Ðại - đạo  Tam -  Kỳ  phổ - độ

Tòa - Thánh  Tây - Ninh

 

Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống

Thuyết Đạo của Đức Hộ Pháp

Tài liệu do Ban Tốc Ký Tòa Thánh Tây Ninh Sưu Khảo

 * * *

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 15 tháng 12 năm Mậu-Tý [13-01-1949]


Kỳ thuyết-pháp trước Bần-Đạo đã để một dấu hỏi, Đạo Cao-Đài có thể đem hạnh phúc cho nhơn-loại, tạo hòa-bình làm cho đại-đồng thiên-hạ đặng chăng?

Đã để dấu hỏi tức nhiên phải trả-lời. Chúng ta chẳng nên chỉ biết tin nơi Đức Chí-Tôn mà thôi, mà phải biết Ngài đến tạo nền Tôn-Giáo cốt yếu là đến ký tờ Hòa-Ước với nhơn sanh, tạo hạnh-phúc cho nhơn-sanh và làm cho thiên-hạ hưởng đặng thái-bình nơi mặt địa cầu 68 nầy, tức nhiên chúng ta dám quả-quyết và để đức tin chắc-chắn rằng: thế nào cũng thành tựu, nhứt là có lời quyết đoán của Anh Cả Thiêng-Liêng của chúng ta là Đức Lý-Giáo-Tông đã nói:

"Đức tin một khối tượng nên hình,
Đã hiệp Vạn-Linh với Chí-Linh "

Nghĩa là Đạo Cao-Đài đã thành, nhưng từ-từ đi lên cho đến cái địa cảnh vô đối của nó. Ta choán biết Chí-Tôn đến ký Hòa-Ước dưới thế gian nầy, chúng ta ngó thấy Hòa-Ước của nhơn-sanh nhứt là các liệt-cường ký với nhau khoản nầy, khoản nọ, khoản kia đủ thứ; ký không biết mấy khoản.

Với Đức Chí-Tôn chỉ có hai khoản mà thôi:

1- Luật thương-yêu: Ngài định-luật cho chúng ta là thương-yêu; không phải chỉ thương yêu nhơn-loại mà thôi, mà phải thương-yêu cả toàn Vạn-Linh nữa.
2- Quyền công-chánh: Ngài chỉ định là quyền công-chánh từ thử, ta chưa ngó thấy Hòa-Ước nào mà đơn sơ như thế, mà nó oai quyền làm sao! Không thể gì thực hiện đặng, dầu cho tận-thế loài người cũng không khi nào thực-hiện ra đặng!

Chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời gian ta không biết định đoạt, ta chỉ lương-tri tức là lấy trí-tri để hiểu chơn-tướng của Đạo Cao-Đài, làm thế nào đem hạnh-phúc cho nhơn-loại hưởng được và tạo hòa-bình cho thiên-hạ cả Đại-Đồng Thế- Giới.

Chúng ta duy lấy trí-tri tìm hiểu thôi, chúng ta thấy cái quyền-năng của Luật Thương- Yêu thế nào? Tấn tuồng hiển nhiên hiện từ khi có loài người đến giờ, nếu không có sức mạnh-mẽ vô biên của Luật Thương-Yêu ấy thì Đức Phật Thích-Ca chưa có lập giáo thành tướng được.

Khi Ngài đến Ream luyện pháp tuyệt-thực có bốn người theo Ngài, bốn người không phải theo Ngài làm môn-đệ mà theo coi Phật có đoạt Pháp đặng chăng?! Đến chừng Ngài từ trên đãnh núi tuột xuống, Ngài ăn uống lại. Bốn người ấy đợi Ngài ở chân núi thấy như vậy cho rằng Ngài đã qui phàm rồi, không có đoạt Pháp chi hết nên cả bốn người bỏ đi. Tới chừng Ngài đi thuyết-giáo, Ngài tìm bốn người ấy, bốn người ấy biết Ngài chơn thật mới theo, trong bốn người, chỉ có hai người là trọng yếu hơn hết, nhưng rồi đến cuối cùng chỉ còn có một người đoạt đặng Phật-Giáo mà thôi.

Đạo Tiên, Lão-Tử có một người môn đệ và một đứa ở là Từ-Giáp biết Đạo của Ngài, duy có ông Doãn-Hỷ theo Đức Lão-Tử đoạt phép truyền giáo mà Đạo Tiên còn tồn tại đến ngày nay.

Đạo Khổng-Phu-Tử tuy vân, nó có Tam-Thập Lục-Thánh, Thất-Thập Nhị-Hiền, Tam Thiên Đồ-Đệ mà cả thảy Đức Khổng-Phu-Tử chưa chắc người nào đoạt đặng. Duy có một người mà thôi là Thầy Sâm; bắng cớ là buổi chung qui Ngài kêu Sâm nói: " Ngộ Đạo Nhứt Nhi Quán Chi ", Đạo ta chỉ có một người biết mà thôi.

Đức Chúa Jésus Christ có người môn-đệ mà thôi, bỡi Ông Pièrre chối Đạo ba lần khi ăn năn khóc lóc với Bà Maria mà xưng tội mình.

Mahomet có một người môn-đệ phụ nữ mà Đạo Hồi đã thành vậy. Chúng ta suy đoán chỉ có thương yêu, duy có một người thương, hoặc nữa người thương mà các vị Giáo-Chủ đã lập thành Tôn-Giáo tại mặt thế nầy.

Chúng ta xét lại thấy Đạo Cao-Đài còn hạnh-phúc hơn các nền Tôn-Giáo khác, nếu nhận quả quyết thì có ba người, mà nếu có ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi.

Cái thiệt-tướng của nền Tôn-Giáo, Đức Chí-Tôn hiện-tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt được, trong đó các vị thừa mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó. Bần-Đạo kiếu lỗi cùng con cái của Ngài; không phải tự-kiêu hay là tự-đắc chính tay Bần-Đạo có một phần khá lắm; vì cớ Bần-Đạo rủ chúng ta dùng phép hồi-quang phản-chiếu đặng định tướng diện của mình, cốt yếu là một phần-tử trong nền Tôn-Giáo. Hễ mình coi chơn-tướng của mình, rồi tổng-số chơn-tướng đó làm chơn-tướng của Đạo, Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài nên hình đặng tức là thành tướng thương yêu vô tận vô biên. Nó nên hình có nét đẹp thiên-nhiên là nhờ vẽ với cây viết thương yêu mà viết nét Thiêng- Liêng cho Thánh-Thể của Ngài để theo nét thương yêu ấy đặng tạo nên hình-trạng hình tướng một khối thương yêu. Ta không có mơ vọng và không có lường gạt tâm-lý nhơn- sanh, trước mặt mỗi người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền-lực ngày nay.

Quyền Đạo ngày nay do Luật Thương-Yêu mà thành tướng vậy, mà nếu do Luật Thương Yêu thành tướng thì không có quyền-năng nào tàn phá nó đặng; nó có sợ chăng là sợ luật thù hận. May thay cả lực-lượng thù hận cũng không xung đột được, bỡi có bàn tay Thiêng-Liêng gạt thù hận ra khỏi rồi.

Nó nên hình bỡi sự thương yêu, trưởng thành trong sự thương yêu, bỡi hình chất của thương yêu hễ càng ngày càng lớn lên càng tráng kiện, nó sẽ làm chúa cả thù hận không hề xâm lấn nó đặng.

Nó quả quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù hận ra, khi các đảng phái dùng quyền-lực đặng chiếm ngôi vị của Đức Chí-Tôn để tại thế-gian nầy.

Bần-Đạo đã can đảm dùng quyền của Bần-Đạo đánh ngã hết đặng bảo trọng hình tướng Thiêng-Liêng của Đạo. Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo tồn hình-thể của Đức Chí-Tôn cho trọn thương yêu.

Bần-Đạo dùng can đảm gánh cả thù hận của thiên-hạ mà bảo tồn khối thương yêu vô đối của Đức Chí-Tôn không cho hoen ố, nhơ bợn. Tại sao mà Bần-Đạo dám thí mình gánh vác thù hận đặng bảo trọng nó? Bỡi biết nó là Chúa của hình ảnh, của quyền trị thế tương lai, nó là Thầy của thiên- hạ đặng trị thế. Nếu không trọn vẹn nó lưu lại kiểu dở thô bỉ nhơ nhớp thì không thể vì làm Thầy thiên- hạ đặng.

Các chi phái hồi đó dùng cường-quyền mà đoạt- vị. Bần-Đạo là Hộ-Pháp nắm giữ chơn truyền của Đức Chí-Tôn trong tay đây, mà để cho nó đoạt ngôi soán vị như các đời vua chúa từ trước lưu lại đối với nền chơn-giáo của Đức Chí-Tôn sao?

May thay! Các quyền ấy không xung đột được với Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn, nó đã bại trận. Bỡi Thánh-Thể của Ngài có người cầm Luật-Pháp oai-nghiêm tức là cầm cây huệ kiếm trong tay đặng gìn-giữ nền Chơn-Giáo nên hình được; nó nên hình được tức nhiên nó tạo cho thiên-hạ được; nó tạo oai-quyền của nó thành tướng đặng, thì tạo quyền cho nhơn sanh tại mặt địa-cầu nầy về tương-lai đặng.

 

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 18 tháng 12 năm Mậu-Tý ( 16-01-1949 )

Hôm nào đến nay chúng ta lưu luyến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa, chúng ta đã có thấy nhiều bài hay ho về tinh-thần của chúng ta; có lẽ chúng ta ở mãi, nhưng chúng ta phải dục-tấn nữa, tấn bộ trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.

Chúng ta đình lại, rủ các bạn đến đây rất dễ, ngày giờ chúng ta ở Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa tức nhiên gần nơi Diêu-Trì-Cung là nơi nhao rún của chúng ta, chúng ta chẳng phải dễ gì mà đi đặng. Các bạn nên nhớ rằng: Chúng ta là người hành khách, có một điều là muốn đi tới Cung ấy, dám chắc mình ngưng bước rất dễ; ci thật có hạnh-phúc Bà Mẹ của Bần-Đạo đã qui liễu khi trước đặng nhập vô hình thể Thiêng-Liêng, Bà Mẹ sanh chúng ta tình yêu ái nồng-nàn làm sao!

Chúng ta ngó thấy lúc mới sơ khởi, chúng ta còn vật-loại; biến thân lên cho đến Nhơn- Phẩm, Thiên-Thần, chúng ta đã có hạnh-phúc đứng đến địa-vị như nhau. Đệ-Nhị xác thân chúng ta sanh xuống làm người ở trong Đệ-Tam Âm-Quang thì thấy cái liên khổ, trong khuôn-khổ nơi Cung Diêu-Trì thế nào?

