Tiểu dãn các điển tích

kiến trúc nơi Tòa Thánh

(tiếp theo)

 

TÓM LẠI :

 

-         Đại Hội Long Hoa là một cuộc thi cần thiết để tuyển chọn người đạo đức trong thời kỳ cuối Hạ nguơn Tam Chuyển bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, để tạo lập đời Thượng nguơn Thánh đức.

-         Những người bị loại ra khỏi Đại Hội Long Hoa là những người kém tiến hóa, tức là họ còn gian ác xấu xa, thiếu đạo đức. Họ phải ở đó chờ đợi hằng triệu năm sau để lớp thú cầm tiến hoá lên phẩm người thì họ cùng nhập vào mà bắt đầu một giai đoạn tiến hóa mới.

-         Tỷ lệ tuyển chọn của Đại Hội Long Hoa kỳ ba nầy là 1/10. Trong 10 người chỉ có một người đậu mà thôi, còn 9 người kia bị loại và bị tiêu diệt. Linh hồn của họ phải chờ đợi như vừa trình bày bên trên.

-         Đức Di-Lạc Vương Phật đứng làm Giáo Chủ Đại Hội Long Hoa, chính Ngài là Chánh Chủ Khảo chấm thi đậu rớt.

 

5- Tám khuôn hình nơi bao lơn Tòa Thánh

I.                   Hạ Võ trị thủy : tượng trưng NÔNG.

II.                Ngu Thuấn cày voi : - - CANH.

III.             Toại Nhân - Hữu Sào : - - CÔNG.

IV.             Phạm Lãi - Tây Thi : - - THƯƠNG

V.                Khương Thượng ngồi câu : - - NGƯ.

VI.             Khương Thượng ngồi câu: - - TIỀU.

VII.          Sào Phủ - Hứa Do : - - MỤC .

VIII.       Châu Mãi Thần : - - SĨ.

Khuôn hình số I :

Nông

Hạ Võ trị thủy

-         Ông Hạ Võ được vua Thuấn sai đi xẻ núi đào sông, làm cho nước chảy thông ra biển, tránh lụt ngập cho dân, giúp cho nghề nông phát triển mau lẹ. Hạ Võ là con Ông Cổn. Ông Cổn làm quan dưới triều vua Nghiêu. Vua Nghiêu sai ông Cổn trị thủy , ông Cổn làm việc trong 9 năm nhưng không thành công được điều gì. Sau, Ông Thuấn lên nối ngôi vua Nghiêu, lại sai con Ông Cổn là Hạ Võ tiếp tục công việc trị thủy. Hạ Võ vất vả làm việc trong 10 năm, làm rất khẩn trương, đi qua cửa nhà mà không có thời giờ vào thăm nhà. Ông đã khai thông được các sông ngòi, đào thêm các kinh rạch, nhờ vậy, nước lụt thuận dòng chảy ra biển. Đất đai không còn bị ngập lụt nên dân chúng cày cấy trồng trọt được, làm cho Nông nghiệp phát triển mau lẹ.

 

Nhờ công nghiệp to lớn nầy, Ông Hạ Võ được vua Thuấn phong làm chức Tư Không, điều khiển các quan. Vua Thuấn ở ngôi được 33 năm, lúc đó đã được 93 tuổi, nhận thấy con là Thương Quân bất tài, không phải là người hiền, nên vua Thuấn bắt chước vua Nghiêu, truyền ngôi cho người hiền là Ông Hạ Võ. Vua Thuấn phủ dụ Ông Hạ Võ : " Lại đây Ông Võ ! Trời ra tai họa nước lụt, có ý răn ta. Nay tin giữ được lời nói, làm được thành công, ấy là tài của ngươi; chăm chỉ việc nước, tiết kiệm việc nhà, bụng không tự mãn, ấy là đức tốt của ngươi. Ngươi không khoe tài, không khoe công, thiên hạ không ai cùng ngươi tranh công. Ta quí các đức tốt của ngươi, khen cái công to của ngươi.

 

Lịch số của Trời nay đến lượt ngươi, ngươi đáng lên ngôi vua. Lòng người dễ thiên về vật dục, rất nguy ! Lòng mến đạo thì rất nhỏ. Cần phải xét cho tinh, giữ một mực, tin theo đạo Trung Dung, không thái quá, không bất cập. Những lời nói vu vơ, không bằng cứ vào đâu, chớ nghe. Những mưu kế độc chuyên, không hỏi ý kiến công chúng, chớ dùng.  Đáng yêu chẳng phải là vua ư ? Đáng sợ chẳng phải là dân ư ? Dân không có vua, dân trông cậy vào đâu ? Vua không có dân, vua cùng ai giữ nước?  Ngươi nên thận trọng ngôi vua, tu tỉnh những nguyện dục của mình. Nhớ rằng, để dân chúng phải khốn cùng thì lộc Trời sẽ hết. Lời nói ở miệng ra, có khi thiện cảm, có khi gây việc binh nhung. Ngươi nên lưu ý".

 

Sáng ngày mùng 1 tháng Giêng, Ông Võ chịu mệnh ở miếu thờ vua Nghiêu, tổng xuất trăm quan, lên ngôi vua, nối đời vua Thuấn . Năm ấy là năm 2205 trước Tây lịch.

 

Khuôn hình số II :

Canh

Ngu Thuấn cày voi

-         Ông Thuấn họ Ngu, cha là Cổ Tẩu, mẹ là Ốc Đăng rất hiền đức mà mất sớm. Cổ Tẩu có tánh ương gàn, mê muội, cưới vợ kế, sanh một con trai, đặt tên là Tượng. Cảnh mẹ ghẻ con chồng thật là khắc nghiệt. Em Tượng lớn lên rất điêu ngoa. Cổ Tẩu thường nghe lời vợ kế mà đày đọa Thuấm làm nhiều điều khổ sở.


