Tiểu sử ngài Camille Flammarion

Sinh tại Montigny le Roi (Haute Marne) ngày 26 tháng 2 năm 1842

 mất tại Jusivy sur Orge (Essone) ngày 3 tháng sáu năm 1925

 

 

 

« Tôi có một số mệnh may mắn hạnh phúc là được chứng kiến sự ra đời của bộ môn phân tích quang phổ các vật thể trên bầu trời, phép chụp ảnh Mặt trời, các hành tinh, sao chổi, các vì tinh tú, các tinh vân và tất cả các phương pháp khác mà từ hơn một nửa thế kỷ nay chúng đã đưa thiên văn vật lý học hiện đại thay thế cho thiên văn toán học cổ lỗ và ngủ quên » (Những ký ức của một nhà thiên văn học, trang 24)

 

Thời thơ ấu :

Sinh năm 1842 ở Montigny le Roi (Haute-Marne), Camille Flammarion là anh cả trong một gia đình có 4 anh em, người em thứ hai sau này là người sáng lập Nhà xuất bản Flammarion. Xuất thân trong một gia đình bình thường, cậu bé Camille được gửi đến cha xứ  làng để học tập. Do những khó khăn về tài chính của gia đình, vì công việc làm ăn bị xuống dốc, đã bắt buộc bố mẹ cậu phải rời khỏi làng quê để thử vận may tại Paris. Và Camille, giống như nhiều đứa trẻ nông thôn khác tiếp tục theo học tại một trường dòng nhỏ ở Langres. Là đứa trẻ ham hiểu biết, cậu thường thả trí tưởng tượng của mình vào các hiện tượng của thiên nhiên.

 

Vào năm 1856, cậu về sống với cha mẹ ở Paris. Do thiếu phương tiện và chỗ dựa, cậu không thể tiếp tục đi học nữa. Cậu tìm được công việc đầu tiên là thợ học việc tại một xưởng chạm kim hoàn, ở đây, cậu được học về đồ họa, là môn học sẽ rất có ích cho cậu sau này.

 

Sinh viên thiên văn học :

Camille theo học các khóa học buổi tối để tốt nghiệp tú tài. Vì quá sức, cậu bị suy sụp sức khỏe. Người thầy thuốc được gọi tới chăm sóc, đã nhanh chóng bị cuốn hút bởi cậu bé đam mê thiên văn này.

 

Vào năm 1858, qua hàng loạt các mối quan hệ, ông đã giúp Camille Flammarion, lúc đó 16 tuổi, được làm sinh viên môn thiên văn học tại Đài thiên văn Paris, đài này trực thuộc Tòa thị chính, anh làm việc tại phòng tính toán.

 

Sau giờ làm việc, cậu thường phụ giúp nhà thiên văn học Jean Chacornac trong các quan sát ban đêm. Nhưng chàng trai đầy nhiệt huyết Camille, dù thừa nhận tính hữu ích của các phương pháp tính toán để xác định vị trí của các thiên thể, vẫn luôn có cái nhìn phê phán đối với cái thế giới nhỏ bé của các nhà thiên văn toán học: Camille đã bày tỏ trong cuốn Những ký ức của mình như sau: “Hẳn là, tôi không hề nói rằng người ta không làm gì cả ở đài Thiên văn Paris, nhưng nói chung là các công việc cá nhân, làm với lòng  yêu thích, sẽ được thực hiện chu đáo hơn và nhanh hơn rất nhiều so với công việc tương tự mang tính hành chính”.

 

Năm 1862, với sự ra đời của cuốn “Tính đa dạng của các thế giới có loài người”, sự tuyệt giao đã được thực hiện hoàn toàn. Camille Flammarion đã đưa ra một trong những suy ngẫm tâm đắc nhất là: Nếu ta quan sát các hành tinh như vậy chính là để tìm cách hiểu rõ về chúng hơn và cũng để tìm hiểu xem phải chăng chỉ duy chúng ta là những thực thể sống duy nhất trong vũ trụ rộng lớn này?

