ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

* * *

ĐẠI ĐẠO BÍ SỬ

 

Soạn Giả:
TRẦN VĂN RẠNG
Giáo sư sử học

Đại Đạo Năm Thứ 46
1971

 

11- ĐỀN THỜ PHẬT MẪU TƯƠNG LAI

Báo Ân Từ nằm trên Đại lộ Phạm Hộ Pháp hiện nay chỉ là Đền Thờ Phật Mẫu tạm. Đền Thờ chính định cất trên khoảng đất rộng 4 mẫu, trước cửa Hòa Viện (cửa số 1) lộ Bình Dương Đạo ( Đại lộ Phạm Hộ Pháp nối phần ngoại ô Toà Thánh) . Vào năm Nhâm Thìn ( 1952) nhân dịp sửa chữa lại Báo Ân Từ tạm gọi là nơi thờ Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp có chỉ vẽ các công quả thợ hồ đắp các pho tượng sau :

    1- Trên hết đắp chơn dung Đức Phật Mẫu cỡi thanh loan
    2- Dưới đắp 9 pho tượng của Cửu Vị Nữ Phật
    3- Liên tiếp đắp 4 vị Nữ nhạc hầu Đức Phật mẫu là Đổng Song Thành, Vương Tử Phá, Hứa Phi Yến và An Phát Trinh
    4- Tượng Đông Phương Sóc nhà văn học đời Hán biết nghe tiếng chim qùi nâng 4 quả đào tiên
    5- Tượng Đức Cao Thượng Phẩm qùi trước sân Hoa Điện cổ tự .

Đức Hộ Pháp dạy về việc đắp chơn dung như sau:
" Hình của Đức Phật Mẫu đắp theo hình chưng cộ bông Cửu Nương lần đầu tiên, vào tháng 8-Đinh Hợi Thầy đã chỉ cho Chí Thiện Trạch, Trần Phong Lưu và Tá Lý Kia cất giữ coi theo đó mà làm mẫu. Hồi đó mượn bức tranh của bà phối sư Hương Hiếu và sự tích đời Hán Võ Đế bên Tàu.
Đức Phật Mẫu có từ thuở khai thiên do khí âm dương tạo thành, có quyền năng vô đối, vô biên, vô lượng cũng như Đức Chí Tôn, hữu hữu, vô vô, nắm trọn bí pháp nhiệm mầu của càn khôn vũ trụ. Chớ không phải là bí pháp biến thành thể pháp do hiện tượng sự tích đời Hán Võ Đế".
Đó chỉ là mượn ý tạc hình, chớ Phật Mẫu vốn vô vi.
Thanh Loan là chim lịnh của Đức Phật Mẫu, luôn báo tin trước nơi nào có Đức Phật Mẫu giá lâm, hay chu du càn khôn thế giới.
Theo nhà điểu học Nhật Bản Hachisuka đã viết về hai thứ chim mà Trung Hoa và Nhật bản gọi là phượng (trống) và loan (chim mái) : " Vì sự tương tự nhau, người ta thường lầm hai thứ chim phượng và loan. Thật sự phượng là giống chim thanh cao, ưu thích âm nhạc tượng trưng cho điềm lành, giống chim này chỉ xuất hiện để báo hiệu Thánh nhân ra đời, nên phụng gáy kỳ sơn thì Văn Vương ra đời. Loan cũng là giống chim ngũ sắc nhưng sắc xanh nhiều hơn. Con chim phụng lông cũng ngũ sắc nhưng sắc đỏ nhiều hơn .

Đức Phạm Hộ Pháp nói về việc cầu Phật Mẫu của Hán Võ Đế như sau :
"Tiết Trung thu, rằm tháng 8 năm Ngọ, đầu giờ Tý, vua Võ Đế qùi trước chùa thành tâm cầu khẩn. Đúng 12 giờ thanh loan đáp trước sân Hoa điện. Vua thỉnh Đức Phật Mẫu ngự tại chánh điện.
Đức Phật Mẫu dạy 4 vị nữ nhạc trao 4 quả đào tiên. Đông Phương Sóc và Hán Võ Đế qùi rước lộc."
Sự tích đó lưu truyền đến bây giờ.

Việc tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thay cho Hán Võ Đế, Đức Ngài : giải thích :
"Nguyên căn của Hán Võ Đế là Hớn Chung Ly ( trong hàng bát tiên ) giáng sanh thành lập quốc gia. Kỳ hạ ngươn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành quốc Đạo, nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn"

Còn tấm tường phía ngoài đối diện với các tượng của Cửu Vị Nữ Phật, thì Đức Ngài cho tạc hình Nam Bình - Dương Phật.

