nếu không có nhờ oai quyền và ân Thiêng
Liêng đặc biệt của Đức Chí Tôn đã ban cho thì
kiếp sống này cũng như các kiếp sống khác kia
vậy. Có, không, không, có, Luật tạo đoan đã tạo
ra các sanh vật ở thế gian này thế nào mạng sanh
ta cũng thế ấy có chi đặc biệt. Nếu luận cho
chánh lý mình có đầu óc, tay chơn, thì cả
toàn thể ai kia cũng vậy, chẳng có hơn ai, cũng
chẳng kém ai, chỉ là một phần tử trong vạn linh
đó vậy mà thôi, nếu không có ân Thiêng Liêng
dành để đặc biệt thì Bần Đạo bất quá cũng
như một người đó vậy thôi, nó có khác chăng
là cái tình ái nồng nàn. Tình ái ấy làm cho Đức
Chí Tôn biết đặng, hiểu đặng, mà Ngài tuyển
chọn làm một phần tử trọng yếu của Ngài mà
thôi.
Thưa
cùng các Bạn, Chư Chức Sắc Thiên Phong Hiệp Thiên
Đài, Tiếp Đạo khi nảy nói rằng : Chúng ta chỉ
chủ hướng có tinh thần Đạo Đức mà thôi, thật
quả vậy, nếu như lấy tâm phàm mà luận bao giờ
thấy trước mắt một trường tranh đấu, quyền
lợi công danh của thường tình thế sự là một
điều thiên hạ đã ham chuộng mê luyến mà Bần
Đạo tránh khỏi ra vòng ấy, danh không ham, lợi
không mê, là vì biết khối tinh thần vô đối của
một Nòi Giống Việt Nam nay đã 4.000 năm lập nghiệp,
nó có một tinh thần mạnh mẽ, uy quyền cao thượng
thế nào, đã hiểu rằng : Nó có năng lực, cái
năng lực ấy nó có thể đổi mãi, đổi biến
đặng, vì có đức tin ấy. Bần Đạo chỉ lấy
nó làm môi giới, làm phương pháp đặng cứu vãn
cái tình trạng nguy nan của nước, của Chủng Tộc
Việt Nam. Bất quá cũng như anh bán ngọc kia, mua
về đặng bán lại mà thôi, chớ không có cái giá
trị về tinh thần khác, chỉ đặc biệt biết ngọc,
mua ngọc, lời về ngọc, không có chi khác hết.
Nếu có định được tương lai hạnh phúc của
nòi giống thì bất quá khác cái tinh thần anh dũng
của quốc dân vô đối đặng họ định vận mạng
lấy họ mà thôi, chớ Bần Đạo không có công
cán chi trong đó hết. Vì cớ cho nên Bần Đạo
chỉ quyết đánh về mặt tinh thần mà thôi, ngoài
ra nữa Bần Đạo không muốn ngó đến, có phải
chăng mạnh của Đạo Cao Đài vì lẻ đó, ta cũng
nên tưởng tượng suy nghĩ.
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Cửu Trung Đài, các Ngài đã
vân mạng lịnh của Đức Chí Tôn cả Nam, Nữ Lưỡng
Phái, thay hình ảnh cho Ngài, ở cùng con cái khổ
não của Ngài, một thời giáo hóa, hai là an ủi,
ba là nuôi nâng, cái trách vụ trọng yếu đó giờ
phút nào Bần Đạo cũng tưởng trong óc, nếu một
ngày kia hình trạng Thiêng Liêng ấy nó kết liễu
được, thiệt hiện được, cái danh dự dành để
cho phận sự tối cao trọng của Quí Ngài, nó sẽ
quí hoá thế nào ? Không, thưa không phải kiếp
sanh này mà đủ, còn sau lưng các em ta sẽ nối
chí, ngày giờ nào có thể tượng trưng rằng Thánh
Thể của Đức Chí Tôn chẳng hề chết thì cả
Cửu Trùng Đài không thể diệt, sự quả nhiên
nó vậy.
Các
em Phước Thiện, Qua, chỉ có một thân, một đầu,
một óc, một hình ảnh cũng như mấy em thôi, nghĩ
lụng lại khổ não của chúng sanh các em đã hiểu,
Đức Chí Tôn đến Ngài có mục đích chia khổ
và cứu khổ cho con cái của Ngài. Qua đã giao cho
mấy em một sứ mạng đặc biệt là hai chữ "Phước
Thiện" Qua cầu mong cho có một điều chúng
ta ngó thấy trước mắt một khổ não của Đời,
mấy em giăng tay ra nâng đỡ an ủi, binh vực được,
ấy là sở vọng của Qua để nơi mấy em. Mỗi
phen Qua tưởng đến công nghiệp và phận sự Thiêng
Liêng của mấy em nó, khó khăn nặng nề chừng
nào thì Qua xúc động chừng nấy. Vì cớ cho nên
Qua ở chung cùng mấy em hai mươi mấy năm trường
thầy trò chung sống, chung khổ cùng nhau là cũng
vì lẽ ấy.
Qua
để lời cám ơn mấy em.
Mấy
con, các chiến sĩ anh dũng Cao Đài, mỗi lần mà
Thầy thấy các con dưới mắt Thầy, thì nó có
tinh thần làm cho Thầy an ủi được thế nào, Thầy
thường nói với mấy con Thầy có Ông Cha, Ông Cha
ấy giao cho Thầy hai món : Một là Cái Thuyền Bát
Nhả, hai là cái Xa Thơ của Tổ Quốc. Cái Thuyền
Bát Nhả Thầy có thể cậy Thánh Thể Đức Chí
Tôn dìu đỡ được, còn cái Xa Thơ của Tổ Quốc
đi trên đường nguy hiểm khó khăn nó tiến được
bước nào là nhờ năng lực của mấy em đẩy tớibước
nấy. Cái mục đích của Thầy các con đã giúp
được hai phần, còn một phần nữa Thầy cậy
các con đưa nó tới chút nữa. Thầy chỉ nói :
có một bọn người ngồi trên Xa Thơ ấy các con
xúm nhau đẩy mà bọn ấy ngồi làm cho nặng thêm
nữa, các con phải làm sao mời họ, lạy lục họ
xuống, đặng cho bớt nặng đẩy cho tiến tới.
Phục
Quốc Hội định vận mạng tương lai chánh sách
an dân một cái chánh thể tương lai ở trong đấy,
có thể Thầy mong ước rằng : Cả đầu óc Phục
Quốc Hội giúp cho nên hình tướng chương trình
của chúng ta có thể kết thúc thật hiện được,
thì cái tương lai của nước Việt Nam mới sẽ
mỹ mãn đẹp đẽ. Bần Đạo chưa gì đã mừng
trước và đã khoái lạc trước. Cả toàn thể
Phục Quốc Hội cho Bần Đạo hưởng khoái lạc
ấy, thiệt hiện ra đừng để thất chí Bần Đạo
tội nghiệp, Bần Đạo để hết tín nhiệm trong
đấy, biết rằng một bước tiến tới là một
bước thay đổi cho Tổ Quốc giang san phải cố
gắng.
Trước
khi dứt lời Bần Đạo để lời cám ơn toàn thể
Đời và Đạo.
Ngày
mùng 5 tháng 5 năm Quí Tỵ (DL. 15-6-1953)
(Ngày
Sinh Nhật của Đức HỘ-Pháp)
50.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ
DỤ KHÁCH PHẠM ĐƯỢC ÂN XÁ (trên 20 nạn nhân)
Hôm
nay là ngày được tự do của các anh em để về
với gia đình, các anh em phải hiểu biết bổn phận
công dân của mình đối với xứ sở. Về đến
gia đình, các anh em nên lo làm ăn hằng ngày để
nuôi lấy vợ con các anh em được ấm no. Các anh
em không nên làm việc gì có di hại cho xư sở,
các anh em phải làm sao cho xứng đáng mình trong
công cuộc xây dựng Tổ Quốc.
Người
ở thế gian này không ai
được trọn lành cả, việc làm bất hợp
pháp của các anh em tức nhiên là cái bịnh, các
anh em nên diệt bỏ, để làm việc hữu ích cho
đại cuộc Quốc Gia ngày nay.
Các
anh em nên nhớ lấy.
Tại
Đền Thánh Đêm 15 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)
NHÂN DỊP RƯỚC NGỌC XÁ-LỢI
ĐỨC THÍCH-CA. ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
51.- XUẤT-XỨ CỦA NGỌC XÁ-LỢI
Bần
Đạo xin cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn hay,
ngài mai nầy là ngày chúng ta sẽ làm Lễ rước
Ngọc Xá Lợi của Đức Phật Thích Ca. Rất may
duyên của Tòa Thánh là được cái báu ấy, vì
vật báu đó từ trước đến giờ chỉ có trong
hàng Phật Tử của nước Ấn Độ được hưởng
mà thôi.
Sau
khi Đức Thích Ca tịch diệt thì mấy vị Đại
Đức theo Đạo của Ngài, họ mới đem cái Thi Hài
của Ngài tức nhiên là cái cốt của Ngài mà Hỏa
Táng xong còn sót lại chút ít xương Môn Đệ của
Ngài lấy cái đó làm báu vật đặng thờ Đức
Ngài tức nhiên là thờ Bổn Sư của họ.
Tòa
Thánh đây cũng là nơi của Ngài ngự, lại hữu
hạnh được vị Đại Đức trong hàng Phật Tử
nước Ấn Độ đem dâng cho Tòa Thánh một cái Ngọc
Xá Lợi.
Bần
Đạo xin toàn thể con cái Đức Chí Tôn Nam, Nữ
ngày mai này nghinh tiếp cho đông đảo, tưởng khi
Đạo hạnh của chúng ta đổi lụng lại với Đức
Phật Thích Ca sẽ làm cho đẹp lòng Đức Chí Tôn
đó vậy.
Đêm
nay Bần Đạo thuyết cái Luật Thương Yêu và Quyền
Công Chánh của Đức Chí Tôn nó không định giới,
định hướng nơi nào tất cả. Thật ra Đức Chí
Tôn đến lập Thánh Thể của Ngài, tức nhiên lập
Hội Thánh thay thế hình ảnh của Ngài nơi mặt
thế gian, tức nhiên ở Địa Cầu 68 này, cốt yếu
Ngài tỏ cho Nhơn Loại biết đều ngó thấy rằng
: Ngài đến đặng Ngài chia khổ não với con cái
của Ngài, Ngài lấy xác phàm của các phần tử
tức nhiên các lương sanh nơi mặt thế gian này đặng Ngài tuyển chọn lập Hội
Thánh, tức nhiên là Thánh Thế của Ngài và Ngài
đem cái luật ấy giao cho Hội Thánh, mà luật ấy
không có nhiều, chỉ có một mà thôi, cái Luật
của Ngài là Luật Thương Yêu, tức nhiên là Luật
Từ Bi, còn phép của Ngài cũng có một mà thôi,
đó là Pháp Công Chánh, Công Bình.
Ở
trước Đền Thờ của chúng ta có "Tam
Thánh" đã Ký Kết Hòa Ước cùng Đức Chí
Tôn lãnh cái Luật Từ Bi, tức nhiên là Luật Thương
Yêu đặng độ rỗi con cái của Ngài trở về cựu
vị, còn quyền Đức Chí Tôn chỉ lấy Quyền Công
Chánh mà thôi.
Luật
và Quyền ấy chúng ta thử để trí phàm tìm hiểu
lấy trí não suy tính và suy ngợi coi Ông lấy hai
món ấy giao cho ta và biểu ta thay thế cho Ổng mà
thiệt hiện ra căn nguyên ấy là phải do nơi nào.
Bần Đạo thường thuyết nơi giảng đài này, Bần
Đạo nói : Chúng ta nên lấy cái nhỏ mà luận cái
nhỏ ấy chúng ta mới có thể tìm cái lớn được,
lấy cái tối thiểu mà tìn ra cái tối đại, nguyên
căn đó vậy không có gì lạ hết.
Vả
chăng chúng ta sanh đứng làm người trên cõi tạm
này có hai mối nợ :
1/- Mối nợ Thân sinh của ta, tức nhiên là
Cha Mẹ của ta.
2/-
Mối nợ Tạo Hóa, tức nhiên là Đức Chí Tôn.
Hai
mối nợ ấy chúng ta có thể nói là hai Ông Trời,
Ông Trời trên và Ông Trời dưới. Tánh đức của
họ giống nhau như thế nào, chúng ta dư hiểu.
Có
phải Cha và Mẹ chúng ta tức nhiên Thân sinh ta khi
sanh ta ra chỉ cầu có một điều là chúng ta phải
biết thương yêu mà thôi. Vì sự thương yêu ấy
mà Cha Mẹ ta gìn giữ sự sống còn của ta, nuôi
dưỡng ta cho nên người, nên phận. Phải chăng
Luật Thương Yêu ấy nó đứng đầu hết các Đạo
làm Cha Mẹ hay chăng ? Chúng ta chẳng cần hỏi và
cũng đã hiểu rồi.
Bây
giờ hỏi thử khi tạo một gia đình có con cái,
có dâu cháu, cả Tông Đường họ hiệp lại tinh
thần của họ và họ muốn gì chớ ? Phải chăng
họ cầu nguyện có một điều là chúng sống với
nhau trong lòng yêu ái. Chúng ta đã biết "Sanh
con há dể sanh lòng" một đứa một tánh
đức, một đứa một tinh thần, một đứa một
sở hàm, mỗi đứa nó đi mỗi đường, không có
đứa nào giống nhau. Nếu như gia đình nào có anh
em giống nhau, thì gia đình ấy hạnh phúc lắm.
Chúng
ta ngó thấy con cái trong nhà bao giờ cũng có nặng
nhẹ nhau, bất đồng tánh đức tình ý với nhau,
thì trong gia nghiêm phải giữ cho có mực thước,
mà muốn cho có mực thước tức nhiên Đạo là
Cha Mẹ phải lấy quyền công chánh công bình của
mình mà xử con, lý do đó chúng ta tức nhiên là
Đấng sanh thành dưỡng dục ta, cái khuôn khổ ấy
thế nào, thì Đấng tạo đoan khuôn khổ cũng thế
ấy mà thôi.
Luật
Thiên Nhiên Đức Chí Tôn muốn gì ? Phải chăng
Ngài muốn cho cả Nhơn Loại biết mình nhau là cốt
nhục, biết nhìn nhau là con cái của Ngài đã tạo
đoan ra. Nếu bây giờ toàn thể con cái Đức Chí
Tôn biết rằng : Con người sanh trong mặt thế gian
này, sanh trong cảnh khổ này biết thương yêu nhau,
biết giúp đỡ nhau đặng chia cảnh khổ ấy, thì
Đức Chí Tôn chẳng đến lập nền Tôn Giáo, nhưng
Ngài đến buổi này đặng chi ? Có phải Ngài đến
đặng Ngài gieo hột giống Thương Yêu ấy, gieo
cái tình thương trong tâm não con cái của Ngài hay
chăng ? Chúng ta thấy hiển nhiên là thế đó. Cái
Luật Thương Yêu đó đối với Thiên Vị là Thánh
Thể của Ngài nơi mặt thế gian này, vì chúng ta
lãnh sứ mạng nơi Ngài tức nhiên một phần tử
của Hội thánh đó vậy.
