ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

* * *

ĐẠI ĐẠO BÍ SỬ

 

Soạn Giả:
TRẦN VĂN RẠNG
Giáo sư sử học

Đại Đạo Năm Thứ 46
1971

 

Vào đêm rằm tháng 5 năm Aát Sửu ( 1925) ở Phú Quốc. Đức Quan Thánh và Lý Bạch giáng cơ tiên tri về thời cuộc từ 1925 về sau :

"QUAN mà hiểu rộng LÝ cao quyền
THÁNH Phật phân rành THÁI độ duyên
ĐẾ Sắc nêu cao nguồn BẠCH tự
GIÁNG lâm đàn nội, GIÁNG qui nguyên.

"Lão vâng lịnh Tam Giáo tòa lâm đàn để đôi lời tiên tri, lẽ tuần hoàn chuyển đổi ….
"Chúng sanh khá nhơ : "Cao vi càn, càn vi Thiên. Đài vi khảm, khảm vi Thủy tức là quẻ Thiên Thủy tụng, thì chạy đâu cho khỏi số Trời định binh lửa bốn phương. Những kẻ không tu đành cam số phận …."

"Năm Ất Sửu ( 1925) để lới Lão phán
Qua Bính Dần (1926) đặng rạng cơ mầu
Lập thành nguồn Đạo Á châu
Đắp xây nền móng sùng Âu đời đời
Nên thấy rõ đạo Trời chánh giáo
Cảnh Tây Ninh đào tạo Thánh Toà
Lập thành cơ đạo chia ba
Tiền, trung với hậu cũng là đồng môn
Nắm cơ quan bảo tồn sanh chúng
Dựng lên rồi chia đúng mười hai
Trên đường thiên lý dặm dài
Lập thành Đại Đạo Cao Đài độ dân
Năm Mậu Dần sắp gần binh cách
Aáy là điều tai ách nhơn sanh
Bốn năm dân chủ tung hoành
Tây Ninh thừa thế lập thành cơ binh
Để bảo hộ chúng sanh bổn đạo
Dân xã lo đào tạo quan quân
Quốc gia nổi dậy tưng bừng
Tân Dân thành lập lẫy lừng quốc dân
Nền độc lập lần lần ra mặt
Vĩnh Thụy lầm tưởng thật thi hành
Đến ngày hội cả nhơn sanh
Kỳ ba súng nổ lập thành quốc gia
Để phát động sơn hà thống nhứt
Hiệp tham giang nổ lực tấn công
Bảo sanh nhơn nghĩa đại đồng
Hòa bình thế giới ở trong đạo Trời
Chớ lầm tưởng quyền đời sức mạnh
Dễ lướt qua luật chánh thiêng liêng
Hậu sau ra đứng trước Tiền
Do Toà Tam Giáo lịnh truyền thưởng răn
Đức Di Lạc cầm cân cứu thế
Hội Long Hoa tên để phong thần
Thượng ngươn đời lập Tân Dân
Dựng nền dân quốc, xa lần chủ quân
Quê hương hiện cảnh xuân thơ mới
Đạo Nhà Nam vạn đại lưu truyền
Gia vô bế hộ êm đềm
Phật, Tiên, Thần, Thánh, giáng miền trần gian
Đạo gom trọn nhơn gian vũ trụ
Gieo giống lành làm chủ năm châu
Từ Tây khắp cả hoàn cầu
Âu ca lạc nghiệp dưới bầu trời chung

" Bài tứ tuyệt trên hiện rõ sự mầu nhiệm của cơ bút. Nếu đọc khoán thủ ta thấy : Quan Thánh đế Quân giáng và khoán tâm ta lại thấy : Lý Thái Bạch giáng và sau 2 chữ Thánh Đế ta thấy 2 chữ Phật Sắc tức Phật bà Quan Âm. Bài này tiên tri Tam trấn thay mặt Tam giáo dạy đạo kỳ ba.

" Bài song thất lục bát tiên tri, đạo Cao Đài lập trước nhứt ở Tiền Giang rồi Hậu giang và sẽ phân chia 12 chi phái.