Bần-Đạo giảng điều trọng yếu hơn hết, mỗi căn tu của chúng ta đây, chúng ta ngó thấy Bà Mẹ sanh của chúng ta chịu nguyên vẹn nơi Cung ấy. Đại-nghiệp nơi Thiêng- Liêng chúng ta đã đào tạo, Bà Mẹ sanh của chúngào tạo, Bà Mẹ sanh của chúngcủa nó đều đem cất trong một căn nhà; sự thương yêu trọng-hệ vô cùng. Mỗi vật chơi của con đều để cho có thứ-tự, đến khi con lớn khôn rồi, đem ra làm dấu tích sơ sanh của nó, Bà Mẹ tại mặt thế nầy như vậy, huống chi Bà Mẹ Thiêng-Liêng đã để muôn ngàn triệu kiếp sanh, chúng ta đã đoạt được thế nào mà không lưu-luyến nó đặng; mỗi việc gì, mỗi hành-vi gì, nơi Cung ấy nó giục nhớ cho chúng ta những điều di-tích lại là mỗi cảm-tình vô hạn.

Ngoài ra còn một điều trọng-hệ hơn hết, là nơi Cung của chúng ta hội-hiệp mỗi thân tộc Thiêng-Liêng của chúng ta đều hiểu biết cái hạnh-phúc.
Các bạn nên suy nghĩ lại, khi chúng ta lên Cung ấy chúng ta tạm nghỉ nơi Cung ấy; chúng ta nghĩ lại nơi thế-gian nầy, gia-đình dầu đông-đảo, bất quá sống một trăm tuổi mà thôi; dám chắc bao nhiêu năm đi nữa cũng phải về, huống chi là các thân-tộc nơi Cung ấy đang chờ ta, đang trông ngóng buổi qui-hồi của chúng ta; họ muốn chúng ta trở về không uổng kiếp sanh, cái thâm-tình thường lệ là cái chi? Là cái tình của chúng ta yêu ái từ buổi xa nhau, nó khổ não lương-tâm, đau đớn về tinh-thần vô cùng. Cần nhứt chúng ta phải biết chúng ta là một hành-khách đó vậy, nơi đây hay là nơi kia, cả Càn-Khôn Vũ-Trụ của hình-thể biết bao nhiêu địa-giới.

Giờ nầy chúng ta sống nơi quả địa-cầu 68 nầy, là cái nhà trọng-hệ yêu-ái nhứt của chúng ta, tưởng chắc ai cũng sợ chết lắm; sợ chết rồi lìa khỏi quả địa-cầu 68 nầy, bị cái sợ chết mà sa đọa. Nếu họ hiểu biết cái chết của họ, thì họ không có bị cái khổ hải như vậy. Bần-Đạo nói quả quyết rằng: Trong Càn-Khôn Vũ-trụ nầy, cái địa-cầu 68 nầy là hạng chót, hạng khổ não nhứt; kiếp sanh nơi mặt quả địa-cầu 68 nầy, không phải đáng cho chúng ta lưu-luyến; mặt địa-cầu nầy khổ não lắm, khổ não hơn hết!

Chúng ta ngó thấy những cảnh tượng nơi mặt thế nầy, là chúng ta nhìn thấy những kẽ bộ-hành đi xa xứ-sở; thân-tộc họ ra bến tàu đưa đi mà người đi cũng khóc, kẻ ở cũng khóc, khóc mà đi, khóc sao không ở nhà, người nhà khóc sao để cho người ta đi, nếu khóc thì đừng đi.

Bỡi bộ-hành nơi cửa Thiêng-Liêng ............ ...........................-nghiệp của Đức Chí-Tôn,chưa có chơn-linh nào biết cái đại-nghiệp vô biên, đại-nghiệp ấy chưa có ai thấu đáo cho tận cùng .

Các bạn cứ đi theo tôi đặng bước vô cửa Thiêng-Liêng. Có hai điều tối trọng tối yếu của chúng ta là nơi Ngọc-Hư-Cung và Cực-Lạc Thế-Giái, ngày giờ đó Bần-Đạo sẽ dắt các bạn đến Cung Diêu-Trì. Bần-Đạo cũng cần nên chỉ rõ Đức Phật-Mẫu đến tại mặt thế gian nầy đã tượng-trưng bên Ấn-Độ mà Phật-Giáo nơi Ấn-Độ gọi Ngài là Civa Phật, là cái hình ở trên Bát-Quái-Đài chúng ta để trên nóc đó, thấy có " Tinh-Nhũ " nơi ngực của Ngài đó.

Hồi buổi Chí-Tôn phân định, phân tánh của Ngài, lấy Khí tức nhiên là Ngài dùng cái " Linh-Pháp của Ngài biến tướng ra Phật-Mẫu ". Phật-Mẫu thuộc về Âm, Chí-Tôn thuộc về Dương; Âm-Dương hiệp lại mới biến hóa Càn-Khôn Vũ-Trụ, sanh ra vạn-vật. Đức Civa Phật, Ấn-Độ làm một cái hình phân nữa giống đàn bà, còn cái tướng thì đàn ông . Bởi hồi đó con người chưa phân rõ chắc-chắn Nam-Nữ ( Âm-Dương ). Đức Civa Phật trong huyết-khí tức nhiên là huyết, còn chơn-thần đào tạo chơn-thần là Đức Chí-Tôn. Đức Chí-Tôn là Phật, Đức Phật-Mẫu là Pháp; Pháp mới sanh ra vạn-vật Càn-Khôn Vũ-Trụ, vạn vật ấy là do nơi tinh mà ra, tức là Tăng.

Thần tức nhiên là Đức Chí-Tôn, Thần phân định khí, khí mới sanh ra tinh. Phật là Chí Tôn, Pháp là Civa tức Phật-Mẫu, Tăng là vật-loại trên Càn-Khôn Vũ-Trụ nầy.

Ấy vậy, Đạo-Phật thờ Phật-Mẫu chớ không phải không biết, dầu không thờ mà Đức Phật-Mẫu vẫn ngồi từ tạo-thiên lập-địa tới giờ, tức nhiên là Đấng tạo ra Vạn-Linh đó vậy.

Phật-Mẫu là gì mà không biết? Có con mắt mà không biết Phật-Mẫu là gì? Kỳ tới Bần-Đạo sẽ dẫn vô Ngọc-Hư-Cung coi Cung ấy là Cung gì cho biết.

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 12 tháng 01 năm Kỷ-Sửu [ 09-02-1949 ]

Đêm nay chúng ta rủ nhau dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Chúng ta đã làm người, mà hễ làm người thì đồng giong ruổi trên con đường Đạo của Đức Chí-Tôn đã đến truyền-giáo nơi mặt thế-gian nầy, chính ta đem lại điều bí-yếu hơn hết là cái Chơn-Linh cao siêu Đạo-Giáo của Đức Ngài.

Khi trước chúng ta đến quan-sát các cơ-quan chính-trị của Càn-Khôn Vũ-trụ. Nơi Ngọc-Hư-Cung chúng ta cũng nên hiểu mình là gì cái đã, giờ mình đương làm gì, đừng để có cơ-quan bất ngờ như chúng ta đã gặp một trận thiệt-chiến nơi Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa.

Con người, Bần-Đạo đã thuyết-minh cái triết-lý ấy có hai phần đặc-biệt :
1- Chơn-Linh tức nhiên là tinh-thần huyền-bí do Đức Chí-Tôn xuất hiện .
2- Phần về hình, tức nhiên là xác thân do Đức Phật-Mẫu đào tạo; một phần hữu-hình, một phần vô-hình; phần vô-hình ấy chí-linh chí-thiện.

Phần hữu-hình nó vẫn là một cơ-quan riêng, phần chí-linh ấy nó vẫn tăng tiến lên mãi cho tới các Vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Xác thịt của chúng ta từ trước, các Đạo-Giáo đã tỉ con người chẳng khác như một Vị Thiên-Thần cỡi một con vật.

Các nhà Triết-Lý từ thượng-cổ đến giờ họ để ra không biết bao nhiêu thí-dụ về Đạo-Giáo, cơ bí-mật Thiêng-Liêng như Đạo-Giáo bên Pháp: " La Belle et la Peine " là Nàng Tiên và con Thú.

Các Đạo-Giáo nơi nào cũng vậy, đều phân biệt ra hai lý hiển nhiên. Tỷ như bên Á-Đông Phật-Giáo của chúng ta đã ngó thấy Đức Văn-Thù Bồ-Tát cỡi con Bạch-Tượng, Đức Từ-Hàng Bồ-Tát tức là Đức Quan-Âm Bồ-Tát cỡi con Kim- Mao-Hẩu, Đức Địa-Tạng- Vương Bồ-Tát cỡi con Đề-Thính, như Bát-Tiên kỵ thú vân vân. Tỷ dụ về phần hồn, phần xác của loài người đó vậy. Nói rõ hơn nữa chẳng khác nào như cơ-quan Tạo-Đoan nơi mặt thế nầy, chúng ta ngó thấy hiển nhiên là như cơ-quan vợ chồng, chúng ta ngó thấy chẳng hề khi nào một người mà lập đặng hay làm đặng phải đồng-tâm đồng-trí với nhau mới đặng, nhứt là hai cái tâm hồn nó có đặc-biệt với nhau. Tuy vẫn liên-quan mật thiết với nhau mặc dầu, hai tâm hồn chẳng buổi nào đồng thinh đồng âm-chất với nhau cả.

Luật Tạo-Đoạn cốt yếu buộc loài người, phải để ý cho lắm thì mình tự tìm lấy mình, vì Luật Thiêng-Liêng ấy buộc mình phải đi kiếm cái sống; đến tuổi cập-kê rồi mà không định đôi gã lứa, thì dường như thiếu cái sống, con người thiếu cái sống là thiếu vợ chồng đó vậy.

Luật Tạo-Đoan đã buộc mình tự xử với nhau , người Nam với người Nữ tự xử với nhau làm sao cho điều-hòa thân ái, làm sao cho Luật Tạo-Đoan ấy được quân-bình nhau không chênh không lệch, đặng chi? Đặng cho biết trong thân-thể của chúng ta.

Thiên-Thần và Con Vật tức nhiên họ có thể hòa với nhau, họ có phương thế; hai phương thế ấy hiệp với nhau đồng sống với nhau, đồng tăng tiến lên tới đồng phẩm-vị nguyên chất Thiêng-Liêng của họ, tức nhiên Nguyên-Linh của họ vậy.

Cả thảy khuôn luật ấy để cho chúng ta đặt trong tinh-thần một câu hỏi: Con vật với người có đồng-luật với nhau chăng? Không, con vật nó có luật riêng của con vật, con người có luật riêng của con người.

Ấy vậy trong thân-thể của chúng ta, vật hình của chúng ta nó có khuôn-luật của vật hình, còn về phần Thiêng-Liêng nó có Luật Thiêng-Liêng. Hai khuôn-luật ấy nó không có tráo-trộn với nhau đặng; chúng ta ngó thấy hiển nhiên trước mặt, con người của chúng ta không đồng phẩm, không đồng tánh, không đồng chất.