 

Sylvie Flammarion: tình yêu đầu tiên:

Cuộc chiến 1870 đã làm ngắt quãng nhất thời các tác phẩm của ông. Khi mọi thứ đã trở lại ổn định, ông dọn đến ở phố Rue Cassini, chỉ cách đài Thiên văn Paris có hai bước chân. Ông thành thân năm 1874 với Sylvie Petiaux, người yêu từ thuở thiếu thời và đã đưa cô đi du lịch nhân lễ cưới … trên khinh khí cầu! Là một cộng tác viên tích cực, Sylvie Flammarion đã sáng lập hiệp hội mang tư tưởng hòa bình chủ nghĩa có tên là “Hòa bình và giải trừ quân bị vì phụ nữ”vào năm 1899.

 

Gabrielle Flammarion: Nàng thơ

Gia sản của ông, mà giờ đây là một vườn cây thơ mộng rộng nhiều bước ngựa phi, đã ảnh hưởng đến Camille trong việc viết lên cuốn tiểu thuyết mang tính thơ mộng hơn là khoa học, có tên là: Stella. Trong tuyệt tác này, ông đã miêu tả một nhà thiên văn học đã tìm ra người đàn bà lý tưởng của mình.

 

Người mẫu mà ông đã lấy cảm hứng ẩn dấu sau đó các nét của cô trợ lý Gabrielle Renaudot, người trở thành vợ chính thức của ông năm 1919, một thời gian ngắn sau cái chết của Sylvie Flammarion.

 

Có học vị cử nhân, một học vị hiếm có ở thời đó, là tác giả của nhiều bài trao đổi về khoa học. Gabrielle Flammarion nổi tiếng gần như người chồng – nhà thiên văn học của mình, và bà luôn đồng hành với ông trong tất cả các giao dịch.

 

Các dự án

Là một nhà thử nghiệm không biết mệt mỏi mọi thứ, Camille Flammarion đã thực hiện nhiều dự án lớn như: đổi mới phương pháp con lắc của Foucault năm 1902, tổ chức các lễ hội mặt trời định kỳ vào thời điểm hạ chí mỗi năm quanh Tháp Eiffel từ năm 1904 đến 1914 …

 

Nhờ hoạt động của ông trong việc phổ biến các kiến thức khoa học và trong thiên văn học, ông đã được trao Bắc đẩu bội tinh năm 1912.

 

Ông có ý định sau đó sẽ đưa biến Quảng trường Concorde  thành một đồng hồ mặt trời khổng lồ. Ðại chiến thế giới lần thứ nhất đã làm gián đoạn dự án đầy tham vọng này.

 

Những năm tháng cuối cùng: Rút khỏi đời sống khoa học.

Mặc dù không khí yên tĩnh sau chiến tranh đã quay trở lại, Camille Flammarion ngày càng ít tham gia vào các sự kiện trong thực tiễn khoa học.

 

Ông đã không  nhận thấy cuộc cách mạng trí tuệ đang được chuẩn bị trong Thuyết tương đối của chàng thanh niên Albert Einstein. Vị trí của ông là ở  trong cuộc cách mạng  tương tự của những người cùng thế hệ với ông, được đào tạo theo trí tuệ bách khoa, không đi theo những chuyển biến về tư duy khoa học sau đại chiến thứ nhất. Ông quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề liên quan đến cuộc sống sau cái chết, Thiên hướng đi theo thông linh học này đã gắn bó với ông suốt cả cuộc đời.

 

Phải chăng ông đã tìm thấy câu trả lời vào ngày ông yên nghỉ mãi mãi vào năm 1925. Ông có dịp thăm hành tinh nhỏ bé được phát hiện cách đó 1 năm, mang tên ông “Flammario” không ? Hay ông đã đến hành tinh “Juvisia”?

 

Người phối ngẩu của ông muốn tiếp tục lưu truyền sự nghiệp của ông sau khi chết bằng cách tham gia tích cực các hoạt động trong Hiệp hội Thiên Văn học Pháp. Bà đã mất vào năm 1962, khi đã gửi gắm lại toàn bộ cho hiệp hội.

 

Nhà giáo dục và diễn giả:

Trở thành chủ tịch của Hội Paris nằm trong Hiệp hội giáo dục Jean Macé năm 1867, ngay từ khi ở Ðài thiên văn Paris, ông đã năng lui tới các nhà thiết kế dụng cụ như Bardou Secrétan, rất nổi tiếng trong giới khoa học và giới ham thích thiên văn, và cả các nhà thiên văn như Babinet, Delaunay – Faye, và sau đó là Danjon Couder, được biết đến bởi các nghiên cứu về thiết bị quan trắc, là tác giả của “Kính và và kính viễn vọng” (Ðược phát hành sau khi Flammarion mất, vào năm 1935).