Có lần mẹ ghẻ xúi Cổ Tẩu sai Thuấn đi cày ở đất Lịch Sơn, là nơi nổi tiếng có nhiều cọp dữ, mục đích là để cho cọp ra ăn thịt Thuấn mà trừ khử Thuấn đi. Thuấn nghe lời cha mẹ, đem cày đến Lịch Sơn không chút than van. Lòng hiếu thảo của Thuấn cảm động Trời cao, khiến cọp dữ không dám đến gần, voi trong rừng ra cày đất cho Thuấn, chim muôn bay đến nhặt cỏ. Thấy không hại được Thuấn bằng cách đó, bà mẹ ghẻ lại xúi Cổ Tẩu sai Thuấn đi đánh cá ở đầm Lôi Trạch, là nơi thường có gió to sóng lớn nhận chìm ghe thuyền, không ai dám bén mảng tới đó. Thuấn vẫn nghe lời cha mẹ, đến đó đánh cá bình yên, sóng gió lúc đó êm lặng như ngầm giúp cho người con hiếu thảo.

 

Dù bị hãm hại nhiều lần, nhưng Thuấn không hề oán ghét mẹ ghẻ, và đối với em Tượng vẫn thương yêu như em ruột, sống hiền hòa hiếu thuận, luôn luôn lo phụng dưỡng cha và mẹ ghẻ, van vái Trời Phật cho cha mẹ và em được khỏe mạnh sống lâu. Với tấm lòng cao cả của Thuấn, bà mẹ ghẻ lần lần hối hận những việc làm độc ác vừa qua, trở lại sống hiền lương và thương yêu Thuấn. Tiếng hiếu thảo của ông Thuấn được đồn vang trong dân chúng, đến tai vua Nghiêu đang trị vì thiên hạ. Vua Nghiêu không muốn truyền ngôi cho con là Đan Chu, vì thấy con không đủ tài đức đem lại hạnh phúc cho dân, lại nghe Thuấn là người hiền, nổi tiếng hiếu thảo, đáng được truyền ngôi, nên vua Nghiêu hỏi ý kiến của quần thần:

-         Trẫm ở ngôi được 70 năm, ta muốn tìm một người hiền để truyền ngôi. Các khanh tiến cử ai ?

-         Các quan tâu rằng : Ở trong dân chúng có một người hiền nổi tiếng hiếu thảo, đó là Ngu Thuấn ở đất Ngu.

-         Phải, Trẫm cũng có nghe, Nhưng người ấy thế nào ?

-         Quan Tứ Nhạc thưa rằng : Người ấy là con một người mù lòa, cha ngoan cố, mẹ ghẻ lắm điều, người em dị bào tên Tượng lại có tánh ngạo ngược, thế mà Thuấn vẫn một lòng hiếu thuận, khiến cho họ hối lỗi, trở lại làm thiện, không xảy ra sự gian ác thêm nữaVua Nghiêu nói : Ta thử xem sao, ta gả 2 con gái ta cho người ấy để xem cách người ấy tề gia như thế nào ? Thế là vua Nghiêu sửa soạn hành trang, đưa cả 2 con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh đến bờ sông Vỵ, gả hết cho Thuấn. Vua Nghiêu răn hai con gái rằng : Phải kính cẩn giữ cho trọn đạo.

 

Sau 3 năm dò xét, Vua Nghiêu kêu Ông Thuấn bảo : Lại đây, ngươi Thuấn ! Ta hỏi công việc và xét lời nói của ngươi đều có thành tích. Đến giờ đã 3 năm, ngươi đáng được lên ngôi làm vua thay ta. Ông Thuấn tự khiêm mình là đức kém, nhưng vua Nghiêu không chịu. Ngày mùng 1 tháng Giêng, Ông Thuấn chịu mệnh, lên ngôi vua nơi miếu thờ Đức Văn T

 

Khuôn hình số III :

Công .

Toại Nhân - Hữu Sào

-         Toại Nhân là người có công phát minh ra lửa, bằng cách lấy cây nhọn dùi vào gỗ, tạo sức nóng làm lửa phát ra. Hữu Sào là người phát minh ra cách cất nhà trên cây, làm giống như cái tổ chim, để ở. Sách Hàn Phi Tử viết : Đời Thái cổ nước Tàu, người ít mà cầm thú thì nhiều, dân không thắng nổi thú dữ như cọp, voi, sấu, rắn, vv …

 

Có Đấng Thánh nhân dấy lên, bày cho dân cách kết cây lại, làm giống như một cái tổ chim trên cây để ở. Khi gặp nguy hiểm thì trèo lên cây, vào đó cư trú an toàn. Dân chúng vui lòng, tôn lên làm vua, gọi là Hữu Sào. (Sào là cái ổ) Dân chúng lại ăn trái sống, thịt sống, tanh hôi, làm thương tổn tỳ vị, thường mắc bịnh tật, bị chết rất nhiều. Có Đấng Thánh nhân dấy lên, bày cho dân dùi vào gỗ để lấy lửa, dùng củi đốt lên để nấu chín thức ăn, khử mùi tanh hôi, lại dễ tiêu hóa.

 

Dân chúng vui lòng, đồng tôn lên làm vua, gọi là Toại Nhân. (Toại là lấy lửa). Việc phát minh ra lửa là một thành tựu vĩ đại của loài người nguyên thủy, tạo ra một cuộc biến đổi toàn diện về đời sống của con người. Nhờ có lửa, con người ăn các thức ăn được nấu chín, cơ thể của con người biến đổi theo chiều hướng tiến hoá tốt đẹp. Cũng nhờ có lửa, con người biết đốt nóng kim khí để rèn, đúc các dụng cụ bằng kim khí, nâng mức sống lên một đẳng cấp rất cao so với loài cầm thú. Toại Nhân và Hữu Sào, với 2 phát minh quan trọng, đã đưa con người nguyên thủy tiến hoá lên một bực cao, thoát khỏi tình trạng ăn lông ở lỗ chung đụng với loài cầm thú. Do đó, Toại Nhân và Hữu Sào được xem là 2 vị Tổ Sư của ngành chế tạo công nghiệp. 