"Chừng nào có đền thờ Phật Mẫu thì Thầy cho biết không gì lạ. Vì Đền Thánh tượng trưng cho Bạch Ngọc Kinh tại thế, có hình Hộ Pháp mặc Thiên phục Khôi giáp; thì nơi Đền thờ Phật Mẫu tượng trưng Lôi Aâm Tự, lẽ dĩ nhiên tạc hình của Ngài, nhưng không mặc Thiên phục, chỉ mặc áo cà sa mà thôi."

"Từ lúc tay nắm đạo quyền" Đức Cao Thượng Sanh tiếp tục xây dựng để hoàn thành kiến thiết cơ bản. Ngài hoài vọng xây Đền Thờ Phật Mẫu, nên chấp bút học hỏi, được Bà Bát Nương dạy :
"Nơi nào trong vùng Đạo không là Thánh Địa ? Sân đình núi Bà, phần đất gần Hàm phong cạnh cửa số 7 Nội ô, đều có thể chọn xây Đền mới được"

Vì theo Đức Cao Thượng Sanh, phần đất trước cửa Hòa Viện ngày nay nhơn sanh ở dày đặc, khó giải tỏa, nên Bà Bát Nương giáng dạy như trên và còn cho biết kích thước Đền thờ mới như sau :
Về kích thước bằng kích thước Đền Thánh về các Đài thì tổng hợp giữa Đền Thánh và Báo Ân Từ, nghĩa là mặt tiền Đền Thờ Phật Mẫu giống như Báo Ân Từ, có khác hơn : Đài giữa gọi là Lôi Aâm Tự cao bằng lầu chuông, trên đỉnh có 3 vòng Tam Thanh. Ngược lại hai đài hai bên thì thấp hơn 6 thước mà hình trụ cụt giống như lầu chuông bị cắt ngang (xem hình). Đài bên phải xây vườn Ngạn Uyển hình mặt nhựt, bên phải xây Ao Thất Bửu hình mặt nguyệt (bên phái nữ). Bốn góc có 4 hình trụ, đỉnh hình cầu giống như đền Hồi giáo (xem hình).

Vườn Ngạn Uyển phải trồng đủ 12 sắc hoa tượng trưng 12 con giáp. Ao Thất Bửu phải cẩn đủ 7 loại báu qúi : pha lê, xà cừ, châu, ngọc, vàng, bạc, đồi mồi .

Ở mặt sau, nơi thờ Phật Mẫu cũng xây Đài Bát Giác như Bát Quái Đài, nhưng gọi là Tạo Hóa Thiên hành khiển Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh , trên đỉnh có tượng Tam Thánh Bạch Vân Động là Thanh Sơn Đạo sĩ, Nguyệt Tâm Chơn Nhơn và Tôn Trung Sơn. Bên ngoại là hình bát giác có 8 chữ Hán : Thạch, Mộc, Thú, Nhơn, Thần, Thánh, Tiên, Phật, bên trong nội tiếp đường tròn ( hình trụ trơn) chữ vòng vô vi của Phật.

Toàn thể bên ngoài sơn toàn một màu trắng. Màu Đạo, khi các con về chầu Mẹ đều mặc đồ toàn trắng trừ mái ngói đỏ, xung quanh không được vẽ hình chi. Bên trong Đền Phật Mẫu vẫn trần khiết cách thờ như cũ. Từ Nam Bình Dương Phật đến tượng Phật Mẫu phải có đủ 8 bậc tượng trưng Bát Cảnh Cung. Đền Thánh có 9 bậc là Cửu Thiên khai hóa.

Tấm vách sau lưng Nam Bình Dương Phật , tức mặt trước thì tạc tượng "Thiên Cơ Chuyển hóa" tức lấy sự tích trong 9 bài kinh Cửu mà Hội Thánh Phước Thiện đã vẽ và đã cho xuất bản.

Tóm lại, Đền thờ mới vẫn gọi là Đền Thờ Phật Mẫu mặt tiền có 3 lầu, cao nhứt là Lôi Âm Tự, hai bên có Ao Thất Bửu và Vườn Ngạn Uyển. Tấm vách dưới Lôi Âm Tự có tạc tượng " Thiên Cơ chuyển hóa" ( chỗ mà Đền Thánh tạc tượng Tam Thánh).

Cung thờ Phật Mẫu gọi là Tạo hóa Thiên, đối diện với tượng Phật Mẫu là Nam Bình Dương Phật.

Sau đó, Đức Cao Thượng Sanh giải thích thêm.
Khi Đền Thờ Phật Mẫu cất xong, việc thờ phượng dời đến cơ sở mới thì Báo Ân Từ được sắp xếp lại cho đúng chơn truyền .

