Khuôn hình số
VII :
Mục
Sào Phủ - Hứa Do
-
Sào Phủ
và Hứa Do là 2 ẩn sĩ nổi tiếng thanh bạch vào
thời vua Nghiêu nước Tàu.
Vua
Nghiêu là vị vua hiền đức, sanh được 9 người
con trai và 2 con gái, nhưng 9 người con trai nầy không
có ai hiền như Ngài, nên Ngài không dám truyền ngôi
cho con, mà muốn đi tìm người hiền để truyền
ngôi vua. Vua Nghiêu giả trang thường dân, đi đến
chơn núi Trung Nhạc, phía Nam sông Dịch Thủy, thấy
một người đang cầm cái bầu nhỏ múc nước dưới
khe. Người đó là Hứa Do. Vua Nghiêu hỏi :
- Ngươi
làm gì đó vậy ?
Hứa Do cười rằng : - Tôi ngán cuộc đời, không
ham danh lợi, lánh mình một cõi, vui thú thanh nhàn,
đói ăn trái cây, khát uống nước suối, giữ mình
trong sạch cho mãn kiếp thì thôi. Vua Nghiêu nghe nói
thì mừng thầm trong bụng, nghĩ rằng : Người nầy
hiền đức, không tham phú quí, chẳng chác thị phi,
đáng được truyền ngôi, chắc là trị nước thái
bình.
Nghĩ vậy rồi, vua Nghiêu nói rằng :
- Ta đây thiệt là vua Nghiêu giả dân mà đi tìm người
hiền đức, đến đây mới gặp, xin mời hiền sĩ
về trào để ta truyền ngôi cho mà trị vì thiên
hạ cho an ổn thái bình.
Hứa Do nghe vua Nghiêu nói thế, lòng thiệt khó ưa,
vì mình chỉ muốn thanh nhàn mà vua Nghiêu đem buộc
vào danh lợi, lòng đã cương quyết, liền đập bể
cái bầu nước và đáp rằng : - Con chim tiêu liêu
làm ổ không quá một nhánh cây, con yến thử uống
nước dòng sông chẳng quá đầy bụng. Kẻ quê mùa
nầy đã quen cảnh thanh nhàn, cách sống riêng biệt,
Bệ hạ muốn nhường ngôi cho cũng vô ích. Hứa Do nói xong, liền bịt chặt 2 lỗ tai, chạy riết
xuống bờ sông Dịch Thủy , khoát nước sông rửa
lỗ tai lia lịa.
Vừa đâu có Sào Phủ dắt trâu đến đó, thấy Hứa
Do liền nói rằng : - Anh rửa lỗ tai mau mau rồi bước
lên cho trống chỗ để tôi dắt trâu xuống cho uống
nước. Hứa Do không đáp lại, cứ rửa tai hoài.
Sào Phủ hỏi : - Lỗ tai anh dơ lắm sao mà rửa hoài
không sạch ? - Hồi nảy tôi gặp vua Nghiêu, kêu tôi
về triều để truyền ngôi cho tôi. Tôi nghe điều
danh lợi dơ bẩn cả 2 lỗ tai, nay xuống đây rửa
nảy giờ đã lâu, nhưng tiếng ấy vẫn còn văng
vẳng trong tai, tôi rán rửa thêm cho hết, trễ việc
trâu của anh uống nước. - Anh đã làm gì để cho
vua Nghiêu biết anh là người hiền đức mà muốn
truyền ngôi cho anh ? Nếu người ta biết anh hiền
đức, tức là anh đã muốn cho người ta biết anh
như thế, chắc chắn hơn nữa là tại anh tỏ cho
thiên hạ biết anh là hiền đức. Nếu anh đừng
tỏ cho thiên hạ biết anh là hiền đức thì ai biết
anh mà truyền ngôi cho, cần chi phải rửa tai. Sào
Phủ nói xong, liền dắt trâu lên phía trên dòng nước
chảy rồi mới cho trâu xuống uống nước. Hứa Do
lấy làm kỳ, hỏi: - Sao anh không cho trâu uống nước
tại bến nầy mà lại dắt trâu đi đâu vậy cho
mất công ? - Đồ dơ trong tai anh rửa ra, uống dơ
miệng trâu của tôi, nên tôi phải dắt trâu lên
phía trên dòng nước.
Theo lời người
ta kể lại thì hiện nay trên núi Cơ Sơn, ở huyện
Đăng Phong tỉnh Hà Nam, còn ngôi mộ của Hứa Do.