Ngộ
nghĩnh thay ! Chúng ta tùng một khuôn Luật Thương
Yêu ấy, rồi chúng ta nắm một quyền hành trong
tay, ấy là quyền hành công chánh. Phải vậy, trong
hết thảy chúng ta không thể chối được. Trái
lại nếu trong cửa thiêng-liêng
của Đức Chí Tôn, trong lòng thương yêu vô
tận ấy, quyền năng công bình vô đối ấy không
phải là con cái của Ngài, cái lẽ tự nhiên đó
vậy.
Bần
Đạo đã nói cái Luật Thương Yêu nó không định
giới, định hướng đặng, và chúng ta có thể
nói, trong một gia đình đương nhiên bây giờ, ta
có con trai phải cưới dâu trong Tông Đường khác,
ta có con gái phải gã cho Tông Đường khác, thì
nó mới sống lụng lại trong gia đình của chúng
ta, sự thương yêu nó không định giới định hướng
là vậy. Huống chi là lòng thương yêu vô tận của
Đức Chí Tôn.
Bần
Đạo chỉ nhắc một điều trọng yếu cho con cái
của Ngài Nam, Nữ cũng vậy, nghe và nhớ để ý
cho lắm.
Con người tuổi thơ sanh
không có gì, như những người có niên kỷ rồi,
nào là Ông, Bà, Cha, Mẹ, Cô, Bác, Thân Tộc, họ
đã qua đời, tức nhiên họ đã qui liễu. Chúng
ta ngó thấy giọt nước mắt của chúng ta trong
kiếp sanh đã đổ biết bao nhiêu là giọt nước
mắt đau thảm. Lòng thương yêu cốt nhục ấy,
nó đã làm cho ta hiểu cái giá trị của nó thế
nào rồi. Coi chừng nghe, mình đau đơn, mình khổ
não, mình thương nhớ, rồi mình cúng quảy lễ
tế. Đạo làm con hiếu hạnh phải vậy. Nhưng phải
coi chừng, họ tái sanh họ đứng ngay trước mặt
mình với đứa con nít kia mà mình không biết không
hay, mình lãnh đạm, ghét dơ. Đến khi về nơi cõi
Thiêng Liêng mình nhìn thấy mặt họ, rồi mình
tự hổ nhục vì cái hổ nhục đó làm cho
ta phải tái kiếp luân hồi trở lại.
Dám
chắc không có cái đau đớn, cái khổ nhục nào
bằng khi trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà
gặp cảnh tượng ấy.
Ngày
17 tháng 5 năm Quí Tỵ (DL. 27/6/1953)
52.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ
DỤ GIÁO CHỨC VÀ HỌC-SINH TRONG CUỘC LỄ PHÁT PHẦN
THƯỞNG TẠI TRƯỜNG ĐẠO ĐỨC
HỌC ĐƯỜNG.
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Quan
Viên, các yếu nhân Nam, Nữ đã đến dự lễ phát
phần thưởng này làm cho thêm phần long trọng.
Bần Đạo xin kiếu lỗi mấy Ngài, mấy Bà cho Bần
Đạo để lời với con cái của Bần Đạo.
Các
con Giáo Viên Đạo Đức Học Đường, sự khổ
hạnh, sự hy sinh của các con từ khi mở Đạo đến
giờ đã ung đúc tinh thần trí não của đoàn em
mấy con hôm nay đã kết liễu. Cái nên của Đạo
Đường này, mỗi công trình vĩ đại của các con,
Đạo Sử đã ghi chép.
Hôm
nay đến đây Thầy không để lời cám ơn các con,
bởi vì lời cám ơn ấy nó ở đầu môi chót lưỡi
không có giá trị gì. Thầy chỉ chúc có một điều
là lòng yêu ái của Thầy tương hiệp với các
con, vì nó là báu vật để cho Thầy đối với
các con đó vậy.
Chúng
ta sanh làm người đứng giữa vũ trụ này, đứng
trong Hoàng Đồ Việt Nam, giờ phút này chẳng qua
là một phần tử trong xã hội thôi, Bần Đạo
thường nói, chúng ta cũng có một thân thể, một
đầu óc. Thân thể ấy, đầu óc ấy cũng như thân
thể đầu óc kia vậy, không hơn, không kém. Nếu
chúng ta làm đặng điều gì đắc lực về tương
lai, định vận mạng cho xã hội, định vận mạng
cho nòi giống, cho Tổ Quốc là đều do chí cương
quyết của ta hiệp chủng đồng tâm, nhứt trí,
đa số tinh thần thống nhứt lại, thì cái hành
tàng năng lực mới có thể hoạt bát đặng.
Các
con cũng như Thầy, Thầy hồi nhớ lại khi mới
mở Đạo, một thân côi quạnh bên cường quyền
áp bức. Đạo lúc đó còn đương trong buổi phôi
thai như trứng mỏng kia. Đời lại bị lệ thuộc.
Dân nghèo đồng bào khổ não, cảnh tượng chết
trước mắt, chết lần, chết mòn, làm cho tinh thần
của Bần Đạo thống khổ biết bao nhiêu. Nhưng
Bần Đạo vẫn cương quyết rằng, một thân làm
không nổi, mà cái sở vọng của ta quyết đem ra
cứu nước, cứu dân thì nó thì nó sẽ đoạt được
cái sở vọng ấy. Nếu ngày giờ nào ta có thể
nào tạo các thanh niên đoàn hậu tấn của chúng
ts họ nhứt tâm nhứt đức, thì ta mới có thể
thể cứu vãn tình thế vận mạng nước nhà và
chủng tộc đặng.
Vì
cớ cho nên ta phải cố gắng, các con ngó thấy
buổi sơ khai Đạo như thế nào ? Nước nhà các
con thế nào ? Vì Thầy cũng có đầu óc như các
con chớ có lạ chi đâu. Có lạ chăng là nhờ huyền
diệu Chí Tôn ban cho Thầy để thống hợp cả tinh
thần các con lại làm một cho nên hình, nên tướng
và Thầy giảng cho các con hiểu thêm rằng : Buổi
nọ thiên hạ đã áp bức, chê đè, nhục mạ Bần
Đạo biết bao nhiêu, nhưng Bần Đạo có thể an
ủi đặng là Bần Đạo tự nói rằng : Một thân
ta có thể các người chà đạp đặng, chớ khối
hậu thuẫn tương lai chưa hề ai chà đạp đặng.
Vì
chí hướng cương quyết và can đảm ấy, nên hôm
nay tinh thần Đạo Đức này vẫn tiếp tục triển
mãi và thống nhứt lụng lại làm một khí cụ
vững chắc và mạnh mẽ hơn định vận mạng cho
nước nhà đương nhiên bây giờ đó vậy.
Tinh
thần các con cũng như tinh thần của Thầy, hết
thảy đều đem chí hướng tương lai, nòi giống
do đám thanh niên của mấy con đào tạo thế nào,
thì cái hình trạng của Thầy đào tạo các con
thế ấy. Rồi đây nó sẽ từ từ tiến tới với
một vẽ đẹp của chúng ta, chúng ta hãy cố gắng
làm cho hiện tướng ra đặng đào tạo cả tương
lai kia, thì chúng ta mới có thể định trước một
tương lai tốt đẹp cho nòi giống nước nhà đó
vậy.
Mấy
con Học Sinh Nam ! Nữ ! Ở thế gian này có hai năng
lực tinh thần là :
1/- Chữ Tài
2/- Chữ Tâm
Chữ
tài với chữ Tâm mà các nhà Triết Học chúng ta
buổi trước đã trích điểm, họ đã để hình
trạng nó như thế nào, họ tả ra cái hình trạng
của nó vô hình. Nhưng các bậc tiền nhân nòi giống
của chúng ta đã rạng tỏ một cách có thể nói
sáng suốt tỏ rỏ không có gì gọi là mờ ám.
Chữ
Tài, chữ Tâm kia, hai tinh thần đó giờ phút này
nó tương đương với nhau, và nó tranh đấu đặng
định hướng cho Nhơn Loại, và định tương lai
cho nòi giống hay chăng ? Có chớ, nhưng chúng ta
cần phải coi lại tình trạng đương nhiên chúng
ta ngó thấy rõ rằng : Chữ tài với chữ Tâm hai
tinh thần đó giờ phút này nó đương tranh đấu
với nhau, tranh đấu để định vận mạng cho Nhơn
Loại đó vậy.
Ở
phương Âu dường như chữ Tài thắng hơn chữ Tâm,
chữ Tài ấy nó đã xô Nhơn Loại đi đến địa
điểm nào ? Thử hỏi hai trận đại chiến ở Âu
Châu nó làm cho Nhơn Loại giết lẫn nhau phải chăng
là một bài học hay ho về chữ Tài ấy hay chăng
? Còn chữ Tâm kia vẫn mịch mờ biến mất theo
thời gian.
Phải
chăng Đức Chí Tôn đến đặng làm cho rỏ ràng
chữ Tâm nơi Á Đông này hay chăng ? Có lẽ Bần
Đạo tin quyết như thế đó. Nếu Nhơn Loại không
tin tưởng chữ Tâm, lại chạy theo chữ Tài, thì
sẽ đi đến chổ tiêu diệt. Vì cớ cho nên chúng
ta phải nhìn nhận rằng : Chữ Tài, chữ Tâm phải
đi đôi với nhau. Nếu chữ Tài mà không có chữ
Tâm thì không được. Còn chữ Tâm mà không có
chữ Tài cũng không được.
Hai
cái tinh thần tâm não ấy của Nhơn Loại nó phải
đi đôi với nhau mới có thể bảo tồn vĩnh viễn
mạng sống của Nhơn Loại trên mặt Địa Cầu
này. Ghê gớm hơn hết là giờ phút này vận mạng
tương lai của Nhơn Loại có thể tiêu diệt đặng
trong khi Nhơn Loại hưởng được chẳng biết một
phần thưởng hay một hình phạt về tương lai.
Hai khối tinh thần ấy nó có một quyền lực vô
biên vô đối, nó có thể cứu vãn sanh mạng Nhơn
Loại nơi mặt Địa Cầu này là chữ Tâm, mà cũng
có thể tiêu diệt cả toàn thể Nhơn Loại trên
mặt Địa Cầu này là chữ Tài, là năng lực nguyên
tử đó vậy.
Phải
chăng cái năng lực ấy nó làm môi giới cho chữ
Tài và chữ Tâm thí nghiệm với nhau hay chăng ?
Thầy mong ước các con ngó vào chữ Tâm mà chuẩn
đích, chữ Tài nó là thừa, vù chữ Tâm của nòi
giống mấy con đã 4.000 năm lập nghiệp dưới lệ
thuộc của các sắc dân mạnh mẽ, đa số dưới
Hoàng Đồ nước Tàu đã bảo vệ tinh thần nòi
giống cho tới ngày nay còn tồn tại vĩnh viễn.
Tâm ấy nó chẳng đâu xa, chỉ tìm kiếm là có
hiển nhiên, vì nó ở trong đầu óc của các con,
trong năng lực của các con. Các con thâu đoạt cả
tương lai của thiên hạ đem làm khí cụ đặng
định hướng cho tương lai của mấy con mà thôi.
Ngày
18 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)
53.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ
DỤ
GIÁO CHỨC VÀ HỌC SINH TRƯỜNG LÊ VĂN TRUNG TRONG DỊP LỄ PHÁT PHẦN
THƯỞNG.
Thưa
Chức Sắc Thiên Phong Nam, Nữ, Chư Viên Quan Nam,
Nữ đã có lòng hạ cố đến dự lễ làm cho càng
thêm long trọng cái lễ phát phần thưởng cho mấy
em Học Sinh. Bần Đạo xin kiếu lõi quí Ngài Bần
Đạo để lời cùng Quân Đội có công lập ngôi
Trường Lê Văn Trung này.
Các
con trong Quân Đội, một lần nữa Thầy để lời
cám ở các con và Thầy thú nhận rằng : Thầy đã
hưởng được cái vui hứng của các con đã làm
được. Các con đã thắng được mặt trận ngoài
tiền tuyến, mà về mặt tinh thần các con cũng
toàn vẹn, cái sự làm của các con từ thử đến
giờ bên võ bị của các nước có lẽ ít làm đó
vậy. Thầy đã nói chí khí sự làm của các con
hôm nay là một điều hi hữu bên võ chức, nó sẽ
nêu lên toàn cầu mà chớ.
Thầy
đã thường nói và Thầy đã tự nghĩ, nếu như
Thầy không có giao nơi tay của các con một cái
câu Bảo Sanh Nhơn Nghĩa đặng bảo vệ cho Tổ Quốc,
binh vực đoàn em của các con được sống còn và
đem vào cửa Đạo, vì cửa Đạo là một cửa Thiêng
Liêng Hằng Sống, một cửa để cứu khổ, một
cửa để giải mê cho thiên hạ, thử coi mặt luật
ấy nó như thế nào, các con thử nghĩ, cái lẽ
bất công của thế gian đương buổi hôm nay, họ
đang dùng cái mạnh hiếp yếu, lấy cái khôn chê
cái dại, họ đã nương nơi quyền lực nào ? Phải
chăng họ đã nương cái quyền lực của quân đội
mà làm những điều đáng tiếc ấy. Thầy đã nói
các con chưa hiểu thấu, vậy Thầy chỉ cho các
con hiểu theo lối văn minh Âu Châu đã nói "Bras
séculier". Còn văn minh của Á đông thì dùng
thủ đoạn này. Quân đội của các nước phụng
sự cho Nhơn Loại về chơn lý thì ít, còn về cái
áp bức tâm tánh thì nhiều.
Chúng
ta thử nghĩ trong xã hội của chúng ta, dầu một
cái yến tiệc, hay là dầu một cái cơ thể hội
hiệp nào mà rủi cho chúng ta có cử chỉ không
đặng kín đáo nó không đúng mực thước giữa
cả thảy. Nếu trong lúc đó kẻ khó tánh họ đã
trích điểm, và họ cho rằng ta không đáng đứng
giữa xã hội với họ.
Một
lẻ nữa một kẻ sát nhơn kia nó chỉ giết có
một người mà cái Luật công chánh của xã hội
đã buộc đem nó ra Tòa công lý, buộc nó phải
thường mạng. Rồi hỏi lại những kẻ đã giết
người nơi mặt trận hằng hà sa số mà được
thăng phẩm vị và tôn trọng, đem vào xã hội họ
đứng trên đầu thiên hạ, cửa ngực của họ
đầy những biểu hiện danh dự. Hỏi vậy cái công
chánh, công bình của xã hội đương nhiên ở chỗ
nào ? Như vậy thì chưa phải xã hoọi của Nhơn
Loại.
Trái
ngược lụng lại xã hội như thế nó là thù nghịch
của Nhơn Loại mà chớ, vì lẽ ấy mà Thầy đã
hãnh diện cho các con, Thầy được vui, được hãnh
diện giao cho các con cầm giềng Bảo Sanh Nhơn Nghĩa
đem nhơn loại chiến đấu, chiến đấu của các
con về mặt tinh thần, chớ không phải về mặt
danh, vì lợi và tàn sát một cách vô lý vô nhân
đạo cả sanh mạng của loài người đó vậy.
Các
con bên giáo chức, các con đã lãnh sứ mạng tạo
tinh thần tương lai cho nòi giống của các con. Thầy
rất hài lòng về việc đó, các con nên cố gắng
thêm lên chút nữa.
Bần
Đạo nhớ lại khi mới mở Đạo có một vị giáo
chức đến dâng sớ vấn nạn Đức Chí Tôn còn
xưng là A, Ă, Â. Đức Chí Tôn cho một Bài Thi để
trả lời :
Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh,
Đạo
Đời tuy biết Đời rằng trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.
