Ðại
- đạo Tam
- Kỳ
phổ - độ
Tòa - Thánh
Tây - Ninh
Con
Đường Thiêng Liêng Hằng Sống
Thuyết
Đạo của Đức Hộ Pháp
Tài
liệu do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo
* * *
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 8 tháng 10 năm Mậu-Tý ( 8-11-1948 )
Bần-Đạo ngày nay thuyết vấn-đề có liên-hệ
với Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa.
Chúng ta kỳ trước đã ghé qua nơi Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa, đã hội đàm cùng các Đấng Trọn-Lành,
các Đấng cứu rỗi nhơn-loại toàn cả Càn-Khôn
Vũ-Trụ.
Có
một điều trọng hệ, đương buổi nầy là buổi
náo nhiệt tại sao? Tại mãn Hạ-Ngươn Tam-Chuyển,
Thiên-Thơ đã định Long-Hoa Hội. Thánh-Giáo Chí-Tôn
nói: " Các con phải chung cùng nhau, tức nhiên lập
Long-Hoa Hội, định vị cho các chơn-linh trong kỳ
Hạ- Ngươn Tam-Chuyển nầy, định vị cho họ đặng
mở Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển cho các chơn linh ".
Ngài mở Long-Hoa Hội ấy, tức nhiên là Ngài định
chấm rớt đậu cho các chơn-linh vậy. Vì cớ cho
nên chúng ta ngó thấy có huyền-vi bí-mật nơi mặt
thế nầy, Đức Chí-Tôn đến mở Đạo ngày nay,
chúng ta có thấy oan-gia nghiệp-chướng phải trả
liền buổi nầy, không cho thiếu, trả mãn mới
thôi.
Bần-Đạo
đã thuyết-minh dầu cho một cá nhân, một quốc-gia
hay toàn cả nhơn-loại, mỗi nơi đều có quả kiếp
của mình đương hiện-tượng, tấn tuồng chúng
ta thấy than thở, nạn nồi da xáo thịt, cốt nhục
tương tàn, sát hại lẫn nhau, nguyên do không có
gì lạ. Cái tấn tuồng loạn Thập-Nhị Sứ-Quân
buổi nọ thế nào, tấn tuồng nầy cũng vậy, quả
kiếp nước Việt-Nam vay trả đó là xong. Vì cớ
cho nên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa nắm quyền nhơn-loại
cả Càn-Khôn Vũ-Trụ nhiều trái địa-cầu; duy
có trái-địa cầu 68 nầy các chơn-linh ở Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa khổ tâm hơn hết, là lo trái địa-cầu
nầy phải chịu oan gia của Hạ-Ngươn Tam-Chuyển.
Ấy vậy Bần-Đạo đã thuyết-minh từ buổi mới
khởi đoan chúng ta dắt nhau đi trên con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Bây
giờ chúng ta để dấu hỏi? Vì cớ nào cả toàn
cầu nhơn-loại buổi nầy sanh hỗn loạn, náo nhiệt,
tương-tàn tương-sát lẫn nhau? Vì có tấn tuồng
ấy mà cả nền chính-trị thế- giới Quốc-Gia
nào cũng chinh nghiêng, xiêu đổ, nguyên do tại chỗ
nào? Ta tìm hiểu trước rồi mới để ý truy nguyên
căn nhơn-quả của trái địa-cầu 68 nầy mới có
thể hiểu được con đường tấn bộ trong cõi
Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Con vật nó còn chung sống
cùng xã-hội tức nhiên hiệp-chủng cùng nhau đặng
sống . Loài thú có nhiều giống nó tự-chủ lấy
nó, dầu cho côn trùng, thú vật hay ngư điểu, có
nhiều loại đã sống tự-chủ lấy nó được.
Nhơn- loại là người, chẳng hề khi nào sống riêng
mình được, tại sao? Tại cái thương yêu ràng
buộc trong phương sống, con người chỉ lấy trí
khôn ngoan tức nhiên cái thiên-lương mình đặng
chung hiệp.
Nói
mưu trí bảo vệ sanh mạng mình là cái mưu trí
con người không đủ, lấy luật sống để làm
căn-bản thì con người thua nhiều hơn con thú lắm.
Bần-Đạo thường nói thua mà sợ - nào kêu là
Ông Cọp, Ông Voi, Ông Sư Tử v.v...
Nhiều con thú mà
con người sợ như vậy, nên lập xã-hội đặng bảo vệ cho nhau,
tức nhiên có lập luật, xã-hội quây-quần chung sống cùng
nhau mới có tinh-thần vững chắc. Mà con người bao giờ cũng
vậy, họ chẳng hề khi nào định phận họ phải đối trả lại xã-
hội nhơn quần. Trái lại trí khôn ngoan mâu-thuẫn lường gạt
xã-hội mà thôi, ăn gian xảo mị, con người có thể qua mặt
xã-hội được, nhưng luật công-bình Thiêng-Liêng căn quả
chẳng hề khi nào chúng ta qua mặt đặng.
Vì cớ trái-chủ
oan-gia là tự chúng ta tạo nghiệp nơi kiếp sanh của chúng
ta đã nương theo đặng sống, đặng bảo vệ sinh mạng mình mà
ra. Mình còn mượn cái sống cả vật loại đặng làm phương
sống, phải ăn mới sống, phải mặc mới lành. Nếu nhơn-loại
trần-lổ thì dở hơn con thú nữa - con thú không có manh
quần tấm áo, nó tìm phương thế che để sống. Mà hễ nương
sống, tìm sống tức giết nhau đặng giành sự sống. Con người
nếu giành sống như con vật, tức nhiên phải sát nhân đặng
bảo vệ sinh mạng mình, tấn tuồng ấy chúng ta thấy hiển
nhiên trước mắt. Bần-Đạo chức-vụ Thiêng-Liêng là Hộ-Pháp,
Bần-Đạo vấn-nạn các Đấng Thiêng-Liêng buổi ban sơ, không
thể gì con người có thể đầu kiếp làm thú. Các Đấng
Thiêng-Liêng trả lời dè-dặt: " Khi tôi tưởng có nhiều
chơn-linh không đáng địa-vị nhơn-phẩm, Chí-Tôn vẫn ban ơn
cho làm thế nào cho có sự tấn-hóa toàn-thể. Còn nhơn-phẩm
trở lại, tấn tuồng ấy có hai lẽ: hoặc đứng chựng phẩm
người tấn tới, mà hể ta đứng không đặng phải thoái bộ - mà
con người đã thối bộ, tức nhiên con người trở lại thú rồi
! ".
Chơn-lý
ấy để lại có lẽ thiên-hạ quả quyết không
xứng đáng để bảo thủ. Kỳ dư nếu buổi Hạ-Ngươn
nầy định Long-Hoa Hội, Đức Chí-Tôn đã đau khổ
về con cái Ngài biết bao nhiêu. Đấng Cha Lành Thiêng-Liêng
ấy đã thảm khổ dường nào vì con cái của Người.
Ta tưởng-tượng từ tạo-thiên-lập-địa tới
giờ không có nhơn-loại nào nơi mặt địa-cầu
nào được hưởng hồng-ân đặc-biệt như chúng
ta ngày nay vậy.
Nhơn
quần xã-hội đồng sống cùng nhau, tức nhiên ta
phải có định chủ-quyền từ lúc còn ăn lông,
ở lổ dĩ chí ngày nay. Muốn bảo vệ phương sống
cất nhà trên ngọn cây, rồi tạo ra hang ổ, rồi
thỉnh-thoảng làm nhà. Hồi buổi ấy duy chỉ có
sợ thú dữ, ở trong hang coi chừng không thấy có
thú gì dữ mới dám chạy ra bưng, ra ruộng tát
cá đem nấu ăn. Rồi coi chừng không có con gì dữ
hại đến tánh mạng, chạy ra cuốc đất trồng
khoai đặng nuôi sống. Có nhiều khi sợ thú dữ,
không dám chung ra khỏi hang, bị ba thằng điếm
nó lén ăn cắp của mình, rồi mình yếu hơn nó
không thể gì bảo vệ sanh mạng được phải chịu
thua. Rồi cập bầy cập bạn, hể nó làm được
bao nhiêu của thì tao mầy hiệp nhau dành lấy. Một
mình mầy đánh không lại nó, tao hiệp với mầy
đánh nó. Đứa nầy kiếm với hai ba người, đàng
kia tìm bốn năm người hiệp nhau đánh giết tàn
phá; thành ra Mán, Mọi kia chưa chắc bảo thủ cả
sanh mạng đặng. Duy sợ chúng đánh trước rồi
cùng phương, hết thế mới chịu thua; rồi phải
phục lụy làm tay chơn nô lệ, bọn nầy làm chủ
bọn kia, tổng-số lại làm xã-hội, quốc-gia nguyên
do là vậy.
Từ
thử tới giờ muốn giữ trật-tự công-bình bảo
vệ mạng sống chung cho nhau có phương công-lý,
tức nhiên có định chủ-quyền. Chủ-quyền hồi
trước, mỗi nơi có một vị đủ trí-thức, đủ
tài tình, đủ mạnh mẽ, làm chủ nơi Mán, Mọi.
Khi lập quốc phải tôn sùng cung kỉnh vị làm Chúa
của nước, tức nhiên chúng ta đã thấy sau nầy
vậy. Nhờ kiến-thức, nhờ định phận có nghiêm-luật,
như ở Nhật Bổn có khuôn khổ buổi ban sơ, bảo
vệ sanh mạng nhân dân, cân giữ công-chánh. Cái
khuôn khổ làm chúa của Mán, Mọi; dĩ chúa quốc-gia,
làm chủ sanh mạng toàn-thể quốc dân, nó đã định
vận của toàn quốc-gia Mán, Mọi vậy.
Tấn
tuồng ấy chúng ta thấy hiển nhiên bây giờ còn
dấu tích mà buổi đó, theo Mán Mọi, một quốc-gia
không có khó như bây giờ. Nhơn-trí buổi đó hiền
lương, Thánh-Đức của họ không xảo trá, không
hung ác, không như vào thế-kỷ hai mươi nầy.
Chịu
ảnh hưởng văn-minh khoa-học, trí-lực khôn ngoan
của nhơn-loại đi quá xa, không phương thế trị
an đặng, vì cớ cho nên chánh quyền thường bị
đánh đổ. Họ nói gì công chúng kêu gọi đại
đa số nhân-dân cướp chánh-quyền lập lại chánh-trị.
Ngày
nay chúng ta thấy cả toàn mặt địa-cầu nầy đều
xu hướng theo dân-chủ, dân-chủ là gì? Là đại
đa số dân chúng tổng-hợp lại nắm chủ-quyền,
mà ảnh-hưởng cũng do đại đa số đó cầm vận
mạng mặt địa-cầu nầy. Hại thay có nhiều hạng
người không đủ tinh- thần học-thức hay không
đủ tâm-đức cầm sanh mạng nhơn-loại, thảo nào
ta không thấy phương tranh-đấu ai mạnh là hơn.
Làm chúa thiên-hạ với phương xảo mị, không phải
làm chúa loài người với phương-pháp tối cổ.
Nhơn-loại để lại cái giống loạn, cả tinh-thần
toàn- thể trên mặt địa-cầu nầy đều loạn,
chỉ vì không có quyền vi-chủ.
Vì
cớ cho nên vận mạng nước nhà không chủ-quyền
đặc biệt, không quyền vi-chủ tức nhiên phải
loạn. Có loạn đương nhiên bây giờ họ mới biết,
họ tự hiểu có quyền vi-chủ ấy mới cầm vững
quốc vận, nhưng quyền vi-chủ chính họ đã đập
tan nát hết rồi. Bây giờ họ tiềm-tàng phương
thế đào tạo chủ-quyền ấy mới ra tấn tuồng
ngày nay. Chúng ta ngó thấy nhơn-loại đương mong
chiếm đoạt quyền ấy đặng bảo tồn vận mạng
cho nước được tồn tại.
Bây
giờ nhơn-loại đương chạy kiếm chủ-quyền, chủ-quyền
ấy dầu nó thế nào cũng không thể tồn tại được.
Vì cớ cho nên Đức Chí-Tôn đến, Đức Ngài nói:
" Phương-pháp tạo quyền của nhơn-loại không thể
gì bền vững được, ta coi các người đập phá
tan tành hết. Ta đến cho lại, ta chỉ đường cho
".
Đường
Đức Chí-Tôn chỉ là con đường Pháp-Chánh vậy.
Ngày giờ nào trên mặt địa-cầu nầy: quốc-gia,
xã-hội, nhơn-quần biết tìm chủ-quyền đặc-sắc
vĩnh-cữu, công-chánh - tức phải đồ theo Pháp-Chánh
của Đạo Cao-Đài, tạo hình tướng Thánh-Thể
quốc-gia, có lẽ ngày giờ đó thiên-hạ mới thấy
chủ-quyền của Đạo Cao-Đài, định thật quyền
cho quốc-gia và toàn thể nhơn-loại. Bần-Đạo
nói Pháp-Chánh có năng lực đào tạo quyền hành
cho nhơn-loại. Khá sửa lại, chỉnh đốn lại;
ít nữa muốn đoạt được món báu ấy, nhơn-loại
phải tự-tỉnh định quyền vi-chủ trước lấy
mình; dầu cho cá nhân, quyền sở-hữu tự-chủ
của họ cũng do nơi đạo-đức tạo thành vậy.
Ấy
vậy ngày giờ nào nhơn-loại trở lại con đường
đạo-đức đặng giải kiết, gầy dựng phương-pháp
sống, mới sống vinh-quang, sống ôn tồn hạnh-phúc.
Ngày giờ nào tiêu diệt được quả kiếp hung tàn
trở lại con đường đạo-đức, ngày giờ ấy
quốc-gia mới yên ổn, ngày giờ ấy thiên-hạ mới
hưởng được hồng-ân đặc-biệt của Đức Chí-Tôn
ban cho.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 12 tháng 10 năm Mậu-Tý ( 12-11-1948 )
Bần-Đạo giảng tiếp con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống,
bỡi vì có chơn-lý triết-lý bí yếu về phần
hồn của chúng ta.
Buổi
chúng ta đương hội đàm cùng chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật đã đoạt- vị trọn lành làm đại-diện
bào chửa cho chúng ta nơi Ngọc-Hư Cung và Cực-Lạc
Thế-Giới.
Bần-Đạo
hôm nay giảng qua ảnh-hưởng với các triết-lý
của nền Đạo, đặng mở con đường trí-thức
cho toàn-thể theo bước, đặng thấu đáo chơn-truyền.
Bần-Đạo nói chúng ta đi tìm triết-lý nầy hồi
lúc chúng ta còn sanh tiền, tức nhiên chúng ta đi
tìm con đường Thiêng-Liêng tối cao trước mắt,
chúng ta không thế gì tìm học triết-lý đặng
dạy dỗ chúng ta được. Cho nên từ thử đến
giờ, Bần-Đạo muốn dìu-dẫn con cái Ngài đi trên
con đường chơn thật - nếu cả thảy đều để
tâm nghe và suy nghĩ tìm tàng, Bần-Đạo nói một
cách chơn thật, cái triết-lý chơn thật nó không
có giả dối. Bần-Đạo cần chỉ điều trọng
yếu nên tầm hiểu để ý đặng vô Cung Diêu-Trì
đặng tìm hiểu chơn-lý của họ. Nền Chánh-Giáo
của Đức Chí-Tôn các bạn đã ngó thấy, nơi Kim-Bàn
Bát-Quái-Đài xuất hiện ra Bát-Phẩm Chơn Hồn,
chánh-thể của họ thể nào? Cái Phách của họ
thể nào? Bần-Đạo đã minh tả kỳ trước cái
Chơn-Thần của chúng ta như xác thú chúng ta vậy.
