ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

* * *

ĐẠI ĐẠO BÍ SỬ

 

Soạn Giả:
TRẦN VĂN RẠNG
Giáo sư sử học

Đại Đạo Năm Thứ 46
1971

 

 6- NƯỚC THÁNH

Tháng 3 năm 1927 Đức Cao Thượng Phẩm được Đức Lý giao việc di cốt Phật Tổ từ chùa Từ Lâm ở Gò Kén về ûø đất mới ở làng Long Thành.

Con ngựa Cantaka của Đức Phật Tổ cở lớn và dài, nên Đức Cao Thượng Phẩm phải kết hai cái xe bò lại để dễ chở. Viên Chánh Tham biện tưởng Đức Cao Thượng Phẩm tụ tập dân chúng mưu sự gì nên cho quân lính kích hai bên đường. Dọ Thám cho biết Đức Cao Thượng Phẩm chỉ di cốt Phật Tổ chớ không làm gì khác nên họ giải tán

Bửu tượng Đức Phật Tổ đặt giữa hai cụm rừng Thiên Nhiên. Mặt hướng về nước Cao Miên. Tay che trán như chờ đón cả dân tộc này. Tượng biểu hiện Thái tử Sĩ Đạt Ta rời bỏ hoàng cung đi tu, phía sau có Sa Nặc chạy theo chắp tay xúi Ngài trở lại.

Người Cao Miên thì cho pho tượng Phật Tổ cỡi ngựa đó là vị Thái Tử của nước họ đã chuyển hóa giúp dân họ hồi đầu hướng thiện. Vào buổi sáng mình ngựa đầy mồ hôi. Họ cố công hứng lấy nước mà uống chữa được nhiều thứ bịnh. Vì vậy, họ về nước đồn lên khiến hàng vạn người lũ lượt kéo đến Toà Thánh làm công quả phá rừng cất chùa mới.

Công quả giúp phá rừng quá đông. Đạo chưa tạo được cái nhà nào phải nấu ăn và ăn uống giữa trời. Thế mà người công quả lục tỉnh, Nam Vang ngày càng mỗi về đông.

Thiếu mọi phương tiện phòng bịnh, thuốc thang không có. Đức Cao Thượng Phẩm xin Đức Chí Tôn ban bí pháp luyện Cam Lồ Thủy mà dân Đạo quen gọi là NƯỚC THÁNH

Chưa có đền thờ nên Đức Cao Thượng Phẩm hành pháp giữa trời . người xin nước Thánh đem chai xếp hàng trên bàn. Mỗi khi làm phép trấn thần xong là múc vào chai của ai nấy lấy đem về uống. Nhờ có huyền diệu Thiêng Liêng nước Thánh trị được bá bịnh. Tiếng lành đồn xa, công quả các nơi tập nập kéo về. Nhờ thế rừng cấm không bao lâu trở thành mảnh đất bằng phẳng. Toà Thánh tạm bằng tranh được dựng lên. Đó chẳng phải nhờ huyền diệu thiêng liêng, ơn trên giúp sức sao? mà nước Thánh chỉ là phương tiện để giúp đại thành cứu cánh ngôi Bửu điện.

Thiên Nhơn hợp nhất hiện rõ từ đầu.

Khi Đức Chí Tôn mở Đạo có truyền nhiều bí pháp cho Đức Hộ Pháp như phép Hôn phối, cắt dây oan nghiệt (phép xác), giải oan Tam Thánh, giải bịnh, trấn thần, độ thăng phép lành.

Nhiều chức khác như : Đức Cao Thượng Phẩm cũng được truyền nhiều bí pháp như truyền thần, tẩy trược trị bịnh, giải thể .

Có nhiều bí pháp không được truyền bá và nhiều bí pháp chưa được áp dụng trong giai đoạn này. Người thọ bí pháp phải là chức sắc, hoặc người trưởng trai. Khi hành pháp thì được các Đấng Thiêng Liêng ám trợ, đưa đến những kết quả bất ngờ, ngay cả người hành pháp cũng không lường được. Chẳng hạn vào 1935 tại Kgchnang (Campuchia) tín đồ Duyên ( nay là chức sắc ) phát cơn đau bụng thuốc thang đều vô hiệu. Thân nhân đưa đến Thánh Thất Nam Vang, ông Cao Tiếp Đạo làm phép giải bịnh cho ông , ông run rẩy và uống chung nước Thánh liền mửa ra bảy cây đinh, rõ ràng ông bị thư từ lâu.