Đức
Chí Tôn chỉ nói một điểm quang minh mà thôi. Vậy
các con hãy dạy cho em các con một điểm quang minh
đó. Các con cố gắng tạo điểm quang minh ấy cho
cả thiếu sinh là đoàn em của mấy con, và nó sẽ
thừa kế vận mạng của Đạo, của Tổ Quốc,
của nòi giống, rồi các con sẽ thấy nó không
tự kiêu, tự đắc, cái hãnh diện cao thượng đó,
dầu cho một kẻ nào khó tánh bao nhiêu cũng phải
cúi đầu tôn tặng đó vậy. Chính mình Bần Đạo
thấy trước cái hành tàng cao thượng của các
con, Thầy cũng phải cúi đầu kính mến và tôn
tặng. Thầy để lời cám ơn các con đã cho Thầy
hưởng được hạnh phúc ấy.
Các
con Học Sinh Nam, Nữ, các con ngó đoàn anh của các
con, rồi các con sẽ định vận mạng tương lai
của các con như thế nào ? Các con đã thấy cái
sống của Thầy các con trước mắt là sống eo
hẹp, sống vất vả, sống đau khổ không buổi
nào mà Thầy thấy cái sống của Thầy các con đặng
mãi mãi hạnh phúc. Mấy con muốn trả ân ấy cho
xứng đáng, Thầy chỉ có một điều là mong cho
các con khôn ngoan sáng suốt đặng khi ra trường
lập nên thân danh làm cho rạng rỡ danh thể Thầy
của các con. Một lời tâm huyết Bần Đạo để
trong tâm não của mấy con đặng làm định hướng
cho mấy con đó vậy.
Giờ
phút này trong đường Đạo của mấy con có hai
điều trọng yếu về tinh thần là : Yêu Ái và
Chơn Thật. Nếu các con giữ được hai điều ấy.
Thầy dám chắc dầu cho gặp khó khăn trở ngại
bao nhiêu trên đường tiến bước, Bần Đạo quả
quyết nó sẽ cải hóa một cách dễ dàng và êm
thắm.
Tại
Đền Thánh, đêm 18 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)
54.- ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT
ĐẠO
TRONG
CUỘC LỄ ĐĂNG ĐIỆN
"XÁ LỢI PHẬT"
Hôm
nay chúng ta thiết Tiểu Đàn An Vị Xá Lợi của
Đức Phật Thích ca. Bần Đạo đã để Xá Lợi
Phật tại Nghinh Phong Đài 3 ngày 3 đêm cho con cái
Đức Chí Tôn chiêm ngưỡng Đức Phật Thích Ca.
Hôm nay đã đủ 3 ngày Bần Đạo hành Lễ An Vị
cho Ngài. Chúng ta hân hạnh được Đức Chí Tôn
ban cho đặc ân nơi Tòa Thánh, tức nhiên Đức Chí
Tôn đem Đức Thích Ca về ở cùng chúng ta. Cái
hạnh phúc ấy giá trị thế nào Bần Đạo không
cần phải minh tả.
Ngộ
nghỉnh là những điều Đức Chí Tôn làm bao giờ
cũng dành để cho chúng ta một sự ngạc nhiên,
và Xá Lợi Đức Phật Thích Ca là gì ? Bần Đạo
giải nghĩa cho toàn thể
con cái Đức Chí Tôn hiểu : Khi Đức Phật
Thích Ca qui vị, thì Ngài để Di Chúc cho cả Mộ
Đệ của Ngài Hỏa táng, tức nhiên thiêu cái thi
hài đó, Thi hài của Ngài đã đốt nhưng chẳng
hề khi nào tiêu hết, vẫn còn lại mấy miếng
xương của Ngài dư thừa lại không cháy gọi là
Xá lợi.
Buổi
sau này nước Anh, tức nhiên Anh Quốc hiệp lại
với nước Ấn Độ mới đào lên được một cái
hộp bọc pha ly, trên nóc có để chữ rằng "Di
Hài Xá Lợi Đức Phật Thích Ca" lúc đó nước
Anh mới lấy cả hộp Xá Lợi ấy. Sau này nước
Ấn Độ được Độc Lập mới đòi nước Anh phải
trả Xá Lợi Phật cho Ấn Độ. Nhưng Ấn Độ buổi
đó cuộc cách mạng tranh chủ quyền độc lập
vẫn còn ở trong Liên Hiệp Anh. Mãi đến sau này nước Ấn Độ
mới hoàn toàn độc lập, nhưng trong nước Tín
Ngưỡng về Phật Giáo tức nhiên Đức Phật Thích Ca đã giảm
suy nhiều. Trong số 3.500 triệu Dân, mà Tín Đồ
chỉ có 10 triệu thôi, thành thử vì cái lẻ loạn
lạc của nước, chính phủ nghĩ rằng : Để trong
nước e Xá Lợi có thể bị mất, nên dành để
có một mớ, chia cho Tích Lan một mớ, Đức Narada
Théra đem hiến cho Tòa Thánh Ngọc Xá Lợi là người
Tích Lan đó vậy.
Trước
kia Tích Lan dâng Xá Lợi Phật ấy cho Nhật có đi
ngang qua Đông Dương (Sài Gòn) cuộc tiếp rước
ấy rất nên long trọng. Tín Ngưỡng về Phật Giáo
của Sắc Dân Việt Nam rất nồng nàn thế nào thì
các vị Đại Đức đã ngó thấy trước mắt.
May
thay : Ông Bửu Chơn là người Việt nam, nhưng Ngài
là Môn Đệ của Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông
Phật Giáo Tích Lan. Ngài Bửu Chơn muốn xin Ngọc
Xá Lợi để trong nước Việt Nam , nên Đại Đức
Narada Théra đem cho nước Việt Nam ba hột Ngọc
Xá Lợi Phật, một cho Đại Thừa, một cho Tiểu
Thừa, lại còn một hột để cho Tiểu Thừa Phật
Giáo tại Kiêm Biên, tức nhiên là Miền Quốc.
Trong
cái tình trạng của các Môn Đệ của Đức Phật
Thích Ca nơi nước Việt Nam Phái Tiểu Thừa có
hạnh phúc thống nhứt lụng lại. Còn Đại Thừa
thì phân vân. Thành thử hột Ngọc giao cho Tiểu
Thừa đã thọlãnh, còn Đại Thừa họ đương rắc
rối không có định đoạt, họ tính để Ngọc
Xá Lợi ấy lại đó, rồi họ chung hợp với nhau
cất một cái Tháp đặc biệt để Thờ. Thành thử
Ngọc Xá Lợi dành đề Đại Thừa giờ phút này
Đức Narada Théra giao cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ
Cung, do ý Ngài muốn cho nơi nào tuỳ ý để quyền
cho Đức Hoàng Thái Hậu Từ Cung định liệu.
Ba
cây Bồ Đề cho Tiểu Thừa một cây, cho Tiểu Thừa
Phật Giáo Miên Quốc một cây, còn một cây của
Đại Thừa đem về Tòa Thánh. Hột Ngọc Xá Lợi
đem về Tòa Thánh hôm nay là đặc biệt của Đại
Đức Narada Théra, Phó Giáo Tông của Đạo Giáo
Tích Lan, lấy của tư của Ngài hiến cho Tòa Thánh.
Chúng ta thấy cả hành tàng cả sự khó khăn đem
Ngọc Xá Lợi về Tòa Thánh đều do nơi công nghiệp
vĩ đại của Ngài Bảo Sanh Quân Hiệp Thiên Đài,
tức nhiên Phó Thủ Tướng Việt Nam đương giờ
này là Ông Bảo Sanh Quân Lê Văn Hoạch, Ông đã
chịu nhọc nhằn cả thảy con cái Đức Chí Tôn
đều ngó thấy. Ngài hạ mình xin cho đặng Ngọc
Xá Lợi ấy thế nào ? Nên hôm Ngài trở về Sài
Gòn, Bần Đạo nhân danh toàn thể con cái Đức
Chí Tôn và Hội Thánh Nam, Nữ Lưỡng Phái để
lời cám ơn Ông Bảo Sanh Quân rồi, và Bần Đạo
sẽ cho các cơ quan Chánh Trị Đạo làm một tờ
chúc thơ cảm tạ công nghiệp của Ngài.
Đức
Phật Tổ tức nhiên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Boudda
Cakyâmouni) cả thảy con cái Đức Chí Tôn đã nghe
Đức Narada Théra thuyết Đạo rồi. Ngài nói Đức
Phật Thích Ca là những người như ta, có xác thân
như ta, sống chết như ta, chớ không phải là người
ở trong thần thoại. Nhưng cái cao siêu về tâm
hồn của Ngài, về tiền căn Thiêng Liêng của Ngài
đã lên tới Phật vị. Ngài tái kiếp làm người
với mãnh thân phàm của Ngài cũng như ai kia vậy.
Cái
quí trọng của Đức Phật Thích Ca
họ đã nhìn nhận cái cao siêu về linh hồn
của Ngài trước khi chưa đầu kiếp. Các
Tôn Giáo bao giờ cũng vậy, họ muốn tôn tặng
Giáo Chủ của họ lên một địa vị phi phàm, tức
nhiên họ đặc ra nhiều lẻ dường như ảnh hưởng
của thần thoại. Tinh thần con người bao giờ cũng
vậy, sợ chết, muốn sống, mà cái sống ấy muốn
thế nào cho trường cửu với họ mới được.
Hại
thay ! Cảnh Hằng Sống không phải ở thế gian này
với thi phàm xác tục của ta, mà cảnh Hằng Sống
ấy nó ở nơi cõi Thiêng Liêng Vô Hình kia. Cảnh
ở thế gian này là cảnh đau khổ, họ muốn cho
các vị giáo chủ của họ phi phàm họ bài ra nhiều
cái thuyết thần thoại, giờ phút này làm cho khoa
học phải trợn trạo đánh đổ về cái lý lẻ
ấy, đánh đổ rất khoa học không thế gì chối
cải được.
Nào
là họ nói Đức Chúa Jésus do một người đồng
trinh tự nhiên đẻ ra, chính mình trong Đạo Sử
của Đức Chúa Jésus, Cha của Ngài
là Ông Thánh Joseph, Mẹ của Ngài là Bà Marie,
họ lại nói Đức Phật Thích Ca khi xuất thế ở
trong nách của Bà Maya mà ra, Đức Lão Tử cũng
thế, họ làm cho giờ phút này cả Tín Đồ các
Tôn Giáo khó giải quyết, họ đem cái lý do thần
thoại nêu ra làm một sự chơn thật.
Hại
thay ! Nếu mọi sự chơn thật nó có thể làm cho
cả đức tin con người phải điên đảo. Chúng
ta ngó thấy cơ thể tạo đoan có âm dương tương
hóa mới sản xuất hình ảnh tức nhiên của tức
nhiên cả kiếp sanh và sanh mạng cả toàn thể vạn
linh nơi mặt địa cầu này. Đừng có nói chi nhiều,
nội điên lực, nếu không cần âm điện và dương
điện thì chúng ta không có ngọn đèn sáng như
thế này được.
Lại
nói đến hơi thở của ta không có âm khí (Hydrogène)
dương khí (Oxygène). Nếu chúng ta không có hơi thở
đó chưa chắc gì chúng ta sống đặng, đừng nói
chi nhiều cả cơ thể tạo đoan không có hàn nhiệt
ôn lương, thì vạn linh nơi mặt địa cầu này
chưa chắc họ sống còn và tồn tại được.
Huống
chi cái luật tạo đoan phải có Cha Mẹ, có âm dương
của Cha Mẹ mới sản xuất cái nhơn hình của chúng
ta. Thành thử Đức Phật Thích Ca cũng sanh như ai
kia vậy. Nhưng Tiền căn của Ngài cao siêu hàng
phẩm của Ngài tới Phật vị, cho nên sự sáng
suốt khôn ngoan của Ngài phi phàm hơn hết nên cả
nước Tích Lan (Ceylan) đều gọi Ngài là Mâu Ni
tức nhiên một vị Hiền Triết vô đối của họ.
Họ tôn tặng chức tước, tôn trọng Đức Thích
Ca xứng đáng quá chừng, cũng như Đức Chúa Jésus
Christ nhờ thiên căn sáng suốt thành thử người
ta gọi Ngài là "Le Saint des Saint" (một vị Thánh
trên các Thánh) Đức Lão Tử, Đức Khổng Phu Tử
cũng thế, các vị ấy đều do nơi tiền kiếp phi
phàm mà thôi, chớ các vị ấy xác tục cũng như
ta, người cũng như ta, sống chết cũng như ta, đầu
óc trí não cũng như ta, sống trong cảnh khổ não
cũng như ta.
Bần
Đạo ước mong các con cái Đức Chí Tôn hiểu đặng
các điều chơn thật ấy, đặng Tu, cố gắng làm
sao cho phi phàm, làm sao dòm tánh đức của Đức
Chí Tôn thế nào ? Học đòi cho đặng Huệ Quang
của Ngài ban cho thì trí não ta mới thông suốt
như Ngài đặng.
Trước
kia Đức Phật Thích Ca
đã thành Phật đặng, thì chúng ta cũng thành
Phật đặng, chính Ngài làm bằng chứng lẻ ấy.
Bần Đạo mong mỏi cả con cái Đức Chí Tôn cố
gắng học đòi như Ngài đặng thành Phật như Ngài
vậy.
Tại
Đền Thánh Đêm 30 tháng 5 năm Quí Tỵ (1953)
ĐỨC
HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO VỀ
55.-
TÁNH-ĐỨC HẠ MÌNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG
Mấy
em Thanh Niên Nam Nữ Lưỡng Phái.
Đêm
nay Bần Đạo giảng đặc biệt cho mấy em đó.
Cái tương lai cơ nghiệp Đạo, tương lai của Thánh
Thể Đức Chí Tôn đào tạo cho mấy em, mấy em
sẽ nối chí cho chúng Qua hay là mấy em lập thân
danh đặng một ngày kia vào hàng Thánh Thể Đức
Chí Tôn tại thế này. Qua còn giảng giải cho mấy
em đi trong khuôn khổ của Đức Chí Tôn. Muốn cho
mấy em phải đào luyện nên Qua nói phần Tu tức
nhiên trau dồi tánh đức của mấy em đặng xứng
đáng cái phận sự trọng yếu của mấy em tương
lai ngày sau kia.
Hôm
nay Qua giảng về sự thật và cái hay của tánh
đức hạ mình và khiêm nhượng đổi lụng lại
phản lực của nó là : Tự cao, tự tôn, tự đại.
Chúng
ta thử xét đoán về mặt thế này, ta mang thi phàm
xác thịt cũng như ai, ta xét đoán lại coi ta có
hơn ai chăng? Có đặng hơn cái chi mà ta tự cao,
tự tôn, tư đại? Cũng ở trong lòng mẹ mà ra,
ai cũng sanh trong một kguôn luật như ta. Thân hình
cả thiên hạ nơi mặt địa cầu này 2.700 triệu
người, ta thử so sánh có thể hơn 2.700 triệu người
đó hay chăng? Mà ta tự tôn, tự đại. Ta cũng như
một hột cát ở bãi sa mạc kia.