 

Ông đã cùng với Bardou thiết kế một loại kính thiên văn mới gọi là “Kính trường học”, mẫu mả  này đã được Hội thiên văn đại chúng phổ biến vào năm 1879. Secrétam đã thêm vào hệ thống kính quan sát thiên văn Juvisy một buồng tối dùng để chụp ảnh. Là một người Cộng hòa kiên tâm, nên Camille Flammarion đã cho tất cả những người tham gia nền Cộng hòa Jules trốn trong phòng khách trong nhà mình. Thấm nhuần các tư tưởng về thể chế cộng đồng và phi tôn giáo, ông có liên hệ thư từ với nội các chính phủ, với thư viện những người bạn của thế chế công cộng, với Jean Macé …

 

Ngược lại, dù được nhận sự giáo dưỡng từ các tu sĩ ngay từ thuở thiếu thời và tiếp tục tìm hiểu “Thượng đế trong tự nhiên” (đầu đề sách xuất bản năm 1867), ông vẫn ngày càng xa rời môi trường tăng lữ bởi địa vị của mình trong cuộc sống.

 

Hình chụp một buổi xây bàn

Nếu như các buổi lễ thông linh tổ chức tại Juvisy năm 1898 với đồng tử người Ý là Eusapia Palladino được biết đến nhiều nhất, thì chính từ những năm 1861, Camille Flammarion đã thường xuyên lui tới các trung tâm thông linh của thủ đô (Nhà xuất bản Allan Kardec, Papus), hay của Châu Âu (Hiệp hội quốc gia thông linh học Vương quốc Anh), và Mỹ (Phân viện Brech Mỹ về nghiên cứu tâm linh).

 

Sau khi ông chết, những người hâm mộ Camille Flammarion rất muốn thấy trong các kiến thức của ông về thông linh học, một niềm ham thích của những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, bởi không nghi ngờ gì là khía cạnh ấy có thể sẽ giúp giữ vững danh tiếng của ông trong khoa học. Các nhà viết tiểu sử ngày nay luôn miêu tả một Camille Flammarion thiện cảm hơn bởi cũng như số đông các nhà khoa học cùng thời, ông luôn bị dày vò bời các nghi ngờ, các câu hỏi và các lợi ích đối lập.

 

Các mối liên quan giữa khoa học và tính Hư vô đã luôn tồn tại từ thế kỷ 17 và môi trường của các nhà khoa học không chuyên cũng không nằm ngoài điều đó: vào thế kỷ 17, Wilky, tác giả cuốn Chuyến du hành trên mặt trăng, Hugens đều tin vào sự tồn tại của những extra-terresse (caodaifrance: còn gọi là người đến từ các hành tinh khác) - (Các tuyệt tác của họ đều được lưu giữ trong thư viện của Camille Flammarion). Ở một hệ tư tưởng khác, Newston luôn quan tâm đến thuật luyện kim và Brandly thì chú ý đến chuyển động quay của chiếc bàn.

 

Mối quan tâm đến một thế giới khác, niềm tin là linh hồn bất diệt tồn tại ngoài cơ thể trong mọi ngữ cảnh tôn giáo, hay việc tìm hiểu cuộc sống ở các hành tinh ngoài trái đất đều được một số các nghệ sĩ thể hiện dưới hình thức nghệ thuật mà Camille Flammarion đã sưu tập được một số tác phẩm: Ông đã đề nghị Lucien Rudaeu vẽ để quan sát các cảnh tượng đẹp tuyệt vời của mặt trăng, đó là người họa sĩ đầu tiên vẽ cảnh tượng các không gian đa hành tinh và  nổi tiếng bởi rất nhiều các tuyệt tác của mình.

 

Lần đầu tiên đến nước Mỹ đã làm ông rất đam mê, và vào năm 1923, ông được bầu làm chủ tịch Hiệp hội nghiên cứu tâm linh Luân Đôn. Mối quan tâm đến các hiện tượng không thể giải thích này đã phải xếp lại trong bối cảnh chung của thời kỳ này khi mà các hiện tượng xô bồ, gian trá, và các nghiên cứu đích thực về tâm linh luôn bị đặt để lẫn lộn.(thuật thôi miên)

 

 

Trích "biographie Camille Flammarion"

dịch giả Lan Châu

 

FLAMMARION và ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ÐỘ

THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN, quyển I

Trích cơ bút Pháp ngữ buổi đàn cơ mà Ðức Chí Tôn đã dạy

vào ngày thứ tư 27/10/1926, nhằm ngày 17 tháng 9 năm Bính Dần.

