ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ

* * *

ĐẠI ĐẠO BÍ SỬ

 

Soạn Giả:
TRẦN VĂN RẠNG
Giáo sư sử học

Đại Đạo Năm Thứ 46
1971

 

Vào năm 1926, nhóm đạo hữu cầu cơ học hỏi, bà Bát Nương giáng đàn cho bài thi song thất lục bát tiên tri về sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm như sau :

      Non sông đất Việt ở đâu chứ ?
      Kẻ ngu hiền cứ ngỡ đường đi
      Dòng sông Bến Hải chia ly
      Có chi mà khó ? có chi mà sờn ?

      Tay thợ đắp lấp hờn là đạo
      Đạo Cao Đài phổ giáo tình thương
      Lướt qua bể khổ chiến trường
      Gãy cung từ ái, cờ trương hiệp hòa

      Sang cuộc chiến thu qua khó định
      Từ Thượng Lào đến Vịnh Cam Ranh
      Đìu hiu Ngô phải trọi cành
      Mới đây sao lại tan tành hỡi ai !

      Toàn dân đứng chờ bày phương hướng
      Hỏi " chừ, mô" là tướng nhà Nam
      Không Nga, không Mỹ không phàm
      Ai người chí chánh, cờ tam cứu đời?

Khi được bài thi, các đạo hữu không biết bà Bát Nương dạy điều gì. Mãi đến ngày 1-11-1963 tướng Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu mới rõ cơ mầu nhiệm.

Vế thứ nhứt và hai tiên tri về nước Việt Nam bị phân chia ở sông Bến Hải. Có lắm kẻ theo Ngô Đình Diệm mà đi tưởng là đúng đường. Đạo Cao Đài cho đó là mối hờn dân tộc cần lấp sông bằng cách trương cờ Nhan Uyên mà kêu gọi hai chính quyền Nam Bắc hiệp thương chung sống hòa bình.

Vế 3 : Các cuộc chiến bình định khó thành công. Từ Thượng Lào đến Vịnh Cam Ranh vây cánh Ngô Đình Diệm sẽ trọi cành.

Vế bốn : Dưới sự độc tài gia đình trị của Ngô Triều, dân chúng chờ tướng nhà Nam đứng lên làm cách mạng mà hưởng ứng chớ không phải người ngoại quốc nào khác.

Khi làm " Lễ đầy tháng" cho trẻ sơ sinh, cha mẹ vái : "Vái mười hai đức Thầy, mười ba mụ bà phò hộ cho con tôi mạnh giỏi, chóng lớn".

I. Mười hai đức Thầy là ai ?
Đó là Thập nhị thời thần ở thượng giới và Thập nhị thời quân ở hạ giới ( xem mục : Thập nhị Thời quân) Thập nhị thời quân biểu tượng 12 con giáp : Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tức, Hợi. Người ở trần gian không ngoài 12 tuổi đó.

Sau khi các Đấng ban kinh Tận Độ (1935), Đức Hộ Pháp lịnh cho Thập nhị thời quân làm thuyền Bát Nhã và các phụ tế. Ông khai pháp Trần Duy Nghĩa đốc suất làm thuyền và viết tuồng chèo thuyền. Ông đã giải thích :

    - Tổng lái là chơn linh Hắc Sát Tinh tượng trưng Bát Quái Đài
    - Tổng mũi là chơn linh Bạch Hổ Tinh tượng trưng Hiệp Thiên Đài
    - Tổng Thương là chơn linh Huỳnh Long Tinh tượng trưng Cửu Trùng Đài
    - Tổng khâu tượng trưng cho nhơn sanh
    - 12 bá trao tượng trưng 12 con giáp

Ông Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu thì để câu đối trước thuyền :

Vạn sự viết vô nhục thể thổ sanh buồn tại thổ
Thiên nhiên tự hữu linh hồn thiên phản hồi thiên

Ông Bảo Thế Lê Thiện Phước thì lập siêu linh kỳ thay thế đơn giản, Siêu linh kỳ hình chữ nhựt đứng màu đen, viền trắng, bên trong có 12 nhiểu trắng tượng trưng 12 con giáp đã qui vị.