1. Phép luyện Ma Ha Thủy
Tắm Thánh hay giải oan phải có Ma ha Thủy. Ma Ha Thủy là nước sông Hằng nơi Đức Thích Ca tẩy trần đạt Đạo.
Muốn luyện nước Ma Ha, ta lấy một tô nước để trước Thiên bàn. Người hành pháp thân ngó ngay thiên nhãn và lấy mắt mà vẽ chữ Phật trong con ngươi của Thiên nhãn, co chơn trái lên vẽ chữ Pháp đạp lên chữ ấy, rồi rút chơn mặt lên viết chữ Đinh gọi là Đinh giáp.
Hành pháp xong, tay trái bắt ấn Hộ pháp để ngay ngực, tay phải cũng bắt ấn Hộ pháp để trên tô nước, buông ấn ra rồi ngón tay giữa vẽ chữ bùa Tam Thiên. Đoạn xòe tay ra truyền thần xuống nước niệm chú " Ma Ha Thủy vàng hủy oan nghiệt tội chứng chi đọa". Nhắm mắt, định thần đợi thấy Thiên nhãn giáng trên mặt nước thì xả ấn. Như vậy là Ma Ha Thủy đã được luyện thành.
Khi thực hành cầm chén Ma Ha Thủy rót lên đầu chảy xuống tô được hứng phía dưới để cho người giải oan hay đứa trẻ tắm Thánh rửa mặt.

2. Pháp luyện Cam Lồ Thủy :
Hành phép xác phải có Cam Lồ Thủy. Cây dương nơi Lôi Aâm Tự , mỗi chót lá đọng lại một giọt sương là một sinh mạng con người, nếu giọt sương rơi thì người phải chết.
Muốn luyện nước Cam Lồ, ta đặt tô nước trước thiên bàn rồi lấy 2 chung nước âm dương xáp lại cho âm dương ký tế vừa rót ngay xuống tô vừa niệm thần chú : "Cam Lồ thủy năng hủy trước kiếp ở sinh oan nghiệt tội chướng chi đạo" hễ dứt câu niệm là dứt giọt nước. Đoạn tay trái bắt ấn Hộ pháp để ngay ngực, tay mặt cũng bắt ấn Hộ pháp chụp lên miệng tô, co ngón tay giữa vẽ chữ bùa Tam Thiên trên mặt nước, rồi xòe tay ra truyền thần xuống mặt nước. Đoạn nhắm hai mắt định thần, hễ thấy Thiên nhãn giáng trên mặt nước thì giựt tay ra ( xả ấn). Như vậy là Cam Lộ Thủy được luyện thành .

Khi làm phép hành xác, tay trái cầm chén Cam Lồ Thủy , tay mặt cầm nhành dương nhúng vào nước Cam Lồ rồi vẫy xung quang thi hài ( định thần thấy thi hài chứ không thấy quan tài)

Lấy cớ việc tà quái xảy ra trong ngày khai Đại tại Từ Lâm Tự, Hòa Thượng Như Nhãn đòi chùa lại. Đức Cao Thượng Phẩm khó nhọc đưa cốt Phật Tổ về chùa mới. Nơi xây dựng chùa là khu rừng cấm, nhà cửa dân đạo hầu như không có. Không biết thế nào để khởi nay, thế nên Đức Chí Tôn đã ban mầu nhiệm qua Đức Cao Thượng Phẩm. Sau những đàn cúng, Đức Ngài cầu nguyện luyện Cam Lồ Thủy rồi đem ra giải oan, tắm thánh, cho uống trị bá bịnh ngay nơi công trường xây dựng. Nhờ huyền diệu của Đức Chí Tôn bịnh gì uống vào cũng hết khiến cho mọi người công quả đều mạnh mẽ. Chúng sanh phương xa hay tin tấp nập kéo về Toà Thánh xin nước Thánh trị bịnh. Nhờ đó, công quả ngày càng đông, việc phá rừng ngày càng quang đảng. Đó là phần đất cất Toà Thánh hiện nay.