Phương sống con vật không đồng với chúng ta, chúng ta không thể gì đem cơm đưa cho con ngựa mà nó ăn, chúng ta cũng không thể gì ăn cỏ được; chúng ta không thể gì bò xuống bốn cẳng mà chạy cả ngàn dặm đặng.

Còn con ngựa không thể gì ngồi đồng bàn như chúng ta đặng, một triết-lý nào mà thiên hạ đã vấn nạn về tinh-thần thì con vật với con người không thể gì đồng phẩm vậy.

Con vật tức nhiên xác thịt chúng ta đang mang đây, còn Ngươn-Linh tức nhiên là Linh- Hồn, hai cái không thể gì đồng với nhau hiệp với nhau đặng.

Hai mặt luật ấy vẫn đặc-biệt với nhau không thể gì hiệp một. Nhưng điều mà thiên-hạ đã tỷ-thí nói rằng; Ta đoạt Đạo đặng " Bạch Nhựt Chi Thăng " biến hóa vô cùng Mỵ-Thuật và Mỵ-Pháp không có, không có đâu, nếu có thì Đức Tam-Tạng khi đi thỉnh kinh rồi không bỏ xác trôi giữa giòng sông!

Sống hay chăng? Đoạt đặng cả cơ-quan bí-mật Thiêng-Liêng thì chẳng sống, chúng ta không phải xác thịt mà đoạt đặng, nó là con vật; nó phải tùng theo con vật, nó phải tùng theo luật hữu-sanh hữu-loại của nó.

Đoạt chăng nơi cửa Thiêng-Liêng Hằng-Sống tức nhiên là Đệ-Nhị xác thân của chúng ta, lời tục ở ngoài gọi là Vía của chúng ta đó vậy.

Ấy vậy, nơi cửa Ngọc-Hư-Cung là nơi cầm quyền chính-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ thì các phần hồn của mặt luật nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ về phần hồn nó không đồng với mặt luật nơi thế-gian nầy. Hai mặt luật, hai nền chính-trị khác nhau đặc-biệt, chúng ta không thể gì tưởng-tượng hiệp một với cái kia; cho nên có nhiều cơ-quan trị Càn-Khôn Vũ-Trụ khác hẳn với cơ-quan trị nơi thế-gian nầy, dầu rằng nó có tương-liên mật-thiết hai nền chính-trị, mà nó không tương-hiệp cùng nhau đặng. Không có lấy hình-luật trị thế gian nầy đem trị phần hồn được, vì không giống nhau.

Chúng ta phải biết chúng ta đi tìm phần gì đây? Đi tìm cơ-quan nào làm cho chúng ta đoạt đặng ngôi-vị vô-hình kia về phần Ngươn-Linh của chúng ta,đoạt phẩm-vị tối cao tối trọng là Phật-Vị. Chúng ta làm phương thế nào đoạt cho đặng Thánh-Đức của Đức Chí-Tôn là Chúa. Chính Ngài là một Vị Phật, một Vị đã sản xuất ra Càn-Khôn Vũ-Trụ, sản sanh các Vị Phật nơi Càn-Khôn Vũ-Trụ, chúng ta làm phương nào mà chúng ta đoạt-vị đặng cũng như Ngài vậy.

Chẳng khác nào như cơ-quan hữu-hình đứa con bao giờ cũng muốn làm, quyết làm sao cho giống tính chất của Ông Cha; Cha làm được cái gì thì con cũng cố làm cho được cái nấy; tánh đức thiên-nhiên ấy không gì lạ hết. Các Chơn-Linh của loài người bất kỳ một cá nhân nào, Bần-Đạo đã thuyết-minh dầu cho họ phàm bao nhiêu thây kệ, họ chỉ muốn làm Trời thôi; dầu cho họ hèn-hạ ra phàm-tục thế nào, mà nơi miệng họ bao giờ họ cũng muốn làm Trời, vì tinh-thần họ ngưỡng-vọng đoạt phẩm-vị ấy trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, chúng ta thấy dục-thúc thế nào, dục-thúc bỏ con vật đặng tạo ra phẩm-vị Phật.

Bởi triết-lý trước mắt chúng ta không thể gì chối cải được, chúng ta không thể gì lấy hèn-hạ mà sống được; hèn-hạ là con vật, hèn-hạ là con thú, tức nhiên là xác thịt của chúng ta đó vậy. Nó giỏi ở với chúng ta trong thời-gian mạnh-mẽ, rồi tới chừng bạc nhược tiều-tụy chúng ta phải bỏ cho nó chết.

Còn con ngựa chúng ta cỡi nó là trong lúc nó còn tráng kiện, một ngày nào đó nó có thể giong ruổi được Thiên-Lý; tới chừng nó yếu tha già thảy bị hủy bỏ, thì nó phải chết, không lẽ ta coi con vật hơn ta; thì chúng ta không thể coi xác-phàm nầy, con vật nầy hơn Ngươn-Linh ta. Không khi nào chúng ta lại coi con vật. ( Tức là xác thân ta ) hơn Ngươn-Linh của chúng ta đặng.

Vì lẽ ấy mà các nhà trí-thức từ thượng-cổ đến giờ người rất cần-cù tìm-tàng, nạo cả trí óc kiếm nguyên do cái sống của mình, đối với Càn-Khôn Vũ-Trụ coi toàn cả trong ấy có gì trọng-hệ mà phải tìm. Chúng ta ngó thấy tìm-tàng một điều là tại sao? Ngươn-Linh của họ phải ở trong một con vật, về tâm-linh đến tánh-linh họ có đặc-biệt; bằng chẳng vậy thì họ toàn là con vật bạc nhược, không bao giờ họ thắng nổi tức nhiên họ phải tìm nguyên do nào mà sản-xuất.

Vì cớ mà chúng ta thấy chẳng bao giờ loài người dám bỏ Đạo của mình; họ là con vật, nếu họ bỏ Đạo tức nhiên họ là con thú mà thôi, họ không bao giờ dám bỏ cái Đạo của họ. Họ muốn tìm-tàng thế nào, làm phương nào đem tâm-đức của họ lập giá-trị của họ, lập giá-trị cho cái sống của họ.

Ấy vậy kỳ nầy Bần-Đạo đã mở màn bí-mật ra cho chúng ta thấy, coi chúng ta phải làm cái gì?! Rồi kỳ tới Bần-Đạo sẽ dắt cả thảy tới Ngọc-Hư-Cung đặng quan-sát cái chính-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ cho tường-tận.

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 18 tháng 01 năm Kỷ Sửu [ 15-02-1949 ]

Trước khi Bần-Đạo dắt cả thảy con cái Đức Chí-Tôn tấn bước trên con đường Thiêng- Liêng Hằng-Sống, nhứt là vào Cung Ngọc-Hư; có một điều trọng-yếu nếu không thuyết minh ra, trước khi vào nơi ấy chúng ta sẽ có nhiều khuyết-điểm. Toàn-thể con cái của Đức Chí-Tôn không có quyền đoán triết-lý cao siêu trọng-yếu tấn-triển của phần hồn, nhứt là phương-pháp đoạt-vị của mình.

Còn một thuyết trọng-yếu nơi mặt thế nầy làm cho các Đẳng Chơn-Hồn quả kiếp biết bao nhiêu thống khổ, nhứt là dục thúc chiến-đấu tấn triển từ thử đến giờ đã gây biết bao nhiêu tội tình.

Văn-Minh! Hôm nay Bần-Đạo thuyết hai chữ Văn-Minh của thời-đại nầy, Văn-Minh là gì? Lấy theo chơn-tự Việt-Ngữ tức nhiên Nho-Tông của chúng ta:

Văn nghĩa là những lời lẽ, hoặc là văn-hóa hay văn-chương; những lời-lẽ mà chúng ta đã đoạt được của người khác, hay của mình tự đặt ra. Minh nghĩa là minh-bạch rõ-ràng, sáng-suốt; lời lẽ minh-bạch rõ-ràng đã giúp cho chúng ta đoạt đặng những phương-pháp để mà định quyết tương-lai, hay là giữ tồn tại sự tấn triển trong kiếp sống của mình; hoặc là chúng ta dùng phương-pháp về văn tự, để lưu truyền ngôn-ngữ của chúng ta, đặng định một sự tấn triển của phương sống, hay phương-pháp sống của xả-hội. Chúng ta đã định, chúng ta đã đoạt được tức nhiên sự tiến-hóa tồn tại bảo thủ với một phương-pháp văn-chương; đủ lẽ hay là giải-nghĩa bao quát của chữ Văn-Minh là Civilization.

Chúng ta nên hiểu có ba nghĩa Civilization, có thể tưởng rằng:
1- Là tổng-số của sự tiến-triển về tâm-lý tức nhiên về chính-trị, về khuôn khổ,về hình thức của sự sinh-hoạt con người đã đoạt đặng; và lấy trí óc bảo thủ cho nó tấn triển thêm, tấn triển cho mỹ-mãn hơn nữa.
2- Tổng-hợp các sự tấn triển của xã-hội, của một quốc-gia mà họ đạt đặng; họ muốn bảo thủ tồn tại nhưng họ bị tư-tưởng mới mẻ hay là những điều mới mẻ do phương tiện của sự sanh-hoạt mới mẻ sản-xuất giục thúc họ; dường như muốn khám phá những cơ nghiệp của họ, đào tạo về văn-hóa của họ về phương diện hạnh-phúc cho họ. Tư-tưởng mới mẻ ấy có thể bỏ ra, nếu cả đại-nghiệp của họ được họ tìm phương bảo thủ cho còn tồn tại.

3- Phương-pháp của tinh-thần quyết thắng vật-chất, tức nhiên là những phương-pháp mà chúng ta không thể đè nén cả tinh-thần về thể-chất của hình thú ta. Với cái trí óc ta vẫn biết Thiêng-Liêng do Thiên-Tánh, đặng người xứng đáng làm người, không hạ mình xuống tánh chất con thú.

Với ba ý nghĩa ấy, nghĩa lý nào chắc? Nếu nói ba thuyết ấy chắc cả thảy ba, thì chúng ta nên nhìn nhận nghĩa lý sau chót hết là chánh đáng, tại sao? Mà không thể tưởng tượng rằng: Giúp cho loài người đến địa-điểm có thể tưởng là hạnh-phúc được. Con người bây giờ có thể bay giữa không trung như con chim kia là máy bay, có thể lặn xuống biển được là nhờ máy móc, có thể không ở mặt đất mà lại ở trên mây; trên không khí Thiêng- Liêng nó không cần đi mà nó có thể chạy trên mặt đất được, nó không cần bay mà nó có thể ở giữa lưng trời được nhưng chưa phải đó là hạnh-phúc; đó chỉ là theo cái văn-minh mà thiên hạ tưởng-tượng, có thể đào tạo hạnh-phúc cho nhơn-loại đặng, không phải theo o bế hay an ủi hoặc bợ đỡ đặng mảnh thi hài đầy-đủ sung-sướng hạnh-phúc; hay nó giúp cho mảnh thi hài nầy tưởng-tượng mình không còn một lực-lượng nào đối phó với mình, tưởng hạnh-phúc thật sự. Nhưng chưa phải là thật hạnh-phúc của họ vậy, hạnh-phúc thiệt không phải là phần xác, hạnh-phúc thiệt của con người là ở nơi phần hồn.