Lấy
theo tình lí mà luận, đầu ta cũng một đầu, thân
ta cũng một thân, ta không phải ba đầu sáu tay
hơn ai mà ta tự tôn, tự đại, nếu lấy theo hình
thể mà luận thì thân này thế nào, thì thân của
bạn đồng sanh ta cũng như ta vậy. Ta không có lí
do gì gọi ta hơn kẻ đó, hơn bạn đồng sanh ta
mà ta tự tôn, tự đại. Nếu như ta luận về mặt
tinh thần tại sao ta còn được Đại Từ Phụ ban
cho ta khôn ngoan khéo léo, biết nên, hư, phải, quấy,
lấy tinh thần đặng định hướng cái cái mạng
sống của mình coi có mục đích chuẩn thẳng không?
Oâi! Thoảng như bạn đồng sanh ta thiệt thà hơn
ta, ta ngó thấy, nếu ta hơn bạn ta là nhờ căn
tu của ta dày hơn họ chút thôi, còn căn tu của
họ mỏng hơn ta một chút mà thôi lấy theo lí luận
về căn tu ấy, thì ta hơn họ, hơn mảy may mà thôi,
hơn môt chút xíu thôi, không phải đủ mà ta tự
cao, tự tôn, tự đại. Trái ngược lại, nếu người
bạn đồng sanh thiếu kém hơn ta, khiếm cảnh tu
hơn ta, mạng căn quả kiếp nặng nề hơn ta, thì
ta phải thương yêu họ, tội nghiệp dùm họ, chớ
ta không co quyền nào thù ghét họ, coi họ la hèn
hơn ta, ta cao trọng hơn họ là không có lí do vậy.
Bây
giờ trái lại cái phản lực đó. Chúng ta thử
nghĩ coi, mình phải khiêm nhượng chơn thật hay
xảo trá? Nếu kẻ nào tự cao, tự tôn, tự đại,
mà giờ phút này không biết hạ mình đặng chiều
chuộng người, thì đời nó thiên hạ không buổi
nào thương được, dầu cho từ buổi nhỏ dĩ chí
100 tuổi già đến chất nó vẫn học mãi thôi,
không buổi nào gọi tự đủ. Đời nó 100 tuổi
vẫn tìm tàng học mãi học sách Đời, học sách
Thánh Hiền để lại học cả hay ho khéo léo của
các vị Giáo Chủ Đạo Đức tinh thần để lại,
mà nếu không biết khiêm nhượng thì không ai thèm
dạy mà chúng còn ghét là khác, nếu kẻ nào như
vậy thì chúng bỏ xó phải chịu cái phận khổ
não mà thôi không ai thèm dạy hết, bởi vì người
ta ghét, không ai ngó ngàng tới đâu có dạy dỗ
gì mà nên được, dầu cho một kẻ thiếu niên
kia mà biết khiêm nhượng phục sự một ông già.
Tuổi mình đang thanh niên mà đặng ông già giáo
hóa mình, khi tuổi mình còn non mà trí đặng già
là nhờ biết khiêm nhượng. Còn như những kẻ
không biết hạ mình hiu hiu tự đắc, tự cao, tự
đại, thành ra cái giá trị của nó đối vơi thiên
hạ vì kiêu một chút mà người ta bất mãn, vì
nó tự cao, tự tôn, tự đại, xấc xược dối
trá không đánh giá gì hết, mà lại chọc cho thiên
hạ ghét gớm thân danh mình thì dầu cho học bao
nhiêu người ta cũng vẫn ghét vẫn gớm thôi.
Bây
giờ cái tính đức của sự khiêm nhượng, lấy
theo hình thể mà luận, mình biết thân mình, mình
vẫn kiếm thế học mãi. Mình vẫn hạ mình kiếm
thế hiểu lấy mình và biết người, thì sự khiêm
nhượng hạ mình có cái hay, dầu cho cái giá trị
của mình không nên gì hết, nhờ sự khiêm nhượng
mà người ta thương mình, nâng đỡ mình, dìu dắt
mình, đưa mình lên phẩm vị xứng đáng với mình,
cũng nhờ sự khiêm nhượng ấy mà người ta tôn
tặng. Cái đó nói thiệt là hơn, còn những kẻ
tự cao, tự tôn, tự đại, nếu mình đi con
đường nguy hiểm tới trước mắt chết cũng thây
kệ mình cũng không ai nói, là vì chúng ghét. Nhưng
hại thay! Chúng còn bắt mình làm một sanh vật
để họ thí nghiệm.
Bây
giờ lấy tinh thần mà luận, sự khiêm nhượng
buộc mình phải khiêm nhượng, chính mình chưa đủ
gì hết.
Đức
Khổng Phu Tử kia còn bị một đứa con nít là :
Hạng Thác dạy Ngài thay! Đến khi gặp Đức Lão
Tử Ngài nói, cái thuyết Nhơn Luân để tạo xã hội cho thế gian. Cái
thuyết của Ngài, nếu ta nghĩ Đạo của Ngài thì
rộng không biết bao nhêu, mà đạo của Ngài đối
với Đức Lão Tử nó vẫn thơ sinh, thì chẳng hề
khi nào làm thỏa mãn đặng cả nhơn tâm, của thế
thái nhơn tình được. Cái thuyết lập xã hội
thơ sinh của Ngài đối với Đạo của Đức Lão
Tử thì nó già, còn của Đức Khổng Phu Tử còn
thiếu niên, còn thơ ấu nên bị ngài trích điểm.
Thử
nghĩ một vị thánh như Đức Khổng Phu Tử bị
một đứa con nít dạy, rồi bị Oâng già chê mà
Ngài cũng khiêm nhượng, nên chúng ta nhìn nhận
Ngài là một vị Thánh sống hiển hiện tại thế.
Còn
những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại bất quá làm
hề cho một người thiếu trí coi chơi chớ cái
giá trị không đáng gì hết, rốt chuyện thiên
hạ coi nó là giả không có giá trị chi đâu, mà
tự cao, tự tôn, tự đại.
Bần
Đạo nói: Những kẻ tự cao, tự tôn, tự đại
là giả dối, người đó không còn cái giá trị
gì đặng sống cùng thiên-hạ xã hội nhơn quần,
vì họ mất cả tinh thần cả hình thể đó vậy.
Aáy
vậy mỗi kiếp sống của chúng ta đây, Bần Đạo
thường giảng là cái kiếp duyên, chỉ sống đây
là một kiếp thường mà thôi còn cái tánh đức
tự cao, tự tôn, tự đại không khi nào thiên hạ
thương được, nên cái kiếp sanh ấy xét ra sống
chi vô ích không ăn thua gì hết.
Bần
Đạo thường giảng, cái sự yêu thương là một
của cải Thiêng Liêng, nếu cả toàn thể con cái
Đức Chí Tôn tạo nó đặng, thì dầu cho Cửu Phẩm
Liên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới vô cũng đặng.
Bần
Đạo đã nói: Nếu chúng ta làm cho người chí thân
ta, trong thân ta, máu thịt ta, thương ta được,
giá trị nó là: Đồng.
Làm
cho những kẻ không phải trong thân ta, người ngoại
nhân kia, thương ta được giá trị nó là : Bạc.
Làm
cho những kẻ thù địch ta, thương ta được giá
trị nó là : Vàng.
Ba
món bán ấy mà tạo đặng, thì cái kiếp sanh này
dầu cho Cửu Phẩm Thiên Hoa ở Cực Lạc Thế Giới
vô cũng đặng.
Tại
Đền Thánh Đêm 14 tháng 6 năm Quý Tỵ (1953)
ĐỨC HỘ-PHÁP GIẢNG VỀ
56.-
NĂNG-LỰC TINH-THẦN
ĐỐI VỚI HÌNH-THỂ
Đêm
nay Bần đạo giảng về cái năng lực của tinh
thần đối với hình thể, hay nói về năng lực
của tâm hồn đối với xác thịt muốn nói rõ
ra hơn nữa là Quyền năng thiêng liêng đối với
hành vi kiếp sống.
Bần
đạo đọc một tờ báo, luận về Đông Đức đã
đứng lên phản kháng cả hành tàng vô nhân đạo
của khối cộng sản. Tội nghiệp thay! Một nước
liệt cường như thế hôm nay đã bị bại trận,
nước chia ra làm đôi, dân chịu thống khổ, bị
hai quyền năng áp bức.
Một
là đồng minh dân chủ bên Tây Đức. Khối của
Nga tức nhiên Cộng Sản bên Đông Đức cho nên
công thợ lúc ấy không còn quyền, nên phải đình
công đặng bảo vệ quyền lợi của họ.Nhứt nhứt
dầu phương thế trọng hay khinh đều ngó thấy
có tay của chánh phủ định hết.
Về
công thợ cũng thế! Về chủ nhân cũng thế! Chánh
sách của Cộng Sản trước, binh vực về quyền lợi
của công thợ tức nhiên lấy cái tài sản của
chủ nhân đặng họ mua lòng công thợ. Mua lòng
công thợ đặng chi? Đặng giục họ làm cách mạng
cho thành công, khi đã thành công cho họ rồi, họ
nắm chủ quyền trong tay thì họ từ từ đi đến
địa điểm của họ. Day qua quyền lợi của chủ
nhân ho ïphế hũy cả quyền lợi công thợ, làm
cho dân thợ sống một cách chật vật, thiếu thốn,
nghèo nàn. Nhất là một nước mới bị bại trận,
nước nghèo dân khổ, thêm bị chủ quyền chuyên
chế chịu không nổ, đến đổi dùng hai bàn tay
trắng đối thủ với thiết giáp, súng đồng. Họ
đã liều hy sinh tánh mạng của họđả đảo quyền
độc đoán của Cộng Sản. Vì thế cho nên Bần
Đạo nói: Dầu cho năng lực quyền hành hình thể mạnh bạo thế
nào cũng không thế gì đè nén làm cho tinh thần
họ lệ thuộc được. Thật vậy, sự thật là
vậy.
Chúng
ta đã ngó thấy, từ cổ chí kim có cái cường
lực hình thể nào làm cho họ khủng khiếp, sợ
hải chăng? Họ chỉ lấy cái thân hình mà làm cái
mạnh bạo của họ. Hể thuận mạng lịnh của
họ thì sống, trái mạng lịnh thì họ giết chết.
Cái năng lực
hình thể có bao nhiêu quyền năng nương cái chết của thiên hạ là căn bản mà thôi,
nên làm cho tinh thần họ càng lừng lẩy coi cái
chết là thường, thật vậy, cái chết không nghĩa
lý gì hết. Trong khi có kẻ vì tình cảnh thống
khổ về hình xác của họ mà tự tử, tức nhiên
họ tự vận. Họ chết trong giá trị mảy may mà
thôi, chớ không phải chắc chắn, đến khi thiên
hạ coi chết ấy là rẻ, bởi tinh thần chủ quyền
thi hài của người cốt yếu là con vật, nếu không
có chủ quyền tinh thần thì phải bị hủy bỏ.
Còn như muốn bảo vệ tồn tại thì tinh thần phải
định chủ quyền của mình, khi tinh thần đã nhứt
định nắm chủ quyền tay rồi thì không còn lực
lượng nào đè nén nó được.
Chúng
ta đã ngó thấy. Trước kia Công Giáo tức nhiên
Đạo Thiên Chúa hay Đạo Gia Tô bị Judas đè nén
một cái quyền biết bao nhiêu. Nó đã bắt Đạo,
giết Đạo, hồi Đạo mới phôi phai, tưởng rằng
nền Tôn Giáo hôm nay có quyền làm bá chủ của
tâm hồn thiên hạ. Cái chếât vì Đạo nên cả
Đền Thờ sang trọng của Thánh Giáo Gia Tô hôm
nay chúng ta thấy trước mắt, nó đã xây dựng
bằng xương máu của các Thánh Tử Đạo đó vậy.
Hồi
Đạo Phật xuất thế. Đạo Bà La Môn ỷ nắm quyền
Đạo trong tay bắt buộc làm cho thống khổ không
thế gì tả được, vì Dân NaVa, mà hôm nay Đạo
Phật đã lan tràn khắp Ngũ Châu, thì cái mạnh
của Đạo Phật sẽ còn tồn tại mãi mãi mà chớ
!.
Còn
Đạo Cao Đài chúng ta đã ngó thấy, nền Chơn Giáo
của Đức Chí Tôn, hồi buổi phôi thai thế nào,
họ đã dụng quyền lực mưu chước, quỷ quyệt
xảo trá, cáo gian, cái tâm vô nhơn đạo họ đã
đối với ta, tức nhiên họ muốn liệu phương
thế nào tiêu diệt Đạo Cao Đài trong buổi mới
phôi thai cho rồi.
Ngộ
nghỉnh thay! Cũng thế, không có quyền lực nào
đè nén lệ thuộc tinh thần của Đạo được,
nên hôm nay Đạo Cao Đài vẫn còn tồn tại và
Bần Đạo quả quyết rằng : Nó sẽ tiến đến
cực điểm danh dự đặng cứu khổ thiên hạ. Trái
ngược lại, nếu thiên hạ còn thống khổ đau
đớn chưa có cơ quan nào an ủi chia sớt cho họ.
Thực sự là cái năng lực hình thể mạnh mẽ buộc
thiên hạ múa men trước mắt kia không chắc chắn,
vì cái quyền năng tinh thần vẫn làm chủ
của nó.
Ngày
14 tháng 6 năm Quí Tỵ (DL. 3-8-1953)
57.- ĐỨC HỘ PHÁP PHỦ
DỤ TRONG DỊP LỄ KHAI TRƯỜNG
HUẤN LUYỆN TẠI GIANG TÂN.
Thầy
để lời chào các con Thượng Hạ Sĩ Quân Quân
Đội.
Thầy
đã giao cả sở vọng giáo hóa của đoàn em các
con định vận mạng tương lai của Quân Đội trong
tay, dầu nên hay hư là do sự khéo léo giáo hóa
của mấy con dạy đoàn em lập Đức, lập Công
và định vận mạng tương lai Tổ Quốc của nòi
giống.
Các
con Sinh Viên, Thầy hằng nói với các con rằng :
Thầy đã chịu biết bao hoàn cảnh, mà từ thử
đến giờ dám chắc các nhà Đạo Đức chưa có
chịu khảo đảo nào như Thầy. Thầy nói thật
cùng các con cái tương lai của các con. Thầy trọn
giao nơi tay các con định trong buổi đương nhiên
bây giờ. Thầy đã nói cả cái gia nghiệp tương
lai của Tổ Phụ các con để lại đã 4.000 năm.
Thầy đem cho các con làm, không cho các con đi trên đường khác, là tại
sao ? Vi các con là trai, cái phận cung kiếm của
các con lập công, Thầy không phương nào để cho
các con đào tẩu trước một phận sự tối Thiêng
Liêng, mà các con đã hy sinh xương máu để bảo
vệ cho nòi giống các con. Thầy đã chịu nhiều
khổ não về mặt Đạo. Thầy làm sao cho không còn
quyền năng nào đè nén lệ thuộc các con được.
Thầy tranh dấu khổ não, thì giờ phút nầy chính
mình Thầy để cho các con thoát vòng nô lệ ấy.
Các con biết điều ấy cho Thầy ngay vậy !
Từ
ngày Thầy ở Hải Ngoại về, các con đã ngó thấy
trước mắt những hành vi của Thầy, như lời của
Đại Tá Tham Mưu Trưởng nói với các con khi nãy.
Thật vậy. Nếu không có cái tinh thần phi thường
không có cái trí não quyết định đặng điều
nên lẻ hư. Trong cả hai điều ấy, mà định mạng
tương lai chắc chắn của Tổ Quốc các con, thì
có lẽ các con thấy đó vậy !