Ở chân núi ấy có gò Khiên Ngưu Khư (Gò đất trâu).
Ở bên bờ sông Dĩnh thủy có một dòng suối tên
là Độc Tuyền (Suối trâu uống), trên một hòn đá
có vết chơn trâu. Đó là nơi mà khi xưa Sào Phủ
dắt trâu đến đó uống nước.
Khuôn hình số
VIII :
Sĩ
Châu Mãi Thần
Châu Mãi Thần,
người đất Cối Kê, đời nhà Hán, nhà rất nghèo,
nhưng rất ham đọc sách. Thuở hàn vi, chàng phải
đi đốn củi rừng đem bán để sanh sống, thường
treo sách nơi đầu gánh, vừa đi vừa đọc.
Vợ của Châu Mãi Thần không thể chịu nổi cảnh
nghèo túng mãi như vậy được nên đòi thôi chồng,
để đi lấy chồng khác khá giả hơn mà nương nhờ
tấm thân.
Châu Mãi Thần khuyên vợ : - Năm nay tôi 49 tuổi rồi,
qua năm 50 tuổi, tôi biết tôi thế nào cũng lập
được công danh. Bấy lâu nay, chúng ta sống trong
cảnh cơ cực cũng đã quen rồi, nay nàng rán chờ
tôi một năm nữa thì nàng sẽ hưởng được phú
quí. Người vợ liền trả lời : - Đến chừng Ông
làm quan thì tôi đã chết đói rồi. Thế là vợ
của Châu Mãi Thần nhứt quyết bỏ chồng, nàng đi
lấy một anh nông dân khá giả trong làng. Châu Mãi
Thần rất đau buồn. Chàng lại càng quyết tâm học
tập hơn nữa, bất luận ngày đêm, cuốn sách đều
kế bên mình. Năm sau, Châu Mãi Thần được Nghiêm
Trợ tiến cử lên vua Hán Võ Đế, được vua thâu
dụng, phong chức Trung Đại Phu. Lúc bấy giờ xảy
ra giặc giã ở vùng Đông Việt. Hán Võ Đế sai Châu
Mãi Thần lo chuẩn bị khí giới, thuyền bè, để
cho binh sĩ đi dẹp giặc. Sau đó, Châu Mãi Thần được
thăng chức làm Thái Thú Cối Kê.
Cối Kê là quê hương của họ Châu. Khi Châu Mãi
Thần đến nhậm chức Thái Thú Cối Kê, quân dân
địa phương phải ra nghênh đón. Tới nơi, bỗng
thấy người vợ cũ chạy đến đón trước đầu
ngựa, xin Châu Mãi Thần bỏ qua chuyện lầm lỗi
xưa của nàng, cho nàng trở lại làm vợ chàng.
Châu Mãi Thần bèn lấy một bát nước đầy, đổ
xuống đất trước đầu ngựa, rồi bảo người
vợ cũ : - Nếu nàng hốt nước lại cho đầy bát
như trước thì tôi sẽ đem nàng về với tôi như
trước. Bát nước đã đổ, làm sao hốt lại cho
đầy. Bởi vậy, người vợ biết ý Châu Mãi Thần
đã quyết nên hổ thẹn bỏ đi. Tuy vậy, để đáp
đền tình nghĩa vợ chồng ngày trước, Mãi Thần
cấp cho người vợ cũ và chàng nông dân một ngôi
nhà và một số tiền đủ để sống suốt đời.
Nhưng người vợ cũ cảm thấy quá xấu hổ, nên
treo cổ tự tử. Người nông dân đem xác nàng táng
bên bờ ao gần đường lộ. Người đời có khắc
một bài thơ 4 câu trên cái bia đặt trước mộ nàng
để làm gương cho phụ nữ đời sau : Thanh thảo
trì biên mộ nhứt khu, Thiên niên mai cốt bất mai
tu. Đinh ninh ký ngữ nhơn gian phụ,
Tự cổ tào khang đáo bạch đầu.
Tạm dịch : Một
nấm mộ xanh cạnh vũng bờ, Ngàn năm chôn xác chẳng
chôn nhơ.
Đinh ninh nhắn gởi đoàn nhi nữ, Từ cổ vợ chồng
trọn tóc tơ.