Như vậy, "Mười hai đức Thầy" lo việc siêu sinh cho nhơn sanh, không để một ai chết oan.

II. Mười ba Mụ Bà là ai ? Nơi đền thờ Phật Mẫu có tạc hình 9 cô nương và 4 nữ nhạc, công chung là 13 mụ bà. Các cô lúc giáng trần dạy đạo chỉ là Tiên nương, nhạc công, nhưng nhờ công phổ độ đều đắc vị Phật với tên hiệu dưới đây :

Về Cửu Nương thì mỗi vị đều có ba nhiệm vụ sau :

    - Nơi trụ trì hành pháp
    - Nhiệm vụ Hội Kim Bàn giao
    - Vùng phổ độ ở trần gian

1. Nhứt nương Hoàng Thiều Hoa : giữ vườn Ngạn Uyển chăm lo sức khỏe vạn linh, nhiệm vụ phổ độ miền Bắc VN.

2. Nhị nương Cẩm Tú : coi vườn đào, giữ gìn sự sống của loài người ( bảo sanh), giáo đạo ở Cam Bốt

3. Tam nương Kim Tuyến : ở tầng Thanh Thiên, siêu độ khách trần, phổ độ miền Trung VN.

4. Tứ nương Lê Thị Gấm : ở tầng Huynh Thiên, dạy chân, thiện, mỹ cho loài người, phổ độ ở đồng bằng miền Bắc VN.

5. Ngũ nương Liễu Hạnh : ở tầng Xích Thiên, siêu độ khách trần đắc đạo cho địa vị ngày càng cao thăng.

6. Lục nương Hồ Thị Huệ : ở tầng Kim Thiên, bảo quản sanh mạng cho chúng sinh, phổ độ Pháp quốc. Đó là bà Jeanne d' Arc .

7. Thất nương Vương Thị Lễ : ở tầng Hạo Nhiên Thiên độ dẫn người theo đạo kỳ ba, phổ độ dân Sài gòn, Chợ Lớn.

8. Bát nương Hớn Liên Bạch : ở tầng Phi Tưởng Thiên, triết lý gia của nền Đại Đạo, giáo Đạo ở Trung Hoa.

9. Cửu nương Cao Thoại Khiết : ở tầng Tạo Hóa Thiên với Đức Phật Mẫu, dạy về khoa học, mỹ thuật, phổ độ ở miền Tây VN.

Thêm 4 vị nữ nhạc mới thành Phật nữa là 13 mụ bà

10. Đổng Song Thành thành Quản Sanh Phật : vị Phật bảo vệ kiếp sanh của trẻ con

11. Vương Tử Phá thành Dưỡng Dục Phật : Vị Phật dưỡng nuôi và dạy dỗ trẻ em.

12. Hứa Phi Yến thành Chưởng Hậu Phật : Vị Phật lo về việc mai sau của đứa true.

13. An Phát Trinh thành Thủ Luân Phật : Vị Phật lo về sự biến đổi chuyển xây của đứa trẻ vươn mình lớn lên.

Đó là 13 mụ bà giúp đỡ trẻ em từ lúc lọt lòng cho đến chết rồi tái sanh. Tôn thờ 13 vị là hợp lý .