Chơn-Thần
ấy là gì? Bần-Đạo chỉ sơ qua đó thôi, nó là
một khối linh-quang ( bỡi vì khối linh-quang tạo
Chơn-Thần ) thì hình-thể nó là xác thân thọ linh-hồn
của chúng ta vậy; hình-thể chúng ta mang ngày nay
là xác thú. Bần-Đạo đã có dắt các bạn ngoạn
cảnh sanh-hoạt của hình-thể và thể-chất. Bần-Đạo
đã dìu-dắt các bạn đi trên con đường mới sơ
sanh, cái thể của con người tức nhiên là con thú
hữu-hình chúng ta đương mang, đương lập là nhờ
nơi khối khối thiên-lương Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu
đã tạo.
Quyền
năng chơn-linh chúng ta có hai con thú trong chơn-linh
chúng ta để bảo vệ tánh mạng chúng ta, ngày nay
loài người còn tồn-tại nơi mặt thế nầy chẳng
phải vì mạnh mẽ mà thắng cả vạn-vật nơi mặt
địa-cầu nầy để bảo tồn mình đặng.
Nếu
các bạn hiểu số cộng lịch-sử của trái đất
các bạn sẽ thấy, trái đất nầy từ mới phôi
thai duy trì cho đến ngày nay biết bao nhiêu thế-kỷ
có thế lực, bảo sanh mạnh-mẽ mà có phương thế
nào bảo trọng cho đến ngày nay chăng? Nếu một
kiếp chúng ta tưởng-tượng được thì thấy luật
sanh hóa ngày nay nó dữ tợn lắm, ngày nay các vật
loại cầm thú nó mạnh lụn lại, đặng bảo vệ
cả sanh mạng của nó; còn loài người yếu ớt
bạc nhược.
Muốn
bảo-vệ sanh mạng mình được tồn tại thì phải
làm sao mới đặng? Chúng ta đến nhờ khối sanh-quang
ấy tạo chơn-thần, ấy là nhứt điểm linh của
Đức Chí-Tôn đó. Mình nương nhứt điểm linh đó
nên con người mới bảo tồn sanh mạng cho được
cho đến ngày hôm nay, không thể gì mình diệt nhứt
điểm linh-quang nầy đặng.
Bây
giờ chúng ta đã thấy giáp vòng Càn-Khôn Vũ-Trụ,
phải chung vô cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, coi Đại-Diện
mình bảo vệ mình về phương diện nào? Vã chăng
trong Càn- Khôn Vũ-Trụ, chư Hiền-Hữu, Hiền-Muội,
Hiền-Tỷ, Hiền-Huynh đã ngó thấy hằng hà sa số
nhơn-loại, chớ không phải một số hệ-định
mà hết trong Càn-Khôn Vũ-Trụ nầy.
Trái
đất nầy nếu ta sánh lại với Càn-Khôn Vũ-Trụ,
dám chắc không có bằng hàng xóm láng giềng chớ
đừng nói đến một thành-thị hay một xã-hội
gì được. Bỡi vậy cho nên các Đấng Trọn Lành
đại-diện chúng ta, đã tạo thành hình-thể, trong
trái địa-cầu nầy, chưa biến tướng ra sao, vì
nó còn định một ở trong như mặt trăng, nó đũ
bảy phần của nó; nó biến thể nầy ra hằng-hà
chơn-linh của trái địa-cầu.
Hồi
nhứt kiếp của nó, đoạt biết bao nhiêu vị Thần,
Thánh, Tiên, Phật; các Đấng Trọn Lành đã tạo
trước kia, dám chắc danh-thể trái địa-cầu 68
nầy, Bần-Đạo nói quả quyết với các bạn, hình
thể của nó cao trọng lắm. Vì sao nó là một hạng
địa-cầu chót hết trong 72 mà đứng vào hàng 68 ?
Nói đến chót mà danh-thể nơi đó nó đã tạo
ra, chúng ta có được đoạt phẩm-vị là nơi cửa
Hiệp-Thiên Hành-Hóa; Bần-Đạo nói quả quyết
các Đấng Đại-Diện cho chúng ta có một danh-thể
đặc biệt, danh-thể cao trọng lắm đó vậy.
Chúng
ta vấn nạn, chúng ta vào nơi ấy ngó thấy các
đấng Thiêng-Liêng hằng hà sa số, đối phẩm một
cách vinh-quang cao trọng, Bần-Đạo tưởng cả thảy
lấy làm ngạc nhiên lắm. Nếu chúng ta tọc mạch
tìm coi trái địa-cầu ở trước làm thế nào mà
tạo các Đấng Trọn-Lành được? Tạo vinh-quang
cao trọng được? Chắc cả thảy đều tọc mạch
như Bần-Đạo, cũng muốn biết như Bần-Đạo.
Loài người do ai sanh ra thì Phật Kim-Cang trước
kia đã có triết-lý buổi sơ sanh, cái nguyên-căn
tạo ra tứ khổ, mối khổ sanh kia còn tạo ra cho
chúng ta ba cái khổ nữa, tại sao phải sợ? Cái
sợ phải hay quấy chúng ta để ý theo dõi, chúng
ta sợ khổ lắm. Triết-lý các Đấng Trọn-Lành
đại-diện chúng ta nơi cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa
phải sợ, sợ mà tránh khỏi, thì cái sợ ấy hữu
lý; sợ mà tránh không khỏi thì cái sợ ấy vô
lý. Lại còn khuôn mẫu sửa ra tánh đức chơn thành,
hồn phách còn hèn hạ tại sao ai cũng vậy.
Hết
thảy chúng ta quan-sát như thế nầy: Tại sao chúng
ta phải làm, phải ở đây? Tại sao chúng ta phải
mang tứ khổ? Bằng cớ đã có hiển nhiên chúng
ta không thể gì chối cải được. Sự thật phải
tìm cái sự thật chớ, tại sao sợ? Bần-Đạo
đã thuyết: Dầu cho cá nhân, dầu cho thôn lân,
dầu cho xã-hội, dầu cho toàn-thể thiên-hạ trên
mặt địa-cầu nầy cũng vậy, cũng đều có quả
kiếp, quả kiếp ấy gầy dựng ra, sản-xuất ra
do cơ sanh-hóa của nó; vì cớ cho nên Bần-Đạo
dắt chư Hiền-Hữu đi trên con đường ấy.
Chúng
ta sanh tại mặt thế nầy, vừa lọt lòng mẹ phải
chịu mấy muôn quả kiếp rồi. Thánh-Giáo Gia-Tô
đã gọi là : Tội Tổ-Tông chúng ta đó vậy, thì
thân thể nầy mới làm sao đây? Bỡi vì chúng ta
vừa có thì khóc tu oa, cái tiếng ở trong lòng Mẹ
mới ra mà có tất cả các nợ; nợ trái chủ, nợ
quả kiếp đủ thứ, không biết bao nhiêu món nợ.
Cửa
Hư-Linh các Đấng Trọn-Lành đại-diện chúng ta
biết bao nhiêu Đấng đã gớm-ghiết quả kiếp
ấy, vì sợ giựt giành quyết thắng không nỗi
phải chịu muôn triệu năm trong quả kiếp.
Họ
mãi ngồi trong địa-vị họ thôi, không tấn thối
được, phải chăng là mối nợ mình biết để
tìm phương thế đặng mình trả. Mà hể trả rồi
mình lại giàu thêm nữa mới là lạ chớ! Cái nợ
nó thiết yếu, nó trọng hệ, nó mắc mỏ lắm.
Nếu chúng ta sợ như người chiến-sĩ ra trận mà
sợ chết thì không có giá-trị gì hết, phải quyết
thắng mới đáng mặt Tướng-Quân, Tướng Soái,
đáng mặt anh-hùng. Còn chiến-sĩ mà sợ chết,
trốn lính thì có danh-vọng gì đâu !
Trái
Địa-Cầu 68 nầy nó có danh-thể đặc-biệt của
nó nơi Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Cũng nói sợ mà
các Đấng Trọn-Lành đến cư ngụ, cũng do nơi
đó mà ra, các Đấng ấy quyết thắng, lập vị
mình một cách khó khăn, nhưng vinh-diệu lắm! Chơn-lý
ấy chúng ta không khi nào đặng mờ hồ, duy có
một điều là những trái chủ quả kiếp nặng-nề
của chúng ta từ thử đến giờ, làm sao mà trả
cái quả kiếp ấy cho rồi, đừng để nó theo ràng
buộc cái khối Thiên-Lương của chúng ta. Buộc
nhứt điểm Linh-Quang của chúng ta, tức là nó ràng
buộc lấy ta, chẳng khác nào mang theo một thây
chết. Làm sao bỏ được cái thây chết thúi tha
ấy, thì mới thong thả nhẹ-nhàng, nhưng không bỏ
được!
Cái
tình trạng khổ nảo ấy, làm người ta ai cũng
đều biết, không cần gì tả hình-tướng nó ra,
cái sanh-hoạt của con thú nầy. Bần-Đạo tưởng
Đạo Phật gọi nó là con kỵ vật, con thú cỡi
của chúng ta. Vì cớ nên triết-lý của nhà Phật
nói, thí-dụ như: Đức Từ-Hàng cỡi con Kim-Mao-Hẩu,
Đức Phật Kim-Cang cỡi con Đề-Thính giải kiếp
họ một cách vinh diệu. Con vật nầy nó làm cho
ta thiếu chịu kiếp sanh của nó, nó làm ta phải
biểu nó trả cho đặng. Phương-pháp nó phải trả
thế nào? Là nó phải nương theo cơ-quan hữu-vi
nầy mà nó sống - nó tạo, nó gây ra quả kiếp
tồn tại, nó mới nương theo xã-hội nhơn quần,
nương theo mặt địa-cầu nầy mà sống - nó nương
theo mối nợ riêng của nó, để nó trả nợ riêng
cho nó.
Nó
có phần đoạt được cái triết-lý cao thượng
rồi, nó không nương theo mặt địa-cầu xã- hội
mà sống nữa. Nó quyết định làm tôi tớ cho xã-hội,
làm tôi cho mặt địa-cầu nầy để trả nợ tình
của nó. Ngày giờ nào nó không làm tôi tớ cho
cơ-quan hữu- hình nầy, thì mối nợ ấy vẫn còn
vậy. Cái triết-lý cao thượng hơn hết là mình
không sống cho mình, mình sống cho xã-hội nhơn
quần, tức nhiên chung sống trên mặt địa-cầu
nầy, thì cơ-quan giải khổ của chúng ta ngày nay
chắc-chắn không ai là không đoạt được đó vậy.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 4 tháng 11 năm Mậu-Tý ( 4-12-1948 )
Trước khi giảng trên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa,
chúng ta còn một vấn-đề rắc rối giữa các cuộc
thiệt chiến của các chơn-linh đã tạo thành Đạo.
Có một vấn-đề rắc rối hơn hết là vấn-đề
con người trong Tứ-Khổ. Các chơn-linh đến trần
gian nầy mang cái xác phàm tức nhiên xác thú của
họ, nương với cái hình-luật tấn-hóa của các
chơn-linh để lập Thiêng-Liêng vị của mình. Có
một điều mâu-thuẩn hơn hết là muốn đoạt Thiêng-Liêng
vị xứng đáng thì phải giải quyết vấn-đề
Tứ-Khổ. Đã đành sanh trong vòng tứ khổ, định
lại cả tinh-thần, chúng ta không thể gì từ chối
cái tinh-thần ấy đặng. Mang xác phàm phải chịu
khổ với phàm mới đoạt được Thiêng-Liêng vị.
Ngài nói có một điều là tấn tuồng theo mặt
luật tấn-hóa trong kiếp sanh, trong hành khổ - khổ
thì ai cũng thế, kỳ dư các chơn- linh đoạt đến
Tiên-Phật vị, họ dám có can đảm, dám có nghị
lực, dám có oai quyền, họ ngó ngay Tứ Khổ để
quyết thắng.
Bỡi
vì họ có năng lực đủ tinh-thần, mà hại thay
các Đấng Trọn Lành không đủ oai quyền, không
đủ năng lực của họ, các Đấng Trọn Lành vì
sợ hải. Bỡi cớ muốn trọn lành thì họ phải
tìm hạnh-phúc, họ tìm hạnh-phúc trong cảnh khổ
ấy, chúng ta đều ngó thấy như vạn loại: Con
cá bị nhốt trong chậu, con chim bị nhốt trong lồng,
con người bị nhốt trong Tứ-Khổ, bao giờ cũng
tìm kiếm phương thế đặng thoát ngục nơi mặt
Càn-Khôn Vũ-Trụ nầy. Thật tướng nó, ta là cái
lồng , cái khám nhốt cái chơn-linh, như con thú
kia nó còn vùng-vẫy thoát cảnh khổ, dù thoát không
đặng mà nó vẫn tìm thế vùng-vẫy để thoát
cho đặng.
Cái
chơn-linh đầu kiếp mang lấy xác phàm nơi Càn-Khôn
Vũ-Trụ nầy họ đã hiểu Tứ Diệu-Đề khổ,
họ phải tìm phương thế đặng thoát khổ, nhưng
Luật Thiêng-Liêng định vậy. Chúng ta ngó thấy
dễ hiểu, nhứt là Bần-Đạo đã hiểu tấn tuồng
ấy rồi.
Con
người bị đầu kiếp trong cảnh khổ, trong ngục
hình, bao giờ cũng tìm phương kế hoạt động để
giải khổ. Tìm phương thế giải khổ không đặng,
cũng kiếm phương thế an-ủi lấy mình - tức nhiên,
tìm mảy may hạnh-phúc để gỡ khổ cho mình. Ngặt
nỗi, muốn tìm phương thoát ngục ấy, nhưng than
ôi, biết bao nhiêu là khổ hải! Có nhiều khi chưa
tìm đặng hạnh-phúc để giải khổ, nó làm cho
mình thêm tội nữa mà chớ!
Ấy
vậy một vấn-đề không đồng năng-lực với nhau,
các chơn-linh cao siêu ấy cũng không dám đứng ra
với Tứ-Diệu-Đề Khổ ấy để kiếm phương thế
tạo hạnh-phúc mảy may trong kiếp sống đặng đỡ
khổ.
Bây
giờ chúng ta cũng nên ngừng bước lại, đặng
quan sát cái thiệt hạnh-phúc của loài người;
có phương thế nào thắng cảnh khổ đặng chăng?
Hạnh-phúc trong cảnh trần họ là gì? Chúng ta nên
kiếm hiểu, có kiếm hiểu đặng mới giải quyết
vấn-đề thắng khổ đặng, chúng ta chỉ ngó thấy
từ thử đến giờ thiên hạ chỉ mơ ước của
mình. Bần-Đạo nhớ Đạo- Giáo của chúng ta có
một triết-lý rất hữu hình, rất ngộ nghĩnh,
rất cao siêu.
Có
một chơn-linh đó đi xuống địa ngục, đến chừng
trả tội xong rồi ở dưới Diêm-Vương cho đi đầu
kiếp; chơn-linh ấy cự nự lắm xin Diêm-Vương
phải cho mấy điều xin thì chơn- linh ấy mới chịu
đi đầu kiếp.