Thầy
đã nhẫn nại đổi từ mức. Thầy đổi cũng vì
vận mạng tương lai Tổ Quốc của các con đó thôi.
Chẳng phải nói cho các con biết đăïng điều ấy,
hay là một kẻ thù các con biết, mà Thầy muốn
cho toàn thể nhơn loại nòi giống ở mặt địa
cầu này điều biết hết nên Thầy thắng là thắng
điều đó.
Bảy
tám năm nay Thầy đã dìu dắt các con đi trên con
đường chiến đấu, vô bờ bến. Trên đường
chiến đấu các con đã phí biết bao công trình
xương máu mà nó kết liễu ngày hôm nay là định
vận mạng trong buổi nầy. Các con phải có năng
lực địng vận mạng tương lai của các con cho
mỗi đứa tức nhiên các phần tử tự định vận
mạng của mình, nên Thầy mới dạy Quân Đội mở
Trường Huấn Luyện lại đặng đem cả tinh thần
Đạo Đức dạy người, dỗ người, năn-nỉ ỉ-ôi
phục lụy người, nhưng cũng không có đủ, phải
nhờ phận kiếm cung của các con phải làm sao cho
rõ thiệt dưới bóng cờ “Tận Trung Báo Quốc”.
Nó không phải dùng cái quyền sanh sát và cũng không
phải dùng cái quyền bằng gươm đao mà định vận
mạng hay buộc người phải tùng phục cái quyền
hạn của mình, không đâu ! Còn thiếu ! Thiếu một
cái hồn là : Cái năng lực tinh thần, nếu cái
năng lực tinh thần yếu ớt dầu cho các con có
một cái đại nghiệp kinh dinh đủ quyền năng giết
người, các con cũng không thế nào phục người
đặng.
Cổ
ngữ có nói : “ Giữa mặt trận ta có thể giết
tướng được, chớ cướp chí người không phải
dễ “.
Aáy
vậy, các con vì nó đã hy sinh xương máu rất nhiều
rồi, muốn thắng thì trong tay các con phải có cái
quyền năng tinh-thần ấy, các con phải xét đoán
nghê sợ cho lắm ! Mà định phận của mình.
Tại
Đền Thánh.Đêm 29 tháng 6 năm Quí Tỵ (1953)
ĐỨC
HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO VỀ
58.-
HAI CHỮ CHƠN VÀ GIẢ
Đêm
nay Bần Đạo luận về hai chữ “Chơn” và “Giả”.
Hể gọi là Chơn thế nào cũng gọi là Chánh. Nhứt
là về Đạo thuyết. Còn Giả gọi là Tà. Hai tiếng
biện luận từ thử đến giờ nhức là phần đông
kẻ Tu hành ra nơi miệng thường khoe mình tầâm
chơn. Bởi cái chơn ấy chúng ta phải mượn tiếng
của người Pháp Le Vrai est en rapport avec La Réalite
nó phù hạp với chí lí. Le vrai est en rapport avec
le bon raisonnement. Giải nghĩa là: Chơn, chơn ấy
làm thế nào cho chí chơn, Le vrai est en rapport. Cái
Chơn ấy nó phải ăn hiệp với tính chất của
chơn lí.
Hai
chữ Chơn, chữ Giả đã để cho mặt Đời luận
biện không biết bao nhiêu mực viết, họ muốn
tầâm chơn ở bên Duy Vật: Matérialisme tức nhiên
là thuyết chí, lấy cái sống làm căn bản cái
sống ấy nó hiện ở trong con vật của đương
nhiên bấy giờ ở thế gian này, ta sống giờ này
đây phải tìm phương pháp nào để bảo toàn được
cái sống ấy, dầu cho nó vô nhân đạo, tàn ác,
cả hành vi bất chánh thế nào miễn bảo vệ cái
sống còn tồn tại của họ. Họ chỉ bảo vệ
sao cho được hơn cái sống của kẻ khác, họ cho
là chơn của họ. Phần nhiều cái lý thuyết ấy
ở nơi miệng của kẻ giục tấn ở đường đời
của họ hơn hết thảy.
Ở
mặt thế gian nơi giữa thế kỷ nầy cái thuyết
ấy nó đã làm cho thiên hạ mùi mẫn mê theo. Cái
chơn lý của họ gọi là lý thuyết độc đoán,
thật vậy !
Sống
giữa thế kỷ nầy một nền văn minh phát triển
máy móc nếu sống mà không có trường hợp tranh
đấu đặng bảo vệ sanh mạng, thì thấy cái sống
của con người ta khó khăn không biết thế nào,
vì lẽ khó khăn ấy, trong trường hợp tranh đấu
không có đủ năng lực, nên dường như con người
bị đào thải ra khỏi xã hội nhơn quần. Vì cớ
cho nên họ tranh đấu đặng sống cho lấy đặng,
có khi trong trường tranh đấu họ đắc thế gặp
đường chiến đấu đã đa số hơn họ. Họ làm
chúa các sanh mạng trong tay họ để đọat cái sở
năng ấy rồi, thì họ gọi là chơn lý, gọi là hay hơn hết, là chơn
thật chánh đáng hơn hết. Đó là luận theo cái
thói tục của đời. Còn luận theo Đạo các vị
Giáo Chủ trước khi đọat Pháp đặng, thì họ
ngó thấy ngoài ra tâm hồn của họ với họ, ngoài
ra họ với họ, không có cái nào chơn thật ở
tại mặt thế gian nầy. Bởi cớ cho nên bọ đi
kiếm cái ngã tướng của họ, biết lấy họ mà
thôi, cái thuyết ấy ở bên Châu Aâu Ôâng Pythagore
và các nhà Triết Học bên Aâu Châu đã tìm được
chơn lý ấy, tiếng Pháp gọi là : Conscience, là
chỉ người tìm biết lấy ý thức lương tâm người
thôi. Họ thử nghĩ cái đường lối sanh sống với
bạn đồng sanh của họ là một trường hợp giả
dối không có cái gì thiệt trước mắt họ hết.
Chính mình cái sống của họ cũng giả với họ,
tức nhiên họ biết cái mảnh thân của họ dối
gạt họ.
Muốn
tìm cho biết cáu chơn được thì họ phải tìm
cái chơn trong tinh thần với tâm hồn của họ mà
thôi, lấy tâm hồn họ đối với tinh thần, lấy
ngã tướng chơn thật của họ chớ không phải
với ai.
Vì
cớ cho nên cái thuyết của Tiên gia "Lánh tục
tầm Tiên" vì lẻ đó.
Ta
thử để dấu hỏi ? Một thuyết Duy-vật thế đó,
còn một thuyết Duy-tâm thế đó, hỏi chớ cái
nào thiệt ?
May
thay Bần Đạo hồi ở tại Thủ Đức nhờ Đức
Chí Tôn cho Đức Lý Giáo Tông đến giáo hóa thì
hai đứa luận biện về lý thuyết ấy rất đáo
để. Đức Lý Giáo Tông mới lấy thuyết ấy nói
rằng : Sự thật làm thế nào mình biết mình thật
mới ra thật, chưa làm gì thật chưa biết mình
là thật, mình muốn tìm đặng biết là chữ thật,
thì đã ngó thấy cái sống của mình, nó biết
mình không có cái gì thật hơn là phải chia cái
sống đặng đồng sống.
Trong
khi ta đã thọ một điểm tinh của Cha, đã thọ
một huyết bổn của Mẹ đặng tượng hình của
ta, thì ta đã thiếu nợ máu thịt thiếu nợ sống
của ta rồi đó, nếu ta bỏ cái nợ đó, ta gọi
là chơn thì phi lý.
Bây
giờ ta sống ta nhờ có xã hội nhơn quần tức
nhiên kẻ đồng sống cùng ta, họ chia từ hột
cơm tấm áo, ta sống ta chia sớt với họ phương
nào ? Không thể cho ta hết, trong khi ta đã nhờ
kẻ nào mà ta đã sống, ta bảo kẻ đó không khi
nào là chơn thật.
Aáy
vậy, theo cái thuyết của Đức Chí Tôn đã nói
rằng : "Cái sự chơn thật của các con thì
các con phải thùy từ mẫn khổ. Giờ phút nào các
con thấy trước mắt các con đầy những sự khổ
não mà thiên hạ họ không có phương nào giải
khổ ấy đặng, các con cũng không an ủi nâng đã
cho họ bớt khổ, thì các con không khi nào đạt
Chánh giáo đặng".
Chúng
ta đã ngó thấy, Đức Chúa Jésus đã chia từ miếng
bánh mì, chia từ miếng cá cho kẻ nghèo.
Ta
ngó thấy Đức Thích Ca đi hành khất đem về cấp
Cô Độc Viện để nuôi kẻ nghèo đói.
Ta
ngó thấy Đức Lão Tử, là một vị Quan nhà Châu,
mà Ngài còn bỏ Quan đi theo dạy một học trò là
Ôâng Doản-Hỉ vì lẻ bất công của xã hội nhơn
quần, bất công của cả cái sống ở thế gian,
nên cái phương an ủi tâm hồn ta ngó thấy từ
trước đến giờ không có vị Giáo Chủ nào không
lấy căn bản thùy từ mẫn khổ làm chơn thật.
Aáy
vậy, nền Chơn Giáo nào mà không theo thuyết của
Đức Chí Tôn và Đức Lý đã dạy, dầu cho cái
thuyết họ cao siêu thế nào, nhưng họ chưa có
thể chia khôt cùng nhơn loại, tức nhiên chúng ta
để dấu hỏi. Mơ hồ không phải là giáo chánh.
Tại
Đền Thánh Đêm 14 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ
59.- LUẬT THƯƠNG-YÊU,QUYỀN CÔNG-CHÁNH
Đêm
Bần Đạo giảng Luật Thương Yêu, Quyền Công Chánh
của Đức Chí Tôn đã đến Ký Hòa Ước với chúng
ta, để cả chơn truyền trong tâm hồn của ta.
Bần
Đạo giảng về Luật Yêu Thương và Quyền Công
Chánh đối với lẻ sống hiện tại của nhơn loại.
Chúng ta đã ngó thấy, cả toàn thể nhơn loại
nơi mặt địa cầu nầy, các dân tộc, các Quốc
Gia Liệt Cường bị đảo lộn rối loạn, Nhơn
Loại không được hưởng thái bình của Đức Chí
Tôn hứa hẹn là do nơi khuôn Luật Thương Yêu và
Quyền Công Chánh không có hiện tượng tại thế
nầy.
"Nhơn
tâm chi linh" tâm con người ta bao giờ cũng vọng
niệm thay đổi và theo luật định thiên nhiên của
họ. Họ muốn dùng hòa cả tâm lý nhơn loại, nhứt
là hạng thượng lưu trí thức của nhơn loại đã
đặt quá nhiều luật pháp, quá nhiều quyền hành,
mà hễ càng đào tạo nhiều luật pháp và nhiều
quyền hành chừng nào thì nhơn loại càng ly loạn
chừng nấy, ở các nước giờ phút nầy cả nền
chánh trị toàn thể nhơn loại bị đảo lộn. Họ
muốn tìm cái giải pháp làm cho dung hòa tâm lý
đặng đem cái hòa bình thiệt hiện.
Hại
thay ! Họ đã tìm tàng không biết bao nhiêu phương
pháp, họ định không biết bao nhiêu luật lệ mà
không kết liễu gì hết. Bởi có các luật lệ
ấy tùng theo luật tương đối nó vẫn mâu thuẫn
nhau mà thôi, mặt luật duy nhứt là mặt luật yêu
thương mà thiên hạ quên lững thiên hạ đã bỏ
nó.
Hai
thay ! Bỏ nó thì nhơn tâm không có căn bản không
có chuẩn thằng mực thước. Chúng ta thử nghĩ,
trong một gia đình nếu không khuôn luật yêu thương
ấy không có, thì chồng không thuận vợ, vợ chẳng
thuận chồng, con không thuận cha, cha chẳng thuận
con, tôi không thuận chúa, chúa chẳng thuận tôi.
Hỏi ta lấy cái tối thiểu luận ra cái tối đại
kia, trong gia đình ta chỉ dụng cái gia nghiêm mà
thôi, gia nghiêm là khuôn luật yêu thương trong gia
đình. Nếu ai đi ngoài vòng khuôn luật yêu thương
ấy thì không được, gia nghiêm buộc họ phải
tùng theo khuôn luật yêu thương ấy mà thôi.
Chúng
ta thử hỏi ? Một bằng cớ hiển nhiên con ta không
phải lớn hơn ta, mà tới chừng khuôn luật thương
yêu bắt buộc ta tùng theo khuôn khổ thiên nhiên
của nó.
Ngộ
nghỉnh thay ! Con ta đủ quyền sai khiến ta, vì tình
thương yêu lợi dụng ta được mà thôi. Chúng ra
thử lấy cái tối thiểu ấy so sánh với cái tối
đại cả nhơn loại nếu mất luật thương yêu
thì đem sự sống của nhơn loại đến chỗ tương
tàn sát giết hại lẫn nhau, làm cho mặt địa cầu
nầy phải chinh nghiêng, làm cho tâm lý nhơn loại
đảo điên.
Chúng
ta đã ngó thấy chán chường, thiên hạ đã nói
tìm hòa bình, mà trong hòa bình ấy luật yêu thương
ấy không hiện diện, không có kết liễu hình tướng
được, thì họ chỉ mò trăng nơi đáy biển mà
thôi.
Cái
khuôn luật thương yêu nó làm mực thước cho chúng
ta đặng định quyền công chánh trong một gia đình,
nếu vợ không công chánh với chồng, chồng không
công chánh với vợ, thì gia đình không thể gì
hòa đặng. Vua không hòa chánh với tôi, tôi không
công chánh với vua, không lấy tâm nào làm mực
thước thì trong nước không có hòa đặng. Nhơn
loại cả toàn thể không có công chánh đối đãi
với nhau, thì nhơn loại ly loạn mãi thôi, chẳng
hề khi nào hưởng được cái hạnh phúc hòa bình.
Aáy
vậy khuôn luật của Đức Chí Tôn để trong cửa
Đạo, là khuôn Luật Thương Yêu và cái quyền hành
Công Chánh.
Giờ
phút nào nhơn loại biết lợi dụng mặt luật và
quyền năng ấy mới đem cái hạnh phúc hòa bình
cho nhơn loại tương lai tới đây. Bằng chẳng vậy,
thì cái nạn tương tàn, tương sát vẫn tiếp tục
mãi mà thôi.
Ngày
15 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)
60.- ĐỨC HỘ-PHÁP TỎ
BÀY CẢM-TƯỞNG TRONG NGÀY CHUẨN-BỊ LỄ KHÁNH THÀNH VĂN PHÒNG BAN QUẢN TRỊ CHỢ LONG HOA
Bần
Đạo nhận thấy được cái sự nghiệp kinh doanh
do tinh thần đoàn kết, cái đời sống an nhàn no
ấm do công bình nhân ái của mấy em tức là Bần
Đạo đã được hưởng một phần hạnh phúc tại
thế đó vậy. Nếu nhơn loại biết trụ cả đức
tin lại làm một khối thì không có chuyện gì mà
nhơn loại làm không đặng.