Chúng ta đã ngó thấy biết bao nhiêu vị Vương-Đế đã tạo giang-san sự nghiệp, từ thượng-cổ đến giờ ai không tưởng đến: " Tứ Hải Vi Thiên Hạ Chi Giao ", lấy hạnh-phúc của một Đấng làm Chúa cả các dân-tộc khác mà so sánh dám chắc nếu chúng ta dở lịch- sử ra coi thì chúng ta để dấu hỏi mơ-hồ họ chưa có thể chắc hạnh-phúc được.

Trái lại chúng ta thấy một tấn tuồng : " Hễ càng cao danh-vọng lại càng dày gian-nan " Nếu họ không thỏa-mãn về tâm hồn thì đó không phải là hạnh-phúc. Dầu sang trọng sung sướng cách nào cũng chưa gọi là hạnh-phúc được, không phải tâm hồn thỏa-mãn thì không phải là hạnh-phúc thật. Con người bao giờ cũng vậy, đi tìm hạnh-phúc chứ không phải đi tìm ăn, tìm sống. Nhờ sống cho họ sang cả vinh-hiển phủ-phê thỏa-mãn; ấy là về phần xác của họ mà thôi. Dám chắc chúng ta đoạt được dầu hạnh-phúc ấy hiện hữu chúng ta thấy một vật vi hậu. Con người bao giờ cũng vậy, thân-thể của họ sung sướng bao nhiêu đi nữa chỉ hai ba ngày đầu thôi; còn thú-vị đến năm ba ngày sau họ nhảm-nhí. Hễ họ đoạt được hạnh-phúc về phần xác, dầu cho họ đoạt được đến địa-vị bực nào đi nữa cũng không thỏa-mãn; cái hạnh-phúc không phải do nơi xác thịt nầy mà sung sướng hay vinh-hiển.

Ấy vậy văn-minh tạo hạnh-phúc cho loài người về phần xác thân là đời, chẳng khác nào như ngọn cỏ đầu sương, bất quá là lòe con mắt thiên-hạ mà thôi, chớ chưa thỏa-mãn. Họ tạo dựng không phải tồn-tại, không phải vinh-hiển.

Cái thuyết của văn-minh là cái phương-pháp giúp cho con người biết duy-chủ con vật của mình, mà điều-độ sự sống còn tồn-tại nơi mặt thế nầy. Sống tạm tại mặt thế nầy làm cho họ thỏa-mãn đặng điều-độ mảnh thi-hài hay thể-chất nầy thôi, duy có tinh-thần đạo đức mới đặng.

Một lần nữa, giải thật nghĩa hai chữ Văn-Minh : Văn là quyền hạn, Minh là sáng-sủa đạo-đức; nếu Văn-Minh mà thiệt-tướng được là thực-hiện một nền Tôn-Giáo cao siêu tại mặt thế-gian nầy mới thiệt hạnh-phúc. Về phương-pháp Đạo-Đức mới thiệt hạnh-phúc.

 

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 26 tháng 01 năm Kỷ-Sửu [ 23-02-1949 ]

] Đêm nay Bần-Đạo giảng tiếp dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống. Từ hôm nào tới nay đình-đãi đã lâu có nhiều điều thúc-dục Bần-Đạo phải thuyết, thuyết cho gấp, thuyết đặng cho biết; bỡi gì thấy họ cuốn gói trở về nhiều lắm, Nam-Nữ cũng vậy, cần đi cho hiểu cho quen đường về của họ.

Chúng ta dục-tấn từ Diêu-Trì-Cung đến Ngọc-Hư-Cung, tức nhiên là Cung trị Càn-Khôn Vũ-Trụ đó vậy. Cung trị thế không cần nói, chúng ta cũng choán biết rằng: Chúng ta đến một Cung rất trọng yếu, chính nơi ấy là nơi cầm quyền điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ.

Chắc mỗi người đều tưởng-tượng, nếu cầm quyền điều khiển Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải là một trường Quan-Lại náo nhiệt lắm, vậy chắc ai nấy điều tưởng-tượng phải có một trường Quan-Lại như tại mặt thế nầy.

Chúng ta tỷ-thí một chánh-phủ, mà nơi nào đã lấy làm Kinh-Đô để cầm quyền trị một quốc-gia, thì Kinh-Đô ấy bao giờ cũng náo nhiệt, Bần-Đạo xin nói hẳn rằng: không có, không phải như sự tưởng-tượng của chúng ta vậy đâu.

Bần-Đạo xin nhắc và giảng từ bước, đặng cho con cái của Đức Chí-Tôn dể hiểu. Bần-Đạo ngó thấy chỉ thuật lại xin cả thảy Nam-Nữ nhứt là mấy vị cao niên, kỷ trưởng, mấy vị Chức-Sắc Thiên-Phong phải để ý lắm mà chớ.

Bần-Đạo sẽ thuyết cảnh tượng ấy, cả thảy đều thấy hiện-tượng trước mặt.

Có một điều là từ giã Cung Diêu-Trì dục-tấn tới nữa Bần-Đạo thú thật khó dụ họ đi lắm, phần nhiều về nơi cảnh ấy họ hưởng được một hạnh-phúc vô đối, nhứt là các đẳng Chơn-Hồn đã chịu thảm khổ một kiếp sanh, về cảnh ấy hưởng được hạnh-phúc vô biên vô đối. Gần Bà Mẹ yêu ái vô-lượng vô biên biểu họ từ giả Bà Mẹ ấy mà đi thì không phải dễ; nhưng có một điều trọng-yếu hơn hết, lời tục-ngữ người ta thường có nói: " Đi cho biết đó biết đây, ở nhà với Mẹ biết ngày nào khôn". Phải dục-tấn tới, thấy chán chường trước mắt mình, con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, đi mãi không ngừng; chúng ta đi, đi miết tới nữa để học hỏi thêm nữa.

Ngày giờ nào, thời buổi nào, chúng ta có thể cầm nơi tay một quyền-năng vô tận như Đức Chí-Tôn, đặng tạo ra một Càn-Khôn Vũ-Trụ khác làm đại-nghiệp cho mình . Vì vậy nên con đường dục-tấn không có ngừng, không có giới hạn, vô lượng vô biên vô cùng tận; cũng như Càn-Khôn Vũ-Trụ chúng ta thấy trước mặt chúng ta đó vậy.

Nếu chúng ta ngó thấy Cây Phướng Diêu-Trì-Cung trước mặt chúng ta, chúng ta muốn tìm Cung Ngọc-Hư thì chúng ta xây qua bên mặt; chúng ta ngó ngay Ngọc-Hư-Cung, bên trái là Diêu-Trì-Cung đó vậy.

Chúng ta đi hoài chẳng phải chúng ta dục-tấn như buổi trước, bởi cảnh giới khác thường huyền-bí lạ lùng; chúng ta thấy muôn điều trước mặt chúng ta điều do Chơn-Thần xuất hiện, Vạn-pháp thành hình không có điều gì chúng ta tưởng đến mà không có trước mặt. Cảnh tượng ấy nên hình nên tướng với một cách huyền-bí vô biên vô tận, chúng ta không thể gì tưởng được.

Tỷ như con đường dục-tấn ấy chúng ta muốn có một việc lạ lùng là nếu chúng ta muốn đi đến cho mau thì chúng ta đi như chớp nhoáng, muốn gì đặng nấy; tưởng thì nó hiện hình liền. Ấy là một địa-giới vô tận vô biên không khi nào lấy trí khôn con người mà tưởng-tượng được. Ôi còn khi bước theo con đường dục-tấn thì chúng ta không thể tả bằng ngòi viết đặng, bởi cảnh trí khoái-lạc vô biên.

Chúng ta hưởng hạnh-phúc nơi Cung Diêu-Trì một cách khoái lạc; hạnh-phúc mà chúng ta hưởng được tưởng là hết rồi, nhưng chúng ta dục-tấn tới chừng nào độ khoái-lạc ấy cứ đến với chúng ta mãi-mãi. Đi tới nữa, đi tới mãi; đi tới một mức khoái lạc hạnh-phúc về tinh-thần, vô tận vô biên, hưởng hoài không khi nào hết.

Khoảng đường mà chúng ta đi không có côi cúc, đi theo đường chúng ta gặp biết bao nhiêu người thân ái, bạn tác mừng rỡ không biết bao nhiêu.

Nếu chúng ta thấy cảnh tượng của người nào lìa quê hương đi xa xứ, khi về gặp người chí chân của mình thì sự mừng rỡ của họ thế nào, chẳng cần tả ra cả thảy đều biết. Tưởng-tượng coi chúng ta gặp những người trên con đường dục-tấn toàn là những người bạn thân yêu, tình nồng-nàn ấy không biết bao nhiêu. Muôn kiếp mới tại được khối tình ái ấy, mỗi người chúng ta đều thấy trong thân-tộc của chúng ta, họ hiện-tượng không biết mấy muôn mấy ngàn kiếp; chung chịu, chung đứng, chung đi với nhau trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống ; hạnh-phúc vô cùng, không thể gì tả ra bằng ngôn-ngữ đặng.

Bần-Đạo dám bảo-kê rằng: " Nơi cảnh ấy chưa có buổi nào huyên náo hay có tiếng nào buồn ". Không có buồn, không có biết đau thảm; chúng ta đi miết tới, vui mà đi; đến trước mặt chúng ta thoạt nhiên có một thế-giái vô cùng tận, đẹp-đẽ lầu đài nguy-nga chớn chở; chúng ta tưởng-tượng rất huyền-diệu. Lầu đài ấy chúng ta ngó thấy một màu với nhau vì chỉ có một vật tạo thành mà thôi, vật đó dường như pha lê vậy; như kiếng, ngà ngà đục đục, màu thì trong, hào-quang chiếu diệu; một cảnh Trời hào-quang chiếu diệu ra muôn đạo, vì tướng của nó tạo thành hình của nó.

Vì vậy mà các Trang đoạt Đạo khi xưa đi về tới cảnh đó là nơi Ngọc-Hư-Cung, một địa giới huyền-bí làm sao! Không thể gì minh-tả ra đặng, huyền-bí về tinh-thần của chúng ta, vì nó do tinh-thần của chúng ta biến tượng, ta thấy hình-trạng nó vuông vức, chúng ta tưởng-tượng mà ra đó vậy. Chúng ta tưởng-tượng hình-trạng thế nào thì nó ra thế ấy. Nếu vị kiến-trúc-sư nào hay vị kỹ-sư nào ngó thấy nó, đều muốn bỏ nghề hết, bởi không thể gì làm được. Tôi sợ e cho họ ngó rồi chẳng phải bỏ nghề mà thôi, họ còn ngơ-ngơ, ngẩn ngẩn như điên mà chớ, bởi đã hao tâm mà làm không đặng.