6. Cây Cân Công
bình
Khi chúng ta đứng
tại thềm nơi dưới bao lơn Tòa Thánh, chúng ta ngước
mắt nhìn lên thấy một bức họa, trong đó có vẽ
một bàn tay từ trong mây đưa ra, cầm một Cây Cân
Công bình đặt trên quả Địa cầu của nhơn loại.
Đó là bàn tay của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng
Đế cầm Cây Cân Công bình thiêng liêng để cân
tội phước của mỗi chơn hồn nơi quả Địa cầu
nầy, sau khi qui liễu, trở về cõi thiêng liêng, để
Đức Chí Tôn có quyết định thưởng phạt một
cách thật công bình.
Trong Con Đường Thiêng liêng Hằng sống, Đức Phạm
Hộ Pháp thuyết đạo có thuật lại, Đức Ngài thấy
Đức Chí Tôn cầm Cây Cân Công bình thiêng liêng
nơi Bạch Ngọc Kinh :
" Khi Bần đạo
vô trong, Đại Từ Phụ, muốn biết Ổng là ai ? Ông
nầy có phải là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế không
? Làm sao cho tôi được biết Ổng với.
Bần đạo vừa tưởng thì xa lắm, thấy cái gì bao
phủ như tấm màn che vậy, vô gặp rồi, biết Ổng
ở trỏng, có tấm màn che, ý muốn cái màn nầy vạch
ra đặng thấy Ổng. Vừa muốn thì thấy cái màn
vẹt ra, dường như có từng nấc xa lắm, không thể
gì tả đặng, kế đó ngó thấy Ổng bước ra, mặc
áo trắng, bịt khăn trắng (giống như bộ đồ Tiểu
phục của Thượng Chưởng Pháp mặc vậy), cũng có
2 miếng vải lòng thòng sau lưng, râu bạc trắng coi
đẹp lắm, thấy thương làm sao đâu ! Trong bụng
nói Ổng ngồi tại Linh Tiêu Điện, mình ngó thấy
Ổng mặc bộ đồ khác, không lẽ 2 người, chắc
không phải là Ổng. Vừa nói rồi thì thấy Ổng
bước ra đứng ngay chính giữa , ngó ngay Bần đạo,
dường như thể biểu con coi đây, ngó ngay lên Ổng,
thấy đạo hào quang chiếu diệu ra, tay cầm cây gậy
coi đẹp lắm, cây gậy của Ổng quảy cái bầu,
bên mình Ổng mang một cái bị, mặc bộ đồ Ngọc
Hoàng Thượng Đế, nắm ngang cây gậy trên tay thành
cây đòn cân, Ổng kéo cái bầu ra thành giá cân,
Ổng kéo cái bị ra thành trái cân. Ba món báu ấy
hiệp lại thành Cây Cân Công bình thiêng liêng mà
chính mình đã thấy Ổng nơi Linh Tiêu Điện, không
còn ai xa lạ nữa. Cũng Đại Từ Phụ, nhưng thiên
biến vạn hóa của Ổng mà tạo Càn khôn Vũ trụ
vậy."
7. Hai pho tượng
: Ông Thiện-
Ông Ác
Hai
bên cửa chánh Tòa Thánh, có đặt 2 pho tượng lớn:
- Pho tượng đứng sát Bạch Ngọc Chung Đài (phía
bên Nam phái), đầu đôi kim khôi, mình mặc áo giáp,
tay cầm đại đao, gương mặt hiền từ, đứng trên
tòa sen, đó là Ông Thiện, gọi đúng là Thiện Thần,
tượng trưng điều thiện, điều chánh.
Pho tượng bên
kia, đứng sát Lôi Âm Cổ Đài, (phía bên Nữ phái),
đầu đội kim khôi, mình mặc giáp, một tay cầm
cái búa, một tay cầm cục Ngọc Tỷ, gương mặt
hung dữ, đứng trên tòa lửa (Hỏa đài), đó là
Ông Ác, gọi đúng là Ác Thần, tượng trưng điều
Ác, điều tà.
Sự tích Ông Thiện
và Ông Ác như sau :
Thời Thượng cổ, vua Tỳ Kheo có 2 người con trai
là Tỳ Văn và Tỳ Võ. Tỳ Văn rất hiền lành, trái
lại, Tỳ Võ rất hung dữ.
Vua Tỳ Kheo rất hâm mộ đạo đức. Lúc ấy, Đức Nhiên Đăng Cổ Phật
khai Phật giáo ở Ấn Độ (Nhứt Kỳ Phổ Độ), độ được vua Tỳ Kheo .