Đạo lập quân đội và Hòa Hảo lập Dân xã Đảng. Sau đó, Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm lừa gạt truất phế. Trãi qua ba cuộc đảo chánh mới lật đổ được Ngô Triều. Đến cuối thế kỷ này : "phản tiền vi hậu" Đức Di Lạc Vương Phật ra đời lập Hội Long Hoa để tuyển ngôi vị Phật, dựng đời Thượng Ngươn Thánh Đức Đức Di Lạc là bậc Minh Vương hiền triết thông kim đạt cổ tạo cảnh thái bình " gia vô bế hệ" Lúc đó, đạo nắm trọn huyền vi vũ trụ và …"Đất, dậy, trời thay xác, Chư Phật, Tiên, Thánh xuống ở trần" .Nhân loại lạc nghiệp âu ca, chung bầu trời : "Đại Đồng Thế giới"

Đây là bài thi độc nhứt vô nhị do Tam Trấn giáng chung. Đức Lý Thái Bạch và Quan Thánh chủ động ban ý tưởng còn Phật Quan Âm chứng đàn.

Do chủ trương qua hai liễn trước cửa các Thánh Thất nên Đạo Cao Đài lúc nào cũng bị nhà cầm quyền theo dõi.

Dưới thời Pháp thuộc, toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier (1928 - 1934) ra lịnh tiêu diệt đạo mạnh mẽ nhất. Y thi hành một chánh sách cứng rắn và tàn bạo đối với dân chúng thuộc địa. Kiểm soát chặt chẽ giới thợ thuyền, đàn áp các Đảng phái, Đạo Cao Đài cũng chịu chung số phận với đồng bào.

Đầu năm 1934 nhân vía Đức Chí Tôn, viên toàn quyền gởi tặng Toà Thánh cặp đèn cầy thật lớn bảo phải đốt ngay trong giờ cúng đàn. Vì hắn biết lễ vía có chư tín đồ và chức sắc khắp nơi tề tựu về Toà Thánh dâng lễ Đức Chí Tôn. Bên ngoài là thi ấn bố đức tặng đèn, bên trong thật sự đôi đèn là hai trái bom nổ chậm.

Đức Quyền Giáo Tông biết âm mưu của P. Pasquier định giết Ngài trước mắt chúng sanh. Ngài nhớ Đức Chí Tôn dạy : " Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi thầy" nên Ngài quì trước chứng đàn cạnh đôi đèn cầy ( 2 quả bom) mà không sợ sệt âm mưu của P.Pasquier.

Linh hiển thay, hai quả bom được đốt lên, cháy xì khói lan tỏa khắp đàn, chư tín hữu lo sợ nhưng Ngài vẫn qùi và láy mắt ra lịnh việc hành lễ vẫn tiếp tục như không có điều gì xảy ra.

Việc ám sát Đức Quyền Giáo Tông không thành, P.Pasquier ra lịnh cho bọn mật thám Pháp tìm đủ phương cách chụp hình các buổi nhóm họp, các đàn lệ, dịch các tên như Thượng hội ra Thượng Nghị Viện ; Hội Nhơn Sanh ra Hạ Nghị Viện v.v..để chính hắn mang về Pháp quốc báo cáo. Trên chiếc phi cơ về Pháp có cả gia đình hắn. Sấm Trạng Trình đã báo trước : "Lửa đâu mà cháy tám gà trên mây" . Chưa ai rõ nghĩa lý gì, thì báo chí đã loan tin : Phi cơ toàn quyền P.Pasquier ngộ nạn, vợ con hắn đều chết, riêng hắn rơi vào ống khói nhà máy cơ khí Messageries Mcùtallurgiques de France.

Ít lâu sau, P.Pasquier giáng đàn cho biết :

"Oh, Salue Haute Aâme
Vương bá bửu ngôi thị ngục hình
Thiên lao như thủ tắc công khanh
Đồ lưu Pháp phối cầm chơn mạng
Y phục dạy cân thị tử thành
"Ôi nha lại ! cũng vì vui mà làm cho ta bị bịt mắt trái tai - Pierre Pasquier"

Xem thế, quả báo nhãn tiền, lưới trời chẳng lọt mảng lông.
Nhờ đó, đồng đạo mới rõ câu : "Lửa đâu mà cháy tám gà trên mây".
Lửa ở đâu ? thật khó trả lời.
Tám gà do chữ Pasquier phiên âm là bát kê nói đấu lập lờ theo kiểu sấm truyền của Trạng Trình.