Qua
mấy năm, Bần Đạo rất trông cậy ở lòng nhiệt
thành của toàn thể hảy giúp cho Ban Quản Trị
và Hội Thánh hoàn thành Chợ Long Hoa thiệt, vì
hiện giờ chỉ là tạm thôi. Khi thiệt thọ rồi
Bần Đạo dám chắc rằng đời sống của mấy
em sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu tươi đẹp
nũa và ngôi nhà chung của chúng ta là một Tông
Đường để đào tạo đám thơ sinh tiếp tục làm
Thánh Thể Đức Chí Tôn thừa chí đem hết năng
lực, tâm tình đặng cứu khổ Chúng Sanh.
Ngày
16 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)
61.- LỜI PHỦ DỤ CỦA
ĐỨC HỘ PHÁP TRONG LỄ KHÁNH THÀNH VĂN
PHÒNG BAN QUẢN-TRỊ LONG-HOA THỊ.
Trước
khi mở lời Bần Đạo xin để lời cám ơn các
Chức Sắc Thiên Phong, các Sĩ Quan, các nhà cầm
quyền của cơ quan Chánh Trị Đạo.
Bần
Đạo khi nảy tới giờ nghe mấy em tỏ cái tình
cảm đối với Bần Đạo. Về mặt công nghiệp
cỏn con phận sự Thiêng Liêng của Bần Đạo phải
làm. Nhứt là mấy em Nam, Nữ Lưỡng Phái, các con
cái yêu dấu của Đức Chí Tôn phải hiểu rõ sứ
mạng Thiêng Liêng của Bần Đạo là gì ? Rồi mấy
em mới đủ tinh thần nghị-lực định-quyết cái
phận của Đạo đối với Đời.
Giữa
thế kỷ 20 nầy cả tinh-thần toàn-thể nhơn-loại
nơi mặt địa cầu nầy bị thuyết Duy-Vật đã
làm cho họ điên đảo cả tâm hồn, Bần Đạo
cả quyết rằng: Nhơn loại trong buổi nầy bị
thống khổ về tâm hồn nên Đức Chí Tôn cũng
vì lẻ nhơn loại thống khổ ấy, Ngài đến lấy
Quốc Đạo của của Tổ Phụ mấy em để lại
tức nhiên là Đạo Nho để cứu vớt phần hồn
nhơn-loai đó vậy.
Thật,
Bần Đạo không có ngờ một Văn Hiến một Phong
Hóa cổ truyền quí hóa Tổ Phụ mấy em đã để
lại cho mấy em, ngày hôm nay nó trở thành một
cái báu vô giá cho nhơn loại. Thật, Qua không có
buổi nào tưởng đến, rồi về phần tâm hồn
về phần trí thức tức nhiên phần hồn của nhơn
loại.
Bần
Đạo tưởng Đức Chí Tôn đã đến cho nhơn loại
một huờn thuốc phục sinh của họ do nơi kho vô
tận Tổ Phụ của mấy em để lại tức nhiên Đức
Chí Tôn đến lấy Nho Tông đặng chuyển thế.
Ngoài
ra nữa Đại Từ Phụ lại lập Hội Thánh, hôm
nay Bần Đạo đứng đây nói rõ Hội Thánh của
Ngài là gì ? Bần Đạo đã nói rằng : Vì nhơn
loại thống khổ nên Đức Chí Tôn đã đến đặng
chia khổ cùng con cái của Ngài. Hội Thánh đến
thay thế hình ảnh xác thân của Ngài. Biểu sao
Ngài không giao cho Hội Thánh của Ngài, chung khổ
cùng con cái của Ngài. Lẻ dĩ nhiên là vậy. Nhứt
là từ ban sơ tới giờ. Bần Đạo là người biết
điều ấy hơn hết. Ngài giao cái cơ cứu khổ cho
Hội-Thánh của Ngài thay thế hình ảnh cho Ngài
đặng chia khổ cùng con cái của Ngài.
Thầy
đã nói : Dưới bóng cờ cứu khổ của Đức Chí
Tôn tức nhiên cả Chức Sắc Thiên Phong cả Cơ
Quan Chánh Trị Đạo, Bần Đạo đã đào tạo sứ-mạng
trọng yếu hơn hết là làm thế nào cho mấy em
hưởng đặng hạnh phúc giảm khổ. Qua nói thật,
có chứng Ngài Trần Khai Pháp ngồi đây : Qua buổi
nọ Đạo đương nghèo khổ hèn tiện bị mọi nỗi
áp bức khó khăn, biết phận hèn hạ Bần Đạo
để cả tiếng nói ngay cùng Chánh phủ Pháp rằng
: Ngày giờ nào toàn thể con cái Đức Chí Tôn,
Đạo còn nghèo khổ thì ngày giờ ấy Bần Đạo
không biết tội tình gì khác hơn là làm cho họ
sống với mọi nỗi vinh quang hạnh phúc. Mấy em
trong buổi nghèo khổ kia thấy bắt gió nắn hình
mà Bần Đạo còn cố làm thay, huống chi hôm nay
đã chung về ngồi trong lòng của Đức Chí Tôn,
tức nhiên ngồi nơi Đền Thánh chung vào trong lòng
yêu ái của Ngài, phận sự của chúng Qua bảo vệ
sự sống của mấy em cho đặng hạnh phúc là phận
sự trọng yếu của cả Chức Sắc Thiên Phong Lưỡng
Đài đó vậy.
Hôm
nay Qua đã đặng hạnh phúc, hân hạnh được cả
toàn thể Thánh Thể của Đức Chí Tôn giao phó
cái sứ mạng trọng đại của Hội Thánh. Qua tạm
làm Anh Cả của con cái Đức Chí Tôn hôm nay, thì
mấy em thử nghĩ, cái đó làm cho Qua đã lo lắng
quá lẻ mà chớ ! Qua chỉ sợ cho mấy em, đời
của mấy em hèn.
Hôm
nay chỉ có hai năm Qua còn nhớ lại, khi Qua ra khỏi
nhà Tịnh Trí Huệ Cung, về nơi đây Qua Ban Phép
Lành nơi Chợ Long Hoa là ngày mồng 2 tháng 5 năm
Tân Mão khởi sự làm Chợ Long Hoa thì tháng 7 năm
Tân Mão cho tới tháng 7 nầy thật ra chỉ có hai
năm mà thôi. Mấy em coi cái đức tin của con người,
nếu mà nhơn loại trụ cả đức tin lại làm một
khối thì không có gì mấy em không làm đặng, Qua
vẫn biết cả cái sự nghiệp kinh dinh do tinh thần
họat bát của mấy em, làm cho Qua được hưởng
hạnh phúc trước mắt, cái đền ơn rất trọng
hậu của mấy em đối với Qua đó vậy.
Thử
nghĩ, mấy em ban thưởng cho Qua có hơn điều ấy
chăng ? Không, Qua chỉ ước một điều là mỗi
nhà của mấy em điều đủ sống hạnh phúc nuôi
sấp nhỏ, nuôi cho ăn học, làm thế nào cho cả
gia đình của mấy em được vinh hiển, sang trọng,
Qua sở vọng hơn hết là điều đó.
Chợ
Ngã Năm mấy em đừng tưởng có phép tắc huyền
bí, Qua chỉ thấy chợ Ngã Năm rất sung túc mà
lại ủm thủm chật chội, Qua chỉ biết rằng :
Cái tinh thần của mấy em đi cao tiến triển mạnh,
hơn nữa do vị tổ chức của mấy em mà thôi, đủ
thấy chợ Ngã Năm thế nào ? Đủ địa thế phương
tiện họat động vĩ đại hơn nữa.
Vì
cớ cho nên Qua mới lấy khu rừng 47 mẫu, từ thử
chưa có chợ nào có đặng 47 mẫu, mấy em ngó thấy
chừng vài năm nữa đây sẽ chật hết, Qua đã
ngó thấy chen chúc với nhau rồi đó, Qua liệu phương
làm sao mở mang rộng ra nữa cho mấy em. Nếu Qua
nói một điều trọng yếu của Qua hơn hết, trong
năm tới đây mấy em giúp Ban Quản Trị, cả toàn
thể con cái Đức Chí Tôn nơi Chợ Long Hoa, giúp
thế cho Hội Thánh làm thành tựu cái chợ thiệt,
các em sẽ ngó thấy một cái họat động vĩ đại
mà mấy em làm thành chợ Long Hoa thiệt, thiệt thọ
rồi cái sự sống của mấy em, Qua dám bảo kê
rằng : Nó sẽ tăng thêm không biết bao nhiêu nữa
mà chớ, mà hể cái sống của mấy em mạnh mẽ
chừng nào thì tương lai của đoàn hậu tấn Qua
giao phó sẽ được bảo đảm chừng nấy. Qua mơ
ước sao, mọi nhà của Tông Đường mấy em trẻ
thơ sinh sau kia là con cái của mấy em đào tạo
nên, đặng một ngày kia nối cho chúng Qua tiếp
tục làm Thánh Thể của Đức Chí Tôn thừa chí
đem hết năng lực tâm tình của nó, đặng cứu
khổ thiên hạ, ấy là điều mơ ước của Qua.
Điều Qua mong ước mấy em giúp nó đặng định
lương lai cho Đạo.
Mấy
em nhớ rằng : Cái vinh quang Tổ Phụ của mấy em
đó vậy.
Ngày
18 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)
62.- HUẤN-THỊ CỦA ĐỨC
HỘ PHÁP TRONG LỄ PHÁT THÁNH LỊNH
CHO CHỨC SẮC BỘ NHẠC ĐI
HÀNH ĐẠO NAM, TRUNG, BẮC
& KIÊM BIÊN TÔNG ĐẠO
Thưa
cùng Chư Vị cầm quyền các Cơ quan Chánh Trị Đạo.
Hôm
nay Bần Đạo đến dự lễ nầy trọng yếu đặng
mừng cho cả Chức Sắc Bộ Nhạc lãnh sứ mạng
đặng chỉnh đốn cả Lễ Nhạc y theo chơn truyền
của Đạo.
Các
em, mấy đứa nhỏ, Thầy lấy làm vui mừng thấy
cả tâm Dạo của mấy em biết chọn một con đường
lập thân danh khéo léo. Qua thường nói với mấy
em rằng : Nếu một nền Tôn Giáo mà không có Lễ
không có Nhạc thì cả cái mỹ pháp của nó, dầu
Thể Pháp, Bí Pháp cũng vậy, chẳng hề khi nào
đặng tốt đẹp hoàn mỹ, Qua có giảng cho mấy
em biết, vì cớ nào Nhạc là Lễ, mấy em biết
khuôn khổ của Nhạc, do tinh thần xuất hiện, Qua
chỉ rõ một bằng chứng, dầu cho cả thảy mấy
em từ Nhạc Sĩ cho tới chức lớn của Bộ Nhạc
là Tiếp Lễ Nhạc Quân, mấy em cầm một cây đờn
mà đờn thì không có đứa nào giống đứa nào
hết, bởi cả tinh thần ra trong ngón đờn của
mấy em, đó là cá nhân của mấy em đó vậy.
Aáy
vậy, nhạc nó sản xuất trong tinh thần, mà tinh
thần là gì ? mà tinh thần mới thiệt là Đạo,
tại sao Nhạc là Lễ ? Lễ ngoài Đời mấy em đã
ngó thấy một bằng cớ hiển nhiên, là khi mấy
em đờn hòa cùng nhau, tuy vẫn ngón đờn của mấy
em mỗi đứa đều khác nhau, hay dở đặc biệt
mỗi đứa đều không giống nhau, nhưng mà cái nhịp
trường canh mấy em phải theo nó mà thôi, nếu không
tùng nó thì mấy em chẳng hề khi nào hòa nhạc
cùng kẻ khác được.
Aáy
vậy, trong khuôn khổ hòa với nhau, ấy là Lễ.
Vì cớ cho nên Qua giảng tiếp cho mấy em hiểu,
Lễ và Nhạc do âm thinh đó vậy.
Ngộ
nghỉnh thay ! Giờ phút nầy Qua cho mấy em biết,
chỉ có Dân Tộc Việt Nam về Văn Hóa Nho Tông của
chúng ta mới có đặng một cái Nhạc là điều
do nơi âm thinh và điều Qua đương nói với mấy
em, cái kinh dinh của các sắc dân trên mặt địa
cầu nầy, cả các quốc dân xã hội điều nhận
điều đó. Nước Trung Hoa hay các sắc dân chịu
ảnh hưởng cái Văn Minh Tối Cổ của Nho Tông chúng
ta mới có Nhạc, âm thinh ấy là Lễ. Bằng cớ
hiển nhiên, chính Qua đọc một tờ nghị luận
tại nơi Liên Hiệp Quốc, họ luận rằng : Nếu
cả thảy các dân tộc nơi mặt địa cầu nầu
mà đặng giữ gìn cho còn Lễ cũng như nước Tàu
đã được Lễ tối cổ của họ, cả những điều
nghịch hẳn cùng nhau, khởi hấn cùng nhau giữa
hội nghị của Liên Hiệp Quốc chẳng hề khi nào
xảy ra, nếu có xảy ra là tại họ vô lễ cùng
nhau mà chớ. Do nơi vô lễ ấy mà nhơn loại chịu
thống khổ hai phen đại chiến hoàn cầu, mấy em
nghĩ, họ vô lễ cùng nhau cho đến nước họ đập
bàn ghế ra khỏi Hội nghị của Quốc Tế là tại
họ thiếu Lễ, mà Lễ là Nhạc. Qua lấy một bằng
cớ rõ ràng người Pháp đã nói:”La musique adoucir
les moeurs”. Nhạc làm cho phong hóa luân lý tốt
đẹp dịu dàng, mà không phải một mình nước
Pháp mà thôi, mà cả các Liệt Quốc Aâu Châu đều
cũng nói vậy.
Aáy
vậy, giờ phút nầy Qua ký Thánh Lịnh cho mấy em
đi các nơi, cốt yếu đặng mấy em đen cái ngôn
ngữ điều hóa, lấy một ống tiêu mà Trương Lương
đã làm cho tan vỡ một đạo binh hùng tráng của
Hạng Võ, đánh tan nát cơ nghiệp của Sở, thâu
đạt cơ nghiệp ấy đem lại cho nhà Hớn, duy có
ống Tiêu Trương Lương mà thôi.
Giờ
phút nầy, Qua giao cho
mấy em một sứ mạng làm sao cho thiên hạ nghe Oáng
Tiêu Trương Lương của mấy em đặng tinh thần
nòi giống mấy em đứng dậy định tương lai vinh
quang cho mình, với cái giọng ngọt dịu của mấy
em, làm cho thiên hạ thức tỉnh, diệt tiêu bớt
hung hãn bạo ngược, trái lại đem đến một con
đường hòa huởn, cao quí, tốt đẹp, êm dịu đem
lại cái Đạo Đức tinh thần chiến thắng để
cứu vãn sanh mạng loài người. Bởi giờ phút nầy
họ đang đi đến con đường diệt vong mà chớ.
Tại
Đền Thánh Đêm 30 tháng 7 năm Quí Tỵ (1953)
63.-
ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ HỘI-NGHỊ
ĐẠi Đoàn KẾt
Thưa
cùng Chư Chức Sắc Thiên Phong và Chư
Đạo Hữu Nam, Nữ Lưỡng Phái.
Khi
Bần Đạo đến Sài Gòn đặng mở cuộc Hội nghị
thì hay tin rằng : Trong các Tôn Giáo, Nhứt là bên
Công Giáo đã ra lịnh cho toàn bộ Tín Đồ của
họ đều làm lễ cầu nguyện, đặng cho các lực
lượng Quốc Gia tinh thần cũng như thể chất, hiệp
nhứt cùng nhau, để tổ chức cho thành vấn đề
"Đại Đoàn Kết" của toàn thể Quốc Dân
Việt Nam, hầu làm hậu thuẩn cho Đức Quốc Trưởng
Bảo Đại thương thuyết cùng Pháp đặng đem địa
vị của mình đứng trong Liên Hiệp các Quốc Gia.
