ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

* * *

ĐẠI ĐẠO BÍ SỬ

 

Soạn Giả:
TRẦN VĂN RẠNG
Giáo sư sử học

Đại Đạo Năm Thứ 46
1971

 

Danh hiệu lập giáo của Đạo Cao Đài là : "Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhứt"

Tam giáo là : Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo
Ngũ Chi là : Minh Sư, Minh Thiện, Minh Đường, Minh Tân và Minh Lý

Minh Đường : qui hiệp về Đạo Cao Đài trước nhứt. Chi Minh Đường ở Vĩnh Nguyên tự ( Cần Giuộc) do ông Nguyễn Văn Lịch làm chủ trưởng. Do cặp cơ Cư Tắc độ ông và đắc phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Minh Thiện : ở Thủ Dầu Một, chi này thiên về quốc sự nên hấp dẫn được nhiều trí thức yêu nước. Đạo hữu rất phức tạp. Ngọc Cơ mà ông Phan Văn Tý cho ông Cư Tắc mượn buổi đầu xuất phát từ chi này.

Minh Tân : chi này đặt tại chùa Tam Giáo điện số 221 bến Vân Đồn Sài gòn. Chủ trưởng Lê Minh Khá được ơn trên giáng dạy :

      Minh Tân đạo Tam Kỳ
      Cơ quan chuyển hiệp qui
      Bền tâm tri diệu lý
      Hữu phước thọ huyền vi.

Minh Lý : tức chùa Tam Tông Miếu ở đường Cao Thắng Sài gòn. Trong buổi đầu đạo khai, ông Aâu Kiết Lâm, chủ trưởng chi Minh Lý được lịch ban kinh cho Đạo Cao Đài do các đấng giáng dạy. Trong đó có các bài : Xưng tụng Thần Thánh Tiên Phật, Sám Hối cần xét lại.
Đức Đạo Tổ chi Minh Lý giáng dạy về cơ qui nhứt như sau :

    "Theo thí nghiệm hóa học, hai chất khác loại đổ vào nhau sẽ biến đổi màu sắc, nếu đổ chất thứ ba vào thì dung dịch sẽ trông như cũ"

Minh Sư : chi này đặt tại chùa Linh Quang Tự ở Gia Định do ông Trần Đạo Quang làm chủ tự.
Ông xuất gia từ năm 13 tuổi theo đạo Minh Sư thuộc phái Phổ Tế Phật Đường. Năm 45 tuổi tới chức Thập địa, cấp bậc cao nhất trong chi Minh Sư, sửa soạn nối nghiệp vị tổ sư thứ 12 là Trần Đạo Khánh bên Trung Hoa.
Vào mồng 9 tháng 9 năm Bính Dần, hai ông Cư Tắc được lịnh ơn trên đến chùa phò loan độ ông Trần Đạo Quang hiệp nhứt. Ông bạch :
- Nếu qui qua đạo Cao Đài thì phải làm sao ?
Ơn trên đáp :
- Y theo luật lệ Minh Sư
Ông thuận hiệp nhứt và được phong Thượng Chưởng Pháp. Đồ đệ của ông rất nhiều như Trần Nguyên Chất, Huỳnh Ngọc Trác noi theo gương ông qui nguyên vào đạo Cao Đài và truyền ra Trung Việt.

Sau đêm theo Đạo Tam Kỳ, râu ông Trần Đạo Quang trước kia rẽ ra 5 chòm như râu Quan Công, một sự mầu nhiệm lạ kỳ, sáng hôm sau tự nhiên đoanh lại quấn dài xuống bụng thành một đường duy nhứt rất đẹp. Ai cũng bảo đó là biểu hiện NGŨ CHI PHỤC NHỨT.

"Nơi lòng Thầy ngự động thầy hay" là câu một của bài thơ tứ tuyệt dạy đạo buổi đầu ý nói : "Chi chi cũng có Thầy ở trong"

Thuở ban đầu , hai ông Cư Tắc đem cơ đi đến từng chùa, từng nhà để Đức Chí Tôn giáng dạy đạo. Tùy theo người hầu đàn, tùy theo trí thức hay nông dân, linh động mà dìu dẫn họ vào đường đạo lý, có khi triết lý, có khi chính trị, việc đời hay gia sự. Cơ bút đều đáp ứng rất thỏa đáng theo lời cầu xin.
Dù vậy, có những việc xảy ra bất bình thường mắt phàm không thể nào hiểu được, nên mới có lời xầm xì bàn kín với nhau nhưng Đức Chí Tôn vẫn biết vì " Nơi lòng Thầy ngự động Thầy hay"

Một hôm, ơn trên giáng phong cho ông huyện Nguyễn Ngọc Thơ chức danh Phối sư. Ông vốn làm nghề thầu khoán cho Pháp, nên các ông Trương Hữu Đức, Nguyễn Trung Hậu, Trần Duy Nghĩa xúm nhau dị nghị nói với nhau :
- Il n'était pas propre ! ( ông ấy không sạch)
Bỗng nhiên, hai tay ông Trần Duy Nghĩa run lên tiếp điểm phò cơ. Ơn trên dạy :
- Thầy muốn tận độ chúng sanh, cho nên có khi Thầy cũng phải làm ông thầy phàm. Nếu các con biết lẽ Đạo thì từ nay Thầy cấm dị nghị.

Dù vậy, tiếng đời vẫn kích bác cho rằng kẻ giàu sang được phẩm tước cao trọng. Thế nên, ông Cao Quỳnh Cư bạch thầy và được ơn trên dạy :
- Tiền bạc của chúng nó là của chúng sanh. Thầy lấy tiền đó để phổ độ chúng sanh thì có sao đâu ?