 

Mercredi 27 Octobre 1926
17 tháng 9 năm Bính Dần

Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế viết

Cao-Ðài Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Ðạo Nam Phương

L'humanité souffre de toutes sortes de vicissitudes. J'ai envoyé Allan Kardec; j'ai envoyé Flammarion comme j'ai envoyé Élie et Saint Jean-Baptiste, précurseurs de l'avènement de Jésus- Christ; l'un persécuté, et l'autre tué. Et par qui? Par l'humanité. Mon fils est aussi tué par vous; vous ne le vénérez qu'en Esprit et non en Sainteté.

 

Je voulais causer avec vous en une seule fois au temps de Moise sur le Mont-Sinai, vous ne pouviez me comprendre. La promesse que j'ai faite à vos ancêtres pour votre rédemption, la venue du Christ est prédite; vous ne voulez pas en tenir compte. Il faut que je me serve moi-même maintenant d'un moyen plus spirituel pour vous convaincre. Vous ne pourrez pas nier devant le Grand jugement général que je ne sauve pas l'humanité par tous moyens plausibles. Quelque indulgent que je sois, je ne pourrai effacer tous vos péchés depuis votre création. Le monde est dès maintenant dans les ténèbres. La vertu de Dieu est détruite; la haine universelle s'envenime; la guerre mondiale est inévitable.

 

La race francaise et la race annamite sont mes deux bénites.

 

Je voudrais que vous soyez unis pour toujours. La nouvelle doctrine que j'enseigne a pour but de vous mettre dans une communauté d'intérêt et de vie. Soyez donc unis par ma volonté et prêchez au monde la paix et la concorde.

 

En voilà assez pour vous ce soir.

 

Bản dịch ra Việt Ngữ

 Mercredi 27 Octobre 1926
17 tháng 9 năm Bính Dần

Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế Viết

Cao-Ðài Tiên Ông Ðại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Ðạo Nam Phương

Nhơn-loại hiện chịu đau khổ bởi nhiều cuộc tai biến. Thầy đã sai Allan-Kardec, Flammarion cũng như Elie và Thánh Jean-Baptiste là những bực tiền Thánh báo tin ngày giáng-sinh chấn động của Chuá Cứu-thế Jésus, nhưng chúng nó đứa thì bị hành hạ, đứa khác bị giết chết bởi ai ? Cũng bởi loài người. Chính con của Thầy cũng bị các con giết mất. Các con chỉ biết tôn sùng Người bằng tinh-thần chớ không bằng thánh-chất.

 

Thầy đã muốn nói với các con chỉ một lần mà thôi, hồi thời kỳ thánh Moise trên ngọn núi Sinai, nhưng các con không hiểu được ý Thầy. Lời hứa của Thầy với tổ tiên các con về việc xin chuộc tội cho các con và ngày giáng sinh của Chúa Cứu-thế là việc đã có lời sấm tiên tri rồi mà các con không chịu quan tâm đến. Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi nữa được trước tòa phán xét chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn-loại bằng những phương-pháp công hiệu. Dầu Thầy có khoan dung cách mấy đi nữa Thầy cũng không thể bôi xóa được những tội lỗi của các con đã làm từ lúc tạo thành nhơn-loại. Từ nay thế-giới phải chịu trong vòng hắc ám. Tinh-thần đạo-đức đã tiêu mất, sự thù hận tràn ngập khắp hoàn cầu . . . . . . . . . . . . . .

 

Dân-tộc Pháp-Việt là hai dân-tộc được nhiều huê-phúc nhất.

 

Thầy muốn sao cả hai được hòa hiệp nhau mãi mãi. Giáo-lý của Thầy có mục-đích dạy dỗ các con hòa hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền-lợi và sinh hoạt . Vậy các con hãy chung hiệp nhau mãi mãi theo ý muốn của Thầy và hãy truyền-bá khắp hoàn-cầu thuyết hòa bình tương-thân tương-ái.

 

Thôi có bấy nhiêu đó cho các con đêm nay.

 

về trang trước