Còn
vấn đề thiệt hiện độc lập của chúng ta nó
không còn là vấn đề nữa, dầu muốn, dầu không,
quyền độc lập chúng ta phải thâu hoạch tự giành
lại mà thôi.
Thật
sự cái hại nhứt trong nước từ cổ trào tới
bây giờ chỉ có nhiều mưu chước, trước kia nhà
vua cũng thế, mà sau nầy quyền lực của Pháp cũng
thế. Họ dùng cái phương pháp chia rẻ phận sự,
nhứt là Sắc Dân Việt Nam chủng tộc của chúng
ta hay bị cái nền móng chia rẻ hơn hết đừng
nói chi ngoài xã hội nhơn quần, nơi trong gia đình
kia cũng có tinh thần chia rẻ nữa, rồi Bần Đạo
nghĩ chẳng khác gì một cây cổ thọ kia với niên
cao trong bao nhiêu năm, mà bị cái tay huyền bí của
thiên hạ áp bức thân thể nó để làm cây kiển
họ chơi.
May
thay ! Đức Chí Tôn đem lại trường hợp ấy nó
không thể còn tồn tại được nữa. Chính mình
Bần Đạo lãnh cái sứ mạng đem cây kiển của
thiên hạ áp bức trồng xuống một miếng đất
phì nhiêu, để thành hình cây cổ thọ, đặng chi
? Đặng cho toàn thể nhơn loại hùng núp dưới
cái bóng mát của nó.
Thật
sự ra, kỳ Bần Đạo đi đây vĩ lẽ đến mở
cuộc Hội nghị "Đại Đoàn Kết" mà thôi,
chớ chưa có Liên Hiệp Quốc Gia thống nhứt đại
đoàn kết được. Cái tay bí mạt đủ quyền hành,
đủ năng lực đã tìm những mưu mô bí mật để
phá hoại. Nhưng Bần Đạo cho con cái Chí Tôn hay
rằng : Đã có thiên mạng nơi mình, Bần Đạo quả
quyết không có tà mưu nào làm trở ngại đường
tiến triển và giải thoát Quốc Dân Việt Nam của
Đức Chí Tôn đã phó mác cho Bần Đạo. Không có
cái quyền năng nào làm trở ngại đường tiến
triển của nó đặng, và Bần Đạo quả quyết
thế nào cũng thắng mà thôi.
Cái
phương pháp đầu tiên của Bần Đạo là Bần Đạo
kêu gọi tất cả các Đảng phái Quốc Dân Pháp
và Việt, đừng xảo mị mưu chước cùng nhau, phải
lấy thuyết tâm cháng đặng cư xử với nhau thì
mới có thể giải hòa và đem quyền lợi hạnh
phúc cho hai sắc dân được. Nhứt là Dân Việt
Nam đã đòi nền độc lập và thâu hồi cái đại
nghiệp tinh thần của chúng ta đã 4.000 năm Văn
Hiến, Phong Hóa chánh trị đường lối mà từ Thượng
Cổ đến giờ các quốc dân của toàn thể nhơn
loại đã chịu biết bao ách nước, nạn dân, cũng
lắm khi muốn thâu hoạch cho kỳ được nền độc
lập ấy.
Hại
thay ! Có một điều rất mắc mỏ là họ hy sinh
không biết bao nhiêu xương máu, trước kia cũng
thế mà nay cũng thế, giờ phút nầy chúng ta quyết
hy sinh để đạt cho kỳ đặng Hoàng Đồ của Tổ
Phụ ta đã truyền lại.
Hội
Nghị sơ khởi "Đại Đoàn Kết" Bần Đạo
đã quyết theo đuổi hai năm nay mới thiệt hiện
đặng, dầu cho những trở lực nào mạnh mẽ bao
nhiêu bất quá là làm cái vị trí mà thôi, chớ
không khi nào ngăn cản được cái năng lực tranh
đấu của chúng ta được.
Bần
Đạo mở cuộc Hội nghị "Đại Đòan Kết"
đặng tổ chức các Uûy Ban liên lạc từ Nam chí
Bắc, đặng thống hiệp các lực-lượng Quốc Gia
lại làm một và y theo lịnh cuả Đức Hoàng Đế
Bảo Đại đã phó thác cho Bần Đạo, lại lập
một Uûy Ban đặng đem ra ký hòa ước cùng Pháp
chớ Chánh Phủ không còn quyền ký hòa ước nữa
mà lại là để cho quyền của Dân định liệu.
Đức Quốc Trưởng
muốn vậy đặng một ngày kia Quốc Dân Việt Nam
không thể nói, ký hòa ước với Pháp do một mình
Ngài hay Chánh Phủ của Ngài. Aáy là Ngài muốn
thiệt hiện 3 chữ "Dân Vi Quí" của Ngài,
kể từ hôm nay đã gọi dân quyền, nên Bần Đạo
sợ ngày Sóc Vọng ở nơi Thánh Địa con cái của
Đức Chí Tôn trông ngóng. Bần Đạo lật đật
về Cúng Sóc Vọng đặng tỏ cái hành trình buổi
hội cho con cái Đức Chí Tôn biết, rồi Bần Đạo
còn phải trở xuống tiếp tục hội nữa, để
đem cái mục đích tối yếu, tối trọng đặng
lập thành Quốc Gia thống nhứt và cả toàn thể
Quốc Dân thống nhứt, Bần Đạo sẽ tiếp tục
đi Hội Nghị Quốc Dân toàn Quốc.
Đêm 17 tháng 8
năm Quí Tỵ (1953)
(Vía Đức Lý Đại
Tiên)
64.- SỰ HIỂN-LINH & UY-QUYỀN CỦA
ĐỨC LÝ GIÁO-TÔNG
Đêm nay là ngày
Vía của Nhứt Trấn Oai Nghiêm Kiêm Giáo Tông Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Lý Giáo Tông
chúng ta lấy làm hân hạnh nhờ ơn Đức Chí Tôn
ban cho chúng ta một người Anh Cả Thiêng Liêng hiển
linh quyền năng vô đối, Bần Đạo nhớ lại hồi
buổi ban sơ mới Khai Đạo, thật ra Bần Đạo không
có đức tin gì hết, không có đức tin đến nước
Đại Từ Phụ tức cười. Ngài đến nhà Bần Đạo
năm Sửu dạy dỗ mấy Anh Lớn ngày nay là Chức
Sắc của Đạo, đi đến mọi nhà, thật ra Đức
Chí Tôn đến thăm, đến viếng mọi con cái của
Ngài, Bần Đạo không đức tin gì hết nghe nói
Tiên giáng đi theo nghe Thi chơi, làm cho Đại Từ
Phụ phải tức cười. Ngài cho Bài Thi ai nấy cũng
tốt, duy có Bài Thi của Bần Đạo rất dị hợm
như vầy:
Ngao ngán không phân lẽ thiệt không
Thấy
thằng áp út quá buồn lòng
Muốn giàu
Thầy hứa đem cho của
Cái
của cái công phải trả đồng.
Đại Từ Phụ
còn thêm hai chữ "Nghe con" cho đến bảy
tháng lúc xuống ở Thủ Đức, năm thiên hạ bị
bịnh chướng, khi không khởi phù mình rồi chết,
nhứt là ở tại Thủ Đức, lắm bịnh nhân quá
chừng. Đức Chí Tôn biểu xuống ở Thủ Đức
cứu bịnh cho họ trong 7 tháng xuống ở Thánh Thất
của Đạo, nhờ Đức Lý giảng dạy với ngòi bút,
trọn 7 tháng trường mới biết Đạo. Có cái hay
ho hơn hết là những điều gì Ngài dạy trong Cơ
Bút là những sở hành trong kiếp sanh của Bần
Đạo.
Bần Đạo làm
chứng một Đấng mà Đức Chí Tôn đã lựa làm
Anh Cả của chúng ta linh hiển lạ lùng, không cần
lập đi lập lại, đối với Chức Sắc tức nhiên
cả Thánh Thể của Đức Chí Tôn Bần Đạo cốt
yếu nói cho toàn con cái của Ngài Nam, Nữ Lưỡng
Phái phải định tâm và kiên cố đức tin của
mình, các việc Đức Chí Tôn Tiên Tri, Bần Đạo
vừa nói từ từ, nói đủ hết, Bần Đạo thú
thật nhờ cái linh hiển của Ngài, nhờ Ngài giáo
hóa nên Bần Đạo hôm nay được khối đức tin
mạnh mẽ to tác. Nếu không có nhờ Anh Cả vô biên
linh hiển ấy chắc là phận sự yếu trọng của
Bần Đạo hôm nay chỉ mơ hồ, đức tin yếu ớt,
thiếu đức tin, thiếu cương quyết, thiếu tâm
Đạo vững chắc. Bần Đạo tưởng nếu ba điều
ấy thiếu thì nền chơn giáo không được nên hình
như thế nầy, cả thảy con cái Đức Chí Tôn đều
biết không có nền chơn giáo nào chỉ có hai mươi
mấy năm mà đặng bành trước, danh thể của nó
cao trọng truyền bá một cách mau chóng, như nền
Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn. Hôm nay Bần Đạo
chứng chắc quả nhiên như vậy, cái năng lực của
Đạo hôm nay được như thế này là nhờ Đức
Lý Đại Tiên cầm quyền Thiêng Liêng vô đối,
nhờ người Anh Cả của ta là Đức Lý Giáo Tông
Điều Khiển Quyền Năng Vô Hình của Ngài. Bần
Đạo hôm nay mới đặng cái quyền và năng lực
bành trướng như thế nầy. Có một điều Bần
Đạo dặn trước. Những kẻ tưởng Ngài Vô Hình
coi chừng Ngài, những kẻ thiếu đức tin dám khi
rẻ quyền lịnh của Đạo, oai quyền của Ngài
coi chừng Ngài trừng trị, những kẻ nào phạm
nhầm Thiên Điều Bần Đạo dám quả quyết khó
tránh nơi tay của Ngài. Các con cái Đức Chí Tôn
coi Ngài rất Công Bình. Ngài dạy : Phải lập Công,
lập Đức, lập Ngôn tức nhiên là "Tam Lập"
Ngài rất Công Bình, rất oai quyền, thiên vị chúng
ta nhờ Ngài bảo về không thế gì sơ sót. Đức
Chí Tôn coi Ngài cũng như một Tướng Soái, oai quyền
của Ngài lớn lắm. Ở nơi Ngọc Hư Cung quyền
của Ngài yếu trọng vĩ đại to tác lắm. Cả con
cái của Ngài cũng nên tin nơi Ngài, mong mỏi nơi
Ngài để cả ước vọng và đức tin nơi Ngài.
Bần Đâọ xin khuyên một điều, lớn nhỏ phải
yên tâm giữ Đạo, đừng sơ sót, nhứt là đừng
có ỷ công khi lịnh coi chừng Ngài, Ngài trừng
trị một cách oai quyền, trước mắt Bần Đạo
đã thấy, hai mươi mấy năm lập Đạo cùng Ngài,
Bần Đạo quả quyết như vậy. Chúng ta hãy để
trọn đức tin nơi Ngài một Đấng Công Chánh oai
quyền, nhưng rất yêu ái. Chúng ta được Ngài bảo
vệ cho thật là một sự an ủi vĩ đại trong kiếp
sanh của chúng ta đó vậy.
Tại Đền Thánh
Đêm 14 tháng 9 năm Quí Tỵ (1953)
65.-
ĐỨC HỘ PHÁP TƯỜNG-THUẬT VỀ HỘI-NGHỊ
TOÀN QUỐC
Đêm
nay đi cúng đông đủ, Bần Đạo đoán biết rằng,
tại sao đi cúng đông, thật sự nếu được thường
như vậy thì không có gì hạnh phúc cho cửa Đạo
hơn.
Luật tự nhiên
và lẻ dĩ nhiên vẫn vậy hể khi một ông ch vắng
mặt có người anh thì mỗi hành vi của anh cả
thảy đoàn em đều ngó đến chí ý từ chút từ
điều. Đại Gia Đình Thiêng Liêng của Đức Chí
Tôn đã tạo dựng cho toàn thể con cái của Ngài
cũng thế. Phải,cả con cái Đức Chí Tôn muốn
nghe Bần Đạo thuật lại trong 17 ngày đã Hội
Nghị Toàn Quốc chắc chắn như vậy. Vì lẻ ấy
nên đi cúng đông là phải.
Thật có một điều
làm cho Bần Đạo từ thử đến giờ lấy làm lo
lắng ái ngại hơn hết, đã lãnh sứ mạng Thiêng
Liêng của Đức Chí Tôn giao phó đem cái khối thiên
lương để nơi mặt thế này, chỉ mong một điều
làm thế nào cho toàn thể con cái Đức Chí Tôn
tức nhiên toàn thể Nhơn Loại, đang hòa nhã yêu
ái với nhau, biết nhìn với nhau là bạn đồng
sinh, nghĩa là anh em cốt nhục với nhau vậy.
Chẳng phải khác
nước da sắc tóc, khác chủng, khác nòi, mà nhơn
loại phải chia rẽ nhau, tương tàn, tương sát nhau
cái thảm trạng trước mắt ai có lòng ái truất
thương sanh cũng phải đau đớn, huống chi Bần
Đạo đã lãnh sứ mạng Thiêng Liêng nơi Đức Chí
Tôn làm cho toàn thể con cái của Ngài cộng yêu
hòa ái đem nền Chơn Giáo để phổ hóa chúng sanh
đặng dìu dẫn họ đi đến cảnh Đại Đồng Thế
Giới, chỉ còn nước Việt Nam và Pháp hai bạn
yêu ái với nhau, đã chung sống với nhau có trên
80 năm mà không đem lại một tình yêu ái nồng
nàn dung hòa với nhau một nước cộng hưởng hòa
bình hạnh phúc.
Kỳ hội này Bần
Đạo chỉ có mục đích tìm phương dung hòa làm
cho hai nòi giống hiểu biết với nhau đặng giải
quyết một vấn đề rất nên đau khổ tâm hồn,
là vì không hiểu với nhau mà đã sát phạt tương
tranh cùng nhau.
Hại nổi Đức
Quốc Trưởng đã phú thác cho Bần Đạo cái sứ
mạng Hội Nghị Toàn Quốc ấy. Thật từ thử đến
giờ không có kỳ nào lo lắng cho Bần Đạo hơn
17 ngày nay.
Hại nổi Quốc
Dân Việt nam họ đã mất cả tinh thần không có
tài nào dìu đường cho họ đi trên con đường
nhơn nghĩa công bình đem cả hai vấn đề của Đức
Quốc Trưởng đã định.
1/ - Là
phải định thế nào cho nước Việt Nam được
Độc Lập, về phương diện nầy thì lẽ tự nhiên.
2/ - Là
phải định phương thế liên kết cùng Pháp.
Điều thứ nhứt
vấn đề giải quyết, chính mình Pháp đã định,
vì Pháp Quốc kêu gọi nước Việt Nam do tờ hiệu
triệu ngày 3- 7, nước Pháp đã định giao quyền
Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam, điều ấy có
nói đi nói lại cũng chán. Nước Pháp có giao kiến
nghị cho Việt Nam được Độc Lập. Độc Lập
ấy để giải quyết. Bởi nước Pháp đã trả
hoàn toàn Độc Lập cho Việt Nam. Một điều thắc
mắc hơn hết là phương pháp liên kết cùng nước
Pháp. Bần Đạo chỉ sợ có bao nhiêu đó mà thôi.