***

Vào năm 1927, qúi ông Tắc, Hậu, Đức hợp nhau tại nhà ông Trần Duy Nghĩa ở đường Hamelin Sài gòn. Ông Hậu thấy trên bàn có tượng bà Jeanne d'Arc. Ông Nguyễn Trung Hậu táy máy tay sờ mó. Ông vừa đụng vào tượng liền bị giựt nẩy mình. Ông Phạm Công Tắc phò cơ, bà Jeanne d' Are giáng đàn :
- La Religion résume en un seul mot : HUMANITÉ. Si vous voulez arriver au but poursuivi que ne faites - vous pour l' Humanité ?" (Tôn giáo tóm gọn trong một tiếng : Nhân loại. Nếu các anh muốn đi đến mục đích mà các anh đang theo dõi, sao các anh không có ý tưởng nhân loại )

Chính sự hiện diện thường xuyên của các Đấng bên cạnh Thập Nhị Thời Quân mà các ông không dám xem thường sứ mạng hoằng giáo phổ độ chúng sanh.

Nhân xuống thăm mộ Cửu nương Cao Thoại Khiết, các thiên sứ không hẹn mà đã gặp ở từ đường họ Cao liên ngâm, toát lên khẩu khí của bậc lãnh đạo, tiêu đoán được thiên chức mai sau của mỗi vị một, ông Ngọc Lịch Nguyệt xướng đầu tiên :

      1- Ông Ngọc Lịch Nguyệt
      Nâng chén trà thơm mời Đạo Muội
      Đề câu không sắc gởi tri âm
      Sắc không hai lẽ huyền thâm
      Chí tâm mới biết được tâm ta người

      2- Ông Ngô Minh Chiêu
      Ta thấu rõ máy trời cơ tạo
      Trời cùng Ta một Đạo chí linh
      Vô vi sẵn có hữu hình
      Hữu hình trong lại vô hình vô danh
      Danh có đó mà danh không thiệt
      Nhờ không danh mới biết đặng danh
      Cổ kim mấy bực chí thành
      Không danh mà lại để danh muôn đời

      3- Ông Thượng Trung Nhựt
      Cùng chung một bầu trời lồng lộng
      Không thiên gì cuộc sống cho ai
      Chí tâm sẵn có đủ đầy
      Muốn thành Tiên, Phật đạo đày phải cam

      4- Đức Phạm Hộ Pháp :
      Cơ phục thủy biết làm sao tả ?
      Mảnh thân này chi xá gian lao
      Quyết tâm xây đắp ĐÀI CAO
      Muôn dân chung hưởng nước giàu, nhà yên

      5- Đức Cao Thượng Phẩm
      Đạo vốn tật căn nguyên diện hữu
      Phật Tiên xưa nay thành tựu nhờ đây
      Chỉ so một cái tâm này
      Không thiện, không lệch, không sai không lầm
      Cùng tắn biến cao thâm máy tạo
      Biến tắc thông là Đạo trưởng thành
      Hỡi người sứ mạng lương sanh
      Giảm suy diệu lý tạo thành tương lai

      6- Ông Cao Triều Phát
      Mang một kiếm râu mày nam tử
      Nợ vi nhơn phải xử cho tròn
      Sá gì chức nghiệp cỏn con
      Sao không xây dựng nước non thanh bình ( ?)

Đọc xong sáu bài thi của sáu cao đồ toát lên chí tiến thủ của 6 vị. Ông Ngọc Lịch Nguyệt sẽ trở về với Đạo Phật ở Vĩnh Nguyên Tự. Ông Ngô Minh Chiêu tu theo lối vô vi. Ông Thượng Trung Nhựt muốn thành Tiên (Giáo tông) sẽ bị nhân sanh khảo đảo. Đức Hộ Pháp hoàn thành xây dựng Toà Thánh (đài cao). Đức Cao Thượng Phẩm xả thân vì Đạo trước tiên. Ông Cao Triều Phát lập Cao Đài cứu quốc (1945) giúp đất nước hòa bình.

Cao Triều Phát (1889 - 1956) người Bạc Liêu. Thân sinh là Đốc phủ sứ Cao Minh Thạnh, thân mẫu là bà Tào Thị Súc, gia đình có 6 trai và hai gái. Người em gái thứ chín của ông là Cao Thoại Khiết tức Cửu Nương Diêu Trì Cung ( xem Công Đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật).
Ông Phát theo Đạo qua đàn Minh Thiện (Thủ Dầu Một) của bác sĩ Trương Kế An tức Bảo Y quân Toà Thánh Tây Ninh.


Năm 1941 ông là chủ tịch Cao Đài Mười Hai Phái thống nhất ở Hậu Giang. Năm 1945, ông được bầu làm chủ tịch Cao Đài Mười Một phái hiệp nhất (không có Toà Thánh TN) tại chùa Minh Tân. Ông lập Thanh Niên Đạo Đức Đoàn tại đây. Năm 1947 ông được bầu làm Hội Trưởng Cao Đài Cứu quốc Mười một phái hiệp nhứt. Sau hiệp định Genève ( 1954), gia đình ông tập kết ra Bắc. Tháng 1 năm 1955, ông đảm nhiệm vai trò anh cả toàn Đạo miền Bắc, thành lập Cao Đài Cứu Quốc Mười Hai phái hiệp nhất.

 

 
về trang chủ  

xem trang sau