 

Khuôn hình số IV :

Thương.

Phạm Lãi - Tây Thi

1.      Phạm Lãi là vị tướng tài ba đã giúp vua nước Việt là Việt Vương Câu Tiễn đánh thắng và giết chết Vua Ngô Phù Sai, trả được cái nhục mất nước, vào thời Xuân Thu Chiến Quốc bên Tàu.  Sau khi thành công, Phạm Lãi bí mật rút lui khỏi quan trường (Công thành thân thối), cùng với người đẹp Tây Thi, lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, sống cuộc đời phóng khoáng tự do.


Sau đó, Phạm Lãi thay đổi tên họ, trở thành Đào Châu Công, chỉ huy một đoàn thương thuyền và một đoàn thương xa, chuyên đi buôn bán, mua hàng hóa từ nơi dư thừa, chở đến bán ở các nơi thiếu thốn, rất được các nước chư Hầu hoan nghinh. Đào Châu Công có một hệ thống xe, thuyền vận tải hàng hóa đi khắp các thị trấn lớn của nước Tàu thời bấy giờ. Việc thương mãi của Đào Châu Công thật là phát đạt.

 

-         Tây Thi, là người con gái rất đẹp của nước Việt, giặt lụa ở Trữ La thôn.

Vua nước Việt là Câu Tiễn muốn đem quân sang đánh nước Ngô. Phạm Lãi can rằng :
Không nên, tôi nghe nói việc binh là điều gở, đánh nhau là điều trái với đức, tranh nhau bằng quân sự là việc thấp nhứt. Lo âm mưu làm trái với đức là việc Thượng Đế cấm. Nếu làm tất bất lợi. Việt Vương không nghe, đem binh đánh Ngô, bị vua Ngô Phù Sai và Tướng Quốc Ngũ Tử Tư đánh cho đại bại, bị bắt làm tù binh. Ngũ Tử Tư yêu cầu vua Ngô giết ngay Câu Tiễn để khỏi lưu hại về sau. Nhưng Văn Chủng đã dùng nhiều tiền bạc lo lót cho Thái Tể Phỉ, một đại thần của vua Ngô, tìm cách cứu mạng Câu Tiễn, nên Thái Tể Phỉ tâu với vua Ngô, không nên giết Câu Tiễn, chỉ nên giam cầm mà thôi. Vua Ngô sắp ưng thuận thì Ngũ Tử Tư lại can nữa : Nếu nay mà Đại Vương không tiêu diệt nước Việt, thì sau nầy sẽ hối hận. Câu Tiễn là người có chí khí, lại có 2 bề tôi tài giỏi là Phạm Lãi và Văn Chủng phò tá, nước Việt sẽ mau hùng cường, nhứt định sẽ đánh lại nước Ngô. Vua Ngô không nghe, chỉ bắt Câu Tiễn giam cầm đày đọa một thời gian rồi thả cho trở về nước. Việt Vương Câu Tiễn được tha về nước rồi thì giấu mình, nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả bộ an phận phục tùng vua Ngô, hằng năm triều cống. Phạm Lãi bí mật luyện tập quân đội, tích thảo đồn lương; Văn Chủng lo sửa sang việc chánh trị và kinh tế, đồng thời tuyển lựa một đoàn mỹ nữ, huấn luyện đủ các ngón nghề mê hoặc Ngô Phù Sai, để Việt Vương dâng hiến cho vua Ngô.

 

Trớ thêu thay, trong đoàn mỹ nữ có nàng Tây Thi đứng đầu lại là người yêu của Phạm Lãi. Nhưng cả 2 người đều hy sinh tình riêng để lo báo đền ơn nước. Ngô Phù Sai hết sức bằng lòng đoàn mỹ nữ nầy và đặc biệt sủng ái Tây Thi. Ngũ Tử Tư vội vào triều can vua Ngô nhiều lần, nhưng vua không nghe, lại còn có ý bực bội. Bảy năm trôi qua, nước Việt đã khá hùng mạnh. Việt vương nóng lòng phục thù, muốn đem binh đánh Ngô, nhưng Phạm Lãi can vì chưa phải lúc. Trong lúc đó, bên nước Ngô, Ngô Phù Sai tin dùng Thái Tể Phỉ, lại được Văn Chủng đem vàng bạc đút lót người để cố ý gièm pha hãm hại Ngũ Tử Tư. Âm mưu nầy dần dần thành công. Ngũ Tử Tư bị vua Ngô bức tử. 

 