Bởi vì chúng mình Bần Đạo biết Liên Hiệp Pháp
chưa hoàn toàn, thế nào tinh thần của toàn dân
Việt Nam cũng có thể trích điểm nên Bần Đạo
lo ngại chỉ có đề xướng một điều để cho
họ lấy độc lập trước, chừng nào độc lập
xong, thành lập Quốc Hội rồi mới định phương
bang giao với Pháp, tránh một điều mà Bần Đạo
đã biết trước một điều quá khích cũng như
vừa xảy ra họ đã đề nghị nước Việt Nam Độc
Lập không trong Liên Hiệp Pháp, thành thử làm cho
cả hai quốc gia náo động không biết lối phải
đi đường nào, một đàng đã 80 năm chung sống
là nước Pháp chỉ sợ có một điều Việt Nam
chưa có thế lực bảo vệ độc lập của mình.
Còn nước Việt
Nam lo có một điều, Việt Minh lại nghĩ rằng :
Không thâu lại được hoàn toàn thì cứ khởi giặc
mãi mà thôi. Chỉ có đọat đặng hoàn toàn độc
lập. Độc Lập là Việt Nam đã đề xướng. Họ
lấy độc lập làm thành lũy, làm binh khí đặng
dấy loạn.
Cả toàn Sắc Dân
Việt Nam muốn dành lại hoàn toàn độc lập ấy
đặng cho cả Việt Minh hết lý do gì tiếp chiến
nữa, hai chí hướng nó đều hữu lý cả, nhưng
chỉ có một điều là không ai hiểu rõ tâm tình
với nhau nên chưa quyết định. Bần Đạo lấy
làm đau đớn một việc giải quyết rất dễ dàng
mà chưa có phương pháp nào làm cho cả hai nước
được hiểu biết nhau, đặng đem lại hòa bình
cho nước Việt Nam và Pháp. Bần Đạo chỉ có cầu
nguyện cùng Đức Chí Tôn, nếu sứ mạng Thiêng
Liêng giao phó cho Bần Đạo thiệt hiện được
giúp đỡ cho hai Sắc Dân hiểu biết nhau, đang thương
yêu nhau, tính toán giàn xếp việc nhà của mình,
đừng để cho ngoại bang dòm ngó, lại nữa Bần
Đạo chỉ mong một điều là nếu như Đạo Cao
Đài có sứ mạng dung hòa cả toàn thiên hạ, về
Tín Ngưỡng, về xã hội ít nữa quyền Thiêng Liêng
giúp cho Bần Đạo thiệt thi nhơn nghĩa, thật hành
phương pháp đem hòa bình hạnh phúc cho toan nhơn
loại.
Tại Đền Thánh
Đêm 14 tháng 10
năm Quí Tỵ (1953)
66.- ĐỨC HỘ PHÁP GIẢNG VỀ THÁNH-Ý ĐỨC CHÍ-TÔN CHUYỂN QUỐC-ĐẠO
Hôm nay cửa Đạo
thêm một tuổi nữa. Thật ra, nếu không phải cái
huyền linh vô đối của Đức Chí Tôn đến đựng
chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn
ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng
và quí hóa như thế nầy.
Đạo
Cao Đài tức Đạo Tổ Phụ của chúng ta chỉ mới
có hai mươi mấy năm thôi, nếu chúng ta kể từ
ngày chuyển thế của nó. Nhưng Thánh Thể Đức
Chí Tôn và toàn thể con cái Nam, Nữ của Ngài nên
nhớ rằng : Đạo Tổ Phụ mấy người đã 2.500
tuổi. Phải nhớ điều đó.
Đêm nay Bần Đạo
giữ lời hứa buổi hôm kia. Bần Đạo nói rõ Thánh
Ý của Đức Chí Tôn đến mức nào và Ngài muốn
gì ? Giờ phút nầy cả toàn con cái của Ngài chắc
có lẽ thắc mắc vì vậy. Nội tình của Đạo
gặp nhiều nỗi khó khăn về mọi phương diện.
Nhưng đối với
Bần Đạo, Bần Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu
khổ nhục chịu khó khăn hay bị chê rẻ khinh khi
thì Bần Đạo lại vui mừng mới chướng chớ !
Bởi mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí Tôn
muốn rửa ráy nó, tô điểm nó đến một địa
vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả
con cái Đức Chí Tôn đều tin nơi Bần Đạo để
con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không ?
Cái khó đảm đương
đương nhiên bây giờ làm cho thêm nhục cơ thể
Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một đài vinh
diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây,
nếu cả con cái Đức Chí Tôn có đức tin thì hiểu
rõ điều ấy.
Trái ngược lại
hể mỗi phen đã gặp khổ hạnh khó khăn chi trong
cửa Đạo thì nhớ lời của Bần Đạo vui đi !
Mừng đi ! Bởi chẳng hề khi nào trật điều đó.
Để quan sát lại coi rồi sẽ thấy cái vinh diệu
của Đạo Cao Đài sẽ đến mức nào trong thời
gian sau đây.
Tại Đền Thánh
Đêm 29 tháng 10 năm Quí Tỵ (1953)
67.-
ĐỨC HỘ PHÁP THUYẾT ĐẠO VỀ
THÁNH-THỂ
ĐỨC CHÍ-TÔN LÀ GÌ ?
Đêm nay Bần Đạo
giảng : Thánh Thể Đức Chí Tôn là gì ? Quyền
siêu thoát của cả con cái của Ngài nơi đây.
Cái Luật Thiên
Nhiên của Tạo Đoan vẫn có một khuôn khổ mà
thôi. Khuôn vàng thước ngọc Đức Chí Tôn đã
để nơi mặt Càn Khôn Vũ Trụ vẫn một khuôn với
nhau hết, nếu chúng ta có chủ tâm tìm hiểu, thì
Luật Thiên Nhiên nó ở trong tối thiểu thế nào,
thì tối đại của nó cũng thế ấy.
Chúng ta đã ngó
thấy làm người sanh trưởng từ khi mới lọt lòng
Mẹ cho đến lớn khôn, chúng ta nhắc lại kể từ
ngày sơ sanh dĩ chí tới 30 tuổi khi mới sanh chúng
ta vẫn còn khờ khạo ngu dốt.
Trong xác thân chúng
ta có 3 báu : Đức Chí Tôn để cho ta là : "Tinh,
Khí, Thần".
Tinh là thi hài
xác phàm của chúng ta, lấy hình vật thú của ta
nó là Tinh.
Trí não khôn ngoan
của ta nó là Khí.
Nguơn linh của
chúng ta nó là Thần (gọi là Linh Hồn).
Ba món báu ấy
nó không có điều hòa, thì con người của ta không
nên gì hết ! Nghĩa là con người ba báu không hiệp
một cùng nhau, không đủ cả ba hiện tượng ra,
thì không nên hình gì hết.
Nhờ vậy nên trong
linh tánh khôn ngoan ta biết hiểu cả cái sống chết
tinh thần Đạo Đức của chúng ta Thánh Thể Đức
Chí Tôn cũng thế, mấy em Nam, Nữ Lưỡng Phái rán
để ý nghe Qua giảng. Thánh Thể Đức Chí Tôn chẳng
phải trong Hội Thánh mà thôi mà cả toàn con cái
của Ngài Nam, Nữ, nếu Qua không nói đến mấy
em mới sơ sinh, nó cũng là đám Thánh Thể của
Ngài, là buổi may duyên của chúng nó ngộ Đạo
"Bá Thiên vạn kiếp nan tao ngộ" bởi cái
may duyên ấy do nơi mấy em đào tạo nó một phần
tử buổi sơ sinh, tức nhiên, kể từ hang sơ sinh
Đức Chí Tôn đã đến lựa từ khi mấy em đã
có trí khôn ngoan cho nhập Thánh Thể của Ngài đứng
vào hàng Chức Sắc Thiên Phong gọi là Chư Thánh,
mấy em mới nên người "Tam thập nhi lập".
Cái phẩm vị Thiêng
Liêng của mấy em nơi mặt thế, phó Trị Sự, Thông
Sự đối với Ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp, trong khi
tuổi của mấy em đã tri thiên mạng rồi, rất
ngộ nghỉnh thay Đức Chí Tôn lấy công bình ấy
đặng lập Thánh Thể của Ngài, Ngài để một
kiểu vở, một khuôn luật tạo đoan hay là gia đình
kia không khác gì hết. Mấy em đã ngó thấy trong
Đạo Đức Chí Tôn đã để hàng Tín Đồ đối
với Đại Từ Phụ, Phó Trị Sự và Thông Sự đối
với Phẩm Giáo Tông và Hộ Pháp, Chánh Trị Sự
đối với Phẩm Đầu Sư, thì mấy em thử nghĩ
coi khuôn khổ Thánh Thể của Ngài không có một
cái gì sơ sót hết.
Tỷ như một hột
kia chúng ta gieo xuống, nó hột xoài thì sanh xoài,
mít thì sanh ra mít, khi mấy em gieo hôt mít xuống
rồi mấy em quả quyết nó sẽ có cây mít, thì
cây mít có ngay, khuôn luật vẫn có một mà thôi.
Qua nghĩ cái độc tâm của người có những quỉ
quyền tưởng đâu sẽ tiêu diệt Thánh Thể của
Đức Chí Tôn được, thì không còn ai nữa. Từ
Tín Đồ đến Hội Thánh chẳng hề khi nào tiêu
diệt nó được, kẻ nào muốn tiêu diệt Đạo
Cao Đài tốt hơn đừng sanh ra bởi chẳng hề khi
nào muốn tiêu diệt Đạo đặng, khuôn luật vẫn
vậy.
Hôm nay Qua giảng
một điều thiết yếu cho mấy em nghe, quyền siêu
thoát. Mấy em xét coi nơi mình mấy em từ chân,
tay trong xác thân cho tới cả tinh thần đầu óc
mấy em nó đều có linh cảm cả.
Khốn nạn thay
! Con người không biết thương nhau mà lại ghét
lẫn nhau, mà hễ ghét lẫn nhau tức nhiên ghét Thánh
Thể Đức Chí Tôn, nếu ghét Thánh Thể Đức Chí
Tôn rồi, thì ngày Qua về cảnh Thiêng Liêng đứng
trước Cực Lạc Thế Giới, mấy em chẳng hề khi
nào chối tội đặng. Nếu mấy em thương nhau không
được phép ghét nhau.
Ngày mùng 1 tháng
11 năm Quí Tỵ (DL. 6-12-1953)
68.-
HUẤN-THỊ CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRONG
LỄ THĂNG QUYỀN
TỔNG TƯ-LỆNH QUÂN-ĐỘI CAO-ĐÀI
CHO
THIẾU
TƯỚNG NGUYỄN THÀNH PHƯƠNG.
Thưa cùng Chư Chức
Sắc Thiên Phong Nam, Nữ Lưỡng Phái,
Các Đại Diện
Chánh Phủ Pháp, Nam,
Các Quan khách.
Bần Đạo để
lời cảm ơn các Ngài đã có mặt hôm nay làm cho
cuộc lễ thêm phần long trọng. Bần Đạo xin kiếu lỗi các
Ngài cho Bần Đạo tỏ nổi tâm tình của Đạo
đối với các Sĩ Quan và Chiến Sĩ Cao Đài.
Các con ! Nền Văn
Minh Tối Cổ của Tổ Phụ các con để lại là
Đạo Nho, mà chính mình Thầy là người Đức Chí
Tôn tuyển chọn lãnh trách nhiệm Thiêng Liêng bảo
vệ nền văn minh ấy. Thầy nhớ lại
khi Đức Khổng Phu Tử hỏi Môn Đệ của
Ngài, nhứt là trong Thất Thập Nhị Hiền. Ngài
tìm hiểu đức tánh của mỗi Môn Đệ, Ngài hỏi
:
- Nếu như nước
Tề đem binh đánh nước Triệu, hay là nước Yên
đánh nước Tề. Các ngươi phải nghĩ sao ?
Các Môn Đệ đều
nói :
-
Như vậy phải hiệp lại làm một lực lượng,
để đủ năng lực quyết chiến diệt Tề.
Ngài nói :
-
Cái kế đó chỉ để bảo vệ vận mạng nước
mình mà thôi, chớ chưa phải đại đồng.
Duy có một người
Môn Đệ đứng đầu của Đức Khổng Phu Tử là
Thầy Nhan Hồi, tức là Nhan Uyên, Thầy nói :
- Nếu thoản như
đệ tử đã gặp trường hợp như thế, thì chính
mình các con sẽ chọn một lập trường bình đăûng,
để khỏi đao binh đổ máu tàn sát lẫn nhau.
Khi Thầy ở hải
ngoại về đối với Quân Đội Cao Đài, Thầy thú
thật cùng các con. Thầy quyết định cho các con
phải hy sinh làm con tế vật để đứng giữa vòng
binh. Một bên là Cộng Sản, một bên là Quốc Gia
để tránh cái nạn tương tàn, tương sát của họ.
Ấy vậy, trên ngọn cờ
"Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng" của các con, lại thêm 4 chữ
"Tận Trung Báo Quốc" nó có nghĩa lý Thầy nhứt định hy sinh
sanh mạng của các con đặng cứu toàn thể sanh mạng nòi giống
các con.
Hôm nay con đường
của các con đã đi xa nó sẽ kết
liễu nhờ nước bạn của chúng ta
là nước Pháp hiểu nổi khổ não khó khăn
để giúp sức cho chúng ta có phương thế liên hiệp
cả các Đảng Phái trong nước, rồi chúng ta mới
có phương thế
hiệp tác cùng Pháp đặng tạo dựng một nền hòa
bình trong khuôn khổ tự do bình đẳng. Với ý Thầy đã định
từ trước sự kết liễu hay được thành tựu
các con cố gắng tới một đoạn đường nữa ở
trước mắt kia, nếu nhờ ơn Thiêng Liêng Đức
Chí Tôn và Đức Phật Mẫu định kết Liễu sớm
ngày nào thì sự hy sinh của các con càng nhẹ chừng
nấy.
Các con ôi ! Cái
hy sinh ấy nó đã hao tốn sanh mạng và xương máu
các con rất nhiều, thật ra giọt huyết lệ Thầy
đã chảy nhiều lắm rồi. Thầy muốn thế nào
mau chấm dứt nạn chiến tranh đặng đem lại hạnh
phúc hòa bình cho Tổ Quốc và Chủng Tộc các con
và Thầy giao vận mạng tương lai ấy với cái năng
lực của các con trước kia thế nào ngày giờ này
cũng thế ấy.
Nhứt là Tân Tổng
Tư Lịnh Thiếu Tướng Nguyễn Thành Phương, Phó
Tổng Tư Lịnh Đại Tá Lê Văn Tất, Tham Mưu Trưởng
Trung Ta Lê Quang Thế, Thầy giao cái hạnh phúc tương
lai của Tổ Quốc nòi giống mình nơi tay các con.
Thành tựu hay chăng đều do nơi sự khôn ngoan Đạo
Đức tâm tình ái chủng, ái quân vô đối của
các con, do đó mà thành tựu được.
Thầy trông cậy
nơi các con.
CHUNG
* * *
MỤC-LỤC
Thánh-thơ của
Đức Cao Thượng-Sanh.