Chỗ cũ thờ Phật Mẫu đắp một quả địa cầu sơn màu xanh, trên có đắp hình nước Việt Nam theo chiều dài sơn màu vàng. Tất cả nằm trên nền trắng hình chữ nhựt. Ơû dưới có đặt ghế thờ bài vị hoặc hình ( không đối tượng), các hiền triết, các nhà bác học, các bậc vua chúa có công với nhân loại. Vì tất cả chúng sanh đều do Đức Chí Tôn phân tánh giáng sanh, tuy họ có lập trường có chủ nghĩa khác nhau. Đó chỉ là luật mâu thuẫn để tiến hóa,như có kẻ ác mới rõ người thiện, không có mâu thuẫn đấu tranh thì xã hội không tiến bộ.

Bên trên nền trắng để 4 chữ màu đỏ : "ĐẠI ĐỒNG CHI PHÁP " đó là tôn chỉ của Đạo Cao Đài : Đại Đồng Thế giới do luật pháp Thiên triều đã qui định.

Bên gian trái trên nền trắng đề 4 chữ Hán : "HẢI NGOẠI CHI THẾ" để thờ chơn linh các bậc Thánh nhân, hiền triết, anh hùng nước ngoài. Các chức sắc chi thế cũng được thờ đây khi đã qui vị.

Bên gian phải, trên nền trắng đắp 4 chữ Hán : "QUỐC NỘI CHI ĐẠO" đó là mục đích của Đức Chí Tôn lập nền quốc Đạo buổi đầu. Gian nầy thờ các nhà cách, chiến sĩ vô danh, các anh hùng hào kiệt nước Việt Nam, các chức sắc chi Đạo cũng được thờ nơi đây khi đã qui vị .

Báo Ân Từ ( có tượng Nhị Thập Tứ Hiếu) là nơi vẫn trần thiết các lễ như từ trước tới nay thuộc quan, hôn, tang, tế hoặc các ngày giỗ chung v.v…

Đức Phật Mẫu đã dạy : "Đạo chia ra ba chi : Thế, Pháp, Đạo. Mình tu cho đúng theo luật, chúng sanh ca tụng công đức là mình đắc thế. Hễ đắc thế thì phải tầm pháp. Nếu hành pháp hiển linh thì đắc đạo, nhập cõi Niết Bàn"

Về việc tiếp nhận Kinh Đức Phật Mẫu thì Đức Hộ Pháp giảng như sau :
"Kinh Phật Mẫu cho tại Kiêm Biên ( Cao Miên) với Báo Ân Đường của Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi ….Bần Đạo đến nhằm lúc cúng vía Đức Phật Mẫu. Bát Nương đến cầu cơ viết có nhiều người làm chứng. Các Đạo hữu và một người không biết Đạo là gì. Đó là ông Hiếu ngồi trước sân chơi. Họ thấy tứ phía đều có hào quang giáng hạ, xẹt xuống Báo Ân Đường. Tới chừng trọn bài kinh rồi cả thảy ( người ngoài sân) đều nói không biết cái gì xẹt khi nãy xẹ qua xẹ lại, không dè trong nhà (Báo Ân Đường ) đương phò loan."

Như vậy, Phật Mẫu chơn kinh do chính Bà Bát Nương giáng cơ cho tại Cao Miên.

Đoạn trần kiều vào ngày trẩy hội Giáp Ngọ (1954), xe cộ nối đuôi, người người chen chút tiến về Thiêng Thiên Thọ qua cầu đoạn nợ trần về Cung Trí Huệ. Cầu Đoạn Trần làm bằng gỗ, trước Hỉ động ( Trí Huệ Cung), trên cầu có cất nhà thủy tạ. Trên nóc nhà đắp 1 con hạc có hai người cỡi : Vân Trung Tử và Tôn Võ Tử. Đức Hộ Pháp dạy về việc này như sau :

    "Đắp con hạc ngó về Trí Huệ Cung trên lưng có 2 người cỡi là Vân Trung Tử và Tôn Võ Tử. Aáy là thế pháp tượng trưng rước khách phàm nhập Thánh. Mấy con lại làm con hạc quay đầu trở ra ( hướng Thiên Thọ lộ, như vậy là chở người Thánh lâm phàm)
    "Mấy con làm lỡ rồi, dầu sửa lại cũng không được. Việc này Thiêng Liêng khiến vậy. Âu cũng là phương cách tượng trưng bậc tu hành đều lâm phàm mà thắng nỗi cái phàm mới là Tiên, Thánh ; bằng chẳng được, phàm vẫn là phàm"