Chúng ta đến nơi ấy chúng ta thấy thi-hài của mình biến-tướng y như hình-ảnh của khuôn-khổ trong địa-giới, hình chúng ta biến một màu một sắc, hễ nó biến theo được mới nhập cảnh ấy được, nếu biến theo không được, thì chúng ta bị đuổi ra, ấy là Pháp-Thân của chúng ta nó phải nhập cảnh giới ấy, nên câu kinh: " Rấp nhập cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống là vậy đó ". Khi vô đặng rồi tưởng đâu thiên-hạ náo nhiệt trùng-trùng điệp điệp; lạ thường lắm, không có đâu. Chúng ta chỉ thấy Tông-Đường Thiêng-Liêng của chúng ta đang tiếp đón mứng rỡ. Ô! Nơi hội-hiệp các người thân-nhân của chúng ta, từ buổi chúng ta đoạt đặng địa-vị Tiểu-Hồi, lên tới phẩm Đại-Hồi. Từ trong địa-vị Đại-Hồi ấy, mà chuyển-kiếp đoạt đến địa-vị Thần,Thánh,Tiên, Phật cả ngàn muôn triệu kiếp sanh.

Các bạn, các Tông-Đường, các Gia-Tộc chúng ta, chúng ta thấy muôn-muôn trùng-trùng điệp-điệp không có định số được. Khi họ đến mừng, họ dẫn chúng ta đến một Cung họ dặn rằng: Nơi đây không được nói tiếng, chỉ tưởng mà thôi, hễ tưởng là như nói vậy. Tỷ dụ như: tôi tưởng tôi muốn gặp anh tôi, thì tức nhiên cái tưởng ấy thành tiếng nói, mà lại có người anh đứng trước mặt liền; Cung ấy không có dùng lời nói, duy có tưởng mà thế cho ngôn-ngữ. Người ta dặn đừng tưởng Thần, Thánh, Tiên, Phật; Bởi các Đấng ấy ở cảnh đó không có. Sở dĩ mà có là tại mặt địa-cầu 68 nầy đặt ra, chớ nơi Ngọc-Hư-Cung không có; những danh-từ Thần, Thánh, Tiên, Phật chỉ dùng nơi trái địa-cầu 68 nầy mà thôi.

Chúng ta biết rằng: Đẳng-vị Thiêng-Liêng của các Chơn-Hồn không có phẩm-trật, chúng ta thiết tưởng nên có ngôi-vị nhưng lại không , chỉ có địa-vị tại mặt địa-cầu 68 nầy mà thôi. Chúng ta thấy nhơn-loại nơi mặt địa-cầu nầy, tinh-thần mỗi cá-nhân đều khác, hai ngàn bảy trăm triệu (2700 triệu) chơn-linh nơi mặt quả địa-cầu nầy, thì hai ngàn bảy trăm triệu người không đồng tánh chất, không đồng chơn-thần với nhau; cho nên không khi nào có hai người giống nhau, chưa có một chơn-thần nào giống nhau, thì cái thiên-vị kia nó không định giá được. Mỗi người đều có một phẩm-vị đặc-biệt của mình, mỗi kiếp sanh đều tấn, khi tấn tới có một sở định địa-vị của mình; mỗi một bước là một đẳng-cấp, đẳng-cấp định giai-cấp của mình, giai-cấp không phải giống như nhau như ở thế-gian nầy. Bởi địa-vị không giống nhau, phẩm-vị chỗ nào thì đứng chỗ nấy, không ai xô đuổi không ai giành-giựt được; từ chối gì cũng không được, bởi không có danh-từ, mà danh-từ dường như đã để sẵn bởi có địa-vị sẵn, nên Đức Chí-Tôn mới nói: " Đại-nghiệp của mỗi đứa Thầy có sắm sẵn cho đó ".

Bây giờ nói về tánh-chất tôn-ti của mình, hằng-phẩm của mình đã không có, biết lấy chi mà định lấy nó, lấy gia-tộc của mình?

Bần-Đạo ngó thấy gia-tộc của các Đấng có mặt tại thế-gian nầy, thế-giới nghiệt oan của chúng ta, tức nhiên có năm quả địa-cầu có nhơn-loại ở, tức nhiên có tên của kẻ đoạt Đạo là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Ngoài ra nữa chúng ta ngó thấy đại gia-đình của Đức Phật Thích-Ca, đại gia-đình của Đức Lão-Tử, đại gia-đình của Đức Khổng-Phu-Tử, đại gia đình của Mahomet, đại gia-đình của Jésus-christ; đại gia-đình vinh-hiển hơn hết là đại gia-đình của Quan-Âm-Bồ-Tát, tức nhiên là Từ-Hàng-Bồ-Tát vinh-hiển hơn hết là gia-đình ấy.

Ấy vậy gia-đình nào thì có phần trong gia-đình ấy, xây chuyển họ có tương-thân tương ái với nhau một cách mật-thiết như một chơn-linh Kim-Thanh-Quan xuống thế nầy có lẽ đầu-kiếp trong gia-đình của Từ-Hàng-Bồ-Tát, hay là của Khổng-Phu-Tử, hay là của Mahomet, hay là của Phật Thích-Ca cho nên các chơn-linh ấy họ đã liên-hệ mật thiết; vì lẽ ấy cho nên Càn-Khôn Vũ-Trụ có tên mình, dầu mà chúng ta muốn biết số quả địa-cầu thì chúng ta không thể gì biết được, chỉ có năm trái địa-cầu của chúng ta ở thì chúng ta biết mà thôi; chúng ta không biết cho hết. Còn ba ngàn (3000) thế-giái kia với mười một (11) thế giái ở sau, giữa mấy quả địa-cầu kia chúng ta không thể gì đoán được. Có nhiều khi thấy các Đấng lâm-phàm hỏi ra dường như tinh-thần của chúng ta họ biết hết; cũng như có nhiều người bên Tây, bên Pháp mà họ biết nơi xứ Việt-Nam vậy. Nói dường như họ nói trên cung trăng, nhưng thật ra họ thấu-đáo cả chơn-tướng nơi mặt địa-cầu nầy; họ biết huyền-linh của họ, họ biết tài phép vô-biên của họ. Nói về kiếp-sống của chúng ta không phải hành-hạ nó, nhưng phải tập nó hành nó. Nếu khi về được rồi thân-nhân của chúng ta dắt chúng ta đến một Cung có một quyển sách Thiên-Thơ để trước mặt ta, dỡ ra xem thấy tên mình và kiếp sanh của mình đã làm gì thì trong quyển Thiên-Thơ ấy nó hiện-tượng ra hết; chúng ta tự xử chúng ta, mình làm tòa để xử mình, hoặc mình phải đầu kiếp hay là đoạt đến địa-vị nào, mình đứng đến mức nào, thì cũng do mình định-đoạt lấy.

Vị Chưởng-Quản nơi Cung ấy theo tiếng phàm của chúng ta đặt tên là Nam-Tào Bắc-Đẩu. Nơi Nam-Tào Bắc-Đẩu không có ai trị hết, chính ta trị ta; không có ai định kiếp cho ta; chính ta định kiếp cho ta; chưa có ai phân tội phước cho ta, chính ta định tội phước cho ta. Mạng căn kiếp số ta ta định, không có một hình-luật nào buộc được chúng ta, chúng ta có quyền tự-do, quyền sở-hữu định mạng căn cho ta vậy.
 

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 30 tháng 01 năm Kỷ Sửu [ 27-02-1949 ]

Bần-Đạo hôm nay giảng tiếp dục-tấn của chúng ta trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Khi trước Bần-Đạo đã dắt cả toàn-thể con cái của Đức Chí-Tôn vào Ngọc-Hư-Cung, Bần-Đạo đã cho họ ngó thấy trong Cung ấy để ghi chép cả quả kiếp của loài người.

Bần-Đạo hôm nay giảng thêm cho rành bởi gì cả cơ-quan chính-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ là vĩ-đại lắm.

Chúng ta tưởng-tượng lại coi Ba Ngàn Thế-Giới, Tứ-Đại Bộ-Châu, Thất-Thập Nhị-Địa; tưởng-tượng lụn lại coi, bảy mươi hai quả địa-cầu ở trước hơn hết, cảnh đọa Ngươn-Linh của chúng ta; mười hai thế-giới, trong 12 thế-giới của bảy mươi hai quả địa-cầu; quả địa cầu nhỏ chót hơn hết của thế-giới đương nhiên chúng ta xuống đấy là thế-giới nghiệt oan, có 5 quả địa-cầu có nhơn-loại ở.

Chúng ta đây thuộc về quả địa-cầu 68, chúng ta thử nghĩ nhơn-loại nơi mặt địa-cầu nầy, hơn hai ngàn bảy trăm triệu nhơn-sanh; chúng ta thử nghĩ quả địa-cầu nầy, có gần một trăm mấy chục lần lớn hơn quả địa-cầu 69, như vậy chúng ta tưởng-tượng xem có bao nhiêu nhơn-loại ở trên mặt Càn-Khôn Vũ-Trụ vĩ-đại nầy? Nếu chúng ta tưởng-tượng nền chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, kể sanh mạng mỗi người không sót, chẳng phải dễ. Chúng ta nghĩ lại coi, họ lấy quyền-năng nào mà cầm quyền chính-trị vĩ-đại ấy đặng? Chúng ta nên tìm hiểu với huyền-vi bí-mật ấy ở đâu? Chúng ta nên kiếm coi ở chổ nào? Cơ-quan trị thế phải thế nào? Sửa chữa nó lại cho nó phù hợp với cơ-quan chính-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, chừng ấy thiên-hạ mới được thái-bình; tinh-thần thế nào, hình-thể cũng vậy không chi lạ. Cả nhơn-loại chưa đoạt-pháp, chưa cầm được huyền-vi bí-mật, cho nên nhơn-loại còn loạn-lạc, có lẽ vì cớ ấy! Chúng ta đã ngó thấy cái án kia chúng ta không thể chối; cái hình-phạt dành cho chúng ta, chúng ta không thể tránh đặng.

Cầm quyền rồi thì không có cái vì quá đáng, bởi tại làm sao? Tại cơ-quan của người ta nắm Bí-Pháp của người ta; quyền-năng vô-lượng vô-biên, nắm giữ cả Càn-Khôn Vũ-Trụ, cái án, cái tội vô hình chính nó đã có nơi pháp-thân của loài người, tức nhiên nó ở trong tay của Chơn-Thần của chúng ta ghi chép. Nếu chúng ta muốn chối tội thì chối sao đặng, chính Chơn-Thần ta định cho ta. Các tội-tình đều đưa ra trước mặt, từ Tiểu-Hồi tức nhiên là giác-hồn, sanh tử biết bao nhiêu kiếp sanh mới đoạt đến Đại-Hồi. Cả cái sinh-hoạt, cả cái liên quan, cả cái căn bản, cả cái quả kiếp bất kỳ cái gì thì trong quyển Vô-Tự-Kinh đều có ghi ghép. Chính ta định cho ta mà chối sao được, dầu muốn chối cũng không chối đặng; chính Chơn-Thần ta định-án cho ta chớ không phải ai định-án cho ta, sợ hay chăng là điều đó vậy!