Ngày khai Đạo Cao Đài nhằm đêm 14 rạng 15 tháng 10 năm Bính Dần ( 18 và 19-11-1926) làm lễ tại Thánh Thất Từ Lâm. Đó là Thánh Thất đầu tiên,sau các nơi trong buổi ban sơ mượn tạm như Vĩnh Nguyên Tự, Thánh Thất Cầu Kho v.v…

Chùa này vốn của Hòa thượng Như Nhãn ở chùa Giác Hải ( Chợ Gạo), nên còn gọi là Hòa thượng Giác Hải, quyên tiền trong bổn Đạo thành lập. Vào tháng 7 năm Bính Dần ( 8-1926) ông tình nguyện dâng chùa.

Lúc bây giờ chùa tuy cất xong, nhưng Đông lang Tây lang chưa có, tráng xi măng chưa rồi, sơn phết chưa lo. Chung quang chùa còn nhiều cây bụi sầm uất. Ông Nguyễn Ngọc Thơ và bà Lâm Hương Thanh được lịnh chi tiền lo tất cả mọi việc cho hoàn tất để kịp kỳ khai Đạo .

Đêm hôm đó,vì quá đông người nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Đức Chí Tôn chỉ để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp tà thần nhập vào ông Lê Thế Vĩnh và Vương Thanh Chi con gái của ông Vương Quan Kỳ mà mạo xưng là Tề Thiên Đại Thánh và Quan Âm Bồ Tát . Lúc đầu trong bổn Đạo tưởng thật nhưng sau cử chỉ hung hăng. Người người đều biết là tà quái xuất hiện.

Thấy việc lộng hành như vậy, ông Monet đại uý người Pháp khuyên : "Tôi có lời khuyên các ông, là từ đây trở đi, hễ có cầu cơ thì chớ họp nhau đông đảo vì cần phải thanh tịnh. Mà hễ đông người thì 1 là mất bề thanh tịnh, 2 là tư tưởng bất đồng, không tương ứng nhau được thì không linh nghiệm"

Ba hôm sau, Thầy giáng cơ dạy về việc này như sau :

"Các con, Thầy nghĩa lại việc hôm nọ tại Thánh Thất biến ra 1 trường tà quái mà Thầy bắt đau lòng đó các con. Các con nghĩ lẽ nào ? Đó là bước Đạo. Đó là thiện cơ. Các con hiểu sao được. Nhưng Thầy buồn nỗi vì có đứa xàm biện về việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng nó 1 cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà thương. Môn đệ của Thầy nhiều đứa muốn bỏ Đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà hồi thế tục. Bởi bước Đạo gập ghình khó tới mới ra đến nỗi"

Thật là Thiên cơ, nếu không xảy ra việc tà thần, hôm đó mật thám Pháp đã chực sẵn, có điều gì quốc sự là bắt ngay. Trong cái rũi có cái may là như vậy. Vả lại việc biến loạn đó, khiến cho kẻ nhẹ dạ, ít tâm thành ngã lòng. Còn hàng chức sắc thì cho ở đó là cơn khảo của tà thần để trau dồi thêm lòng tin tưởng . và cũng là 1 tiếng vang để cho khách bàng quan chú ý theo dõi coi tà giáo hay chánh giáo. Vô hình trung, cơ phổ độ chuyển được thế cờ, xoay hư thành nên. Chỉ ba tháng sau khi mở Đạo tại Từ Lâm Tự mà số người nhập môn lên hàng ức, đủ thành phần, đủ chánh kiến và quốc tịch : Pháp, Cao miên, Hoa kiều …

Đức Phạm Hộ Pháp được lịnh Đức Chí Tôn đi Thủ Đức ( 1928). Đến nơi bà Bát Nương chỉ dẫn đi lấy Long Tuyền Kiếm ở Mỹ Tho.

Nhưng Đức Cao Thượng Phẩm bịnh nặng Đức Ngài phải trở về Toà Thánh. Sau khi an táng Đức Cao Thượng Phẩm xong, ( Đức Cao Thượng Phẩm qui ngày 1-3-Kỷ Tỵ) Đức Ngài mới đi Phú Mỹ - Mỹ Tho.

Ngày 27-2-Kỷ Tỵ ( 1929) Đức Ngài đến Khổ hiền trang, chấp bút thì được chỉ dẫn nơi yếm Long tuyền kiếm về phía Tây Nam. Nơi điểm chỉ là một khoản đồng ruộng, có dạng hình núi nức mé bên kia sông, phải đi ghe chừng 5 cây số mới đến. Cánh đồng nước phèn, mọc toàn năng, phía xa xa là rừng đưng và bàng. Đất màu đen chưa trồng lúa được, nên dân cư sống bằng nghề làm đồ gốm, làm lu, hủ, chén v.v..Đức Ngài và các tín hữu Minh Thiện đàn dừng lại trên 1 khoản đất vàng, gò cao và rộng độ chừng dưới 700 thước vuông.