Diêm-Vương
hỏi ngươi muốn xin điều gì? Chơn-linh ấy nói:
Cho tôi xin bốn điều, rồi đọc lên bốn câu thơ:
Cha Thượng-Thơ,
Con Trạng-Nguyên,
Quanh nhà ngàn khoảnh nhứt hạng điền,
Trai tơ gái lịch, vợ tốt hầu xinh thảy thảy
đều.
Diêm-Vương
nói chưa chắc, nếu có cho người cũng chưa đủ
hạnh-phúc, chưa đủ vinh- hiển đâu. Cha Thượng-Thơ,
con Trạng-Nguyên tức nhiên linh-hồn ấy muốn làm
Trạng- Nguyên con của vị Thượng-Thơ.
Chưa
chắc gì vị Trạng-Nguyên ấy gặp được vị quan
thanh-liêm, đủ đạo-đức, đủ cường lực, đủ
hạnh-phúc để làm cha mẹ cho dân. Thoảng gặp
vị Thượng-Thơ gian ác, gian tham, hối lộ, chung
vô đầu-kiếp có nên hay chăng?
Chơn-linh ấy vẫn
cầu xin cho mình được làm quan, nhứt định làm quan Trạng-
Nguyên. Nếu thi đậu Trạng-Nguyên rồi cũng chưa chắc gì có
hạnh-phúc.
Làm quan Trạng như
ông Tam-Phương ba kỳ thi đậu Trạng gặp ông Minh-Mạng làm
ba khoa thi, ông Tam-Phương chiếm hết. Mới 14 tuổi mà đã
ba lần đậu Trạng, nhưng tuổi còn nhỏ lắm không xuất-sĩ
đặng, đợi tới 20 tuổi mới xuất-sĩ ra triều, nhưng đến 25
tuổi lại chết. Thử hỏi, ông Tam-Phương có hạnh-phúc hay
chăng? Dám chắc chưa có.
Câu
thứ ba: Quanh nhà ngàn mẫu nhứt hạng điền, nghĩa
là, quanh nhà ấy ruộng nhứt hạng ngàn khoảnh
đặng sau nầy làm giàu, mà thử hỏi có hạnh-phúc
chăng ? Bất quá tham của thôi, chớ chưa có hạnh-phúc.
Câu
thứ tư: Trai tơ gái lịch, vợ tốt hầu xinh thảy
thảy đều. Trai tơ gái lịch tức nhiên đệ nhứt
trong thiên-hạ hết, mà sao có tạo hạnh phúc đặng
hay chăng? Chưa chắc.
Câu
thứ năm: Vợ tốt hầu xinh thảy thảy đều. Vợ
tốt hơn mình thì nó ăn hiếp mình; nó cậy sang,
nó biết nó đẹp hơn mình; vì mình thương nó quá,
nên nó cậy thế nó đè đầu mình xuống nó dọi
đầu mình. Duy có câu thảy thảy đều hơn hết
thảy là câu chót, mà cũng chưa chắc tạo hạnh-phúc
được.
Ấy
vậy từ thử đến giờ cả thảy đều hiểu dầu
cho bậc Đế-Vương cũng chưa chắc kiếp sanh đoạt
đặng hạnh-phúc. Các nhà Hiền-Triết của nước
Việt-Nam ta, Nho-Tông của chúng ta có để 3 câu
trọng yếu, muốn lập quốc, muốn tạo hạnh-phúc
cho dân, quốc dân phải có 3 điều kiện: " Thiên-thời,
địa-lợi, nhơn-hòa ". Ấy vậy chúng ta kiếm thử
coi trong ba điều kiện để tạo cho dân coi có phương
thế gì giải khổ hay chăng? Thiên-Thời, Địa-Lợi,
Nhơn-Hòa.
1-
Thiên-thời là gì? Tức nhiên theo mạng Trời, Trời
đã định cho mình tức nhiên mình phải tùng mạng
Trời, tùng mạng Trời tức nhiên tùng Đạo. Thiên-thời
tức nhiên tùng Đạo, không thể gì chối được.
2- Địa-lợi là gì ? Là cả thảy địa-dư toàn
trong nước dân đều hiện, đất sung túc được
hay chăng? Bậc thượng-lưu, trí-thức cần nên tưởng
lại câu ấy, mà câu ấy là của ai? Quốc- Vương,
Thủy-Thổ, Địa-Lợi, dầu không đặng hưởng
địa-lợi nó cũng biến địa-lợi, mà phải có
đạo-đức có nhơn tài tạo mới được.
3- Nhơn-hòa đặng chi? Nếu cả thảy không có hòa
thì loạn-lạc, hễ có loạn-lạc thì có giặc giã
chiến-tranh. Ấy vậy có ba điều từ thử đến
giờ đặng tạo hạnh-phúc cho quốc dân mà có phương-thế
tạo đặng hay chăng? Tạo có thể đặng chớ, nhưng
chúng ta thử nghĩ đương giờ phút nầy nhơn-loại
bị dọa nạt trận giặc thứ ba. Đã hai phen rồi,
hai trận chiến tranh thiên-hạ chết muôn trùng vạn
điệp.
Nhơn-loại
sắp bị dọa nạt trận giặc thứ ba nữa, nhơn-loại
sống làm gì mà phải chịu nạn ấy? Có phải nhơn-loại
đeo đuổi tìm hạnh-phúc chăng?
Đây
một bằng cớ hiển nhiên toàn cả quốc-dân Việt-Nam
đương vì của, đương tìm hạnh phúc của họ
ở trong lý-thuyết mơ-mộng mà thôi. Như chánh-phủ
Hồ-Chí-Minh đương tìm hạnh-phúc trong lý-thuyết
chớ không có gì hết. Cả toàn-cầu đương khởi
chiến-tranh tìm hạnh-phúc cho nhơn-loại, Bần-Đạo
dám chắc là không có. Có là chỉ lòe-loẹt các
yếu điểm để lên nạn chiến-tranh giết lẫn
nhau, để hai phen thất bại cũng vì muốn tạo hòa-bình
hạnh-phúc cho nhơn-loại.
Hại
thay tinh-thần của nhơn-loại bây giờ đang thống
khổ, dám chắc dầu không khổ, nhơn-loại cũng
không biết nghe theo tiếng Thánh, đặng tự-giác
sửa mình tìm được hạnh- phúc chơn thật.
Họ
cứ nương theo cái hạnh-phúc giả dối, nên vị
Thánh Gandhi bị chúng giết, mà vị Thánh Dalagadot
cũng bị kẽ ác tâm ám-sát để tranh sống. Đương
nhiên bây giờ nhơn- loại bị thống khổ nhiều,
mà nó hiện-tượng ra đặng kiếm thế giải quyết
cơ-quan thống trị cả tinh-thần hạnh-phúc của
loài người; họ lập Vạn-Quốc-Liên-Minh mà Hội-Quốc-Liên
đã làm nên chưa? Cũng chưa gì hết. Bỡi vì có
nhiều nguyên căn cho nên Garry Davis anh đã tượng
trưng tinh-thần của loài người được; phải có
người đến giữa Hội-Quốc-Liên đặng hỏi: "
Có thể bảo trọng hòa-bình cứu nhơn-loại đặng
chăng? " Garry Davis " chiến tướng biểu nhơn-loại
theo anh, mà nhơn-loại nghe không? Chính mình Bần-Đạo
cũng theo nữa.
Đúng
theo lý-thuyết mờ ám theo lý-thuyết Cộng-Sản,
thuyết nầy thuyết nọ đặng tìm hạnh-phúc của
loài người, mà càng tìm càng đi sâu chừng nào
càng đau khổ cho nhơn- loại chừng nấy. Để cho
thiên-hạ suy nghĩ, suy gẫm tìm thử hạnh-phúc chơn
thật thế nào ? Kỳ
tới Bần-Đạo sẽ giảng thêm.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Thời-Tý, đêm 5-11 năm Mậu-Tý ( 5-12-1948 )
Hổm rày đình thuyết cuộc dục tấn của chúng
ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, hôm
nay Bần--Đạo giảng tiếp. Nhưng trước hết Bần-Đạo
cho cả toàn con cái của Đức Chí-Tôn nhứt là
Thánh-Thể của Ngài tức Hội-Thánh hay rằng Đức
Cựu Hoàng Bảo-Đại vừa gởi cho ông Nguyễn-Hữu-Trí
tức là một vị của Chính-Phủ Trung-Ương Lâm-
Thời Việt-Nam phái đi làm quan-sát viên, dự Hội-Nghị
Liên-Hiệp-Quốc, nhưng Đức Bảo-Đại chưa cho
ông dự Hội-Nghị, vì chơn tướng độc-lập và
thống-nhất của Việt-Nam chưa thành hình, chưa
có thể dự Hội-Quốc-Liên được. Ngài gởi cho
ông ba bức thơ tỏ vẻ đầy đủ hy-vọng về sự
đòi hỏi sẽ toại nguyện, đem lại độc-lập
và thống-nhứt cho nước nhà. Ngài yêu cầu toàn
quốc-dân hiệp nhau, đừng quá trọng đảng phái
chánh-kiến mà nên trọng tương-lai của Quốc-Gia,
phải có lòng ái-quốc chơn chánh, chung tâm hiệp
sức vừa giúp Ngài, thì Ngài mới có thể tạo
hạnh-phúc cho nước nhà và cho chủng-tộc. Ấy
là lời than của một vị Đế-Vương. Ngài nói
rằng: Nếu tôi đoạt được cái sở vọng của
toàn-thể đồng-chủng ta đặng, chẳng qua là nhờ
ở tâm-lý cương quyết của Quốc-Dân mà đoạt
đặng tạo quốc cũng do Quốc Dân, mà định vận
mạng tương-lai của nước nhà cũng do Quốc- Dân
đó vậy. Một vị Đế-Vương đã kêu gọi, toàn-thể
bá tánh hiệp sức với người đặng lo tạo thành
hạnh-phúc, tương-lai của nòi giống và cho nước,
Bần-Đạo tưởng lại duy có kẽ điếc, đui mới
không biết phận-sự mình đối đãi với nòi giống
mình, với nước nhà mình như thế nào?
Hôm
nay Bần-Đạo tiếp giảng cuộc dục tấn trên con
đường Thiêng-Liêng Hằng- Sống.
Chúng ta ngưng bước từ hổm rày nơi Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa, Cung ấy có liên- quan tới phần hồn của
nhơn-loại, nhứt là về Đạo-Giáo tinh-thần, nên
chúng ta ngưng lại đó đặng quan-sát cả hành-tàng
của Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa như thế nào?
Ta
gặp các Đấng Trọn-Lành
nơi Cung Dạo tâm hồn của mình, các Tôn-Giáo ấy có đủ
quyền-năng bảo vệ tương-lai phần hồn của sanh-chúng chăng?
Chúng ta sẽ thấy các Đấng ấy cười và nói rằng: Thoảng nơi
Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa nầy đòi phen mời các vị Giáo-Chủ
ấy đến hiện-diện đặng chứng kiến một án-tiết gì của các
Tông-Đồ họ thi thố tại thế, đương nhiên tôi xin chư
Hiền-Hữu đừng lấy làm lạ
.
Vả
chăng các vị Giáo-Chủ lập giáo đều nương nơi
một tinh-thần của họ, tinh-thần hữu- định ấy
có căn nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại.
Họ chỉ lấy một thuyết trọng yếu đặng làm
triết-lý Đạo-Giáo của họ - tỷ như Thánh-Giáo
Gia-Tô lấy tâm làm căn bản, Lão- Giáo lấy thân
làm căn bản; Hồi-Giáo lấy tín-ngưỡng làm căn
bản - mỗi giáo-lý đều có sở năng làm trung-tâm
điểm đặng vi-chủ tinh-thần của con người trong
chỗ khuyết-điểm của họ.
Thoảng
có một vị tu chơn theo Phật-Giáo, chẳng noi theo
tánh đức nhà Phật là Từ-Bi Bác-Ái, chỉ biết
một điều trọn kiếp sanh đem thân phụng sự cho
nhơn-loại, cho chúng- sanh. Sang, trọng, vinh, hiển
họ coi như nước chảy, như giọt sương đầu cỏ.
Sang trọng như Phật, xuất thân nơi nhà Đế-Vương
mà còn bỏ hết, mang Bình-Bát đi hành-khất đặng
mà chi, để làm gì ? Ngài hành-khất đặng của bố-thí,
tạo Cấp-Cô-Độc-Viên nuôi kẽ nghèo đói. Mảnh
áo Ngài không muốn mặc sang trọng hơn kẽ khó
khăn. Tánh-đức của Phật là ăn mày, mà ăn mày
như thế ấy siêu thoát tinh-thần làm sao!
Thoảng
một vị giáo-đồ nhà Phật lấy căn bản hành-khất
ấy đặng tạo một cảnh chùa, rồi ngồi đợi
chúng-sanh đem của bố-thí tới đặng ăn mà sống;
ngoài ra nữa, còn lường gạt tâm-lý của các Tín-Đồ,
đem cả mầu-nhiệm Thiêng-Liêng của Phật dạy
làm một món khí cụ đặng dọa nạt hù nhát kẽ
Tín-Đồ, duy có một phương hù nhát mà thôi. Lập
ra cửa Phong-Đô có hình khảo ghê sợ đặng dụ-dỗ
họ nơi Niết-Bàn mà kỳ trung chưa hề phụng- sự
chúng-sanh như Phật. Đến khi về cửa Thiêng-Liêng
nói: Tôi theo tôn chỉ của nhà Phật mà Phật đã
đoạt-vị, tôi cũng phải được đoạt-vị như
Phật vậy chớ! Hỏi vậy chớ Cung Hiệp- Thiên
Hành-Hóa mới đem lý-thuyết nào, bằng cớ nào
đặng bảo-vệ cho kẽ ấy nơi Cực-Lạc Thế-Giới
và Ngọc-Hư-Cung đặng ?
Nói
về Tâm: Đức Gia-Tô truyền Thánh-Giáo tại thế,
Ngài lấy tó thể -sinh đặng tế-lễ Đức Chí-Tôn
- Ngài xin mang cả tội tình của loài người vào
mình, cũng như con dê hy-sinh ( Le bouc Emissaire ) mang
cả tội tình cho nòi giống. Ngài đã mang cả tội
tình ấy mà chịu chết trên cây Thánh-Giá đặng
cứu rỗi nhơn-loại. Vì một mãnh tâm yêu-ái vô
cùng tận mà Ngài chỉ biết sống với tình thương
vô tận đó mà thôi, Ngài chỉ biết sống đây,
mạng sống để trong tay của chúng-sanh, đặng làm
con vật tế Đức Chí-Tôn và vì Đức Chí-Tôn mà
thôi, chơn-lý của Ngài là vậy. Tâm Thánh của
Ngài vô cùng tận. Thoảng các môn-đệ của Ngài
về tới Cung Hiệp-Thiên Hành- Hóa nói: Tôi thương
chúng-sanh như Thầy tôi, tôi noi theo chơn-truyền
của Thầy tôi tức là Đức Chúa Jésus Christ, tôi
cũng đem mãnh tâm hiến cho đức Chí-Tôn vậy, nhưng
tinh- thần của họ chẳng mảy may yêu-ái chúng
sanh. Trái lại họ cầm quyền-năng gọi là nhơn
danh Đức Chúa Trời tha tội cho nhơn-loại, cầm
quyền ấy đặng vi-chủ tinh-thần loài người.