Bà Tư Hương Hiếu cai quản phòng trùø, ngoài việc lo ăn uống cho công quả còn may thiên phục cho chức sắc Thiên phong.

Ưu tú nhứt là bà làm chiếc Long Tu Phiến cho Đức Cao Thượng Phẩm đúng như lời Đức Chí Tôn giáng dạy. Long tu là râu rồng, phiến là quạt; tức là quạt râu rồng, nhưng thật sự chỉ làm bằng 36 lông cò trắng kết thành.

Đức Cao Thượng Phẩm giải thích về Long Tu Phiến như vầy :

    "Long tu phiến là cây quạt do điển khí của Tam Thập Lục Thiên kết thành, quạt ấy tiết ra một điển lực có ảnh hưởng đến cuộc tiến hóa của quần linh. Chơn thần nào trong sạch thì nương theo đó mà siêu nhập cực lạc thế giới.
    "Trái lại, chơn thần nào luyến ái tà mị thì phải lánh xa, mà đi lần đến U minh cảnh giới. Cả cờ "thu" và "xuất" của Long tu phiến với chơn thần đều do luật đồng khí tương cầu mà thành tựu"

Vì lẽ đó mà bà Tư truyền rao trong giới công quả, ai có lông cò trắng đem hiến với 2 điều kiện là : 1/ Lông cò lỵ ( tự chết), 2/ Lông cò nuôi chớ không được bắn giết. Sau đó, có người Tà Mun đem tặng Bà Tư 18 lông cò trắng. Anh ta thưa với bà Tư:
- Cây dầu trước nhà tôi, cách tháng nay có cặp cò đến ở. Bỗng nhiên, hôm qua con cò trống giãy chết. Tôi chỉ lựa được 18 lông tốt, còn những lông khác lem luốc không lấy được.
Hôm sau, vợ anh đó lại đem đến cho bà Tư 18 lông cò mái. Chị ta nói :
- Tội nghiệp đôi vợ chồng nhà cò quá. Làm ổ chưa đẻ đã chết. Tôi chôn cả hai xác dưới góc dầu, chớ không dám ăn thịt vì chim sa cá lỵ linh hiển lắm.

Ngay đêm hôm đó, bà Tư thấy cậu Cao Quỳnh An về thăm có dẫn theo người bạn gái có cái mũi thật cao. Cậu An nói :
- Thưa mẹ, con xin trả lại xương cốt cho mẹ và xin ba giúp đưa con vào cõi Cực Lạc.
Nghe đến đó, bà Tư giựt mình, mồ hôi ướt đẫm. Bà nhủ thầm, nhớ lời dặn của Đức Cao Thượng Phẩm : "Âu cũng là số kiếp. 18 lông cò trống tượng trưng cho cơ thu thuộc dương, 18 lông cò mái tượng trưng cho cơ xuất ( đẩy) thuộc âm. Đạo Đức Kinh có viết " Nhất âm, nhất dương chi vị Đạo". Ta thuộc chi Đạo, như vậy là hợp lẽ thiêng liêng".

Điều đó chứng tỏ ngay cả bà Tư cũng chưa thấu hiểu cơ huyền vi trong 36 lông cò trắng gồm có 18 lông dương và 18 lông âm.

Vào năm 1949 sau ngày lễ xuất quân, một nữ thư ký đến hỏi bà Tư :
- Thưa bà, bà dạy con cái quạt chỉ có 36 lông cò, sao mấy ông quân đội bông mỗi mặt tới 36 lông
Bà Tư ôn tồn đáp :
- Nếu lông cò tượng trưng một mặt 36 lông có thì không sao.
- Dạ tới hai mặt. 72 lông cò .
- Như vậy, ta đã cầu thất thập nhị địa sát tới rồi. Họ sẽ nhập vào tướng tá mà quấy nhiễu khó lường trước được.
Bà Tư âu lo. Sau đó ít lâu bà lên trình với Đức Hộ Pháp xin đưa quân đội ra khỏi nội ô mà vẫn không tránh khỏi nạn phản thầy trừng đạo do tướng Nguyễn Thành Phương cầm đầu.  

 

về trang chủ  

xem trang sau