Ông tòa ở thế-gian nầy khi định-án còn có Trạng-Sư để bào chữa, còn nơi đó không có Trạng-Sư để bào chữa cho ta; chính ta định-án cho ta, cái bí-mật vô-đối cầm quyền cả Càn-Khôn Vũ-Trụ là như vậy. Người ta để cho mình làm tòa xử lấy mình thì còn ai binh cho mình nữa. Không thế gì chối cãi tội, cãi án của mình đặng, vì chính mình định cho mình, nếu cãi đặng là qua Chơn-Thần sao?! Không chối cãi gì được hết cả!

Ấy vậy trong các chơn-hồn có chia ra hai phần, hai hạng:
1- Hạng vì quả kiếp, đến trả tội cho mình; chúng ta nên đặt tên cho các đẳng Linh-Hồn ấy là: kẻ tội nhơn đến để trả tội.
2- Hạng nữa là hạng du-học, đến để lập-vị cho mình.

Chúng ta ngó thấy một tấn tuồng quan lại, chúng ta nghĩ lấy làm ngộ-nghĩnh, nếu chúng ta chịu tội tình một mình ta, thì không lấy làm đau-đớn gì mấy. Ngặt một nỗi, phép huyền-vi vô-đối của Càn-Khôn Vũ-Trụ, buộc cả Tông-Đường, Tổ-Tông từ trước phải chịu cho ta, làm chứng cho ta, có đau-đớn chăng là vậy đó.

Một linh-hồn chịu quả kiếp nơi cảnh trần lúc trở về Ngọc-Hư-Cung, thì cả thảy Tông- Đường họ đều có mặt tại Ngọc-Hư-Cung để đón tiếp, quan-sát coi con đường mình đã đi qua, quả kiếp đã đi qua, quả kiếp có điều chi sửa đổi hay chăng? Có làm chi tội tình nữa hay chăng? Thay vì quả kiếp mình đi trong con đường Chí-Thiện, đoạt được Bí-Pháp Chí- Linh. Còn một vài chơn-linh đi ngược lụn lại thú hình gây thêm tội ác, mình thấy vì mình mà cả Tông-Đường đều chịu tội nên đau-đớn vô cùng.

Chúng ta phải biết các Đấng nhập vào Ngọc-Hư-Cung, tức nhiên các Đẳng Linh-Hồn ấy đã đoạt kiếp được; có những kẽ đến thế nhập vào pháp-thân mà họ đã tạo căn quả, thì cả Tông-Đường họ khổ não lắm.

Bần-Đạo nói Tông-Đường Thiêng-Liêng thường ở tại Ngọc-Hư-Cung, cao trọng hơn hết là Tông-Đường của Quan-Âm Bồ-Tát tức nhiên Từ-Hàng Bồ-Tát, Tông-Đường cao trọng thứ hai là Tông-Đường của Địa-Tạng-Vương-Bồ-Tát, Tông-Đường thứ ba là Đức Di-Lạc, ba Tông-Đường cao trọng hơn hết; còn nhiều Tông-Đường khác nữa. Mỗi người đều có Tông-Đường đặng ngồi ở đây là chờ ta.

Cả thảy đều do nơi quả kiếp mà đài xuống thế-gian để trả quả kiếp, trả hình-phạt; một trường thảm não nếu chúng ta gây thêm tội ác, thay vì đi trong con đường chí-thiện đặng lập thiên-vị cho mình.

Còn một hạng gọi là hạng du-học, đến để lập-vị mình; hạng nầy không sao hết, bỡi Tông-Đường họ nhứt định cho họ đi học.

Chúng ta ngó thấy con của một người thượng-lưu kia cho con đi học; học để khôn, học cho hay, học cho giỏi; nếu thi được giỏi thì mừng lắm, nếu học dỡ thì cũng vậy. Chúng ta thấy đứa con đi học bên Pháp, không có học, đến cuối tháng bên Pháp gởi Total de note về thấy điểm sức học của con dỡ, nó dỡ về Moral, về Géographie, về Lecon de chose thì cười, bất quá nói thằng biếng học vậy thôi. Viết thơ biểu nó ráng học thêm mấy Matière đó nữa, chưa khá mấy, chỉ hạng bình thường. Các bạn ấy họ đến giữ Đạo của họ lắm, mật thiết không có đê hèn; họ không muốn đến, mà nếu họ đến thì cao sang lắm, chẳng hề khi nào họ hạ mình xuống làm điều nhơ-nhớp.

Chúng ta ngó thấy Càn-Khôn Vũ-Trụ, nắm quyền-lực làm cho chúng ta sợ hơn hết là làm cho Tông-Đường ta phải chịu khổ, trước cái thương của Tông-Đường ta, ấy là cái hình phạt vĩ đại ở cảnh Thiêng-Liêng; đến khi mãn kiếp trở về đoạt được cái thương hay là cái khổ của Tông-Đường thì mình đau khổ vô cùng. Hình phạt ấy vĩ-đại lắm nên các Chơn- Hồn đều sợ-sệt hơn hết.

Tại sao Đức Chí-Tôn đến, Ngài trụ cả con cái của Đức Ngài đặng lập Thánh-Thể hữu hình nầy, tại sao vậy? Bỡi vì hễ tạo được mặt luật hữu-vi nầy thì cả thảy con cái của Đức Chí-Tôn đoạt-pháp đặng. Một ngày kia đoạt-vị trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống đặng, chưa có hạnh-phúc nào dưới thế-gian nầy bằng hạnh-phúc trên cảnh Thiêng-Liêng. Chúng ta hưởng được hạnh-phúc thiệt hay chăng là do nơi đó.

Thánh-Thể Đức Chí-Tôn là gì? Là một quyền quản-trị cả luật yêu-ái của Đức Chí-Tôn làm một khối, khối ấy dành để trong tâm não của Ngài. Mỗi phần-tử luân-hồi là mỗi phần tử của Đức Chí-Tôn gieo trong cả hình-luật thương yêu ấy trong tâm não tinh-thần của mỗi người.

Chúng ta thấy Đức Chí-Tôn đã tạo Thánh-Thể của Ngài với một cái tình yêu ái, Ngài nói: " Các con đã hưởng được cái quyền yêu ái vô tận, các con nên lấy tình yêu ái truyền cho các em con từ thế-kỷ nầy qua thế-kỷ khác ".

Một hình-phạt đương nhiên nơi cửa đọa nầy chúng ta sợ hơn hết là hình-phạt trục-xuất. Trục-xuất là gì? Là đuổi ra khỏi cái đại gia-đình, Đại Tông-Đường của Đức Chí-Tôn đến đào tạo cho chúng ta. Một hình-luật tại mặt thế nầy đặng cho chúng ta không ra khỏi các Tông-Đường ấy cốt yếu là vậy; sợ hay chăng là cái đó, án trục-xuất là vậy đó.

Người nào bị trục-xuất là bị đại gia-đình mình trừ bỏ, mà từ bỏ rồi thì thân mình là con vật không phải tìm hạnh-phúc riêng một mình được, vì hình-luật nó biểu nó, phải già rồi nó phải chết, nó không còn sống.

Cái quyền của Hội-Thánh trục-xuất chẳng khác nào bị đuổi ra khỏi Đại Tông-Đường của Đức Chí-Tôn đến tạo dựng bị đuổi ở dưới nầy ở trên kia cũng vậy, đuổi phần xác thì phần hồn cũng bị đuổi vậy.

Ngày mình không còn ở trong Đại Tông-Đường của Đức Chí-Tôn là ngày mình bị nhục, tưởng sống mà thân mình trả đặng nợ hay chưa cũng không đáng sợ, trong Tông-Đường của mình bị nhục mới đáng sợ.

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 4 tháng 2 năm Kỷ-Sữu ( 03-03-1949 )

Trước khi giảng tiếp dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống, Bần-Đạo có nhiều điều khuyên nhủ về phương-pháp thuyết-pháp, thuyết-pháp tức nhiên là thuyết Đạo.

Trót gần hai năm trường, cũng gần 2 năm Bần-Đạo đã tìm phương-kế cho toàn cả Thánh-Thể của Đức Chí-Tôn thuyết-giáo, có điều trọng-yếu về phổ-tế nhơn-sanh cả thảy điều biết; nhờ cái thuyết-pháp mà chơn-truyền nó hiện-tượng, trọng-yếu của chơn-truyền của Đức Chí-Tôn là vậy.

Một điều mình đã để tâm về thuyết-pháp, tức nhiên mình cần có mục-phiêu để cho tinh thần cả toàn thính-giả chú ý vào đấy; tức nhiên cầm cây phướn Thần cho chúng ta trụ lụn lại triết-lý thuyết-pháp của mình.

Bần-Đạo thấy có một điều nên sửa chữa, có người lên nói một Đề Nam, tới chừng thuyết đi qua Đề Bắc không nhằm đề gì hết, chẳng khác nào Bần-Đạo nói tôi tính đi Sài-Gòn thì thiên-hạ đều ngó về hướng Sài-Gòn, tới chừng đi thì đi lên mé Nam-Vang thành ra không ai hiểu gì hết. Nên khi thuyết-pháp trọn bài nghe mà không biết gì hết. Thuyết-pháp tức nhiên có niêm-luật của phương thuyết-pháp, phải có niêm-luật chớ không phải muốn nói gì thì nói. Bài thuyết-pháp nó giống như bài thi vậy, nó phải có đề tài; có niêm-luật, có bình trắc, có thừa khóa, có trạng luận, thúc kết; phải giữ cho ăn với cái niêm-luật của thuyết-pháp mới đặng.

Đức Chí-Tôn dạy niêm-luật thuyết-pháp một cách kỹ-lưỡng, Cao-Thượng-Phẩm và Bần-Đạo có tập hai ba tháng vậy; hễ Cao-Thượng-Phẩm lên đài thuyết thì Bần-Đạo làm thính-giả ngồi nghe; cần phải tập, không tập không thể gì làm được, không thể gì không tùng theo niêm-luật của Đường-Thi vậy, không thể gì nói càn đặng. Ngoài ra niêm-luật ấy nó còn Phú, Tỷ, Hứng, Thú nữa; phải học cho thuộc lòng. Bài văn hay ho là do mình thuyết có mực thước, có phù ba, có văn chương, có tài khẩu-thuyết mới được; không có khuẩn bức túng thiếu trong lời nói ngôn-ngữ của mình. Tỷ là lên đó mình phải " Quan tiền vũ hậu " lấy kim suy cổ, suy tầm những lý lẽ cho cao sâu. Hứng là mình lên đứng nhập vào cảnh tượng nào, thấy hiện-tượng ở thế-gian phải cho ăn nhập vào cảnh tượng đó; trong khuôn khổ đương nhiên cả toàn hình-thể hiện tại Đạo với Đời có liên-quan trọng-hệ mật thiết. Bài thuyết Đạo của mình hay ho có lẽ hứng lấy tinh-thần đương nhiên, đem ra tùy theo mình thuyết-pháp, mình phải giải-thích cho thính-giả thấu đáo.