Trước khi chết, Ngũ Tử Tư bảo : Các ngươi hãy móc cặp mắt của ta đặt ở cửa thành phía Đông để ta xem quân nước Việt tiến vào. Việt Vương Câu Tiễn hay tin Ngũ Tử Tư bị bức tử chết thì rất mừng, liền vời Phạm Lãi đến thương nghị việc đánh Ngô, nhưng Phạm Lãi vẫn can, vì tuy nước Ngô mất tướng tài là Ngũ Tử Tư, nhưng thế của nước Ngô còn mạnh lắm. Mùa Xuân năm sau, vua Ngô Phù Sai làm Bá Chủ chư Hầu ở phía Nam, đem đại quân lên phía Bắc, họp với các chư Hầu ở Hoàng Tri. Tinh binh của nước Ngô đều đi theo, chỉ chừa lại những lính già giữ thành mà thôi. Việt Vương Câu Tiễn lại thương nghị với Phạm Lãi và Văn Chủng xem lúc nầy đánh Ngô được chưa. Phạm Lãi đáp : Đúng lúc nầy mà Đại vương tấn binh thì nhứt định đại thành công, giết được Ngô Phù Sai, trả cái thù thuở trước. Việt Vương Câu Tiễn xuất toàn lực bất ngờ tấn công nước Ngô. Quả nhiên quân Ngô đại bại. Ngô Phù Sai dẫn binh trở về tiếp cứu, nhưng Ngũ Tử Tư đã chết rồi, trong triều không còn trung thần, đâu có ai chống nổi Phạm Lãi và Văn Chủng. Ngô Phù Sai đành thảm bại, che mặt ân hận nói : Ta không còn mặt mũi nào nhìn thấy Ngũ Tử Tư nữa. Nói rồi, Ngô Phù Sai rút gươm tự sát. Toàn quân Ngô đều tan rã đầu hàng. Phạm Lãi đã có kế hoạch chuẩn bị sẵn từ trước, liền chạy thẳng lên Cô Tô Thành, vào ngay cung cấm để tìm nàng Tây Thi, người yêu cũ 17 năm về trước, đưa nàng xuống ngay một chiếc thuyền lớn đã đậu chờ sẵn, rồi dùng mũi kiếm khắc vào thẻ trúc một mật thơ gởi cho Văn Chủng : "Việt Vương có nói : Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị làm thịt. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu, có thể cùng chung lo lúc hoạn nạn, nhưng không thể cùng chung hưởng với ông ta khi thành công. Sao bạn không bỏ đi ? Nếu Tử Hội còn tham mến công danh, ắt ngày sau không khỏi bị tai họa."

 

Phạm Lãi gọi một cận thần đến dặn : " Đợi ta đi khỏi Cô Tô Thành chừng nửa giờ thì ngươi đem bức mật thư nầy giao cho Đại Phu Văn Chủng. "Xong, Phạm Lãi cho thuyền rời ngay Cô Tô Thành, đi về phía Ngũ Hồ. Gió thổi mạnh, thuyền lướt nhanh, Thái Hồ mênh mông nhìn thấy trước mặt. Phạm Lãi và Tây Thi cùng nhìn lại phía sau, Cô Tô Thành đang còn ngập trong biển lửa, kết thúc một triều đại trong những mối oan cừu. Phạm Lãi thở dài : " Tất cả đã kết thúc, hận cũ được tiêu tan, thì thù mới sẽ tới. Việt Vương ngày nay rồi sẽ theo vết xe đổ của Ngô vương. Văn Chủng không chịu bỏ đi hôm nay thì ngày kia cũng giống như Ngũ Tử Tư mà thôi." Phạm Lãi nhìn Tây Thi nói : Ân cừu, Ngô quốc, Việt quốc, Sở quốc, có liên quan gì đến ta nữa chứ ? Tây Thi, từ rày về sau, chúng ta không màng đến các chuyện ấy nữa. Sóng nước Ngũ Hồ sẽ rửa sạch tất cả, để chúng ta không còn dính đến thế sự nữa. Tây Thi, để ta giới thiệu người nhà của ta ra mắt nàng.


Phạm Lãi đưa Tây Thi vào khoan thuyền giữa. Con lớn tên là Phạm Bình 15 tuổi, con kế là Phạm An 11 tuổi. Cả hai lớn lên trong gian khổ, người hơi gầy nhưng chắc nịch.
Tây Thi nói : Phạm An giống hệt chàng lúc chàng cách nay 17 năm. Phạm Lãi đưa Tây Thi đi xem khắp các nơi trên thuyền. Trên thuyền tất cả có 10 thanh niên và 10 thiếu nữ. Phạm Lãi cho họ kết làm vợ chồng với nhau. Phạm Lãi nói : Chúng ta sẽ đến một nơi không có khói lửa của nhân gian, 10 cặp vợ chồng nầy sẽ sanh con đẻ cháu không ngừng. Rồi họ đi xem các đồ vật trong thuyền, nào nông cụ, nào hạt giống, lương thực, muối ăn, rương tráp. Tây Thi ngạc nhiên hỏi : Chàng đã chuẩn bị sẵn hết à ? Phải, lúc rời Hội Kê đi đánh nước Ngô, ta đã chuẩn bị đầy đủ tất cả. Nghĩa là chàng chắc chắn chiến thắng ? Dĩ nhiên là phải chiến thắng, bởi vì Ngô quốc tuy mạnh hơn Việt quốc, nhưng họ thiếu những tướng tài giỏi cầm quân, trong triều, phần lớn là bọn dua nịnh. Ta đã chuẩn bị 17 năm rồi, vì nàng mà ta lo liệu chu toàn tất cả.


Phạm Lãi và Tây Thi rời bỏ tất cả, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Họ vô tư ca hát vui vẻ trên thuyền, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc cho thời gian trôi theo dòng nước biếc. Một hôm, chàng cho thuyền ghé lại một bến sông, đem cá lên bờ để đổi lấy muối và lương thực. Người nhà tên là A-Mang lên bờ một lúc lâu rồi trở về thuyền báo cáo với chủ nhân : Việt vương treo giải thưởng nhiều vàng cho ai tìm được Phạm Đại Phu. Việt vương và Văn Đại Phu kéo đại quân cùng với 800 xe lên phía Bắc hội minh với 2 nước Tề và Lỗ. Việt vương chia nước Ngô thành quận, huyện, lấy đất ở sông Hoài cho Sở, trả cho nước Tống đất Ngô, trả cho nước Lỗ dãy đất trăm dặm ở phía Đông sông Tứ. Việt vương Câu Tiễn bây giờ làm Bá chủ chư Hầu ở phương Nam. Tây Thi bảo : Thiếu Bá, chàng hỏi nhiều như thế để làm gì ? Các việc ấy không liên quan gì đến chúng ta. Chúng ta rày đây mai đó, mọi việc trên đất liền , chúng ta không nên biết tới. Nhưng Thái Hồ không rộng lắm, lại rất gần nước Việt, e có hôm, chúng ta phải dời đi. Lúc Việt vương từ Trung nguyên trở về, chúng ta không dễ gì an cư trong Thái Hồ. Phạm Lãi cho thuyền vượt biển sang Tề, tự đặt tên mới cho mình là Chi-Di Tử-Bì.