Theo sách "Đài Bắc thị tuế thời ký" thì 13 mụ bà là :

    1. Trần Nhứt Nương có nhiệm vụ chú sanh
    2. Vạn Tứ Nương có nhiệm vụ chú thai
    3. Nguyễn Tam Nương có nhiệm vụ Giám sanh
    4. Tăng Ngũ Nương có nhiệm vụ ẵm trao
    5. Lâm Cửu Nương có nhiệm vụ thủ thai
    6. Lý Đại Nương có nhiệm vụchuyển sanh
    7. Hứa Đại Nương có nhiệm vụ hộ sanh
    8. Lưu Thất Nương có nhiệm vụ định nam nữ
    9. Mã Nương có nhiệm vụ tống tử
    10. Lâm Nhất Nương có nhiệm vụ an thai
    11. Cao Bát Nương có nhiệm vụ dưỡng sanh
    12. Trúc Nhị Nương có nhiệm vụ bồng con
    13. Đỗ Ngọc Nương có nhiệm vụ đỡ đẻ

Tập tục và cấm trong Cao Đài giáo có nhiều điều khá đặc biệt có một ít tập tục không theo lối cổ truyền mà theo khoa học tiến bộ.

Về người hành đạo không những chọn trong hàng không chồng vợ, mà chọn cả những người lẫn lộn trong thế sự có tiền căn. Nhưng 1 khi đã hành đạo thì phải ly gia cắt ái. Còn nhiều tập tục khác, chỉ những người theo đạo mới biết được.

Trong 1 đàn cơ vắng mặt bà Giáo sư Hương Hồ, nên bà Bát Nương gọi, bà Hương Hồ trả lời : " Vì có kinh nguyệt nên không hầu đàn được". Do đó bà Bát Nương giáng cho bài :

      THI
      Thân phận phàm nhơn trược đã đành
      Chẳng vì nguyệt huyết kỵ anh linh
      Âm dương nam nữ hoa trêu bướm
      Hòa ái tương sanh thủy nhập bình
      Tạo hóa ví tay xây đảnh trí
      Chúng sanh nên mặt tạo khuôn hình
      Thợ trời đâu dễ chê đồ đạo
      Tốt xấu sạch dơ tại miệng mình

Đây là một quan niệm hết sức tiến bộ trong đạo Cao Đài. Nhưng sinh lý tự nhiên của con người được chấp nhận. Nhưng do con người tạo ra những nhơ nhớp để trục lợi thì không được thuận cho vào Đạo, như trường hợp bà Bộn dưới đây :

      THI
      Bộn bàng kẻ tới với người lui
      Lui khỏi vòng ngoài tính cuộc vui
      Vui Đạo không vui, vui tục sự
      Sự hay sự dở chửa phân mùi

Bà Bộn đến cầu Đạo, Đức Chí Tôn cho bài thi trên, nhưng không có chữ " thâu" tức là không nhận vào hàng môn đệ. Vì bà ấy là chủ tào kê. Trong cuộc hầu đàn chỉ có Giáo sư Đạt biết bà ta mà thôi. Cho nên khi cơ viết ra câu đầu ông Đạt bụm miệng sùng sụt muốn cười, nhưng sợ thất lễ không dám cười ra tiếng. Lúc cho xong 4 câu, ông Đạt càng sùng sụt hơn nữa. Khi bãi đàn, ông mới nói cho mọi người biết cớ sự, ai nấy đều cho là huyền diệu.

Cũng đàn hôm đó, một người cầu đào tên là Tích được cho bài thi như sau :

      THI
      TÍCH đức cho con, TÍCH hỡi con
      Con còn lăn líu lắm nghe con
      Con thương con cháu là thương Đạo
      Đạo chẳng ở xa, ở tại con

      Thâu

Tuy ông Tích còn lăn líu, không biết thương con cháu nhưng Đạo là nơi cải hóa con người vào đường lương thiện, nên Đức Chí Tôn thâu nhận.

Với đôi mắt phàm chúng ta không thể nào nhận được chân giả, cần phải có Mắt Trời ( Thiên Nhãn) mới thấu rõ mọi việc và chi chi không lọt mảy lông. Mới biết Thợ Trời là kỳ diệu vậy.

 
về trang chủ  

xem trang sau