Đức Ngài lại chấp bút, Lỗ Ban giáng và chỉ đào ngang chót núi, sâu xuống chừng 3 tấc tây thì đụng đá. Lỗ Ban cho biết, đó là tháp của 1 trạng Tàu táng thuở cai trị xứ ta. Trạng Tàu biết chỗ này là núi vàng, sợ sau này núi nổi lên thành hình thì nước Việt Nam có trạng và nhân tài sẽ phục nghiệp, nên học quyết chiếm cứ và yếm long tuyền kiếm, công dụng của kiếm là vớt đứt hết nhân tài.

Khi thế chiến thứ nhứt chấm dứt ( 1919) chính phủ Tàu sai 1 người Triều Châu giỏi về bói yếm sang Việt Nam yếm 1 lần nữa ngay nơi cũ. Dân cư quanh vùng , nhất là các vị bô lão thời đó đều kể như vậy.

Lỗ Ban lại cho biết, tại đây có vị thần vàng lãnh mạng nơi Thượng Đế giữ gìn vật báu không cho ai lấy, chỉ dàng riêng cho Trạng Trời đến lấy mà thôi.

Việc đào lên cũng thật vất vã, Đồng thì rộng mà mỗi người chỉ có 1 lưỡi cuốc dàn hàng ngang mà đào. Tưởng chừng như khó tìm thấy. Bỗng nhiên trực giác giúp suy luận thành công, thông thường thì mồ mả ở vùng này đều có nấm ở trên nhưng đặc biệt có một cái mả không có nấm. Vì thế mà Đức Ngài cho đào cái mả đó lên thì được một ống ghẻ trên có một lưỡi dao cứng cắm thẳng xuống trong đó có một con cò sừng màu trắng và 6 đồng tiền kẽm đời Minh Mạng. Đào xuống sâu nữa gặp một hộp bao chỉ dài 9 tấc, Đức Ngài cho biết trong đó có Long tuyền kiếm, nhưng cấm không cho ai xem và gói kín lại.

Đức Ngài dạy đào 1 con kinh từ Trảng Sập băng ngang chót lưỡi Long tuyền kiếm cho bứt. Đó là phép phản yếm để trừ tuyệt sát nhân tài.

Đức Ngài lại nói : "Ngày kỷ niệm nước Việt Nam hưởng được Đạo trời khai sẽ gở nạn ách cho nhân loại. Dân tộc xuất hiện nhiều nhân tài, phá tan xiềng xích lệ thuộc. Dân tộc Việt Nam sẽ không còn bị lệ thuộc nữa" .

Đêm hôm đó, tại Khổ Hiền Trang, Đức Phật Mẫu giáng dạy lập thảo đường .

      THI
      Thảo đường phước địa ngộ tùng hoa
      Lục tại dư niên vũ trụ hòa
      Cộng hưởng trần gian an lạc nghiệp
      Thế đăng đồng Đạo thịnh âu ca

Năm 1941, Pháp khủng bố các tín đồ tại Toà Thánh. Chúng bắt Đức Hộ Pháp và 5 vị chức sắc đày sang Mã đảo ( madagascar) thuộc Phi châu dưới chiếc tàu Complège vào ngày 27-7-1941.

Đức Hộ Pháp cùng 5 vị chức sắc, khi tới mã đảo bị quản thúc trong trại giam, đến ngày 24-11-1944 mới được thả ra ngoài làm lụng. Khi quân đội Đồng Minh thắng phế trục tướng De Gaulle giải phóng nước Pháp, Đức Ngài mới được đưa về Việt Nam ngày 21-12-1946 .