Vua Tỳ Kheo lo lập chùa để tu niệm và muốn nhường ngôi lại cho
con trưởng là Tỳ Văn hiền lành, nhưng lại sợ đứa con thứ là Tỳ
Võ hung dữ không chịu. Vua Tỳ Kheo lập kế, sai Tỳ Võ đi các trấn
vỗ an bá tánh và đến Hàng Châu chiêu mộ anh tài. Nơi triều đình,
vua Tỳ Kheo tuyên bố nhường ngôi cho con trưởng là Tỳ Văn cai
trị đất nước, còn ông thì vào chùa tu niệm. Khi Tỳ Võ hoàn thành
nhiệm vụ, trở về triều thì thấy anh mình là Tỳ Văn đã lên ngôi
vua rồi. Tỳ Võ liền nói : - Anh hiền lắm, làm vua sao được, dân
không sợ đâu. Anh hãy để ngai vàng lại cho tôi. Tôi dữ là dữ với
kẻ hung ác bạo tàn vô đạo, chớ không dữ với người đạo đức bao
giờ. Tỳ Văn nghe em nói vậy, biết là Tỳ Võ muốn lên làm vua, sợ
là phải thất lời với vua cha, nên Tỳ Văn vội vàng cầm Ngọc tỷ
(ấn của vua bằng ngọc), chạy lên chùa để báo cáo với vua cha sự
việc.
Nhưng khi Tỳ Văn
chạy tới cửa chùa thì bị té chết, linh hồn thoát xác đăng Tiên.
Tỳ Võ đuổi theo anh lên chùa, đến nơi thấy xác của anh nằm chết,
cúi xuống lấy Ngọc tỷ cầm lên, lòng đầy hối hận ăn năn, thấy con
người khi chết đi, không ai đem theo được tiền tài danh vọng,
nên cũng quyết bỏ hết sự đời, theo vua cha tu niệm, cuối cùng
cũng đắc quả đăng Tiên. Một người dầu lòng dạ hung ác, nhưng
biết ăn năn sám hối, giác ngộ tu hành, thì trong một kiếp cũng
có thể đắc thành Chánh quả. Hai pho tượng Ông Thiện và Ông Ác,
tức Thiện Thần và Ác Thần, tiêu biểu cho sự Thiện và sự Ác, sự
Chánh và sự Tà, đối chiếu 2 mặt trái ngược nhau trong cuộc đời.
Đời chỉ ra 2 con đường : con đường Thiện và con đường Ác. Dù con
người đi theo đường Ác mà đến giờ phút cuối, biết ăn năn sám
hối, quày đầu hướng Thiện, thì cũng được Đức Chí Tôn cứu rỗi
linh hồn.
Khi Đức Phạm Hộ Pháp trấn Thần 2 pho tượng nầy,
Đức Phạm Hộ Pháp có giải thích : " Đời thường
lầm lạc, làm điều ác cho là thiện, và thường
lấy điều lành cho là ác. Nên từ đây, năng lực
của Thiện Thần sẽ phô bày ra mặt Đời, thế nào
là Chánh, việc nào là Thiện, làm thế nào là phước,
cho thiên hạ rõ. Còn Ác Thần thì phô bày ra mặt
Đời, thế nào là Tà, việc nào là Ác, sao gọi là
tội, cho nhơn loại rõ.
Hai Ông Thần nầy rất linh hiển, dùng quyền năng
thiêng liêng đưa ra thiệt tướng 2 con đường : Phước
và tội, siêu và đọa, để cho con cái Đức Chí
Tôn khỏi lầm lạc, hầu tránh khỏi con đường tự
diệt. Đi vào con đường sanh thì nhơn loại mới
mong hòa bình được."
8. Lôi Âm Cổ Đài
& Bạch Ngọc Chung Đài
-
Lôi Âm Cổ Đài : Lôi Âm là tiếng sấm, cổ
là cái trống, đài là cái lầu cao. Lôi Âm Cổ Đài
là cái lầu cao trong đó có đặt cái Trống Lôi Âm.
Trống Lôi Âm là cái trống mà khi đánh lên, tiếng
trống phát ra lớn như tiếng sấm nổ.
Tiếng trống Lôi Âm có tác dụng rất mầu nhiệm,
theo ý nghĩa của bài Xướng Kệ Trống Lôi Âm, mỗi
khi cúng đàn. Bài Kệ nầy gồm 4 câu, có viết ra
giấy dán vào nơi giá trống :
Lôi Âm Thánh cổ triệt
hư không,
Truyền tấu Càn khôn Thế giái thông.