Nơi
cửa Hiệp-Thiên Hành-Hóa ấy chúng Tín-Đồ nói:
Tôi theo dõi chơn Chúa, làm tôi cho Chúa, gìn chính-sách
của Chúa đem mãnh tâm làm môi giới đặng cứu
khổ chúng- sanh; mà kỳ thật xét đoán chơn-lý
cao siêu của Đức Chúa Jésus Christ, hành-tàng của
họ thi thố không ăn thua chi cả. Hỏi vậy, nếu
Ngọc-Hư-Cung và Cực-Lạc Thế-Giới vấn nạn các
Đấng Trọn Lành nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa về
những hành-tàng của các Tín-Đồ, trái ngược
lại Đạo-Giáo của Thầy họ, các Đấng Trọn
Lành ấy trả lời thế nào với hai quyền năng
Trị-Thế và Giác-Thế.
Nói
đến Trí: Khổng-Giáo lấy Trí làm căn bản, Trí
thực muôn hình ngàn trạng, đem cái triết-lý cao
siêu ra tạo xã-hội nhơn-quần không phải là dễ.
Đức Khổng-Phu-Tử phải dùng Trí đặng tự-tu
kỳ thân. Có tự-tu kỳ thân đặng mới đủ quyền-năng
yêu-ái giáo-hóa các chơn-linh tức là các nhơn-loại
đặng trọn lành, đến tột bực lành là Chí-Thiện.
Trái ngược lại môn-đồ của Ngài nương nơi Trí-Giác
ấy làm căn bản, học nhiều thấy rộng, nói cho
hay cho khéo, lấy cả tinh-thần cao thượng đặng
hài-hước nơi lỗ miệng, còn thật chơn-lý không
ai làm đặng. Những kẽ ấy về Ngọc-Hư-Cung kêu
nài nói : Tôi theo Đạo-Giáo của Đức Khổng-Phu-Tử
đào luyện trí-thức, tôi biết trọng nhơn-luân
phẩm-cách, biết giữ-gìn luật-lệ của Thánh-Giáo
di-truyền, tôi cũng có quyền đứng vào phẩm Thánh.
Tam-Thập- Lục Thánh thế nào, tôi cũng phải được
thế ấy; chớ có lý do nào tôi về đây lại bài-bác
tôi ra khỏi cửa Khổng-Giáo đặng chăng? Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa tính lẽ nào đây? Nó noi theo Đức Khổng-Phu-Tử
đào tạo tinh-thần, tôn trọng Thánh-Giáo, phục
tùng giáo-lý của Ngài. Sự thật chẳng thực-hành
gì cả, mà trái ngược lại họ lấy trí-thức
để giục loạn làm cho xã-hội điên đảo. Lấy
trí-thức ngồi liếm bút lông mèo, xúi thiên-hạ
kiện cáo nhau; lấy văn-chương làm cho ly-dị chồng
vợ người ta, dùng miệng lưỡi lường-gạt kẽ
dốt nát, mượn ngòi bút nó dám bán cả sanh mạng
của con người; hỏi những kẽ đó Đức Khổng-Phu-Tử
có nhìn không? Chắc chắn không nhìn khi Ngài đến
Cung Hiệp-Thiên-Hành-Hóa đặng vi- chứng vụ án
đó.
Trong
ba bằng cớ vừa kể đó, Bần-Đạo quả quyết
rằng: Các vị Giáo-Chủ đã tạo ra các nền Tôn-Giáo,
tinh-thần của họ cũng chỉ biết phụng-sự cho
nhơn-loại. Mà hại thay! Cơ- quan của họ đào tạo
tinh-thần cho loài người với tinh-thần trí-thức
của họ, họ chịu khổ hạnh muôn cay ngàn đắng
trọn kiếp sanh đào tạo cho đời, rốt cuộc cả
triết-lý Đạo-Giáo thay vì tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại,
trái ngược lại đã làm khí cụ của kẽ vô tâm
lợi dụng đặng lường gạt tinh-thần nhơn-loại
hơn nữa, thay vì làm phước, họ đã làm tội.
Tội nghiệp thay! Nếu Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa chiếu
luật: " Tội vi trưởng " thì chưa chắc các vị
Giáo-Chủ ấy ngồi yên trên Liên-Đài của họ
đặng, và nếu như nơi cửa Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa
ấy là Tòa-Ngự của các Đấng Trọn-Lành đặng
bào chửa cho các đẳng linh-hồn siêu thoát, mà
các Đấng ấy nếu còn chút phàm tâm, thì chưa
chắc gì các vị Giáo-Chủ ngồi yên, cứ hầu tòa
mãi-mãi thôi. Tín đồ các Đạo-Giáo tạo thành,
thay vì làm cho vị Giáo-Chủ của họ thêm danh-dự,
lại gây tội tình thêm nữa!
Lời
tục nói: Không ai hại mình hơn là kẽ thân yêu
của mình. Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy
làm sợ-sệt hơn hết là nền Tôn-Giáo của Đức
Chí-Tôn. Lấy Tinh-Thần-Làm-Căn- Bản hỏi vậy:
Tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền
áp bức của văn-minh vật-chất; tinh-thần ấy có
đủ quyền-năng tự-vệ lấy họ chăng? Tinh-thần
họ có đủ lực lượng chiến thắng chăng? Nếu
thoảng tinh-thần của nhơn-loại không quật khởi
lên: Tự-quyết, tự-chủ, tự định phận đặng,
mà phải chịu làm nô-lệ cho văn-minh vật-chất,
thì tương-lai Đạo Cao- Đài sẽ ra sao? Mà chẳng
những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi,
mà còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo-đức
tinh-thần của loài người trở mặt ra đối với
tinh-thần cường liệt của Đức Chí-Tôn, thì tương-lai
nơi mặt thế nầy sẽ như thế nào? Chúng ta cũng
nên để có một câu hỏi.
Có
một điều chúng ta nên để mắt nhìn coi Đức
Chí-Tôn tạo hình thể nào đặng bảo trọng tinh-thần
đạo- đức ấy. Ấy là một phương-pháp ta nương
theo đó đặng tạo dựng khối đức tin vững chắc
bền-bĩ vậy.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 13 tháng 11 năm Mậu-Tý ( 13-12-1948 )
Đêm nay, Bần-Đạo giảng tiếp cuộc thiệt chiến
giữa Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa về " Đức-Tín ".
Có
những điều rắc rối giữa quyền-năng binh vực
các chơn-linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ đối với quyền
trị thế của Ngọc-Hư-Cung và quyền giáo-hóa của
Cực-Lạc Thế-Giới. Về mặt triết-lý, có nhiều
triết-lý đã gây nên một trường ngôn luận sôi
nỗi giữa các nền Tôn-Giáo và tín-đồ của họ.
Về
đức tin ta ngó thấy, phần nhiều hạng thượng-lưu
trí-thức trước mặt ta hiện giờ nầy, nhứt là
các văn-sĩ của Á-Đông ta, tức là các nhà Nho,
còn ở Âu-Châu có các nhà tự do ngôn-luận, tự
do tư-tưởng, phần đông hạng tự do ngôn-luận
ở Âu-Châu đều là vô tín- ngưỡng cả thảy.
Họ còn đi quá nữa là bọn Anarchistes, là họ chẳng
có phương châm tôn chỉ thờ phượng chi hết, chớ
chẳng phải nói vô tín-ngưỡng mà thôi đâu. Các
nhà ấy tới chừng trở về Thiêng-Liêng vị rồi
phải buộc mình quì trước mặt luật Thiêng-Liêng
chịu khảo dượt tinh-thần. Họ muốn tránh mà
làm sao tránh khỏi quyền-năng vô đối của Càn-Khôn
Vũ-Trụ, muốn tránh luật Thiêng-Liêng ấy mà làm
sao tránh khỏi đặng. Các nhà ấy họ miệng lưỡi
lắm, họ phản đối kịch liệt với nhiều lý-thuyết
đến đổi quái gở ta không thể tưởng-tượng
được. Tỉ như giữa Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa họ
nói như thế nầy: " Mấy nhà triết-học cao siêu
đại-giác đến thế lập-giáo dạy Đạo cho nhơn-sanh
họ đã lập quyền sở-hữu của họ, điều đó
có thật, nhìn nhận, song quyền sở-hữu ấy đối
với phương sanh sống của đời không có quyền-năng
chi hết, trái lại làm cho trở ngại bước đường
tranh- đấu và tấn hóa của loài người mà chớ.
Chớ chi quyền-năng Thiêng-Liêng mà người ta nói
là quyền vô cùng tận, năng lực vô biên, quyền
lực ấy thường nơi miệng nhơn-sanh; gọi là quyền-năng
Tạo-Đoan của Càn-Khôn Vũ-Trụ, có thế cho chúng
tôi đức tin, lấy oai- quyền mà tạo đức tin cho
chúng tôi thấy hiện-tượng trước mặt. Hay là
quyền-năng ấy có bảo trọng đặng sanh mạng của
loài người thì ai không muốn tu, ngặt một nổi
cả triết-lý ấy còn bóng dáng mơ hồ, thì chúng
tôi mới mượn nơi đâu mà tạo đức-tin theo Đạo-Giáo
cho được?
Các
vì Giáo-Chủ khuyên chúng tôi làm lành lánh dữ,
chúng tôi thấy trường đau khổ trước mắt, chúng
tôi muốn làm lành nhưng ngặt thiên-hạ không muốn
lành, giục thúc chúng tôi phải dữ, vì chúng tôi
nhịn thì sẽ bị cái dữ của thiên hạ tàn hại.
Muốn nhẫn-nhục vì lòng thương yêu nhịn cái sống
của mình đặng tạo cái sống cho người mà nhơn-loại
không nhơn tay, thay vì tôn sùng sự cao siêu như
chúng tôi, họ không chịu vậy, chớ mạng sống
của chúng tôi nào có quản chi.
Các
Ngài cũng ngó thấy, thế-gian kia bao nhiêu bực đạo-đức
phải chịu khuất thân dưới quyền cường-bức
của thế gian, chịu mai một thiệt thòi, chịu ăn
xin ở tạm; bây giờ mấy Ngài biểu nương nơi
họ mà tạo đức-tin, cái đức-tin trọn cả kiếp
sống của các Vị đạo-đức ấy, tôi chưa hề
thấy hình ảnh nó, xin các Ngài tả hình nó cho
chúng tôi thấy thử coi.
Các
Đấng Trọn-Lành nơi cửa Thiêng-Liêng kia mới lấy
lý-thuyết nào đặng đối-đãi với lời nói ấy.
Các Ngài nói: " Các ông bất quá là đa-văn quảng-kiến,
tìm phương-thế đặng chửa mình, chớ chơn-lý
không phải như mấy ông bày đặt ra đó đâu. Cái
chơn-lý là các ông không biết tin mình thì còn
tin ai, còn tin triết-lý Đạo-Giáo sao được. Đức
Chí-Tôn sai các Vì Giáo-Chủ đến tạo Tôn-Giáo
nơi mặt thế nầy chẳng phải cầu nhơn-loại thờ
phượng Ngài; mà chính Ngài đến hay Ngài sai Người
đến chỉ để tạo Đền-Thờ đức-tin của nhơn-loại
tức là tạo Đền-Thờ cho nhơn-loại thờ nhơn-loại,
không phải thờ Ngài đâu. Mấy ông phản đối
nói rằng: Lấy đạo-đức đặng làm môi-giới
tạo phương-pháp bảo trọng mạng sanh một cách
bền vững kiên cố; chỉ thử coi, không có. Chính
mình các ông còn nương theo triết-lý Đạo-Giáo
đặng tạo cái sống của các ông kia mà. Nếu triết-lý
Đạo-Giáo không có thì nhơn-loại sẽ thuộc vào
hàng thú-cầm như voi, cọp, beo, khỉ độc trên
rừng kia; các ông đã nương nơi Đạo-Giáo đặng
bảo trọng mình đó. Hỏi các ông nương theo lý-
thuyết nào mà biết mình cao trọng, mà biết mình
hơn vạn loại, mà biết mình tối linh, biết mình
là Thần-Linh của thế-gian nầy, mà biết chính
mình các ông là điểm chơn-linh của Trời? Làm
sao các ông biết tự-trọng mình là phẩm cao trọng
tại thế? Tối linh hơn vật loại? Các ông muốn
tính chối phẩm-vị cao trọng của mình đặng nạp
cả mạng sanh và tâm hồn vào chỗ đê tiện, thì
bảo tinh-thần phải nương nơi đâu? Chính mình
các ông không tin mình thì tin ai?
Không!
Không bao giờ các Vì Giáo-Chủ gạt ai! Mấy Ông
nói triết-lý Đạo-Giáo gạt-gẫm tâm-lý của nhơn-sanh,
chính cái triết-lý đó là cái mặt kiến để trước
mặt nhơn-sanh coi theo, các Ông không coi, vì sợ
mà tránh đi thì các Ông tạo đức-tin ở chỗ nào?
Tấn tuồng sanh sống giục thúc nhơn-loại tàn hại
nhau như thế nào? Bực trí-thức tinh-thần trong
nhơn-loại tìm hạnh-phúc trong cái sống vật-chất,
tức là cái sống của con vật. Loài người đã
đào óc não, mưu cầu hạnh-phúc cho kiếp sống
của loài người đã nên chưa? Đã thành hình chưa?
Hay còn đang tìm tàng, còn đang chiến-đấu, mà
còn chiến-đấu đến chừng nào? Tức là còn mê-man
trong phương-pháp tàn hại, làm tàn khổ cho kiếp
sanh nhơn- loại mà thôi, chớ không mảy may đắc
lợi. Các ông trách quyền Thiêng-Liêng, không để
một oai-quyền nào trước mắt, không đủ năng-lực
định đức-tin cho thiên-hạ. Dám chắc rằng dầu
cho Đức Chí-Tôn hiện hình biểu con người theo
Ngài đi nữa, con vật của họ biểu họ chỉ theo
hạnh-phúc của con vật mà thôi, tại họ không
theo chớ có phải hiện ra cho thấy mà theo đâu?
Đức-tin
nơi ta đó, trước hết, ta biết ta; có biết ta
rồi mới biết thiên-hạ, có biết thiên-hạ rồi
mới biết đến Chí-Tôn là ngôi Chúa-Tể Tạo-Đoan
Càn-Khôn Vũ-Trụ, biết Đấng ấy là biết rõ mình
vậy. Nếu chưa biết Đấng ấy, thì đừng trông
mong biết mình, mà chính mình không biết mình thì
không còn ai biết mình hết. Sống không đức-tin,
nghĩa là không tự biết mình, khác nào cây cỏ
vật loại kia, thì không có nghĩa gì hết, sống
ấy vô giá-trị.
Bây
giờ hỏi vậy, vô trong trường khoa-mục kia, các
giám-khảo hỏi Tứ-Thư, Ngũ-Truyện Kinh-Điển,
tức là các triết-học Nho-Giáo của mình đã học
rồi, tới chừng nhập thi không đem theo gì hết,
mà trả-lời các vấn-đề hạch-hỏi được trúng
thì khoa-mục ấy mình đậu. Đạo-Giáo cũng vậy,
các Tôn-Giáo để lại thế-gian cho mình thi hành
triết-lý ấy ra hiện- tượng, tại không đức-tin
rồi không làm, biểu các phẩm Thần, Tiên nơi cõi
Hư-Linh tôn sùng mình trọng hậu với giá-trị nào?
Nói thật như kẽ đánh bông vụ kia, đánh trúng
thì ăn tiền, nếu để chén ngữa ra thì thiên-hạ
ai nói cũng trúng hết!