Bây giờ cả Tông-Đường của chúng ta ( Bần-Đạo nói đây là Tông-Đường Thiêng-Liêng đa ), anh em chúng ta dắt chúng ta qua Cung gọi là Cung Phục-Linh. Các bạn phải biết muôn trùng thiên-hạ vạn điệp chơn-linh, nếu như ở thế-gian nầy dùng ngôn-ngữ mà thông công cùng nhau tưởng sẽ là một sự náo nhiệt dữ tợn lắm, nhưng không cần. Nền chính-trị phi thường Bần-Đạo sẽ tiếp giảng tới cả thảy sẽ thấy một nền chính-trị lạ lùng không thể gì tưởng-tượng được.

Ngôn-ngữ nơi cảnh ấy duy có tưởng mà đặng thông-công cùng nhau mà thôi, tưởng cái gì có cái nấy; giả tỷ như Bần-Đạo muốn đi đến chỗ đó, người ta cũng đều hiểu rằng Bần-Đạo muốn đi đến chỗ đó. Các chơn-linh khác cũng tưởng mà nói chuyện với nhau, duy có cái tư-tưởng mà thôi chớ không có ngôn-ngữ. Chúng ta gặp biết bao nhiêu chơn linh quen thuộc thân mến yêu ái với chúng ta; cửa ấy chẳng buổi nào gặp một kẻ ghét hay kẻ nào không có thâm tình với chúng ta; có một điều các anh các chị nhớ nghe, nhớ cho lung.

Bấn-Đạo sẽ giảng có ảnh-hưởng với kiếp sanh khi chúng ta chưa vô cửa, thì những anh em trong Tông-Đường ta có dặn trước khi vô cửa đừng có sợ-sệt gì hết, phải bình-tĩnh có điều chi thay đổi đừng sợ-sệt nao núng; có dặn trước mà khi vô dường như mất thần, mất trí, hết thảy mê-muội. Tưởng như không có ở trong cảnh ấy làm như thể chúng ta ám muội không biết đó là gì?! Không biết đó là ở đâu? Không biết gì hết. Tới chừng tỉnh dậy thấy một vị Phật Cầm cây Kiêm-Câu đứng trước mặt chúng ta và thấy Hộ-Pháp đang đứng bắt ấn giữ linh-hồn chúng ta lại. Vị Phật ấy không ai xa lạ chính là Phục-Linh Tánh-Phật đó vậy, cầm cây Kiêm-Câu quơ một cái thì chúng ta tỉnh lại một kiếp sanh, tới chừng sống lụn lại thấy trong kiếp sống trước nữa; hễ mỗi lần quơ là chúng ta thấy mỗi kiếp sanh, chúng ta sống lụn lại trong cả kiếp sống của chúng ta, chúng ta đi thối lại từ mức Đại-Hồi cho tới Tiểu-Hồi, qua cho tới vật-loại; bởi chúng ta cả thảy đều là hóa-nhân, không ai ở mặt địa-cầu nầy mà là nguyên-nhân cả. Nguyên-nhân chúng ta đã đoạt được trong lần thứ ba là Đệ-Tam chuyển, còn bao nhiêu đều là hóa-nhân, cả thảy đều ở trong vật-loại mà đoạt-kiếp cả.

Bần-Đạo chỉ một điều là Đức Di-Lạc Vương-Phật đương cầm quyền Càn-Khôn Vũ-Trụ bây giờ, hồi Thất-Chuyển quả địa-cầu nầy nó chưa thoát xác của nó, kỳ phán-xét chót hết Đức Di-Lạc còn là con Dã-Nhơn ( Con khỉ ), con khỉ ở làm đầy tớ cho Đức Phật Thích-Ca; Đức Phật Thích-Ca buổi ấy là anh thôn quê dân da đen ( Hắc-Chủng ) như mọi vậy thôi. Ba chuyển tới là Đệ Tam-Chuyển, Trung-Ngươn Đệ Tam-Chuyển thì Đức Phật Thích-Ca đoạt tới Boudhisava, sau Đức Phật Thích-Ca mới được vào hàng Phật tức nhiên là Boudha.

Đức Di-Lạc-Vương sửa soạn vào hàng Phật kỳ nầy, Ngài cầm quyền đặng nữa Ngài vào hàng Phật, nếu Bần-Đạo nói Đức Thích-Ca đến thế-gian nầy, đến quả địa-cầu 68 nầy, hồi lúc nó chưa thoát xác của nó; thì Đức Phật Thích-Ca đem hình-ảnh của Ngài thay lần. Nên tổng-số kiếp sanh của Ngài nơi quả địa-cầu nầy lối chừng một ngàn năm trăm triệu năm chớ không có bao nhiêu đâu.

Chúng ta đi vô Cung Phục-Linh chung ta phải đi ngược lụn lại, đi trở lại xuống tới vật loại; tới chừng nhập vô Ngươn-Linh chúng ta, dường như Ngươn-Linh của chúng ta sống cảnh cũng như vật-loại vậy.

Lát nữa Bần-Đạo sẽ dắt vô trong Cung Ngọc-Hư mà các Đấng đương thông công với chúng ta, Đấng ấy đương ngự trị tại Huỳnh-Kim-Khuyết là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, hay là Đại-Thiên-Tôn; Ngài có hai chức: Ngọc-Hoàng Thượng-Đế cũng là Ngài, mà Đại-Thiên- Tôn cũng chính là Ngài.

Nói lụn lại, tới chừng chúng ta Phục-Linh, chúng ta đoạt được rồi, chúng ta thấy cả Càn- Khôn Vũ-Trụ là bạn, là tình với chúng ta. Các chơn-linh rần-rần rộ-rộ trước mặt chúng ta nhưng không có ai lạ hết; bởi vì nó có một đức, một căn-bản. Bí-mật là vậy đó.

Bần-Đạo giảng tới vô Cung Phục-Linh thì mình mất cả tinh-thần hết, chúng ta thấy đã đi mút con đường sơ sanh, buổi mới sanh chúng ta không biết gì. Kiếp sống bị một lần mê-muội, tới chừng chết chúng ta cũng bị mê-muội một lần nữa; mê-muội rồi mới sống lại, huyền-vi bí-mật là ở chỗ đó vậy. Nếu không mê thì chúng ta biết được kiếp trước của chúng ta hết, buổi mình định thần lại rồi mới biết, thiên-hạ kêu rằng ăn cháo lú mới mê muội. Vô Cung Phục-Linh nếu chúng ta không mê thì chúng ta biết được kiếp sống, nhớ thì sống không đặng phải chết, bí-mật là ở chỗ đó. Ngày giờ chúng ta phục tánh chúng ta lại được, chúng ta thấy Đấng Tạo-Đoan tạo Càn-Khôn Vũ-Trụ là Đức Ngọc-Hoàng Thượng- Đế tức là Đại Thiên-Tôn đương ngự nơi Ngọc-Hư-Cung. Dường như rủ chúng ta phải qua chỗ đó, qua đặng hiệp mặt cùng Đấng ấy, phải qua cho thấy Đấng ấy; dầu cho Tông- Đường chúng ta hay bạn tác chúng ta giờ phút đó có nắm chúng ta biểu đừng đi, nhưng Chơn-Linh của chúng ta cũng vẫn đi qua Ngọc-Hư-Cung.

Bây giờ đến Cung Ngọc-Hư là nơi cầm-quyền chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ, không có một ngôi sao nào, không có mặt trời nào đứng trong Càn-Khôn Vũ-Trụ mà không chịu dưới quyền điều-khiển của Ngọc-Hư-Cung.

Quyền trị thế là hình-ảnh của Cữu-Trùng-Đài, một điều mà thiên-hạ tưởng-tượng khác, có trị ai đâu?! Bần-Đạo đã thuyết các chơn-linh tự-trị lấy mình, còn Ngọc-Hư-Cung duy có bảo-thủ tồn-tại cho họ và tác phước cho họ mà thôi, chớ không có trị. Tác phước ấy là họ muốn cho các Chơn-Linh ấy đặng hưởng phước họ không hưởng đặng, là bỡi tại quả kiếp của họ, nếu nói nhờ người cầm-quyền cho họ thấy mảy may quả kiếp của họ mà thôi. Trị là một vị Phật cầm quả kiếp chúng sanh, họ cũng không phải là gắt-gao lắm. Có nhiều Chơn-Linh biết quả kiếp của mình nặng nề quá đỗi rồi không muốn sống nữa. Quả kiếp trọng hệ lắm nên các Đấng ấy duy có giảm bớt, kiếm phương thế giảm bớt mà thôi.

Trên Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa cốt yếu chỉ cho người tội nhơn ấy làm tòa xử lấy họ, họ biết tự-tỉnh lấy họ, tự-tỉnh lấy họ đặng ngó thấy quả kiếp bớt oai-quyền mà quyết định tội mình. Trái lại người tội nhơn làm tòa xử lấy mình, còn người cầm-quyền lại để bảo-vệ hạnh-phúc giảm bớt tội tình cho ta, cầm-quyền chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ là vậy đó!

Cầm-quyền để tác-phước và giảm-tội chớ không phải để buộc tội, không phải để định án; định chăng là do nơi mình, mình làm tòa cũng mình. Nếu có Trạng-Sư cũng không qua đặng, Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa là cung để cho mình định tội lấy mình không qua không đặng. Nền chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ là vậy, cho nên khi chúng ta vô đến Cung Hiệp-Thiên Hành-Hóa rủi chúng ta có làm tội tình, thì dường như các Đấng ngự nơi Cung ấy hồi hộp lo sợ, họ sợ mà mình không sợ; trái lại họ sợ cho mình, sợ mình kêu án mình quá nặng nói trái ngược vậy đó.

Thành thử, nơi Ngọc-Hư-Cung là nơi an-ủi các Chơn-Linh trong Càn-Khôn Vũ-Trụ, chính nơi ấy cầm-quyền trị Càn-Khôn Vũ-Trụ để dìu-dắt binh-vực chớ không phải để trị. Các Chơn-Linh tự trị lấy mình, các bạn nên nhớ điều ấy. Nhứt là mấy anh mấy chị vẫn phải biết cái bí-mật ấy đặng tự-tỉnh, tại mặt thế nầy mình trị mình trước đi. Trị theo cái thói của mình đấy, làm cho lấy có đi; để nữa Chơn-Linh mình về trển không có nóng, đặng ngày kia không có buộc tội mình nặng. Làm theo kiểu quẹt lọ vậy mà biết tự-trị lấy mình; đừng hồi-hộp, đừng sợ-sệt gì hết. Cho nên Đức Chí-Tôn thường dùng tiếng ăn-năn là vậy đó, tiếng ăn-năn nó hay ho làm sao đâu; đặng cho mình khỏi tự-trị lấy mình, quyền nơi Ngọc- Hư-Cung là đó vậy.