 

Sau một thời gian, Phạm Lãi cảm thấy là cũng khó ở yên được nơi nước Tề, nên quyết định chuyển sang ở đất Đào, là nơi phát tích vua Nghiêu, ở phía Nam nước Tề, giờ đây trở thành một nước nhỏ, không có xung đột, lại có thể giao lưu với các nước khác rất thuận lợi. Chàng đã sai Phạm An đến đất Đào, lựa chỗ tốt mua 1000 mẫu đất làm cơ sở. Phạm Lãi cho đóng nhiều chiếc thuyền buôn và nhiều chiếc xe chở hàng hóa. Chàng hoàn toàn chuyển sang ngành thương mãi. Chàng nói với Tây Thi : Ta đã nghiên cứu kỹ đại thể trong thiên hạ, biết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có những cuộc biến động mới lớn lao, nhưng chúng ta không sợ biến động, bởi vì biến động là cách nâng cấp tiến bộ xã hội. Sau nầy, người làm chánh trị sẽ nhiều hơn, vì họ chọn con đường chánh trị để vinh thân. Nhưng ngoài chánh trị, ta còn phát hiện được một con đường khác rất quan trọng mà trước đây chưa biết. Đó là con đường thương mãi. Thế giới của chúng ta mỗi ngày thêm đông đúc, cuộc sống càng lúc càng phức tạp hơn. Dân chúng rồi đây sẽ cần nhà thương mãi hơn nhà chánh trị. Ta sẽ dốc hết tinh lực còn lại để lo cho công việc nầy : Đem cá, muối dư thừa nơi nước Tề, chở qua bán nơi nước Tần vì nước Tần không có 2 thứ ấy; rồi lại chở bông vải từ nước Tần về Trung nguyên. Thực phẩm của 2 nước Ngô, Sở dư thừa, trong lúc ở Tống , Trần, Trịnh lại thiếu hụt; tơ lụa của Hàn, Sở có thể chở qua Tề, Lỗ đổi lấy đồng thau .

 

Ôi ! Bao nhiêu việc cần thiết cho ta làm ! Từ đây, ta lấy tên là Đào Châu Công. Mọi người nhớ gọi ta như vậy. Bấy giờ nước Tàu bước vào thời kỳ Chiến Quốc, các nước chỉ lo đánh nhau, loạn lạc khắp nơi, nhưng lại thấy xuất hiện những đoàn xe hay đoàn thuyền mang nhãn hiệu Đào Châu đi lại qua các nước một cách dễ dàng để chở hàng hóa cần thiết đến đổi các hàng hóa dư thừa của địa phương. Các đoàn xe, thuyền nầy đều xuất phát từ đất Đào.

 

Nhờ các đoàn xe, thuyền thương mãi nầy mà dân chúng có được nhiều hàng hóa tiêu dùng, đời sống dân chúng được khá hơn, mặt khác nó cũng đem lại lợi tức cho Đào Châu Công rất lớn. Đào Châu Công cùng với bà vợ tuyệt đẹp đi viếng kinh đô Hàm Dương của nước Tần, được vua Tần tiếp đãi vào bực thượng khách. Trên đường về tới Hàn Đang có tin cấp báo từ đất Đào, nên cả 2 người phải tức tốc trở về đất Đào. Nguyên do, con thứ Phạm An gây chuyện ở nước Sở, tranh chấp và lỡ tay giết chết một vị công hầu. Phạm An bị bắt và bị xử tử hình.Vợ con của Phạm An quì xuống trước mặt Phạm Lãi cầu xin cứu mạng cho chồng. Phạm Lãi rất bi thương, song thần sắc vẫn tiêu dao, bảo con dâu : Chuyện nầy rất khó, ta không nắm chắc được 10 phần, nhưng chỉ biết tận lực, còn tùy số mạng của nó. Bây giờ ta sai Tử Hòa (đứa con út) vào nước Sở để cứu An thì may ra khỏi được. Phạm Bình lên tiếng thưa rằng : Con là trưởng nam của cha, trong nhà có việc gì quan trọng là cha sai con đi, lẽ nào chuyện sống chết nầy lại sai em út của con đi thì thật là sỉ nhục cho con, làm mất truyền thống trưởng tử của gia đình. Xin cha để cho con đi, nếu không con sẽ tự sát. Tây Thi cũng cho lời nói của Phạm An là đúng. Phạm Lãi có dụng ý riêng, khó nói ra mà trong nhà không ai để ý tìm biết, nên đành phải sai Phạm Bình đi. Âu cũng là số mạng của Phạm An không thể cải lại được. Phạm Lãi căn dặn Phạm Bình rất kỹ lưỡng : Vào nước Sở, tìm đến Trang Tiên Sinh, dâng 1000 lượng vàng và bức thơ nầy của ta, đoạn ở chờ tại kinh đô nước Sở. Khi thấy An ra khỏi ngục thì lập tức ra thành trở về đây. Nhớ đừng làm gì khác hơn mà thất bại. Phạm Lãi dặn đi dặn lại mấy lượt rồi mới cho Phạm Bình đi. Bình đi rồi, Phạm Lãi rất buồn, lòng trĩu xuống : Hy vọng cứu An rất ít. Các ngươi chuẩn bị lo chung sự cho An đi. Tây Thi ngạc nhiên hỏi : Tại sao chàng lại nói như thế ? - Ta muốn sai Tử Hòa đi là vì nguyên nhân ấy. - Thiếp chưa hiểu được ý chàng .- Thằng Bình được sanh ra trong hoàn cảnh khó khăn, nên coi trọng tiền bạc. Tử Hòa lại lớn lên trong cảnh giàu sang, nên xem tiền bạc như cỏ rác. Đối với Bình, việc không đáng tốn 1000 lượng vàng, không phải không đáng tốn trước khi việc thành, mà là không đáng tốn sau khi việc thành. Bởi vì theo dự liệu của ta, Trang Tiên sinh sẽ nghĩ cách nói cho vua Sở đại xá, nhân thể tha cho An luôn mà không lộ điều gì. Nhưng rồi thằng Bình sẽ nghĩ rằng, đại xá tù nhân là chủ ý của Sở vương, Trang Tiên sinh không có công lao gì, nên Bình sẽ đến đòi vàng lại.