Đức-tin
có ở con người tự biết tự-trọng, tự thờ
mình, mình thờ mình đặng tức là thiên-hạ thờ
mình đặng; đức-tin do nơi mình tin mình; mình tin
mình đặng, thiên-hạ mới tin mình, còn mình chưa
tin mình mà biểu thiên-hạ tin mình làm sao đặng?
Mình không tin mình, mà biểu nhơn-loại tin tưởng
Đức Chí-Tôn là Đấng tạo sanh Càn-Khôn Vũ-Trụ,
sản-xuất ra linh-hồn ta sao đặng? Nếu chưa đủ
đức-tin làm bằng chứng vô đối, thì chưa xứng
đáng làm phần-tử trong Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn,
tức là Hội-Thánh của Ngài đó vậy.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Thời Tý, Đêm 15 tháng 11 năm Mậu-Tý ( 15-12-1948
)
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp cuộc thiệt chiến
giữa các Đấng Trọn-Lành nơi Cung Hiệp Thiên Hành-Hóa
và các Chơn-Linh có trí-thức tinh-thần cao siêu
mà không dung nạp một tín-ngưỡng nào hết, tức
là các tinh-thần vô đạo-đức.
Vấn
nạn về tín-ngưỡng Đạo-Giáo, họ hỏi các Đấng
Trọn-Lành: " Nếu quả nhiên như các Ngài buộc
chúng tôi phải có đức-tin đặng tu, phải có đức-tin
mới tu kỳ thân đặng, và dục tấn trên con đường
Thiêng-Liêng Hằng-Sống vô-biên vô-giới trong hàng
phẩm các Đấng Thiêng-Liêng, tức là các chơn-hồn
trong Càn-Khôn Vũ-Trụ; chúng tôi xin hỏi: " Nơi
thế- gian nầy biết bao nhiêu Tôn-Giáo mà các Vị
Giáo-Chủ đã tạo thành, đương giáo-hóa nhơn sanh
nơi mặt thế; chúng tôi không công-kích gì các
Đạo-Giáo ấy, nhưng làm cho tinh-thần nhơn-loại
mờ hồ, mất cả tín-ngưỡng Đạo-Giáo là do lẽ
ấy. Chúng tôi cũng không công- kích rằng: Các Vị
Giáo-Chủ đã để các triết-lý Đạo-Giáo nơi
thế-gian nầy là không thật bổ ích cho tinh-thần
nhơn-loại, song chúng tôi làm chứng quả-quyết
một điều là triết-lý của các nền Tôn-Giáo
đã phản khắc nhau, tinh-thần triết-học tín-ngưỡng
không đồng làm cho tinh-thần trí-thức loài người
hoang mang không biết nên để đức-tin nơi nào cho
đặng.
Về
nhơn-đạo, ta thấy ai rủi sanh làm người tại
thế-gian nầy tự nhiên biết mình đến một cảnh
khổ, và kiếp sống của mình là kiếp khổ, ai
cũng hiểu cả Tứ-Khổ mà Đức Phật Thích- Ca
đã để tại thế gian, không phải là không chí
lý; để cho tinh-thần loài người nhận thấy bỡi
trọn kiếp sanh làm con người phải biết cái khổ
ấy do nhiên, không chối cải được; nhưng mỗi
Đạo-Giáo có mỗi phương-chước tu hành đặng
dục tấn về mặt tinh-thần trên con đường Thiêng-Liêng
Hằng-Sống.
Nhơn-Đạo
dạy nhơn loại Tùng-Khổ,
Thần-Đạo dạy nhơn loại Thắng-Khổ,
Thánh-Đạo dạy nhơn loại Thọ-Khổ,
Tiên-Đạo dạy nhơn loại Giải-Khổ,
Phật-Đạo dạy nhơn loại Thoát-Khổ.
Thành
ra chỉ có một triết-lý, chỉ vì muốn diệt khổ,
mà các Tôn-Giáo đã đề ra mỗi đường mỗi nẽo,
mỗi triết-lý. Chúng ta thấy các triết-lý ấy đều
chơn thật và đều bổ ích; chơn-lý ấy chúng tôi
không phản đối, nhưng chúng tôi thấy vì lẽ phải,
toàn-thể các Tôn-Giáo ấy làm cho tinh-thần loài
người không biết chọn cửa nào cho đặng. Vì cớ
nên nhiều kẽ nếu trí-thức tinh-thần được đầy-đủ
đặng suy đoán, tìm hiểu, biết quan-sát các triết-lý
Tôn-Giáo, đạo-đức, thì sự mờ-hồ như chúng tôi
đã nói là chơn thật, quả quyết đáng gọi là mờ-hồ,
nó mờ-hồ có nhiều lẽ. Thoảng có một triết-lý
nào mà tìm chưa tận cùng chỉ sợ một điều nếu
nhẹ tín, đem để đức-tin mình nơi nào rồi sợ
thiên-hạ bàn tán trích điểm ấy sợ xấu hổ; biết
đáng tín-ngưỡng lại sợ miệng lưỡi thế-gian
trích điểm, rồi làm bộ mình cũng coi không chịu
có tín-ngưỡng gì hết; phần nhiều các bậc có
học, các triết-học-gia tại thế-gian nầy có tánh
ấy.
Đã
biết mà lại sợ, biết mình tín-ngưỡng là đúng
mà không quyết thắng tâm-lý của mình và của
người đặng định-quyết sự tín-ngưỡng, sợ
thiên-hạ cười rồi làm màu-mè không tín- ngưỡng,
phần nhiều hạng hữu-học như vậy.
Như
thế thì các Đấng Trọn-Lành trả-lời ra sao? Nói:
Các Ông đủ trí-thức tinh-thần, đủ học-thức
kiến-văn đặng chủ định tinh-thần tâm-lý của
mình, mà các Ông không đủ can đảm quyết làm
cái điều phải làm ấy. Các Ông chán thấy một
kẽ có tâm hồn cao thượng; điều gì học hỏi
nhận thấy là cao thượng, phải lẽ thì họ cũng
dám hy-sinh tánh mạng làm cho nên tướng điều ấy.
Từ tạo-thiên lập-địa tới chừ, bao nhiêu bậc
hiền-triết đã hủy mình làm theo lẽ phải ấy.
Chúng tôi hỏi các Ông: Các nền Tôn-Giáo hiện-tượng
nơi thế-gian có Tôn-Giáo nào dạy thiên-hạ làm
quấy chăng? Nếu quả nhiên không có Tôn-Giáo nào,
dầu Tả-Đạo, Bàn-Môn đi nữa, cũng không dám
dạy nhơn-loại điều quấy, vẫn dạy điều phải
mà thôi. Bỡi vì với lẽ phải ấy, không có Tôn-Giáo
nào đã gọi là Tôn-Giáo mà dám dạy làm quấy,
tức nhiên dạy làm phải. Nếu bậc trí-thức như
các Ông thấy phải không dám làm thì là bạc nhược
tinh-thần lắm vậy.
Một
điều nữa, lấy tín-ngưỡng làm căn bản, từ
thử đến giờ các Ông đã thấy nó làm môi giới,
định phương-châm cho nhơn-loại sống, như thế
nào các Ông chối đặng?! Nếu thoảng nói các Tôn-Giáo
tại thế nầy, làm cho tinh-thần nhơn-loại không
thể chủ-định nơi nào mà để tín-ngưỡng, chúng
tôi xin nói như thế nầy: Người ta dọn một bữa
cơm có đủ món ăn; nào thịt, nào muối, nào tương,
nào rau, nào chao mà mấy người nói nhiều món quá,
cứ cầm đủa quơ hoài, không ăn rồi chịu đói
sao? Phải ăn chớ!
Các
Tôn-Giáo để lại thế-gian nầy miêu tả tánh nết
của loài người, làm phương-châm đặng dìu-dắt
tinh-thần loài người.
Trong
một cái nhà, cũng có chỗ cho mấy người ở, không
lẽ không có một nơi nào cho mấy người đến,
người ta đem nhiều món ăn mà không biết lựa
chọn mà ăn; không phải không món nào bổ ích đặng
định phần sống, tại dỡ không biết lựa hay
là tại làm màu, chê rẻ, trề nhúng thà chết đói
không thèm ăn. Lời tục nói: Làm cách sạch ruột,
ắt phải đói ".
Các
nền Tôn-Giáo có thể ví như một gia-đình, người
nầy tranh hơn thua công-kích người kia, không lạ
mỗi gia-đình nếu có Ông Bà, Cha Mẹ, Cô Bác, phải
có con cháu, như đám thiếu-sinh kia, nếu dạy anh
mầy phải phục tùng Mẹ mầy, Mẹ mầy phải phục
tùng Cha mầy, Cha mầy phải phục tùng Ông Nội
mầy, Ông Nội mầy phải phục tùng Ông Cố mầy,
định quyền hạn trong gia-đình không phải là chuyện
dối giả hay là chuyện không có thật.
Nhưng
có một điều là khi đứa trẻ nên người, không
cần nói đến những điều trên mà nói như vầy:
Trong gia-đình mầy có Ông, Bà, Cha, Mẹ và anh em
mầy, mà mầy là một phần tử, mầy là người
ở trong gia-đình ấy. Các nền Tôn-Giáo đã để
tại mặt thế-gian nầy tùy theo trí-hóa, tánh-đức
của nhơn-loại tiến tới địa-điểm nào, để
Tôn-Giáo cho vừa chừng địa-điểm ấy.
Còn
hiểu Tôn-Giáo là gì, lẽ ấy Tôn-Giáo nào cũng
dạy ta cho sáng đạo-đức tinh-thần, tổng-số
các Tôn-Giáo ấy đáng tạo ra thiệt tướng của
đạo-đức, chớ không phải sanh ra cho nhiều đặng
trích-điểm nhau, tàn diệt nhau, không có phương-thế
gì mà Tôn-Giáo nầy tàn diệt Tôn-Giáo kia, dầu
có ganh-ghét nhau không khi nào Tôn-Giáo nầy có thể
giết được Tôn-Giáo khác, bỡi không có năng-lực,
lực-lượng gì mà tiêu-diệt nhau được cả; bỡi
chơn-lý chỉ là một chơn-lý, là sống trong cái
sống của tín-ngưỡng, sống trong con đường hằng
sống và làm cho được hằng sống vô-biên vô-giới;
tạo tinh-thần cho biết nguồn cội của Tôn-Giáo
là chỉ hằng sống mà đi tìm thôi. Dầu cho một
trăm đường đi, ta chỉ cần biết một nẽo là
đủ, chớ đi một ngàn ngõ cuối cùng cũng đến
một địa-điểm là cõi Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Đó là thiệt cảnh mà ta cần tìm chớ không phải
cảnh phàm nầy.
Ta
mang thi hài thú-chất chịu khổ sở đủ đầy,
ta tìm chơn-lý của Tôn-Giáo thì có Tôn- Giáo nào
mà không chỉ đường, họ chỉ nhiều chừng nào
thì đường chắc đến chừng nấy. Nếu không chỉ
được con đường Hằng-Sống ấy thì không phải
là Tôn-Giáo nữa! Ta không cần nghe và cũng không
cần theo dầu bị dụ-dỗ buổi mê-tín đị đoan;
chừng ấy không phải chơn-tướng Thiêng-Liêng Hằng-Sống,
mà nhơn-loại muốn tìm thì họ từ-giã ngay, không
hề khi nào gạt đến tận cùng, đến diệt tiêu
cả sở-vọng của tinh-thần loài người đặng.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 19 tháng 11 năm Mậu-Tý ( 19-12-1948 )
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp về triết-lý trọng
yếu nên hơi lâu dài, cả thảy ngồi có mõi mệt
xin đừng phiền.
Mỗi
phen cúng giờ khuya, muốn giảng triết-lý nào có
thể viết ra thành một quyển sách mà gom nó lại
thế nào làm một bài văn ngắn-ngủi, có đầy
đủ tinh-thần không phải là dễ, khó lắm vậy.
Đêm
nay Bần-Đạo giảng tiếp: Trường thiệt-chiến
nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa về huyền-vi bí-mật
của các cơ-quan hiệp nhứt là về triết-lý: "
Vị tha diệt kỷ " tức là " Dĩ công diệt tư ",
ấy là Bí-Pháp. Nếu có thể thật-hành tại mặt
địa-cầu nầy, đặng cứu vãn cả cơ-quan tương
khắc, tương đối đem nhơn-loại ra khỏi vòng tương-tàn
tương-sát lẫn nhau.
Vả
chăng, trên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa các Đấng lấy
thuyết dục-tấn làm căn-bản, dầu cho về mặt
triết-lý cũng ở trong tay các Đấng mà có tự
do tín-ngưỡng, các Đấng chịu ảnh-hưởng của
Nho-Giáo, nêu lên lẽ công bỏ điều tư. Ngoài ra,
có tín-ngưỡng mới rõ danh-vị của huyền-vi thưởng
phạt, và toàn cả quyền năng hữu-hình và vô-hình
của Đức Chí-Tôn là Đấng Chủ-Tể muôn loài.
Nhưng hại thay! Trong triết-lý của Nho-Tông, tín
ngưỡng lấy tinh-thần của nhơn-loại mà chịu
cái ảnh-hưởng ấy thôi, ấy là phương-pháp trong
sự tự-do tư-tưởng và sự tự-do tín-ngưỡng
của nhơn-loại, mà nhơn-loại chịu ảnh-hưởng
ấy, chưa đoạt được quyền vi-chủ ấy, nên giữa
Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa phản đối nói rằng: "
Chúng tôi thấy tại mặt thế cả vạn loại bảo-thủ
sanh mạng có nhiều lẽ bất công trước mắt, trường
đời hổn loạn, mạnh được yếu thua, ngu bị
tàn hại, trí được cường-liệt. Dầu cho nhơn-loại
cũng vậy, chúng tôi thấy trước mắt đương nhiên
trên mặt địa-cầu nầy, tấn tuồng cứ tiếp
diễn mãi không thế nào dứt đặng. Bậc Đại-Giác
của nhơn loại kiếm phương thuốc dung hòa, các
cơ-quan tuồng đời đã xô đuổi nhơn-loại đi
trên con đường diệt vong. Buổi tương-lai đây
hỏi có một quyền năng vô-hình định vận, định
căn cho toàn nhơn-loại, quyền năng đó có đủ
năng-lực để bảo vệ họ và ngăn cản không để
cho sự bất công tiếp diễn nữa không?
Tưởng
nếu chúng ta bị vấn nạn như vậy, chắc khó giải
quyết lắm; may thay nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa,
các Đấng Trọn-Lành chưa chịu thua họ, các Đấng
ấy trả lời: " Cũng bỡi nguyên căn dĩ tư diệt
công, dĩ kỷ diệt tha ", tấn tuồng tiếp diễn
giờ phút nào thì luật tương đối định mạng
vận cả sanh-hoạt của vạn-loại vẫn còn đến
giờ phút ấy. Giờ nào mà nhơn-loại biết dĩ công
diệt tư, dĩ tha diệt kỷ, giờ ấy là giờ giải
thoát cho nhơn-loại chớ có gì đâu.
Chúng
ta nhìn thấy trường đời, có khác chi nơi cửa
Thiêng-Liêng kia có một điều là: Những cơ-quan
của tinh-thần vật loại tạo thành tướng đều
là " Dĩ kỷ vị tư ", mà hễ dĩ kỷ vị tư tức
có tương tranh tương đối, mà có tương tranh ắt
có tương tàn tương diệt chớ có gì lạ đâu.