Đạo pháp đương kim dương Chánh giáo,
Linh quang chiếu diện Ngọc Kinh Cung.
Nghĩa là : Tiếng
trống Lôi Âm thiêng liêng huyền diệu vang rền đến
các cõi Hư không, Tiếng trống truyền đi như tỏ
bày cho tất cả các cõi trong Càn khôn Thế giới
biết rõ. Giáo lý và Luật pháp của Đạo Cao Đài
hiện nay nêu cao cho mọi người biết đây là một
nền Chánh giáo của Đức Chí Tôn. Ánh sáng thiêng
liêng chiếu sáng rực rỡ Tòa Bạch Ngọc Kinh.
Khi tiếng trống
Lôi Âm khởi lên là để báo hiệu cho chư Thần Thánh
Tiên Phật biết đến giờ chầu lễ Đức Chí Tôn
nơi Bạch Ngọc Kinh.
-
Bạch Ngọc Chung Đài : Chung là cái chuông, bạch
ngọc là ngọc trắng, đài là cái lầu cất cao lên.
Bạch Ngọc Chung Đài là cái lầu cao trên đó có
đặt một cái chuông lớn bằng ngọc trắng. Tiếng
chuông Bạch ngọc phát ra có tác dụng rất mầu nhiệm
theo ý nghĩa của bài Xướng Kệ Chuông Bạch ngọc
mỗi khi cúng đàn. Bài xướng nầy gồm 4 câu, có
chép ra giấy dán vào giá chuông :
Thần chung thinh
hướng phóng Phong đô,
Địa Tạng khai môn phóng xá cô.
Tam Kỳ vận chuyển kim quang hiện,
Sám hối âm hồn xuất u đồ.
Nghĩa là : Tiếng
chuông thiêng liêng huyền diệu phát ra truyền đến
cõi Phong đô, Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Giáo
chủ cõi Phong đô mở cửa tha tội và phóng thích
các tội hồn. Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tức
là Đạo Cao Đài, vận chuyển và làm hiện ra một
lằn ánh sáng vàng, Các chơn hồn nơi cõi Âm biết
ăn năn sám hối tội tình sẽ đi ra khỏi những con
đường tăm tối (tức là được siêu thăng)
9. Bó hoa
Nơi mặt tiền
của Lầu chuông (Bạch Ngọc Chung Đài) và Lầu trống
(Lôi Âm Cổ Đài), chỗ khoảng rộng nhứt, có đắp
hình một bó hoa nhiều màu sặc sỡ, như đang rơi
xuống biển lúc mặt trời mọc.
Hình ảnh nầy lấy theo sự tích của vua U Vương
nhà Châu (781 trước Tây lịch, trước thời Xuân
Thu Chiến quốc bên Tàu). Vua U Vương nằm chiêm bao
thấy một bó hoa nhiều màu từ trên trời rơi xuống
mặt biển trong lúc mặt trời mọc. Sáng ra nhà vua
thuật lại điềm chiêm bao cho vị quan đoán mộng
xem đó là điềm gì ? Vị quan giải mộng tâu rằng
: Bệ hạ thấy biển, ấy là nước của Bệ hạ,
thấy mặt trời mọc, ấy là một mối đạo sắp
được mở ra, thấy bó hoa ấy là sự tinh túy cao
khiết. Như vậy, theo điềm chiêm bao nầy, trong nước
của Bệ hạ sắp có một mối đạo mở ra cao quí
tốt đẹp. Quả nhiên, sau đó Đức Lão Tử, một
hóa thân của Đức Thái Thượng Đạo Quân, hiện
xuống cõi trần, mở Đạo Tiên để cứu độ nhơn
sanh. Ý nghĩa nầy gợi cho chúng ta nhớ lại 4 câu
kinh đầu trong Bài Khai Kinh :
Biển trần khổ
vơi vơi trời nước,
Ánh Thái dương giọi trước phương Đông.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ, dày công giúp đời.
Đó là chuyện
thời xưa. Ngày nay, hình ảnh bó hoa rơi lúc mặt
trời mọc, cũng là để tượng trưng cho một điềm
lành, báo cho nhơn loại biết là Đạo Cao Đài mở
ra tại một nước ở phương Đông để cứu độ
nhơn sanh, đem vào tham dự Đại hội Long Hoa.