 

Thế là người khác nhờ đại xá mà sống, còn Phạm An vì đại xá mà chết. Ta mong dự đoán của ta sai. Nhưng Tây Thi ! Mạng sống của con người đâu phải vì một hai câu dặn mà thay đổi được, có số mạng tất cả. Hãy chờ xem. - Ôi ! Chàng luôn luôn liệu việc như Thần, nhưng mong sao lần nầy chàng đoán sai, An được cứu sống trở về. Chẳng bao lâu sau, Bình chở xác em trở về tới đất Đào cùng với 1000 lượng vàng lấy lại từ Trang Tiên sinh. . . . . . . . . .

 

Khuôn hình số V :

Ngư

Khương Thượng ngồi câu

-         Sau khi Khương Thượng giết chết Tỳ Bà Tinh, Đắc Kỷ đem lòng thù oán. Đắc Kỷ vẽ họa đồ xây cất Lộc Đài rất xa xỉ, rồi xúi vua Trụ cử Khương Thượng làm Đốc Công cất Lộc Đài. Khương Thượng tìm cách từ chối và khuyên vua Trụ không nên xa xí. Vua Trụ nổi giận, bắt Khương Thượng hành hình bào lạc. Khương Thượng nhanh chân trốn thoát, độn thủy trở về nhà cho vợ là Mã Thị biết, rồi đi qua Tây Kỳ ẩn mặt nơi Bàn Khê, đói ăn trái cây, khát uống nước suối, lấy việc gieo câu sông Vỵ làm vui, chờ thời ra giúp nhà Châu. (Xem thêm chi tiết nơi Tiểu sử : Đức Khương Thượng Tử Nha, trong Phần thứ tư).

 

Khuôn hình thứ VI :

Tiều

Bá Nha - Tử Kỳ

-         Bá Nha họ Du tên Thụy, người ở Sính Đô nước Sở (nay là phủ Kinh Châu, tỉnh Hồ Quảng). Tuy là người nước Sở, nhưng làm quan cho nước Tấn, chức Thượng Đại Phu.

-         Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương, là một danh sĩ ẩn dật, báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, làm nghề đốn củi (Tiều).

 

Một hôm, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua Sính Đô nước Sở, vào triều kiến vua Sở, trình quốc thư và giải bày tình giao hiếu giữa 2 nước, được vua Sở và quần thần thiết tiệc khoản đãi. Bá Nha nhơn dịp nầy đi thăm mộ phần tổ tiên, thăm họ hàng, xong vào từ biệt vua Sở trở về nước Tấn. Khi thuyền trở về đến cửa sông Hán Dương, nhằm tiết Trung Thu, trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha liền sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục, đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm, chưa dứt, bỗng đàn đứt dây. Bá Nha giựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lãnh lịnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng : - Xin đại nhân chớ lấy làm lạ, tiểu dân là tiều phu kiếm củi về muộn, trộm nghe được một khúc đàn tuyệt diệu của Ngài. Bá Nha cười lớn bảo :- Người tiều phu nào đó dám nói 2 tiếng "nghe đàn" với ta, sao ngông cuồng thế ?- Đại nhân nói sai quá vậy. Há chẳng nghe : Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín (Một ấp 10 nhà ắt có nhà trung tín). Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên có người khảy lên khúc đàn tuyệt diệu. Nghe đáp xong, Bá Nha hơi choáng váng, hối hận những lời vừa thốt ra, vội bước ra mũi thuyền, dịu giọng nói : - Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không ? - Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là : Đức Khổng Tử khóc Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng : - Khá tiếc Nhan Hồi yểu mạng vong, Dạy người tư tưởng tóc như sương. Đàn, bầu, ngõ hẹp vui cùng đạo,

 