Các
vật loại đã chịu mặt luật Thiên-Nhiên, luật
ấy định quyền dĩ công diệt tư; dầu cho xã-hội
nhơn quần đến gia-đình cũng vậy. Trong gia-đình
toàn con cái lấy gia-đình làm chủ-nghĩa, mà họ
lấy tư-kỷ thì gia-đình ấy náo loạn, tàn mạt.
Trong một quốc-gia xã-hội, dân phải vị quốc
( tức là vì nước ) mình thì quốc-gia mới cường
liệt; còn dân vị-kỷ chỉ biết hạnh-phúc cá
nhân, không biết hy-sinh cho quốc-vận thì nước
nhà loạn lạc, xã-hội vạn quốc đương nhiên
chỉ biết làm cho nước mình cường liệt, chỉ
lo cho nước mình cao sang hơn các nước khác; chẳng
qua vì vị-tư, vị-kỷ của họ mà ra. Nước nầy
muốn đặt mình cho cao sang hơn nước kia, tức có
phản đối có phấn đấu, mà hễ phấn đấu thì
nhơn-loại tương tàn tương-sát nhau. Điều ấy
không lạ, luật thiên-nhiên dục-tấn, họ dục-tấn
đặng chi? Đặng đưa họ đến con đường hiệp
nhứt tức là đường vị-tha bất vị-kỷ. Hại
thay! Nhơn-loại chưa có tinh-thần đó. Điều nào
vị-kỷ đáng lẽ họ không gọi là công-lý hay
gọi là chơn chánh đối với kẽ khác; họ để
giá trị ấy là đê hèn, thô bỉ, lạc hậu, là
lẽ bất công thì thế nào thế-gian nầy không đão
lộn loạn-ly cho được?
Các
bạn có dấu-diếm được không? Mời các bạn ra
khỏi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa đem xuống thế-gian
coi thế-gian đào tạo từ thử, coi tình trạng biến
hóa của nó đặng quyết định do quyền-năng thế
nào? Đứng trước cửa Diêu-Trì-Cung dưới cây
phướn chiêu-hồn của Đức Diêu-Trì, ta dòm thấy
một bản-đồ dường như trải ngữa cho chúng ta
xem, thấy một khu đất de ra đại-hải, đất ấy
một phần bưng lầy nho nhỏ, một phần trên gò
nỗng, chỗ khuyết chỗ đầy, chỗ lưng chỗ vơi,
dơ dáy là bùn, để giá bán ba trăm quan. Mãnh đất
ấy là thành Nữu-Ước ( New York ) tình cảnh đìu-hiu
để giá bán chỉ có ba trăm quan mà thôi. Rồi chúng
ta thấy hình nó biến tướng ra sao? Nó thành Châu-Thành
nho nhỏ, vừa như Châu-Thành, vừa như cửa biển,
các con buôn đến buôn bán. Kế thấy biến tướng
ra một Châu-Thành lớn, thiên hạ lên xuống nhứt
là bán vàng, xem ra tình-trạng kha khá rồi biến
nữa. Thấy Châu-Thành lớn lao thiên-hạ náo nhiệt,
đó là đến thế-kỷ La Fayette, lúc ấy thiên-hạ
nơi thành phố Nữu-Ước tìm phương giải thoát
nạn đô-hộ của Anh, biến nữa thì thấy lầu
đài chớn-chở, cửa biển thuyền bè tấp nập,
thiên-hạ đô hội; nhà thì cất 100 tầng, lầu
các nguy-nga, không còn tình trạng như trước kia.
Những nơi bùn lầy thành ra một cửa biển lớn
lao vô cùng tận, giàu sang vô đối. Nếu chúng ta
tưởng tượng, tại có những cái tư-kỷ ban sơ
mà thành Nữu-Ước đó được cảnh trạng bây
giờ, hỏi nhơn-loại muốn bảo thủ cái nào, muốn
bảo thủ mãnh đất bùn lầy, hay là cảnh đài
các hiển nhiên đây.
Các Đấng ấy nói: Chưa hết, sẽ còn thay đổi
nữa, chẳng phải thành phố Nữu-Ước thôi, mà
cả hoàn-cầu đến hạn định của mình đều phải
đổi nữa.
Các
bạn Việt-Nam, cho các bạn thấy bản-đồ thành
phố Sài-Gòn, dòm thấy trên bản-đồ do con sông
lớn hai bên bần mọc li-bì. Kế đó con sông nhỏ,
sơ-rơ mấy nhà thuyền chài. Bến-Nghé là đó, bùn
lầy dơ bẩn hai bên con sông lớn chảy dài vô trong
ruộng đầy-đặn, đưng cỏ mọc. Thỉnh-thoảng
thấy biến tướng ra, hai bên sông bớt bần, thiên-hạ
chen nhau cất nhà, gọi là nhà sàn, đầy dẫy thuyền
bè tới lui buôn bán. Biến nữa, thấy dựa bờ
sông có người xúm-xít cất nhà, nhóm thành làng
lớn, nhà cửa thuyền bè đặt nghẹt. Biến nữa
thấy ruộng khô, nhà đắp nền đất, nhà ngói,
nhà tranh nhiều. Biến nữa thấy hai bên bờ sông
nhỏ bây giờ là đại-lộ Charner, thiên-hạ ở
coi náo nhiệt, lao-xao lố-xố. Biến nữa con sông
đó đâu mất. Hai bên bờ sông lớn không còn nhà
sàn như trước nữa, lại có tàu khói ra vô tấp
nập, thiên-hạ buôn bán. Biến nữa thấy Châu-Thành
buôn bán sầm uất, tiếp nữa thấy lầu đài nhà
thờ nhà nước, rồi biến nữa ta thấy thành phố
đương nhiên bây giờ.
Các Đấng hỏi: Chúng ta muốn bảo thủ thành-phố
Sài-Gòn như trước, còn ruộng đất bùn lầy; hay
muốn bảo thủ phong cảnh ngày nay? Lại nói: Chưa
hết đâu còn thay đổi nữa.
Bây
giờ có người nhất định nói hiện giờ có Đạo
Cao-Đài chờ coi đặng làm bằng chứng. Tìm tòi
thấy Đền-Thánh chúng ta đây, bản-đồ có rừng,
cây, cọp, beo, khỉ đủ thứ thú dữ ở. Rồi thấy
biến ra vài cái nhà tranh cất leo-teo trong rừng.
Biến nữa thấy phát ra một khoảnh trong cất Đền-Thờ
với vài ba cái nhà lá làm trú phòng. Rồi biến
ra chòi cất cùng hết , mỗi nơi một cái chòi xen
lẫn nhau trong rừng có vùng đắp đất. Biến nữa
thấy thiên hạ vô Đền-Thờ coi được sạch-sẽ,
vẻ- vang. Thấy làm gì mấy Ông lớn vô rồi ba
người ở ngoài cửa mắng nhiếc chưởi bới. Biến
nữa thấy thiên- hạ người nghèo khó tấp nập
ra vô, đốn cây, ban gò mối, làm cho đất bằng
phẳng. Biến nữa thấy chất đá ngói cất Đền-Thờ
lợp ngói, biến nữa sập cái Đền-Thờ đó xuống
có Đền-Thờ khác thiên-hạ đang làm, tức là Đền-Thờ
đương nhiên dinh-thự mọc lên cùng khắp.
Hỏi
Đạo Cao-Đài muốn để bảo thủ khu rừng hoang
vu hay bảo thủ Đền-Thánh hiện giờ, hay là muốn
giữ để làm tư-kỷ cho mình chăng?
Các
Đấng ấy nói: Các sự biến-tướng là gì lẽ
công hết thảy, dầu cho thành-phố Sài-Gòn hay thành-phố
Nửu-Ước điều biến-tướng theo lẽ công không
vì tư được; nhà ta cất giờ phút nầy bất quá
là mở phần tựu hình đặng cốt yếu trong sự
thống-nhất vì công, không vị-tư vị-kỷ được.
Ấy
vậy ta thấy hữu-hình hiện giờ cái bí-mật huyền-vi
Thiêng-Liêng trên con đường trải qua từ Bát-Quái-Đài
đến đây thấy thế nào? Thấy có những cây, khi
đi ngang qua các Đền Đài phải biết rằng: có
bàn tay của mấy người tượng nắn ra các cái
đó, các vật chung quanh mỗi người nhìn thấy trên
con đường qua trải qua ấy, cũng chính tay mỗi
đứa mình đào tạo thành ra một vật chung, nó
là công không phải tư. Cho đến Đức Phật Mẫu
mà các người đến kiến định, nhìn nhận là
Mẹ sanh của mình tại thế, chính Phật-Mẫu tượng
hình cho chúng mình. Phật-Mẫu cũng là công, không
phải tư được. Còn Đức Chí Tôn mà ta sẽ gặp
tới đây,ta sẽ thấy Đức Chí-Tôn là cha của
mỗi đứa mình, thấy Ổng định nhập vào cho công
và hết còn là tư. Về huyền-bí Thiêng-Liêng, nắm
cái Càn-Khôn lập quyền-năng vững chãi do nơi cơ-quan
vị-công bất vị-tư.
Thế-gian
nầy, ngày giờ nào nhơn-loại lấy của mình làm
công, không lấy một mảnh đất nào làm tư nữa,
thì ngày giờ ấy thiên-hạ mới hạnh-phúc.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 22 tháng 11 năm Mậu-Tý ( 22-12- 1948 )
Hôm nay chúng ta đã đến tại nơi Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa đặng quan-sát kiếm tìm cả sự thiệt-chiến
coi có cái chi phản-khắc với chúng ta không?
Từ
hôm trước đến nay, Bần-Đạo đã thuyết-minh
những điều vấn nạn của các Chơn Linh siêu thoát.
Nhưng vì thiếu đạo-đức tinh-thần, kiếm đủ
triết-lý đặng chối tội, chúng ta đã thấy các
Đấng Trọn-Lành nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa kia
chưa để cho họ đặng thắng đó vậy.
Đêm
nay chúng ta tưởng mình lên tại chót Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa, kỳ nầy là kỳ trọng yếu hơn hết.
Bỡi vì họ vấn nạn về quyền-năng tín-ngưỡng.
Luật
Thương-Yêu Công-Bình của các vị Giáo-Chủ đã
để tại mặt thế-gian nầy vấn nạn kịch liệt
lắm, chúng ta để ý, hạng nhứt là Chư Chức-Sắc
Thiên-Phong Nam Nữ nên cần để ý cho lắm.
Bần-Đạo
thuyết đêm nay là đêm trọng yếu hơn hết, họ
vấn nạn về tín-ngưỡng. Kỳ trước Bần-Đạo
giảng về chỗ có nhiều Tôn-Giáo làm cho nhơn-tâm
bất nhứt, ngày hôm nay họ công-kích về luật
điều, họ hỏi: " Nếu như Đạo-Giáo có một khuôn
khổ hữu hình, tức nhiên là phải chiến-đấu
khuôn-khổ của Thiên-Điều mà tại sao các vị
Giáo-Chủ lập giáo bất đồng với nhau? Vị nầy
nói vầy, vị kia nói khác, tức nhiên phản-khắc
với nhau biểu sao nhơn-loại không chia rẽ? Biểu
sao không thống-nhứt?
Các
vị Giáo-Chủ quan-sát lại coi những Đạo-Pháp,
Đạo-Luật của mấy vị Giáo-Chủ ấy, vẫn là
phương-pháp khắc bạc với nhau, phản đối với
nhau; không đồng tâm, đồng đức, nhứt là không
đồng tánh về tư-tưởng, đạo-đức tinh-thần
biểu sao nhơn-sanh không chia rẽ, nếu chia rẽ tức
nhiên loạn-lạc.
Đời
lúc nào cũng phản trắc loạn-lạc chia rẽ, thì
các Đấng Trọn-Lành nơi Cung Hiệp- Thiên Hành-Hóa
họ chỉ ngồi họ cười; họ nói luật hữu-hình
bất công của các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu
nầy, là tại nhiều tâm-lý, nhiều tâm-đức, nhiều
tinh-thần, đừng có nói là một nòi giống, một
quốc-gia hay vạn-quốc. Tánh-đức nhơn-loại bất
đồng thay. Chẳng khác nào các vị buộc vị Phật
Sĩ-Đạt-Ta lập giáo nơi Ấn-Độ là Phật-Giáo
ngày nay, mà Ngài đồng tâm,đồng tánh với người
khác giống được. Ngài vẫn làm chủ tâm-lý của
loài người do tại đâu? Do mặt Luật Bác-Ái và
Công-Bình, những phương-pháp của các vị Giáo-Chủ,
dầu cho luật-pháp đã lập nền Tôn-Giáo bất điều
hòa với nhau nhưng nó cũng mở đường chỉ nẽo
cho nhơn-loại đi đến con đường của Đạo-Giáo,
tức là tín-ngưỡng thờ Người và thờ Trời.
Còn về luật-pháp của mình, Đức Phật Thích-Ca
có nói: " Nếu như Ngài không Bác-Ái, không Công-Bình,
thì Đạo-Giáo của Ngài không Bác-Ái Công-Bình
đặng ". Lập đạo từ trước đến giờ, hỏi
Đấng ấy lập giáo của họ trên nền tảng nào?
Có phải Bác-Ái và Công-Bình chăng? Nếu không phải
Bác-Ái và Công-Bình thì chưa có tìm một triết-lý
cao siêu, để vào tâm-lý tinh-thần nhơn-loại ở
mặt thế nầy. Chúng ta thấy cửa ấy là Nhân đó
vậy.
Nhưng
trái ngược lại, họ còn dành phần họ đánh ép
mình, nếu chúng sanh không có tinh-thần với họ
và nếu không có công-bình, tâm-lý, tinh-thần và
không lòng thương yêu đầy dẫy, chưa đồng tâm
tánh trí não, thì các Ngài chưa hạ mình xuống
đặng nâng đỡ tinh thần loài người dường ấy.
Đức
Lão-Tử thấy thiên-hạ không biết nhìn phẩm-vị
của mình, không biết chơn-tướng của mình để
nơi nào mà định vị cho mình. Trái ngược lại,
Ngài sanh ra tại đất Trung-Hoa, biểu tâm-lý nhơn
sanh điêu tàn, họ không biết phẩm-giá con người
là gì? Đến đổi tâm-lý loài người buổi ấy
cũng xáo trộn, không còn chơn-phẩm của người.
Họ không biết tự tôn họ, họ chưa biết phẩm-vị
họ, thì họ chưa tin thiên-hạ, tức nhiên là thú-chất
vật loại. Nếu không phải có bác-ái từ-bi thức
tỉnh nhơn-loại buổi ấy, thì họ chưa biết phẩm-vị
tối cao tối trọng của họ, họ không còn làm
con vật nữa. Nếu chẳng Bác-Ái Công-Bình chưa
hề khi nào lập nên nền Tôn-Giáo như thế đặng.
Đến
ngày nay, nước Tàu còn lưu lại, Ngài chẳng phải
nói Á-Đông mà thôi đến Châu-Âu cũng vậy. Ngài
nói các triết-lý Đạo cao siêu chơn thật, người
ta theo không biết bao nhiêu nói về chơn thật thì
chúng ta bảo vệ tinh-thần mà thôi. Các Ngài tìm
thấy, các Ngài ngó lụn lại, các Ngài thấy tinh-thần
mà thôi; dầu luật-pháp Tôn-Giáo cũng do Bác-Ái
Công Bình mà lập thành. Những phương-pháp họ
tạo ra cho có hình-tướng cốt yếu dìu dắt tinh
thần nhơn-loại đi đến mức cao thượng là Bác-Ái
Công-Bình; Bác-Ái Công-Bình ấy là Đạo Nhơn-Luân
đó vậy. Nho-Giáo, Đức Khổng-Phu-Tử lập tại
Trung-Hoa vì Ngài thấy nhơn luân buổi nọ điên
đão điêu tàn nên mới lập ra Nho-Giáo để bảo
vệ Nhơn-Luân.