Vân Trung Tử là thầy học của Tôn Võ Tử. Tôn Võ Tử hay Tôn Tử, người đời Xuân Thu (Trung Hoa) đứng vào hàng Chư tử, sanh ở núi La phù, thao lược tinh thông. Tuy còn nhỏ mà đã soạn được bộ sách binh pháp gồm 13 thiên : Thủy kế, Tác chiến, Mưu công, Quân hình, Bình thế, Hư thiệt, Quân tranh, Cửu biến, Hành quân, Địa hình, Tựu địa, Hỏa công, Dụng gián. Toàn là những thuật dùng binh, làm căn bản cho những nhà tướng xưa nay trong cõi Á Đông. Ông làm Thượng Tướng quân cho Ngô Hạp Lữ, giúp Ngô đánh Sở. Khi giặc yên, ông trở về điền viên lấy chữ thanh nhàn tiêu dao ngày tháng.

Còn hạc tượng trưng đạo Tiên là 1 loài chim giống như cò nhưng không có mồng. Chim hạc tượng trưng cho sự thanh cao nhàn hạ. Có nhiều giống hạc, thứ qúi là hạc đỏ đầu. Hạc cao 3 thước, mỏ chân cổ đều dài, mình toàn sắc trắng, bay lượng rất nhanh, tiếng kêu thật lớn. Tương truyền hạc sống lâu đến 1.000 năm.

Đức Phạm Hộ Pháp giảng về hai Thầy trò họ Tôn như sau :
"Xưa kia Tôn Võ Tử tìm thầy học Đạo Tiên đã thoát tục. Ngày nọ hai thầy trò cỡi hạc vân du ngoạn mục, Vân Trung Tử nhủ rằng : Đi ngang qua chợ Thiên Vương là cảnh cũ của con, nếu lòng con còn tưởng nhớ thì con hạc bay không nổi, rồi con phải trở lại phàm không về cùng thầy được.
Nhưng Tôn Võ Tử đạt phẩm Nhơn Tiên, mà tránh không khỏi bọn phàm, nên khi con hạc bay qua chợ Thiên Vương, thấy cảnh xưa động lòng ngậm ngùi, con hạc liền đáp xuống.Vân Trung Tử biết học trò còn nhiễm phàm liền đằng vân về động. Tôn Võ Tử 1 mình ở lại chợ Thiên Vương đi tìm quê xưa , chỉ thấy chòi tranh ủ dột, người vợ xưa tuổi già quá 70, muốn tạo 1 sự nghiệp đời thì đã muộn. Đành cam nhịn lỡ Đạo lỡ đời, ấy vì chẳng chịu nghe lời thầy.
" Con hạc bay về chợ Thiên Vương ( nay là chợ Trường Lưu thuộc xã Trường Hòa) là gương sáng cho các bậc chơn tu, phải cố gắng giữ lòng thanh bạch, dầu có sống lẫn lộn nơi phàm thế mà không nhiễm mới được ? Đó cũng là phương chọn lọc phàm Thánh"

Một số Tiên Phật lâm phàm trong Kỳ Ba là :
Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh ( Nguyễn Ngọc Thơ ) ngươn linh là Từ Hàng Bồ Tát - Tầm nguyên thì Phật Từ Hàng tu đắc Đạo ở Phổ Đà Sơn , "Phổ Đà Sơn giải qủa Từ Hàng" tức Quan Aâm Bồ Tát.
Còn bà Đầu sư Lâm Hương Thanh ( Lâm Ngọc Thanh) ngươn linh của Long Nữ. Long Nữ vốn là em Đệ Tam Thái tử con vua Long Vương hóa cá dạo chơi, bị vướng phải lưới ông chài. Đức Quan Aâm sai Thiện Tài Đồng tử hóa thường nhơn đến mua cá đem ra Nam Hải thả. Nam Hải Long Vương cám ơn đức, sai con gái là Long Nữ đem tặng Đức Quan Âm một viên ngọc chiếu sáng cả ban đêm. Long Nữ cảm phục quyền năng của Đức Phật nên xin qui y và làm đệ tử Đức Quan Âm. Vì thế ta thấy ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Hương Thanh là đôi bạn đời với nhau vì tiền kiếp đã định.

Sau cùng, cũng nên biết ngươn linh của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc là Ngự Mã Thiên Quân tức người đánh xe ( ngự là đánh xe) của Ngọc Đế giáng trần làm Hộ Pháp cầm cây Kim Tiên còn cây Gián Ma Xử trấn ở Thiên môn. 

 

về trang chủ  

xem trang sau