Đến cuối câu thứ ba thì dây đàn đứt, còn lại câu thứ tư là : Lưu mãi danh hiền với kỹ cương. Bá Nha nghe xong, đúng quá, mừng rỡ sai quân hầu bắc cầu lên bờ mời người quân tử xuống thuyền đàm đạo. Người tiều phu ung dung xuống thuyền, chấp tay vái Bá Nha. Bá Nha vội đưa tay đáp lễ, nói : - Xin quí hữu miễn lễ cho. Rồi bắc ghế mời ngồi, phân ngôi chủ khách. - Quí hữu biết nghe đàn, ắt biết ai chế ra đàn? - Mong ơn Ngài hỏi tới, kẻ tiểu dân đâu chẳng dám nói hết cái biết của mình. Khi xưa, vua Phục Hy thấy tinh hoa của 5 vì sao rơi xuống cây ngô đồng, chim phượng hoàng liền đến đậu. Vua Phục Hy biết ngô đồng là thứ gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Đất, có thể làm đồ nhã nhạc, liền sai người đốn cây ngô đồng xuống, cắt làm 3 đoạn để phân Thiên, Địa, Nhơn. Đoạn ngọn thì tiếng quá trong mà nhẹ, đoạn gốc thì tiếng quá đục mà nặng, duy có đoạn giữa thì tiếng vừa trong vừa đục, có thể dùng được, liền đem ra giữa dòng sông nước chảy ngâm đủ 72 ngày đêm, rồi lấy lên phơi khô, chọn ngày tốt , thợ khéo là Lưu Tử Kỳ chế làm nhạc khí, bắt chước Nhạc Cung Dao Trì, vì thế đặt tên là Dao cầm. Dao cầm nầy dài 3 thước 6 tấc, án theo 360 độ chu Thiên , phía trước rộng 8 tấc án theo Bát tiết, sau rộng 4 tấc án theo Tứ Tượng, dầy 2 tấc án theo Lưỡng Nghi, đầu như Kim đồng, lưng như Ngọc Nữ, trên chạm Long Phụng, gắn phím vàng trục ngọc. Đàn ấy có 12 phím tượng trưng 12 tháng, lại thêm một phím giữa tượng trưng tháng nhuận, trên mắc 5 dây, ngoài tượng Ngũ Hành, trong tượng Ngũ Âm : Cung, Thương, Giốc, Chủy, Vũ. Vua Thuấn khảy đàn Ngũ Huyền (Dao cầm), ca bài Nam Phong, thiên hạ đại trị. Vua Châu Văn vương bị Trụ vương giam cầm nơi Dũ Lý, con trưởng là Bá Ấp Khảo thương nhớ không nguôi, nên thêm một dây đàn nữa gọi là dây Văn, đàn nghe thêm ai oán.


Võ vương đem quân phạt Trụ, thêm một dây phấn khích gọi là dây Võ (Võ huyền).
Như thế, Dao cầm lúc đầu có 5 dây, sau thêm 2 dây Văn và Võ nữathành 7 dây, gọi là Thất huyền cầm. Đàn ấy có 6 kỵ, 7 không, 8 tuyệt, kể ra :

-         Sáu Kỵ là : Rét lớn, nắng lớn, gió lớn, mưa lớn, sét lớn, tuyết rơi nhiều.

-         Bảy Không là : Nghe tiếng bi ai và đám tang thì không đàn, lòng nhiễu loạn thì không đàn, việc bận rộn thì không đàn, thân thể không sạch thì không đàn, y quan không tề chỉnh thì không đàn, không đốt lò hương thì không đàn, không gặp tri âm thì không đàn.

-         Tám Tuyệt là : Thanh cao, kỳ diệu, u uất, nhàn nhã, bi đát, hùng tráng, xa vời, dằng dặc.

Đàn ấy đạt đến tận thiện tận mỹ, hổ nghe không kêu, vượn nghe không hú, một thứ nhã nhạc tuyệt vời vậy. Bá Nha nghe xong, kính phục bội phần, hỏi thêm : - Quí hữu quả thấu triệt nhạc lý. Khi xưa, Đức Khổng Tử đang khảy đàn, Nhan Hồi từ ngoài bước vào, thoảng nghe tiếng đàn u trầm, nghi là có ý tham sát, lấy làm lạ, liền vào hỏi Đức Khổng Tử. Ngài đáp : Ta đang khảy đàn, bỗng thấy mèo bắt được chuột, liền khởi lên ý niệm tham sát mà hiện ra tơ đồng. Nhan Hồi đã nghe tiếng đàn mà biết lòng người khảy đàn. Nay Hạ quan khảy đàn, lòng tư lự điều gì, quí hữu có thể đoán biết chăng?
- Đại nhân thử dạo một khúc xem.


Bá Nha nối lại dây đàn, tập trung tinh thần đến chốn non cao, khảy lên một khúc. Tiều phu khen rằng : - Đẹp thay vòi vọi kìa, chí tại non cao. Bá Nha ngưng thần, ý tại lưu thủy, khảy lên một khúc nữa. Tiều phu lại khen rằng : - Đẹp thay, mông mênh kìa, chí tại lưu thủy. Bá Nha thấy tiều phu đã thấy rõ lòng mình qua tiếng đàn, lấy làm kính phục, liền gác đàn, sai bày tiệc rượu, đối ẩm luận đàm. Hai người hỏi nhau tên họ, nguyên quán, nghề nghiệp. Bá Nha lại sanh lòng cảm mến Tử Kỳ về sự hiếu với phụ mẫu, nên xin kết nghĩa làm anh em với Tử Kỳ, để không phụ cái nghĩa TRI ÂM mà suốt đời Bá Nha chưa từng gặp. Hai người đến trước bàn hương án lạy cầu Trời Đất, rồi lạy nhau 8 lạy kết làm anh em. Tử Kỳ nhỏ hơn Bá Nha 10 tuổi nên làm em. Hai anh em đối ẩm cùng nhau tâm sự mãi cho đến sáng mà không hay. Tử Kỳ vội đứng lên từ biệt. Bá Nha bùi ngùi xúc động, hẹn ước với Tử Kỳ, đúng ngày Trung Thu năm sau, hai anh em sẽ hội ngộ nhau tại ghềnh đá nầy. Bá Nha lấy ra 2 đỉnh vàng, 2 tay nâng lên nói : - Đây là chút lễ, kính dâng bá phụ và bá mẫu. Tấm tình chí thành, em đừng từ chối. Hai người từ biệt, lòng đầy lưu luyến. Chẳng bao lâu, thuyền về tới bến. Bá Nha vào kinh đô tâu trình Tấn Vương các việc, được Tấn vương khen tặng. Thời gian lặng lẽ trôi qua. . .