Cũng
vậy nữa, Lão-Tử Ngài thấy nhơn-phẩm suy đồi
không còn giá-trị tâm-lý, nhơn sanh buổi ấy mất
hẳn giá-trị của nhơn-loại, nên Ngài hạ mình
xuống đặng định Luật- Pháp, trụ cái Đạo Nhơn-Luân
làm căn bản; hễ biết trọng mình, biết địa-vị
mình tức nhiên Thiên-Đạo, biết Thiên-Đạo tức
nhiên biết Thiên-Điều, biết Thiên-Điều tức
nhiên biết Đức Chí-Tôn tạo Đạo, mình phải
giữ Đạo. Ngài không lẽ lấy danh tánh của Đức
Chí-Tôn làm của tư được.
Ngài
nói, đệ nhứt Đạo tối cao tối trọng, đặng
chỉ mặt Luật Bác-Ái và Pháp Công-Chánh. Đã định
cái sống trong Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải định
cái sống cho loài người, định cái sống cho toàn-thể
chủng-tộc cho toàn mặt địa-cầu nầy.
Luật-Pháp
của Ngài nó đã trái hẳn phong-hóa mặt địa-cầu,
nói về tinh-thần đạo-đức của Tôn-Giáo nó là
mô giới, cho nên ngày giờ nầy cả Vạn-Quốc đều
để tâm tìm kiếm luật pháp ấy.
Vì
cớ cho nên Đạo Cao-Đài Đức Chí-Tôn có tiên-tri
rằng: " Đạo Cao-Đài tức nhiên là một cây cờ
báo hiệu cho Vạn-Quốc toàn-cầu hay trước là:
Thời kỳ Nho-Tông chuyển thế đã đến ".
Đạo-Đức
của Chúa Jésus-Christ tức nhiên là Công-Giáo, nếu
người không có Bác-Ái thì chưa đem xác thịt của
mình làm con vật đặng tế Đức Chí-Tôn. Ngài
cầu xin tha thứ tội tình cho nhơn-loại, Người
ấy là Người đáng để lòng yêu thương. Nếu
đem ra làm kiểu mẫu cho nhơn-loại bắt chước
thì Tôn-Giáo Gia-Tô đã đoạt được bao nhiêu tinh-thần
thương yêu nơi mặt địa-cầu nầy vậy.
Nếu
các Ngài còn chối cãi thì tôi nói rằng: " Dầu
cho muôn đường ngàn nẽo thì các Ngài cũng phải
chọn một, các Ngài chối không chịu dìu-dẫn tâm-lý
loài người đi trong con đường tín-ngưỡng và
dìu-dắt tinh-thần loài người trong Luật Yêu-Thương
và Pháp Công-Chánh, các Ngài chỉ đem mấy bản
hồ-sơ ra để trước mắt Tòa Tam-Giáo mà cầu
rỗi lấy mình, tôi dám chắc các người không phương
thế gì chối tội đặng. Dầu cượng lý bao nhiêu
cũng không chối đặng, các người chối tội xin
có bằng cớ dĩ nhiên rằng:
Đạo
Cao-Đài xuất hiện, Đức Chí-Tôn đến mở Đạo
24 năm trường, Ngài đến ký một bản " Hòa- Ước
Thứ Ba " với Nhơn-Loại, vì bản " Hòa-Ước Thứ
Hai " đã bị Nhơn-Loại phản bội; không giữ sự
tín-ngưỡng của mình vì cớ cho nên thất Đạo,
nhơn-loại đi trên con đường diệt vong tương-tranh
tự-diệt nhau. Vì lòng bác-ái từ-bi cho nên Đức
Chí-Tôn Ngài đến, Ngài ký tờ " Hòa-Ước Thứ
Ba " nầy nữa, để nơi mặt Luật- Điều cho chúng
ta.
Các
Đấng Thiêng-Liêng chỉ ngay Đạo Cao-Đài mà tín-ngưỡng
và từ-bi cho y theo chủ pháp của mình " Dieu et Humanité
"; nên Trời và Người về mặt Luật Bác-Ái, về
mặt Pháp Công-Bình, ngoài ra dầu Luật-Pháp muôn
hình ngàn tướng cũng vẫn trong Luật Bác-Ái và
Công-Bình mà thôi.
Hội-Thánh
Cao-Đài cũng vẫn do mặt luật vô-hình tối cao
là mặt Luật Bác-Ái và Công-Bình, dẫn họ đến
cảnh vô-hình tối cao tối trọng, cũng do Luật-Pháp
của Đạo Cao-Đài.
Ngoài
ra Luật Bác-Ái và Công-Bình tất cả còn lại là
phương-pháp mà thôi.
Kỳ
tới Bần-Đạo giảng cái quyền-năng là cái hiệu-nghiệm
của Luật Bác-Ái và Công- Bình.
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 26 tháng 11 năm Mậu-Tý ( 26-12-1948 )
Kỳ trước Bần-Đạo thuyết cuộc thiệt-chiến
tại Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, về mặt luật các
nền Tôn-Giáo để tại thế-gian nầy, có thuyết
sơ cái Luật và Pháp của Đức Chí-Tôn đã dành
cho Thánh-Thể của Ngài thi-hành Đệ-Tam Hòa-Ước
của Ngài.
Bần-Đạo
hứa sẽ thuyết-minh cái quyền-năng của Luật Thương-Yêu
và Pháp Công- Chánh. Bần-Đạo đã nói sơ qua cái
luật quyền-năng của Đức Chí-Tôn đã nói buổi
nọ. Buổi ấy luật hình của Đức Chí-Tôn cho
nhơn-loại chưa có ký tờ Hòa-Ước, Đức Chưởng-Đạo
đã có tả sơ qua cho chúng ta hiểu Đức Chí-Tôn
buộc Thánh-Thể của Ngài và toàn nhơn-loại tùng
một khuôn Luật Thương-Yêu và Bí-Pháp Công-Chánh.
Khi đó Bần-Đạo hỏi Ngài: Thầy là Thầy, Cha
là Cha, cả thảy sao Ngài lại xưng bằng Thầy;
thì Đức Chưởng-Đạo nói: Cha thì đáng Cha, Thầy
thì đáng Thầy. Đến đây Bần-Đạo sẽ giảng
sơ bài thi: " Luật Thương-Yêu và Quyền Công-Chánh
".
"
...................................................
Gần thiện-lương xa lánh phàm-tâm,
Làm cha nuôi nấng âm thầm;
Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần, ngôi Tiên ,
............................................................".
Tức
Ngài cho hiểu Đệ-Tam Hòa-Ước với Đức Chí-Tôn,
Ngài sẽ buộc nhơn- loại nhứt là Thánh-Thể của
Ngài thi hành Luật Thương-Yêu và Quyền Công-Chánh.
Bây
giờ Bần-Đạo thuyết về cái năng- lực của Luật
Thương-Yêu và của Quyền Công Chánh. Chúng ta đã
thấy hiện- tượng trước mặt chúng ta cả cơ-
quan tạo đoan hữu- hình. Chúng ta chẳng cần tìm
sâu- xa mà hiểu là do nơi Luật Thương-Yêu mà sản-
xuất vật gì, con gì, nó cũng có tình ân- ái của
nó; thoảng như nó không có tình- cảm ân- ái của
nó, thì nó không sanh-sản con cái được. Con người
không có tình thương với nhau, ân-tình với nhau,
nên chồng nên vợ. Nếu không như vậy chắc là
không có con nối dòng, truyền tử lưu tôn cho loài
người đặng.
Từ
tạo Thiên lập Địa tới giờ, Luật Thương-Yêu
dầu vạn-vật cũng thế, người cũng thế. Luật
Thương-Yêu muốn đủ cao trọng hơn nữa, cao sang
hơn nữa, thì luật ấy định luật nơi Ngọc-Hư-Cung
và Tây-Phương Cực-Lạc, tức nhiên Cực-Lạc Thế-Giới.
Nếu nói thiệt đủ tinh thần mặt Luật Thương-Yêu
ấy, trừ lại cơ-quan Tạo-Đoan, cả vạn-vật trong
Càn-Khôn Vũ- Trụ nầy là Cung Diêu-Trì tức nhiên
là Cung Đức Phật-Mẫu đó vậy.
Nói
thật nếu Đức Chí-Tôn Ngài không có nhứt điểm
tình-ái, không phân ra đệ-nhị xác thân; Ngài là
bạn, Ngài là cơ hữu-vi Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ
đương nhiên bây giờ. Cũng như chúng ta, nếu chúng
ta sợ cái cơ-quan Tạo-Đoan ấy, tức nhiên tạo
đời của mình. Nếu bên Nam, bên Nữ sợ vợ, sợ
chồng thì đâu có tạo ra đời của mình, phải
có tình ái nồng-nàn, nó mới nên chồng vợ. Không
phải vợ chồng thương nhau mà thôi, nó còn xô
đẩy cao xa hơn nữa. Nếu chúng ta biết lương-tâm
nòi giống quốc-gia, chủng-tộc tức nhiên chúng
ta phải tạo đời; không phải thương chồng vợ
mà thôi, Luật Thương-Yêu ấy nó còn cao xa hơn
nữa.
Bỡi
vậy, Đức Khổng Phu-Tử lập Giáo, lập Nho-Tông
của Ngài chú trọng nhứt là Ngài lấy nhơn-luân
làm căn bản, chặt-chịa mạnh-mẽ chắc-chắn lắm!
Vì cớ cho nên Đạo Nho-Tông của Ngài để lại
hơn hai ngàn năm vẫn còn nguyên-lực của nó. Đương
nhiên bây giờ nó còn đủ sức chuyển-thế đặng
nó làm căn-bản mạnh-mẽ chắc-chắn. Căn-bản
nhơn-luân chỉ sản-xuất nơi tình-ái mà ra, ấy
Luật Thương-Yêu Đức Chí-Tôn buộc phải theo theo
mới được ký Hòa-Ước với Ngài, phải thi-hành
cái luật ấy.
Tờ
Hòa-Ước nầy, ký với Ngài phải cho có hiệu-nghiệm.
Ngài buộc ký với Ngài thi-hành theo luật, cho chúng
ta khỏi phải bội ước với Ngài, đã hai kỳ ký
Hòa-Ước với Ngài, đều hai kỳ bội ước. Nếu
chúng ta xét đoán hai kỳ trước, Ngài có buộc
luật ấy hay chăng? Sao không có, có chớ! Mà tại
Ngài không nói với nhơn-loại, không nói tức không
buộc, không buộc thì không làm, đã có định-luật
mà không có buộc, không buộc thì không đặng.
Kỳ
nầy Đức Chí-Tôn không nói, mà Đức Chí-Tôn buộc,
lại buộc phải thi-hành quyền Công-Chánh, chúng
ta không cần tìm Trời - Đất chi cả, cơ-quan dưới
thế, nếu không có mặt Công-Bình về tâm-lý, không
có mực thước Công-Lý tại mặt thế nầy, thì
Bần-Đạo dám chắc rằng: Cả cơ-quan hiển nhiên
bây giờ không còn tồn tại được.
Có
một điều khuyết-điểm chúng ta ngó thấy; một
trường hỗn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau.
Vì muốn thi hành mặt công-lý, tức nhiên lấy cân
Công-Chánh làm mô giới cả cơ quan trị thế. Nhơn-loại
loạn lạc, tức nhiên mặt luật Công-Bình chúng
ta đã ngó thấy, quả nhiên không thể chối cải
cái gì được. Công-Chánh là nơi miệng lưỡi của
loài người, tức nhiên vạn-quốc đương dùng bây
giờ là một phương-pháp để lường gạt tâm-lý
nhơn-loại.
Mặt
cân công-bình thiên-hạ gọi là công-lý mà thế-gian
nầy chưa có công-lý, mạnh thì công-lý của họ
khác, giàu thì công-lý của họ khác, sang thì công-lý
của họ khác, vinh hiển thì công-lý của họ khác,
nghèo khổ thì công-lý của họ khác.
Cái
công-lý của nhơn-loại bây giờ là công-lý giả,
vì bỡi công-lý giả ấy cho nên mới có trường
hổn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, phải
họ đem công-lý về mặt tinh-thần quả quyết đặng
cân phân cùng các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu
nầy; nếu cân công-chánh ấy thiệt tướng của
nó, thì thiên-hạ không có tương-tàn tương-sát
với nhau, ngày nay máu sông xương núi; họ dùng
lời dùng tiền thực hiện công-chánh đặng lòe-loẹt
nghĩa lý công chánh của họ. Con người chưa có
đoạt đặng công-chánh thật sự vì cớ con người
chưa có mặt luật Công-Bình Bác-Ái dưới thế-gian
nầy. Bỡi cớ cho nên Đức Chí-Tôn buộc cả con
cái của Ngài nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi-hành
cho được thiệt tướng.
Bỡi
vậy có câu Thánh-Ngôn của Ngài nói: " Ngày giờ
nào các con dòm thấy một lẽ bất công nào nơi
mặt thế-gian nầy thì ngày giờ ấy chưa thành
Đạo ".
Đức
Hộ Pháp
Thuyết
Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 8 tháng 12 năm Mậu-Tý ( 6-01-1949 )
Hôm nay Bần-Đạo giảng tiếp cái hạnh-phúc chơn
thật của loài người do nơi đâu mà có? Bần-Đạo
đã tả cho cuộc thiệt-chiến nơi Cung Hiệp-Thiên
Hành-Hóa. Các Đấng Chơn-Linh cao siêu về trí-thức
tinh-thần thiếu đạo-đức họ phản đối, họ
cho rằng : Duy có bậc chơn-linh cao trọng, đủ tinh-thần,
đủ quyền-năng, đủ phương-pháp mới ngó ngay
" Tứ-Diệu-Đề " tức nhiên là bốn điều khổ
của kiếp sanh đặng lập vị mình. Phần nhiều
các chơn-linh khác không thể gì đảm đương quyết
thắng " Tứ-Diệu-Đề " ấy đặng, hơn nữa vì
quá khổ họ tìm mảy may hạnh-phúc, họ phải tìm
lấy hạnh-phúc đặng giải khổ; duy có phương
thế tìm hạnh-phúc trong phương tối khổ, vì cớ
mà tạo ra oan-nghiệt tội tình, quả kiếp là do
nơi đó. Bần-Đạo nói vì cớ ấy cho nên rủ nhau
tìm coi cái hạnh-phúc chơn thật của kiếp sanh
con người do nơi đâu mà có.
Bần-Đạo
cũng luôn dịp để toàn-thể Thánh-Thể của Ngài
và toàn cả con cái của Đức Chí-Tôn lấy trí-thức
kiếm hiểu coi nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa các
Đấng Trọn-Lành trả lời với họ thế nào? Bần-Đạo
thuyết đêm nay hơi lâu một chút rán ngồi chờ
để tâm mà nghe.