Những ngày bị lưu đày nơi viễn xứ, Đức Ngài đã được Đức Chí Tôn che chở, an ủi. Một hôm Ngài và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển phò loan được Đức Tiêu Diêu Đạo sĩ giáng cho bài thi :

      Lược chiến từng quen đã bấy lâu
      Thiên cơ đã rõ máy cao sâu
      Dằn lòng nhẫn nại chờ đôi lúc
      Sẽ thấy khuôn linh phép nhiệm mầu

      Chào Thiên Tôn và chư vị Thiên Phong, có Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng đến, để bần tăng triệu Thần Hoàng Bổn Cảnh tới gìn giữ cơ .
      Nhàn Aâm Đạo sĩ cười ….bần tăng lấy làm cảm xúc cho chư vị dường này. Hận thay cho giống dã man tàn bạo …..Trung quân là Nam Tinh đó vậy. Nơi ấy là hang ổ của Việt kiều Thời cuộc Á Đông sẽ kết cuộc nơi đó.

      THI
      Quá hãi đôi phen đến viếng nhau
      Ngặt không có bút để lời giao
      Aân nhân đợi thuở triều linh địa
      Chuyển thế gặp thời phải múa đao
      Cõi Á đã thành chủng quốc
      Phương Aâu sẽ diệt tận nô lao
      Lửa hương đất Việt đầu nhen nhúm
      Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu

Ít lâu sau cầu cơ, một vị ( phái nữ) giáng không xưng tên mà cho bài thi sau :

      THI
      Nô-si-lao 1 tiếng đặt buồn cười
      Mi đã rước ai hỡi hỡi người
      Lượn thảm bủa ghềnh tình ột ạt
      Gió sâu xô đảnh núi tơi bời
      Yêu phu điểu gọi thương cành sớm
      Vọng nhạn quyên khêu nhớ buổi mơi
      Tổ quốc đón đường bao dặm thẳng
      Xa đưa thăm thẳm một phương trời

Về sau Vô Danh Thị lại giáng cơ và nhủ : Chào Thiên Tôn và chư vị Đại Thiên Phong. Thiếp vì có mang lịnh đến đây làm bạn bút nghiêng trong lúc chư vị mang lịnh Chí Tôn cho ngơi nghỉ nơi đây, Chí Tôn than rằng : Chức sắc Thiên Phong bên Cửu Trùng Đài thiếu hùng biện văn, tài đặng làm tay quy phục sanh chúng. Vì cớ ấy mà triết Lý đạo khó phổ thông cho toàn thiên hạ

      THI
      Đã phong trần chịu phong trần
      Có thân âu phải biết thương thân
      Nam xa ví chẳng vì đường khó
      Việt đảng mong chi đượm lửa mừng
      Nặng gánh giang sơn là Thương trụ
      Nhẹ đay cung kiếm ấy Thường-quân
      Ngũ hổ tứ hải không lưu lạc.

Năm 1944, các tù nhân được tự do ra ngoài, Đức Hộ Pháp với Khai Pháp Trần Duy Nghĩa cầu cơ, Đức Lý giáng phong cho ông Nguyễn Thế Truyền phẩm Bảo Địa Lý Quân, Nguyễn Thế Sang phẩm Bảo Thượng Quân và Ngô Văn Phiến phẩm Bảo Tinh Quân.
Mặt địa cầu ta vốn định chừng
Sau khi giải thích cho Nam xa và Việt đảnh thế nào, Vô Danh Thị lại cho thi .

      THI
      Hòn đảo này đây trước nhốt tù
      Mà nay làm khám khao thầy tu
      Quá như oan nghiệt vay rồi trả
      Thi lũ Tây man, Nhựt bổn trừ

Vô Danh Thị là ai ? Đó là bà Linh Sơn Thánh Mẫu vâng lịnh Thất Nương Diêu Trì Cung đến viếng các Thánh bị nạn. Dù giấu tên nhưng Đức Hộ Pháp biết được, vì chiếc nhẫn nạm ngọc trên tay ngài phát hào quang khi bà thăng, hạt ngọc này của ông Lễ Sanh Võ Văn Đợi tìm được ở Núi Bà tặng cho Ngài. Nên biết ông Đợi là đệ tử Đức Hộ Pháp học tu tịnh đã chứng ngộ và biết trước được nhiều việc nên Ngài đổi tên Đợi ra Võ Linh Đoán cho trụ trì ở Vạn Pháp Cung để rước các thầy tu nửa lỡ vận.

Bị chiến tranh, Núi Điện điêu tàn, một ít chức sắc xin Đức Hộ Pháp cho rước cốt Bà Đen về Đền Thờ Phật Mẫu, Đức Ngài phê : "Bần Đạo vì thạnh tình lúc bị lưu đày, bà thường đến viếng thăm mà thuận cho".

 
về trang chủ  

xem trang sau