 

Nhớ ngày ước hẹn với Tử Kỳ, Tử Nha tâu xin vua Tấn cho nghỉ phép về thăm quê nhà. Bá Nha thu xếp hành trang để đến núi Mã Yên kịp ngày Trung Thu ước hẹn. Kìa là núi Mã Yên mờ mờ sương lạnh, tịch mịch, không một bóng người. Bá Nha nghĩ thầm, năm trước nhờ tiếng đàn mà gặp được tri âm, đêm nay ta phải đàn một khúc để gọi Tử Kỳ. Rồi sai đốt hương trầm, đem Dao cầm ra so dây. Bá Nha đặt hết lòng nhớ nhung của mình vào tiếng đàn réo rắt, bỗng trong tiếng đàn lại có hơi ai oán nổi lên. Bá Nha dừng tay suy nghĩ : Cung Thương có hơi ai oán thảm thê, ắt Tử Kỳ gặp nạn lớn. Sáng mai ta phải lên bờ dọ hỏi tin tức của Tử Kỳ. Đêm ấy, Bá Nha hồi hộp lo âu, trằn trọc suốt đêm, chờ cho mau sáng, truyền quân hầu mang theo Dao cầm, 10 đỉnh vàng, vội vã lên bờ, tiến vào núi Mã Yên.

 

Khi qua cửa núi, gặp ngã ba đường, chưa biết nên đi theo đường nào, đành ngồi đợi để chờ người trong xóm đi ra hỏi thăm. Không bao lâu, gặp một lão trượng tay chống gậy, tay xách giỏ, từ từ đi lại. Bá Nha thi lễ, hỏi : - Xin lão trượng chỉ giùm đường nào đi Tập Hiền Thôn ? - Thượng quan muốn tìm nhà ai ? - Nhà của Chung Tử Kỳ. Vừa nghe 3 tiếng Chung Tử Kỳ, lão trượng bỗng nhòa lệ, nức nở nói : - Chung Tử Kỳ là con của lão. Ngày rằm Trung thu năm ngoái, nó đi đốn củi về muộn, gặp quan Đại Phu nước Tấn là Du Bá Nha kết bạn tri âm. Khi chia tay, Bá Nha có tặng cho nó 2 đỉnh vàng, rồi dùng tiền nầy mua sách về học thêm, ngày đi đốn củi, tối về học sách, mãi như vậy, sức khỏe hao mòn, sanh bệnh rồi mất. Bá Nha nghe vậy thì khóc nức nở, thương cảm vô cùng. Lão trượng ngạc nhiên hỏi quân hầu thì biết thượng quan đây chính là Du Bá Nha, bạn tri âm của Chung Tử Kỳ. Chung lão biết vậy lại càng bi thảm hơn nữa nói : - Mong ơn thượng quan không chê con lão hàn tiện. Lúc mất, nó dặn rằng : Con lúc sống không vẹn niềm hiếu dưỡng, lúc chết không vẹn nghĩa tri giao, xin cha chôn con nơi cửa núi Mã Yên để thực hiện lời ước hẹn với quan Đại Phu Du Bá Nha. Lão phu y lời con trối lại. Con đường mà thượng quan vừa đi qua, bên phải có một nấm mộ mới, đó là mộ của Tử Kỳ. Hôm nay là đúng 100 ngày, lão mang vàng hương lên cúng mộ, không ngờ gặp được thượng quan.


Bá Nha ngậm ngùi nói : - Việc đời biến đổi, may rủi không lường. Xin Lão bá đưa đến mộ Tử Kỳ, bốn lạy cho vẹn tình tri kỷ. Khi đến phần mộ, Bá Nha sửa lại áo mũ, sụp lạy khóc rằng : " Hiền đệ ơi, lúc sống thông minh anh tuấn tuyệt vời, nay chết , khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt. " Lạy xong, Bá Nha phục bên mồ, khóc nức nở. Sau đó, Bá Nha gọi mang Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu lên một khúc nhạc thiên thu, tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Bỗng thấy gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Có lẽ đó là anh hồn của Tử Kỳ hiển linh chứng giám. Tấu khúc nhạc xong, Bá Nha phổ lời ai oán, thay lời ai điếu, vĩnh biệt bạn tri âm, rồi đến vái cây Dao cầm một vái, tay nâng đàn lên cao, đập mạnh vào phiến đá trước mộ Tử Kỳ, đàn vỡ tan nát, trục ngọc phím vàng rơi lả tả. Chung lão không kịp ngăn, sợ hãi nói rằng : - Sao đại quan hủy cây đàn quí giá nầy ? Bá Nha liền ngâm 4 câu thơ thay câu trả lời : Dao cầm đập nát đau lòng phượng, Đàn vắng Tử Kỳ, đàn với ai ?

Gió Xuân khắp mặt bao bè bạn,
Muốn kiếm tri âm, ôi khó thay !

- Nguyên do là vậy. Âm nhạc là một bộ môn nghệ thuật cao siêu. Nhân đây, xin mời thượng quan đến nhà lão để lão cảm tạ tấm lòng tốt đẹp của thuợng quan đối với con lão. - Cháu quá bi thương trong lòng, không dám theo bá phụ về quí phủ e gợi thêm nỗi đau lòng. Nay nghĩa đệ vắng số mất rồi, cháu kính dâng lên bá phụ vá bá mẫu 10 đỉnh vàng, một nửa dùng mua mấy mẫu ruộng làm Xuân Thu tế tự cho Tử Kỳ, một nửa xin để phụng dưỡng bá phụ và bá mẫu trong tuổi già. Chừng cháu về triều, dâng biểu lên vua xin cáo quan về quê cũ thì cháu xin đến rước bá phụ, bá mẫu đến an hưởng tuổi già. Nói xong, Bá Nha lấy vàng dâng lên, rồi khóc lạy mộ Tử Kỳ một lần nữa, mới trở về thuyền. Chung lão cảm động không cùng, nghẹn ngào đứng lặng nhìn theo bóng Bá Nha cho đến khi khuất bóng.

 
về trang chủ  

xem trang sau