Bao
giờ cũng vậy, muốn thuyết cái chơn-lý phải lấy
cái Thể Pháp; nhứt là dùng cái Thể-Pháp ngắn-ngủi
khó lòng lắm, nhứt là phải thúc lại trong thời
gian ngắn-ngủi nầy. Vì thấy mỗi khi cúng rồi
cả thảy đều mỏi-mệt, nên Bần-Đạo không muốn
để cho Hiền-Hữu, Hiền-Huynh, Hiền-Tỷ, Hiền-Đệ,
Hiền-Muội mỏi-mệt như thế; khó lắm không phải
dễ. Thuyết-pháp không phải dễ, dễ chăng là mấy
bà lên nói hai ba câu rồi xuống, kết cuộc của
mấy bà là vậy thôi; thế nên hôm nay tóm-tắt
như vậy thôi, cũng như có vị Giáo-Sư lên đài
đứng sợ hãi quá, không phải dễ, vì chưa có
ngày giờ tìm-tàng. Mỗi khi Bần-Đạo thuyết, Bần-Đạo
để riêng một chỗ trống để cho tinh-thần toàn-thể
Thánh-Thể con cái của Đức Chí-Tôn kiếm hiểu
châm thêm cho được cao siêu, chúng ta có thể tìm-tàng
được.
Bần-Đạo
cố đưa chìa khóa cho cả thảy nắm trong tay, đặng
mở ra hầu dìu dắt cả thảy đi cho trọn vẹn
trong khối Linh-Đài của Đức Chí-Tôn.
Ấy
vậy, chúng ta kiếm hiểu cái hạnh-phúc chơn thật
của con người, tức nhiên của kiếp sanh do đâu
mà có? Bần-Đạo thường khuyên nhủ, nếu muốn
kiếm một sự thật của một chơn-lý hay một triết-lý
vô-hình vô-cảnh khó lắm; chúng ta phải thấu đáo
cho tận cùng, duy chúng ta tìm-tàng dễ-dàng là chúng
ta chỉ tìm nơi cái Linh-Đài, lấy cái nhỏ mà tìm
cái lớn. Thoảng như chúng ta muốn tìm phương-pháp
giải quyết cái thống-khổ đương nhiên nơi mặt
địa-cầu nầy, họ đương đi trong cảnh vô-hình
để họ tìm hạnh-phúc cho nhơn-loại.
Ôi
biết bao nhiêu cái mưu chước đặng tìm hạnh-phúc,
mà tội nghiệp thay cho nhơn-loại họ cũng tìm,
họ đương khao-khát cái hạnh-phúc thương yêu đặng
để sống. Ai đề xướng tạo ra hạnh-phúc cho
họ thì họ theo, họ chỉ theo Hitler vì họ tưởng
Hitler tạo hạnh-phúc cho họ đặng. Như dân Ý họ
theo Moussolini họ cũng tưởng Moussolini tạo hạnh-phúc
cho họ được mà thôi.
Đương
giờ phút nầy, các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu
nầy, giờ phút nầy thiên-hạ đương bị lòe-loẹt
vì hạnh-phúc ấy làm cho tinh-thần loài người
đương hoang mang bất nhứt, cũng vì khao khát hạnh-phúc
mà thiên-hạ bị lường gạt tinh-thần. Chúng
ta suy gẫm kiếm hạnh-phúc của loài người do nơi
đâu mà có?
Bần-Đạo
để cho cả thảy đều suy gẫm tìm kiếm; Bần-Đạo
nói trắng ra thì chúng ta tự nghĩ mỗi anh em, mỗi
người đều tự kiếm lấy mình coi hạnh-phúc mình
ở chỗ nào; kiếp sống chúng ta từ thuở lọt
lòng hạnh-phúc ở đâu, tìm thử coi? Chúng ta không
thấy gì hết, chúng ta duy có biết đau khổ mà
thôi. Bởi cớ cho nên, Bần-Đạo khuyên cả toàn-thể
nhìn ngay "Tứ-Diệu-Đề" của Đức Phật Thích-Ca
là đúng, mà sự phản-kháng của các Chơn-linh nơi
Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa không cãi qua lẽ đó được.
Chúng
ta nên biết kiếm coi sanh của chúng ta là khổ,
kiếp sanh của chúng ta từ buổi lọt lòng Nam-Nữ
cũng vậy, phải tìm coi hạnh-phúc do nơi đâu mà
có?!
Bần-Đạo
dùng phép hồi-quang phản-chiếu xem kiếp sống của
Bần-Đạo, chịu thống khổ bao nhiêu và được
bao nhiêu hạnh-phúc chơn thật. Bần-Đạo phải
đi từ chỗ nào Bần-Đạo ngó thấy Bần-Đạo
sanh ra gặp nhà nhân-từ đạo-đức. Ông Thân Bần-Đạo
làm một vị quan của đời Pháp thuộc ( lúc ấy
Bần-Đạo mới có bốn tuổi ); chức tước ấy
cũng khá, có dư dả, dư ăn, đủ mặc, nếu ăn
hối-lộ có thể làm giàu được. Nhưng Ông Thân
của Bần-Đạo đạo-đức lắm, người dĩ-đức
vi-trọng. Ông thường thấy sự bất công thì Ông
phản đối ngay, nhứt là trường hợp bị áp-bức
nòi giống của đám dân nghèo. Đem tinh-thần ra
cứu đời như thế nên đứng không bền-bỉ, vì
vẫn bênh vực những kẻ yếu hèn, kẻ cô đơn;
phản đối kịch-liệt với cái oai-quyền đặc-biệt
của thiên-hạ. Thiên-hạ ghét những người phản
đối với họ, nên họ đuổi Ông; rồi Ông về
với Bà Mẹ Bần-Đạo lo tảo lo tần mua bán để
muôi sống. Bần-Đạo thứ tám còn em thứ chín
nữa ở với nhau như bầy con ở trong cái ổ nghèo,
ổ rách vậy. Mấy anh mấy chị lớn họ lập nên
danh kẻ có chồng, người có vợ; chỉ có một
mình Bần-Đạo ở với Cha-Mẹ mà thôi. Bần-Đạo
là con chót, con áp út phải ở trong gia-đình đó,
ngày buổi ấy tưởng mình vô phước; mà ngó lại
buổi ấy Bần-Đạo chưa biết gì hết chỉ có
biết thương nhau mà thôi. Thương Cha có công sanh
dưỡng và công-chánh, thương mẹ bảo trọng gia-đình
lo tảo lo tần nuôi con, thương anh em trong gia-đình
duy có biết thương mà lo học; sợ không học Ông,
Bà, Cha, Mẹ buồn rầu; nói con không học Cậu,
Mợ buồn lắm. Vì thương yêu nên quyết chí học,
học là tánh-đức của thiên-nhiên; thương nhiều
quá, thương trong gia-đình hơn ai hết, anh em cũng
vậy. Hạng nhứt trong nhà bất hòa là điều khổ
hơn hết. Anh Chị bất hòa Bần-Đạo theo năn-nỉ,
khóc lóc giải hòa; ngó lại hồi lúc đó đến
bây giờ, thì lúc đó hạnh-phúc nhiều hơn hết,
chỉ có biết thương yêu mà thôi.
Đến
chừng lập được thân danh ra đứng đợt với
đời, kiếp sống từ đó xét lấy mình thì thời
buổi ấy, đã tính trong óc - Cha đã chết từ hồi
mới lên 12 tuổi chỉ ở với Mẹ; thương Mẹ sợ
Mẹ chết nữa không biết ở với ai ?! Sợ quá
chừng quá đỗi khi nằm ngủ cũng sợ.
Ở
Tây-Ninh nầy người ta thường chôn đám xác ban
đêm, khi ngủ nghe họ hò, giựt mình thức dậy
mò kiếm Bà Già, Bà Già hay, hỏi con làm gì vậy
?! Con nghe người ta đưa đám xác con sợ Mẹ chết
quá. Cũng vì sự thương quá đỗi, chừng được
17 tuổi quyết định ra làm việc để trả hiếu
cho Mẹ.
Bần-Đạo
hiện tại ở Tây-Ninh thiên-hạ còn nhớ, buổi
ấy không biết gì hết, duy có biết thương Mẹ
mà thôi, thêm nữa mấy đứa em gái tới ngày giờ
định gả lấy chồng chớ không còn ở chung nữa.
Lúc ấy Bần-Đạo đã thi đậu, nếu ra làm với
hãng buôn ăn lương lớn mà sợ không biết nuôi
Mẹ được không? Lại bị người anh rễ nói: Em
làm việc cho hãng buôn ngoài không có danh-dự gì
hết, nghe lời nên xin sở nhà nước. Làm việc
mỗi tháng lương 70, 80 đồng là nhiều lắm. Ăn
xài hơn ai hết mà cũng dư một đôi chục bạc
để nuôi Mẹ; đến chừng lương còn hai chục đồng
một tháng chừng đó thiếu nợ, lại còn thêm một
bà vợ nữa, công việc bối-rối xãy ra không biết
bao nhiêu, tới chừng đó không còn lo cho Mẹ được
nữa; còn lo gì nữa được! Lúc đó khổ về thể-xác
mà tinh-thần cũng khổ nữa, không biết buổi nào
quên được. Mà trong gia-đình khi đó tạo hạnh-phúc
được chưa? Chưa tạo hạnh-phúc được thì bà
Mẹ đã chết.
Năm
Bần-Đạo được 22 tuổi, đau đớn biết bao nhiêu,
chỉ có biết một điều là lo lập thân danh đặng
nuôi Mẹ, lập đặng thân danh để bảo trọng anh
em. Đến chừng thành danh rồi khổ đáo để. Cha,
Mẹ đã khuất hết, dầu thương bao nhiêu cũng không
còn, lại bị ác nữa là vợ con gia-đình sanh đẻ
mãi; đâu có lo ngoài được nữa, khởi thống-khổ
tâm hồn. Tới chừng cao sang sung-sướng ngó lụn
lại không còn thấy Cha, Mẹ vì Cha, Mẹ đã chết
hết. Hai Đấng ấy đã chết hết thôi mình đeo
theo anh em, em chết nữa, lần lượt bao nhiêu người
thân-ái đều chết hết; bao nhiêu cái thương nồng-nàn
chỉ để nơi người Anh Rễ, thương hơn anh ruột
nữa. Có một người em gái thứ chín, đó là người
bạn thân mến trong kiếp sanh của Bần-Đạo mà
đã qui liễu rồi. Tới chừng ấy tâm hồn ngơ-ngẫn,
xác thịt bơ thờ; đi ra ngoài đồng ngó ngọn cỏ,
con chim nó cũng nhắc; nghe tiếng hót của mấy em
cấy lúa, nghe tiếng hò của người chèo ghe cũng
nhắc tới nỗi đau thương. Từ ngày ấy, không
biết buổi nào được vui, chỉ muốn tu, muốn tìm
cảnh tu, cho đến từng tuổi nầy đáo để tâm
hồn quá lẽ!
Nhờ
Đức Chí-Tôn đem cây đuốc Huệ-Quang chiếu diệu
tâm hồn nầy đặng gỡ mối đau khổ. Vì cớ cho
nên Bần-Đạo theo, càng theo cái lý-tưởng càng
để tâm hồn theo Ngài, rồi Ngài gieo tình thương
yêu nồng-nàn hơn muôn triệu lần của gia-đình
nữa.
Hễ
biết tu thì biết Đạo, hễ biết Đạo rồi thì
biết dìu-dắt anh em chị em tình yêu thương nồng-nàn
đáo để, thương hình-trạng của thiên-hạ muôn
ngàn đau khổ.
Bần-Đạo
đã sống bao nhiêu năm khổ chỉ biết chung chịu
điều thống khổ với nhau; mấy anh lớn, mấy chị
lớn lần lượt họ đi về chầu Đức Chí-Tôn
hết, chỉ để một mình Bần- Đạo quằn-quại
gánh vác hai vai; khổ anh khổ em mà các bạn còn
bơ-thờ chẳng biết đạo hạnh là gì hết; nỗi
lo nghiệp Đạo, nỗi lo dạy-dỗ mấy em, nỗi lo
cho đám con trẻ, mà mấy kẻ không có tay giúp đỡ
vì Đạo, binh vực cho Đạo, mà tình-trạng thể
tánh còn thay đổi.
Trái
lại Bần-Đạo đem thân mình vô cửa Đạo đặng
thoát ly thống-khổ cho tâm hồn, mà nó lại còn
tăng thêm cái thống-khổ nữa. Hỏi cái thống-khổ
của Bần-Đạo nơi đâu mà sản xuất, trong cảnh
khổ ấy Bần-Đạo cũng có thể tìm hạnh-phúc
đặng mà sống, nếu không có hạnh-phúc thì Bần-Đạo
đã chết rồi, chết rồi thuở thiên-hạ cường
quyền áp-bức đồ lưu nơi hải-ngoại; chết hồi
buổi Đạo nguy biến suy vong, nếu không có hạnh-phúc
tinh-thần an-ủi thì đâu có sống đến ngày nay.
Có
chớ, có hạnh-phúc an-ủi được tâm hồn của
Bần-Đạo là khối thương yêu của Bần- Đạo,
thương yêu con cái của Đức Chí-Tôn, của triệu
tâm hồn ấy là hạnh-phúc chân thật.
Bần-Đạo
không kiếm mà thể xác đặng mạnh-mẽ, năng-lực
đó nó làm cho Bần-Đạo sống, sống đặng quyết
thắng cả cái thống-khổ là do hạnh-phúc thương
yêu ấy. Bần-Đạo thương yêu chân thật con cái
của Ngài, rồi Bần-Đạo thấy cả thảy con cái
của Ngài thương yêu Bần-Đạo lại một cách chân
thành. Hỏi trong buổi chưa thương họ còn có kẻ
ganh hiềm, ghét ngỏ, vì tinh-thần ganh tị của
họ; nhờ sự thương yêu chơn thật của toàn thể
con cái Đức Chí-Tôn đem chứng cớ ra công-lý,
làm cho toàn cả thiên-hạ ngó thấy khối thương
yêu công-bình Thiêng Liêng hiện-tượng ra đặng
làm chứng cho Bần-Đạo. Vì thương yêu nên mới
tạo hạnh-phúc, vì thương yêu nên mới tạo ra
tổ-nghiệp. Ngày giờ nầy các hạnh-phúc thiệt
tướng là bởi khối yêu thương vô tận đối với
con cái của Đức Chí-Tôn, tức nhiên là trong Đạo-Đức
đó vậy. Hạnh-phúc nó làm cho Bần-Đạo sống
một cách mạnh mẽ, sống một cách oai quyền; cả
thảy đoán xét lại, khi chúng ta tạo dựng được
một cái đại-nghiệp hay gầy dựng một công-nghiệp
nào mà đặng hưỡng đặc-ân của nó, thì công-nghiệp
ấy vẫn còn giá-trị.
Còn
chúng ta có thể tạo công-nghiệp cũng không phải
là một thời gian, một thời gian không thể gì
đặng. Nếu cả triệu con người tin tưởng đặng,
dầu công-nghiệp ấy phải đem mạng sống của
mình đặng ký thác cho nó đi nữa cũng phải làm.
Giá-trị
gì một mạng sanh, đem đổi hạnh-phúc cho cả triệu
người mà sao không đổi, cái hạnh-phúc chơn thật.
Bần-Đạo
cho hay nếu Đạo Cao-Đài sẽ hưởng được cái
hạnh-phúc vô ngàn của Đức Chí-Tôn ban bố ngày
nay đã thiệt-tướng vì vinh-hạnh đó, Bần-Đạo
đã lập được đại công đối với toàn cả con
cái của Đức Chí-Tôn, Bần-Đạo đã lập được
là nhờ cái quyền-năng vô đối của hạnh-phúc
ấy.
Kỳ
tới Bần-Đạo sẽ giảng thêm năng-lực thương
yêu và hạnh-phúc của loài người.
|