Đức Hộ Pháp

Thuyết Đạo Tại Đền Thánh
Đêm 8 tháng 2 năm Kỷ-Sửu ( 07-03-1949 )

Hôm nay chúng ta rủ nhau dục-tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng-Sống.
Thưa cùng chư Chức-Sắc Thiên-Phong Cữu-Trùng-Đài và Hiệp-Thiên-Đài, Nam Nữ và mấy vị Lão-Thành. Bần-Đạo từ khi giảng Dục-Tấn trên con đường Thiêng-Liêng Hằng- Sống, cốt ý giảng cho mấy anh mấy chị để vào cân não. Từ hôm nào tới nay láp-giáp nói nhiều quá cho anh chị được mở tinh-thần, dám chắc rằng sự nguy-ngập chưa đến nước đó.

Bần-Đạo chỉ có nắm tay các người dẩn đi vào cảnh ấy cho mấy người quan-sát tự mình tìm hiểu lấy mình dễ hơn, thuyết-giáo e sợ mấy người không trọn thấu được, mình thấy để nhớ nhặt trong cảnh ấy rồi mới có sự thật, mà Đức Chí-Tôn muốn cả con cái của Ngài thấy cả sự thật mà thôi, không muốn cho thấy ảo-ảnh. Chơn-truyền của Đức-Chí-Tôn đại kỵ điều ấy. Nếu thoảng như nhà tịnh-thất chưa mở ra đặng, lỗi ấy không phải nơi Bần- Đạo, lo nội Thể-Pháp mà hai mươi bốn năm trường nhọc-nhằn không biết bao nhiêu khổ tâm khổ trí; từ tuổi xanh đến bạc đầu mà chưa rồi sáu bảy phần mười. Bần-Đạo xin thú thật rằng không có cái nạn làm nô-lệ nào một cách vô lối như Bần-Đạo đã làm.

Hỏi ra không phải phận-sự của Bần-Đạo mà Bần-Đạo phải làm, nhiều khi ngồi buồn muốn phế hủy, ngặt dòm lại thấy con cái của Đức Chí-Tôn không người dìu-dắt, phế bỏ mà không phế bỏ được. Mặt đời là kiếp sanh tức nhiên phần xác còn chịu nhọc-nhằn không lẽ phần hồn mà phế bỏ.

Bần-Đạo xin giảng tiếp và dắt chúng ta ra khỏi Nam-Tào Bắc-Đẫu, khi thấy quyển Vô- Tự-Kinh rồi, thì mình đã hiểu căn phần quả-kiếp của mình, mạng căn kiếp số đều hiểu nơi Cung ấy.

Bây giờ muốn thuyết-pháp cho trúng và có đề hẵn-hòi thì phải có Kinh, Điển, Luật. Kinh là Tứ-Kinh, Điển là Ngũ-Truyện; Luật là cả luật trị-thế từ cổ chí kim, đem ra làm cái niêm luật đặng tạo bài thuyết-pháp của mình. Mình phải ráng học, cần mẫn học, ấy là một điều chẳng phải dễ; nhưng phải làm cho đặng thay thế ngôn-ngữ cho Đức Chí-Tôn, đem chơn truyền của Ngài để vào tinh-thần của nhơn-loại, nếu mình làm không đặng cũng như mình làm cho Đức Chí-Tôn câm sao !!! Mình phải làm đặng thay thế ngôn-ngữ cho Ngài, nếu mình làm không đặng, thì thay thế cho Ngài không đặng.

Từ đây về sau Bần-Đạo siết chặt lại là ngồi nghe, hễ còn nói bậy nữa Bần-Đạo sẽ phạt nặng đa nghe, đã gần hai năm rồi không dung thứ nữa được. Bần-Đạo cho hay trước có bị phạt đừng than đừng trách, nói khó khăn gì hết, đã cho hay trước rồi mới làm.

Ngày nay Bần-Đạo giảng tiếp cái chính-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ, từ trước Bần-Đạo đã có nói cái quyền của họ do nơi đâu mà có? Phương-pháp trị Càn-Khôn Vũ-Trụ xét ra là phương-pháp tự-trị, ta trị ta, cả nhơn-loại tự-trị lấy mình; Càn-Khôn Vũ-Trụ minh-mông đại hải, vô biên, vô giới nếu lập luật định quyền, thì không có quyền nào cầm nổi. Cả sự sanh-hoạt của Càn-Khôn Vũ-Trụ cái hay hơn hết là cái bí-mật huyền-vi của mỗi cá-nhân đều tự-trị lấy mình, ấy là chúng ta đoạt được huyền-bí vô biên xử đoán của Đức Chí-Tôn đó vậy, là chính mình tự-trị lấy mình.

Bần-Đạo đã nói cái án không có chối, cái tội không có cãi, vì chính mình trị lấy mình; chính mình xử-đoán cho mình và chính mình định hình-phạt cho mình thì ai đâu chối cãi nữa được, còn miệng lưỡi nào mà chối cho mình, đó là quyền đã vững chắc đó vậy.

Cá-nhân tự-trị, chính-trị của Càn-Khôn Vũ-Trụ không có gì khác, chỉ khác cái đó. Duy có huyền-vi vô biên của Đức Chí-Tôn là trường Quan-Lại của Ngài đặng định cho Càn-Khôn Vũ-Trụ sinh-hoạt mà thôi, không có giá-trị gì hết. Mỗi Chơn-Linh đều có quyền tự-trị lấy mình, bây giờ nền chính-trị đã vững-vàng chắc-chắn vậy; ( trong phương-pháp Thiêng- Liêng kia nó đã chắc-chắn không có gì ốp(?) được ), chắc-chắn mạnh-mẽ oai-quyền làm sao! Bây giờ ta xét thấy nền chính-trị đã vững chắc, cả tinh-thần của Càn-Khôn Vũ-Trụ hiệp làm một đặng mình trị lấy mình.

Bần-Đạo có nói rằng: " Chúng ta chỉ sợ tôi lung hơn hết, khổ não hơn hết, là mình thấy Tông-Đường mình bị tội nơi cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống, trụ số Tông-Tộc Thiêng-Liêng của mình trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống kia họ chịu nhục-nhã về mình, chịu chê bai biếm nhẻ, vì mình mà bị từ bỏ, dọa nạt trên cảnh Thiêng-Liêng Hằng-Sống và mất giá-trị; cái đó mới đáng sợ ". Vì cớ cho nên Bần-Đạo chỉ vẽ cái thiệt-tướng của Càn-Khôn Vũ-Trụ, tức nhiên cái chơn-lý của Càn-Khôn Vũ-Trụ. Chơn-lý ấy hỏi nơi thế-gian nầy có đoạt đặng hay chăng? Có chớ !!

Bần-Đạo chỉ nói cho cả thảy ngó thấy Việt-Chủng của chúng ta, tức nhiên văn-minh của Trung-Hoa đoạt được trước hết; đoạt được cơ-quan võ-khí. Bần-Đạo đã nói trái địa-cầu nầy chuyển kiếp lụn lại, nó đi đã ba chuyển kiếp rồi; kiếp trước nó đi đến Thất-Chuyển đã bị tiêu-diệt cái hình-hài của nó. Nó biến hình của nó, trái địa-cầu nầy nó đã đi đến Tam- Chuyển của nó rồi, chừng tới Thất-Chuyển nó sẽ tiêu-diệt nữa; hay biến-tướng trở lại Tam Chuyển nữa, bốn chuyển đầu Tạo-Đoan ra dã-nhơn và hắc-chủng.

Nhứt-Chuyển thì họ duy có tự-vệ mà thôi, hoặc rủ một vài người với phương-pháp tự-vệ mà thôi, vì buổi ấy thú mạnh hơn người, cho nên xã-hội thời-kỳ ấy chỉ tự-vệ mà thôi.

Tới Nhị-Chuyển là thời-kỳ nghệ-thuật, tức nhiên kiếm phương-thế để tự-lập mình, bày ra binh khí hiệp nhau. Mường Mán nầy hiệp với Mường Mán khác, đặng chống-chọi với thú dữ, cơ trời buổi ấy không được hiền từ như bây giờ. Đệ Nhị-Chuyển thiên-hạ bất định nhiều bịnh chướng, nhiều cơ-quan tiêu diệt loài người nên phải tự-vệ; muốn tự-vệ được mạnh-mẽ thì họ phải tự kiếm ra cho có binh khí, thứ nầy thứ kia đặng họ tự-vệ họ kêu là nghệ-thuật.

Đệ Tam-Chuyển xã-hội hiệp chủng, khởi có chủng-tộc và xã-hội, mà xã-hội là gì? Là hình ảnh chính-trị Thiêng-Liêng kia, suy xét chơn-lý kiếm lại coi giờ phút nầy đã mãn Tam-Chuyển và bắt đầu đi vào Thượng-Ngươn Tứ-Chuyển; là hồi nhơn-loại tương hợp với nhau cả thảy nơi mặt quả địa-cầu nầy, tức là thuyết Đại-Đồng. Nhơn-loại đem để nơi mặt địa-cầu nầy một nền chính-trị cho vững chắc mới hiệp đặng, tức nhiên khởi mầm để tạo ra một nền chính-trị Hiệp-Chủng Đại-Đồng cho nhơn-loại. Ấy vậy nước Tàu đã đoạt được Bí-Pháp ấy, các Tông-Đường như họ nầy qua họ kia: Họ Lưu, họ Trần, họ Lê, họ Lý mỗi họ đều có Tông-Đường để trị lấy họ, bởi cớ cho nên nhà Vua không bao giờ khó trị, phần tử trong Tông-Đường nào mà phạm về tội gì, thì cả Tông-Đường phải chịu trách-nhiệm với Triều-Chánh. Vì cớ cho nên nền chính-trị của nước Trung-Hoa tối cổ vững chắc mạnh-mẽ phi thường, nếu có nghiêng đổ là do họ phế cổ tùng kim; làm cho hủy-hoại nền chính-trị tối cổ quí báu mạnh-mẽ xưa kia vậy. Phương-pháp chính-trị Càn-Khôn Vũ-Trụ cũng vậy. Còn nước Việt-Nam của chúng ta là nòi giống Trung-Hoa của người Tàu, thì chúng ta đã có nền chính-trị về Tông-Đường đó muốn cho thiên-hạ hiệp lại đại-đồng thì ít ra các Tông- Đường phải hiệp trước đã, phải đi từ cái nhỏ mà đến cái lớn.

Cái mầm Tông-Đường hiệp nhau là vậy, cho nên Bần-Đạo khuyên nhủ Phước-Thiện tạo dựng Tông-Đường trở lại như xưa vậy là cái Bí-Pháp ấy muốn Đại-Đồng, là cơ-quan chính-trị của nước Việt-Nam, là bổn-nguyên quí hóa, bổn-nguyên chắn-chắn hơn xưa vậy.

 

 

về trang chủ